Nhà thơ Hữu Thỉnh:
"Cố lách qua cặn lắng đời mình"
Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh không phải là người
gây được ấn tượng sớm. Hầu như phần lớn thành tựu trong sáng tác của ông đều xuất
hiện sau năm 1975. Song, Hữu Thỉnh lại là một nhà thơ tầm vóc với những trường
ca có trường độ cảm xúc, giàu trí tuệ và tính khái quát cao, đi vào những vấn đề
trung tâm của một giai đoạn lịch sử. Ông hiện diện như một nhà thơ vào loại
tiêu biểu nhất của thế hệ mình, một thế hệ nhà thơ đi ra từ chiến tranh “làm
thơ ghi lấy cuộc đời mình”, ghi lấy cả một thời hào hùng, bi tráng. Đó cũng là
thế hệ chủ lực trên thi đàn bước vào thời kỳ đổi mới với những trăn trở của một
cuộc chuyển đổi đầy ngổn ngang và sự va đập các giá trị đông – tây.
“Tôi ấy mà, một cuống rạ bơ vơ”. Câu thơ thân phận
và xa xót ấy gợi nhớ những gì đã chìm khuất trong tuổi ấu thơ của Hữu Thỉnh.
Nhiều tư liệu cho biết, ông đã phải trải qua những năm vất vả, thiếu thốn thuở
đầu đời và mãi sau hòa bình lập lại năm 1954 mới có điều kiện được đi học. Hơn
20 tuổi, Hữu Thỉnh nhập ngũ và trở thành lính xe tăng, từng tham gia những trận
chiến khốc liệt như Quảng Trị, Tây Nguyên, Đường 9 Nam Lào và nhiều chiến dịch
lớn khác cho đến khi giải phóng Sài Gòn, kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Hữu Thỉnh có lần nói rằng: “Hiện thực chiến tranh, cuộc sống
của người lính dội vào tôi mạnh đến mức vượt ra khỏi một thời đoạn, một đề tài.
Nó thành một tâm thế”. ở thời kỳ đầu, khi bút lực sung mãn, với lối tư duy mở rộng
mọi kích cỡ của cảm xúc và suy ngẫm, Hữu Thỉnh đã dồn sức cho thể loại trường
ca. Và, có thể nói, thành công nổi bật của ông chính là ở thể loại này với các
tác phẩm tiêu biểu Sức bền của đất; Đường tới thành phố; Trường ca Biển,
Trăng Tân Trào.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao tặng
Huân chương Độc lập Hạng Nhì cho Nhà thơ Nguyễn Hữu Thỉnh, 5.2022. Ảnh: Thống
Nhất – TTXVN
Sức bền của đất được sáng tác ngay trong dịp tết Ất Mão,
sau đó cùng với bài thơ Chuyến đò đêm giáp ranh, tác phẩm này đã được trao
giải Nhất cuộc thi thơ Báo Văn Nghệ 1975-1976. Trường ca này cấu trúc gồm những
trường đoạn kế tiếp nhau, có sự đồng hiện giữa hiện tại và ký ức, giữa tiền tuyến
với hậu phương, đan xen những cảnh chiến trận và tính trữ tình. Cách dàn dựng
chủ yếu theo một tuyến thẳng, nghĩa là khá bình dị, chưa có sự đa dạng trong
các thủ pháp nghệ thuật. Song, ở đây cũng đã bộc lộ những yếu tố trở thành căn
cốt trong sáng tác của Hữu Thỉnh sau này, đó là giọng điệu trữ tình hồn hậu, sự
nghiệm suy vào sâu thẳm cội nguồn văn hóa dân tộc và thiên hướng phác dựng lên
bức tranh lớn hào hùng, bi tráng của cuộc chiến tranh.
Hữu Thỉnh đạt được độ chín chỉ vài năm sau đó khi ông đặt bút
viết Đường tới thành phố vào năm 1977. Đây là một trường ca đồ sộ,
công phu. Có thể nói, nó như dồn tụ toàn bộ vốn sống tích lũy được suốt cuộc đời
lính chiến, và hầu như những ưu tư, cảm niệm suốt một thời tuổi trẻ của ông.
Trường ca Đường tới thành phố là một sự phát huy tổng lực, một cuộc
quyết chí của Hữu Thỉnh trên con đường sáng tạo. Sự cố gắng ấy của ông đã tạo
nên được một thành công xứng đáng, tạo nên vị trí nổi bật của Hữu Thỉnh trong
các nhà thơ trẻ xuất hiện thời chống Mỹ.
Trong tư duy và hình tượng thơ, Đường tới thành phố ít
nhiều có kế thừa Sức bền của đất. Tuy nhiên, tất cả đã được đẩy cao hơn và
biên độ của cấu trúc đã được mở rộng. Cấu trúc mạch thẳng được tiếp tục, nhưng
cùng với đó là sự mở rộng của không gian, tạo ra bề rộng của liên tưởng, tưởng
tượng. Thế giới nghệ thuật trong Đường tới thành phố đã được dựng lên
thành một tổng phổ đa tầng, nhiều mảng miếng, nhiều cung bậc, nhiều tuyến đan
chéo nhau tạo nên sự cộng hưởng. Đấy là câu chuyện của người lính, nhưng cũng
là câu chuyện của cả tiền tuyến và hậu phương, của cả một dân tộc trong cái khoảnh
khắc đặc biệt của lịch sử tiến lên giành thắng lợi cuối cùng trong một cuộc chiến
vào loại khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc hàng ngàn năm. Cái độc đáo là ở
chỗ, Hữu Thỉnh đã nói được cả cái thời sự, cái hùng tráng, cái dữ dội, lại nói
được cả những cái thẳm sâu, lặng lẽ, ẩn khuất trong lòng người. Cái lớn và cái
nhỏ, cái hiện hữu và cái vô hình, niềm vui và nỗi buồn, đau thương và kiêu
hãnh… Tất cả những yếu tố ấy làm cho Đường tới thành phố trở nên
phong phú, sống động và có sức ám ảnh.
Trường ca Biển là một sự kế tục và cũng là một cuộc vượt
thoát trong nghệ thuật viết trường ca của Hữu Thỉnh. Trước hết là sự thay đổi bối
cảnh. Nếu như ở hai trường ca trước, bối cảnh chính là cái khoảnh khắc khốc liệt
cuối cùng của chiến tranh, thì ở đây là cái dữ dội của biển trên một vùng đảo
nhỏ xa xôi của Tổ quốc trong sự nhòm ngó, xâm lăng của kẻ thù. Kết cấu Trường
ca Biển đã khác nhiều so với Sức bền của đất và Đường tới
thành phố. Yếu tố tuyến tính, mạch thẳng đã bị thay thế bằng kết cấu song hành
giữa một bên là câu chuyện của người lính, một bên là lời của sóng; giữa những
cuộc đối thoại biển với người lính và bên kia là những cuộc độc thoại. Kỹ thuật
cắt đoạn và bố trí các chương với sự giãn nở biên độ tạo ra những khoảng lặng,
khoảng trống gợi liên tưởng và tưởng tượng ở người đọc, đã tạo cho trường ca
này có màu sắc hiện đại và mang dáng vẻ của một bản giao hưởng ngôn từ với điệp
trùng các tuyến, các vỉa tầng ngữ nghĩa, các cung bậc cảm xúc và chi tiết biến
hóa.
Cái độc đáo của Hữu Thỉnh là ông tư duy mạnh ở cái lớn, cái
ôm trùm, có tính thời đại và đặt chân vào những sự kiện trung tâm của thời cuộc.
Điều này tạo cho sáng tác của ông có cái nóng hổi của thời thế. Tuy nhiên, một
bí quyết khác của Hữu Thỉnh là đánh vào cảm xúc của công chúng bằng những yếu tố
trữ tình khi ông khoét sâu vào nỗi đau của những phận người trong chiến tranh
và dành nhiều trường đoạn khắc họa nội tâm.
“Chị đợi chờ quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
(…)
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”
(Đường tới thành phố)
Chính điều này neo giữ những sáng tác của ông vào tâm trí người
đọc.
Cái ám ảnh khi tiếp xúc với thơ Hữu Thỉnh là giọng điệu trữ
tình hồn hậu. Yếu tố này mạnh đến nỗi, ngay cả khi Hữu Thỉnh viết trường ca về
chiến tranh, mạch trữ tình vẫn là chủ đạo và quán xuyến từ đầu đến cuối. Và, đặc
biệt, tính trữ tình có điều kiện phát huy khi nó trở thành một thành tố độc lập,
chủ đạo trong những bài thơ ngắn của ông.
Nói đến đặc điểm thơ Hữu Thỉnh không thể không nói đến cái vẻ
mộc mạc, cái chất “nhà quê” thôn dã vốn đã thấm vào trong hồn cốt thơ ông.
Xuyên suốt trong các trường ca và những bài thơ ngắn sau này, cái thế giới “nhà
quê” đó luôn luôn trở đi, trở lại với những hình ảnh thân thương, đẹp đẽ. Cảnh
quê luôn gắn với người quê, đó là những sợi dây máu thịt chằng nối con người với
cội nguồn xứ sở, với truyền thống cổ xưa, với những đau thương và khát vọng
muôn đời.
Nguyễn Trọng Tạo có lần nói: “Thơ có hồn hay không, có phong
phú đa nghĩa, đậm đà hay không trước hết là ở giọng. Cái giọng độc đáo nhà quê ấy
đã tạo nên thần sắc thơ Hữu Thỉnh” – Nguyễn Trọng Tạo đưa thêm một nhận định:
“Có lẽ trong các nhà thơ cùng thế hệ, Hữu Thỉnh là thi sĩ của nhiều câu thơ đầy
ma lực, như chứa dược tố mooc -phin gây mê nghiện, nó nhập vào người đọc như nhập
đồng, nó lôi dắt đối tượng như thôi miên. Thú thực có lúc tôi phải tự mỉm cười
khi nghĩ rằng Hữu Thỉnh là một nhà phù thủy ngôn từ, cái nhà phù thủy vừa đáng
yêu, đáng phục, vừa đáng sợ, đáng chờn”.
Sau chiến tranh, Hữu Thỉnh vào học khóa 1 Trường viết văn
Nguyễn Du và làm báo, làm thơ. Cuộc sống những năm tháng ấy nhiều khó khăn, vất
vả.
Vất vả là thế, nhưng lòng vẫn đầy hồn nhiên, vẫn tràn ngập
khát vọng sống và viết. Cũng thời kỳ này, Sang thu – một trong những
bài thơ thành công nhất của Hữu Thỉnh đã ra đời.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Bài thơ này ông viết vào mùa thu năm 1977. Sau những năm máu
lửa chiến tranh, Hữu Thỉnh, trong một khoảnh khắc đã cảm nhận và tái tạo nên một
bức tranh thu vừa gần gũi, vừa đẹp đẽ. Hơn thế, ở đây dường như kết tinh những
vẻ khôi nguyên, tươi mới và bình dị của những năm tháng hòa bình đầu tiên. Bài
thơ viết bằng cảm nhận. Nó cho thấy tác giả rất mạnh ở trực giác, bắt nhập vào
hương sắc, nhịp điệu, âm thanh của tạo vật.
Sang thu, như một cột mốc, đánh dấu dòng chảy mới trong những
sáng tác của Hữu Thỉnh về cuộc sống thời hậu chiến. Niềm vui nhanh chóng qua
đi. Đất nước hòa bình, thống nhất nhưng cuộc sống lại đặt ra những vấn đề mới
không ít nghiệt ngã. Thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào những ưu tư, thức ngộ mới
về thời cuộc:
“Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế”
…
“Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế”
(Nghe tiếng cuốc kêu)
Và đây nữa, những bi kịch lặng thầm nào ai đã nghĩ đến trong
năm tháng chiến tranh:
“Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Ôi hoa tặng, chiều nay ai giẫm nát
Mưa dập vỡ trên đường em trở gót”.
(Tự thú)
Nếu nhà thơ là người ghi lại lịch sử tâm hồn của thời đại
mình, thì Hữu Thỉnh chính là một trường hợp như thế. Thư mùa đông đã
chạm vào những chỗ cuộn xoáy của lòng người thời hậu chiến. Cái bi kịch khi con
người chợt nhận ra giữa thực tế và lý tưởng một thời là một khoảng cách xa tắp
đến mù mịt; khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện không ngăn nổi cái nghịch lý,
trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành đã được Hữu Thỉnh đề cập một cách đau đớn.
Nếu như Thư mùa đông giàu cảm xúc và nhiều khi cái
thảng thốt xuyên thấm trong các hình tượng thơ thì đến Thương lượng với thời
gian sự suy nghiệm, chất trí tuệ trở thành nhân tố chủ đạo.
Ta bắt gặp một câu hỏi đau đớn:
“Có gì bền? Nhân nghĩa có còn đây?”
(Nghẹn)
Và đây là một suy tư đắng chát:
“Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc
Mây vừa đi vừa ngoái lại trông người
(Ngẫu cảm)
Hữu Thỉnh cũng không ngại ngùng khi viết những câu thơ trần
trụi:
“Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ
Cười súng sính
Trong bộ cánh thớ lợ”
“Luật nhân quả
Ngủ gật trên bậc cửa”
(Bất hạnh)
Dù vậy, Hữu Thỉnh thường thoát ra khỏi bế tắc để tìm được một
an ủi, hay một triết lý sống. Vì lẽ đó, thơ ông, dù về sau này chất chứa tâm trạng
buồn mà vẫn không lạnh lẽo, mà vẫn toát lên vẻ hồn hậu của một tâm hồn luôn biết
gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của cuộc sống.
“Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình
Dưới đáy cốc của hy vọng”
(Cặn lắng)
Thông qua lời nhắn nhủ của mẹ, ông nêu một phương châm sống:
“- Hãy yêu lấy con người
Dù trăm cay nghìn đắng
Đến với ai gặp nạn
Xong rồi, chơi với cây”
(Lời mẹ)
Cùng với thời gian, thơ Hữu Thỉnh không chỉ thêm điêu luyện
mà còn đạt được sự hàm súc. Đôi khi gân guốc, mộc mạc đến tưởng chừng không thể
mộc mạc hơn, nhưng cũng có khi sâu lắng, đầy sức gợi, chỉ mấy câu, mấy hình ảnh
mà để lại nỗi ưu tư vô tận:
“Vừa trong mơ cùng tôi
Cây ra đường đã bụi
Vừa dào dạt cùng tôi
Biển đã thành sương khói”.
(Vừa trong mơ cùng tôi)
Nhạc thơ chậm và buồn, tứ thơ sâu thẳm. Viết được thế thì người
thi sĩ đã quá hiểu cái hư vô của cuộc đời.
Hiểu đời đến thế, thì thử hỏi, ông còn cần gì hơn là tình người?
THIÊN SƠN
Hà Nội, 21/8/2015
Thy Lan
Nguồn: Viện Văn học
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét