Viết xanh - Khủng hoảng sinh thái
và trách nhiệm của văn
chương
Chính nhờ những đặc trưng, những biểu đạt sinh thái trong văn
chương nên tác phẩm sinh thái không chỉ viết về môi trường sinh thái (MTST) mà
rộng hơn là vấn đề phát triển hài hòa của con người trong sự thương thỏa với tự
nhiên.Nhà phê bình Nguyễn Thanh TâmVấn đề sinh thái phải trở thành nỗi khắc khoải sâu sắc
Văn học Việt Nam chưa hình thành chính thức một lực lượng “viết
xanh” với tác giả và tác phẩm cụ thể, có tôn chỉ hay khuynh hướng rõ ràng. Kỳ
thực, trong hầu hết các tác phẩm văn học, sinh thái vẫn được trưng dụng như là
cảnh quan mật thiết cho việc triển khai cốt truyện, sự kiện, tư tưởng. Bối cảnh
của tác phẩm dù là tự nhiên hay nhân tạo, dù rừng ruộng hay thị thành, dù phê
phán hay quảng bá, ca tụng… đều ít nhiều thể hiện sự quan tâm của nhà văn đến
MTST xung quanh. Và nếu như thế, không nhà văn nào có thể tách mình ra khỏi môi
trường, cảnh quan được. Điều đó đồng nghĩa với khả năng to lớn của văn chương
trong việc biểu đạt các bận tâm sinh thái.
Văn học sinh thái là cách định danh thời nay đối với những
tác phẩm văn học ra đời trong bối cảnh MTST ngày càng xấu đi, nội dung của
chúng thể hiện trách nhiệm xã hội của người viết đối với vấn nạn này. Như thế,
nội hàm của khái niệm văn học sinh thái đặt ra hai đòi hỏi, cũng có thể xem là
hai phạm trù căn bản của một tác phẩm văn học sinh thái. Một là, thể hiện được
thực tại sinh thái; hai là, có ý thức tôn trọng sinh thái, lấy sinh thái làm
trung tâm. Hai phạm trù này phải bao trùm được các vấn đề chủ yếu, có thể xem
là đặc trưng của văn học sinh thái. Thứ nhất: Cảnh báo thực tại sinh thái; thứ
hai: Phê phán thái độ, hành động hủy hoại MTST; thứ ba: Chấn chỉnh hay làm sáng
tỏ các mơ hồ sinh thái trong cộng đồng (từ góc độ văn học, văn hóa); thứ tư:
Khơi dậy, thúc đẩy, hiện thực hóa các vấn đề thuộc về nhận thức, đức tin, đạo đức
hay hành động của con người.
Căn cứ vào những đặc trưng này, rõ ràng ở Việt Nam, các tác
phẩm văn học sinh thái khá hiếm. Mặc dù vậy, ngầm ẩn hoặc ở các mức độ không
hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về thể tài, vẫn có khá nhiều tác giả, tác phẩm liên
quan mật thiết đến MTST. Theo đó, chúng ta có thể điểm ra ở đây, trên các thể
loại: “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi, “Con voi ở công viên Thủ Lệ” của Ngô
Văn Phú; “Cẩm cù” của Y Ban; “Thần thánh và bươm bướm” của Đỗ Minh Tuấn; “Kẻ ám
sát cánh đồng”, “Châu thổ”, “Có một kẻ rời bỏ thành phố” của Nguyễn Quang Thiều;
“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư; “Màu rừng ruộng” của Đỗ Tiến Thụy; “Họ
vẫn chưa về” của Nguyễn Thế Hùng; “Mình ơi anh cưới dòng sông nhé”, “Linh điểu”
của Nguyễn Văn Học…
Văn chương biểu đạt về thực trạng khủng hoảng MTST nảy sinh
khi chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ cùng nền văn minh công nghiệp. Do vậy,
không phải bất kỳ tác phẩm nào liên quan đến môi trường, cảnh quan đều là văn học
sinh thái. Trong các “nghiên cứu xanh”, giới khoa học chỉ ra rằng, những tác phẩm
phơi bày thực trạng môi trường bị hủy hoại; chất vấn trách nhiệm của con người;
xem xét lại tư tưởng con người là trung tâm, dịch chuyển sang quan niệm sinh
thái là trung tâm; kêu gọi trở về với thiên nhiên, tụng ca thiên nhiên… được
xem là đặc trưng của văn học sinh thái (sáng tác và nghiên cứu). Như thế, tiêu
chí để đánh giá một tác phẩm văn học sinh thái có giá trị bao hàm cả hai phương
diện: Nghệ thuật văn chương và tinh thần sinh thái.
Có thể nhận thấy hầu như không có tác giả nào lên tiếng tuyên
bố về con đường văn chương sinh thái của mình (gần đây nhà văn Nguyễn Văn Học mới
có ý thức này một cách rõ nét hơn qua tác phẩm và một số phát biểu trên báo
chí). Từ trong tư tưởng, tư duy nghệ thuật của các nhà văn, ý thức sinh thái vẫn
chưa phải là thường trực. Họ cảm nhận được sự biến đổi của môi trường, nhận thấy
những vấn đề sinh thái hiện diện trong chính đời sống xung quanh (thời tiết, dịch
bệnh, cảnh quan biến đổi theo chiều hướng tiêu cực…) nhưng chưa thực sự trở
thành nỗi khắc khoải sâu sắc. Chính trạng thái tinh thần đó mới tạo nên những
diễn ngôn nghệ thuật về sinh thái có giá trị. Những mạch ngầm của tinh thần
sinh thái dần được hé lộ khi các “nghiên cứu xanh”, phê bình sinh thái bắt đầu
hiện diện trong đời sống văn học đương đại. Một số nghiên cứu của Trần Thị Ánh
Nguyệt, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Hoàng Tố Mai; các công trình dịch thuật, giới thiệu
lý thuyết phê bình sinh thái của Đỗ Văn Hiểu, Trần Ngọc Hiếu, Đặng Thái Hà, hội
thảo quốc tế “Phê bình sinh thái tiếng nói toàn cầu, tiếng nói bản địa” do Viện
Văn học tổ chức… đem đến những hiểu biết căn bản hơn về văn học sinh thái và
phê bình sinh thái, “nghiên cứu xanh”, “viết xanh” trong bối cảnh khủng hoảng
môi trường toàn cầu.
Mặc dù, nhấn mạnh đến khía cạnh sinh thái, bao gồm việc phản
ánh, cảnh báo, giải tỏa những mơ hồ sinh thái hoặc mở rộng vấn đề MTST nhân
văn, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, văn minh và hoang dã, văn hóa và
sinh học… nhưng các thực hành phê bình sinh thái vẫn chưa phản ánh hết các bình
diện giá trị của một tác phẩm văn học sinh thái. Điều đó đặt ra thách thức
nhưng cũng là cơ hội, tương lai của văn học sinh thái và phê bình sinh thái
(bao gồm các biểu đạt sinh thái khác, từ văn chương đến nghệ thuật và kiến tạo
thực tại sống…), bởi “viết xanh” trong khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng
có lẽ sẽ trở thành một câu chuyện lớn của văn chương thế giới.Đề cao chất lượng, thoát khỏi “bẫy đề tài”
“Viết xanh” là khái niệm chỉ những diễn ngôn lấy sinh thái
làm trung tâm (cả sáng tạo và nghiên cứu). Tuy nhiên, đứng trước các diễn ngôn
về sinh thái, mối hoài nghi về thực tại được tạo dựng trong các diễn ngôn ấy lại
nảy sinh. Tự nhiên trong tác phẩm văn học là thực tại được tạo dựng, được tưởng
tượng ra hay là tự nhiên như nó vốn có? Sự thực, bất kỳ một diễn ngôn nào cũng
là một tạo dựng đã làm cho tự nhiên không còn là chính nó nữa. Viết về tự nhiên
là một hư cấu về tự nhiên. Giới khoa học đã tỉnh táo chỉ ra rằng: “Tự nhiên”
thuộc về văn hóa. Trong những tạo dựng này, một vấn đề khá quan trọng, quyết định
đến giá trị của tác phẩm văn học sinh thái chính là sự hiện diện của những mơ hồ
sinh thái như nhà nghiên cứu văn học Mỹ Karen Thornber đã chỉ ra. Khái niệm “mơ
hồ sinh thái” trong diễn giải của Karen Thornber là sự mâu thuẫn giữa lý tưởng
và thực tại, giữa đức tin và hành động, mơ hồ trong cách con người diễn giải về
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trong một nghiên cứu công phu về văn học
sinh thái, Karen Thornber cho rằng: “Điều quan trọng và thực sự cấp thiết là phải
phân tích xem văn học, trong ý nghĩa là một dạng thức diễn ngôn đã có sự giải
quyết như thế nào trước những nguyên nhân và hậu quả của quá trình phá hủy hệ
sinh thái một cách thản nhiên”.
Sự giải quyết của văn học sinh thái không giống cách giải quyết
của hệ thống hành chính công hay các hoạt động vì môi trường khác. Như đã nói,
văn học sinh thái góp phần giải quyết vấn nạn này bằng sự tác động, chi phối,
làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của con người đối với môi trường. Làm
sáng rõ những mơ hồ sinh thái cũng là nhiệm vụ quan trọng của văn học sinh
thái, tạo nên điểm nhìn về giá trị của dòng văn học này. Rõ ràng, với những tác
phẩm như: “Đất rừng phương Nam”, “Cẩm cù”, “Thần thánh và bươm bướm”, “Kẻ ám
sát cánh đồng”, “Có một kẻ rời bỏ thành phố”, “Linh điểu”… đã cho thấy giá trị
của nó trong việc chất vấn, xem xét hay đề đạt với cộng đồng những ứng xử, hành
động thỏa đáng với tự nhiên. Một điểm khá quan trọng ở đây chính là thái độ và
nhận thức trong việc dịch chuyển từ cái nhìn lấy con người làm trung tâm sang lấy
tự nhiên làm trung tâm.
Tuy nhiên, không phải sự chuyển dịch có tính cực đoan mà xem
xét con người như là một thành tố của sinh thái, tìm kiếm sự thương thỏa giữa
con người và tự nhiên trong các sáng tạo văn chương. Mặt khác, cũng cần ý thức
rằng, đôi khi, một tác phẩm văn chương miêu tả hoàn toàn đời sống của con người
cũng có thể là một chỉ dấu cho những suy tư, kiếm tìm về sinh thái. Một tác phẩm
hoàn toàn viết về đô thị cũng ngầm ẩn về một thực tại tự nhiên nào đó đã biến mất.
Bởi, chính con người đã làm biến đổi sinh thái-không ai ngoài con người và đô
thị là một tạo dựng có tính xâm lấn mãnh liệt đến cảnh quan tự nhiên. Từ những
đặc trưng của văn học sinh thái, có thể hình dung về chiến lược của dòng văn học
này trong việc hướng đến tương lai của môi trường sống (bao gồm cả con người và
tự nhiên). Nếu nhìn vào các tác phẩm tạm gọi là có hơi hướng, yếu tố sinh thái
trong văn chương Việt Nam đương đại, chúng ta nhận thấy căn bản vẫn là những cảnh
báo, phản ánh tình trạng môi trường bị hủy hoại hay những mơ hồ về sinh thái của
con người. Khi giới nghiên cứu đặt ra “cái nhìn xanh” vào các diễn ngôn văn
chương nghệ thuật, người viết gợi lên khía cạnh hài hòa trong sinh tồn giữa con
người với tự nhiên. Trong sự giao tranh giữa con người và tự nhiên, văn học
sinh thái nhìn thấy nguy cơ “không phải là sự mất đi cái tự nhiên hoang dã đã
phủ hào quang trong tưởng tượng, mà đáng kể hơn nữa chính là sự mất mát sự sống
thực sự của con người và cả những yếu tố tự nhiên” (Karen Thornber). Bởi vậy,
văn học sinh thái với tinh thần “viết xanh”, “nghiên cứu xanh” đã thâm nhập đến
vấn đề tồn tại của sinh thái toàn cầu, trong đó tự nhiên như là cảnh quan chung
mà con người là một thành tố trong cấu trúc sinh thái của Trái đất.
Nếu nhìn vào diện mạo của văn học sinh thái thế giới và Việt
Nam, có thể dự báo văn học Việt Nam sẽ dần tiếp nhận những vận động để thích ứng,
đặc biệt là lên tiếng kịp thời trước các biến đổi nghiêm trọng của môi trường tự
nhiên. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tạo văn chương, những vấn đề về tính
hình thức, tính nghệ thuật của tác phẩm văn học cũng cần được coi trọng, nâng tầm
điêu luyện, tránh “bẫy đề tài” biến tác phẩm trở thành sản phẩm minh họa đơn giản
cho vấn đề sinh thái. Hy vọng văn học sinh thái sẽ sớm xác lập vị trí bằng những
tác phẩm chất lượng trong văn chương Việt Nam. Sự thực là, từ bản địa tới toàn
cầu, trong nguy cơ khủng hoảng môi trường, văn chương nghệ thuật và các biểu đạt
lấy tự nhiên làm trung tâm sẽ tìm được tiếng nói chung.
1/7/2020 Nguyễn Thanh Tâm
1/7/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét