Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2024

Chuyện nhà thơ Phùng Quán

Chuyện nhà thơ Phùng Quán

Suốt ngày 21/1/1995, chúng tôi sống thấp thỏm, lo âu. Liên tục gọi điện ra Hà Nội hỏi thăm tình hình bệnh tật của anh. Và cái giờ buồn đau định mệnh đã đến. Ấy là lúc 16 giờ ngày 22 tháng 1 năm 1995, tại căn nhà quen thân bên bờ Hồ Tây, anh Phùng Quán trút hơi thở cuối cùng! 
Con Người viết hoa
Tin anh Phùng Quán đang hấp hối do bạn bè văn nghệ Hà Nội điện về tối 21 tháng 1 năm 1995 (tức ngày 21 tháng Chạp, Giáp Tuất) làm tôi vô cùng sửng sốt. Lâm Thị Mỹ Dạ nức nở thở dài trên điện thoại: “Buồn quá. Chán quá, Ngô Minh ơi. Anh Quán mần răng có thể mất được, vô lý, vô lý…!”. Suốt ngày 22, chúng tôi sống thấp thỏm, lo âu. Liên tục gọi điện hỏi Hà Nội. Và cái giờ buồn đau định mệnh đã đến. Ấy là lúc 16 giờ ngày 22 tháng 1 năm 1995, tại căn nhà quen thân bên bờ Hồ Tây, anh Phùng Quán trút hơi thở cuối cùng!
Anh Phùng Quán đã giã từ bạn bè, giã từ Huế, giã từ lý tưởng cách mạng mà anh đam mê một đời, giã từ những dằn vặt và khổ đau triền miên nơi trần thế!
Nhưng với tôi, anh Phùng Quán không mất bao giờ. Một Phùng Quán Thơ là lý lịch, là mạng sống đời mình. Luôn xưng tụng đất nước, xưng tụng nhân dân, xưng tụng tình yêu bằng một lối thơ cuốn hút, bốc lửa và thiết tha, nhân bản và một giọng đọc thơ mê hoặc, quyến rũ. Một Phùng Quán Văn với tiểu thuyết Vượt Côn Đảo tái bản gần chục lần cho đến bộ tiểu thuyết ngàn trang Tuổi thơ dữ dội, được dựng thành phim cùng tên làm xúc động hàng triệu triệu độc giả Việt Nam trong và ngoài nước. Tuổi thơ dữ dội xuất hiện 32 năm sau sự kiện “nhân văn”, được giải thưởng Hội Nhà văn, chứng tỏ sự thủy chung, gan ruột trước sau như một của ngòi bút Phùng Quán đối với cách mạng, đối với chế độ mà anh đã chọn!
Nhưng sống mãi trong tôi là một người anh Phùng Quán nhân hậu, hiền từ, luôn sống hết lòng vì đồng đội, anh em, bạn bè. Đối với tôi, anh là một nhân cách lớn, rất mẫu mực, luôn ung dung tự tại mà thân thương gần gũi vô cùng!
Năm 1984, lần đầu tiên anh vô Huế chơi với anh em văn nghệ sau gần 30 năm “nhân văn”. Có nghĩa là từ khi xa quê năm 14 tuổi đến nay, anh mới trở lại Huế lần đầu! Hồi nhỏ ở làng Thượng Luật, Quảng Bình, tôi đã đọc Vượt Côn Đảo nên tôi rất yêu quý anh, coi anh như một thần tượng. Bởi thế, suốt thời gian anh ở Huế tôi luôn “tháp tùng” anh đi đọc thơ, đi nói chuyện ở nhiều cơ quan, trường học. Sau đó kéo anh về ở nhà tôi một thời gian dài. Có anh, gian nhà tập thể ở 31 Phan Bội Châu của tôi bỗng trở nên sôi động, khách bạn đến vui vẻ suốt ngày. Anh để râu dài như ông lão trong truyện cổ tích, đội chiếc mũ cói xứ Nghệ, khoác chiếc bị cói, cưỡi chiếc đạp, gọi là “xe trâu” Liên Xô cao lêu nghêu. Anh mặc khi thì bộ bà ba nâu, khi thì chiếc áo mán khuy bấm, quần bò sờn cũ. Anh đi dôi dép tự chế bằng lốp ô tô đế bố dày tới mười phân. Tôi xỏ đi thử thấy nặng không lê được chân, không hiểu sao anh vẫn đi đôi dép ấy bình thường trong bao nhiêu năm ròng? Hỏi anh, anh vuốt râu cười, mắt chớp chớp hiền từ: “Dép nặng thế mới đứng vững trên mặt đất”. Anh một mình một mốt, không lẫn vào đâu được. Trông có vẻ lập dị, ngang tàng như thế nhưng anh lại rất dễ gần. Ở nhà tôi, anh đi chợ Bến Ngự mua cá chép, dưa chua về, rồi vào bếp thổi cơm, nhặt rau, mổ cá, chẻ củi. Có lẽ bao năm tháng “đi cải tạo lao động” đã học được cách tự làm lấy mọi việc để tồn tại, không hề cho đó là việc hèn mọn. Thời gian này anh “hồi sinh’’ với thơ, một loạt bài thơ gan ruột thấm đẫm tình đời, tình người, tình quê, nhưng lại thể hiện rất tinh tế triết lý cuộc sống và nỗi niềm u uẩn của đời anh. Những bài thơ “bùng cháy” như “Tôi chỉ viết trên giấy có kẻ dòng”, “Cảm tạ”, “Trái thơ”, “Trăng Hoàng Cung”, “Tôi khóc”, “Mưa Huế”, “Chán chộ”, v.v… Anh có chép lại rất nắn nót một bản bằng bút học trò mực tím trên tập giấy kẻ dòng tặng tôi với đề từ “Tiểu thuyết tình 13 chương viết trên giấy có kẻ dòng”, với lời đề tặng rất bạn bè: “Yêu tặng thi hữu Ngô Minh”. Năm 1993, Nhà xuất bản Thanh Văn ở Mỹ in thành sách với tựa đề “Trăng Hoàng Cung”. Từ đó, năm nào vô quê anh cũng ghé lại ở với vợ chồng tôi vài ba ngày. Viết được cái gì, in được cái gì ở báo nào đó anh đều chép hay phô tô gửi bưu điện vào tặng tôi một bản. Là một nhà văn đàn anh nổi tiếng nhưng anh đối xử với tôi cũng như các anh em viết văn trẻ khác rất cởi mở, chân tình, trân trọng như một bạn hữu văn chương. Những năm 1985-1990, mỗi lần tôi ra Hà Nội, biết tôi mới tập tọng làm thơ, anh đạp xe đèo tôi đi thăm các bậc lão trượng thơ Hà Nội như Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung, Vân Long, Võ Văn Trực, Hoàng Trung Thông, v.v… Đi đến đâu anh cũng giới thiệu sang trọng: “Đây là Ngô Minh, nhà thơ xứ Huế quê tôi!” Có lần anh vô Huế, vào ngày đầu năm mới dương lịch (1-1), mấy anh em xuống làng Tiên Nộn mừng sinh nhật bác sĩ Nguyễn Tích Ý, một bác sĩ tài năng, một người rất yêu thơ và yêu quý Phùng Quán. Trong cuộc vui, tôi bị say rượu phải ngủ lại, sáng mai mới về Huế một mình. Anh đến nhà bảo tôi lấy sổ tay rồi ứng tác chép tặng tôi bài thơ, có câu:
Thơ say, trời đất cỏ cây
Ngó mà ghen tức cái say hết mình
Nhưng khi anh bị bệnh nằm một chỗ, anh lại viết thư vào Huế dặn dò: “Anh bị bệnh giống hệt Dương Toàn Thắng (một người viết trẻ ở Huế bị bệnh xơ gan cổ trướng do uống nhiều rượu, mất năm 36 tuổi). Trông gương anh, anh mong em bớt rượu chè. Anh đã bỏ rượu. Nhưng bỏ như thế cũng hơi muộn…”
Anh em văn nghệ ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình cũng như gia đình tôi mỗi khi ra Hà Nội đều tá túc tại nhà anh. Gọi là nhà cho nó ấm cúng, chứ thật ra đó chỉ là một gian chái hơn chục mét vuông do người ta gá vào phía sau cái nhà kho của trường Chu Văn An, là “tiêu chuẩn” tập thể của vợ anh, mà mãi sau hơn 20 năm lấy nhau mới có. Sau này, nhờ bạn bè thân quen người giúp thanh gỗ, người giúp mái lá gồi, anh tự thiết kế, cần mẫn cưa đục dựng một cái chòi gỗ nhìn ra Hồ Tây lộng gió. Anh gọi là “Chòi ngắm sóng”. Anh em bạn bè văn chương đến tá túc đều ngủ trên cái chòi ấy, uống rượu, đọc thơ và đàm đạo văn chương cũng trên cái chòi mấy mét vuông ấy. Trên chòi dán đầy thơ, câu đối, ký họa, cảm tác của thi nhân họa sĩ khắp nước.
Giáp Tết năm 1994, anh đưa vợ đi chơi ở thành phố Hồ Chí Minh, khi tàu ra Huế, anh “nói dối vợ” xuống mua điếu thuốc, rồi “trốn vợ” ở lại Huế thăm bà con, thăm bạn bè văn nghệ cho tới ngày 22 Tết mới lên tàu ra Hà Nội. Ở Sài Gòn ra, anh đến nhà tôi tặng một be rượu Trung Quốc, mà anh gọi cho oai là “rượu Mao Đài”. Bây giờ tôi vẫn để bình rượu ở vị trí thờ anh. Anh luôn mang trong chiếc bị cói truyền thống của mình một chiếc áo khoác may theo kiểu áo dài thân bằng vải gì không biết, anh nói thứ vải này là thao, đũi gì đó đắt lắm, chiếc áo vợ chồng nhà thơ Thu Bồn – Lý Bạch Huệ tặng, nhưng tôi thấy cứ giống y chang loại vải may buồm ở làng biển của tôi xưa. Chiếc áo ấy chằng chịt đầy chữ ký của bạn bè văn nghệ, bạn đọc mến mộ anh với đầy đủ thứ màu sắc. Ở cơ quan Tạp chí Sông Hương hôm đó, mọi người chen nhau để được ký vào chiếc áo tình nghĩa đó. Chữ ký của tôi ở cổ áo bên phải. Anh bảo khi chết anh sẽ mặc chiếc áo ấy để sống mãi với hơi ấm bạn bè. Chiếc áo định mệnh ấy gia đình đã mặc cho anh trong giờ phút cuối cùng!
Đêm 22 Tết năm đó, trong phòng đợi tàu ga Huế, vợ chồng tôi, anh Lê Gia Ninh, ca sĩ Vĩnh Cường, vợ chồng anh Nguyễn Trọng Huấn, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khắc Thạch thức tiễn anh tới một giờ sáng. Anh uống nhiều rượu, sang sảng đọc thơ cho lữ khách nghe. Mọi người rất xúc động. Thơ anh đọc ở đâu cũng làm cho mọi người xúc động vì chất bi hùng thống thiết. Có cuộc thơ anh làm cho hàng ngàn người phải khóc nức nở. Đang đọc thơ, anh bỗng ngả mũ đi hành khất. Dáng anh đi từng bước y chang người hàng khất ở ga. Hầu như ai cũng xúc động bỏ tiền vào mũ anh. Có cả những du khách nước ngoài. Số tiền kiếm được anh chia luôn cho những ngườì ăn xin ở ga ngay khuya hôm đó! Tôi có ngờ đâu đó là lần anh đọc thơ cuối cùng với Huế để rồi xa Huế mãi mãi!
Đối với tôi, Phùng Quán là nhà văn luôn tâm huyết với đời, với người, với quê hương đất nước, với lý tưởng mà anh đã chọn từ thuở thiếu thời. Có nhiều cách xưng tụng Tổ quốc, thơ anh bao giờ cũng bật lên hình tượng rất độc đáo về Tổ quốc:
Sử kháng chiến nghìn trang
Người Nghệ ưa vắn tắt 
Đánh Pháp hết chín vại cà
Đánh Mỹ hết hai chục vại …
(Trường ca cây cà)
Gần gũi bên anh, tôi đã học được rất nhiều điều về nhân cách và bản lĩnh của một nhà văn, đó là sự ngay thẳng tột cùng, ngay thẳng thủy chung của mỗi dòng chữ viết’’.
Thơ anh chân thực, trong sáng, dễ hiểu và đam mê đến quyết liệt như chính cuộc đời anh. Vì thế mà anh coi thơ là mạng sống, là lý lịch đời mình. Anh sống chết với thơ như sống chết với lý tưởng mình đã chọn:
Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ đứng dậy
Phùng Quán là một nhân cách lớn, một tấm lòng vị tha chân chất. Đạo diễn điện ảnh Vinh Sơn, người làm phim Tuổi thơ dữ dội (dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Phùng Quán) có một nhận xét rất chính xác rằng, Phùng Quán không còn là tên riêng hay danh từ nữa mà Phùng Quán là một tính từ. Anh đích thực là một CON NGƯỜI viết hoa! Nhớ về anh, trong tôi cứ ám ảnh hoài cái hình ảnh kết thúc tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội. Ấy là lúc thằng Mừng (nhân vật chính) bị trọng thương, thấy mình khó có thể sống được đã gắng hết sức bình sinh thều thào với anh phụ trách: “Anh ơi anh đừng nghi em là Việt gian nữa, anh hý!”:
Anh Quán ơi, em tin chắc cùng với thời gian, Nhân Dân sẽ hiểu anh, anh sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lòng các thế hệ độc giả Việt Nam, tồn tại mãi cùng với quê hương, dân tộc này, sự nghiệp này!
Sự tích bài thơ “Hôn”
Nhà thơ Phùng Quán để lại nhiều bài thơ hay, được hàng triệu người đọc Việt Nam thuộc nằm lòng như “Lời mẹ dặn”, “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”, “Say”… Trong đó, “Hôn” là bài thơ hay được nhắc đến nhiều nhất. Bài thơ “Hôn” có trong hành trang của bao thế hệ chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ được tuyển đi tuyển lại trong hàng chục tuyển tập thơ từ 50 năm nay, được in trong tuyển tập Panorama de la Littérature Vietnamienne  do nhà văn hóa Hữu Ngọc dịch. Bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc: “Khi người ta yêu nhau/ Hôn nhau trong say đắm/ Còn anh, anh yêu em/ Anh phải đi ra trận!”
Nhưng:
Yêu nhau ai chẳng muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu!
Bài thơ được coi như là tuyên ngôn tình yêu của người lính khi Tổ Quốc đang bị giày xéo dưới gót giày quân xâm lược: Nhưng dù chết em ơi/ Yêu em anh không thể/ Hôn em với đôi môi/ Của một người nô lệ! Âm hưởng bài thơ giống như khẩu khí thơ của các nhà thơ cộng sản Nazim Hikmet, Petöfi. Bài thơ viết năm 1954, khi Phùng Quán 22 tuổi. Đọc bài thơ, tôi cứ ngỡ nhà thơ viết tặng một cô gái nào đó mà anh từng yêu thương, nhớ nhung dọc đường ra trận. Nhưng không phải! Sự tích bài thơ bi hùng hơn rất nhiều. Tôi dùng chữ “sự tích” vì đây là một câu chuyện dài, đầy chất anh hùng ca, liên quan đến Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán.
Mới đây, nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã cung cấp cho tôi bản lai cảo một bài viết dài của Phùng Quán viết tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây năm 1992, có tựa đề: “Bản anh hùng ca bị mối xông và mười bảy bộ hài cốt…”. Tôi đọc và bàng hoàng vì câu chuyện được kể lại vô cùng lẫm liệt về cuộc chiến đấu và sự hy sinh dũng cảm, khí phách của 17 chiến sĩ cảm tử của Trung đoàn Vệ quốc quân Trần Cao Vân giữa lòng thành phố Huế năm 1946. Bài viết cũng nói rõ xuất xứ của bài thơ “Hôn”. Nhà thơ Phùng Quán viết: “… Cách đây trên ba mươi năm có lẻ, trong những ngày gian khó nhất của đời mình, trong nỗi buồn bã và thất vọng khôn cùng, tôi khởi viết một thiên hùng ca… Thiên hùng ca kể lại một câu chuyện có thật, những người anh hùng có thật, hơn nữa những người anh hùng mà tôi quen biết và tôi có mối hàm ơn sâu nặng vì một lần họ đã cứu tôi thoát khỏi đạn đại liên giặc ăn thịt trong trận đánh kinh hồn vào vị trí Miễu Đại Càng… Thiên anh hùng ca gồm 10 chương, khoảng nghìn câu thơ, với một Khai từ và một Hậu từ. Từ năm 1958 đến 1988, tôi bị mất quyền in sách nên thiên hùng ca chịu chung số phận với nhiều tác phẩm khác của tôi: Mối xông! Nghìn câu thơ nay không còn nhớ nữa. Nhưng cốt truyện, đoạn Khai từ và lác đác dăm câu thơ, đoạn thơ khắc họa ý tưởng chính tôi vẫn còn nhớ như in… Thiên hùng ca ấy có tên là Huyệt lửa chôn chung”. Xin gác lại chuyện các chiến sĩ Trung đoàn 101 Trần Cao Vân đã cứu sống và đã phạt roi Phùng Quán như thế nào, để tập trung vào sự tích bài thơ “Hôn”. Điều cực kỳ thiêng liêng và cảm động là bài thơ “Hôn” là một đoạn được trích ra từ thiên hùng ca ấy, viết về tình yêu của người chiến sĩ thật có tên là Phùng Huấn!
Tháng 7-1992, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân có bài viết “Tìm được hài cốt của 17 liệt sĩ hy sinh từ năm 1946” in trên báo Lao Động. Bài báo kể lại, ngày 4-6-1992, trong lúc đào móng cải tạo công trình nhà của Ủy ban khoa học kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tại 18, Hà Nội, Huế, người ta phát hiện ra 17 bộ hài cốt Vệ quốc đoàn. Trong đó, có một bộ hài cốt có sợi dây chuyền nhỏ có đeo lủng lẳng một miếng nhôm, rửa sạch miếng nhôm hiện lên dòng chữ khắc: “Phùng Huấn – VQĐ- Thuận Hóa”. “VQĐ” là Vệ Quốc Đoàn. Còn Phùng Huấn là anh con bác của ông Phùng Bốn (tức ông Nguyễn Vạn, nguyên Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế) chú ruột của Phùng Quán. Tức Phùng Quán gọi liệt sĩ Phùng Huấn là bác! Đọc bài báo đó, Phùng Quán bàng hoàng nhớ lại thiên anh hùng ca mình đã viết 30 năm trước…
“… Nhân vật mà tôi mất nhiều công sức nhất để để miêu tả và khắc họa tính cách với cả trăm câu thơ, là nhân vật chiến sĩ. Anh tên là Phùng Huấn, xuất thân nông dân, quê ở làng Thanh Thủy Thượng. Phùng Huấn yêu một cô gái làng, sắp làm lễ cưới. Mặt trận Huế bùng nổ, anh hoãn ngày cưới, cùng nhiều trai làng xung phong gia nhập Vệ quốc đoàn. Anh được tuyển chọn vào cảm tử quân… Bài thơ “Hôn” là tôi trích ra từ Thiên hùng ca ấy:
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn!
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ!
Đó là lời của Phùng Huấn nói với vợ chưa cưới của mình trước giờ xung trận. Phùng Huấn là bác họ của tôi. Trong Thiên hùng ca, tôi không nói chi tiết này, chỉ miêu tả mỗi lần chúng tôi đứng cạnh nhau, cả đơn vị ai cũng lầm là hai anh em ruột vì chúng tôi giống nhau như hai cục bùn móc dưới ruộng sâu lên… Trong đội cảm tử quân, Phùng Huấn được phân công vào “Tổ vũ khí nặng”. “Vũ khí nặng” Phùng Huấn phụ trách là một cặp đầu đạn đại bác 75 ly tịt ngòi được công binh xưởng biến báo thành mìn đánh xe tăng… Tổ “vũ khí nặng” là siêu cảm tử nên mỗi chiến sĩ được Mặt trận phát một chiếc “lập lắc” bằng nhôm cứng, trên mặt khắc tên họ, dây đeo bằng thép không rỉ, để lỡ hy sinh xác người ni khỏi lẫn xác người kia…
Một buổi sáng, Phùng Huấn ngoắc tay gọi tôi: “Bê! Bê!” (tên gọi tôi ngày còn ở nhà) ghé sát tai tôi nhói nhỏ: “Tối ni đơn vị tau đi cảm tử vị trí nhà hàng Sap-phăng-giông (Cửa hàng bách hóa số 1, đường Hà Nội, Huế hiện nay). Mặt trận sẽ đãi tụi tau một bữa thịt bò, thịt heo với xôi, ở sân chùa Vạn Phước, để lỡ có chết thì anh em được chết no! Tắt mặt trời mi nhớ chạy xuống mà ăn chực…”
Bữa ăn đó cũng được kể trong bài viết trên báo Lao Động nói trên, qua lời kể của người vợ chưa cưới của liệt sĩ Phùng Huấn: “Vợ chưa cưới của đồng chí Phùng Huấn, đã 70 tuổi, từ xã Thủy Dương (tên mới của làng Thanh Thủy Thượng), chống gậy lên thăm hài cốt của người yêu xưa. Bà kể: Chiều đó, tôi lên thăm anh ấy, rủ anh đi ăn. Anh ấy nói: “Tối nay đi đánh Pháp, thế nào cũng được ăn một bữa thịt bò, bây giờ ăn ngang bụng”. Anh ấy không đi. Thấy trên tay anh có đeo một cái “lập lắc”, tôi hỏi: “Người ta đeo vòng vàng xuyến bạc, còn anh đeo chi miếng thiếc ni?” Anh nói: “Đơn vị bảo đeo. Đi đánh giặc lỡ có chết người ta biết tên mà nhận xác”. Tôi tưởng anh nói chơi, ai ngờ anh chết thiệt. Từ sau đó gia đình cứ lấy ngày 10 tháng chạp giỗ anh ấy”.
Trận “cảm tử” vào nhà hàng Sáp-phăng-giông đêm ấy không kết quả. Toàn đơn vị rút ra căn cứ cả, còn Trung đội cảm tử bị mắc kẹt lại ở trong ngôi nhà hai tầng. Địch bắn như điên, kêu gọi đầu hàng, các anh vẫn chống trả quyết liệt. Giặc phun xăng đốt ngôi nhà. Các chiến sĩ đã xuống tầng trệt, dùng bộc phá nổ tung ngôi nhà, biến ngôi nhà thành ngôi mộ chôn chung của 17 anh em! Ôi, 46 năm sau, cô gái trong bài thơ “Hôn” của Phùng Quán mới gặp lại hài cốt người yêu của mình! Ngày xưa ở Huế, đối với con gái nhà lành, chuyện hôn nhau vô cùng hệ trọng, nhà trai đi hỏi rồi vẫn chưa dám hôn nhau, chờ khi cưới. Cho nên:
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Hiểu “sự tích” bài thơ, ta càng muôn lần cám ơn nhà thơ Phùng Quán, anh đã lấy “tuổi thơ dữ dội” của mình làm chất liệu để viết nên những câu thơ tình thế kỷ, đẹp như kinh cầu nguyện!
Con của một gia đình cách mạng
Phùng Quán là nhà văn nổi tiếng, nhưng anh đặc biệt rất ít nói về mình. Nhưng cuộc đời Phùng Quán có rất nhiều điều lý thú. Phùng Quán có ông chú ruột tên là Nguyễn Vạn, tức Phùng Lưu, một lão thành cách mạng, nguyên ủy viên Khu ủy, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông về hưu gần hai chục năm nay ở đường Hai Bà Trưng, thành phố Huế, vừa mất đầu năm 2005. Trước đây, ông Vạn nhiều năm kiên quyết không tha lỗi cho đứa cháu “Nhân văn” của mình. Nhưng từ khi Phùng Quán được phục hồi Hội viên Nhà Văn, sách của anh được in bán khắp nơi, truyện của anh được dựng thành phim, thì ông bắt đầu thay đổi thái độ. Trên bàn thờ nhà ông, có thờ hai bức ảnh. Một bức là ông nội anh Quán ở chính giữa, và bên cạnh là ảnh Phùng Quán, phía duới có lời đề: “Nhà văn Phùng Quán, cháu đích tôn của ông”.
Năm 2000, ông Nguyễn Vạn xuất bản tập hồi ký Đời người cách mạng, trong đó có đoạn kể về bố anh Phùng Quán rất đặc biệt: “… Anh cả tôi tên là Phùng Văn Nguyện, học lớp đệ tam niên nội trú trường Quốc Học, hăng hái tham gia các phòng trào truy điệu cụ Phan Chu Trinh, đòi thả cụ Phan Bội Châu, tham gia các cuộc bãi khóa, xuống đường biểu tình chống Pháp năm 1926. Bị bắt giam, bị kết án 2 năm tù treo, và bị bồi thường 3 năm tiền học phí là 360 đồng bạc Đông Dương… Anh tôi bị quản thúc ở xã nhưng trốn vào Sài Gòn, đổi tên là Phùng Quý Đông thi đỗ vào ngạch công chức của Pháp, được bổ nhiệm làm Thông phán sở kho bạc Sài Gòn. Sau mấy năm làm công chức Pháp, anh tôi tưởng là hết hạn tù treo rồi thì không còn gì rắc rối nên xin chuyển về Huế để lập gia đình, không ngờ bị tên cường hào Lý Hòe tố giác. Anh tôi xin chuyển vào Hội An để tránh né nhưng vẫn bị mật thám theo dõi, phải đi trốn. Định chạy sang Lào nhưng đến Đà Nẵng thì bị bắt và bị giam ở nhà lao Đà Nẵng. Sau hai tháng bị tra tấn thì chết trong lao tù. Năm 1932, khi anh tôi chết, đứa con trai duy nhất của anh chưa biết đi, mới biết bò, nó chính là nhà văn Phùng Quán…” Mẹ nhà văn Phùng Quán tên là Công Tằng Tôn Nữ Thị Tứ, người tài sắc, dòng Hoàng Phái. Khi chồng mất, bà ở vậy nuôi con cho đến khi con 14 tuổi trốn đi theo Vệ Quốc Đoàn. Bà ở một mình thờ chồng, chờ con trai. Bà mất ngày 2 tháng Giêng âm lịch, vào dịp Tết năm 1970 ở cố đô Huế. Lúc đó, Phùng Quán đã có vợ, 2 con ở Hà Nội!
Từ năm 1958 đến 1988, vì không được phép in sách ký tên mình, nên Phùng Quán phải viết văn rồi tìm cách “in chui” để lấy tiền nuôi con. Hồi đó không có “lái” sách, “nậu” sách như bây giờ. Muốn in được sách ở nhà xuất bản của nhà nước phải bí mật mượn tên người khác làm tên tác giả. 
Mượn tên để in văn
Từ năm 1958 đến 1988, vì không được phép in sách ký tên mình, nên Phùng Quán phải viết văn rồi tìm cách “in chui” để lấy tiền nuôi con. Hồi đó không có “lái” sách, “nậu” sách như bây giờ. Muốn in được sách ở nhà xuất bản của nhà nước phải bí mật mượn tên người khác làm tên tác giả. Những người nhà văn đã mượn tên là Vũ Quang Khải, em ruột của vợ là chị Vũ Bội Trâm, lúc đó anh Khải đang làm công nhân ở Nghệ An, trong truyện “Như con cò vàng trong cổ tích”, và nhiều truyện ngắn in báo Văn Nghệ. Nhà văn Phùng Quán kể rằng, khi truyện “Như con cò vàng trong cổ tích” ký tên Vũ Quang Khải gửi đi dự thi cuộc vận động sáng tác viết về Lenin được Hãng thông tấn Novosti (Liên Xô) trao giải thưởng trong cuộc dự thi viết về Lenin, anh Khải là cán bộ một nông trường ở Nghệ An, nhận được giấy mời của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội để lĩnh giải thưởng thì sợ lắm. Nhưng cơ quan vẫn sắm cho một bộ com-lê rất oách để ra nhận giải. Hai anh em xe đạp đèo nhau đến cổng Đại sứ quán Liên Xô, anh Khải vào nhận giải, còn Phùng Quán thì sang ngồi quán nước chè bên kia đường hồi hộp chờ đợi. Lo sợ nhất là bị phát hiện ra người viết là Phùng Quán không cho nhận giải thưởng nữa thì gay. Khi anh Khải ra cổng, nhìn vẻ mặt buồn, Phùng Quán càng lo thêm. May sao, anh Khải cho biết là cô thủ kho đi vắng, họ hẹn ngày mai! Ngày hôm sau, hai anh em lại dắt nhau đến. Lần này thì nhận được. Giải thưởng là một tấm bằng, một chiếc xe đạp Liên Xô mà người Hà Nội quen gọi là “xe trâu” và một bộ com-lê. Hai anh em về nhà câu trộm cá Hồ Tây nấu cháo để khao nhau! Phùng Quán còn nhiều lần viết truyện ngắn ký tên Vũ Quang Khải, rồi Nguyễn Huy, Đào Phương, v.v… Người cho Phùng Quán mượn tên nhiều nhất là nhà thơ Thanh Tịnh, bạn vong niên, đồng hương Huế ở Tạp chí Văn nghệ Quân Đội. Hơn 10 tập truyện tranh ở Nhà xuất bản Văn hóa, tập viết về nghệ thuật viết và trình diễn tấu đều ký tên Thanh Tịnh. Chị Hương Quân, biên tập viên Nhà xuất bản Văn hóa (đã nghỉ hưu), một người rất thân thiết với Phùng Quán kể rằng, có lần giám đốc nhà xuất bản đã gửi giấy mời nhà thơ Thanh Tịnh ở số 4 Lý Nam Đế, “một cộng tác viên viết truyện tranh “tích cực” đến để ký hợp đồng mới. Nhà thơ Thanh Tịnh cao tuổi, mệt nhọc thế cũng phải đi xích lô đến để ký hợp đồng, “nhằm giúp thằng Phùng Quán có cái tên mà in sách”. Anh Phùng Quán kể, nhà thơ Thanh Tịnh là người duy nhất cho mượn tên mà không lấy một đồng “tiền tên” nào. Mỗi lần như thế, Phùng Quán đều câu trộm một con cá chép Hồ Tây, mang đến số 4 Lý Nam Đế, nấu cháo mời nhà văn Thanh Tịnh cùng ăn! Còn thường phải chi 30%, thậm chí 50%, mà đi lại khốn khổ nhiều lần mới đòi được phần của mình, vì tiền nhuận bút các nhà xuất bản đều trả cho người có chứng minh thư. Theo chị Hương Quân, ngoài sách ký tên Thanh Tịnh, Phùng Quán đã viết và in ở Nhà xuất bản Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc trên 60 cuốn truyện tranh mang nhiều tên khác nhau, nhưng không phải mượn, tức là tên do anh nghĩ ra. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội (tập I) năm 1983, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã in với tên tác giả là Đào Phương. Mãi đến năm 1988, sau khi được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn, mới xuất bản 3 tập với tên Phùng Quán. Cuốn Dũng sĩ chép còm, in ở Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đầu cũng lấy tên tác giả là Trần Vỹ Dạ. Điều đáng khâm phục là Phùng Quán chỉ mượn tên để “in chui” văn xuôi, chứ thơ thì anh không bao giờ mượn tên ai cả! Vì với anh,“Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ đứng dậy…”  Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi. Thơ linh thiêng như thế nên anh không mượn tên người khác là phải! Đó chính là bản lĩnh người cầm bút!
Từ năm 1988, sau khi được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn, thơ Phùng Quán mới xuất hiện trở lại. Thời kỳ này, anh còn in nhiều tác phẩm nổi tiếng ký tên mình là Tuổi thơ dữ dội, Dũng sĩ chép còm, Thơ Phùng Quán, tập tiểu thuyết thơ Trăng Hoàng Cung, v.v… Trong đó, tiểu thuyết ba tập Tuổi thơ dữ dội đã được giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam, được dựng thành phim cùng tên, và phim này ngay lập tức giành Huy chương bạc tại Liên hoan điện ảnh Việt Nam. Cuốn sách cũng được các nhà xuất bản trong nước tái bản nhiều lần. Cuối năm 2003, chị Vũ Bội Trâm, vợ nhà văn, đã dùng số tiền mấy lần tái bản cuốn Tuổi thơ dữ dội của anh Quán để đầu tư tái bản cuốn Thơ Phùng Quán, trong đó bổ sung rất đầy đủ thơ của chồng với số lượng in 2000 cuốn. Bạn bè trong Nam, ngoài Bắc, ở miền Trung, do yêu thương Phùng Quán mà xúm tay mỗi người phát hành một ít! Người viết bài này và nhà giáo Lê Gia Ninh cũng mang Thơ Phùng Quán đến từng trường học, cơ quan ở Huế, bán được gần trăm cuốn ngay trước Tết Giáp Thân. Tính ra Phùng Quán đã in hơn 80 tác phẩm, trong đó gần 70 tác phẩm “in chui”. Nói là “in chui”, nhưng toàn văn cách mạng thứ thiệt cả. Mới hay, bất kỳ hoàn cảnh ngặt nghèo nào cũng không làm cho Phùng Quán buông bút.
Phùng Quán lấy vợ
Điều này sinh thời nhà văn không bao giờ kể. Chỉ có bạn bè rất thân thiết mới biết. Anh Phùng Quán và chị Vũ Thị Bội Trâm yêu nhau sau thời kỳ “nhân văn”. Vì lẽ đó, gia đình chị Trâm rất lo cho con gái, nhiều lần khuyên giải, phản đối con nhưng không được. Còn Trường cấp 3 Chu Văn An, nơi chị Trâm là giáo viên dạy văn, thì nhiều lần góp ý nặng nhẹ. Nhưng chị Trâm vẫn một mực cho rằng: “Tôi yêu anh ấy và nhất định lấy anh ấy làm chồng. Anh ấy là người tốt. Thời gian sẽ trả lời!”. Năm 1962, hai anh chị không làm đám cưới được mà chỉ đăng ký kết hôn, rồi làm một bữa cơm đạm bạc để “liên hoan” tại nhà bà mẹ nuôi Tưởng Dơi ở Nghi Tàm. Bữa tiệc ấy chỉ có 4 người bạn thân và hai vợ chồng, không có ai đại diện hai gia đình hay cơ quan cả. Huế là đất kinh đô nên tiệc cưới nào cũng rất sang trọng, tốn kém. Nhưng anh Quán “tứ cố vô thân” ở Hà Nội, hai bàn tay trắng, chỉ một tháng được Hội nhà văn trợ cấp 27 đồng, chỉ đủ ăn cơm “đầu ghế” (cơm bụi) được một tuần, nên làm gì có tiền mà cưới vợ. Tiệc cưới ấy anh chị chị mời bốn người là nhà thơ Tạ Vũ, chị Nguyễn Thị Điều, lúc đó là người yêu Tạ Vũ, nhà báo Xuân Đài và một người bạn tên là Xuân Trung. Phùng Quán đi mua hai chú gà về để giết thịt, nhưng một con bị chết. Chị Bội Trâm kể, mọi người uống rượu nói chuyện vui vẻ đến tận khuya. Tạ Vũ say nên chị Điều và Tạ Vũ phải ngủ lại. Nhà bà Tưởng Dơi chỉ có hai cái gường kê sát nhau chen chân không lọt. Thế là đêm tân hôn hai vợ chồng phải ngủ hai giường.
Thành vợ chồng rồi nhưng không có nhà để ở chung. Chị Vũ Thị Bội Trâm ở nhà bố mẹ ở số 3 Hàng Cân. Từ năm 1962-1981, chị đẻ và nuôi hai đứa con Phùng Thị Quyên và Phùng Quân tại nhà bố mẹ. Anh thì phải đi lao động cải tạo khắp các nông trường, công trường ở Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì, v.v…, khi về thì ở nhà bà mẹ nuôi Tưởng Dơi ở làng Nghi Tàm. Nhà văn hàng ngày giúp bà mẹ nuôi gánh hàng lên đê Yên Phụ bán, rồi về viết văn. Đêm thì đi câu cá trộm ở Hồ Tây. Tiền bán cá, tiền “văn chui” phần lớn Phùng Quán dành đưa cho vợ nuôi con ở nhà mẹ vợ, còn mình thì ăn cơm bụi và uống rượu nợ với bạn bè. Năm 1981, chị Vũ Bội Trâm mới được Sở giáo dục Hà Nội và Trường Chu Văn An phân cho một góc xép, nguyên là cái xưởng của trường phía Hồ Tây làm nhà ở cho gia đình. Nghĩa là sau 20 năm lấy vợ, nhà văn Phùng Quán mới có một căn “xép” để vợ chồng ở chung. Chính ở góc xép Trường Chu Văn An đó, Phùng Quán đã tự tay đục đẽo dựng một cái chòi bằng gỗ, lợp lá gồi, gọi là “Chòi ngắm sóng” (Mời bác Ba Vì xích lại đây/ Ta cùng túy lúy ngắm sóng say…). Trên cái “Chòi ngắm sóng” đó treo đầy tranh, thơ. Có tranh của họa sĩ Văn Cao ký họa Phùng Quán, tranh, tượng của nhiều nhà điêu khắc, họa sĩ Việt Nam vẽ Phùng Quán, bút tích thơ chữ Hán của Hoàng Trung Thông, Tào Mạt, thơ của các nhà thơ trong và ngoài nước viết tặng Phùng Quán có thể in thành cả tập thơ dày. Cái chòi ngắm sóng đó suốt ngày khách, suốt ngày rượu, suốt ngày thơ. Phùng Quán đã tọa lạc trên “chòi ngắm sóng” này hơn mười năm ròng. Bây giờ thì “chòi ngắm sóng” nổi tiếng một thời ấy không còn nữa. Nó đã bị cơn sóng thị trường, con sóng đô thị hóa nhấn chìm vào dĩ vãng, vì khu tập thể phải giải tỏa để Thành phố làm gì đó không biết. Tháng 6-2003, chị Bội Trâm mới được mua căn hộ ở Khu chung cư Vĩnh Phúc rất đàng hoàng. Mua bằng tiền đền bù giải tỏa, cũng đủ trả và có thừa ra đôi chút để sửa chữa và mua sắm bàn ghế và sắm cái bàn thờ anh Quán. Nhưng khi đã có nhà đàng hoàng thì anh Quán đã “đi xa” gần 10 năm rồi.
Cỏ hoa Phùng Quán
Phùng Quán trọn cuộc đời (1931-1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc đoàn xông xáo và nhiệt huyết. Những tác phẩm thơ, văn xuôi của anh bây giờ đọc lại vẫn hừng hực lửa chiến đấu. Có lẽ vì thế mà anh rất ít thời giờ để làm thơ thưởng hoa vịnh nguyệt. Tôi đọc trong số hàng trăm bài thơ anh để lại, chỉ đếm được có hơn chục bài viết về hoa lá, cây, cỏ, quả, như các bài “Cây vạn niên thanh”, “Cây xương rồng”, “Cây dứa”, “Hoa sen”, “Cây mận ở Vînh Linh”, “Hoa cứt lợn”, v.v… Phùng Quán ngắm hoa lá cỏ cây theo cách riêng của mình. Anh không ca ngợi vẻ đẹp, màu sắc, hương thơm quyến rũ của cỏ hoa như trước một giai nhân đơn thuần, mà chủ yếu anh phát hiện và xưng tụng sự hữu ích, sự hi sinh, lòng nghĩa khí lớn lao của cây cỏ. Với anh, nhiều loại cây lá có phẩm chất của một chiến sĩ. Bởi vậy, nhà thơ coi những cây vạn niên thanh, cây xương rồng, cây dứa… là những bậc thầy của mình về bản lĩnh sống, nên phải xưng bằng “Anh”, bằng “Người” – “Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh”, bởi vì: “Anh uống độc khí trời/ Anh xơi độc nước lã/ Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh/ Vẫn tặng cho đời chất thơ của sắc lá!” (Cây vạn niên thanh) hay: “Xương rồng ơi xương rồng!/ Anh có thật xương rồng?/ Hay xương người nghĩa khí/ Ngã xuống rồi hóa thân?…”  (Cây xương rồng); Dứa ơi !/ Người hãy dạy tôi/ Cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá/ Chất mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn”  (Cây dứa); “Cây cọ mọc trên đồi/ Trổ lá cho người lợp nhà/ Che cho mình dăm tàu lá nhỏ/ Che cho đời nghìn tán lá xanh…” (Cây cọ)… Phùng Quán tìm thấy trong cây cỏ hoa lá bao điều tâm đắc, ước nguyện của mình về thơ. Cái chất thơ trong cỏ hoa ấy là chất Phùng Quán, “Với tôi thơ mới là tất cả. Thơ là lý lịch là mạng sống đời tôi”…
Gây ấn tượng nhất đối với tôi là câu chuyện về bài thơ “Trường ca cây cà”. Sinh thời, mỗi lần “vi hành” vào Huế, nhà thơ Phùng Quán thường tá túc tại nhà tôi, nhà anh Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Bến Ngự hoặc nhà thầy giáo Lê Gia Ninh ở bên Cống Lương Y. Mỗi sáng, anh dậy sớm, xỏ chân vào đôi dép dày cộp, nặng như cùm tự anh cắt đục từ lốp ô tô cũ, mặc chiếc áo chàm cũ, đeo chiếc bị cói và dắt chiếc xe trâu Liên Xô cao lêu nghêu ra đường, bắt đầu một ngày đi đọc thơ “phục vụ nhân dân” như anh thường nói. Đến tận khuya, anh mới ngất ngưởng về. Lần ấy, cả một tuần liền anh không về ngủ. Thì ra anh vào Đà Nẵng, Quảng Nam đọc thơ tít mù từ phố xuống huyện, xã. Đúng ngày Đại hội văn nghệ Bình Trị Thiên (cũ) lần thứ ba, anh xuất hiện ở Huế, nét mặt rạng rỡ, khệ nệ bưng một chồng báo Quảng Nam-Đà Nẵng cuối tuần  có in bài thơ “Trường ca cây cà” ký tặng bạn bè. Đó là mùa đông năm 1987, lần đầu tiên sau 30 năm anh lại được báo in bài thơ tâm huyết. Anh lấy nhuận bút bằng mấy trăm tờ báo để tặng! Gặp lại tôi, anh cao hứng đọc: “Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy anh dũng khí bền gan”. Tôi mừng cho anh và đọc đến thuộc “Trường ca cây cà”. Bài thơ gọi là trường ca có tới 6 chương, nhưng chỉ 56 câu thơ. Có chương chỉ có hai câu, năm câu. Bài thơ súc tích, chặt chẽ với những ý tưởng lớn và rất cảm động. Cây cà Việt Nam “Thân lao lực màu quê… Mặc cho sâu róm đầy cành/ Rễ còn bám đất/ Còn khôn nguôi tím nguôi xanh”.” Bạc tóc trồng cà/ Tôi mới hiểu ra/ vì sao Gióng/ Trước khi lên ngựa sắt/ Vung roi trừ giặc/ Chỉ ăn cơm cà..”. Người Nghệ “Muối một vại cà/ Ăn một năm/ Sử kháng chiến ngàn trang/ Người Nghệ ưa vắn tắt: – Đánh Pháp hết chín vại cà/ Đánh Mỹ hết hai chục vại..”. Bài thơ cuốn hút bởi hình tượng sinh động và hàm chứa, đầy sức thuyết phục về sức mạnh Việt Nam, lại dân dã dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ.
Người Huế ai cũng thích ngắm hoa sen, mua hoa sen về thờ hoặc cắm trên bàn. Nhưng ngắm sen như Phùng Quán thì chỉ một! Anh đọc và phát hiện ra trong câu ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/ Nhị vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”  một sự vô lý, khó hiểu và khó chịu. Anh cho rằng câu ca dao trên không phải do nhân dân làm ra mà do một số bọn phản trắc,… “Vốn con cái của giai cấp cùng khổ/ Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son/ Nghĩ đến mẹ chúng xấu hổ…”  nên chúng cho rằng, chúng gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn! Tất cả là trong cái chữ gần. Tôi cho rằng sự phát hiện đó là có lý, xuất phát từ sự nhạy cảm, trực cảm của một người lính rất ghét thói hãnh tiến, vô ơn. Và những điều nhà thơ nghĩ ngợi về chuyện sen – bùn mới là chân lý sâu sắc, thấm thía. Mỗi lần anh đọc bài thơ này trước đông người, anh vung tay giận dữ, rồi giọng trầm xuống run run như nén lại, như nguyện cầu:
Bùn với sen đâu phải chuyện gần? 
Chính là sen mọc lên từ trong đó 
Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen… 
Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng 
Cũng là xương thịt của bùn tanh! 
Như nhân dân 
Gian truân, thầm lặng, vô danh 
Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sĩ…
Phùng Quán nhiều đêm kể cho tôi nghe rằng anh đã từng sống một mình trong cái lán lợp lá mía ở trại tăng gia bên bờ con suối có tên là Linh Nham, vùng núi Thái Nguyên suốt ba năm ròng. Mùa mưa lũ, không ai dám vượt suối nên anh như Robinson Crusoe trên hoang đảo. Quanh lán mọc đầy cỏ dại và cây trinh nữ. Bàn ghế là rễ cây khô ghép lại. Giường nằm là cây cổ thụ bị bão xô gật gốc lũ cuốn về, lấy rìu vạt bằng phía trên, rồi đục lõm xuống như cái áo quan. Anh sống với một con chó, một con heo, một bầy gà. Người với vật cùng ăn sắn, bắp, rau lang, ốc suối và cá tôm tự đánh bắt lấy. Anh đã tự đào một cái huyệt ngay trước mặt lán, dài hai mét, rộng một mét, sâu mét rưỡi, để phòng khi kiệt sức, bên mình không có ai! Một lần anh mắc phải chứng dị ứng lở loét toàn thân, tưởng không sống nổi. May mắn được một vị sư nữ già chùa Tăng Cấu cứu khởi bệnh nhờ mấy nắm lá tên là lá khổ sâm mọc trên đồi. Ơn cây, ơn người cứu mạng, sau đó anh làm bài thơ “Lá khổ sâm”. Bài thơ buồn đau như một vết cắt. Phải trải nghiệm và yêu cuộc đời lắm mới viết được những câu thơ da diết cõi lòng:
Tôi phải lên rừng 
Hái lá khổ sâm 
Tự mình cất lấy ly rượu sống 
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm 
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian…
Bạn hữu thân thiết ơi! 
Xin đừng trách cứ tôi 
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng… 
Cỏ cây hoa lá trong thơ Phùng Quán đều là những biểu tượng của cuộc sống tâm trạng, tâm linh anh muốn gửi đến và chia sẻ với độc giả của mình.
Ngay cả trong tình yêu, Phùng Quán cũng có cách thể hiện thơ khác người đời. Sinh nhật người yêu không phải năm bông hồng, mà anh tặng quả bí xanh! Bài thơ “Quả bí xanh” là một bài thơ tình với nhiều sự tích thú vị. Năm 1984, sau ba mươi năm, anh lại được vào Huế quê nội. Anh mồ côi cha từ năm lên hai. Lớn lên, năm tuổi đã giúp mẹ chăn trâu, cắt cỏ ở làng Thủy Dương xứ Huế. Suốt ngày người đen nhẻm và nồng mùi bùn đất. 13 tuổi, anh trốn mẹ đi theo Vệ Quốc Đoàn đánh Pháp. Cho nên anh nhớ và yêu quê hương tha thiết. Những ngày ấy, anh bị “tiếng sét tình yêu” của một thiếu phụ Huế đài các và từng trải hớp hồn. Nàng thì áo dài tím thướt tha. Còn anh thì áo chàm sờn, dép cao su, bị cói như một nông dân miền ngược. Biết thế nhưng anh vẫn luôn ghé thăm nàng như một niềm si mê đơn độc. Ngày sinh nhật nàng, anh rủ tôi đạp xe xuống Thủy Dương quê anh, thỉnh một trái bí to, da căng mọng màu ngọc bích. Rồi anh cặm cụi đề thơ lên da bí. Xong, chúng tôi lấy bao tải, quần áo cũ bọc trái bí cẩn thận, anh ôm bí ngồi xích lô lên Huế. Trưa hôm ấy, hàng trăm người ngạc nhiên trước món quà tặng quá bất ngờ của thi sĩ Phùng Quán: Đó là một quả bí xanh lớn có bài thơ đề trên da bí mà anh gọi là khối thiên thần màu ngọc bích! Anh nâng tặng vật nặng trĩu trên tay, nói trong tiếng thở gấp: “Tặng vật tôi mang từ quê nội tặng sinh nhật em đây!”. Nàng thơ bước vội sau tấm màn gió, cầm ra chiếc gối còn dính vài sợi tóc của nàng để làm gối cho anh đặt “trái bí thơ”: “Trên da bí/ Màu men ngọc lý/ Tôi tạc câu thơ/ Buồn như lửa/ Hỏa táng trái tim…”. Quà sinh nhật tặng người tình như thế tôi thưa thấy bao giờ. Nó vừa ngộ nghĩnh, xa xót, vừa bản chất như chính sự hồn nhiên chứa chan của cuộc sống.
Cho đến những ngày bị bệnh nặng sắp từ giã cõi đời, viết thư cho bè bạn anh vẫn kể chuyện về cây cỏ: “Nếu chết, anh sẽ hóa thành một cây cỏ dại, cùng cỏ cây xanh tốt đất này.” Anh bảo, đời anh từ nhỏ cho đến khi đã thành nhà văn rồi vẫn chỉ là ngọn cỏ. Bao đêm viết “văn chui”, rồi vén cỏ ra bờ Hồ Tây ngồi câu trộm cá để nuôi con, để sống qua những ngày gian khó. Bao đêm lót lá rừng mơ giấc mơ chiến sĩ. Cỏ hoa trong thơ Phùng Quán không phải là thứ trang sức, mà là biểu tượng của phẩm giá mọc lên từ niềm tâm tưởng một đời người…
Mỗi văn nghệ sĩ có một “gu” thưởng thức ẩm thực riêng, không lẫn. Các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nên rất sành ăn và viết rất hay về các món ăn tinh tế và đài các của Thủ Đô. Nhà văn Phùng Quán cũng có một cá tính ẩm thực rất đặc biệt và mạnh mẽ, khác hẳn với các nhà ẩm thực khác. 
Ẩm thực Phùng Quán
Mỗi văn nghệ sĩ có một “gu” thưởng thức ẩm thực riêng, không lẫn. Các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nên rất sành ăn và viết rất hay về các món ăn tinh tế và đài các của Thủ Đô. Nhà văn Phùng Quán cũng có một cá tính ẩm thực rất đặc biệt và mạnh mẽ, khác hẳn với các nhà ẩm thực khác.
Phùng Quán kể rằng, thuở nhỏ từng đi chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc với lũ trẻ trong làng. 14 tuổi đã trốn mẹ đi làm liên lạc cho Vệ Quốc đoàn. Bộ đội kháng chiến thì gian lao, khổ cực tất nhiên rồi. Từ sau thời “Nhân văn”, Phùng Quán còn khổ hơn. Cho đến năm cuối đời (1-1995), anh vẫn chưa có một ngày sống an nhàn. Anh phải bao nhiêu năm lăn lộn giữa đời, làm đủ mọi việc để kiếm sống, nuôi con và viết văn. Bởi thế mà:
Trong trăm nghìn nỗi đói 
Tôi nếm trải cả rồi 
Trong hoàn cảnh sống đó, anh đã biết tạo ra một phương cách ẩm thực: nghèo mà lịch lãm, ít tiền vẫn làm ra được món ăn ngon. Đó đích thực là ẩm thực theo lối Huế! Nhưng đối với Phùng Quán, ngoài hoàn cảnh nghèo, anh còn có một một quan niệm về ẩm thực cao cả hơn, nhân văn hơn, tôi tạm gọi là ẩm thực Phùng Quán. Ví dụ, từ chuyện thi hào Đỗ Phủ (thời Đường, Trung Quốc) chạy giặc trên chiếc đò nhỏ trên sông Tương, nhịn đói đã 10 ngày. Sau đó, được chức sắc trong vùng biết tin, đem rượu thịt mời. Ông ăn uống no say rồi bị “thương thực” lăn ra chết. Gọi là chết no nhưng thực chất là chết đói. Phùng Quán đã làm bài thơ tuyệt tác “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe: “… Em ơi, nếu Đỗ Phủ/ Vai khoác áo lông cừu/ Bụng no đến muốn mửa/ Viết sao nổi câu thơ/ Nghìn năm cháy như lửa”:
Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Bởi thế… “Đã đi với nhân dân/ Thì thơ không thể khác? Dân máu lệ khốn cùng/ Thơ chết áo đắp mặt”… Dân ta thì bảy tám phần nghèo đói, thi sĩ “ăn” ngon sao đành: “Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?”. Đó là đạo lý ẩm thực Phùng Quán! Đạo lý ẩm thực của Nhân Dân!
Sống ở Hà Nội nhưng gia đình anh Quán vẫn ba bữa nấu lấy ăn nên anh Quán rất thạo nấu nướng các món Huế cũng như các món Hà Nội. Sáng thì bánh cuốn ăn với nước mắm chanh ớt, hay bát cháo cá câu được ở Hồ Tây hồi đêm, bỏ thêm rau thì là thái nhỏ, hạt tiêu thơm lựng ăn với lá tía tô, cà pháo. Bữa ăn chính bao giờ cũng theo mùa với các món “chủ lực” như dưa cải chua, cà pháo chị Bội Trâm muối rất thiện nghệ, rau muống luộc chấm tương Bần, lấy nước làm canh sấu, hay canh rau đay, canh măng vòi, v.v… thêm miếng cá kho nghệ vàng rộm hay đĩa thịt kho tôm nhỏ. Khi có khách là bạn văn, tôi thấy anh Quán thường giành phần đi chợ Châu Long thay chị Bội Trâm. Tùy theo số lượng khách mời, anh thường mua con cá chép, hay cá gáy to hay nhỏ, cộng thêm vài cân bún sợi nhỏ xây thành nắm, rồi măng chua, vài bìa đậu phụ, rau giá và chục lọn nem. Đi chợ về anh xắn tay áo lên làm bếp. Anh làm bếp rất nhanh. Chỉ một loáng thôi, anh đã khệ nệ bưng lên “Chòi ngắm sóng” một mâm tiệc thịnh soạn. Xin kể: Con cá anh làm sạch, tách lòng ra riêng rồi rán sơ nguyên con hoặc cắt đôi, sau đó bỏ vào nồi nấu canh măng chua. Anh khéo léo vớt con cá dọn ra đĩa, làm món cá luộc chấm tiêu muối. Đĩa cà pháo chấm với ruốc biển Quảng Bình mà bao giờ anh cũng có sẵn do bạn bè như Văn Lợi, Hoàng Vũ Thuật… gửi cho; đĩa đậu phụ sống chấm mắm tôm chanh ớt. Đĩa rau sống, đĩa rau mùi. Nhậu xong, khách chủ dùng món bún chan canh cá chua, gọi là “nóng nóng nước nước”. Một bữa “tiệc” mời bốn năm người thịnh soạn, rôm rả như thế chỉ hết vài chục ngàn đồng tiền chợ. Trong khuôn viên nhà anh, có miếng đất nhỏ anh trồng đủ thứ rau gia vị như tía tô, rau mùi tây, rau răm, húng, quế, hành, tỏi, thì là, diếp cá, nên các loại rau mùi rất sẵn. Anh người Huế, nghiện ăn ớt “cay đến lỗ đít” (chữ Hoàng Phủ Ngọc Tường) mới đã, nên ớt có đến mấy cây liền, v.v… Mỗi lần bạn văn Huế gửi ra cho một thẩu tôm chua với xâu vả, ngày đó là một ngày “linh đình” đối với Phùng Quán. Anh gọt vả, ngâm nước, rồi đi mua thịt lợn ba chỉ, luộc “hồng đào” thận trọng như mấy “mệ” Huế dặn, rồi đạp xe đi gọi các tiên sinh Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tào Mạt, Lê Huy Quang, Trẫn Vũ Mai, v.v… tới nhắm rượu. Anh gắp từng con tôm chua, giơ lên rưng rưng ngắm, rồi mới bỏ vào bát từng vị kèm thêm lát vả, miếng thịt ba chỉ, nhấm tý rượu rồi ngậm miệng nhai thật chậm như để ngậm mà nghe Huế đón anh hai ngày “một cuộc tiệc to”, một ngày “một cuộc tiệc nhỏ” (theo cách nói của anh), nhưng bao giờ anh cũng giành bạn bè đi chợ, rồi vợ cặm cụi nhặt rau, mổ cá, xắn tay áo chiên xào, nấu nướng rất thiện nghệ. Nhưng trong các cuộc vui đó, Phùng Quán bao giờ cũng bàn luận và đọc thơ nhiều hơn ăn. Có lần tại nhà tôi, Phùng Quán và Hoàng Phủ Ngọc Tường uống rượu và “tranh luận” tới… một ngày ròng. Bắt đầu từ 9 giờ sáng đến 9 giờ tối, mà chỉ có đĩa lòng lợn, mấy đĩa trìa và nồi cháo cá! Hai “ông” nhâm nhi rồi gợi lên đủ thứ đề tài về văn chương kim cổ thế giới để tranh luận rất hấp dẫn. Đến nỗi nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đặt tên hai người là “Hoàng Mâu – Phùng Thuẫn”. Có lần anh Phùng Quán nói với tôi: “Cái ăn cái uống chỉ là cái cớ để gặp gỡ, giãi bày, cho nên rượu-ẩm thực cũng ví như tờ giấy để mình đề thơ hay viết văn lên đó!”
Khi anh Quán còn sống, mỗi lần tôi ra Hà Nội đều tá túc tại Chòi ngắm sóng của anh. Mỗi khi tôi và anh uống rượu, bao giờ chị Bội Trâm cũng bưng ra một tô nước dưa chua đã bỏ vị tinh vào, bảo: “Hai anh em uống thứ này cho giã rượu”. Anh Quán tỉnh bơ: “Người ta uống rượu cốt để say, lại uống nước dưa giải say thì phí cả rượu”. Nói thế nhưng thỉnh thoảng anh vẫn nhấp một ngụm nước dưa làm mồi. Những ngày đó, anh dẫn tôi đi ăn các món Bắc Hà mà anh thích như gỏi cá, ốc bung, ốc nhồi Hồ Tây, chả cá Lã Vọng, thịt chó Nhật Tân, v.v… Anh vừa đèo tôi sau chiếc xe cuốc “Con cò vàng” (tức chiếc xe giải thưởng của truyện ngắn “Như con cò vàng trong cổ tích”) vừa mô tả tỉ mỉ cách làm từng món, cách đánh giá ngon dở ra sao. Khi tôi trở vô Huế, anh bao giờ cũng thức suốt đêm nấu cơm, chặt lá chuối ở hàng rào, hơ lửa để nắm cơm bới cho thằng em. Anh nhồi đi nhồi lại rất nghề, cho nắm cơm thật chặt, rồi anh rang mè làm muối cho vào túi ni lon, vót cật tre thật sắc để làm dao cắt cơm. Anh gói ghém xong mọi thứ, 5 giờ sáng thức tôi dậy, uống cùng anh chén rượu sớm chia tay, xong mới đạp xe đèo tôi ra bến xe. Trên đường vô Nam, tôi cắt từng lát cơm nắm của anh bới cho, chấm muối vừng ăn ngon miệng như một đứa con đi xe được mẹ quê nhà bới cho mo cơm nắm. Ở Hà Nội, tôi hay rủ anh đi ăn phở, vì tôi rất thích phở. Anh bảo phở ngon là ngon ở nước phở, nên mua bát phở rồi húp hết nước, sau đó, bưng bát đến cô hàng “cho anh xin ít nước nữa!”. Bao giờ người bán phở cũng sẵn lòng. Ăn uống chỉ cốt cái chất, đừng mất thời gian vì ăn. Thế mà khi có người hỏi anh: “Ông uống rượu với bạn suốt ngày thế, thời gian đâu mà viết nhiều tác phẩm vậy?”. Anh lại trả lời tỉnh queo: “Chơi mới mất thời gian, viết thì mấy!”. Thì ra với anh, những “cuộc ẩm thực” đây đó chỉ là những cuộc chơi.
Khi vô Huế chơi, ở nhà tôi hay nhà Lâm Thị Mỹ Dạ, anh cũng giành phần đi chợ, làm đồ mồi và làm món “nóng nóng nước nước”. Anh rất hạp với các món cháo bánh canh cá lóc, cơm hến, cháo cá, cháo tôm, cháo lòng, ốc bươu, bánh bèo, bánh nậm Huế… Hạp nhất là món tiết canh, lòng lợn. Dường như các nhà thơ nhà văn già ở Hà Nội ai cũng ghiền tiết canh lòng lợn. Vì đó là thứ vừa để nhâm nhi đàm đạo dài dài lại vừa khoái khẩu, rẻ tiền. Phùng Quán ăn uống từ tốn, chậm rãi, nhấm rượu bao giờ cũng nâng chén ngang mày, rất trang trọng.
Phùng Quán không chỉ giỏi nấu món Huế, mà còn rất thạo chế biến món ăn Hà Nội. Anh khoe đã có lần ở thành phố Hồ Chí Minh, tại nhà kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, anh đã tự đi chợ mua các thứ về chế biến món chả cá Lã Vọng Hà Nội để đãi nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng. Đầu năm 1992, bác sĩ Nguyễn Tích Ý, một người rất thân thiết với anh Quán đã hồi hưu, mời sinh nhật ông ở làng Tiên Nộn, một làng rất đẹp bên sông Gia Hội ở bên kia phố cổ Bao Vinh. Dọc đường về làng, thấy ở chợ Bao Vinh có bán ốc bươu rẻ, anh mua luôn một rổ và ít lá tía tô, chuối chát. Anh hể hả: “Chuyến này Phùng Quán sẽ đãi các bạn món ốc bung Hà Nội, chắc người Huế ít được ăn món này!”. Nói rồi anh khệ nệ xách giỏ ốc xuống đò. Khi sang tới nhà anh Ý, anh Quán ra ngay bể nước ngâm ốc bươu vào chậu nước vo gạo. Nhậu xong chầu rượu, anh ra bến sông nơi bể nước cắm cúi ghè đít ốc để chuẩn bị nấu món ốc bung. Không ngờ, ngày đó là ngày đầu tháng, người Huế ăn chay, không sát sinh. Thế là chị Điểm, em gái bác sĩ Ý, không nói không rằng, giật rổ ốc đổ xuống sông để phóng sinh. Còn anh Quán thì đứng cười bẽn lẽn như một cậu học trò chưa học thuộc bài! Chỉ tiếc hôm đó tôi không được thưởng thức món ốc bung Hà Nội do anh Quán làm. Nhiều khi tôi nghĩ, nếu anh Quán mà viết về ẩm thực Huế, ẩm thực Hà Nội chắc hay lắm, vì anh hiểu sâu xa văn hóa ẩm thực từ nỗi cơ hàn đạm bạc của cuộc đời mình.
Ở Huế, nhiều cơ quan, bạn bè mời anh những cuộc tiệc sang trọng ở các nhà hàng khách sạn lớn. “Tháp tùng’’ anh đi dự những cuộc tiệc ấy, tôi thấy anh thực sự lúng túng và khổ sở khi phải “trăm phần trăm” bia lon, rượu ngoại, hay ăn những món “cao lương mỹ vị” như chim quay, bồ câu tiềm. Những lúc ấy, anh chỉ cầm ly rượu, đứng lên đọc thơ. Đã đi với nhân dân thì thơ không thể khác… 
Đối với Phùng Quán, rượu là “tiên tửu”, ăn là “tiên thực”. Vâng, anh râu tóc bạc trắng, dài chấm ngực, áo nâu sòng, ngồi xếp bằng bên mâm rượu trông rất giống một ông tiên trong cổ tích.
Những ngày “cụng ly với thần chết’’
“Cung ly với thần chết” là chữ của nhà thơ Phùng Quán, trong lúc bạo bệnh rất đau đớn vẫn đùa vui với bạn bè qua điện thoại, trong những ngày cuối đời vào tháng 1- 1995. Quả thật với anh, cái chết nhẹ như lông hồng. Một thế hệ độc giả từng cầm súng đã biết về một Phùng Quán thơ “Yêu ai cứ bảo là yêu/ ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu …”. Một Phùng Quán văn với tiểu thuyết Vượt Côn Đảo viết lúc 21 tuổi, xuất bản ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, như là một hiện tượng văn học cách mạng. Vượt Côn Đảo đã biến anh từ một thiếu sinh quân Thùy Dương, vác mã tấu theo Vệ Quốc đoàn năm 14 tuổi, trở thành nhà văn quân đội nổi tiếng. Tìm hiểu những ngày tháng cuối cùng của nhà văn, ta càng hiểu thêm tính cách Phùng Quán, càng thêm yêu quý cuộc đời và văn chương anh.
Một nỗi khổ tâm lớn nhất của Phùng Quán là vì bệnh nặng, không còn được uống rượu. Từ ngày bác sĩ bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội cho biết anh bị bệnh xơ gan cổ trướng, phải kiêng rượu, anh bảo: “Không được uống rượu nữa thì còn gì là Phùng Quán!”. Có lần buồn quá, anh “tuyên bố”: “Nếu chắc chắn bị thần chết xử tử vì ung thư gan thì có bao nhiêu rượu đều mang ra cùng uống hết với bạn bè”. Nhưng anh lại mong sống thêm với vợ con, với bạn, với thơ, nên anh rất nghiêm túc kiêng rượu. Anh không uống, nhưng bạn bè đến thăm anh vẫn bảo vợ mang rượu ra đãi bạn. Anh ngồi chạm cái ly không với mọi người để nghe âm thanh quen thuộc, rồi nhìn bạn uống rượu để khỏi thèm. 50 năm rượu và thơ, có rượu Phùng Quán đọc thơ mới sang sảng, cuốn hút, lay động lòng người. Bây giờ không rượu, anh vận hết nội công còn lại để đọc thơ “phục vụ” mọi người, nhưng dường như giọng đọc mười phần chỉ còn năm bảy. Nỗi khổ thứ hai của Phùng Quán là không còn được ngồi vào bàn viết văn nữa, vì cái bụng bị xơ cứng. Thế nên, anh đã tự thiết kế cho mình một cái bàn đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử loài người. Đó là cái bàn chổng ngược. Tức là mặt bàn nằm sấp, úp xuống, chân bàn treo ngược lên, giấy kẹp vào mặt bàn. Anh nằm ngửa, giơ tay lên trời mà viết. Phùng Quán 30 năm phải viết “văn chui”, đến khi được quyền viết, được quyền in tên mình thì không còn mấy thời gian nữa nên anh thèm viết lắm. Và bằng cái bàn viết ấy, anh đã viết xong phần một, bản thảo kịch bản phim kể chuyện về một bà mẹ nuôi bộ đội ở chiến khu Hòa Mỹ (Thừa Thiên- Huế) có cả một bầy con nuôi là hàng binh người Đức, Nhật, Algiérie, Maroc, v.v… cứ sau mỗi trận đánh, lại quây quần bên người mẹ Việt Nam để lo cho mẹ từ chiếc cối giã trầu. Anh phát triển kịch bản này từ truyện tranh Chiếc cối giã trầu bằng thép đã in mấy năm trước. Trước khi vĩnh biệt thế gian ba ngày, Phùng Quán đã trao tập bản thảo ấy cho đạo diễn điện ảnh, nghệ sĩ nhân dân Huy Thành.
Về cái bàn viết này, anh viết thư cho gia đình một người bạn ở xa, kể chuyện rất hay và tếu: Anh bị “chứng bệnh xơ gan cổ trướng’’ (Tên bệnh mà như tên minh tinh điện ảnh Đài Loan). Hiện nay, anh rất đẹp trai. Một lão trượng râu tóc bạc trắng, mang cái bụng sắp đến ngày khai hoa mãn nguyệt… Nhất là vẫn còn đọc được thơ (Tuy lực thơ có sút kém). Và viết được văn. Ngồi viết bị tức bụng thì anh nằm viết. Bởi vậy văn anh bây giờ toàn câu văn chỉ thiên … Nghe tin anh ốm, bạn bè đến thăm đông như hội: “Phùng Qúan mà cũng ốm kia à?’’. Xưa nay, các bạn đặt anh vào hạng lim, thép, trời vật không chết. Nếu phải chết thì các bạn sẽ được chứng kiến cái chết của người chiến sĩ – nghệ sĩ, “Trông chết cười ngạo nghễ’’! Nhờ ốm mà anh biết Hà Nội mình nhan nhản Hoa Đà, Biển Thước, Tuệ Tĩnh, Lãn Ông… rượu nó bỏ anh, vì từ khi anh lâm bệnh, rượu thấy anh mất phong độ của bậc ẩm giả. Cuộc đời vui quá, không buồn được!
Thời gian này, anh thường viết thư gửi cho vợ chồng người bạn tên là Nguyễn Đặng, Việt kiều ở Mỹ cũng bằng cái bàn chổng ngược ấy. Anh bạn ấy đã phô tô gửi về lại để chị Bội Trâm đặt lên “Chòi ngắm sóng”, lưu giữ bút tích của anh Quán. Trong những bức thư viết trong những ngày “cụng ly với thần thần chết” ấy, nhà văn Phùng Quán bày tỏ quan điểm của mình về văn chương, chức phận, hạnh phúc và nỗi bất hạnh của người cầm bút, với một giọng văn rất dí dỏm:
Hồ Tây sáng sớm lạnh, ngày…
Anh ngồi bên cửa sổ nhìn ra Hồ Tây đầy sương mù… bỗng nhớ câu thơ của Nguyễn Du  “Gió lạnh cả thế gian thổi thốc vào một người đơn độc” (Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân)
Ở đây các nhà thơ phải bỏ tiền ra in thơ. Mà họ có giầu gì cho cam. Phải giành dụm từng đồng, bớt xén tiền ăn của cả nhà, có khi đến mấy năm mới in được tập thơ. Mà in rồi chỉ đem đi tặng cũng đủ hết hơi. Thì ra trên thế gian này, thơ văn sinh ra để làm vất vả cho người…
Rất cảm ơn hai em đã đọc hết Tuổi thơ dữ dội của anh và cả Trăng Hoàng Cung. Nói cho đúng ra, anh chỉ mới viết sơ sơ. Sợ độc giả chịu không thấu, nếu viết hết sự thật, thì cả Remarque cũng phải lè lưỡi. Sách anh vốn viết cho con nít đọc, mà trở thành cuốn sách của người già. Mấy người già cùng thế hệ với anh họ ham đọc cuốn đó lắm. Anh sẽ in tặng hai vợ chồng phim Tuổi thơ dữ dội, 2 tập, dài 155 phút, đã được quay màn ảnh rộng. Hôm chiếu ở cổ thành Quảng Trị, năm 1990, cả ngàn người ngồi xem khóc như trong một đám tang lớn, làm anh phát hoảng. Lượm và Mừng, hai nhân vật trong đó chính là một phần đời anh. Anh cũng đang định viết tiếp. Thật ra là “viết lại’’ vì cách đây 15 năm anh đã viết xong cả 4 tập Chiến tranh và Hòa bình của anh, mà Tuổi thơ dữ dội là phần I. Anh để tất cả vào cái hòm gỗ, hồi anh ở Nghi Tàm. Mối đã xông mất ba phần. Phần I là mối chưa kịp xông, nên còn. Hôm đó, anh đã khóc như con nít, vì tiếc cái công trình anh đã làm trong 15 năm.
Trong một bức thư khác, Phùng Quán viết:
Anh phải thông báo ngay là anh vẫn đang nằm ở nhà, vừa cười vừa nốc cạn ca đầy, cốc vơi thứ nước dược liệu cỏ cây trị bệnh như thần! Anh hy vọng sẽ khỏi. Cỏ cây của cả đất nước lẽ nào không cứu nổi một nhà thơ?
Thư trước anh nhắc chuyện  “Thơ và cống rãnh’’ là để hai em biết thêm một khía cạnh về quan niệm thi ca của anh mà anh thường phát biểu chống lại quan niệm ‘“Con chim ngứa cổ hót chơi’’. Với anh thì lời khen tặng sang trọng về thi ca là của nhà văn Đan Hích nói về Andersen: “Ông ta là người có khả năng kỳ diệu. Bất kỳ cống rãnh nào cũng mò thấy được ngọc trai’’. Hiện nay anh đang bị một cú ‘nốc ao’, và trọng tài đang đếm đến sáu…!”
Hồ Tây, sáng…
Nhìn chữ anh viết chắc hai em biết anh cũng chưa đến nỗi nào. Anh vẫn đi lại, tiếp khách, cười đùa, đọc thơ với cái bụng A Di Đà. Cơm, cháo, sữa uống rải rác trong ngày. Bác sĩ gan nổi tiếng vẫn thường chăm sóc anh… Anh là nhà thơ của dân đen, của những người mốc cống, quét rác… Trong đám này có rất nhiều lang vườn. Họ đòi được chữa trị cho anh. Họ mang tới những rễ cây đào được trên các đỉnh núi tai mèo, và các thứ lá hai bên các đầm nước mặn. Anh cho sắc lên uống tất, vừa uống vừa cười: “Tôi chơi luôn cả Thiên Đường lẫn Địa Ngục!’’ Anh nói với họ: “Nếu không may tôi phải giả từ cuộc sống, thì điều hạnh phúc là thi thể của tôi được các bàn tay hôi mùi nước cống, mùi phân rác, mùi thuốc nổ, bồng bỏ vào căn hộ bằng gỗ tạp’’.
Nhiều bạn thơ, trí thức trách cứ anh: “Nhà Phùng Quán có nhiều tạp khách!’’ Họ đâu biết, chính nhờ những tạp khách đó mà anh trở thành nhà thơ. Hai em ạ, anh không được Thượng Đế ban cho ân sủng tìm thơ trong sự tinh khiết, đầy mầu sắc và hương thơm, giữa các vì sao và bầu trời… Thượng đế nghiêm khắc nói với anh: “Ngươi phải úp mặt xuống cống rãnh cuộc đời, trên các ao máu chiến trận không bao giờ khô cạn, trong khói đắng nghẹt của thuốc nổ… mà tìm lấy thơ’’. Và anh đã phải thực hiện lời nguyền của Thượng Đế, từ lúc tuổi thơ cho đến nay, chương cuối cùng của cuộc đời anh…
Ôi, Phùng Quán, nhà văn trọn đời viết ngay viết thẳng từ dòng đầu đến dòng cuối! Anh đã có những ngày tháng cuối đời ung dung, ngạo nghễ cụng ly với thần chết.
2/9/2019
Ngô Minh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...