Trịnh Công Sơn và khát vọng
hòa bình - Hồ Tấn Nguyên Minh
Chẳng phải nỗi buồn chiến tranh và niềm mong mỏi hòa bình da
diết trong những Trịnh Khúc kia đã có sức lay động mãnh liệt đến cõi lòng một
người từng đi qua chiến tranh… và lan tỏa trong tâm hồn tôi, níu giữ trái tim
tôi từ thời thơ bé?.Nhạc sĩ Trịnh Công SơnTôi nghe nhạc Trịnh từ nhỏ – những năm đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ trước. Hồi ấy phương tiện nghe nhìn còn thô sơ, thiếu thốn lắm chứ không phải
như bậy giờ. Tôi hay sang nhà ông cậu họ, nghe ké Khánh Ly hát Ca khúc da
vàng qua chiếc cassette cũ. Nghe để có cái mà nghe giữa cái thời mà đối với
bọn trẻ con nông thôn chúng tôi, âm nhạc hãy còn là một cái gì xa xỉ lắm chứ chẳng
phải vì hiểu biết hay tâm đắc gì.
Ông cậu tôi vốn là sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975, một
người trí thức từng kinh qua chiến tranh mà cho đến tận bây giờ dư chấn của cuộc
chiến thảm khốc ấy chừng như vẫn còn nặng trĩu trong tâm trí cậu, hiện hữu
trong một ánh mắt buồn xa xăm. Tôi để ý thấy mỗi lần nghe nhạc Trịnh, cậu hay nằm
vắt tay lên trán, vẻ mặt trầm tư, thỉnh thoảng lại buông ra một tiếng thở dài,
mắt ngân ngấn nước. Tuổi thơ “như đá ngây ngô” (1), tôi chẳng thể nào lí giải nổi
vì sao cậu lại như thế, cũng chẳng hiểu gì về những ca từ của Trịnh. Vậy mà những
khúc hát trầm buồn, khắc khoải kia đã vận vào tôi lúc nào không biết. Chỉ biết
rằng mỗi khi có nhạc Trịnh mở lên ở đâu đó, dù đang làm việc gì tôi cũng cố gắng
dừng lại để lắng nghe, nghe bằng tất cả niềm háo hức và say mê tuổi nhỏ.
Khi lớn lên, tôi bắt đầu nghe nhạc Trịnh một cách có ý thức.
Những trải nghiệm xen lẫn buồn vui; hạnh phúc, đắng cay của cuộc đời giúp tôi tự
tạo cho riêng mình một cách để hiểu Trịnh. Thế giới của Trịnh lúc này rộng lớn,
sâu thẳm hơn rất nhiều lần so với những cảm nhận ngu ngơ của tôi thời thơ bé.
Nhạc Trịnh trong tôi là những giai điệu, những ca từ bình dị mà quyến rũ: lúc
trong sáng hồn nhiên như “nỗi niềm cổ tích” (2); lúc trữ tình êm ái như tiếng
đàn rơi trên tay người thiếu nữ; lúc lại ma mị, khói sương như vọng về từ huyền sử xa xăm. Nhạc Trịnh trong tôi là tiếng nức nở phận người trong sự bủa
vây của lạc lõng, cô đơn, tuyệt vọng. Nhạc Trịnh trong tôi là tiếng ca say đắm
về tình yêu – phép màu xoa dịu mọi niềm đau. Nhạc Trịnh trong tôi là tấm lòng
thao thiết hướng đến thế giới ngoài kia “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ” (3)…
Trong vô vàn những cảm xúc, suy tư về Trịnh; lạ thay nỗi ám ảnh
vây phủ tâm hồn tôi vẫn là những khúc hát da vàng như tiếng thở dài khắc khoải
mà tôi đã nghe từ chiếc cassette cũ của ông cậu hồi nhỏ. Tôi nhận ra trong những
ca khúc mà ngày xưa tôi chẳng hiểu gì ấy chứa đựng một nỗi đau chiến tranh nhức
nhối, một khát vọng hòa bình thiết tha.
Ai đó thật có lí khi cho rằng chỉ có những người trực tiếp cảm
nghiệm nỗi đau thương trong chiến tranh mới thực sự hiểu hết ý nghĩa, thấy hết
giá trị của hai tiếng “hòa bình”. Trịnh Công Sơn là một trong những người như
thế. Ông như được sinh ra để mang trong mình sứ mệnh của sự hóa giải: hóa giải
buồn đau, thù hận, cay đắng, xót xa bằng khát vọng hòa bình cháy bỏng trong những
ca khúc của mình.Trong vô vàn những cảm xúc, suy tư về
Trịnh; lạ thaynỗi ám ảnh vây phủ tâm hồn tôi vẫn là những khúc hát da vàng như
tiếng thở dài khắc khoảiThế hệ Trịnh Công Sơn là “thế hệ lạc lõng”, “thế hệ bỏ đi”
theo cách nói của văn hào người Mỹ E. Hemingway. Đó là thế hệ của những con người
bị ném vào lò lửa chiến tranh trở ra là những con người lầm lì, hoang hoải,
bơ vơ. Với trái tim nghệ sĩ mẫn cảm, đa đoan, Trịnh Công Sơn hiểu hơn ai hết
cái giá khủng khiếp mà con người phải trả cho cuộc chiến. Vì thế mà trong những
ca khúc của ông, đặc biệt là Ca khúc da vàng, bóng ma chiến tranh cứ lởn vởn,
chập chờn tạo thành một nỗi âu lo thường trực. Chiến tranh là đổ nát, hoang tàn
“Hàng νạn tấn bom trút xuống đầu làng/ Hàng νạn tấn bom trút xuống ruộng đồng/ Ϲửɑ
nhà Ѵiệt Nɑm cháу đỏ cuối thôn” (4); là tiêu điều, chết chóc “Một ngày mùa đông/
Trên con đường mòn/ Một chiếc xe tang/ Trái mìn nổ chậm/ Người chết hai lần/ Thịt
da nát tan” (5); là đói khát, vất vưởng “Ghế đá công viên, dời ra đường phố/ Người
già co ro, buồn trong mắt đỏ/ Người già co ro, nhìn qua phố chợ/ Khi chiến
tranh về, đốt lửa quê hương” (6) để rồi nó trở nên đầy ám ảnh trong hình
bóng còm cõi, già nua của bà mẹ Việt Nam “Nhớ tới một đời đã xới vun, hôm nay bỏ
vườn với xóm thôn/ Chân mẹ già sao run quá, qua xương trắng với máu hồng” (7).
Càng thấm thía nỗi đau chiến tranh, khát vọng hòa bình càng
trở nên thao thiết trong những ca khúc của Trịnh. Ông mong mỏi ngày quê
hương “không có đạn bay” cho “tiếng chân trẻ rộn ràng”, cho “tay mẹ nồng
nàn” và “trời đất yên vui” (8). Ông mơ ngày đất nước thanh bình để được rong ruổi
khắp mọi miền, sẻ chia niềm vui sum họp “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi
không ngừng/ Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam/ Tôi đi chung cuộc mừng/ và mong sẽ
quên chuyện non nước mình” (9). Ông trông chờ ngày thống nhất “Đêm sông Hương
nhung nhớ/ Ngày Cửu Long mơ/ Mơ một ngày Hồng Hà góp hội trùng dương” (10) để
được nối vòng tay lớn xây dựng lại quê nhà “Chờ lúa thơm lên dưới những bàn tay
dân mình/ Chờ lòng yêu thương đất nước quyết đi xây thanh bình” (11). Có hiểu được
khát vọng hòa bình đau đáu trong tim Trịnh, ta mới hiểu được niềm vui bất tuyệt
trong giây phút với tay tới hòa bình “Rừng núi loan tin đến mọi miền/ Gió Hòa bình bay về muôn hướng/ Ngày vui con nước trôi nhanh/ Nhịp sống bao la xóa bỏ hận
thù” (12).
Khát vọng hòa bình trong những ca khúc Trịnh Công Sơn chẳng
phải là cái gì quá lớn lao, xa vời. Trái lại, nó nhỏ bé, giản dị, đơn sơ như
chính cuộc đời của bao nhiêu người dân Việt nghèo khổ, lam lũ thời ấy. Nó đơn
giản chỉ là ước mong được đi lại, cười đùa ngay trên mảnh đất mình sinh ra mà
không phải sợ hãi, âu lo; chỉ đơn giản là giấc ngủ bình yên không phải giật
mình vì tiếng súng. Vậy mà biết bao người Việt thời Trịnh Công Sơn đã phải đợi
chờ trong mỏi mòn, tuyệt vọng; thậm chí có người đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn
không thể tìm thấy được. Bất chợt tôi nhớ đến “giấc mộng bình thường” mà Phạm
Duy từng nói đến trong câu hát phổ từ thơ Huy Cận “Ngủ đi mộng vẫn bình thường/
À ơi có tiếng thùy dương đôi bờ” (13). Người Việt trông mong một cuộc sống bình
thường bởi họ đang phải ngụp lặn trong một thời đại bất bình thường. Nỗi trông
mong ấy vì thế mà trở nên thiêng liêng, cảm động biết chừng nào.
Bây giờ thì tôi đã có thể lý giải được vì sao ngày trước ông
cậu tôi thường vẫn hay thở dài và trầm tư mỗi khi nghe nhạc Trịnh. Chẳng phải nỗi
buồn chiến tranh và niềm mong mỏi hòa bình da diết trong những Trịnh Khúc kia
đã có sức lay động mãnh liệt đến cõi lòng một người từng đi qua chiến tranh như
cậu hay sao? Và phải chăng đó cũng chính là điều kì diệu khiến nhạc Trịnh lan tỏa
trong tâm hồn tôi, níu giữ trái tim tôi từ thời thơ bé? Xin cảm ơn Trịnh đã cho
tôi hiểu thế nào là sự tàn khốc của chiến tranh, hiểu được giá trị của hòa bình
để từ đó biết trân quý những gì mình đang có. Xin ông trên chín tầng trời, hãy
tiếp tục làm người du ca phiêu lãng, nguyện cầu cho quê hương được mãi mãi
thanh bình.
Chú thích:
(1) Lời ca khúc “Rồi như đá ngây ngô” của Trịnh Công
Sơn.
(2) Chữ dung của Nguyễn Tuân.
(3) Lời ca khúc “Mưa hồng ” của Trịnh Công Sơn.
(4) Lời ca khúc “Đại bác ru đêm” của Trịnh Công Sơn.
(5) Lời ca khúc “Ngụ ngôn mùa đông” của Trịnh Công Sơn.
(6) Lời ca khúc “Người già em bé” của Trịnh Công Sơn.
(7) Lời ca khúc “Người mẹ Ô Lý” của Trịnh Công Sơn.
(8) Lời ca khúc “Xin cho tôi” của Trịnh Công Sơn.
(9) Lời ca khúc “Tôi sẽ đi thăm” của Trịnh Công Sơn.
(10) Lời ca khúc “Lại gần với nhau” của Trịnh Công Sơn.
(11) Lời ca khúc “Chờ nhìn quê hương sáng chói” của Trịnh
Công Sơn.
(12) Lời ca khúc “Ta đã thấy gì trong đêm nay” của Trịnh
Công Sơn.
(13) Lời ca khúc “Ngậm ngùi” của Phạm Duy.
15/3/2020 Hồ Tấn Nguyên Minh
15/3/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét