Động hình mới của văn xuôi
chiến tranh qua những phác thảo rời
Chiến tranh là đề tài giàu truyền thống trong văn học hiện đại
Việt Nam. Tính lịch sử xã hội của nghệ thuật ngôn từ cũng thể hiện rất rõ qua
tâm thế tiếp cận, lối viết của nhà văn và tình cảm, nhận thức của bạn đọc ở
mảng sáng tác này. Mối tương quan sâu sắc giữa những chuyển biến văn hóa
và sự biến đổi trong đề tài chiến tranh từ sau năm 1986 đặt ra yêu cầu
khảo sát và phân tích để có thêm cơ sở nhận diện và định giá tiến trình
văn học thời Đổi mới. Bài viết bước đầu đưa ra một cái nhìn khái lược về
bước ngoặt chuyển mình của văn xuôi chiến tranh, cùng với đó là những biến chuyển
bề sâu của văn hóa, văn học đương đại Việt.PGS-TS. Bùi Thanh Truyền1. Cảm quan mới trong sinh quyển mới
Khép lại cái nhìn nặng màu sắc chính trị hóa, lý tưởng hóa
theo kiểu phân tuyến ta – địch, thắng – thua, chính nghĩa – phi nghĩa của văn học
cách mạng, độ lùi thời gian cùng với những thay đổi trong sinh quyển văn hóa,
xã hội giúp người viết lật trở, chiêm nghiệm chiến tranh từ lăng kính nhân văn,
nhân bản gắn với những giá trị phổ quát của nhân loại. Chiến tranh hiện hình
trên trang viết hôm nay chủ yếu từ cảm quan của nỗi buồn, của những suy tư,
trăn trở trước quá khứ, hiện tại và cả tương lai của “mình” và “họ”. Con người,
qua cuộc chiến, với đầy những bầm dập, thương tổn, những dư chấn nặng nề cả thể
xác lẫn tâm hồn, vì thế “không một ai muốn mình sẽ tiếp tục là một con số cộng
thêm trong phép thống kê xương máu” (Chiến tranh và phép thống kê – Bích
Ngân). Hiện thực chiến tranh và hậu chiến đâu còn là “chiếc ráng chiều quá đẹp”
như cách ví von của Nguyễn Minh Châu mà xám một màu buồn rợn bởi những đau
thương, mất mát, những mảng sáng tối xô bồ khiến không ít quân nhân, thường
nhân cả hai bên chiến tuyến – những người đã bị chiến tranh vô tình hay cố ý
kéo vào – đều không khỏi bang hoàng, suy sụp, thậm chí mất khả năng sống bình
thường.
Nỗ lực hiện đại hóa văn xuôi của đội ngũ nhà văn hôm nay thể
hiện rõ nhất ở chỗ họ mạnh dạn đi vào những cạnh khía nhạy cảm của chiến tranh
với cái nhìn trực diện, phản tỉnh. Đó là những trang viết lạ lẫm, đầy ám ánh
nhưng cũng nhiều mê hoặc về đề tài da cam (Tiếng lục lạc – Nguyễn Quang Lập, Mười
ba bến nước – Sương Nguyệt Minh, Cơ bản là buồn – Nguyễn Ngọc
Thuần,…). Hai cuộc chiến tranh biên giới cũng là hai thỏi nam châm xoáy hút tâm
lực, bút lực của người viết. Hơn ba thập niên, nhất là khoảng thời gian gần 20
năm đầu thế kỉ XXI, xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết viết về chiến tranh biên giới
Tây Nam: Dòng sông của Xô Nét (Nguyễn Trí Huân), Chiến tranh
không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy), Dòng sông nước mắt (Thanh
Giang), Biên giới, Bên rừng thốt nốt, Đất không đổi màu, Người
đàn bà khóc mướn (Nguyễn Quốc Trung), Ngôi chùa ở Pratthana, Khoảng
rừng có những ngôi sao (Văn Lê), Thế giới xô lệch (Bích
Ngân), Bên dòng sông Mê (Bùi Thanh Minh), Miền hoang (Sương Nguyệt
Minh), Hoang tâm (Nguyễn Đình Tú), Mùa xa nhà (Nguyễn Thành
Nhân), Rừng đói (Nguyễn Trọng Luân), Chuyện Lính Tây Nam (Trung
Sỹ), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn), Viết từ hành tinh kí ức (Võ
Diệu Thanh)…; chiến tranh biên giới phía Bắc: Xác phàm (Nguyễn Đình
Tú), Mình và họ (Nguyễn Bình Phương),…
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những nhà văn trải nghiệm nó, dù
trực tiếp hay gián tiếp, cũng luôn cảm thấy mình mắc nợ những ân ưu ngày cũ. Dư
âm, dư chấn của cuộc chiến cứ mãi đeo đẳng, khiến họ phải viết ra để nhớ lại, sống
lại một thời gian khổ, bi tráng mà bản thân, bạn bè, dân tộc đã sống qua. Chuyện
Lính Tây Nam được Trung Sỹ viết trong tâm thế vượt lên chính mình: trực diện
nhìn lại cuộc chiến tranh trên đất Campuchia để soi rọi một thời bi hùng của thế
hệ, đất nước mình, để đưa ra ánh sáng sự thật trần trụi của cái lò lửa địa ngục
phi nhân ấy. Bằng cái nhìn của người trong cuộc, người đi qua ngoái lại, nhà
văn đã khiến chúng ta kinh ngạc bởi hiện thực đa chiều, chân thực, tươi nguyên
và sinh động đến rùng mình về một chiến trường K còn ít được biết đến trong văn
học, khá xa lạ với độc giả trong và ngoài nước, vì thế có sức lay động lớn. Dù
không gọi đích danh, nhưng lần đầu tiên trong văn học chính thống, quân xâm lược
phương Bắc cũng đã được điểm mặt chỉ tên. Đó là bọn Khựa (Mình và họ),
là giặc Khợ (Xác phàm). Cả hai cách gọi này đều cho thấy thái độ căm
thù, khinh bỉ của tác giả trước hành động bất nhân, phi nghĩa của kẻ thù, đồng
thời tạo một khoảng cách vừa đủ để hiện thực lịch sử với hiện thực văn chương
soi chiếu lẫn nhau nhưng không trùng khít lên nhau. Dụng ý nghệ thuật đó giúp
người viết tự do thể nghiệm, sáng tạo và tỏ bày những suy cảm về lịch sử, về nhân
sinh, thế cuộc.
Là một cô giáo trẻ, sinh ra và lớn lên ở An Giang – nơi chịu
nhiều tổn thất, tang thương do Khmer Đỏ gây ra, từ một “kẻ ngoại cuộc”, Võ Diệu
Thanh đã vô tình bị đẩy vào cuộc chiến. Tác giả trải nghiệm chiến tranh qua lời
kể của những nạn nhân trong cuộc thảm sát Ba Chúc (Tri Tôn): chị Sương, cô Năm
Chậm, mợ Tám, cô Tư Chỉnh, chú Tư Long, anh Út Nam, thím Ba Tệt,… tất cả đều chịu
những sang chấn tâm lí nặng nề, dai dẳng từ nạn diệt chủng kinh hoàng cách đây
gần bốn thập kỉ. Bằng cách viết đầy tính chất “điền dã” của văn học dân gian, tội
ác man rợ của Pol Pot phơi bày trong cuốn sách Viết từ hành tinh kí ức khách
quan, chân thực đến đáy. Có cảm giác người viết luôn bị giằng xé giữa nhiều
thái cực, trạng huống đối lập: lãng quên – hoài nhớ, ám ảnh – an yên, căm phẫn
– tha thứ… để rồi cuối cùng phải chọn một giải pháp trung dung: hòa đồng, cộng
cảm lòng mình với tâm tình của người trong cuộc, đưa tất cả phức hợp nhận thức,
tình cảm ấy lên trang giấy một cách chân xác, không tô vẽ, phóng đại, để quá khứ
phục sinh trong hiện tại dưới một hình hài khác, qua một lăng kính khác. Đó
cũng là cách tác giả tự đối diện, tự giải quyết những xung đột, mâu thuẫn trong
lòng mình, tự trả lời những câu hỏi, những nợ nần của quá khứ, làm người hòa giải
quá khứ và hiện tại. “Mấy mươi năm đã qua, tôi ôm những miền kí ức của ai?
Không phải của tôi, mà sao nặng nề quá đỗi. Nó thường đáo lại trong tôi qua cơn
ác mộng, ví như một cuộc tử hình, một cuộc đối đầu trực diện và xả súng vào
nhau. Như chính tôi là người làm nên những đau đớn đó”. Bằng cách ấy, người viết
cũng đã giải huyền thoại về sự đau thương mà vĩ đại, vô danh mà trường cửu của
dân tộc mình: “Thành ngữ có câu tấc đất tấc vàng, tôi cảm giác tấc đất là tấc hồn
máu xương của nhiều đời nhiều kiếp người xưa và cả người nay. Chính những tích
tụ đó làm nên linh hồn của từng vùng đất, để dẫu cho binh biến hãi hùng hay
thiên nhiên khắc nghiệt, con người vẫn cứ muốn sống ngay trên chính mảnh đất
quê hương mình”. Tâm cảm, động lực cầm bút của nhà văn miền Tây Nam Bộ này có
nhiều điểm tương đồng với Bảo Ninh trong tuyệt phẩm Nỗi buồn chiến tranh gần
30 năm trước. Đây là minh chứng về sức sống của đề tài, tính truyền thống và hiện
đại của văn học chiến tranh trong văn mạch dân tộc. Sáng tác của Võ Diệu Thanh,
Nguyễn Ngọc Tư cùng với đó là những thế hệ trẻ hơn nhiều (Nguyễn Thị Kim Hòa với Đỉnh
khói, Trần Thị Tú Ngọc với Ngụ ngôn tháng tư, Huỳnh Trọng Khang với Mộ
phần tuổi trẻ, Văn Thành Lê với Vỏ anh hùng,…) đã đề xuất, bổ sung vào
kinh nghiệm chiến tranh, kinh nghiệm viết, đọc của thế hệ đi trước, kiến tạo bản
sắc cho thế hệ mình (1). Sự tiếp nối đội ngũ: những người cầm bút trong thời chiến,
những tác giả trưởng thành thời bao cấp, thời đổi mới, lớp nhà văn thành danh đầu
thế kỷ XXI cho thấy chiến tranh vẫn còn là miền đất giàu tiềm năng, hứa hẹn nhiều
khởi sắc cho văn học nước nhà.
Những sáng tác của đội ngũ nhà văn ở hải ngoại về đề tài chiến
tranh cũng mang lại sinh khí mới cho văn học đương đại. Có thể quan điểm, thái
độ của người viết chưa được số đông đồng thuận; nhưng những tình cảm chân thật,
lối viết mới mẻ về cuộc chiến trong quá khứ của họ là điều đáng trân trọng,
giúp các tác giả trong nước có điều kiện đối chứng để thay đổi cách nhìn, cách
viết. Tập truyện Người tị nạn của Viet Thanh Nguyen, một người Mỹ gốc
Việt, sau nhiều trắc trở, cũng đã được Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành
vào đầu năm 2018 là một minh chứng. Cuốn sách như là chứng nhân cho một thời đoạn
lịch sử mà mỗi người Việt Nam dù ở đâu cũng không được quyền quên lãng.
Sự chuyển hướng trong cảm hứng, cùng với đó là bút pháp, hiện
diện ngay từ nhan đề của truyện. Tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Ăn mày dĩ vãng, Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Thời
xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng), Bến đò xưa
lặng lẽ (Xuân Đức), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến), Gia
đình bé mọn (Dạ Ngân), Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Người
đàn bà trên đảo, Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Mùa
hè giá buốt – Văn Lê, Cõi đời hư thực (Bùi Thanh Minh), Được
sống và kể lại (Trần Luân Tín), Miền hoang (Sương Nguyệt
Minh), Trong cơn lốc xoáy (Trầm Hương), Hoang tâm (Nguyễn
Đình Tú), Cơ bản là buồn (Nguyễn Ngọc Thuần), Mộ phần tuổi trẻ (Huỳnh
Trọng Khang),… Truyện ngắn: Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Chuyện
sót lại ở thung lung Chớp Ri (Nguyễn Quang Lập), Truyền thuyết về
Quán Tiên (Xuân Thiều), Ngày xửa ngày xưa (Nguyễn Quang Lập), Đợi
bạn (Ngô Tự Lập), Đốm lửa (Nguyễn Thị Minh Thúy), Bến trần
gian (Lưu Sơn Minh), Hồn trinh nữ, Người sót lại của Rừng Cười (Võ
Thị Hảo), Mười ba bến nước (Sương Nguyệt Minh), Chiều vô danh (Hồng
Dân), Vết chim trời (Nguyễn Ngọc Tư), Những người đàn bà mắt đen (Viet
Thanh Nguyen), Vỏ anh hùng (Văn Thành Lê),… Tản văn: Nén nhang
chung (Dạ Ngân), Nối linh thiêng, Chiến tranh và phép thống kê (Bích
Ngân), Không biết gì về chiến tranh (Lê Minh Khôi), Chuyện của
em và chiếc túi có tên Việt Nam (Việt Linh)…; Bút ký: Viết từ hành
tinh ký ức (Võ Diệu Thanh) v.v. Chúng hợp lực đẩy cái hiện thực sử thi
hóa, hồng hóa một thời vào quá khứ, chia tay “cái thời lãng mạn” để đối diện với
những đòi hỏi bức thiết của con người, cuộc sống hôm nay. Nhà văn làm một lần
vượt cạn không ít đớn đau nhằm đổi lấy cái hạnh phúc lớn lao của nghệ sĩ: được
sống và viết bằng chính con người thật của mình. Cách đây 20 năm, nỗ lực vượt
qua giới hạn của văn xuôi chiến tranh chính là việc người viết đã quay trở về
quá khứ, lịch sử – một quá khứ, lịch sử đã phần nào minh bạch, hoàn kết –
để “sống với vùng sáng ký ức, với kỷ niệm của một thời oanh liệt và hào hùng,
thắp lên trong con người ngọn lửa của niềm tin và tình yêu với cuộc sống hôm
nay” (2), thì với văn học đương hiện, khát vọng làm sáng tỏ những cạnh chiều khuất
lấp, tinh thần phản tỉnh, nhận thức lại chiến tranh, về cái giá của hòa bình, độc
lập, hạnh phúc là những tư tưởng chủ đạo. Nhà văn soi chiếu hiện thực từ góc
nhìn trực diện, đa sắc, đa chiều, đem lại cho sáng tác tính chất đối thoại, đa
thanh – những biểu hiện sống động của chất văn xuôi, của tinh thần hậu hiện đại.
2. Sức ám gợi trong lối viết
Vượt qua lối mòn – và cũng là rào cản của bút pháp sử thi –
văn xuôi hôm nay nỗ lực lột hiện mặt trái, mặt khuất của chiến tranh với sức hủy
diệt, phi nhân, với những di chứng kinh hoàng mà nó để lại. Không còn âm hưởng
ngợi ca hào sảng như trong văn học kháng chiến, Miền hoang (Sương
Nguyệt Minh) và Hoang tâm (Nguyễn Đình Tú) phác họa bộ mặt thật của
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam với lắm bi ít hùng. Những đoạn văn miêu tả cận
cảnh cảnh giết người, cảnh hành hình “thời trung cổ” trong hai tiểu thuyết như
những thước phim quay chậm quá sức chịu đựng của người xem. Độc giả rùng mình
kinh sợ trước cảnh hành quyết quân tình nguyện Việt Nam, trận thảm sát ở Ba
Chúc trong cuốn sách của Sương Nguyệt Minh, hay cái chết đáng thương của những
cô du kích Tân Lập trong tác phẩm của Nguyễn Đình Tú. Nhà văn không ngại ngần
phơi mở những tổn thương, mất mát, liên tục xoáy sâu vào những nỗi đau khôn xiết
của con người nhằm tái hiện khách quan, chân thực một bộ mặt khác của chiến
tranh mà diễn ngôn lịch sử, chính trị lâu nay vẫn ít nhiều né tránh.
Trong Xác phàm, chiến tranh cũng hiện lên qua những cảnh
tượng thương tâm: “mười sáu nóc nhà chỉ trong vài phút đã tanh bành, tan biến
như chưa hề có một bản làng nào tồn tại ở góc núi yên bình ấy”. Có quá nhiều
cái chết xảy ra trong thời gian ngắn ngủi khiến người ta tê liệt, không còn đủ
sức thể khóc thành tiếng. Mình và họ có đến vài trăm người, cả lính lẫn
dân thường, bị giặc Khựa bắt và đem phanh thây tại tử địa mang tên “Thung lũng
oan khuất”. Nhiều người bị chôn sống trong những nấm mồ tập thể. Những ngọn núi
nát nhừ vì pháo bom, những con đường bị đạn cối đào xới, xác người la liệt khắp
nơi, mùi tử khí bao trùm mọi chốn… Nhà văn không ngần ngại zoom ống kính để
phóng to những cận cảnh rợn người: “sáu cái xác người trần truồng nằm ngay ngắn
sát với chân tường bên kia, xác nào cũng bị mổ phanh ra”. Tiểu thuyết của hai
nhà văn quân đội này gợi ra những vấn đề có ý nghĩa thời sự và nhân văn sâu sắc,
mang đến cho độc giả cái nhìn đầy đủ hơn về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
phương Bắc, nhắc nhớ con người hôm nay trân trọng hơn cuộc sống, có ý thức
trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.
Mang nỗi ám ảnh và mất mát do chiến tranh gây ra, nhiều nhân
vật luôn bị những cơn ác mộng dày vò. Nỗi đau của thể xác và tinh thần khiến
cho mạch truyện trong nhiều cuốn tiểu thuyết (Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày
dĩ vãng, Gia đình bé mọn, Bến không chồng, Dưới chín tầng trời, Thế
giới xô lệch, Rừng thiêng nước trong, Mình và họ, Hoang tâm, Xác
phàm,…) bị đảo lộn với nhiều mảnh ghép giữa thực và hư, giữa quá khứ và hiện tại.
Dòng ký ức cuồn cuộn làm nổi rõ những đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi.
Song hành với kí ức chiến tranh, nhiều sáng tác đã nỗ lực tái dựng hiện thực hậu
chiến lở lói, bất toàn gây nên không ít sang chấn tinh thần cho con người. Nếu
như những bi kịch chiến tranh (mà hi hữu lắm mới được đặc tả) trong văn học
cách mạng thường ít xuất hiện gương mặt phụ nữ, trẻ em, thì trong văn xuôi hôm
nay, họ hiện diện khá nhiều. Gắn với những nhân vật ngoại biên này, văn xuôi
đương đại đã tô đậm thêm bi kịch của chiến tranh, tăng sức nặng của tiếng nói tố
cáo, của tinh thần nhân bản.
Đa mang và để lại dấu ấn ở nhiều đề tài, Hồ Anh Thái vẫn dành
cho chiến tranh tình cảm, sự quan tâm đặc biệt. Sáng tác của ông thường chọn một
lối riêng khi tìm đến những phận người nhỏ bé sau cuộc chiến. Họ là những nữ
thanh niên xung phong chống chọi đến kiệt lả trong nỗi cô đơn, trong sự khát
khao được làm vợ, làm mẹ (Người đàn bà trên đảo). Chị Giềng (Cõi người rung
chuông tận thế) phải sống trong nghèo khó, tủi buồn để rồi ra đi trong đớn đau,
vật vã. Với những người như chị, đơn độc giữa trùng vây của cái ác, cái bất
công, họ chỉ còn cái quyền lớn nhất – và cũng đáng thương nhất – là “quyền chết”.
Thế hệ không trực tiếp ngang qua chiến tranh, nhưng những tổn thất quá lớn của
gia đình vẫn chém vào họ một vết chí mạng để không còn được sống bình thường, “giữa
đám đông mà cảm thấy đơn côi” (Người và xe chạy dưới ánh trăng).
Nhìn chiến tranh từ lăng kính kỳ ảo, từ thế giới tâm linh
cũng là nét mới dễ nhận thấy và đáng được ghi nhận của văn xuôi hôm nay so với
giai đoạn trước đổi mới (3). Dạng nhân vật siêu thực – những vong hồn liệt sĩ –
là một trong những khám phá mới mẻ, táo bạo của người viết trong việc khắc họa
chân dung người lính. Điều này thể hiện sự nỗ lực cùng tấm lòng trân trọng của
tác giả trên hành trình phát hiện vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ dù là từ một thế
giới khác – thế giới bên kia. Nếu lúc sinh thời, họ là những người đầy nhiệt
huyết tuổi trẻ, ra trận với hoài bão độc lập tự do cho quê hương, dân tộc thì
khi nhắm mắt xuôi tay, bị kẹt giữa hai cõi âm – trần, khát vọng này vẫn còn
cháy bỏng. Không được như bao đồng đội khác hồn có thể quay về quê hương nhờ chết
có mồ mả và có người hương khói, các vong hồn thực hiện khát vọng này bằng “những
ký ức đằm sâu, thân thương” của mình. Đó là nỗi nhớ Hà Nội của anh lính Phương
với những ngày rét mướt, tiếng tàu điện leng keng, người bố dậy tầm bốn rưỡi
pha trà, rồi những tên đường, tên phố, Tháp Bút, Đài Nghiêng…; là những kỷ niệm
của Lăng về bến sông quê hương, ngôi nhà nhỏ với bóng dáng mẹ già cô đơn mà
phúc hậu. Thêm vào đó là những khắc khoải chờ đợi phút giây hòa bình, đợi chờ
ngày trở về được đo bằng những chỉ số thời gian xác định hoặc không xác định:
Anh lính Phương và cô gái giao liên thì “có mặt trên đời hai mươi năm. Và hai
mươi năm chờ đợi”, ông già thời Chín năm “đã ngụ trong hang dơi gần nửa thế kỷ”
(Tàn đen đốm đỏ). Còn Lăng trong Bến trần gian xoáy vào cõi lòng người
đọc bởi cái điệp khúc “mấy chục năm… mấy chục năm rồi…” cồn cào cháy ruột: “Anh
đã đi mấy chục năm mà vẫn luẩn quẩn trong rừng”, “mấy chục năm rồi, nhanh lên,
tôi không thể đứng đây được nữa”, “xin đừng đưa tôi về xứ của ma, tôi còn phải
về thăm u, mấy chục năm rồi…” v.v... Nỗi nhớ mong như có hình khối, nó bất chấp sự
quên lãng của thời gian, sự khắc nghiệt của kiếp vong hồn. Và nhân vật cũng
không còn mờ mờ nhân ảnh mà hiện hữu như một người lính bằng xương bằng thịt,
như Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng vãng), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh), họ góp thêm một
cái nhìn chân thực và đầy xúc động về người lính, về những cuộc chiến tranh giữ
nước thần thánh của dân tộc.
So với văn học giai đoạn 1945 – 1985, văn xuôi về chiến tranh
hôm nay thường nói nhiều hơn đến nỗi đau, đến mất mát của từng cá nhân cụ thể.
Giọng văn vì thế mà lắng xuống, câu chữ như gãy vụn, vỡ oà trước sự thúc ép của
rất nhiều xót xa, thương cảm. Dù có nhiều mất mát, xót đau nhưng phần lớn không
có sự sám hối, phủ định; bao trùm lên nhiều sáng tác vẫn là sự nhân hậu, minh
triết của người viết. Sự hi sinh của người lính không phải đã đặt dấu chấm hết
cho những mất mát không gì bù đắp nổi của dân tộc, nỗi đau còn được kéo dài, được
nhân lên ở thế giới bên kia. Nhưng một điều cũng hết sức cảm động là từ cõi âm,
vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn các anh như được bọc trong ánh hào quang huyền
thoại nên lại càng lung linh, bất tử. Cuộc tử sinh dẫu có nhiều nước mắt nhưng
đó chỉ là sự chia tay tạm thời; còn nỗi đam mê, tình yêu cuộc sống, tất cả sự
vĩ đại mà dung dị của người lính Việt Nam thì vẫn trường tồn và tiếp tục phát
huy sức mạnh (Thần Đất – Vũ Bão, Cõi âm – Triệu Bôn, Tiếng
rừng – Hiền Phương, Đợi bạn – Ngô Tự Lập, Xác phàm –
Nguyễn Đình Tú, Bến trần gian – Lưu Sơn Minh, Ăn mày dĩ
vãng – Chu Lai, Cặp bồ với ma – Ngô Văn Phú, Tàn đen đốm đỏ
– Phạm Ngọc Tiến, Khúc hát biển ban mai – Phạm Ngọc Chiểu,…). Giọng
quan hoài da diết cũng gắn liền với mô tip con người cô đơn sau chiến tranh. Điều
đó khiến cho nhiều truyện không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi, day dứt trong giọng
điệu trần thuật. Miền hoang, Mình và họ, Nỗi buồn chiến tranh, Rừng
thiêng nước trong,… bám riết tâm trí người đọc bởi những cung bậc của ký ức chiến
tranh với âm hưởng trầm buồn, da diết và sâu lắng.
Nỗ lực khu biệt, nâng tầm của văn xuôi chiến tranh đương đại
còn hiện diện ở nhiều triết lý, đối thoại không khỏi gây hấn với lối tiếp nhận
truyền thống. Đâu chỉ mắc nợ con người, những kẻ châm ngòi chiến tranh còn gây
sự, làm tổn hại nghiêm trọng đến tự nhiên, môi trường sống. “Chiến tranh bẩn thỉu
hơn tất cả những trò bẩn thỉu mà con người ta nghĩ ra!” (Ngược chiều cái chết –
Trung Trung Đỉnh); “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang
khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà,
là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng
giống con người!” (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh); “Người ta còn nhiều
việc để làm hơn là báo thù. Chiến tranh là thảm họa cho cả dân tộc. Cần phải cứu
lấy mọi người” (Mùa hè giá buốt – Văn Lê). Những tra vấn về được – mất,
nhân bản – phi nhân, nhất thời – vĩnh cửu,… của cá nhân, dân tộc, nhân loại, của
đời sống, của giá trị con người,… cũng thường xuyên xuất hiện: “Chiến cuộc, miếng
cơm manh áo nó bắt người ta đi, chứ ngây ngô có hiểu gì về chính nghĩa quốc gia
hay gì gì đó đâu” (Không biết gì về chiến tranh – Lê Minh Khôi); “Con người
cậy có sự mạnh, hung hăng chinh phục và tàn phá mọi thứ (…) Cần phải đến với rừng
để học hỏi, để nhận biết đâu là phía trước, đâu là phía sau, đâu là phải, đâu
là trái” (Rừng thiêng nước trong – Trần Văn Tuấn); “Không có chiến thắng
nào không có máu xương, vì vậy không cứ gì hát hò ngợi ca mãi thì người ta mới
biết mình chiến thắng (…) Hãy để cho lòng từ bi lên tiếng, trong mười hai điều
răn của Phật, điều đã từng làm nên bản sắc mạnh của người Việt là sự khoan hòa”
(Nén nhang chung – Dạ Ngân)… Đây là những yếu tính tạo nên sự đa bội trong
điểm nhìn, gọng điệu trần thuật, tính phức điệu, đa thanh (polyphony), tinh thần
dân chủ của văn xuôi. Người viết không còn chiêm ngắm quá khứ bằng tâm trạng
ngây ngất, tự hào đơn phiến, mà chiêm nghiệm thời bi tráng đã qua, thời loang lổ
đương hiện, nhìn bản thân và những người bên kia chiến tuyến toàn diện, điềm
tĩnh, bao dung hơn. Trong đoạn kết của tập bút ký Viết từ hành tinh ký ức,
Võ Diệu Thanh đã để cho một cựu cán bộ Khmer Đỏ thời kháng chiến chống Mỹ, đầy
từng trải, thấu hiểu lẽ đời đánh giá về những tốt xấu, đúng sai của Pol Pot, về
nạn diệt chủng, về mục tiêu, mục đích của chế độ độc tài… khách quan, thấu đạt.
Chiến tranh trong tiểu thuyết, truyện ngắn hôm nay cũng nhắc
nhớ người đọc qua các biểu tượng nhiều ám gợi như nước, lửa,… Màu sắc sử thi,
vai trò đại diện cho lý tưởng, nhiệt huyết, sức mạnh của dân tộc không còn nữa;
các biểu tượng này được sáng tạo chủ yếu từ cảm hứng bi kịch, gắn với bao kiếp
phận bé mọn, vô danh trong mưa bom bão đạn. Nỗi buồn chiến tranh là sự
rên xiết của con người trong “biển lửa”, “cái lò lửa tàn khốc”, “tuyến lửa”,
“con lộ lửa”, “cột lửa”… Lửa ngùn ngụt cháy trong những trang nhật kí của Trần
Củng: “Tiếng bom, tiếng súng hòa lẫn thành một thứ âm thanh hỗn độn. Mặt đất
như bị vỡ ra từng mảng… Tiếng tre nứa cháy ngùn ngụt, lốp bốp… cả làng Chành
giãy lên đành đạch…” (Cõi đời hư thực – Bùi Thanh Minh). Trong tâm thức
văn hóa nhân loại, lửa có tính hai mặt: hủy diệt và tái sinh. Tuy nhiên, lửa
trong văn xuôi viết về chiến tranh sau 1986 phần nhiều chỉ mang sức mạnh hủy diệt.
Đi liền với biển lửa hung tàn là máu me, chết chóc, đổ nát. Cảnh binh lửa kinh
hoàng khiến người lính hoang mang, thảng thốt, không biết mình chiến đấu vì lẽ
gì. “Cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh gì vậy?” (Ăn mày dĩ vãng –
Chu Lai). Khói lửa chiến tranh không chỉ thiêu đốt vạn sinh linh nơi chiến địa
mà còn lan ngún đến làng quê, phố thị cả thời chiến lẫn thời bình qua những biến
thể: ngọn (bóng) đèn, khói hương,… Bóng điện tù mù, đơn độc bầu bạn cùng Kiên
thâu đêm suốt sáng (Nỗi buồn chiến tranh), ngọn đèn dầu hắt sáng vàng vọt
trong Bến không chồng, leo lét trong Người ở bến sông Châu hay đỏ
quạch trong Người sót lại ở Rừng Cười… khắc họa những nỗi đau, bất hạnh
khó nói hết bằng lời của con người, đặc biệt là phụ nữ. Nước và các biến thể của
nó như dòng sông, bến nước, nước mắt,… cũng góp phần không nhỏ để phục dựng bi
kịch nhân quần sau cuộc chiến: Bến trần gian (Lưu Sơn Minh), Bến
đò Lăng (Phùng Văn Khai), Bến đàn bà (Nguyễn Mạnh Hùng), Mười
ba bến nước, Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh), Bến
không chồng (Dương Hướng), Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn
Quang Thiều)… Bên cạnh những tính năng quen thuộc: xoa dịu, gột rửa, thanh tẩy,
nước cùng với những sự vật gắn liền với nó như bến sông, con đò còn là tác nhân
kéo dài, khơi sâu bất hạnh của không ít nhân vật: tuổi xuân mải miết xuôi dòng,
còn niềm vui, hạnh phúc bình dị thì như con đò bỏ bến sang ngang.
Một điều đáng ghi nhận trong sự sáng tạo của văn xuôi chiến
tranh từ đầu thế kỷ XXI là tính liên văn bản trên tinh thần đối thoại, giễu nhại
những khung thước cũ. Miền hoang và Hoang tâm đều lấy chất
liệu từ cuộc chiến biên giới Tây Nam như một “tiền văn bản” làm cảm hứng sáng
tác. Từ những tư liệu, chứng nhân lịch sử và những kí ức về chiến tranh, nhà
văn đã dựng lại không khí cam go, ác liệt về cuộc chiến chống lại tội ác phi
nhân bản, phản nhân văn của chính quyền Khmer Đỏ. Sự dung hợp nhiều thể loại
trong mỗi tiểu thuyết cũng dẫn đến tình trạng phì đại diễn ngôn, hiện thực – một
yếu tính của văn chương hậu hiện đại (4). Trong Hoang tâm, Nguyễn Đình Tú
đưa thơ, nhạc, truyền thuyết và cả bài văn của học sinh vào văn bản truyện. Ở Miền
hoang, Sương Nguyệt Minh dụng công sưu tầm những bản tin trên báo, những bài
thơ của đồng đội viết về chiến trường K. Mỗi chương của cuốn sách, nhà văn đều
dẫn một mẩu tin đã được báo chí đăng tải, có trích nguồn cụ thể, như một cách
làm sống lại lịch sử một thời, giúp người đọc nhập cuộc, sống cùng không khí
chiến trận. Nếu như đoạn nhạc: “Ta là con của bố mẹ ta, nhớ nhà là ta tút ra về.
Ta không cần ba lô không cần ô tô không cần chi mô, ta về thăm bố xong ta lại
lên. Trên con đường ta đi có nhiều gian nguy làm ta khiếp vía, ta đi theo lối
nhỏ là lối an toàn…” đã “tái chế” ca khúc Bước chân trên dãy Trường Sơn của
nhạc sĩ Vũ Trọng Hối trong Hoang tâm mang tinh thần giễu nhại tâm thế
của những người lính bị đẩy ra trận thì những bài hát trong Miền hoang lại
là liều thuốc an thần để tên Lục Thum quên đi nỗi đau khi bị cưa chân. Các bài
thơ của đồng đội Tùng không chỉ giúp những con người lạc rừng xích lại gần nhau
hơn mà còn phản ánh hiện thực đói khát, gian khổ, khốc liệt nơi hoang địa khô cằn.
Những thi phẩm ủy mị trong cuốn sổ nhật kí của tên lính ngụy cho thấy cách nhìn
nhận, đánh giá của Nguyễn Đình Tú về vai trò của văn học nghệ thuật đối với kẻ
tham chiến. Không ít lần nhân vật Anh nghĩ rằng những bài thơ mang tư tưởng mộng
rớt là nguyên nhân dẫn đến thất bại của chính quyền Mỹ ngụy. Ngược lại, quân ta
thắng trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại một phần là do sức mạnh được hun đúc từ
những bài thơ, bài hát cổ vũ tinh thần chiến đấu.
Sự chuyển biến của văn xuôi chiến tranh cũng hiện diện rõ
trong chất liệu – ngôn từ, nhất là dạng thức tục ngôn (5). Trong Sắc màu
chiến trận, Thu Trân đưa ra những cách diễn đạt rất “lính”: “nhớ nhà
nhớ quê bỏ mẹ”, “Mẹ kiếp, bảy thằng ngồi đây, khi về biết có còn phân nửa”,
“đàng nào cũng sắp về âm ti cả”,… Cách ăn nói có phần bổ bã, thậm chí tục tĩu
chính là liệu pháp hữu hiệu để con người đối chọi với thực tế khắc nghiệt, vượt
quá sức chịu đựng. Khẩu ngữ, trong trường hợp này, như sự giải tỏa, một lối
thoát của thực tại – một thực tại được nhận thức bởi ngôn ngữ chính thống với
tiếng đì đoàng của súng đạn, với những lời kêu gọi lý tưởng khuôn sáo khô khan,
giúp người lính can đảm đối diện với cái chết nơi chiến trường. Trong kiệt
tác Đường về, Remarque cũng để nhân vật của mình bày tỏ điều này: “Ở mặt
trận, nếu chúng tôi bị rơi vào tình huống tồi tệ làm chúng tôi quên tất cả những
thứ vô nghĩa các ông nhồi vào đầu chúng tôi, chúng tôi nghiến răng và nói “cứt”,
rồi sau đó mọi việc tiếp diễn như thường. Ông dường như không hề biết điều gì
đang xảy ra! Đến đây không phải là các cậu bé dũng cảm, không phải là các học
sinh thân yêu, đến đây là những người lính!” (6). Tạm không bàn về vấn đề tư tưởng,
cách xây dựng “sắc màu chiến trận” của Thu Trân trong phương diện ngôn ngữ, nếu
đối sánh với truyện ngắn của các tác giả trước cùng viết về chiến tranh, rõ
ràng đã có một bước tiến nhất định. Nó là đối cực với ngôn ngữ chính thống, hướng
đến một chân dung người lính, một màu sắc rất khác của chiến tranh.
Còn rất nhiều biểu hiện về sự cách tân bút pháp của văn xuôi
chiến tranh hôm nay không thể nói hết trong bài viết nhỏ này. Nhưng chừng đó
cũng cho thấy, khi lựa chọn đề tài, ngay từ đầu, nhà văn không thể đặt mình
xuôi theo quán tính cũ. Thường trực ở người viết là ý hướng, nỗ lực vượt thoát
để tạo dấu ấn, để khẳng định phong cách. Bằng sự dụng công, độc sáng trong
phương thức trần thuật, sáng tác của họ đã có những đóng góp đáng trân trọng cho
văn học hiện đại dân tộc.
3. Và chân trời mời gọi những đường bay
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng nó vẫn là một “siêu đề tài”
trong văn học hậu chiến. Viết về chiến tranh là một việc rất khó đối với các
tác giả đương đại, bởi chỉ cần một chút vụng về, đứa con tinh thần của họ sẽ đi
vào lối mòn của nhiều tác phẩm vang danh trước đó. Một sáng tác được xem là xuất
sắc về chiến tranh trong thời đại này phải cho thấy, dù một khía cạnh rất nhỏ,
sự viết lại lịch sử; ở đó có sự hòa kết đầy tính thẩm mỹ giữa diễn ngôn nghệ
thuật với diễn ngôn lịch sử, diễn ngôn chiến tranh và diễn ngôn văn hóa. Bằng
việc phục dựng chân thực chiến tranh-như-nó-vốn-là, văn xuôi hôm nay đã góp phần
để cho độc giả, nhất là những người trẻ tuổi, có những kiến văn, xúc cảm đáng
quý. Chuyện hôm qua đâu phải là một đi không trở lại; nó vẫn còn can dự trực tiếp,
dài sâu vào hiện tại, và cả tương lai. Ngoại vi hóa ý đồ khơi lại, khoét sâu vết
thương cũ, trong nỗ lực bạch hóa quá khứ, tác phẩm giúp bạn đọc nhận diện bản
thân và đất nước mình, để có hạnh phúc của người sống trong tình yêu thương, sự
tha thứ, bao dung. Những được mất của chiến tranh không ngừng được mổ xẻ, phân
tích, tra vấn. Nhà văn tự đứng về phía nỗi đau, mất mát của cá nhân, dân tộc để
có thêm nội lực khám phá chiến tranh ở mọi chiều kích mới mẻ của nó, góp phần
“nối sự linh thiêng vào cuộc đời này” (Nối linh thiêng – Bích Ngân). Chính
thái độ sòng phẳng mà đằm sâu nghĩa tình, trách nhiệm đó đã hợp sức khắc sửa
nhiều di hại mà cuộc chiến gây ra. Nỗ lực trong cuộc chạy tiếp sức của nhiều thế
hệ để mới hóa truyền thống, nâng tầm văn học, văn hóa, cùng với đó là vị thế
dân tộc của văn học chiến tranh là điều đáng trân trọng. Phải làm sao viết về
cuộc chiến, về quá khứ bi hùng mà câu chữ ngồn ngộn chất sống của hiện tại, có
sức nặng dự báo tương lai, khiến cuộc sống đáng sống hơn, người gần người hơn,
để tác phẩm ra đời trong sự chân thật, đầy xúc động… là những thách đố không hề
nhỏ đối với người người cầm bút hôm nay.
Những gì đã trình bày cũng xác tín rằng chiến tranh vẫn là đề
tài phong nhiêu, nhiều ám gợi đối với cả người sáng tác lẫn người thưởng thức
văn chương Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Đây là mảnh đất màu mỡ đang chờ
đợi bàn tay cày xới, bón chăm của nhà văn để cho đời những vụ mùa viên mãn. Viết
về cái đã qua để chữa lành nỗi đau quá khứ, để thấu cảm đất nước, dân tộc mình,
để có tâm thế an yên, minh triết của người đi về phía trước… đó là kỳ vọng mới,
tích cực và nhân bản của văn xuôi chiến tranh mà những kết quả đã có cũng chỉ
là bề nổi của một hiện thực thẩm mỹ giàu hứa hẹn.
Chú thích:
(1) Xem: Hoàng Đăng Khoa (lược ghi), Viết, như là một
can dự vào lịch sử, Văn nghệ Quân đội, Số cuối tháng 12 – 2017, trang 3 – 10.
(2) Bích Thu, Văn xuôi năm 1998 – thực trạng và vấn
đề, Tạp chí Văn học, Số 1 – 1999 (59 – 64), trang 61.
(3) Xem: Bùi Thanh Truyền, Yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôi đương đại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học – Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội, 2014.
(4) Xem: Lê Huy Bắc, Văn học hậu hiện đại lý thuyết
và tiếp nhận, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2017.
(5) Xem Bùi Thanh Truyền – Lâm Hoàng Phúc, Tục ngôn
trong truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn ký hiệu học văn hóa, Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế “Ngôn ngữ học Việt Nam – những chặng đường phát triển và hội
nhập quốc tế”, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng, Tháng 12 – 2018.
(6) Erich Maria Remarque, Đường về, NXB Văn học,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, trang 128.
28/2/2020 Bùi Thanh Truyền
28/2/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét