Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu
trong văn học miền Nam 1954-1975
Với một thể chế chính trị đa nguyên, chấp nhận mọi sự khác biệt
nên ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã hình thành một nền văn học khá cởi mở. Sự
cởi mở ấy không chỉ thể hiện ở việc tiếp nhận nhiều hệ hình lý thuyết
của các nền văn hóa Đông, Tây và văn hóa Mỹ mà còn thể hiện ở việc tiếp
nhận một cách khách quan, công bằng, khoa học đối với giá trị của nhiều hiện tượng
văn học, trong đó có tác phẩm của các nhà văn /thơ thời Tiền chiến và thời
kháng chiến chống Pháp đang sống, làm việc ở miền Bắc, dưới chế độ Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa. Đây chính là căn tố để hình thành một nền văn học đa khuynh
hướng, đa giọng điệu, đa trường phái và không giới tuyến ở miền
Nam. Đó cũng là những nội dung cơ bản mà bài viết hướng đến.1. Mở
Không biết có dân tộc nào trên thế giới lại chịu nhiều nỗi
đau chia cắt như dân tộc Việt Nam. Có người cho rằng sự chia cách ấy là định mệnh
của dân tộc đã được “dự báo” từ trong truyền thuyết!? Tin hay không còn tùy vào
sự tín niệm của mỗi người. Song, dù muốn hay không, sự chia cách ấy là một thực
thể hiện hữu trong hành trình lịch sử dân tộc, không thể phủ nhận. Nhiệm vụ của
chúng ta hôm nay là phải xóa bỏ sự chia cắt ấy trong tâm thức của mình trên mọi
bình diện của đời sống xã hội, trong đó có đời sống văn học. Bởi, đối với người
Việt Nam sự chia cách ấy chỉ có nghĩa về mặt địa chính trị mà hiệp định Genève
tháng 7/1954 với việc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân chia hai miền Nam Bắc
là một xác chứng nhưng trong tiềm thức mỗi người không bao giờ có sự phân chia
giới tuyến. Chính vì vậy, suốt hai mươi năm chia cắt, tình dân tộc, nghĩa đồng
bào vẫn hằng sống trong tâm cảm mỗi người Việt Nam con Lạc cháu Hồng như một ý
thức về giống nòi: “Các con sẽ không bao giờ quên/ Đã cùng sinh ra trong một bọc
/ Một trăm trứng /Một trăm con/ Các con sẽ không bao giờ quên…” [7, tr. 50-51].
Và, cho dẫu đất nước có bị cắt chia thì văn học dân tộc vẫn vẹn nguyên và không
bao giờ có sự chia cắt. Thế nên, nhiều nhà văn/ thơ Việt Nam dù sống “bên kia
vĩ tuyến” vẫn hiện hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, vẫn được quan
tâm nghiên cứu, được đưa vào sách giáo khoa Quốc văn giảng dạy trong nhà trường,
được tôn vinh như những giá trị cao quí của văn học dân tộc mà không có bất cứ
sự kỳ thị nào. Vì vậy, trong lời “phi lộ” gởi độc giả viết ngày 1/5/1967, khi
tái bản tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận tại Sài Gòn, người biên soạn
đã chia sẻ: “Gần đây một số thi phẩm của các Thi nhân Tiền chiến được tuyển chọn
làm tài liệu tham khảo văn chương cho chương trình Đại học Văn khoa. Trong số
những thi phẩm ấy, có một số của các thi nhân mà hiện thời, họ đang sinh sống
bên kia giới tuyến, nơi phân nửa của lòng đất mẹ cách ngăn! (…) Đứng trong địa
hạt văn chương- đối với thi nhân- chúng tôi quan niệm rằng: Đây là những bông
hoa tươi sắc ngát hương của “Vườn Hoa Tiền Chiến” thì, không lý nào chúng tôi lại
dang tay ngắt bỏ đôi cành! Mà trái lại, chúng ta còn có cái trách nhiệm vun bồi,
và vun bồi mãi mãi để cho Vườn Hoa Đất Nước ngày càng thêm phô Sắc ngát Hương…
Có quan niệm và nhận chân được như thế, chúng ta mới có thể hy vọng sẽ làm tròn
bổn phận của kẻ “chăn Vườn” hiện đại” [1, tr.6 -7]. Và đây là một thực thể hiện
hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975.
2. Văn học miền Nam và việc nghiên cứu các nhà văn/ thơ miền
Bắc
2.1.Văn học miền
Nam với các nhà thơ /văn Tiền chiến ở miền Bắc
Xuất
phát từ bầu khí quyển văn học cởi mở, dân chủ cùng với tinh thần trân quí các
giá trị văn học dân tộc, nên trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, hầu hết
tác phẩm của các nhà văn Tiền chiến dù họ đang sống ở miền Bắc vẫn được xem là
di sản văn chương, được nghiên cứu, tìm hiểu trong nhiều công trình khảo cứu,
lý luận phê bình văn học ở miền Nam mà chúng ta có thể nhận biết sau đây.
Xuất hiện khá
sớm trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, Biệt ly qua thi ca Việt Nam của
Nguyễn Hữu Chi, (Nam Chi Tùng Thư Xb, Sài Gòn, 1961), khi bàn đến cảm thức
biệt ly trong thơ Việt, tác giả đã viện dẫn Tràng giang của Huy Cận; Viễn
khách của Xuân Diệu; Giây phút chạnh lòng của Thế Lữ cùng thơ của
Thanh Tịnh; Yến Lan, Tế Hanh; Nguyễn Bính; Lưu Trọng Lư… là những nhà thơ Tiền
chiến (theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học ở miền Nam) đang sống và
làm việc ở miền Bắc lúc bấy giờ để luận giải, minh chứng. Còn trong Thi ca
việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967), ta
cũng thấy sự hiện hữu các nhà thơ Tiền chiến đang sống ở miền Bắc, dù họ ở
cương vị nào trong xã hội. Đó là nhà thơ Phan Khôi với Tình già, Chơi thuyền
sông Tân Binh; Thế Lữ với Nhớ rừng, Tiếng gọi bên sông, Bên sông đưa
khách, Cây đàn muôn điệu; Lưu Trọng Lư với Thơ sầu rụng, Thú đau
thương, Nắng mới, Xuân về, Tiếng thu; Vũ Đình Liên với Lòng ta là những
thành quách cũ, Ông đồ; Thanh Tịnh với Mòn mõi; Anh Thơ với Chiều
xuân – Trưa hè; Xuân Diệu với Viễn Khách, Huyền Diệu, Nhị hồ, Lời kỷ
nữ, Hư vô, Nguyệt Cầm; Yến Lan với Bến My Lăng; Huy Cận
với Tràng Giang, Chiều xưa – Thu rừng, Ngậm ngùi – Hồn xa; Hồ Dzếnh
với Ngập ngừng – Xuân ý, Phút linh cầu, Tình xưa, Phong Châu, Lỡ đò; Nguyễn
Bính với Xa cách, Tương tư, xuân về, Giấc mơ anh lái đò; Chế Lan
Viên với Mơ trăng, Đêm tàn, Những sợi tơ lòng, Ngủ trong sao, Đêm xuân sầu,
Xuân, Cõi ta; Tế Hanh với Lời con đường quê, Ao ước, Vu vơ và kể
cả Tố Hữu với Mồ côi, Tiếng hò sông Hương, Chiều…
Ở Hồn thơ nước
Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., SG., 1967), Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã
luận giải Hồn thơ nước Việt như một dấu ấn tâm linh của hồn dân
tộc qua thơ của Phan Khôi, Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh Thơ; Vũ Đình Liên, Nguyễn Xuân Sanh… và
xác quyết đây là những giá trị tiêu biểu của hồn thơ nước Việt. Còn ở công
trình khảo cứu khá đồ sộ, có giá trị về lịch sử văn học như Bảng lược đồ
văn học Việt Nam (Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), (Nxb.
Trình bày, SG, 1967) của Thanh Lãng, khi phân chia các khuynh hướng văn học,
ông không quên đề cập đến các nhà văn đang sống ở miền Bắc như: Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyên Hồng; Nguyễn
Tuân, Thế Lữ,… Và trong cái nhìn tinh tế và uyên áo của Thanh Lãng “với Gió
Trăng ngàn, Thế Lữ muốn chúng ta tìm lại không phải cái nếp sống vừa mất
đi như Nguyễn Tuân đã ghi nhận trong Vang bóng một thời mà là mất đi
đã từ lâu. Cuộc đời trầm lặng ngây thơ, hồn nhiên hoang dại của đồng bào miền
sơn cước, cái đời ấy là cái đời của tổ tiên chúng ta ở một cái thời đã xa lắm.
Cái đời ấy mới đẹp, mới say sưa. Những mối tình ở đấy, mới là mối tình chân thật.
Thế Lữ đưa chúng ta trôi dạt trong thế giới của gió, của trăng, của rừng, của
núi, của tất cả cái gì hoang dại” [4, tr.750].
Là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền
chiến (1932-1945), Nguyễn Tấn Long – Phan Canh trong chuyên khảo Khuynh hướng
thi ca tiền chiến, biến cố văn học 1932-1945, (Sống mới Xb., SG, 1968) đã luận
bàn về Tình già của Phan Khôi; Lửa thiêng của Huy Cận; Điêu
tàn của Chế Lan Viên; Thơ thơ của Xuân Diệu; Lỡ bước sang
ngang của Nguyễn Bính; Nghẹn ngào của Tế Hanh; Tiếng thu của
Lưu Trọng Lư; Mấy vần thơ của Thế Lữ và Thi nhân Việt Nam của
Hoài Thanh. Đặc biệt, trong phần luận giải về khuynh hướng xã hội, các tác giả
đã phân tích bài thơ “Vú em; Tiếng hò sông Hương; Dững dưng” của Tố Hữu và cho
rằng: “Người thi nhân khuynh hướng xã hội không có quyền khách quan trước cái
khổ của loài người, mà phải đem tình cảm mình trộn lẫn vào nỗi khổ cực của xã hội.
(…) Nguồn thi cảm của họ đi tìm cái đau đớn chan hòa: Vú em: “Nàng gửi con về
nương xóm cũ/ Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi/ Rồi ừ hôm ấy ôm con chủ/ Trong
cánh tay êm, luống ngậm ngùi” [5, tr.540 – 543]. Còn trong công trình khảo cứu
của riêng mình với bộ ba tác phẩm Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q.Thượng)
Sống mới Xb., SG,1968, Nguyễn Tấn Long đã luận bàn khá sâu, rộng về cuộc đời,
văn nghiệp và trích dẫn thơ của các nhà thơ: Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ,
Nguyễn Bính, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Anh Thơ; Ở Việt Nam Thi nhân tiền
chiến (Q. Trung) là sự góp mặt của các nhà thơ: Huy Thông, Chế Lan Viên,
Vũ Đình Liên, Huy Cận và ở Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q. hạ) là sự
hiện diện của các nhà thơ: Yến Lan, Đoàn Văn Cừ, Hồ Dzếnh, Hằng Phương, Tú Mỡ,
Tế Hanh. Có thể nói, với hàng ngàn trang viết và những tư liệu cùng sự luận giải
của Nguyễn Tấn Long về đời và thơ của các nhà Thơ Mới, có thê nói, đây là một
trong những công trình nghiên cứu công phu, có giá trị về mặt tư liệu và khoa học
trong những công trình nghiên cứu về phong trào Thơ mới, không chỉ đối với văn
học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà còn có giá trị trong đời sống nghiên cứu,
phê bình văn học của dân tộc. Và dù không nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền
chiến như Nguyễn Tấn Long, nhưng Huy Trâm ở công trình khảo cứu Những hàng
châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963), (Nxb. Sáng, Sài Gòn,1969), cũng
đã phân tích một số bài thơ như: Bươm Bướm ngày xưa (Nguyễn
Bính); Ngập ngừng (Hồ Dzếnh) Buồn đêm mưa, (Huy Cận); Thu (Xuân
Diệu); Tiếng Thu (Lưu Trọng Lư); Ông đồ (Vũ Đình Liên)… Đặc
biệt Huy Trâm đã phân tích bài thơ Chiều của Tố Hữu, một lãnh đạo cao
cấp trên mặt trận tư tưởng – văn hóa – văn nghệ ở miền Bắc với những lời chia sẻ
khá trân trọng: “Lão ngồi bên cửa sổ (…) Đôi chiếc lá vàng rơi/ Vô tình qua trước
mắt/ Lão buông lạt trông trời…”, và nhận xét: “Một bài thơ viết theo lối tả thực
làm chúng tôi nhớ đến bài “saison de semailles, le soir” của Victor Hugo” [9,
tr.153].
Bùi Giáng, một trong
những “quái kiệt” của văn học miền Nam 1954-1975, vốn không dễ ngợi ca ai, vậy
mà trong công trình nghiên cứu được xem như một sự hợp hôn diệu kỳ giữa thi ca
và triết học có tên Thi Ca Tư Tưởng, (Ca dao Xb., Sài Gòn, 1969), khi
luận bàn đến các nhà thơ/ văn Tiền chiến ở miền Bắc, Bùi Thi Sĩ cũng dành cho
họ những lời “có cánh” mà nếu không thật sự nễ phục tài năng của họ, chắc Bùi Tiên
sinh sẽ không “hết lời” ngợi ca như thế!? Đây là lời Bùi Giáng viết về thơ Xuân
Diệu: “Sau ba mươi năm dài, trải bao phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong
thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì
không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi
chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân
bỗng sống dậy kêu gào. (…) Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên
tài tuổi trẻ”[3, tr.32]. Còn với Hoài Thanh, người gắn liền tên tuổi mình với
phong trào Thơ Mới qua tác phẩm phê bình văn học nổi tiếng Thi Nhân Việt
Nam, Bùi Thi sĩ đã xác quyết: “Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du.
Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình kiều,
Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài
Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra
không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau” [3,
tr.65]. Viết về Huy Cận, một trong những nhà thơ Tiền chiến, Bùi Giáng rất
“mê”, rất trân quí, và tình cảm đặc biệt nầy thể hiện rõ trong Thi Ca Tư
Tưởng khi ông dành rất nhiều trang viết về thơ Huy Cận. Với Bùi
Giáng: “Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông
Phương” [3, tr.89]. Đây cũng là điều khá lý thú mở ra những hướng nghiên cứu mới
về thi tài của Bùi Giáng và Huy Cận đối với những ai quan tâm đến đời và thơ của
hai thi sĩ kỳ tài nầy.
Hoàng Diệp, một người bạn thơ cùng thời, đã có những năm
tháng sống và hoạt động văn học với Chế Lan Viên, trong khảo luận: Chế Lan
viên – thi sĩ tiền chiến, (Khai Trí Xb, SG,1969) đã có những cảm nhận sâu sắc về
thơ Chế Lan Viên mà theo Hoàng Diệp: “Hơn một phần tư thế kỷ, Sự hiện diện của
Chế Lan Viên đã khuấy động và làm đảo lộn thật sâu xa một thế hệ Thi ca. Giữa đại
dương của các trào lưu lãng mạn thời tiền chiến. Lan Viên đến như một dũng tướng
từ một cõi xa lạ nào. Với một nguồn suối mới, một khuynh hướng riêng biệt,
chàng đã gây ngạc nhiên không nhỏ đối với các nhà phân tâm học, nhất là về
phương diện thần bí” [2, tr.117].
Uyên Thao, một trong những nhà
nghiên cứu văn học có uy tín ở miền Nam, với công trình khảo cứu Thơ Việt
Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., SG, 1969 cũng đã có những trang viết luận
giải khá tinh tế về thơ của các nhà thơ đang sống và hoạt động văn nghệ ở “bên
kia chiến tuyến”. Đó là Xuân Diệu với Thơ thơ, Gửi hương cho gió; Huy Cận
với Lửa thiêng; Thế Lữ với Mấy vần thơ; Nguyễn Bính với Lỡ bước
sang ngang; Lưu Trọng Lư với Tiếng thu; Vũ Đình Liên với Ông Đồ; Anh
Thơ với Bức tranh quê; Tế Hanh với Nghẹn ngào; Chế Lan Viên với Điêu
tàn; Tố Hữu với Qua cổ tháp; Một tiếng rao đêm…Những bài thơ nầy được người
đọc đón nhận nồng nhiệt như món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn
chương.
Trong Mười khuôn mặt văn nghệ, (Tác giả Xb., SG,1970), một
công trình nghiên cứu khá ấn tượng về thể loại chân dung văn nghệ, Tạ Tỵ đã
dành những trang văn giàu tâm cảm với tất cả sự quí trọng hiếm có của tình văn
chương không giới tuyến cho những bạn văn của mình mà ông luôn thương nhớ dẫu rằng
sự chọn lựa “chí hướng” của họ hoàn toàn khác biệt với ông. Đó là hình ảnh Nguyễn
Tuân với bài viết “Nguyễn Tuân và thái độ kẻ sĩ trước Cách mạng qua tác phẩm Chùa
đàn” mà qua cái nhìn của Tạ Tỵ: “Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt lớn của
văn học Nghệ thuật Việt Nam ở trước và trong cuộc chiến. Nói đến Nguyễn Tuân là
nói một giá trị hiển nhiên, là khơi sáng lại dòng thời gian chìm khuất, là nhắc
nhớ đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng sửng trước
mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn
bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình đi vào tác phẩm Nguyễn Tuân như
hành trình đi vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo” [10, tr.31]. Hay
bài viết: “Nguyễn Bính một thiên tài lỡ dở” và “Văn Cao một tinh cầu giá lạnh”
mà trong tâm thức Tạ Tỵ: “sự hiện diện của Văn Cao ở một hàng ngũ Cách Mạng nào
đó trước 1945, người ta đừng lấy làm lạ, phải coi như một lẽ đương nhiên. Kẻ
thù đã đẩy, chẳng riêng gì Văn Cao mà cả Dân Tộc đứng lên đòi quyền sống” [10,
tr.178].
Bên cạnh các công trình khảo cứu, lý luận phê bình, gương mặt
của các nhà văn/ thơ Tiền chiến ở miền Bắc, còn hiện hữu ở các công trình
nghiên cứu mang tính chất văn học sử. Đó là gương mặt của Thế Lữ, Nguyễn
Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ… trong Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên tập 3 văn học hiện đại 1862-1945, (Quốc học Tùng thư
Xb., SG, 1965), của Phạm Thế Ngũ. Hay gương mặt của Nguyễn Tuân, Xuân Diệu
trong Văn học Phân tích Toàn thư, (Lá Bối Xb., SG, 1973), của Thạch Trung
Giả. Và gương mặt của Xuân Diệu, Tú Mỡ, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Trương Tửu –
Nguyễn Bách Khoa, Phan Khôi, Huy Cận, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên,
Chế Lan Viên, Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Huy Thông, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan…
trong Lược sử văn nghệ Việt Nam – Nhà văn tiền chiến, (Vàng
Son Xb., SG, 1974), của Thế Phong. Còn trong Văn học sử Thời kháng Pháp (1858
-1945) của Lê Văn Siêu, (Trí Đăng Xb., SG, 1974), là gương mặt của Lưu Trọng
Lư, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Anh Thơ, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh,
Nguyên Hồng, Tú Mỡ…
Đặc biệt hơn cả là sự hiện diện của các nhà văn/ thơ ở miền Bắc
trong sách giáo khoa Quốc Văn giảng dạy ở các trường trung học miền Nam
như: Việt Văn toàn thư Tú tài I Ban ABCD của Vũ Ký, Á Châu Xb.,
có trích giảng thơ của các nhà thơ: Phan Khôi với Tình già, Thế Lữ với Giây
phút chạnh lòng; Nhớ rừng; Cây Đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai;
Xuân Diệu với Đây mùa thu tới, Chiều, Tương tư chiều ; Vũ Đình Liên với Hồn
xưa; Huy Cận với Tràng giang; Quốc Văn 12ABCD, Trường Thi xuất bản,
nhóm Giáo sư Quốc Văn, Sài Gòn, 1974, trích giảng Ngậm ngùi của Huy Cận; Trưa
vắng của Hồ Dzếnh; Ông Đồ của Vũ Đình Liên; Giây phút chạnh
lòng; Nhớ rừng của Thế Lữ; Tình già của Phan Khôi; Tiếng
thu của Lưu Trọng Lư, Nằm vạ của Bùi Hiển; Tắt đèn, Việc
làng, lều chõng của Ngô Tất Tố; Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Kép tư
Bền, Cô giáo Minh của Nguyễn Công Hoan; Quê người, O chuột, Xóm giềng
ngày xưa của Tô Hoài; Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng; Quê Mẹ, Ngậm ngãi tìm trầm của Thanh Tịnh; Quốc Văn lớp
tám của Nguyễn Quế Viên, Tác giả Xb., 1974, có Nguyễn Tuân, (Chơi hoa,
Vang bóng một thời); Nam Cao (Chí Phèo) Phan Khôi (Học với chung quanh ta); Thế
Lữ, (Nhớ rừng); Giảng Văn lớp bảy, do Đỗ Văn Tú biên soạn, Việt Nam Tu
Thư, Sài Gòn, 1974, có các tác giả: Thế Lữ (Mấy vần thơ, Vàng và máu, Gói thuốc
lá) Tô Hoài (Quê Người, O chuột, Xóm Giềng ngày xưa, Dế mèn phiêu lưu ký)…
Riêng công trình Văn học từ điển, Nxb.Khai Trí, SG, 1974, của Thanh
Tùng đã đề cập hầu hết tiểu sử và văn nghiệp các nhà văn sống ở miền Bắc như:
Anh Thơ, Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Đào Duy Anh, Đoàn Phú Tứ, Đoàn Văn Cừ , Hằng
Phương, Hoài Thanh, Hồ Dzếnh, Huy Cận, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Mạnh Phú Tư,
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan, Phan Khôi, Tế Hanh,
Thanh Tịnh, Thâm Tâm, Thế Lữ, Tồ Hoài, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Yến
Lan… Ngoài ra, còn có các số báo chuyên đề về cuộc đời và hành trình sáng tạo
văn chương của các nhà văn, nhà thơ đang sống ở miền Bắc lúc bấy giờ như: Văn
học số 100 (1/1/1970) về Nguyễn Bính; Văn học số 114 (1/11/
1970) về Văn Cao; Văn học số 105 (15/4/1970) về Nguyễn Tuân; Văn
học Giai phẩm (20/8/1970) về Chế Lan Viên; Văn số 4/1973 về Hồ
Dzếnh; Thời tập số ra ngày 15/11/1974 về Nguyễn Tuân; Văn học
giai phẩm/1974 về Thế Lữ; Văn học giai phẩm/1974 về Hồ Dzếnh …
Có thể nói, trong đời sống văn học miền Nam giai đoạn
1954-1975, Các nhà văn/ thơ Việt Nam thời Tiền chiến (tên gọi định danh cho thời
kỳ văn học 1932-1945) đều xuất hiện trong các công trình nghiên cứu văn học mà
không có một sự phân biệt đối xử, phân biệt giới tuyến. Không những thế, các
sáng tác của họ đều được tái bản ở miền Nam mà không hề bị cấm đoán, được người
đọc trân trọng tiếp nhận, được xem như một bộ phận “trung tâm” của văn học miền
Nam chứ không “bị” đẩy ra khu vực “ngoại biên”. Điều nầy cũng cho thấy tính
“phi giới tuyến” của nền văn học miền Nam mà chúng tôi đã đề cập đến ở phần tóm
tắt của bài viết.
2.2. Văn học miền Nam với các
nhà văn/ thơ kháng Pháp sống ở miền Bắc
Không chỉ có các nhà thơ/ văn Tiền
chiến mới hiện hữu trong văn học miền Nam 1954-1975 mà trong nền văn học không
giới tuyến ở miền Nam còn có sự hiện hữu của các nhà thơ/ văn trong kháng chiến
chống Pháp. Bộ phận văn học này cũng được các nhà lý luận, phê bình văn học miền
Nam rất trân trọng, với những đánh giá khá cao, xem đây là một phần không thể
thiếu để tạo nên hệ giá trị của văn học dân tộc như Uyên Thao trong Thơ Việt
Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969 đã xác quyết: “Những
cái gì đã hình thành nên do một phần xương máu của chúng ta, của anh em, đồng
bào ta, ta phải giữ lấy, và phải đặt nó vào vị trí xứng đáng của nó. Văn nghệ
kháng chiến trong dòng sinh hoạt nghệ thuật của dân tộc là một mắc xích giữa
hai chuỗi mắc xích. Như các giai đoạn khác, nó là những gạch nối để giòng sinh
hoạt nọ được gọi là một giòng. Thiếu nó giòng sinh hoạt nọ chỉ xứng với cái tên
là “những đoạn không gắn bó, đứt quảng (...) Phủ nhận văn nghệ kháng chiến chúng
ta sẽ trở thành những tên bói mù” [8, tr.311].
Xuất phát từ điểm nhìn này, nên ở văn học miền Nam có khá nhiều
công trình lý luận phê bình quan tâm nghiên cứu đến sáng tác của các nhà văn/
thơ thời kháng Pháp như Hồn thơ nước Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., Sài
Gòn, 1967) của Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã luận bình về các bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng; Viếng bạn của Hoàng Lộc; Màu tím Hoa
sim của Hữu Loan. Hay trong Thi ca Việt Nam hiện đại, của Trần Tuấn
Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967) đã đề cập đến thơ Quang Dũng với kẻ ở,
Đôi bờ; Hoàng Cầm với Em bé lên sáu tuổi; Văn Cao với Chiếc xe xác
qua phường Dạ Lạc, Những ngày báo hiệu mùa xuân; Phùng Quán với Lời mẹ dặn;
Hữu Loan với Cùng những thằng nịnh hót. Còn Huy Trâm trong Những
hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963) (Nxb. Sáng, Sài Gòn,
1969) thì phân tích thơ Quang Dũng với Đôi mắt người Sơn Tây; Kẻ ở ;
Nguyễn Đình Thi với Đất nước, Hữu Loan với Đèo cả; Tố Hữu
với Ngày về mà trong sự cảm nhận của Huy Trâm thì so với “Ngày về” của
Guy de Maupassant, nội dung câu chuyện trong bài xem ra có phần cay đắng hơn” [9,
tr. 171].
Uyên Thao với Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng
Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969) đã luận bàn khá sâu sắc về văn học kháng Pháp qua phân
tích Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Mùa cốm Mới, Lên Cấm Sơn (Thôi
Hữu); Màu tím hoa sim (Hữu Loan); Tháng năm ra trận, Đồng chí (Chính
Hữu); Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây (Quang Dũng); Bên kia sông
Đuống (Hoàng Cầm); Đất nước (Nguyễn Đình Thi); Cá nước, Bầm
ơi, Phá đường (Tố Hữu)… Và theo Uyên Thao: “Đối với lịch sử, văn nghệ kháng
chiến là một tấm gương soi sáng xã hội Việt Nam, soi sáng tâm hồn cũng như tinh
thần người Việt trong một giai đoạn cần nhiều máu đổ. Nó chứng minh với ngàn
sau, tinh thần bất khuất và kiên cường của người Việt Nam trước giông tố
(…) Đối với văn học, đối với lịch sử, vị thế của văn nghệ kháng chiến là
thế. Phủ nhận vị thế đó, chúng ta sẽ là những kẻ phản bội ngay cả cái phần gọi
là NGƯỜI trong con người mình” [8, tr.313].
Ngoài những công trình nghiên cứu có đề cập đến thơ văn kháng
Pháp đã nêu, trên lĩnh vực báo chí cũng có một số bài nghiên cứu về một số tác
phẩm của các nhà văn/ thơ trong kháng chiến chống Pháp. Cụ thể, trên tạp
chí Phổ Thông số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960, trong mục “Những áng
thơ hay” có bài viết về bài thơ Nhà tôi của Yên Thao do Nguyễn Thu
Minh giảng bình. Và đây là lời bình khá tinh tế và sâu sắc của Nguyễn Thu Minh
: “Tôi có người mẹ già…. Tơ tằm rút mãi cho lòng heo hon” . Thử hỏi trong cuộc
đời này, ngoài tình yêu tổ quốc, còn tình yêu thương nào hơn được tình gia
đình, nghĩa vợ chồng nữa đâu? Yên Thao của chúng ta đau buồn, luyến nhớ là phải.
Mà càng nhớ bao nhiêu lại càng lo âu, thắc mắc bấy nhiêu. Vì những người thân
yêu của chàng hiện đang sống trong vùng giặc chiếm đóng, chả biết ra sao, liệu
còn yên ổn sống hay đã không may trong cuộc đời ly loạn (…) Đọc bài thơ trên,
chắc đã làm các bạn thỏa mãn từ lời thơ cho đến ý thơ của tác giả, dầu với hình
thức tơ tự do. Và lòng chúng ta không khỏi rộn lên niềm thương vui, luyến nhớ lẫn
lộn, với thi nhân Yên Thao, lúc thì man mác dìu dịu như làn hương thơm quyện lấy
tâm hồn, lúc lại rộn rã, tha thiết ngập tràn lòng như ánh mai vừa ló ở chân trời
xa mênh mông sáng đẹp của một ngày mới bắt đầu!” [6, tr.98 -99].
Đặc biệt, trong tiểu luận “Thi ca trước tình cảnh cực đoan”,
(Ý Thức số 11 ra ngày 15/3/1971), Huỳnh Hữu Ủy đã đánh giá cao giá trị một
số bài thơ viết trong những năm kháng Pháp của các nhà thơ đang sống ở miền Bắc
như: Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Đình Thi; Hữu Loan; Hoàng
Cầm… Trong đó, Tố Hữu là nhà thơ mà Huỳnh Hữu Ủy quan tâm đặc biệt với những câu
thơ mà nhà nghiên cứu rất ám ảnh: “Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc
rét nước làng em lo”; và “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm”
hay “Đợi anh về (dịch thơ Simonov). Đó còn là hình ảnh anh bộ đội trong
thơ Quang Dũng hay Chính Hữu: “Súng bên súng đầu nép bên đầu/ Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỷ”… mà Huỳnh Hữu Ủy đã xác quyết: “Ai dám bảo chiến sĩ chỉ
biết chiến đấu và nuôi dưỡng căm hờn? Cuộc kháng chiến trường kỳ trước đây của
dân tộc là một giấc mơ to lớn đẹp đẽ, vô ngần thơ mộng, đủ cả thất tình. Tình cảm
đấu tranh, tình dân tộc, tình tự gái trai, tất cả đều chất ngất quyện vào nhau,
tạo thành một trường ca vĩ đại … “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc
hành” Quang Dũng [11, tr.21]. Trong cảm thức của Huỳnh Hữu Ủy: “Thi ca của giai
đoạn kháng chiến (mà những trích dẫn trên chỉ là một phần rất nhỏ của kho tàng
to lớn này) đã đóng góp một phần rất lớn trong việc cổ xúy một cuộc đấu tranh
trường kỳ. Nền thi ca ấy đã hoàn thành sứ mệnh cao đẹp của nó, đã để lại cho
chúng ta những viên hồng ngọc quí giá như minh chứng của một phần hồn thiêng
dũng cảm phi thường của dân tộc, một dân tộc của những người không khuất chí,
luôn sẵn sàng đứng dậy, trước bất cứ hoàn cảnh và chông gai nào” [11, tr.22].
Và cũng như các nhà thơ/ văn Tiền chiến, thơ văn của các nhà văn kháng chiến thời
chống Pháp cũng hiện hữu trong các công trình nghiên cứu về lịch sử văn học và
sách giáo khoa Quốc văn trung học mà chúng tôi đã nêu ở trên. Ngoài ra một số
báo tạp chí cũng ra số đặc biệt về các nhà thơ / văn thời kháng Pháp như tạp
chí Văn học, một tạp chí nghiên cứu, phê bình khá uy tín trong văn học miền
Nam đã dành hai số 125/1971 và 145/1971 giới thiệu về đời và thơ Quang Dũng và
số 139/1971 giới thiệu về nhà thơ Hữu Loan…
Có thể nói, hình ảnh các nhà thơ/ văn trong kháng chiến chống
pháp sống ở miền Bắc cùng sáng tác của họ hiện hữu trong văn học miền Nam
1954-1975 đã xác tín tính “phi giới tuyến” của văn học miền Nam, trong việc góp
phần tôn vinh, gìn giữ và lan tỏa giá trị của văn học cách mạng và kháng chiến ở
miền Nam suốt hai mươi năm chia cắt. Chính điều này đã góp phần thức nhận lòng
yêu quê hương đất nước và tình tự dân tộc trong tâm thức người dân miền Nam mà
lẽ nào hôm nay chúng ta có thể lãng quên!?
3. Thay lời kết
Như tên gọi của bài viết: Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu
trong văn học miền Nam 1954 -1975 và với những gì đã minh chứng qua các tư
liệu xuất bản ở miền Nam trước1975 được khảo sát trong điều kiện có thể, đã phần
nào đặt ra vấn đề: “Phải chăng không có “giới tuyến” trong văn học miền Nam
1954-1975?. Rõ ràng qua những tư liệu này có thể xác quyết trong giai đoạn
1954-1975, cho dẫu đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, nhưng trong văn học miền
Nam hình như không có “vĩ tuyến” đó. Bởi, trong tâm thức nhân dân miền Nam,
trong đó có các nhà nghiên cứu văn học, văn chương của các nhà văn/ thơ đang sống
ở miền Bắc luôn hiện hữu như một hệ giá trị của văn học dân tộc. Đây là một vấn
đề cần được khẳng định trong văn học miền Nam 1954-1975 mà dường như lâu
nay đã bị “chôn vùi” bởi những định kiến thiển cận về văn học miền Nam ở một thời
không xa khi cho rằng, đây là bộ phận văn học “đồi trụy” “phản động” mà không
thấy được Tinh hoa của văn học dân tộc vẫn tiềm ẩn trong bộ phần văn
học nầy. Phải chăng, đến lúc cần thay đổi cách nhìn về văn học miền Nam giai đoạn
1954-1975, để nhận ra những giá trị đích thực của nó, với một cái nhìn khoa học,
khách quan trên tinh thần nhuần thấm tình tự dân tộc, để làm thế nào tạo nên một
nền văn học Việt Nam “không giới tuyến” cũng như đất nước chúng ta đã từ lâu
không còn giới tuyến!?
Và để khép lại bài viết nầy, chúng tôi muốn viện dẫn ý kiến
Uyên Thao trong Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng Lĩnh Xb., SG,
1969), khi ông đặt vấn đề tiếp nhận tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong văn
học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà theo ông nếu “vì chính trị mà chạy quá xa,
chối bỏ ngay cả tác phẩm của giai đoạn trước chỉ vì ngày nay tác giả còn ở bên
kia chiến tuyến. Tính chất liên tục của một sự nghiệp nghệ thuật, một giòng
sinh hoạt không có tận cùng buộc chúng ta không được làm thế, dù với lý do nào.
Vì, nếu đắp đất chặn ngang một con sông thì nửa trên sẽ biến thành đầm, thành hồ,
trong khi nửa dưới bơ vơ lạc lõng, không có phát nguồn. Chẳng sớm thì chày cái
phần bơ vơ lạc lõng này sẽ cạn mà thôi” [8, tr.308]. Nhận định ấy, có thể không
còn nguyên ý nghĩa của nó như trước đây khi đất nước còn bị chia cắt nhưng dẫu
sao, cũng là một lời nhắn gởi bổ ích, hữu dụng với chúng ta ngày nay, trong việc
nhìn nhận giá trị của văn học miền Nam 1954-1975, một di sản của văn học dân tộc
không thể phủ nhận…
Tài liệu tham khảo:
(1) Huy Cận (1967), Lửa thiêng, (tái bản tại miền Nam),
Sài Gòn
(2) Hoàng Diệp (1969), Chế Lan viên - thi sĩ tiền chiến,
Khai Trí Xb., SG
(3) Bùi Giáng (1969), Thi Ca Tư Tưởng, Ca dao Xb.,
Sài Gòn
(4) Thanh Lãng, (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam
(Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), Nxb. Trình bày, SG
(5) Nguyễn Tấn Long – Phan Canh (1968), Khuynh hướng thi
ca Tiền chiến biến cố văn học 1932-1945, Sống mới Xb., SG
(6) Nguyễn Thu Minh (1960),“Bình giảng bài thơ Nhà tôi của
Yên Thao”, Phổ Thông, số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960
(7) Đỗ Nghê (1970), Tâm sự Lạc Long Quân, Ý Thức số
04 ra ngày 15/11/1970
(8) Uyên Thao (1969), Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng
Lĩnh Xb., Sài Gòn
(9) Huy Trâm (1969), Những hàng châu ngọc trong
thi ca hiện đại (1933 -1963), Nxb. Sáng, Sài Gòn
(10) Tạ Tỵ (1970), Mười khuôn mặt văn nghệ, Tác giả
Xb., Sài Gòn
(11) Huỳnh Hữu Ủy (1971), “Thi ca trước tình cảnh cực đoan”, Ý
Thức số 11 ra ngày 15/3/1971
Gò Vấp, 9/4/2022 Trần Hoài AnhNguồn: Bài đã đăng Tạp chi nghiên cứu Văn học viện văn học số 5/2022
Gò Vấp, 9/4/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét