Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

Tím một đời sim

Tím một đời sim

An ngồi trong quán cà phê với thầy Lê và một người bạn của thầy, hai người vừa từ Thanh Hóa vào. An rất vui và bồi hồi xúc động khi lần đầu tiên được diện kiến nhà thơ mà từ lâu anh hằng ngưỡng mộ. Tuy vậy ba người ít nói chuyện mà trầm tư nhìn ra đường.
An được theo học thầy Lê từ cuối năm ngoái, khi thầy mới từ Vinh chuyển vào Sài Gòn dạy môn Ngữ văn hiện đại. Còn nhà thơ theo thầy Lê vào Nam lần này thì quá nổi tiếng, cuộc đời và thơ ông đã làm tốn không ít giấy mực. An đã ra tận bến xe đón rồi đưa hai người vào quán cà phê này để thư giãn sau chuyến đi dài. Thầy Lê và nhà thơ vừa đồng hao vừa đồng hương, họ biết nhau từ nhỏ. An trong bụng rất muốn nghe hai người nói chuyện, dẫu chuyện bình thường thôi nhưng biết đâu anh sẽ viết được cái gì đó, nhưng anh không dám gợi, chỉ nhấm nháp cà-phê và lướt qua vài tờ báo. Thôi để từ từ, sinh viên mới ra trường, tập tành viết lách như mình mà được ngồi với hai thầy đây là hạnh phúc lắm rồi.
Nhà văn Phan Đức Nam
Chiều Sài Gòn sau cơn mưa trở nên sạch sẽ mát mẻ, lá cây rụng đầy trên vỉa hè, người và xe cộ không còn hối hả mà êm đềm qua lại, cuộc sống bình yên như không hề có cuộc binh biến lớn tháng tư năm bảy lăm chỉ cách đây hơn một năm.
… Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt! Vào chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi!…
Không những An mà nhiều người trong quán cà-phê đều giật mình nhìn ra. Ai hát hay vậy? Chơi đàn cũng hay… – An thầm hỏi rồi quay người hướng ra phía cửa. Giữa hai bàn đầu của quán cà-phê góc phố là một người đàn ông trên dưới ba mươi tuổi, dáng gầy gò khắc khổ, chiếc nón vải cũ rộng vành ướt sũng ôm sát mái tóc dài, những lọn tóc quăn quăn đọng bết nước mưa từ từ lan chảy xuống đôi má hóp. Anh ta đeo cặp kính đen to tròng quá khổ như muốn che bớt những vết nám trên gương mặt dãi dầu sương gió. Bước đi dò dẫm chầm chậm cho biết đó là một người khiếm thị. Những giọt mưa chạy viền quanh gọng kính lan xuống hai bên sóng mũi như nước mắt. Người mù này đang hát hay đang khóc? An tự hỏi vậy, lòng chợt xót xa.
Ừ trời cũng đang sụt sùi kìa, vẫn còn mưa lai rai, những giọt mưa từ mái tranh trang trí  kiểu vườn quê của quán cà-phê góc phố này nhỏ xuống chầm chậm long lanh như lệ.
Ấy là An nghĩ thế, thi vị thế, bởi tiếng hát của người hành khất quá buồn, trong chiều mưa lưa thưa càng thêm buồn da diết. Giọng nam mạnh và trầm của người hành khất luyến láy có nghề, pha chút khàn tháng năm cay đắng. An chú ý lắng nghe và thưởng thức giọng hát lạ qua điệu Boléro Rumba buồn buồn nhịp nhàng. Người đang thể hiện bài này hay ở chỗ hát điệu buồn mà không rên rỉ sến nhão, chỉ âm ỉ gờn gợn đau. Anh ta chắc đã từng nếm, từng trải qua nỗi buồn lớn, đồng cảm với tác giả và cất lên lời ca.
Nghệ sĩ mù dường như quên hết chung quanh, thực ra anh ta cũng không thấy, cứ ngửa mặt lên trần mà hát, hát từ trái tim, say sưa chìm đắm trong lời ca, kể về một chuyện tình đẹp bi thương thời chiến tranh. Sao trong tiếng hát có gì đó nghèn nghẹn nức nở. Sao chuyện buồn ngày xưa đến nay vẫn còn đau?
… Phút cuối không nghe được em nói, không được nhìn một lần, dù một lần đơn sơ. Để không chết người trai khói lửa, mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì…
Tím cả chiều hoang! Ôi tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ nàng. Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới thoáng buồn trên nét mi. Khói buốt bên hương tàn nghi ngút, trên mộ đầy cỏ vàng, mà đường về thênh thang!…
Khúc ca bi thương đang vút cao chợt nấc nghẹn, tiếp theo là một cơn ho.
Như quá xúc động, thêm xót xa thân phận, người nghệ sĩ mù gục đầu như muốn giấu đi những giọt nước mắt. Những nốt nhạc cũng nghẹn. Quán dường như lặng im.
Có tiếng vỗ tay, rồi nhiều tiếng vỗ tay. “Hát tiếp đi…”. “Hát nữa đi. Hát bài nào cũng được!…”
Người nghệ sĩ ngước lên, ngơ ngẩn gật đầu… Anh ta gỡ nón lau mặt, rồi rờ rẫm đặt ngửa nón lên một góc bàn gần đó. Lập tức có những bàn tay nhẹ nhàng đặt tiền vào miệng nón. Người hành khất không thấy nhưng vẫn cúi đầu như vừa xin vừa cảm ơn. Sau đó anh ta ôm đàn đi lần về phía cuối quán chỗ An đang ngồi.
Giờ An mới thấy rõ và càng thêm thương cảm. Người ấy không những mù mà còn cụt mất bàn tay phải. Thật kinh ngạc và đáng phục, thì ra nãy giờ anh ta chơi đàn chủ yếu bằng năm ngón tay trái. Những đầu ngón tay ấy to bè và chai sần bởi thường xuyên bấm mạnh lướt miết trên những dây đàn. An từng chơi ghitar nên biết đây là sự khổ luyện kỳ công, để đánh được tiếng đàn như thế phải bao lần ngón tay rướm máu. Thảo nào An nghe âm vang tiếng đàn ấm ức.
Và nữa, cùi tay phải của nghệ sĩ hành khất được quấn băng vải để vỗ thùng đàn cho êm, thay cho tiếng trống. Cùi tay ấy thò ra một ngón cái giả được vót bằng tre gỗ để khẩy dây đàn, quanh cổ tay ấy đeo hai vòng lục lạc chập cheng, xập xèng réo rắt, tung tẩy theo nhịp vỗ và ngẫu hứng. Tiếng hát lạ với dàn nhạc đơn sơ tự chế hoà hợp một cách điệu nghệ. An gật gù: Quả sáng tạo và nghệ sĩ. Nếu được đàn tốt anh ta sẽ chơi hay hơn.
Cây đàn ghitar có dây đeo quàng trước ngực của nghệ sĩ hành khất đã quá cũ và ọp ẹp, gặp người khác chắc họ bỏ. An nhìn qua biết đó là cây đàn hay của một thời. Bộ khoá dây cũ còn chắc nhưng cần đàn và nhiều phím đã mòn nhẵn. Phía sau lưng đàn An không thấy, nhưng trước ngực đàn và bên hông có vài chỗ nứt bể, đã được băng dán cẩn thận. Lớp verni nâu ố bong tróc loang lỗ được quét lại bằng sơn đen. Cây đàn bị thương ấy giống như người chủ của nó, gắng gượng nương tựa nhau, lang thang mưa nắng kiếm cơm bằng âm thanh tiếng hát giúp vui cho người.
Nghệ sĩ hành khất tiếp tục chơi đàn và hát. An thuộc bài Mầu Tím Hoa Sim của Dzũng Chinh phổ thơ Hữu Loan nên biết anh ta hát có đôi chỗ lộn xộn, sai ca từ nhưng nghe vẫn hay, chủ yếu nhờ hồn thơ và chất giọng nghệ sĩ.
An liếc nhìn nhà thơ, những ngón tay ông run run, râu tóc bạc cũng run run, râu phất phơ tóc bồng bềnh, bay bay theo chiều quạt gió, trông như vị tiên phong đạo cốt, như lão tiều trên núi cao. Nhà thơ thở dài rồi ngước mặt lên trời.
An chần chừ chưa kịp nói thì thầy Lê đã nắm tay nhà thơ, rồi đứng lên vỗ vai người hành khất: “Cậu hát hay lắm! Đề nghị cậu hát lại cho chúng tôi nghe bài hát vừa rồi. Cậu có biết bài hát đó phổ thơ của ai không?…”
Người hành khất lắc đầu: “Dạ… Tui hổng biết…”
Thầy Lê cười: “Thơ của bác đang ngồi đây đấy, là nhà thơ Hữu Loan. Cậu phải chia nhuận bút đấy nhé?”
Người hành khất thốt lên: “Vậy sao?…” rồi cúi sát đầu, gần như sụp xuống, khum tay lạy lạy. Anh ta không thấy nên cứ vừa lạy vừa quay qua quay lại trông rất tội nghiệp.
Nhà thơ rơm rớm nước mắt, quay qua bảo An: “Anh mời cậu ấy uống cà-phê…”
Người hành khất vẫn cúi đầu khum hai tay: “Dạ… cám ơn bác… Con hổng dám…”
Thầy Lê vỗ vai anh ta: “Lúc nãy đùa cậu vậy thôi. Không dễ gì được bác đây mời đấy nhé. Cậu uống cà-phê, rồi hát lại bài Mầu Tím Hoa Sim cho chúng tôi nghe.”
Người hành khất “dạ” nhỏ, chần chừ một chút rồi nói: “Thôi vậy bác cho con ly trà đá… uống cho mát giọng…”
An đứng lên gọi ly trà đá chanh đường, định tiến lại phía bàn có chiếc nón của người hành khất thì thầy Lê níu lại, gửi thêm hai chục. An mừng mừng khi thấy trong nón chứa khá tiền.
Người hành khất uống một hơi nửa ly nước, lúc này mới bình tĩnh thổ lộ: “Bác nhà thơ ơi! Bữa nay con thiệt may mắn! Thiệt vinh hạnh!… Con rất thích bài Mầu Tím Hoa Sim, hợp với tâm sự và chất giọng con… Mà bác ơi! Hễ con hát bài này là có nhiều người cho tiền. Con cám ơn bác nhiều lắm!… Dà… Còn mấy bài hát phổ thơ Hoa Sim của bác nữa, cũng hay lắm! Con xin hát phục vụ bác…”.
Nhà thơ gật đầu, đăm đăm đôi mắt đỏ nhìn người hành khất, rồi hỏi: “Gia đình vợ con cậu ra sao?”
Người hành khất sa sầm nét mặt: “Thôi… buồn lắm bác ơi!…” – “Sao mà buồn?…” – Nhà thơ hỏi. Người hành khất lắc đầu, rồi cúi xuống búng đàn, trống đệm và chập cheng lại nhịp nhàng réo rắt.
… Tôi về không gặp nàng, mà ngồi bên mộ vàng, chiếc bình hoa ngày cưới, đã thành chiếc bình hương… Nhớ xưa em hiền hòa, áo anh em viền tà, nhớ người yêu màu tím, nhớ người yêu màu sim…
Giờ phút lìa đời, chẳng được thấy mặt người, chẳng được nói một lời(*)
Hát đến đây, nghệ sĩ lại nấc nghẹn, ôm ngực lắc đầu, định hát tiếp nhưng cơn nấc cuộn lên nhiều hơn, vừa nấc vừa ho rũ rượi.
Chắc anh ta bệnh? – An nghĩ rồi ái ngại nhìn người nghệ sĩ cúi đầu ôm ngực, lắc lắc đầu tóc bù xù, giơ tay muốn nói gì đó nhưng lại thôi. Anh ta cúi đầu lạy một lần nữa rồi vịn bàn lùi dần ra ngoài.
Một phụ nữ sang trọng nhanh nhẹn túm miệng nón đựng tiền của người hành khất, dúi vào tay anh ta rồi dìu ra cửa.
Từ khi gặp người nghệ sĩ hành khất trong quán cà-phê góc phố, phải đến mươi ngày sau, một chiều, An leo lên gác xép tìm cuốn tự điển thì nghe tiếng lạch cạch sau kệ sách, lúc đó anh mới chợt nhớ mình có cây đàn treo ở phía sau.
An nhìn cây đàn thời sinh viên của mình, rồi nhớ tới cây đàn bị thương của người nghệ sĩ nghèo tội nghiệp. Anh bần thần suy nghĩ, trách mình sao hôm đó không hỏi thăm người hành khất để giờ có thể tặng anh ta cây đàn bỏ quên này. Chán thật! Lúc đó mình đã nghĩ nếu có đàn tốt anh ta sẽ chơi hay hơn. Vậy mà không nghĩ tiếp rằng mình đang có cây đàn để không.
Sau đó, một thời gian dài, có dịp là An để tâm tìm và nuôi hy vọng dù không còn nôn nóng nữa. Anh nghĩ thôi thì có duyên trước sau gì cũng gặp, hết duyên đành chịu chứ sao. Mình cứ giữ cây đàn, có khi không tìm mà lại gặp. Giờ bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm? Có thể anh ta đã chuyển sang khu vực khác, không hành khất nữa, hoặc có đau bệnh gì không?…
Nghĩ đến đó An thấy lo lo, áy náy… chỉ mong gặp lại anh ta một lần nữa để giải tỏa những khúc mắc. An cảm thấy mình như mang một món nợ tinh thần chưa trả, đây là món nợ tình cảm riêng tư tự anh buộc vào, mà đã tự buộc vào thì khó gỡ.
Lúc quên thì thôi, khi nhìn thấy cây đàn hay người hành khất nào đó, An lại nhớ đến người nghệ sĩ đáng thương, rồi suy nghĩ vẩn vơ: Không phải trách nhiệm, cũng không phải bắt buộc… Mình không muốn ban ơn hay làm phước, chỉ muốn gặp lại anh ta để hỏi thăm vài câu… Thấy người ta như thế, cây đàn mình để không, sao không tặng anh ta để đàn hát hay hơn, đời vui hơn và anh ta cũng vui hơn…
Mà lạ! Trên đời này có bao người khốn khổ, có khi còn khốn khổ đáng thương hơn. Sao mình cứ để tâm vương vấn mãi về anh ta? Ừ… cảm tính đó mà! Chẳng qua mình có duyên gặp, thấy sao mà tội! Rồi thấy phục vì tính nhẫn nại, khổ luyện, thấy hợp gu văn nghệ vậy thôi…
Mình mà lâm vào hoàn cảnh như anh ta chắc không sống nổi!
Sau giải phóng 1975, những sinh viên miền Nam mới ra trường còn trụ lại như An, sau thời gian học tập đường lối cách mạng mới, được phân bổ đi những vùng sâu vùng xa để phục vụ, thử thách tư tưởng và nghị lực.
An đang chờ phân bổ thì năm bảy tám, mặt trận biên giới Tây Nam nổ ra dữ dội. Thanh niên lớp vào bộ đội, lớp đi Thanh niên xung phong. An học Mỹ Thuật, trước đây ăn trắng mặc trơn, chỉ biết cầm bút và cọ vẽ, giờ mới biết thế nào là lao động, là cây leng cây thuổng.
Sau nửa năm đào kinh thủy lợi ở Nông trường Dương Minh Châu, Tổng đội Thanh niên xung phong của An được điều sang Campuchia cầm súng cùng bộ đội chống nạn Pôn Pốt. Đối diện với bom đạn, máu lửa, chết chóc, An đã thực sự nếm mùi vị chiến tranh.
Những đêm đào hầm trên đồi Kim Cương giáp biên giới Thái Lan và Campuchia, thỉnh thoảng An và đồng đội thấy lóe lên những hạt sáng lấp lánh trong đống cát đá. Nghe nói thương nhân Hoa kiều và Thái Lan tranh mua những hạt sáng này. Có phải vì những hạt lóng lánh đó đã làm sáng rỡ những đôi mắt đục, làm cháy đỏ những tham vọng? Dẫn đến mưu mô tranh đoạt vùng đất này.
An cứ suy nghĩ vẩn vơ khi ôm súng thao thức trong chiến hào, khi cáng thương đồng đội. An rùng mình trước bao thương vong. Kẻ địch điên cuồng hung hãn như con thú bị thương khi rút chạy. Những xác địch trẻ măng không toàn thây. Thần chiến tranh mỉm cười như ác quỉ ẩn hiện sau những gương mặt thâm hiểm đầy tham vọng.
Thời gian này, trên Tổng đội Thanh niên xung phong cần thêm một họa sĩ trình bày cho tờ Tuyến Đầu. An tốt nghiệp mỹ thuật, có máu văn nghệ nên được rút về phụ trách làm bìa và minh họa. Từ đó hành trình làm báo của An trải qua nhiều tòa soạn, đi đâu anh vẫn giữ liên lạc với thầy Lê, thỉnh thoảng hỏi thăm sức khỏe nhà thơ Hữu Loan.
Thời gian vùn vụt trôi. Thầy Lê đã về hưu nhưng ông vẫn được mời dạy hợp đồng ở Đại học Thủ Dầu Một. Khi An lập gia đình, thầy Lê rủ An về Bình Dương đi Chùa Bà và thăm nhà ông, rồi duyên văn nghệ đã gắn An với vùng đất này.
Với bao lo toan và công việc bận rộn, An dường như đã quên bẵng đi người hành khất năm nào. Thì bỗng một hôm thầy Lê đến tìm An, nói: “Hôm qua nhà thơ Hữu Loan gọi điện cho tôi, báo tin vui là ông vừa được một công ty gì đó mua bản quyền bài thơ Màu Tím Hoa Sim đến những trăm triệu, trừ thuế đi còn 90 triệu, ông chia cho vợ con, giữ lại 30 triệu để in thơ, thăm thú bạn bè. Anh Loan có nhờ tôi và anh tìm hộ người hành khất mà mình gặp ở quán cà-phê cách đây 30 năm. Anh còn nhớ không?” – “Dạ nhớ ạ…” – “Anh Loan nói với tôi là lúc đó ông không có tiền để tặng người hành khất tội nghiệp đó. Giờ mới có tiền, ông gửi tôi một triệu, nhờ tôi và anh tìm hộ anh ta để giúp số tiền nhỏ này.”
An ngẩn ra! Ôi tình nghệ sĩ đồng cảm, cao hơn nữa là tình người.
Thời gian đã lâu rồi, nhiều lúc An đã quên, nhưng nhà thơ thì vẫn nhớ.
Thầy Lê nói tiếp: “Vậy đấy! Thế là tôi… – ông mỉm cười – và anh nữa, tự nhiên vương vào món nợ tình nghĩa mà ông Loan nhờ giúp. Tôi không nhận không được. Ông ấy viết thư và gửi cả tiền.”
Nhân việc này, An mới nói với thầy Lê về ý định tặng người hành khất cây đàn cũ của mình. Thầy Lê lắng nghe rồi gật gù. An nói tiếp: “Thầy ơi, sau đó con có để ý tìm anh ta nhưng không gặp. Giờ đã lâu quá rồi, không biết anh ta lưu lạc nơi đâu? Có còn sống không?… Theo con thì khi nào thầy có dịp về quê, thầy nói chuyện với bác Hữu Loan rồi gửi lại số tiền đó. Một mặt thầy trò mình vẫn để ý tìm, khi gặp sẽ tính sau. Con hiểu lòng bác Hữu Loan, bằng cách nào đó bác ấy muốn chia sẻ, bày tỏ tấm lòng của mình đối với người nghệ sĩ đáng thương, nếu không thì bác ấy sẽ áy náy. Như con vậy, dù cây đàn cũ mất rồi, nhưng con nghĩ nếu may mà gặp lại được người hành khất đó, con sẽ mua cây đàn mới tặng anh ta.”
Thầy Lê lắng nghe rồi thở dài: “Hy vọng gặp lại rất mong manh…”
Thế là sau 30 năm, chuyện cũ được hâm nóng, có dịp về Sài Gòn là An lại lân la vào những quán cà-phê.
Nhưng sau đó vài năm, cho đến khi nhà thơ mất thì An vẫn chưa gặp được người hành khất cũ.
Có lẽ từ bao mong muốn, từ tấm lòng của nhà thơ, từ kết quả nhiều năm ấu trùng ve nằm sâu trong đất, đến ngày đến giờ nó tự chui lên, mọc cánh và rung tiếng ca. Một chiều An vào Câu lạc bộ Nghệ sĩ thì gặp Minh là bạn thời Thanh niên xung phong. Vợ Minh bán căn-tin ở Câu lạc bộ này. Minh níu lấy An: “Gặp anh tôi mới nhớ. Này, cái ông hành khất mà lâu rồi anh nhờ vợ tôi tìm đấy, anh đã gặp chưa?” An giật mình: “Chưa… Sao anh?…” – “Ông ấy mới bị xe tông cách đây nửa tháng.” An run run: “Anh nói sao? Ông ấy có bị nặng lắm không?” – “Nặng chứ. Ổng giơ tay qua đường, chắc là muốn vào quán tôi… thì bị hai thằng nhóc chạy ẩu tông phải, ngất xỉu tại chỗ. Tội lắm!”
An thẫn thờ! Sao số phận khắc nghiệt lại đẩy con người khốn khổ đó đến như thế?
Minh kể tiếp: “Lúc đó tôi đang phụ bà xã, vội chạy ra cùng mấy người khách giữ hai thằng nhóc lại, sau đó ôm chở ông ta tới Bệnh viện Bình Dân.”
Chuyện cũ bất ngờ trở lại, An vội bám lấy, hỏi Minh: “Ông ta còn nằm ở Bệnh viện Bình Dân không anh?” – “Chuyển về Bình Dương rồi. Bộ anh có quen biết, hay bà con gì với ông ấy hở?” An lắc đầu, ngơ ngẩn: … Về Bình Dương… nơi mình và thầy Lê đang làm việc… Thật không ngờ!…
An hỏi tới: “Anh kể tiếp đi? Giúp tôi. Tôi đang cần gặp ông ấy.” Minh gật: “Tôi và một người khách chở ông ấy đến bệnh viện bằng xe honda. Y tá hỏi tên nạn nhân, tôi đâu có biết. Chà! Cũng hơi rắc rối! May công an đã giữ hai thằng nhóc, chứ không họ lại nghi tôi… Sáng hôm sau tôi lại vào thăm, cũng để đưa ổng số tiền mà những khách quen gom góp, thì thấy ổng đã tỉnh, chân phải bó bột tới tận hông. Tôi mới hỏi thăm được vài câu thì có hai anh bộ đội tới, họ vừa làm xong thủ tục xin chuyển ông ta về bệnh viện Bình Dương. Tôi hỏi thì một anh bộ đội nói là anh ổng đang chờ ngoài xe.”
An chú ý lắng nghe. Minh vỗ vai An: “Ổng tạm ổn rồi. Tôi có theo ra, thấy một ông mặc áo bộ đội bạc màu ngồi ở băng trước xe cứu thương, cạnh tài xế – chắc là ông anh. Ổng giơ tay chào tôi. Lúc đó cửa bệnh viện đông người lắm, bảo vệ hối, sợ kẹt xe, tôi chỉ kịp nói với ông em bị nạn: Chúc anh mau mạnh khỏe.”
An lắc lắc tay Minh: “Cảm ơn anh nhiều lắm!”
Trên đường phóng xe đến Bệnh viện Bình Dân, An suy tính: Mình nhờ tra hộ danh sách bệnh nhân nhập viện cấp cứu cách đây nửa tháng… Không biết tên, nhưng trường hợp đặc biệt này chắc họ nhớ… Cần biết thêm tên ông anh, địa chỉ… hay người đứng tên xin chuyển viện… Hy vọng sẽ tìm ra.
Khi cửa đã mở thì gió hanh thông, mọi việc sau đó suôn sẻ đến không ngờ. Khi An đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương, hỏi tên bệnh nhân Nguyễn Văn Lâm bị tai nạn gãy chân chuyển từ TP. Hồ Chí Minh về cách đây nửa tháng, thì y tá trực chỉ ngay đến Khoa Chấn thương chỉnh hình khu B.
An gặp cả hai anh em người hành khất năm nào.
Sau gần 40 năm, An vẫn nhận ra người nghệ sĩ đáng thương dù ông ta đã già ốm đi nhiều. An đứng lặng vì bất ngờ và cảm động nhìn hai anh em. Ông anh cao lớn hơn, đi đứng khệnh khạng bởi một chân gỗ giấu trong ống quần thụng, ông đang nhận thuốc và cháo cho em.
An nhẹ nhàng bước vào phòng rồi lặng lẽ nhìn người anh đang đút cháo cho em. Nạn nhân trên 60 tuổi rồi mà như một đứa trẻ con.
“Anh có quen em tôi?” – Ông anh quay ra và hỏi. An gật, chậm rãi nói: “Chắc em ông đã quên tôi. Anh ấy không thấy mà. Đã lâu lắm rồi, cách đây gần 40 năm, trong một quán cà-phê, em ông hát bài Mầu Tím Hoa Sim. Tác giả bài thơ đó có gửi tôi 1 triệu nhờ tặng em ông. Giờ tôi tìm được ông ấy nên mang lại.”
Người bị nạn hực lên rồi khóc nấc, khóc không nước mắt, bởi tuyến lệ đã hư hay khô kiệt từ lâu.
Ông anh vỗ về em một lúc. Sau đó kéo An ra cửa. Cả hai ngồi trên một băng ghế đá trong sân bệnh viện.
“Tội nghiệp Lâm. Tôi thương nó lắm! Nó muốn đỡ gánh nặng cho tôi đó”.
An gật đầu: “Tôi nhớ ngày xưa nhà thơ có hỏi về chuyện gia đình thì anh ấy nói buồn lắm! Anh có thể cho biết gia đình anh ấy ra sao?” – “Đúng là buồn lắm! Chuyện hơi dài, để tôi kể anh nghe, giờ chẳng còn gì phải giấu nữa. Tôi không phải là anh ruột của Lâm đâu.”
An giật mình! Ông anh gật đầu, chậm rãi kể: “Thiệt ra tôi họ Võ, tên Tuấn. Cha tôi theo cách mạng, các anh chị tôi lớn lên đều vô du kích, vô bộ đội. Cha tôi muốn trai út là tôi ở nhà lo việc thờ tự. Ông cho tôi làm con nuôi một người bạn thân là thầy giáo ở Sông Bé. Cha nuôi tôi làm giấy thế vì khai sanh, thay tên đổi họ Nguyễn cho tôi để qua mắt địch. Lúc đó tôi còn nhỏ, thời loạn làm giấy tờ đó cũng dễ, chỉ cần hai người chứng, cho tụi hành chánh tư pháp chỉ vàng là xong. Thành ra tôi với Lâm cùng họ, là anh em, hồi nhỏ đi học cùng nhau. Tôi lớn tuổi hơn, mạnh mẽ bảo vệ Lâm, còn nó có khiếu văn nghệ, từ hồi Trung học đã là trưởng ban nhạc của trường.
Cha tôi hy sinh, hai anh tôi cũng hy sinh. Tôi xin cha nuôi được vô bưng chiến đấu trả thù cho cha anh. Tôi bàn với cha nuôi, nói là tôi sợ bị bắt lính, lên Sài Gòn học rồi trốn đi đâu không biết. Tụi cảnh sát sẽ không tin. Khi tôi “mất tích”, chỉ lo Lâm sẽ không được hoãn dịch vì lý do con trai út còn lại trong gia đình. Cha nuôi tôi nói con cứ đi, để ba lo. Lâm đàn hát hay, cha nuôi tôi lo cho nó vô lính văn nghệ, gọi là tâm lý chiến. Vô được lính đó đỡ ra chiến trường. Cũng mất cả cây vàng đó anh.
Một lần về phép, Lâm đi Vũng Tàu đàn hát trong một ban nhạc, một cô gái miền Tây mê nó, cô ta bán bia, bán mực khô và hải sản ở bãi biển. Hai đứa có được đứa con trai 1 tuổi. Lúc đó tôi là biệt động thành Sài Gòn, năm Mậu Thân tôi bị thương mất một chân, bị địch bắt giam ở Chí Hòa. Tôi khai tên khác nhưng tụi điều tra chụp hình lăn tay… Cuối cùng lòi ra tôi là Nguyễn Văn Tú, con ông Nguyễn Văn Long dạy học ở Sông Bé. Chắc chắn chúng sẽ lần ra Lâm và nghi ngờ em tôi, dù nó đang là lính văn nghệ. Lâm rối trí nghe bạn chơi nước liều, rút kíp nổ tính phá bay ngón chân cái, thà tù còn hơn bị đày đi lao công đào binh. Không ngờ kíp nổ quá nhạy làm Lâm mù mắt và mất bàn tay phải.
Sau giải phóng, Lâm nói với tôi là nó rất mặc cảm. Tôi cứ sợ nó tự tử, nên đã nhiều lần an ủi khuyên nhủ nó: Suy cho cùng thì mày cũng là nạn nhân chiến tranh, cũng là dân mình. Dân mình, mình không thương thì ai thương?
Lâm im lặng, tôi nói tiếp: Mày thấy không? Sau này, kinh tế nước mình dần dần khá lên, nhà nước và xã hội vẫn xếp những người như mày vào diện thương tật mất lao động, hoàn cảnh khó khăn, cần sự giúp đỡ. Địa phương nào cũng có Nhà tình thương, Nhà nuôi dưỡng người khuyết tật, người già neo đơn cơ nhỡ. Ở đây, bà con lối xóm thương mày, rủ mày vô đội văn nghệ, đờn ca tài tử… Còn vợ chồng tao nữa đây nè, mày không cô đơn đâu. Tao cũng là thương binh, may còn mắt còn tay nên tao còn lao động được, thêm hưởng chế độ, tao dư sức nuôi vợ con, nuôi mày. Tao chỉ cần mày bỏ đi những mặc cảm, tự ti, đừng lang thang ca hát kiếm ăn nữa. Tao là anh mày, tao nói nhiều lần rồi mà mày hổng nghe, tao buồn lắm!
Tâm khóc, nó lạy tôi, nói em biết anh chị và các cháu thương em, bà con cô bác thương em, không muốn em cực khổ nắng mưa. Nhưng anh ơi! Em ca hát xin ăn cũng chỉ một phần. Em phục vụ giúp vui cho người, ai cho thì em nhận, em cảm ơn. Cái chính là em muốn được đi, muốn đàn hát cho khuây khỏa. Không ca hát em buồn lắm! Em đi và hát là để hy vọng đó anh, dẫu mong manh nhưng còn hơn là tuyệt vọng. Biết đâu một ngày nào đó, em gặp được vợ con, vợ em sẽ nhận ra tiếng hát của em… Cho dù lúc đó cô ấy hết còn thương em, hay đã lấy chồng khác… Nhưng còn con em… Dẫu giờ em tàn phế, chẳng giúp được gì cho nó… Nhưng dù sao, cha con có nhau vẫn hơn anh à.
Vậy em xin anh chị, lâu lâu cho em đi. Em đi rồi em về với anh. Chớ bây giờ em còn biết về đâu?
Từ đó tôi mới yên tâm, nhưng vẫn lo lo… Tâm đã nhiều lần lang thang bãi biển Vũng Tàu ca hát kiếm ăn, với hy vọng vợ con còn ở đâu đó. Nó còn lên xe đi miệt Sóc Trăng, quê vợ nó, dù chỉ nghe kể qua chứ trước đây chưa một lần đến.
Thôi, kể sơ với anh vậy. Giờ tôi phải vô với Tâm. Tội nó! May mà lúc tỉnh lại nó còn nhớ số điện thoại của tôi. Cảm ơn anh và bác nhà thơ nhiều nghe. Anh làm báo ở Bình Dương phải không? Lúc nào rảnh mời anh tới nhà tôi chơi. Anh cứ đến Hội Cựu chiến binh phường Phú Lợi hỏi tên tôi là họ chỉ tới.”
An bần thần lắng nghe rồi gật đầu, định vào chào tạm biệt người hành khất năm nào, rồi nghĩ: Mình và thầy Lê sẽ trở lại.
An nhìn vào phòng, thấy ông anh đang đỡ em dậy, bóng hai người như đổ vào nhau.
Dư âm chiến tranh sau bao năm vẫn còn âm ỉ, không biết đến bao giờ mới dứt được cơn đau?.
PHAN ĐỨC NAM
Chú thích:
(*) Áo anh sứt chỉ đường tà: Nhạc Phạm Duy phổ thơ Hữu Loan.
 
14/5/2021
Nguyễn Cẩm Hương
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Vầng trăng khuya hóa cánh tay mềm Tập thơ 1-2-3 Vọng núi của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh (NXB Hội Nhà văn) vừa được trao Giải thưởng Hội VHN...