Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ
sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới
Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn
trước, sự có mặt của nữ giới không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX, một số
cây bút nữ đã khẳng định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng chủ
yếu. Đặc biệt, ở bộ phận văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn
tượng ở số lượng cũng như chất lượng. Sau 1975, và nhất là sau 1986, bên cạnh
những tác phẩm của nam giới, vẫn tồn tại một mảng văn học nữ, mang đến một sức
sống mới, với những cảm xúc mới mẻ bằng sự mẫn cảm nữ giới. Sự lên tiếng của những
người viết văn nữ làm nên một diện mạo khác, riêng so với nam giới.Nhà phê bình Thái Phan Vàng Anh1. Sự lên tiếng của nữ giới
Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn trước, sự
có mặt của nữ giới không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX, một số cây bút nữ
đã khẳng định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng chủ yếu. Đặc
biệt, ở bộ phận văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn tượng ở số
lượng cũng như chất lượng. Sau 1975, và nhất là sau 1986, bên cạnh những tác phẩm
của nam giới, vẫn tồn tại một mảng văn học nữ, mang đến một sức sống mới, với
những cảm xúc mới mẻ bằng sự mẫn cảm nữ giới. Sự lên tiếng của những người viết
văn nữ làm nên một diện mạo khác, riêng so với nam giới. Ngoài thế hệ các nhà
văn trưởng thành từ giai đoạn chống Mỹ từng bước thay đổi cách viết như Lê Minh
Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Tú,… một thế hệ mới ra đời, đóng dấu ấn cá nhân bằng những
tác phẩm được đông đảo bạn đọc đón nhận. Cho đến nay, sau 40 năm thống nhất đất
nước, sau 30 năm đổi mới, đã có thêm ngày càng nhiều những nhà văn “tên tuổi”,
như Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh,… góp phần khẳng
định một thế hệ nhà văn cầm bút và trưởng thành từ sau 1975. Không có nhiều
tuyên ngôn, song bằng những trang viết lặng thầm, bền bỉ, bằng số lượng tác phẩm
được bạn đọc đón nhận và… thừa nhận, các nhà văn nữ thế hệ trưởng thành sau
1975 đã góp phần không nhỏ trong sự chuyển đổi văn học.
Sau 1975, số lượng các nhà văn nữ ngày càng nhiều. Tiếng nói
nữ giới trong văn chương có khi còn “trấn áp” cả tiếng nói của nam giới (tiếng
nói của nhà văn nam, của nhân vật nam). Ban đầu, cũng có không ít ý kiến cho rằng
văn chương phụ nữ, chuyện của phụ nữ,… chẳng bao giờ có tầm, một khi họ ít quan
tâm về… đại sự. Song, cuộc sống không chỉ được dệt nên bởi các đại tự sự; và
hơi thở của cuộc sống lại thường nằm ở những chi tiết, những câu chuyện nhỏ nhất
mà chỉ trái tim nhạy cảm của phụ nữ mới có thể phát hiện, trân quý và níu giữ.
Về sau, cùng với những thay đổi của xã hội trong quan niệm về chức năng, nhiệm
vụ của văn chương; cùng với những đòi hỏi khác của độc giả về văn học như một
loại hình giải trí, các câu chuyện của phụ nữ, gắn với phụ nữ,… ngày càng được
chú ý. Chuyện thường ngày, chuyện tình yêu, hôn nhân, chuyện tủn mủn, và những
vấn đề nhức nhối của xã hội,… đĩnh đạc bước vào các trang văn phụ nữ và trở
thành những câu chuyện không chỉ của phụ nữ. Tiếng nói của giới nữ trong văn học
khiến độc giả phải nghĩ khác về một bộ phận văn học nữ. Không còn đi bên lề,
văn xuôi nữ dần sóng đôi với văn xuôi của các nhà văn nam giới, cùng làm nên một
diện mạo nói chung của văn xuôi sau 1975. Và nếu xem sự vận động của văn xuôi
30 năm đổi mới như một đồ thị hình sin, không phải không có những thời kì, xếp
quanh vị trí đỉnh, vị trí cực đại là các cây bút nữ… Có thể nói, đã có một diễn
ngôn của giới nữ trong văn xuôi thế hệ nhà văn sau 1975.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, văn đàn Việt Nam xôn xao bởi
sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ mới, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Phạm Thị
Hoài gây ấn tượng với tiểu thuyết Thiên sứ và tập truyện ngắn Mê
lộ. Y Ban khẳng định ngay tên tuổi với truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ –
giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989 – 1990),
và tập truyện Người đàn bà có ma lực – giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội
của NXB Hà Nội năm 1993). Sau một vài truyện ngắn gây tiếng vang, Võ Thị Hảo trở
thành một tên tuổi kể từ tập truyện Biển cứu rỗi. Tiếp ngay đó, Nguyễn Thị
Thu Huệ với mỗi năm mỗi tập truyện Cát đợi, Hậu thiên đường, Phù
thủy, và gần đây là Thành phố đi vắng (giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam 2012), thể hiện sức bền và không ngừng đổi mới cách viết của nhà văn… Với
những tác phẩm xuất bản rải rác từ giữa những năm 80, Lý Lan, Dạ Ngân, Bích
Ngân,… đã bền bỉ xác lập chỗ đứng sau ba thập kỉ sáng tác không ngừng nghỉ ở
nhiều thể loại. Hơn kém nhau chừng nửa thập kỉ, xuất bản trước sau cũng chừng nửa
thập kỉ, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh,… cùng
tạo dấu ấn khi còn khá trẻ và cùng làm nóng văn đàn với rất nhiều tập truyện ngắn
ở thập niên 90 của thế kỷ XX.
Đáng mừng là trong 15 năm đầu thế kỷ XXI, những cái tên từng
lạ lẫm, mới mẻ ấy không chỉ trở nên rất quen thuộc mà tiếp tục buộc độc giả phải
nhắc tên. Một số tác giả đã thử nghiệm ở tiểu thuyết, tản văn và có những thành
công mới: Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Dạ Ngân, Thùy Dương, Võ Thị Xuân Hà, Trần
Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh,… Văn xuôi nữ đầu thế kỷ XXI còn được tiếp sức bởi
một số nhà văn nữ thế hệ sau 1975 sống và viết ở hải ngoại như Thuận, Đoàn Minh
Phượng,… với nhiều tác phẩm lần đầu được xuất bản ở trong nước. Những tên tuổi,
những phong cách nghệ thuật đã hình thành một dòng văn nữ trong văn học Việt
Nam 30 năm đổi mới. Và để có được những thành tựu không nhỏ ấy, các nhà văn nữ
đã luôn “rút ruột” sáng tác cho chính mình, cho giới mình, với tâm niệm: “Luôn
ước muốn sáng tạo một nền văn học cho chính mình (a literature of your own).
Cho chính mình? Tức là cho thời đại mình” [1].
Bàn về các thế hệ những nhà văn nữ, nhà văn Văn Giá cho rằng,
nhìn vào những đóng góp của nhà văn nữ ở nước ta, thì thời nào cũng có những đỉnh
cao, cái tôi trong văn học nữ hôm nay là cái tôi đa diện, đa ngã [2]. Trong xu
thế hội nhập văn học toàn cầu, thế hệ nhà văn nữ sau 1975 không tỏ ra thụ động.
Một số tác giả nữ đã đạt giải thưởng ở nước ngoài. Trong bộ sách Phái đẹp
– Cuộc đời và Cây bút, tập 1, ghi lại 43 chân dung nhà văn nữ nhiều thế hệ
(vẫn còn một số nhà văn chưa được điểm diện) chỉ có Nguyễn Ngọc Tư (2008) được
trao Giải thưởng Văn học ASEAN (nhà văn nữ duy nhất trong số 17 nhà văn được giải
thưởng từ 1996-2013).
Các nhà văn nữ lên tiếng về điều gì? Nói như Y Ban: “Tôi muốn
xã hội hãy đọc tác phẩm của các nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu.
Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân
mình” [3]. Như vậy, văn chương nữ trước hết là tiếng lòng, là khát khao của phụ
nữ, là bất cứ chuyện gì liên quan đến họ, giúp họ trải nghiệm cuộc sống, khẳng
định và giải phóng bản ngã. Văn xuôi nữ kể những câu chuyện về tình yêu, hôn
nhân, gia đình,… không phải cái cách lấy những đề tài gần gũi nhất của phụ nữ để
kể, tả, bình luận từ “bên ngoài” như các nhà văn nam giới, mà kể về những cảm
giác, những run rẩy hạnh phúc, đớn đau,… chỉ của phụ nữ. Văn xuôi thế hệ các
nhà văn nữ sau 1975 vẫn quan tâm đến những chuyện lớn của đất nước, của xã hội,
song thường từ những góc khuất cuộc sống, những thân phận bé nhỏ. Đã có một
“chiến tranh mang khuôn mặt nữ giới” trong sáng tác của Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Võ
Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà,… Đã có những câu chuyện lịch sử được nhìn từ góc
nhìn giới, nhân vật lịch sử được chiêu tuyết hay kết tội đều từ điểm nhìn bên
trong (truyện ngắn lịch sử của Trần Thùy Mai, Trần Thị Trường, tiểu thuyết lịch
sử của Võ Thị Hảo…). Cũng đã có vô vàn tiếng nói phẫn nộ, bức xúc trước những
tiêu cực, tha hóa của xã hội thời hậu chiến trong các tác phẩm của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan,… Có những bức tranh xã hội
rộng lớn được các nữ nhà văn lựa chọn thể hiện bằng tiểu thuyết (như của Võ Thị
Hảo, Dạ Ngân, Thùy Dương, Thuận,…). Có nhiều chi tiết đời sống lớn, nhỏ,… được
tái hiện từ những ngẫm, nghĩ, cảm nhận của các nhà văn nữ qua tản văn (như của
Dạ Ngân, Bích Ngân, Thảo Hảo, Trần Thanh Hà,…). Nhìn chung, văn xuôi nữ thế hệ
nhà văn sau 1975 không chỉ bao quát nhiều đề tài mà còn trải rộng ở nhiều thể loại.
Ở đề tài nào, thể loại nào, các nhà văn nữ cũng tạo nên những dấu ấn nhất định,
không chỉ bởi tài năng, bởi những nhọc nhằn nghiêm túc của nghiệp viết lách, mà
còn bởi những đặc trưng giới tính đậm nhạt trong các trang văn.
2. Từ ý thức giới đến tinh thần nữ quyền
Ý thức giới (Gender awareness) là khái niệm chỉ mức độ
kiến thức và sự hiểu biết về khác biệt trong vai trò và mối quan hệ giữa nam giới
và nữ giới. Ý thức giới được đề cập nhiều ở phương diện xã hội học, xuất phát từ
nỗ lực đem lại bình đẳng giới, bảo vệ giới nữ trước những định kiến xã hội, những
quan niệm truyền thống vốn coi thường phụ nữ, mặc định phụ nữ phải yếu kém hơn
nam giới. Dĩ nhiên, phụ nữ có giới tính riêng – giới tính nữ, phân biệt với giới
tính nam. Song khái niệm “nữ tính” vốn do đàn ông gán cho phụ nữ để chỉ những đặc
điểm về mặt xã hội (thay vì những đặc điểm thuộc về bản tính, giới tính), từ đó
quan niệm phụ nữ là yếu kém (yếu đuối), phụ thuộc,… chỉ là kết quả của ý thức hệ
nam quyền kéo dài qua nhiều thế kỷ. Và với cách nhìn lấy nam giới là trung tâm,
người nữ đã bị biến thành… phụ nữ. Nói như Simone de Beauvoir trong câu nói nổi
tiếng toàn thế giới: “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ”.
Đấu tranh cho giới luôn là hoạt động âm thầm của nhiều thế hệ
phụ nữ từ xưa đến nay. Song, phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là vào thế kỷ XVIII, những tiếng nói của phụ nữ, vì phụ nữ, mới được vang lên một cách mạnh mẽ,
riết róng. Xuất bản quyển sách đầu tay với tựa đề Một đề nghị nghiêm túc
cho quý bà (A Serious Proposal to the Ladies, 1694), và nhiều tác phẩm
liên quan đến phụ nữ sau đó, nhà văn người Anh Mary Astell được xem là một
trong những người phụ nữ đầu tiên đề cập đến các vấn đề nữ quyền. Tuy vậy, phải
đến thế kỷ XVIII, trên thế giới mới thực sự xuất hiện những nhà nữ quyền đúng
nghĩa. Với cuốn Sự bào chữa về quyền của phụ nữ (Vindication of the
Rights of Woman, 1792) và nhiều tác phẩm khác, Mary Wollstonecraft, nhà triết học,
nhà văn người Anh, đã tiến hành một cuộc bút chiến “vì giới tính của tôi, không
phải vì bản thân” và được mệnh danh là là “nhà nữ quyền đầu tiên”, “người mẹ của
thuyết nữ quyền”. Cùng thời với Mary Wollstonecraft, tại Pháp, Olympe de Gouges
cũng đưa ra Bản tuyên ngôn về những quyền của đàn bà và nữ công dân
(Declaration of the Rights of Woman and the Female Citizen, 1791) và đã đấu
tranh vì phụ nữ (và vì chế độ da đen) cho đến chết với lời tuyên bố dõng dạc: “Một
phụ nữ có quyền bước lên đoạn đầu đài thì họ cũng phải có quyền bước lên diễn
đàn”. Được xem là nhà nữ quyền đầu tiên tại Mỹ, Judith Sargent Murray cũng đã
lên tiếng đòi bình đẳng giới giữa nam và nữ với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng
giới (On the Equality of the Sexes, 1790), mở đường cho suy nghĩ, những ý
tưởng mới. Tư tưởng nữ quyền thế kỷ XIX được biết đến với một số tên tuổi tiêu
biểu như Bertha von Suttner (1843- 1914) – tiểu thuyết gia người Áo, Emmeline
Pankhurst (1858-1928) – nhà hoạt động chính trị người Anh,… Sang thế kỷ XX, nhà
văn người Anh Virgina Woolf với Căn phòng riêng (A Room of One’s Own,
1929), Ba đồng ghinê (Three Guineas, 1938) và nhà triết học, nhà văn
Pháp Simone de Beauvoir với Giới tính thứ hai (1949) đã khiến tư tưởng
nữ quyền lan rộng ra toàn thế giới… Hoạt động nữ quyền và đấu tranh vì bình đẳng
giới liên tục diễn ra sôi nổi từ ấy cho đến giờ. Ý thức về giới tính ở chính giới
nữ cũng đã được nâng lên nhiều so với các thế kỷ, các thập kỷ trước. Như vậy,
chỉ có phụ nữ mới nói được tiếng nói của giới họ. Điểm lại tiếng nói nữ quyền
trên thế giới, càng thấy rõ rằng, các nhà văn nữ tỏ ra có nhiều ưu thế hơn
trong việc giúp phần còn lại của thế giới và cả thế giới hiểu rõ phụ nữ, họ là
ai, thông qua các tác phẩm văn chương.
Ở Việt Nam, các nhà văn nữ, đặc biệt là thế hệ sau 1975, cũng
là những người đưa ý thức giới từ đời sống vào văn học, và ngược lại, bằng văn
học, nâng cao những nhận thức về giới. Các nhận thức về việc phụ nữ phải được
xem là một nửa dân số, phụ nữ được quyền tham gia và quyết định ở mọi phương diện
đời sống, phụ nữ phải được bảo vệ và bồi dưỡng, đào tạo, phụ nữ phải được tự do
trong khẳng định bản ngã, tự do trong tình dục,… đã được nhiều nhà văn nữ công
khai lên tiếng, giúp cho cả hai giới nam và nữ nhận biết sự khác biệt giới tính
cũng như những đòi hỏi bức thiết về bình đẳng giới. Không đến mức phủ định hoàn
toàn cách nhìn nhận của nam giới về phụ nữ như nhà văn, nhà triết học mang tư
tưởng nữ quyền người Pháp François Poulain de la Barre (1647-1723) cho rằng: “Tất
cả những gì được những người đàn ông viết về phụ nữ đều phải được xem xét với sự
nghi ngờ, bởi vì họ vừa là quan tòa vừa là bè phái” [4]; song các nhà văn nữ thế
hệ sau 1975 ở Việt Nam đã chứng minh rằng, nhờ có họ, xã hội Việt Nam đã có những
cách nhìn khác hơn về phụ nữ so với trước. Phụ nữ trong trang viết của các nhà
văn nữ, phụ nữ của đất nước Việt Nam thời hậu chiến, thời đổi mới, đã ý thức
hơn về bản thân, về giới tính của chính mình. Và từ những thức tỉnh giới tính ấy,
trong nhiều tác phẩm, tiếng nói nữ giới (tiếng nói của nhà văn nữ, của nhân vật
nữ, của tự thân những câu chuyện về phụ nữ…) đã trở thành những diễn ngôn mang
đậm tinh thần nữ quyền.
Thật ra, không hẳn sáng tác của bất kỳ nhà văn nữ nào cũng
mang tinh thần nữ quyền. Song, mang đặc trưng của giới, các nhà văn nữ khó có
thể chối bỏ những cảm nhận nữ tính trong tư tưởng, trong cách hành văn của bản
thân. Với những nhà văn nữ mang ý thức viết về (cho) mình/ giới mình, lối viết nữ
giới và những câu chuyện liên quan đến các trải nghiệm giới tính lại càng được
bộc lộ rõ. Cũng chỉ những trải nghiệm giới tính (của chính bản thân, hay của những
hóa thân thành những số phận đồng giới) mới khiến văn xuôi nữ trở thành những
diễn ngôn của “giới tính thứ hai”.
Kể từ sau 1975, chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại xuất
hiện nhiều đến thế những tác phẩm văn học mang đậm ý thức giới tính. Nhiều tác
phẩm đã công khai “danh tính” của giới nữ ngay từ nhan đề: Hành trang của
người đàn bà Âu Lạc (Võ Thị Hảo), Người đàn bà ám khói (Nguyễn
Thị Thu Huệ), Người đàn bà bí ẩn (Phạm Thị Ngọc Liên), Người đàn
bà bơi trên sóng (Bích Ngân), Người đàn bà kể chuyện, Tiểu thuyết đàn
bà, Ba người đàn bà (Lý Lan), Đàn bà xấu thì không có quà, I am
đàn bà, Người đàn bà có ma lực (Y Ban), Trên mái nhà người phụ nữ, Gánh
đàn bà (Dạ Ngân),… Nhiều tiêu đề tác phẩm chứa đựng những kí hiệu “ám chỉ”
về chuyện của giới nữ: Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Xuân Từ Chiều (Y
Ban); Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Góa phụ đen (Võ Thị Hảo), Thiếu
phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Gia đình bé mọn (Dạ
Ngân), Chuyện của con gái người hát rong (Võ Thị Xuân Hà), Gái một
con (Trần Thanh Hà), Thần nữ đi chân không (Trần Thùy Mai),… Đa
dạng về phong cách, thể loại, những người đàn bà viết thế hệ sau 1975 đã đi từ
những diễn ngôn cá nhân đến những diễn ngôn của giới, biến những ý thức về giới
trong xã hội thành những “tuyên bố” của giới nữ thông qua những câu chuyện trải
nghiệm giới tính trong văn chương. Đó là thân phận phụ nữ với những bi kịch, những
nỗi đau bởi chiến tranh trong các tác phẩm Trong nước giá lạnh (Võ
Thị Xuân Hà), Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Tiểu thuyết đàn bà (Lý
Lan),… Đó là những mặc cảm sinh lí, mặc cảm giới tính trước những định kiến
“nam quyền” của xã hội trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực (Y
Ban), Hậu thiên đường, Thiếu phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Hồn
trinh nữ, Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Thập tự hoa,
Trăng nơi đáy giếng (Trần Thùy Mai) hay Mưa ở kiếp sau (Đoàn
Minh Phượng), Paris 11 tháng 8 (Thuận),…
Với lối viết “tự ăn mình”, nhân vật trong văn xuôi nữ chính
là sự hóa thân của chủ thể nữ giới. Ý thức giới thể hiện rõ ở phương thức kể
chuyện từ ngôi thứ nhất, nhân vật tôi/ đàn bà/ người kể chuyện kể chuyện mình,
chuyện giới mình, chuyện thế sự,… qua trường nhìn phụ nữ. Về phương diện này,
các nhà văn nữ thường chọn hình thức tự thuật. Điểm nhìn của chuyện/ truyện hầu
hết đều là điểm nhìn bên trong. Nhân vật và người kể chuyện cũng thường đồng nhất,
xưng tôi để kể những chuyện chỉ riêng tôi mới biết (chuyện trinh tiết, chuyện
trở thành đàn bà, chuyện ngoại tình, chuyện chối bỏ bản năng làm mẹ,…). Những
bí ẩn giới tính trong nhiều trang văn nữ giới trở thành những sự chia sẻ, trải
lòng. Tôi chỉ sống để đi tìm những bí ẩn của các số phận đàn bà trong gia đình
tôi là câu chuyện của Tôi – Mai Chi trong Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng).
Tôi, “cái giống lạc loài”, không đủ dũng khí để bảo vệ hài nhi trong bụng –
cũng là “cái giống lạc loài” của tình yêu… lại là một câu chuyện giới tính khác
được lồng ghép khéo léo qua hình thức kể chuyện bằng thư độc đáo Bức thư gửi
mẹ Âu Cơ (Y Ban). Tôi, người phụ nữ đã đi qua nhiều khúc đoạn của cuộc đời,
đã từng bay lên thiên đường và rơi xuống bởi gánh đàn bà trên vai,… cũng là những
chia sẻ đằm thắm trong một tản văn của Dạ Ngân (Gánh đàn bà),… Dưới hình thức tự
sự như một lời độc thoại, song lại luôn đặt vấn đề để đối thoại với chính mình,
giới mình; đối thoại với nửa còn lại của thế giới… truyện ngắn, tiểu thuyết tự
thuật và tản văn nữ sau 1975 đã đem “chuyện” của giới nữ đến gần hơn với công
chúng. Nhiều tác phẩm có sự đánh tráo ngôi kể, người kể chuyện tôi/ đàn ông/ hoặc
ẩn sau một gương mặt phụ nữ khác (truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tiểu thuyết
Võ Thị Xuân Hà…); cũng có nhiều tác phẩm được kể bởi lối trần thuật khách quan
hóa từ ngôi thứ ba, nhưng điểm nhìn hạn tri khác với truyền thống và diễn ngôn
chủ đạo của tác phẩm vẫn là diễn ngôn nữ giới, điểm nhìn kể chuyện vẫn là điểm
nhìn bên trong của nữ giới. I am đàn bà (Y Ban), Thiếu phụ chưa
chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Gia đình bé mọn, Con chó và vụ li hôn (Dạ
Ngân), Tiểu thuyết đàn bà (Lý Lan),… là những tác phẩm như thế. Truyện
được kể từ điểm nhìn của người kể chuyện hàm ẩn/ tác giả nữ. Điểm nhìn nữ giới
này lại thường xuyên đồng nhất/ thống nhất với điểm nhìn của các nhân vật nữ
(Thị trong I am đàn bà, My trong Thiếu phụ chưa chồng, Tiệp, Đoan trong Gia
đình bé mọn, Con chó và vụ ly hôn, Thoa trong Tiểu thuyết đàn bà)… Với đặc điểm
đó, văn xuôi nữ thế hệ nhà văn sau 1975 hiếm khi khách quan, trung tính. Giọng
điệu trần thuật trong nhiều tác phẩm thường giàu cảm xúc. Đặc trưng giới và ý
thức về giới khiến các nữ văn sĩ thường để “lộ” tư tưởng, quan niệm, tình cảm
chủ quan nhiều hơn so với các nhà văn nam giới. Điều này một mặt giúp các diễn
ngôn nữ giới trong văn chương được bộc lộ rõ nét; song mặt khác lại khiến họ
đôi khi đã tự khuôn mình vào khu vực “văn học giới”, thay vì nhập vào dòng văn
học đương đại nói chung.
3. Nữ quyền luận và hiện sinh – những tiếng nói khẳng định
nhân vị giới
Simone de Beauvoir vừa là một nhà nữ quyền luận vừa là nhà
văn mang tư tưởng hiện sinh. Kết hợp, bổ sung hai triết thuyết lớn với những nhận
định nhân bản, de Beauvoir được xem là một trong những người sáng lập ra thuyết
Nữ quyền hiện sinh. Tiếp nhận những lí thuyết hiện đại, thế hệ nhà văn nữ sau
1975 đã đem lại một tinh thần mới cho văn học đương đại – điều cơ bản nhất là
khẳng định nhân vị đàn bà. Ý thức nữ quyền là sự phát triển và thể hiện cao nhất
của ý thức về giới ở phụ nữ. Vượt lên trên sự tự ý thức về giới tính, về những
đặc trưng của giới nữ trong tương quan với giới nam, ý thức nữ quyền là sự tự
nhận thức về quyền và địa vị của phụ nữ. Từ những nhận thức ấy, những nhà văn nữ
đã bằng nhiều cách, phản đối những gì chống lại phụ nữ trên mọi phương diện,
trong đó có bất bình đẳng tính dục.
“Trong bản thể con người vốn có một thứ căn bản nguyên sơ là
dục vọng, và thứ dục vọng này đưa đến ham muốn tiếp xúc nhục thể, tạo thành sự
cộng hưởng sinh hoạt” (Michel Foucault) [5]. Nhà nữ quyền hiện sinh
de Beauvoir nổi tiếng với những nhận định về bình đẳng giới trong tình dục: “Để
trở thành một cá nhân hoàn toàn và bình đẳng với nam giới thì người nữ phải được
tiếp cận với thế giới nam giống như người nam tiếp cận với thế giới nữ” [6]. Khẳng
định nhân vị đàn bà, đã có một hiện sinh tính dục trong các trang văn phụ nữ.
Cùng với những diễn ngôn tính dục được trao cho phụ nữ, văn xuôi thế hệ các nhà
văn nữ sau 1975 đã làm nên một âm hưởng nữ quyền trong bức tranh chung của văn
học đương đại Việt Nam. Trong hành trình xác lập cái tôi nữ giới, người kể chuyện/
tác giả nữ không chỉ khẳng định bản ngã mà còn tự giải phóng bản thân, bằng ý
thức về vẻ đẹp nữ giới; ý thức về cái tôi cá thể; về những đòi hỏi bản năng,…;
những trải nghiệm tính dục cũng xuất hiện với mật độ ngày càng nhiều (tác phẩm
Y Ban, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Thuận…).
Những năm đầu sau 1986, bối cảnh xã hội những năm tháng vừa mới
ra khỏi chiến tranh, vừa làm quen với thời đổi mới khiến ý thức nữ quyền trong
nhiều tác phẩm dù đã lên tiếng, song vẫn chưa được đẩy lên đến mức bạo liệt (Bức
thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực, Con chó và vụ ly hôn...). Nhà không
có đàn ông của Dạ Ngân là tác phẩm đề cập trực tiếp quyền của đàn bà khá sớm. Từ
cái nhìn “bên trong” của nhân vật, của giới, Dạ Ngân bình luận: “Những người
thân của chị đã thành công khi họ nhân danh đủ thứ, truyền thống và tiêu chuẩn,
tình thương và sự hy sinh nhưng không ai để lộ một lẽ nhân danh khác, ấy là
tính đàn bà. Họ đã gắp gọn ra khỏi trái tim người phụ nữ trẻ ấy khát vọng tình
yêu, cái mà con người cần hơn mọi thứ, vì từ đó mà có tất cả”.
Đầu thế kỷ XXI, vượt lên định kiến, văn xuôi thế hệ các nhà
văn nữ sau 1975 không chỉ là diễn ngôn của giới mà trở thành những diễn ngôn
mang ý thức nữ quyền – hiện sinh. Theo Soeren Kierkegaard – ông tổ sáng lập chủ
nghĩa hiện sinh: “Hiện sinh, là bước ra khỏi phòng tối, là không chấp thuận cái
kín cổng cao tường, là chối từ cái im lìm, cái bất động của cái gì đã đạt, đã
xong, đã rồi, đã đủ… Không. Sống là còn đòi hỏi thêm… thêm… Thế còn chưa đủ. Thế
vẫn chưa vừa. Hôm nay phải khác hôm qua. Ngày sau không thể nào lập y như bữa
trước” [7]. Không chấp thuận cái kín cổng cao tường… nhiều nhà văn đã lên tiếng
bênh vực cho giới nữ, kể cả “nổi loạn tính dục” để khẳng định vị thế. Nhân vật
của Nguyễn Thị Thu Huệ “luôn muốn một cái gì như gió bão chứ không đủ sức chịu
đựng và chờ đợi sự thấm lâu của mưa ngâu” (Người xưa); “Tôi cóc cần sống vì ai.
Tôi phải vì tôi bởi cũng có ai nghĩ đến tôi đâu” (Thiếu phụ chưa chồng).
Tính dục là nhu cầu, là đời sống của nữ giới, là tự do cá
nhân. Khẳng định nhân vị trong đời sống tính dục trở thành biểu hiện rõ nhất của
ý thức nữ quyền hiện sinh, bên cạnh những giải thiêng đạo đức, truyền thống,… từng
xuất hiện trong văn xuôi nữ giai đoạn trước. Với nhiều truyện ngắn (I am đàn bà,
Gà ấp bóng…) và nhất là với hàng loạt tiểu thuyết tấn công mạnh mẽ vào ý thức hệ
nam quyền (Xuân Từ Chiều, Trò chơi hủy diệt cảm xúc,…), Y Ban vẫn luôn là nhà
văn sôi sục ý thức nữ quyền hơn cả. Tiêu đề truyện, phát ngôn ngắn gọn của một
nhân vật nữ trong truyện ngắn Y Ban “I am đàn bà”, chính là lời xác tín nhân vị
đàn bà dẫu từ góc khuất bản năng giới. Được viết bằng ngôn ngữ thân thể, vấn đề
tính dục trong tiểu thuyết nữ có khi còn mạnh mẽ, bạo liệt hơn so với tiểu thuyết
của nhà văn nam giới. Những năm 60 của thế kỷ XX, trong một bộ phận văn học miền
Nam, Nguyễn Thị Hoàng khá bạo liệt khi để nhân vật nữ chiêm ngưỡng thân thể đàn
ông và khơi lên những cồn cào, rạo rực bản năng: “Trâm nhìn khoảng cườm chân trắng
nõn của Minh hé lên giữa ống quần và tất đen”; “chiếc áo len xanh ngắn rướn lên
để hở một khoảng da bụng trắng muốt” (Vòng tay học trò). Thuộc thế hệ khác,
trong bối cảnh xã hội khác, nhiều nhà văn nữ thế hệ sau 1975 đã thay đổi những
cái nhìn duy dương vật vốn lấy nam giới làm trung tâm. “Tôi nằm phơi dưới cơn
mưa, đồng loã với đất trời trêu ngươi bản lĩnh chuyên chính của Tăng…”; “Tôi ngủ
trên cỏ, trần truồng, thích thú…”, “Cười nhạo sự thánh thiện. Mơn trớn và giục
giã…” (Trong nước giá lạnh – Võ Thị Xuân Hà).
Với cảm thức hiện sinh, các nhà văn nữ đã ý thức khắc họa một
kiểu nhân vật nữ lạc lõng, xa lạ giữa một thế-giới-vắng, thế giới phi lí. Trong
các không gian rỗng, nhân vật nữ thường rơi vào tâm trạng cô đơn, chông chênh
trong trạng thái vừa muốn kết nối vừa tách rời cuộc sống. “Bước qua mỗi ngày sống,
người ta tiến gần đến với cái chết của mình hơn” (M. Heidegger). Lo âu, thiếu vắng,
cái chết trở thành phổ biến trong nhiều tác phẩm. Những cái chết phi lí trong một
thế giới vô cảm (Thành phố đi vắng – Nguyễn Thị Thu Huệ). Những cái chết
được lựa chọn sau những phút giây truy tìm bản thể, trả lời/ không thể trả lời
được câu hỏi về sự hiện tồn “Tôi là ai?” (tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng). Những
cái chết tất yếu sau nỗi đau phải sống (tiểu thuyết Thuận),… Như vậy, ngoài ý
thức về bản năng tính dục từ góc nhìn giới, ý thức về bản năng chết “có chức
năng đưa tất cả những gì ở trạng thái sống động về trạng thái bất động” [8] cũng
xuất hiện trong sáng tác của nhiều nhà văn nữ.
Kết luận
Văn học sau đổi mới đã đi được một chặng đường 30 năm. Các
nhà văn nữ thế hệ sau 1975 cũng đã có thâm niên sáng tác từ 20 đến 30 năm và có
thể còn dài hơn nữa (Nhiều tác giả vẫn đang ở giai đoạn sung sức, bút lực dồi
dào, hứa hẹn sẽ tiếp tục đem đến những tác phẩm mới có giá trị). 30 năm trong
tiến trình vận động của văn học chỉ là một giai đoạn ngắn, nhưng sự nghiệp 20,
30 năm sáng tác với nhiều tác giả là một sự nghiệp đáng tự hào. Theo quy luật
sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, một vài thập kỉ, một vài thế kỉ nhiều khi
cũng chỉ còn lại một vài tên tuổi. Song cũng theo quy luật về sự “trỗi dậy”, “bừng
nở” trong các giai đoạn văn học chuyển đổi, bước sang một trang mới, có những
giai đoạn văn học ngắn lại đem đến những bước tiến dài. 30 năm văn học đổi mới
với sự đóng góp không thể phủ nhận của các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 là một
giai đoạn như thế. Các nhà văn nữ đã cùng nhau làm nên một dòng văn học nữ giàu
bản sắc, tiếp tục cất lên tiếng nói của nữ nhân Việt Nam. Tiếng nói nữ giới ấy
không còn là những tiếng nói cá nhân, nhỏ lẻ như những thời kì, những giai đoạn
văn học trước. Tiếng nói phụ nữ trong văn xuôi 30 năm đổi mới đã là tiếng nói
chung của giới nữ. Nhờ sự tập hợp đông đảo ấy, các nhà văn nữ thế hệ sau 1975
đã không chỉ khẳng định ý thức giới tính mà còn tạo nên một diễn ngôn của giới
mang đậm âm hưởng nữ quyền. Văn học nữ nhờ đó không còn là một bộ phận, một khu
vực văn học “ngoại biên” của nền văn học chính thống. Văn học, văn xuôi nữ trở
thành một bộ phận không thể chia cắt, tách rời của nền văn học đương đại. Diện
mạo của văn học Việt Nam đương đại cũng sẽ khuyết thiếu, bất thành hình nếu
không tính đến sự góp phần của văn xuôi nữ, đặc biệt là văn xuôi của các nữ nhà
văn thế hệ sau 1975.
Chú thích:
[1] Võ Thị Xuân Hà: Văn trẻ - bình tĩnh và vững tâm,
(tham luận tại Tọa đàm giao lưu nhà văn trẻ trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế quảng
bá văn học Việt Nam 2010). Nguồn:
http://tonvinhvanhoadoc.vn/
[2] Ý kiến phát biểu tại Hội thảo về bộ sách “Phái đẹp –
Cuộc đời & Cây bút”, Nguồn:
http://vanvn.net/
[3] Y Ban: ‘Hãy lắng nghe tác phẩm của nhà văn nữ’, Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/
[4] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng: “Tư tưởng của Simone de
Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Nguồn:
http://www.chungta.com/
[5] Michel Foucault: “Lịch sử tính dục: Chương năm : Nữ
giới” (Khổng Đức dịch). Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
[6] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng: “Tư tưởng của Simone de
Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Tlđd.
[7] Dẫn theo Bùi Giáng: “Soeren Kierkegaard và cơ sở chủ
nghĩa hiện sinh”, Tư tưởng hiện đại, NXB Văn hóa Sài Gòn, Tp.HCM., 2008.
[8] Sigmund Freud: “Cái tôi và cái nó” (Trần Thị Mận dịch
với sự giúp đỡ của Jean - Noel Cristine), NXB Tri thức, H., 2015, tr. 86.
24/6/2020 Thái Phan Vàng Anh
24/6/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét