"Nửa đêm gõ mõ"
của Phạm Tiến Duật
Bài thơ đưa ta về gặp lại một cuộc chiến tranh khác. Cuộc chiến
không tiếng súng, không có chiến công, không có huy chương, chỉ thấy nỗi đớn
đau của người phụ nữ ở những làng quê sau bom đạn. Một cuộc chiến không nói được
bằng lời, sâu thẳm hơn, là sự cô đơn và trống vắng của người phụ nữ trong những
ngày còn lại trên cõi nhân gian này.Nhà thơ Phạm Tiến DuậtNỬA ĐÊM GÕ MÕ
Sư thầy tụng kinh từ đầu đêm
Sao quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ
Sao sư thầy không gõ mõ
Lại vừa tụng kinh vừa gõ đầu mình
Có phải đâu là Thị Kính hiện hình
Đi tu hẳn khó khăn vì tuổi chưa già được
Dù là nữ tu có thể nào thoái thác
Chính cơ thể mình – thân gái trời ban
Trong phòng riêng có giờ phút ngỡ ngàng
Thấy dấu hiệu của thời còn sinh nở
Tội nghiệp màu trắng, tội nghiệp màu đỏ
Tội nghiệp màu xanh, tội nghiệp chính thân mình
Nam – mô – a – di – đà – Phật
Cho con xin từ giã phận mình
Những ham muốn đời thường
đừng bắt con đeo đẳng
Lộc của người xin trả cho người
Sự yên bình đừng phá màu cay đắng
Sư thầy tụng kinh từ đầu đêm
Sao quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ
Sao sư thầy không gõ mõ
Lại vừa tụng kinh vừa gõ đầu mình
Có thể nào những day dứt thời bình
Cũng có thể làm vết thương thuở nào tái phát
Trời đã về khuya tiếng mõ dường thưa thớt
Tiếng cầu kinh nhỏ dần trong gió đêm.
Bài thơ trên nằm trong Chương III, trường ca Tiếng bom và
tiếng chuông chùa của Phạm Tiến Duật toàn tập, NXB Hội Nhà văn,
2000. Chuyện kể rằng, ở Thái Bình, có hàng chục ngôi chùa, hằng trăm sư nữ, xuống
tóc vào chùa. Vũ Cao, tác giả Núi Đôi và Phạm Tiến Duật đã về Thái
Bình, gặp lại những sư nữ vốn là chiến sĩ, thanh niên xung phong của thời chống
Mỹ tại các cung đường Trường Sơn. Kết thúc chiến tranh, khi về lại quê nhà, tuổi
xuân đã đi qua. Những người bạn trai cùng lứa thì nằm lại dọc đường ra trận,
không về. Người trở về, có gia đình riêng. Bao nhiêu nỗi niềm, và, họ đã xuống
tóc đi tu. Chiếc áo xanh trận mạc thay bằng những chiếc áo nâu sồng.
Ở bài thơ này, Phạm Tiến Duật dẫn lại Kinh Phật Thủ Lăng
Nghiêm trước khi đi vào những nỗi niềm sau cuộc chiến:
Tất cả sẽ thành nước cả thôi. Người ta
Buồn quá thì chảy nước mắt ra…
Có điều là, cả bài thơ không thấy giọt nước mắt, nỗi đau như
nén lại, chảy ngược vào trong. Chú ý sẽ thấy, khổ thứ nhất và khổ thứ năm mới
nói về tụng kinh gõ mỏ. Các khổ thơ khác, chủ yếu bàn về phận người. Tuy là vậy,
các khổ vẫn xoắn quyện vào nhau, bật lên bi kịch chiến tranh. Phạm Tiến Duật là
nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ trên, tác giả
ghi chú, viết tại Hà Nội, tháng 7 năm 1997. Thời điểm này, cuộc chiến đã lùi xa
hai mươi năm. Nhưng rồi, mọi thứ như cứ bày ra đấy, vẫn còn đó bao nỗi niềm,
bao xao xuyến. Làng quê sau chiến tranh, dưới mỗi mái nhà là một số phận. Dưới
mỗi mái chùa là một bài thơ buồn. Bài thơ có sáu khổ. Mỗi khổ như tiếng mõ, gõ
vào đêm vắng. Người tụng kinh tụng từ đầu đêm. Người nghe kinh, nghe suốt cả
đêm, không ngủ, day dứt. Tiếng nhặt khoan của tiếng kinh kèm theo tiếng mõ, cộng
với cái giá lạnh của mùa đông, cứa vào canh khuya. Lạnh lùng. Mưa gió. Cô đơn.
Ôi, những cảnh đời của thời hòa bình.
Mười năm sau, năm 2007, Phạm Tiến Duật từ biệt cõi đời.
Bài thơ không có câu nào, chữ nào nói về cảnh bom rơi đạn nổ.
Chiến tranh lặn vào dòng sông hồi ức. Chiến tranh lùi dần vào quá khứ. Những
tàn khốc, bạo liệt của nó, giờ đây, hiển hiện trên những thân phận cụ thể.
Hình ảnh: Sao sư thầy không gõ mõ/ Lại vừa tụng kinh vừa
gõ đầu mình hai lần lặp lại. Ý thơ cho thấy rằng, có thể đó là những di chứng
của chiến tranh hoặc đó là những hình ảnh bi thương của thời trận mạc vẫn cứ ám
ảnh khôn nguôi trong thẳm sâu tâm tưởng của người trở về.
Lại những, những dòng thơ ở các khổ thơ tiếp mới là những
nhát cắt, đau đớn, như muối xát vào tuổi thanh xuân, chưa già, vào “cơ thể mình
– thân gái trời ban” , “dấu hiệu của thời còn sinh nở“, “tội nghiệp màu trắng,
tội nghiệp màu đỏ, tội nghiệp màu xanh, tội nghiệp chính thân mình“. Song, đau
đớn nhất là những dòng thơ:
Nam – mô – a – di – đà – Phật
Cho con xin từ giã phận mình
Những ham muốn đời thường
đừng bắt con đeo đẳng
Lộc của người xin trả cho người
Sự yên bình đừng phá màu cay đắng …
Một đoạn thơ xin từ giã, từ giã chính mình, từ chối những ham
muốn đời thường, từ chối lộc của người, xin giữ sự bình yên dẫu cay đắng. Câu
niệm Nam – mô – a – di – đà – Phật có giúp người nữ tu đủ bình tâm đi
tiếp chặng đường còn lại của đời mình và những người đồng cảnh ngộ như mình ?
Bài thơ đưa ta về gặp lại một cuộc chiến tranh khác. Cuộc chiến
không tiếng súng, không có chiến công, không có huy chương, chỉ thấy nỗi đớn
đau của người phụ nữ ở những làng quê sau bom đạn. Một cuộc chiến không nói được
bằng lời, sâu thẳm hơn, là sự cô đơn và trống vắng của người phụ nữ trong những
ngày còn lại trên cõi nhân gian này. Dằng dặc sau câu chữ, như tên một tác phẩm
của Bảo Ninh, là “nỗi buồn chiến tranh”. Svetlana Alexievich, tác giả đạt giải
Nobel Văn chương quốc tế năm 2015 về tác phẩm Chiến tranh không có một
khuôn mặt phụ nữ. Không có khuôn mặt phụ nữ chỉ là một cách nói, thậm chí, người
phụ nữ như một tượng đài của sự thống khổ và lòng can đảm trong chiến tranh.
Chao ôi, sau chiến tranh sao lại lắm những khuôn mặt phụ nữ
buồn bã thế!
Đà Nẵng, 20/2/2020 Huỳnh Văn Hoa
Đà Nẵng, 20/2/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét