Triết lý giáo dục dân gian
trong nói thơ Lục Vân Tiên
Nói thơ - hình thức diễn xướng dân gian rất độc đáo và đặc
trưng cho văn hóa người Việt vùng Nam bộ. Hình thức diễn xướng này gắn liền với
không gian sinh hoạt của người bình dân. Trong lúc làm đồng, cấy hái, ở bến đò
bến phà, từ ruộng lúa đến vườn cây, ngoài đồng hay dưới hiên nhà, lúc chòm xóm
bà con bạn bè thân thuộc gặp gỡ giao lưu, bên chén rượu tâm tình có người cao hứng
nói thơ.
Tóm tắt
Khởi đi từ nói thơ Lục Vân Tiên – hình thức diễn xướng dân
gian Nam bộ – bài viết làm rõ giá trị tư tưởng trong thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu.
Giá trị triết lý trong Lục Vân Tiên là nguồn “văn bổn” cho sự hình
thành nói thơ Lục Vân Tiên. Theo đó, quan niệm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu
lưu truyền trong đời sống thường ngày, góp phần bổ sung nền luân lý bình dân. Từ
đó, quan niệm đạo đức Nguyễn Đình Chiểu trở thành cốt lõi triết lý giáo dục
trong nói thơ Lục Vân Tiên, được người bình dân “Nam Kỳ Lục Tỉnh” sử dụng như
phương tiện giáo hóa nhận thức cộng đồng. Đúng hơn, nói thơ Lục Vân Tiên ẩn
chứa triết lý giáo dục dân gian từ dấu ấn tư tưởng Đồ Chiểu. Thế nên, triết lý
giáo dục dân gian qua hình thức nói thơ Lục Vân Tiên cần được tìm hiểu, giữ gìn
và phát huy trong hoạt động giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội đương thời.Mở đầu
Di sản văn chương Nguyễn Đình Chiểu không thuần túy thuộc về
địa hạt sáng tạo văn học mà đã thuộc về/ trở thành “sinh thể văn hóa”
trong toàn cảnh “diễn ngôn dân gian” Nam kỳ nói chung. Suy ngẫm về sức sống bền
bỉ của truyện thơ Lục Vân Tiên, Phạm Văn Đồng từng nhận định: “Về văn chương của
Lục Vân Tiên, phải để ý đây là một chuyện “kể”, chuyện “nói”. Tác giả cố ý
viết một lối văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng rãi trong dân
gian”. Truyện thơ trở thành nói thơ Lục Vân Tiên không đơn thuần hình thức diễn
xướng dân gian mà nhờ khả năng “truyền bá rộng rãi” có thể thâm nhập và quan niệm
nhân sinh, rộng hơn là triết lý dân gian – đặc trưng văn hóa của người bình dân
Nam kỳ xưa. Thậm chí bạn có thể xuôi theo sức sống bền bỉ của nói thơ Lục Vân
Tiên để nhận diện “gen tư tưởng” di truyền của tộc Việt sau nhiều lần thiên di,
từ đó nhận thức dòng chảy (dẫu có lúc minh hiển có lúc ẩn tàng) của nền minh
triết Việt-văn minh Nước trên đường Nam tiến mở mang bờ cõi. Và bạn đừng
cho rằng triết lý là hệ thống khái niệm trừu tượng thuộc về tư niệm của giới
tinh hoa. Kỳ thực, triết lý đã bộc lộ trong cách nói năng nghĩ ngợi có phần hệch
hạc quê mùa; biểu hiện trong cách đối nhân xử thế và tiếp cận thiên nhiên vạn vật;
triết lý tròn vị trong nồi mắm kho, cá linh hấp mía, ốc lác xào khóm, canh chua
lá giang,… thấm đẫm nhơn tình tâm hồn Lục tỉnh.
1. Nói thơ như hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian Nam bộ
Cũng như nhiều hình thức diễn xướng dân gian khác, nói thơ có
nguồn gốc hình thành và phát triển song hành dòng chảy phát triển tộc Việt qua
nhiều lần thiên di. Song song tiếp nối, người bình dân Nam bộ còn sáng tạo và
biến tấu sao cho phù hợp với “thiên” – “địa”/ vùng đất mới, cùng với nhân tính
lập thành Tam Tài. Thiết chế văn hóa Nam bộ nói chung, diễn xướng dân gian Nam
bộ nói riêng có thể xem như “phiên bản mới”, hoặc “sự nối dài” văn hóa truyền
thống tộc Việt trong điều kiện “cơ sở hạ tầng” và “kiến trúc thượng tầng” vùng
đất mới. Thực tế, sự sáng tạo này có phần bắt buộc bởi người lưu dân Nam tiến
phải thích nghi và tạo dựng đời sống mới trên vùng đất mới. Sự thích nghi và
sáng tạo này đồng thời minh chứng sức sống bền bỉ và căn cơ triết lý thấm nhuần
mọi ngóc ngách đời sống thường ngày của người bình dân. Sáng tạo trên nguyên tắc
sống còn và thích nghi, bảo tồn và biến tấu.
“Từ thế kỷ XVIII, truyện thơ Nôm ở nước ta đã xuất hiện,
nhưng cho đến giữa thế kỷ XIX mới phát triển rực rỡ. Sau đó, hình thức nói thơ
Nam Bộ mới nảy nở, tức là khoảng đầu thế kỷ XX là thời kỳ thịnh hành truyện thơ
quốc ngữ. Hình thức nói thơ Nam Bộ có lẽ xuất xứ từ lối nói thơ trong hát sắc
bùa lối hô bài chòi (hô thai), lối nói thơ quân phường (của những người đi ăn
xin), được du nhập theo các đợt sóng di dân từ Trung Bộ về phía nam đất nước”.
Rõ ràng, người lưu dân Nam tiến chính là chủ thể của “sinh thể
văn hóa” nói thơ. Xác định chủ thể, bạn cũng cần phải định vị nói thơ trong bối
cảnh sinh hoạt của lối diễn xướng này. Nói thơ – hình thức diễn xướng dân gian
rất độc đáo và đặc trưng cho văn hóa người Việt vùng Nam bộ. Hình thức diễn xướng
này gắn liền với không gian sinh hoạt của người bình dân. Trong lúc làm đồng, cấy
hái, ở bến đò bến phà, từ ruộng lúa đến vườn cây, ngoài đồng hay dưới hiên nhà,
lúc chòm xóm bà con bạn bè thân thuộc gặp gỡ giao lưu, bên chén rượu tâm tình
có người cao hứng nói thơ.
“Sau một thời gian, nhân dân đã kế thừa các lối nói thơ trên,
đã sáng tạo điệu nói thơ Vân Tiên có sức hấp dẫn và được phổ biến mạnh mẽ khắp
Nam Kỳ Lục Tỉnh thời bấy giờ. Có thể nói truyện thơ Nôm của cụ Nguyễn Đình Chiểu
là nguồn cung cấp “văn bổn” cho phong trào nói thơ ở Nam Bộ”.
Như vậy nói thơ Lục Vân Tiên không xuất phát từ Lục Vân Tiên
mà là sự gặp gỡ giữa sinh hoạt văn nghệ của người bình dân và tác phẩm Nguyễn
Đình Chiểu. Cũng có thể nói, đó là sự gặp gỡ giữa tư tưởng nhân bản Nguyễn Đình
Chiểu với “Dân gian tính-minh triết Việt”. Sức hấp hẫn của nói thơ Lục Vân Tiên
giao hòa giữa quan niệm nhân nghĩa của người Việt ở Nam kỳ kết tinh trong chữ
nghĩa Đồ Chiểu và sức sáng tạo linh hoạt của người lao động bình dân. Chính người
lao động bình dân đưa tư tưởng Đồ Chiểu trở thành “triết” đã “minh”, biến tư tưởng
nhân nghĩa Đồ Chiểu triển nở sinh khí sống động lưu truyền trong cõi dân gian
sông nước Cửu Long.
Thấm nhuần đời đống sinh hoạt và tâm tư của người bình dân,
nói thơ ngày càng phát triển đa dạng độc đáo, từ cách thức diễn xướng đến “văn
bổn”:
“Ít lâu sau, hàng loạt truyện thơ ra đời thơ Sáu Trọng, thơ
Thầy Thông Chánh, thơ Hai Miêng, thơ Năm Tỵ, thơ Sáu Nhỏ… đã phản ánh cuộc
sống xã hội đương thời, phê phán và đả kích chế độ thực dân phong kiến. Dựa vào
âm hưởng nói thơ Vân Tiên và có ít nhiều biến hóa, được hát với tên truyện thơ
nào thì người ta đặt tên đó như nói thơ Sáu Trọng, nói thơ Hai Miêng, nói thơ
Thầy Thông Chánh, nói thơ Mười Chức, v.v…”.
Điều này xác thực thêm giá trị, vị trí nói thơ trong đời sống.
Không chỉ là phương tiện biểu lộ tâm tình tư tưởng, nói thơ còn góp phần phản
ánh hiện thực xã hội. Hình thức diễn xướng này còn là “bản tường trình” thời cuộc
và biến cố xã hội từng xảy ra trên dải đất “Annam” đau thương lầm than.
Về mặt thể thức làn điệu, nói thơ như là diễn xướng dân gian,
cũng tức là “diễn” và “xướng”. Theo Lư Nhất Vũ, nói thơ Bạc Liêu dựa trên lối
vè (vè nói ngược, vè mười hai con giáp, vè vợ chồng làm biếng). Ngoài ra còn có
điệu nói thơ ở Vĩnh Long, điệu nói thơ Trà Vinh (dựa trên làn điệu vè cô vợ ăn
hàng, vè con gái hư, vè mười hai con giáp). Nói thơ Vân Tiên lại có đặc trưng cấu
trúc âm nhạc riêng: “Nói thơ Vân Tiên dùng tiếng đệm gần như hát sắc bùa, thỉnh
thoảng giặm vào tiếng “mà” hoặc tiếng đưa hơi “Ơ ớ”. Nói thơ Vân Tiên ở
Nam Bộ sử dụng điệu thức Nam hơi Ai (rê-pha-xon-la-đô), tầm cữ từ đô1 đến pha2.
[…] Điệu thức trên khiến cho nói thơ Vân Tiên phảng phất nỗi buồn dịu nhẹ, nghe
thấm thía thâm trầm, chất chứa niềm lạc quan và lòng nhân đạo như các nhân vật
mà cụ Đồ Chiểu đã “ném ra giữa cuộc đời” trong một bối cảnh lịch sử nhất định”.
Có nhiều điệu nói thơ, song nổi tiếng hơn cả là điệu nói thơ Lục Vân Tiên. Thậm
chí (theo Lưu Nhất Vũ), chính truyện thơ Lục Vân Tiên chính là khởi nguồn cung
cấp chất liệu “ca từ” cho hình thức nói thơ hình thành, phát triển ngày càng
phong phú đa dạng về chất liệu ngôn ngữ và giai điệu. Những biến tấu của nói
thơ so với Hát bài chòi, Hát sắc bùa cũng phần nào cho thấy khả năng tùy nghi ứng
biến đa dạng, cho thấy tính chất phóng khoáng, cởi mở của người bình dân Nam bộ.
Rộng hơn, đó là kết quả vận động sinh thể văn hóa Việt trong hoàn cảnh mới hay
quá trình “xuyên văn hóa” tộc Việt.
Nói thơ còn thể hiện sức sáng tạo và tinh thần dân tộc của
người bình dân Nam bộ. Lối diễn xướng mộc mạc bằng cách thêm giai điệu, luyến
láy và đệm từ vào sáng tác thơ. Hình thức diễn xướng này còn thể hiện tâm tính
con người vùng bình nguyên Cửu Long: giản dị, chân thành đằm thắm nhưng cũng rất
tinh tế, sâu sắc và thâm trầm. Tay làm hàm nhai, người bình dân Nam bộ sáng tạo
hình thức nói thơ dựa trên vốn “văn bổn” sẵn có. Nhưng thay vì lấy tích truyện
Trung Quốc, họ sử dụng chất liệu cuộc sống tươi mới trong chốn dân gian. Chính
vì gần gũi với tâm hồn người bình dân, truyện thơ của Đồ Chiểu được phổ truyền,
ngâm ngợi khắp nẻo sông quê. Tinh thần dân tộc và dân gian tính trong thế đối lập
với xu hướng “bác học” và “chính thể”.
Cũng như nhiều hình thức diễn xướng dân gian khác, nói thơ là
tiếng lòng của người bình dân. Nói thơ giàu tính tự sự. Làn điệu (đa phần) mang
âm hưởng u buồn man mác, đôi khi như tiếng thở dài ảo não của thân phận. Trong
hình thức diễn xướng này, bạn có thể thấy sự kết hợp giữa tự sự dân gian và trữ
tình dân gian. Thông qua “kể-diễn-nói”, người bình dân bộc lộ tâm tư và quan niệm
nhân sinh thời thế – một hình thức triết lý thâm trầm, biểu hiện đặc trưng
phương thức tư duy dân gian. Phần vì, người bình dân không quen (không thạo)
triết lý (họ cũng chẳng quen lý sự đời), nhưng thông qua nói thơ, họ bộc lộ tâm
tư tình cảm, trong đó đã cho thấy lối cảm nghiệm đời sống và thân phận con người
– triết lý chính là ở chỗ không triết lý nhưng vẫn ngầm thể hiện suy tưởng
về người và đời. Tư tưởng bộc lộ trong cách thế nhuần nhuyễn thiết thực gần gũi
như vậy.
Đến đây, bạn có thấy: sáng tác chữ Nôm nói chung, truyện
thơ Lục Vân Tiên nói riêng trong sự nghiệp Đồ Chiểu cho thấy khuynh
hướng thoát ly đặc tính trường ốc/ hàn lâm/ bác học để trở về đời sống người
bình dân. Tư tưởng nhân bản Nguyễn Đình Chiểu không phải như “cá chép hóa rồng”
mà trở về làm “con trùn đất/ địa long” trong đời sống người lao động chưn
lấm tay bùn quê mùa dẫu hệch hạc mà thấm thía. Khuynh hướng tư duy nghệ thuật
này đưa tâm hồn Đồ Chiểu trở về chốn dân gian quê nhà. Chính bởi vậy, thơ văn Đồ
Chiểu nói chung ngày càng gần gũi với tâm hồn người bình dân.
Cũng do đó, tư duy nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu nối liền vào
kho tàng triết lý dân gian, đồng điệu với lẽ sống của người lao khổ. Lục Vân
Tiên và tư tưởng Đồ Chiểu trở thành di sản chung của triết lý dân gian miền Lục
tỉnh, được nhân dân Lục tỉnh Nam kỳ giữ gìn lưu truyền. Nói thơ Lục Vân
Tiên là một trong nhiều biểu hiện của việc kế thừa phát huy giá trị triết
lý dân gian của người bình dân Nam kỳ xưa nay.
Phàm những gì hướng đến và hòa mình vào đời sống tâm hồn nhân
dân sẽ trường tồn cùng nhân dân. Gia tài văn chương Đồ Chiểu đã trở thành di sản
văn hóa chung của sinh thể văn hóa tộc Việt phương Nam.
2. Từ nói thơ Lục Vân Tiên đến quan niệm luân lý bình dân Nam
kỳ xưa nay
Trước hết, bạn cần xác định thực trạng gần như đối nghịch giữa
khuynh hướng luân lý hàn lâm và luân lý bình dân. Trong khi giới sĩ phu chịu sự
ràng buộc của luân lý trường ốc – kết quả nền giáo dục Hán học thì
người lao động bình dân sống theo lề thói luân lý thông tục thù thuộc sinh thể
văn hóa dân gian không cứng nhắc bảo thủ. Nhận xét của Aubaret khi luận về quyển
Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiều càng xác quyết thêm về thực trạng tồn tại (gần
như đối nghịch) giữa hai nền luân lý vừa nói:
Không thể phủ nhận dấu ấn Hán học trong tư duy nghệ thuật
Nguyễn Đình Chiểu nhưng cùng với biến cố đời sống cá nhân và thời đại, bạn có
nhận ra xu hướng trở về nền luân lý bình dân thông tục trong địa hạt trước tác
chữ Nôm của cụ Đồ. Như vậy bạn có thể xác lập vấn đề về mối liên hệ giữa quan
niệm đạo đức trong trước tác chữ Nôm (trong đó có Lục vân Tiên) và nền luân lý
bình dân. Minh chứng cho vấn đề này – nói thơ Lục Vân Tiên, đã thoát ly
luân lý Nho học trở về luân lý bình dân để gặp gỡ tâm hồn người lao động quê
mùa trên phương diện nhưng cốt lõi là hệ giá trị đạo đức. Sự thông tục trong
quan niệm luân lý Đồ Chiểu (biểu hiện trong tác phẩm Lục Vân Tiên) đáp ứng
yêu cầu xử thế của người bình dân trong các mối quan hệ khác nhau của đời sống
thường nhật. Tính chất thông tục trong quan niệm đạo đức khiến cho truyện
thơ Lục Vân Tiên hòa mình vào nền luân lý bình dân sẵn có (mà vốn dĩ
nền luân lý bình dân này đã “rạch đường đất chia đôi cương thổ” với nền luân lý
hàn lâm sĩ phu từ thưở lưu dân theo chúa Nguyễn vào Nam). Hai nền luân lý ấy, đồng
thời biểu lộ hai khuynh hướng vận động văn hóa. Khuynh hướng văn hóa quy phạm chính
thể và khuynh hướng văn hóa thông tục bình dân. Việc xác định hai khuynh hướng
vận động văn hóa này có thể góp phần lý giải vì sao đất Nam kỳ luôn sẵn sàng
đón gió mới, cởi mở, phóng khoáng, tự do, năng sản nhưng cũng là mảnh đất giữ
được hằng số cố cựu của nền văn hóa Việt truyền thống trước nguy cơ xâm thực
văn hóa qua bao thời kỳ lịch sử khác nhau.
Từ quan niệm luân lý bình dân, rõ ràng nhân dân chỉ cởi mở ôm
vào lòng những “đứa con chánh hiệu” của quê hương, mà theo Aubaret là những người
sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, viết cho người dân quê, hướng đến và ùa vào lòng đất
đai cố thổ. Dẫu trải qua bao thời kỳ “kề cận” với nền văn hóa “thiên triều”, dẫu
rằng nền văn hóa quy phạm chính thể nằm trong vòng lệ thuộc và chịu cảnh xâm thực
văn hóa ngoại lai, nhưng trái tim và khối óc người bình dân vẫn tường tận soi
thấy hồn cốt quê nhà trong những đứa con khát sữa tìm về đất mẹ. Việc tiếp thu
và phát triển hình thức nói thơ Lục Vân Tiên do đó có hai ý nghĩa:
(+) đón nhận nền luân lý bình dân trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu (+) củng cố bồi tụ nền luân lý bình dân đối kháng rạch ròi với nền quy phạm
luân lý chính thể. Nghĩ tới đây, mới thấy, Trần Bảo Định có lý khi cho rằng: vua
phong chưa chắc ăn, “cái gì dân thờ, cái đó chắc ăn và vĩnh cửu!”.
Truyện thơ Lục Vân Tiên với sức dung chứa đạo lý
sâu rộng. Hầu như mọi quan hệ xã hội giữa người với người đều có thể tìm thấy
trong truyện thơ Lục Vân Tiên, chẳng hạn quan hệ gia đình, thầy trò, vợ chồng,
bạn bè, vua tôi,… Người bình dân có thể tìm thấy trong tác phẩm này chất liệu
ngôn từ phù hợp để họ bộc lộ quan niệm đạo đức trong đời sống. Khởi đi từ cuộc
sống con người phương Nam, Nguyễn Đình Chiểu kết tinh thành ngôn từ nghệ thuật.
Thu phục được lòng yêu mến của người bình dân Nam bộ. Từ đó, người bình dân Nam
bộ góp phần nối dài quan niệm đạo đức dung chứa trong truyện thơ Lục Vân
Tiên. Nói thơ Lục Vân Tiên lưu truyền như bài huấn ca, nhằm khuyên bảo,
răn dạy, chia sẻ tâm tư, thể hiện quan niệm sống.
Quan niệm đạo đức trong truyện thơ Lục Vân Tiên sở
dĩ có thể đi sâu vào lòng người bình dân Nam bộ bởi đó là những vấn đề đức lý hết
sức đơn sơ, gần gũi, phù hợp với cuộc sống bình dân. Đáng nói, tinh thần đề cao
đức lý trong nói thơ Lục Vân Tiên có khả năng khích lệ tinh thần vui
sống, sự tin tưởng lạc quan, giúp con người sống thanh sạch tốt đẹp. Đó là nguồn
năng lượng tích cực trong sạch mà người bình dân trao cho nhau trong những khi
làm đồng, chèo ghe, nghỉ ngơi tụ tập,… Truyền miệng rồi nhập tâm, tâm biểu ra
tính, người lấy đó để sống với nhơn quần xã hội!
Như vậy, nói thơ Lục Vân Tiên không chỉ hình thức
diễn xướng dân gian mà còn hình thức lưu hoạt đức lý của người bình dân. Khoa đạo
đức của giới hàn lâm rào vuông đức lý trong vách trường ốc không thể sánh với nền
đức lý sống động phổ quát lưu truyền khắp đầu thôn cuối xóm. Cùng với những giá
trị nhân sinh khác trong chốn dân gian, nói thơ Lục Vân Tiên có thể
khiến bạn tin tưởng về nền đức lý bình dân, may ra đủ sức cứu chuộc nguy cơ “nhân
hóa vật, diệt thiên lý nhi cùng nhân dục”. Vậy thì bạn chẳng cần phải tìm kiếm
đâu xa xôi một nền đức lý khả dụng cho quê hương xứ sở. Tẩy trừ cấu nhiễm nhân
sinh Nam bộ, tẩy trừ tật hoạn nhân tính đương thời, có thể tìm lấy bài thuốc từ
con trùn đất ngày đêm luồn lách cày xới màu mỡ đất quê, chứ không phải bài thuốc
tiên viễn đích cao xa của loài rồng lượn mình trên chín từng không. Lục
Vân Tiên – kết tinh truyền thống nhân tính phương Nam; cho tới nói
thơ Lục Vân Tiên là biểu hiện tươi sáng của nền nhân tính phương Nam
âm thầm mà bền bỉ chuyển dịch qua từng biến cố thời cuộc. Không giữ lấy mạch nước
ngọt nhân tính này, đất quê khô kiệt. Đất chết, người làm sao sống nổi!
Người nghĩa Nam kỳ xưa nay đã không còn lạ gì những câu thơ rạng
ngời đức lý nhân sinh của Cụ Đồ. Trong đó: Nhân ái, Hòa đồng, Trượng nghĩa, Tự
do, Thủy chung, coi thường địa vị danh lợi… là một trong số những giá trị cốt
lõi.
“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hanh là câu trau mình”.
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi nầy!” (tr. 20)
“Vân Tiên nghe nói mỉm cười:
Làm ơn, há để trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn;
Nào ai tính thiệt so hơn? Làm gì?
Có câu “Kiến ngãi bất vi”;
Làm người dường ấy cũng phi anh hùng!” (tr. 28)
“Nhớ câu “trọng nghĩa khinh tài”
Nào ai chịu lấy của ai? Làm gì?” (tr. 32)
“Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn” (tr. 62-64)
“Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm!
Ghét đời Kiệt Trụ đa dâm,
Để dân đến nổi sa hầm sỉa hang!” (tr.72-74)
“Thương thay hai chữ cù lao
Ba nam nhũ bộ, biết bao nhiêu tình?” (tr. 86)
“Dốc lòng trả nợ áo cơm;
Sống mà trọn nghĩa; thác thơm danh hiền!” (tr. 132)
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ!
Dốc làm nhơn nghĩa, há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn;
Một câu “danh lợi” chẳng sờn lòng đây!” (tr. 138)
“Lão tiều mới nói: Thôi! Thôi!
Làm ơn mà lại trông hồi sao hay?” (tr. 156)
Với những câu chữ/ văn bổn của Lục Vân Tiên, người
lao động bình dân sử dụng đa dạng trong tình huống khác nhau với dụng ý tùy
theo tương quan giữa mình và người trong cuộc sống hàng ngày. Cho nên nói, chữ
nghĩa Lục Vân Tiên vốn có ngữ nghĩa/ngữ cảnh văn bản ra đời bởi chủ
thể sáng tạo nhứt định, nhưng đã trở thành những hằng số/ mẫu thức đạo lý
mà người bình dân sử dụng tùy thuộc hoàn cảnh cá nhân tức thời. Vân Tiên, Tiểu
đồng, Hớn Minh, Tử Trực, Ông quán, Ông ngư, Ông tiều… trong truyện thơ được
người bình dân sử dụng thành những hình mẫu lý tưởng về đạo lý ở đời/ biểu
tượng luân lý bình dân. Ở đây, sự đối lập quan niệm đức lý giữa giới quý tộc
(Võ công, Võ Thể Loạn, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) bạc ác gian hiểm và hạng bình dân
(Ông quán, Ông ngư, Ông tiều) sống nhân nghĩa: là minh chứng đối kháng và khẳng
định nền luân lý bình dân vượt lên trên giới hạn địa vị tư lợi của luân lý
chính thể. Điều này càng làm rõ thêm xu hướng vận động thoát ly nền luân lý quy
củ của giới nho sĩ hàn lâm phục tùng chính thể, trở về “dân gian tính” của người
lao động bình dân. Tìm kiếm trong nền luân lý bình dân nhằm xác lập cách nghĩ
cách sống cho bản thân giữa thế cuộc đảo điên, Nguyễn Đình Chiểu vô hình trung
đã trở thành đại diện tiêu biểu cho nền luân lý bình dân trên mảnh đất Nam kỳ
xưa nay. Lục Vân Tiên và nói thơ Lục Vân Tiên chính là tiếng
nói phản kháng cũng như đề cao, ca ngợi xiển dương nền luân lý bình dân – một
trong số biểu hiện căn cơ học phong phương Nam và minh triết Việt trên tiến
trình phát triển văn hóa dân tộc.
Những quan niệm đức lý này có khiến bạn nhớ lại rút xét của
Kim Định về hằng số tâm tính Việt (Hòa/ Huề). Chưa vội xác quyết luân lý bình
dân Nam kỳ ở vị trí tiên phong đại diện cho văn hóa đạo đức Việt nhưng bạn hoàn
toàn có thể tin tưởng ở mối liên hệ sâu bền giữ tâm tính đức lý Nam kỳ xưa nay
và hằng số Việt tộc trên phương diện văn hóa tư tưởng, đạo đức.
3. Nói thơ Lục Vân Tiên: từ triết lý đến triết lý giáo dục
Giáo dục với triết lý giáo dục không còn là vấn đề thời thượng,
mà đã là vấn đề cốt lõi của việc xây dựng nền giáo dục quốc dân, tức trên phạm
vi tổng hòa bởi hai khái niệm quốc gia và dân tộc.Vậy thiên hạ có thể xác định
vấn đề triết lý giáo dục như là hoạt động mang tính tự phát, rời rạc, kiểu “mạnh
ai nấy làm” hay không? Thực tiễn đương thời cho thấy, nhiều cơ sở đào tạo nhầm
lẫn giữa khái niệm triết lý giáo dục và “định hướng giáo dục cục bộ”. Trên dải
đất “Annamite”, “đấng cầm cân” vẫn thả nổi vấn đề triết lý giáo dục của nền giáo
dục quốc dân, khiến những ưu tư của Sào Nam tiên sinh trong “Cao đẳng quốc dân”
vẫn còn nguyên giá trị cho người đương thời suy ngẫm. Vậy bạn nghĩ như thế nào
về triết lý căn cơ cho nền quốc dân giáo dục hôm nay?
Trước hết, triết lý giáo dục như là triết lý của nền đạo học.
Triết lý giáo dục trong nghĩa lý đó cũng tức là triết lý nhân sinh. Hiểu đơn giản,
triết lý trong cõi nhân sinh, triết lý về nhân sinh, triết lý về phía nhân
sinh. Và hình thức diễn xướng dân gian nói thơ (cũng như nhiều hình thức diễn
xướng dân gian khác) chính là một hình thức và/về/để/hướng tới nhân sinh của
triết lý. Khả thể triết lý(vốn có trong văn bổn) của nói thơ rõ ràng có thể đưa
triết lý trở thành “hữu tại” sống động bởi đưa “nhân” trở về trong “sinh”, hay
“nhân” thể như “sinh”, và là cuộc “sinh” của “nhân”. Nói vậy, bạn có thấy tính
khả dụng của nói thơ (trong đó có hình thức nói thơ Lục Vân Tiên) không
đơn thuần là hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian mà còn có khả năng thức tỉnh
nhận thức người tiếp nhận. Bên cạnh chức năng giáo dục, nói thơ còn có chức
năng nhận thức và chức năng thẩm mỹ. Vừa có ý than thân vừa có ý khuyên răn,
giáo hóa, vừa thể hiện cảm nhận về nhân sinh thế sự, nói thơ “giáo” bằng “thế
giới quan” và “nhân sinh quan” trong văn bổn sẵn có để rồi “cảm hóa” lòng người.
Giá trị giáo dục của nói thơ (nhứt là nói thơ Lục Vân Tiên) chính là ở chỗ này.
Thử nhìn sang các nước Tây phương, triết lý giáo dục hiện
sinh đề cao vai trò các môn triết lý và văn nghệ trong chương trình giáo dục.
Đường hướng giáo dục ấy chẳng phải đã là chuyện thường ngày của những người nhà
quê miền Lục tỉnh đó sao! Nói như vậy hẳn khiến không ít bậc cao túc hàn lâm
trí giả ngờ ngợ, bởi “bình dân” sao lại có thể triết cái sự lý. Hơn nữa, triết
lý trong chương trình đạo tạo nền giáo dục quốc dân từ cựu học Hán Nho cho tới
tân học Tây phương, triết lý hoặc hạn hẹp hoặc sơ sài manh mún quanh quẩn Tống
Nho hoặc giới hạn ở bậc học nào đó mà thôi, triết lý không phổ quát thấm nhuần
toàn diện trên toàn bộ nền giáo dục quốc dân.
Bây giờ, bạn thử nghĩ đến cách thế triết lý của người lao động
bình dân. Theo nhạc sĩ Lư Nhất Vũ (Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật
Việt Nam tại TPHCM), nói thơ xuất phát từ các lối nói thơ và xa hơn từ hát bài
chòi, hát sắc bùa. Các lối hát này theo lưu dân vào Nam khai khẩn. Với hoàn cảnh
sống mới, người bình dân Nam kỳ lục tỉnh dần hình thành lối nói thơ đặc trưng
cho vùng văn hóa này. Nói thơ mà tiêu biểu nói thơ Lục Vân Tiên không
chỉ đặc trưng bởi làn điệu, cách diễn xướng; mà trên hết, đặc trưng nói thơ nói
chung và nói thơ Vân Tiên nói riêng, còn đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách con
người. Bởi cách thế tùy nghi diễn và xướng nên nói thơ gián tiếp bộc lộ thế giới
quan, nhân sinh quan của người bình dân Nam bộ. Thậm chí có thể nói, diễn xướng
dân gian Nam bộ nằm trong chỉnh thế “kiến trúc thượng tầng”, liên hệ mật thiết
tới triết lý sống và cơ tầng văn hóa xã hội vùng đất này. Công việc cứu xét của
người trí giả thường triết với sự lý, ngược lại, người bình dân không triết mà
minh cái sự triết. Trong quá trình đó, tự thân triết lý đã trở thành minh triết,
ẩn chứa quan niệm thẩm mỹ, cũng như triết lý đã trở thành triết lý giáo dục.
Thử ngẫm lại hình thức diễn xướng, “người dân Nam Bộ thưởng
thức truyện thơ không thông qua cách đọc thơ hoặc ngâm thơ mà bằng phương thức
diễn xướng. Đó là tâm lý thưởng ngoạn thơ ca (chủ yếu cốt truyện) của người dân
Nam Bộ. Những năm đầu thế kỷ XX, trong dân gian và trong thư mục của các nhà xuất
bản ở SàiGòn còn thấy nhiều bổn thơ như “Ông Trượng – Tiên Bửu”, “Bạch Viên –
Tôn Các”, “Phạm Công – Cúc Hoa”, “Thạch Sanh – Lý Thông”, “Nam Kinh – Bắc
Kinh”, “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, “Nàng Út”, “Lâm Sanh – Xuân Nương”, v.v…”.
Người bình dân Nam bộ có hình thức thưởng thức truyện thơ rất riêng theo phong
cách “tài tử miệt vườn”. Chẳng giống hình thức ngâm ngợi của hàng “tao nhân mặc
khách”, chẳng phải hình thức thuộc làu của kẻ “dài lưng tốn vải”, mà diễn! Diễn
tức kết hợp tình và cảnh, kết hợp giữa âm thanh (nói, đọc, ca, hát) và hình ảnh
(động tác, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt). Sự sống động của nói thơ Nam bộ chính là ở
chỗ ấy. Cũng bởi vậy hình thức diễn xướng dân gian này có sức thu hút kỳ lạ, mà
giới nào trong xã hội cũng dễ tiếp nhận rồi yêu mến. Nói thơ Nam bộ dựa trên “tầm
đón đợi” của người tiếp nhận để tương ứng và thích nghi với tâm thế tiếp nhận.
Do đó, nói thơ dễ đi vào lòng người, và hễ nhập tâm thì có sức lay động chuyển
biến tâm hồn. Ấy chính là “hóa” để “giáo”. Sức “giáo hóa” của nói thơ Nam bộ
không ở chỗ ăn trước ngồi trên dạy đời thiên hạ, mà từ chỗ thấp hèn bình dân,
khiến thiên hạ cảm hoài tỉnh ngộ, đánh động nhận thức và nhân tâm. Cho nên, nói
thơ Nam bộ xét trên phương diện chức năng-mục đích, thực sự là phương thức/ phương
tiện giáo dục dân gian. Và truyện thơ Lục Vân Tiên, cung cấp văn bổn cho
nói thơ cũng tức là cung cấp nghĩa lý nhân sinh, cho phép nói thơ trở thành
hình thức giáo dục dân gian có chiều sâu triết lý. Hay nói khác, từ triết lý
trong văn bổn Lục Vân Tiên đã trở thành triết lý giáo hóa/ triết
lý giáo dục của người bình dân trong cõi dân gian sông nước hữu tình.
Những băn khoăn này đưa bạn trở về chốn quê nhà với lời
khuyên dạy ân cần của ông bà cha mẹ tổ tiên đối với con cháu xưa nay. Riêng văn
bổn Lục Vân Tiên, người bình dân sử dụng chẳng khác gì bản huấn ca cho mái
gia đình và môi trường sinh hoạt cộng đồng. Với khả năng dung chứa, chuyển tải
đạo đức nhân sinh, biểu hiện lưu hoạt gần gũi thuận tiện, Lục Vân
Tiên của Đồ Chiểu trở thành Nói thơ Lục Vân Tiên đã vận động từ
chỗ triết lý trở thành triết lý giáo dục về/ hướng tới nhân sinh. Hay, nói
thơ Lục Vân Tiên: một trong số hình thức triết lý giáo dục dân gian.
Nói thêm, giả như triết lý chẳng đi tới nổi nền đạo học thì
coi như triết lý đã bị biến thành thứ “xác sống” lững thững trong mái nhà trường:
triết lý chỉ còn là triết học. Và triết gia bây giờ là những cậu “học trò” chăm
ngoan rỉ rả trên bục giảng. Triết lý của người bình dân Nam bộ nên được hiểu
theo thể cách “minh triết”, chứ không phải triết học. Triết lý là cảm biết về
lý siêu hình của người lao động bình dân trong việc tương tác với đời sống xã hội.
Triết lý biểu hiện và bao trùm nhiều mối quan hệ sống (người sống với người,
người sống với mình, người sống với trời đất vạn vật,..). Triết lý vì thế là thứ
“triết” đã “minh”, thấm nhuần mọi ngóc ngách, phương diện đời sống, chứ không
phải lối lý luận trường quy mang tính hàn lâm bác học. Người bình dân Nam bộ
không quen dùng “lý” để “luận”. Họ thường “luận” ra “lý”, cũng tức là xuất phát
từ thực tiễn đời sống để rút kết kinh nghiệm sống. Bởi vậy, triết lý trong nhận
thức tâm hồn bình dân là “hình nhi thượng học” lẫn “hình nhi hạ học”, vừa “thể”
vừa “dụng”, sống động, thiết thực, gần gũi. Tức cách thế tổng hòa thống nhứt của
“triết” chứ không phải cách thế chia biệt của phường trí giả chủ cả triết học.
Người bình dân Nam bộ không ưa lối luận lý siêu hình mà chỉ bàn chuyện “ở đây
và bây giờ”. Nói vậy không có nghĩa “nhận thức luận” của người bình dân Nam bộ
cạn cợt, phiến diện. Ngược lại, những triết lý sống hiện lăn trở qua thực nghiệm
đời sống, đã trở nên chín muồi, chắc nụi và trọn vẹn. Nhận ra điều này,
Hai Khánh (trong câu chuyện Trần Bảo Định thuật lại) cảm thấy xấu hổ bởi chẳng
bằng người đàn bà mù chữ quê mùa trên Vàm Kỳ Hôn. Người thầy ngày đêm rao rả
trên giảng đường kỳ thực không hà hơi cho triết lý trong tác phẩm Đồ Chiều sống
động mà người đàn bà nhà quê tay làm hàm nhai có thể thức tỉnh câu thơ “kiến
ngãi bất vi” trong lòng người, để người biết giúp người trong cơn nguy khó chẳng
nề hà tính mạng. Chuyện còn rành rành, Đại tá Nguyễn Hoàng Kiếm giữ toàn mạng
sống trước sự truy đuổi của giặc dữ có lẽ cũng nhờ một vài câu nói thơ Lục
Vân Tiên của người đàn bà trên Vàm Kỳ Hôn đã thúc giục lòng người làm việc
nhân nghĩa.
Nói đi rồi nói lại, truyền thống nhân nghĩa hay nền đạo học
trong tác phẩm Đồ Chiểu ngỡ rằng bồi tụ trong năm tháng “theo thầy nấu sử sôi
kinh”, kỳ thực bắt nguồn từ chính cuộc sống của người lưu dân Việt trên đường
Nam tiến, biểu hiện qua tính trượng nghĩa khinh tài, rộng rãi tấm lòng, ưa cứu
giúp kẻ khó, “phò suy chẳng phò thịnh”, bênh vực kẻ yếu thế, đứng về phía cuộc
sống con người, đề cao giá trị nhân tính hơn giá trị vật chất của người Lục
tỉnh, càng không run sợ cường quyền, bởi “vua phong chưa chắc ăn”, “dân thờ mới
chắc ăn”! Cung điện Lý thị giờ chỉ còn mớ bào ảnh đổ nát nhờ khai quật phục dựng.
Lỗ Giang hành cung đã vùi sâu dưới ba tấc đất. Ly cung thành Hồ trơ vơ phế tích
u buồn. Kinh Vạn Lại câm tiếng nằm chết trong cô tịch. Trấn Hải thành loang lở
sụp đổ rêu phong, … thế mà nhựa sống tộc Việt vẫn sinh sôi nẩy nở, trổ thêm lộc
lá xanh tươi trên khắp dải đất quê hương. Hướng đến nhân sinh, Lục Vân
Tiên của Đồ Chiểu đến nay vẫn còn lưu hoạt khắp nẻo sông quê.
Xuất phát từ cách hiểu này, triết lý sống biểu thị qua hình
thức diễn xướng dân gian “nói thơ” (trong đó có nói thơ Lục Vân Tiên) là một
trong số hoạt động thấm nhuần triết lý dân gian trong nhận thức người bình dân.
Luận xét từ triết lý dân gian đến nói thơ Vân Tiên, hay nói thơ Vân Tiên góp phần
làm rõ triết lý dân gian, việc này cơ hồ không còn quá quan trọng nữa. Vì triết
lý dân gian và nói thơ Vân Tiên vừa là căn cơ vừa là biểu hiện của chỉnh thể
“diễn ngôn dân gian” bàng bạc bao trùm xuyên suốt đời sống bình dân Lục tỉnh.
Nói vậy, bạn sẽ thấy triết lý dân gian biểu hiện trong diễn xướng dân gian bao
trùm mọi phương diện đời sống. Triết lý dân gian được người bình dân sử dụng
như phương thức luận lý đạo đức. Giá trị dễ nhận thấy hơn cả của hình thức đó,
chính là giá trị giáo dục. Triết lý dân gian đã trở thành và được sử dụng như
là triết lý giáo dục dân gian. Vừa để răn mình, khuyên người, vừa góp phần lan
tỏa năng lượng văn hóa phi vật thể (tác phẩm Lục Vân Tiên và di sản
văn chương Đồ Chiểu nói chung) – cũng chính là nối dài sinh mệnh chữ nghĩa Nguyễn
Đình Chiểu, để giá trị đức lý và giá trị giáo dục được gìn giữ lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Nói thơ là hình thức nối dài tư tưởng Đồ Chiều, vượt qua khỏi phạm
vi cá nhân, vượt qua khỏi phạm vi không gian và thời gian. Đó là sức sống bền bỉ
đáng kinh ngạc của ý hướng tinh thần một con người hạn hữu. Từ tấm gương Đồ Chiểu,
có lẽ bạn cũng nhận ra: phàm những ai vượt qua được ngục tù “chủ thể tính”, kẻ ấy
có thể vượt qua được Lợi-Danh-Tình-Chết. Nói thơ Lục Vân Tiên là minh
chứng cho sức sống tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu.
Từ triết lý sống trong “văn bổn” Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu sau khi trở thành triết lý giáo dục dân gian trong đời sống
thường ngày, nói thơ Vân Tiên đã hòa mình vào văn hóa dân gian của tộc Việt
phương Nam. Đó là sự thống nhứt hài hòa tương hỗ giữa triết lý giáo dục dân
gian và văn hóa dân gian, tạo thành nội lực tinh thần/khả thể sống động cho sự
sinh sôi của tộc Việt – tạo thành kháng thể mạnh mẽ trước nguy cơ xâm thực văn
hóa của thời toàn cầu hóa.
Giữ lấy hồn quê, tiếp bước tiền nhân, góp phần giáo hóa nhân
tâm-nhân tính, hậu thế bấy giờ có thể định vị tự thân trên cõi nhân sinh. Nhược
bằng vong thân, sa vào vong bản, mất gốc đứt rễ, nguy cơ diệt vong thui chột
nòi giống liền hiện ra trước đôi tròng mắt thịt tê dại bởi vật chất kim tiền!
Kết luận
Khảo luận văn nghiệp và tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu hơn trăm
năm qua tạo thành nguồn tư liệu phong phú cho hậu thế “soi chung”. Đây là thuận
lợi cũng là khó khăn, bởi kẻ tiểu bối không khỏi đắm đuối trong nguồn tư liệu dồi
dào ấy. Thế nên, “tôi chẳng quản phận bất tài, phải bỏ thái độ khiêm tốn cố hữu
mà thỗ lộ ra đây, chỉ vì niềm riêng yêu mến quốc văn quá nồng nàn, không thể ôm ấp
mãi trong lòng được, bởi vậy tôi phải thỏ thẻ ít lời, mong được bực kiến
thức cao minh chiêm nghiệm”. Quả thực, khó có thể bao quát toàn bộ văn nghiệp
và tư tưởng Cụ Đồ, ngỏ ra lời thành thực nầy, lòng những mong lượng thứ đôi chỗ
“trầy trật” khả dĩ vì cái nghĩ cạn cợt của lớp người sau ôm ắp mong muốn nối bước
tiền nhân.
Dầu quê kiểng dong dài nhưng bạn có thể tạm kết vài ý đọng lại.
Thứ nhứt, giá trị văn chương tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu được
người lao động bình dân đưa vào cuộc sống. Nối dài sự sống chữ nghĩa, triết lý
đã trở thành minh triết. Không phải “triết học” của giới thượng đẳng trí thức,
hình thức “minh” triết này đạt đến mức chân phương, mộc mạc, tối giản và thiết
thực. Nói thơ – diễn xướng văn nghệ dân gian, đứng về phía đối lập với xu hướng
bác học. Xuất phát từ tâm tính người lưu dân thuở nào làm cuộc Nam tiến đến
vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp, sức sống văn chương Nguyễn Đình Chiểu trong
lòng người bình dân Lục tỉnh khiến hậu thế nghiêm túc suy ngẫm về vai trò sáng
tạo chữ nghĩa và vị trí của người trí thức trong đời sống xã hội. Rồi, người
trong thiên hạ tiếp tục ngẫm ngợi về việc làm chữ nghĩa hôm nay nên hướng đến:
văn học thời trang, văn học vị kỷ, văn học phản ánh, văn học phê phán hay văn học
tư tưởng. Mỗi người tự ngó lại thực trạng đương thời, tự lòng phân định.
Thứ hai, nói thơ Lục Vân Tiên với giá trị văn
chương, văn hóa xã hội, với tư cách triết lý giáo dục trong chốn dân gian Nam bộ,
cần được gìn giữ và phát huy. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi hậu thế phải nhận thức
sâu sắc giá trị nói thơ Lục Vân Tiên liên hệ với toàn bộ tư tưởng văn
chương Nguyễn Đình Chiểu và học phong phương Nam. Nhứt là học phong phương Nam
có lúc minh hiển có khi ẩn tàng, cần được chắp nối khơi dòng, khai thông giáo
hóa dân gian trong mái gia đình, nhà trường và xã hội. Bấy giờ tự khắc có nền
giáo dục quốc dân tu trợ cho nền giáo dục chính thể (mới hoàn thành trách nhiệm
với thể chế mà chưa hoàn thành trách nhiệm với dân tộc). Hậu thế tiếp nối, sinh
khí Việt ở phương Nam nước Việt mới được tưới tắm, vun bón ngày càng trẩy nở lộc
lá tốt lành.
Thứ ba, bên cạnh việc kiến thiết nền tảng triết lý giáo dục
toàn diện thống nhứt, hệ thống giáo dục quốc dân có lẽ không nên thiên lệch
sang khuynh hướng ca ngợi và ghi công, mà cần chú trọng đến những tác phẩm có
giá trị nhân bản phổ quát hài hòa cùng văn hóa dân tộc; đồng thời tôn trọng,
xác lập và dành cho văn chương tư tưởng đạo đức nhân nghĩa phương Nam địa vị xứng
đáng hơn; lấy đó làm đường hướng tái thiết nhân tâm-nhân tính trong xã hội
đương thời. Con nước miền Nam vẫn còn đó, hồn nước Cửu Long vẫn linh láng hai
buổi lớn ròng, người Việt ở Nam kỳ xưa và nay có trách nhiệm khai thông những
chỗ bế tắc, nạo vét những chỗ trầm lắng tù đọng, chạy chữa những tật hoạn ung
nhọt dị hượm có nguy cơ mãn tính.
Thứ tư, nói thơ Lục Vân Tiên có thể là con đường hẹp
nhưng là con đường khả thi trở về triết lý giáo dục dân gian hài hòa cùng văn
hóa Việt ở Nam kỳ xưa nay. Lấy đó làm đường trở về nhận diện bản dạng triết lý
nhân sinh con người Nam bộ, bạn có thể đi tới văn hóa dân gian Nam bộ với khả
năng đại diện cho sinh thể văn hóa Việt nguyên bản với “gen thuần chủng” đúng
nghĩa văn hóa Việt (chẳng phải khi không mà Kim Định nhìn thấy thanh giang
sứ giả làm cuộc Bắc tiến hay “con lân què mà không chết” vẫn còn tung tẩy
trên vùng đất bình nguyên Cửu Long).
Thứ năm, từ Sùng Đức tiên sinh, Phan tiến sĩ, Hối Trai,… cho
tới Nguyễn Háo Vĩnh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường
– quá trình kiến tạo học phong phương Nam và dịch chuyển hệ hình đấu tranh
yêu nước… liệu người đương thời có thể xây dựng văn học Nam bộ trở thành nền
văn học độc lập tương đối trong văn học quốc gia và khu vực. Theo đó, liệu hậu
thế có thể xác định hệ thống giá trị văn hóa “đất Việt trời Nam” từ công cuộc
chấn hưng giáo dục quốc dân mà tiền nhân hằng mong mỏi.
Mấy lời “thỏ thẻ”, bỉ nhân không dám tranh minh với thượng đẳng
trí thức. Hiềm một nỗi tình quê ắp ủ, lòng quê luống mong thổn thức trái tim
tha nhân, lấy đó làm an ủi, bớt chút hổ thẹn vì nghĩ suy cạn cợt vụng về!.
Tài liệu tham khảo:
– Aubaret, G. (1864). Luc-Van-Tiên – Poeme populaire
Annamite. Paris: Imprimerie Impériale.
– Hồ Biểu Chánh (1944). Chấn hưng Văn học Việt
Nam. Đại Việt tập chí số 53-54 (ngày 16 Déc 1944 – 1er Janvier 1945).
– Trần Bảo Định (2018). Bóng chiều quê (tập
truyện ngắn). TPHCM: Nxb. Tổng hợp.
– Trần Bảo Định (2022). Người đàn bà nói thơ Lục Vân
Tiên trên sông nước Vàm Kỳ Hôn. Tạp chí Người Đô Thị số 116
(01/2022), tr.66-68.
– Trần Bảo Định (2022). Dấu thời gian – Khát vọng của
người xưa. TPHCM: Nxb. Tổng hợp.
– Kim Định (1965). Triết lý giáo dục. Tủ sách Ra
Khơi. Saigon: Nhân Ái xuất bản.
– Kim Định (1970). Việt lý tố nguyên. Saigon: An
Tiêm xuất bản.
– Kim Định (1973). Tinh hoa ngũ điển. Saigon: Nguồn
Sáng xuất bản.
– Kim Định (2017). Cơ cấu Việt Nho. Hà Nội: Nxb. Hội
Nhà văn.
– Phạm Văn Đồng (1963). Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc. Trong Phan Trọng Luận (tổng chủ biên,2011). Ngữ
văn 12 – Tập 1 (tái bản lần thứ 3). Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam.
– Phan Văn Hùm (1957). Nỗi lòng Đồ Chiểu (in lần
thứ hai) (Bạt của Kim Ba Mai Huỳnh Hoa). Saigon: Tân Việt ấn hành.
– Michels, A. (1883). Lục Vân Tiên ca diễn (poème
Populaire Annamite). Paris: Ernest Leroux, Éditeur.
– Phan Sào Nam (1957). Cao đẳng quốc dân. Huế: Anh
Minh xuất bản.
– Võ Quốc Việt (2019). Triết lý giáo dục hiện sinh và
quan niệm “Thành nhân trước thành danh”. Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến Tập
6 số 5, tr.112-125.
– Võ Quốc Việt (2021). Hạt phù sa sông nước Cửu
Long. TPHCM: Nxb. Tổng hợp
– Lư Nhất Vũ và Lê Giang (1983). Tìm hiểu dân ca
Nam Bộ (chuyên khảo). TPHCM: Nxb. Tổng hợp.
– Phim tài liệu “Suối nguồn vẫn chảy” tập 3 của TFS sản xuất
năm 2016.
4/7/2022 Võ Quốc Việt
4/7/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét