Tiểu luận của Hoài Nam:
Nhà văn, cái đọc và cái viết
Đọc và viết, hiển nhiên đó là hai hoạt động khác nhau. Theo
cách hiểu thông thường, đối với một người sáng tác văn chương (người viết) bất
kỳ, đọc nằm ở quá trình “nạp”, còn viết là “xả”, là “trút” cái sự ngấm từ việc
đọc của người viết vào một sáng tạo ngôn từ mới mẻ. Điều đó cũng có nghĩa là, đối
với người viết, đọc và viết tuy khác nhau song lại rất gần nhau.
Sự đọc cần cho tất cả những ai yêu chuộng tri thức, yêu chuộng
một đời sống tinh thần phong phú; riêng với người viết, đọc trở thành một điều
kiện mang tính cốt tử nếu người viết thực sự muốn sống chết với nghề viết, thực
sự muốn tạo lập những giá trị văn chương có thể không bị bụi thời gian che phủ;
nói cách khác, phải đọc, nếu người viết muốn hiện diện với tư cách một người viết
chuyên nghiệp.Nhà phê bình Hoài NamKhông có gì khó hiểu khi người viết chuyên nghiệp bị điều kiện
hóa bởi việc đọc. Hãy thử chứng minh điều đó bằng những giả định. Trước hết, nếu
không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ chỉ có thể viết bằng chút ít tài năng trời
cho và bằng những kinh nghiệm đời sống hết sức hữu hạn của riêng mình, chứ
không phải bằng bề dày của cái vốn liếng văn hóa về văn học. Như thực tế cho thấy,
cái vốn liếng văn hóa về văn học này chính là nguồn “nhiên liệu” giúp cho một
người viết đi bền, đi xa trên con đường văn chương thiên lý.
Thứ hai, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể
biết được ở cái thế giới văn chương ngoài mình, người ta đã và đang viết như thế
nào, làm được những gì, tiến đến đâu. Và do vậy, rất dễ xảy ra một bi hài kịch
là người viết sẽ tự thỏa mãn với việc mở những cánh cửa đã được mở rồi, đi trên
những con đường đã trở thành những lối mòn, để rồi đến lúc phát hiện ra sự thực,
anh ta sẽ phải sống trong tâm trạng vỡ mộng đầy chán nản.
Thứ ba, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể
có niềm hạnh phúc đặc thù đối với một người viết là được gợi ý, được kích thích
tiềm năng sáng tạo trong chính mình từ những sáng tạo của người khác.
Tuy vậy, cũng không hiếm người quan niệm (thường là ngấm ngầm
chứ rất ít khi công khai) rằng người viết thì chỉ nên đọc một cách… vừa phải
thôi, nếu không, chưa biết chừng lợi bất cập hại. Họ giải thích: đọc thì có ích
thật đấy, nhưng nó sẽ khiến cho phần “nhân vi” nơi người sáng tạo dày lên và
làm mỏng đi cái phần “tự nhiên” tươi tắn, trinh nguyên, rốt cuộc là cái được
không bù đủ cái mất.
Một lý do khác cũng thường được dùng như cột đỡ cho quan niệm
này, là việc đọc nhiều, trong nhiều trường hợp, sẽ khiến người viết dễ bị “ngợp”,
và sợ, và rồi không dám viết nữa. Vì nhìn chân trời nào cũng thấy có người bay
(và có không ít những người bay khổng lồ), nhìn con đường nào cũng thấy chi chít
những vết chân (và có không ít những vết chân như tạc vào đá). Kiến bò miệng
chén, có loay hoay mãi cũng sẽ chẳng đi đến đâu, đến nước như vậy cũng là do sự
đọc mà ra.
Về quan niệm này, xin được bình luận một cách ngắn gọn: đó là
con đẻ của một thứ chủ nghĩa mà tôi tạm gọi là “sáng tạo trong sự vô minh”. Hậu
quả của chủ nghĩa “sáng tạo trong sự vô minh” này, là đến một ngày đẹp trời (hoặc
xấu trời) nào đó, khi nhận ra sự thực, người viết sẽ phải sống trong một tâm trạng
vỡ mộng đầy chán nản (vì anh ta biết mình là người thứ n ví người đẹp với bông
hoa).
Nói chung, với những người viết có tài năng, có bản lĩnh, việc
đọc chẳng bao giờ là thừa. Càng đọc nhiều càng tốt. Bằng cái đọc, anh ta sẽ biết
được trong thế giới văn chương tự cổ chí kim có biết bao tượng đài, anh ta sẽ
biết được kích thước thực sự của những tượng đài ấy. Biết để kính trọng, chứ
không phải biết để khiếp sợ. Biết để nuôi trong mình niềm khát khao vươn tới trở
thành một tượng đài mới, chứ không phải biết để trở thành bản dập của một tượng
đài đã có hoặc để bị tượng đài đó làm cho nghẹt thở.
Một ví dụ cho chuyện này: khi mới bước chân vào sáng tác văn
chương, Victo Hugo tuyên bố rất hùng hồn: “Là Chateubriand, hoặc không là gì cả”.
Dĩ nhiên là phải đọc Chateubriand thì Hugo mới nói như vậy. Nhưng sau rốt, như
thực tế lịch sử văn chương lãng mạn Pháp cho thấy, Hugo đã vượt qua thần tượng
thuở thiếu thời của mình một khoảng rất xa.
Liên quan tới câu chuyện về cái đọc đối với người sáng tác
văn chương (người viết), xin được nhắc qua một chút tới những nghiên cứu của
hai tác giả Ngô Tự Lập (“Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích”, “Văn học
như là quá trình dụng điển” – trong sách “Minh triết của giới hạn”, NXB Hội Nhà
văn, 2005) và Nguyễn Thị Từ Huy (sách “Alain Robbe Grillet: Sự thật và diễn giải”,
NXB Hội Nhà văn và Đại Việt Books, 2009).
Ngô Tự Lập quan niệm điển tích bao gồm cả điển tích văn
chương và điển tích đời sống, và sáng tác văn chương (viết) chính là quá trình
mà người viết buộc phải dụng điển, hoặc cái này hoặc cái kia hoặc cả hai. Quan
niệm về điển tích như vậy dường như hơi rộng (chữ “điển” tự thân nó đã mang một
nghĩa hết sức cụ thể: sách vở). Nhưng ít nhất, ở khía cạnh điển tích văn
chương, nó khẳng định một sự thực rằng đã là người viết thì phải đọc, như một bắt
buộc.
Trong văn học trung đại (Trung Quốc và Việt Nam) chúng ta thấy
rất rõ điều này. Truyền thống của văn học trung đại khiến cho một người viết sẽ
trở nên rất “nhẹ đồng cân” nếu anh ta không dụng điển khi viết, nói cách khác,
nếu trong cái viết của anh ta không phản ánh cái đọc. Vấn đề ở đây không đơn giản
chỉ là sự “khoe” kiến văn văn chương của người viết, mà còn là, và chủ yếu là
việc dụng điển sẽ tạo ra một tác động thẩm mỹ đặc thù trên người đọc. Đọc một
văn bản, qua những điển tích được người viết sử dụng, người đọc sẽ được sống
trong một mạng lưới những dẫn chiếu rất phong phú tới những văn bản khác (lý luận
hiện đại gọi đó là liên văn bản). Anh ta tự tìm lấy những sắc thái nghĩa của điển
tích (cũ) trong khuôn khổ của văn bản (mới) và anh ta sẽ được hưởng khoái thú của
việc hiểu và trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Điều đó cũng lặp lại trong
văn học hiện đại.
“Những người không đọc văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc
không thể cảm nhận hết cái hay của thứ văn được Nguyễn Huy Thiệp khai quật và
phả vào một tinh thần mới trong “Vàng lửa” hay “Kiếm sắc”. Thậm chí nhiều tên
nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp cũng chứa đựng những ám chỉ mà khó một dịch giả
nào có thể chuyển tải trọn vẹn đến cho những người đọc không được chuẩn bị”
(Ngô Tự Lập, Sđd, trang 70, 71). Nhưng trước khi người đọc tự trang bị cho mình
để tiếp cận với văn bản, thì hiển nhiên là người viết phải đọc, phải ngấm đến
cùng các giá trị của văn chương quá khứ cái đã!
Trong nghiên cứu về Alain Robbe Grillet – ông trùm của Tiểu
thuyết Mới, một quái kiệt của văn chương phương Tây hiện đại – Nguyễn Thị Từ
Huy không nói đến khái niệm “điển tích”, mà nói tới khái niệm “tái diễn”, “tái
lặp”. Tôi muốn đơn giản hóa vấn đề bằng cách nói rằng trên một phương diện nào
đó, những khái niệm này có sự giao thoa nhất định.
Và đây là một dẫn chứng: “Chẳng hạn, bối cảnh của “Tái diễn”
(tên một tác phẩm của Robbe Grillet) không được xác định bằng giai đoạn lịch sử
lúc cuốn sách được viết ra – cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI – cũng không phải
là giai đoạn lịch sử lúc câu chuyện diễn ra: tháng 11 năm 1949. Nhờ những dấu
hiệu cụ thể, có thể nói bối cảnh của nó trên thực tế được tạo thành bởi “Tái diễn”
của Kierkegaard, “Oedipe làm vua” của Sophocle, “Câu cầu” của Kafka, bởi các
tác phẩm trước đó của Robbe Grillet, đặc biệt là “Những chiếc tẩy” và bộ ba tác
phẩm có tính tự thuật” (Sđd, trang 373).
Nhà nghiên cứu lý giải điều đó: “Trong quan niệm của Robbe
Grillet, đó luôn là cùng một câu chuyện, được viết bởi nhiều tác giả khác nhau,
qua nhiều thời kỳ khác nhau, và mỗi phiên bản xuất hiện như một cái gì đó mới mẻ.
Viết tạo ra một không gian chung nơi cùng tồn tại nhiều cấp độ của quá khứ: quá
khứ so với hiện tại, quá khứ gần hơn so với quá khứ xa hơn, và điều đó tiếp tục
cho tới khi xoá bỏ cả thời gian tính lẫn lịch sử tính” (Sđd, trang 374).
Quan niệm này, như nó thể hiện qua thực tế sáng tác, cùng nhiều
quan niệm gây bất ngờ khác của Alain Robbe Grillet đã góp phần mang lại hào
quang cho tên tuổi của ông. Nhưng trong câu chuyện cái đọc với người viết mà
chúng ta đang bàn ở đây, quan niệm này liệu có thể đi đến đâu, có giá hay không
nếu nhà văn tiên phong của Tiểu thuyết Mới không “nạp” một khối lượng tri thức
đồ sộ nhờ việc đọc? Hỏi, cũng tức là đã trả lời.
Chẳng ai có thể làm được, sáng tạo được một cái gì đó mới mẻ
từ một ký ức trống rỗng. Cái đọc và cái viết đối với một người viết cũng liên
quan với nhau theo cách thức như vậy. Hồi ký hay tự thuật của các nhà văn lớn ở
Việt Nam và trên thế giới đều cho thấy họ sở hữu các thư viện lèn chặt sách và
họ đã “ngốn” sách vở các loại khủng khiếp đến thế nào. Phần nào đó, họ đã trở
thành “lớn” là vì thế. Liệu người ta có thể trở thành nhà văn lớn bằng những
con đường nào khác chăng?.
16/8/2022 Hoài Nam
16/8/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét