Nhân Văn Giai Phẩm
và vấn đề Nguyễn Ái Quốc 4
Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
Văn Cao ở trong thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật
ba ngành mến phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền cộng
sản nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.
Tìm hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch
sử 45-46, mà các văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều
thành phần chính trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu
cho một lý tưởng: chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái,
Nguyễn Sáng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước,... đã có một thời hoạt động chung
vai sát cánh, nhưng rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến
tuyến.
Tìm hiểu Văn Cao tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh
thần và thể xác Việt Nam, tìm hiểu sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đảng phái
chính trị trên đường giành độc lập, để thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch
sử ta-địch trong quá trình đấu tranh giai cấp.
Tìm hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn
hoá Việt Nam là một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một
toàn khối, không thể phân liệt. Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng
chiến từ 1945 đến 1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng
nhau chung lòng cứu quốc.
Văn Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc Việt Nam: cùng theo kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới tuyến. Nhưng tác phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam.
● Tiểu sử
Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, sinh ngày 15/11/1923 tại làng
Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng An Lễ,
xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal, trung học
trường dòng Saint-Joseph, ở đây được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn Văn Tề,
cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại viên ở
bưu điện Hải Phòng, được một tháng, bỏ.
Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh
hưởng Lê Thương, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát khắp nơi. 1940, Văn Cao đi
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của
Huế và thơ Hàn Mặc Tử tại Sài Gòn. Từ điển văn học ghi: "1940, vào
Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài
Gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc"412. Chi
tiết này không thấy ghi ở các tài liệu khác. Tựu trung, thời kỳ 1940-43, Văn
Cao sáng tác sung mãn nhất. Những ca khúc lịch sử đi đôi với ca khúc lãng mạng
trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành
khúc, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến xuân, Suối mơ, Thiên
Thai, Trương Chi... và cũng là thời kỳ gắn bó cộng tác văn nghệ và hoạt động
cách mạng giữa hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy.
Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre)
trường Mỹ Thuật Đông Dương, và lần đầu tiên, thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng
trên Tiểu thuyết thứ bẩy.
1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique - Phòng Triển
lãm Độc đáo. Bức tranh Les Suicidés - Những kẻ tự sát của
Văn Cao gây tiếng vang trong giới hội hoạ, theo Tạ Tỵ, đã có ý thức cách mạng.
1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác
ngộ vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật,
sáng tác Tiến quân ca.
1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức
Phin413 ở Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm
báo Lao Động (bí mật) của Việt Minh414, Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến
quân ca vào đá (litho), in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944.
1945, sáng tác bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc415, và
các ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ
Không quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam416 sau này trở thành bài
đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến
quân ca được Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tiên và duy nhất
tại nhà Hát Lớn, Hà Nội417.
Ngày 19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", dàn đồng
ca Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại
quảng trường Nhà hát lớn.
Ngay sau cách mạng tháng tám, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh
bí mật418.
Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến
quân ca là Quốc ca Việt Nam. 1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại
ô mùa đông 46419.
Theo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng
Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/46, Văn
Cao và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại, gần Hà Đông, thuộc Liên Khu
Ba, mới chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu,
Văn Cao nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình
làm tình báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở
đây.
Thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi
lại được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục
kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp gồm mười lăm tiểu đoàn chia
làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến,
nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố -Bộ trưởng không bộ- bị chết.
Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây. 12/10, Việt Minh kêu gọi triệt
để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến. 13/10 Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng.
Hoàng Cầm phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác.
Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động
các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác
sáng tác Lô Giang, Văn Cao, trường ca Sông Lô420, Đỗ Nhuận: Du
kích sông Thao, Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca, Phạm Duy: Tiếng
hát trên sông Lô421.
Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là "tác
phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây
Phương"422.
Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày
mùa. Cuối 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái,
Lương Xuân Nhị... Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung. Bức
tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình. Giữa 1949, Văn Cao lại
được lệnh trở lên Việt Bắc423. Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm.
Tháng 1/1950, đảng Cộng sản tuyên bố chính thức theo đường lối
Trung Quốc, thực hiện đấu tranh giai cấp trên toàn lãnh thổ.
Tháng 8/1950, Đại hội văn nghệ Việt Bắc quyết định loại trừ
Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ... bị coi là tàn tích của phong kiến và tư sản,
chỉ giữ lại thoại kịch. Phạm Duy bị kiểm điểm. Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ.
Văn nghệ sĩ, người vào Liên Khu Tư "vùng tự do" với tướng
Nguyễn Sơn, người bỏ về thành như Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v...
Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ
trách giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài,
Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt Nam, Toàn quốc thi đua...
1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn Trần Huy
Liệu, theo Hoàng Văn Chí, "Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một
Liên Xô là Chostakovitch"424. Các tài liệu khác, không nói đến cuộc gặp
gỡ này, vì Chostakovitch cũng có "vấn đề", số phận trầm luân, tương tự
Văn Cao chăng? Hoàng Văn Chí viết tiếp: "Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư
Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường
như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ
cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc"425.
Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:
"Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của
ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt
nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội - một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi
suốt tuổi trẻ (...) Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm
của Vũ Quý -người giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm
chàng choáng váng (...) Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với
"thành trì của chủ nghiã xã hội", "Thiên đường của loài người",
Văn Cao mới
vỡ lẽ ra nhiều"426.
Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự
như chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: họ đã nhìn thấy mặt thật của "thiên
đường".
1954, hòa bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc đài Phát
thanh Hà Nội.
1956, tham gia NVGP với bài thơ Anh có nghe không, đăng
trên Giai Phẩm Mùa Xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển,
một đoạn in trên Nhân Văn số 4.
1958, bị kỷ luật, không nặng như các thành viên chính, phải
đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao
đau dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu.
Sau Nhân Văn, người ta định chọn Bài ca cách mạng tiến
quân của Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được
giữ lại. Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi
năm, Văn Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Ông vẽ bìa
sách, minh họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim...
Sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976),
không được hát, có lẽ vì những câu "Từ đây người biết thương người. Từ
đây người biết yêu người".
1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốcca.
Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.
1981, một cuộc "vận động sáng tác quốc ca" được tổ
chức quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn
được bài nào thay thế.
1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên
Thai, Trương Chi, Suối Mơ... được tình diễn trở lại.
1988, Văn Cao được chính thức "phục hồi" cùng các
thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ Lá được
phép xuất bản.
18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài
viết: Tiến quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao
chỉ viết phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của
Nguyễn Thụy Kha ngày 7/10/91427.
1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt
Nam.
Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.
● Tác phẩm
Ca Khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên thai (1941), Suối mơ (1942), Thu
cô liêu (1942), Bến xuân (1942-1945, sửa lời và đổi thành Đàn
Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương Chi (1942), Vui
lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay, Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò
Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc ca (1943), Tiến quân
ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không
quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng
tôi (1947), Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948), Tiến
về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949), Mùa xuân đầu
tiên (1976)... (Năm sáng tác ghi ở đây không chính xác vì các tài liệu viết
khác nhau).
Đã in: Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (Trẻ,
1988), Lá (Tác Phẩm Mới, 1989), 28 bài; Tuyển tập Văn Cao (Văn
Học, 1994) gồm các bài đã in trong Lá, thêm 20 bài nữa.
● Văn Cao có để lại hồi ký không?
Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi
ký không?
Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của
Nguyễn Thụy Kha428 trình bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và
cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách của Bích Thuận429 trình
bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.
1- Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ gần gụi Văn
Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như lời nhạc sĩ kể lại, nói lên
được phần nào tâm sự Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời
Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào Thụy Kha thêm vào.
Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu đem so sánh với bản hồi ký đích thực
của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca in trên Sông Hương430 năm
1987, thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất.
Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình
Thi. Thụy Kha viết: "Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt
lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn
Cao với bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác còn
vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn
còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười
thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười
hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ,
chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao"431.
Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha cho biết: Nguyễn Đình Thi và
Vũ Quý chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Văn Cao hát. Nguyễn
Đình Thi nhẩm xướng âm bài hát, tại số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội.
Nhưng Văn Cao không viết vậy -Xin đọc toàn bài của Văn
Cao trong phụ bản ở dưới- Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến Quân Ca thì
Phạm Duy ở cùng và: "Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những
phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được
nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"
Văn Cao viết Phạm Duy là người chứng kiến sự ra đời của Tiến
Quân Ca. Và ở một đoạn sau, ông mới nhắc đến Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi:
"Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không
còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều
mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại
nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc
điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt
trận Việt Minh xem sao?"
Đoạn văn này có nghiã: Văn Cao đang ở Việt Bắc, lùm cây của
Hà Nội không còn nữa, và ông nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý
và nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc
điệu bài hát đó. So với đoạn trên, ông viết về việc Phạm Duy chứng kiến sự ra đời
của Tiến quân ca, thì phải hiểu rằng: khi lên Việt Bắc, Văn Cao mới đưa nhạc
phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi xem, ông gọi họ
là đồng chí, trong khi gọi Phạm Duy là anh, có khác. Cũng không thấy Văn
Cao nói đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi, đấy là Nguyễn Thụy Kha thêm
vào. Tóm lại, chỉ cần thay đổi vị trí, thêm, bớt một vài câu chữ, là ý nghĩa
văn bản có thể hoàn toàn thay đổi.
Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao đăng
trên Sông Hương năm 1987, không đề ngày viết, được cắt ngắn, thành bài Tại
sao tôi viết Tiến quân ca432, và đề ngày 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản
Sông Hương. Nhưng cũng không loại trừ khả năng bản Sông Hương được viết từ trước
1976, đến khi được đăng lần đầu, đề ngày 7/7/76, thì bị cắt xén và sửa chữa. Đến
năm 1987, thời kỳ đổi mới, Văn Cao gửi cho báo Sông Hương bản đầy đủ.
Bởi vì khi so sánh hai văn bản, thì bản 7/7/76, ngoài việc cắt
bỏ, sửa các lỗi có trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập"
lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Người
biên tập lại không có trình độ văn hoá của Văn Cao, ví dụ, câu "những băng
cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của
ông được sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng
vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim". Văn Cao
không viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến
Quân Ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ
Trần Trọng Kim.
2- Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mạn hoá và tô điểm cho
Văn Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu
ý, ở chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội,
có câu: "Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi
họp ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang
Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với
anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích
đoạn này dài hơn một trang433. Chỉ nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi
ký" mà chúng ta biết Bích Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao,
ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến Quân Ca, đã in trên Sông Hương.
Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt
gian" V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi
những câu như: "Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh
- Tiếng nước rơi bán âm - Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm
xúc, v.v...", xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.
Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu lấy từ những
trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ toàn bộ cuốn hồi ký ở đâu?
Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như thế
nào với những trang hồi ký mà có thể họ đã được đọc bản chính ấy? Để ghi lại
chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết,
vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo
như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả.
3- Đây là sự kiện thường xẩy ra ở Việt Nam. Phát xuất từ những
lý do:
- Sự trừng trị của chính quyền đối với những chữ, những câu,
những tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng - kiểm duyệt, tịch thu, cách chức
Tổng biên tập, v.v...
- Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.
- Sự an phận, đồng tình của giới văn học -kể cả những người ở
ngoài về in trong nước- nói theo một trí thức nổi tiếng "cái nước
mình nó thế!" Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi
đi. Nhưng không. Chấp nhận. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng được in còn hơn không!
- Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân - nếu tác giả đã qua
đời. Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù dập,
không mấy ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán
để có thể sống bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải
thưởng, huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người Nhân
Văn "được" giải thưởng lúc cuối đời, bị đứng trước lựa chọn:
gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục
mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con
thơ, như lời Lê Đạt.
- Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và
người bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng
nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm thắt,
xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài
Tiến Quân Ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo
sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo.
- Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7- 8/1987
do Tô Nhuận Vỹ tổng biên tập và Nguyễn Khắc Phê phó tổng biên tập đã "dám" in
đầy đủ bài của Văn Cao không cắt xén, mà sau này không ai "dám"
in lại văn bản này?
Tình trạng chung của sách báo miền Bắc trước 1975 và cả nước
sau 75, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người
bị chính quyền coi là "phản động", là "ngụy", nghiã
là một nửa nước ra ngoài.
Người nghiên cứu nếu muốn tác phẩm của mình tồn tại sau thời
kỳ cộng sản, thì không thể chỉ viết về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn
Du, Xuân Hương... có "trung thành" hay "phản động" đối với
Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn
Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.
● Văn Cao Phạm Duy trước kháng chiến
Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm
Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ các sự kiện và những sáng tác hay của các
bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo rất ít người
biết, đến những lời hai, tuyệt vời của bản nhạc mà ca sĩ lười không hát, như
trường hợp Trương Chi.
Tạ Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng
hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn
Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất
tử!"434
Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào?
Theo Phạm Duy là khi ông theo gánh hát Đức Huy- Charlot Miều
xuống Hải Phòng, nhưng có chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944. Phải đọc kỹ những chi tiết
Phạm Duy viết, thì mới biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và
đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... Vậy họ gặp
nhau sớm hơn 43-44; chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến
xuân, năm 42, bởi vì Phạm Duy có đóng góp trong hai tác phẩm này, cho nên
Tạ Tỵ viết: "Khi hai nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần
thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" 435.
Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, vì Phạm Duy vác đàn đi khắp
đất nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần
trong kháng chiến, và Văn Cao cũng viết: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần
anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến
tàu đêm"436.
Nguyễn Thụy Kha cũng ghi lại lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế
năm 1940: "Đầu năm nay nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn
thu" đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là
người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế
Phong"437.
Đầu năm nay, tức là đầu năm 1940, nó tức là Phạm
Duy. Vậy Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu, khoảng đầu năm 1940, là hợp lý hơn cả. Từ
đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác, trong hoạt động cách mạng.
Về gia cảnh Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm
tại bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà
máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước
này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn Cao
đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái
máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên
không lúc nào ngừng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản
kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới "giọng máy bơm nước",
Văn Cao sẽ có câu thơ:
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy...
Anh có nghe không, trong Lá, tuyển tập thơ Văn Cao.
Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn
tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám
mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ
lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho". Nhưng Văn Cao bản
tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người
nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay
tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng"438.
Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ
Huy Cận:
Sông chầm chậm chảy trong mưa
Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo
Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều
Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ
- Đêm mưa
Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy
bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi
tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc bec) thời
đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (...) Gặp
tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã
tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (...) Và
tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài
anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con
ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay
của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca"439.
Điểm đáng chú ý là Phạm Duy không hề nhắc đến việc ông giúp bạn
làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân -vì lần in đầu có tên Phạm Duy. Ngược
lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một sự
nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến,
trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến.
Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao:
"Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của
mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên
anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những
bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu
hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích"440.
"Bạn bè" ở đây, ngoài Phạm Duy, còn có cả Hoàng
Quý, Kim Tiêu441. Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường
như cũng trong bối cảnh ấy: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu
Ích làm lời cả bài Tiến Quân Ca, thì tại sao ông lại không "kiện"
Văn Cao, ít nhất từ sau 1954, mà lại để đến 1991 mới lên tiếng?
Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Lúc
đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có
ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ
trả lời là không!"442 Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: "Mày
ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao
chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết
đến rồi qua nhanh khi Sài Gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần
không dám nhận mình là Văn Cao"443.
Đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến
với hai loại Nhạc hùng và nhạc tình, Phạm Duy xác định sự
đóng góp của Văn Cao: "Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng
tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước,
Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài
hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng
này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa,
Thăng Long Hành Khúc... Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn
Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn
trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy
manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên
Thai, Trương Chi sau này (...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca:
"Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến
quân ca của Cách Mạng Tháng Tám" 444.
Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào đầu
thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với
những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh
Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng
Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt
Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người
Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến
và Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những
bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng
Hà Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và
đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).
Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy,
chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn
Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu
tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát -
gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán
cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô loài" như tôi
lắm lắm"445.
Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy
xác định:
"Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân
Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong
ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! (...) Khi Thiên
Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới
đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau
với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa"446.
● Văn Cao họa sĩ
Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (1940-1941) với các
thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh,
Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức,
Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên...
Phạm Duy viết:
"Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần
Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối
cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường
lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam
nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại
tranh vị lai (futurisme)"447.
Sự cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ448 nhận định
trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:
"Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng
chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và
Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội,
có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...)
Anh thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những
con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là
"Phái Phố"! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần
nhau để tạo nên kỷ niệm (...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy.
Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn
Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)
"Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ
Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang,
có lẽ vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng
bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề
"Những kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều
thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng
đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (...)
Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở
thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường
Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết
Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả
thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối
nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi
nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng
tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước
hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần
sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...)
Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn
Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao
trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc
nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó"449.
Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng
chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ
hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và
những ngày lịch sử.
● Tiến quân ca và những ngày lịch sử
1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia Quốc- Cộng,
phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu
ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo
của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, mới biết được những
sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc
khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà
Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..."450
1945, là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân
Ca lần đầu tiên đến với quần chúng.
Để giúp bạn đọc dễ theo dõi tiến trình hành động và sáng tác
của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch
sử sau:
▪ 04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia
thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.
▪ Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.
▪ 09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.
▪ 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành
độc lập của các dân tộc Đông Dương.
▪ 11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ
1884. Việt Nam khôi phục chủ quyền.
▪ 17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo
nguyên tắc Dân Vi Quý.
▪ 17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần:
Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá
Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.
Dùng cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng
đàn cung làm quốc ca. Trần Trọng Kim giải thích:
"Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ
và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là
bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có
bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.
Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định
đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu
lá cờ vàng có quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy
làm quốc kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn
Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên
có câu rằng "Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với
cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của
ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ,
chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ
phương nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn
phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị
trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế
là lá cờ vàng quẻ Ly có đủ các ý nghĩa"451.
▪ 20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa
Pháp: Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng.
▪ 01/8/45, Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội:
tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố
Đỏ.
▪ 09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.
▪ 13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết
định: Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi
quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa.
▪ 14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.
▪ 15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử
Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.
▪ 17/8/45, công chức Hà Nội biểu tình biểu dương ý chí bảo vệ
đất nước, cuộc biểu tình biến thành biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm
Duy cướp micro hát Tiến Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất"
tại nhà Hát Lớn Hà Nội.
▪ 19/8/45, biểu tình lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của
Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.
▪ 22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.
▪ 23/8/45, thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ
tịch.
▪ 02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình.
Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày
1/12/46.
▪ 09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới
quân Nhật.
▪ 05/10/45, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định
Nam Bộ.
▪ 22/12/45, Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt
Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập
chính phủ liên hiệp.
▪ 13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt
Trì. Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.
▪ 2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ
tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn
Tường Tam, bộ trưởng Ngoại Giao...
▪ 6/3/46, Hồ Chí Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam
là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.
▪ 16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.
▪ 17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường
Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.
▪ Từ tháng 4/46 trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh
nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường
Tam sang Tàu.
▪ 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm
trưởng phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương.
▪ 10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.
▪ 14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà
riêng của bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.
▪ 2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách
liên hiệp.
▪ 19/12/46, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ452
Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba
tháng cầm quyền, từ 17/4 đến đầu tháng 8/45:
• Bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm:
Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ.
• Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một
chương trình giáo dục mới.
• Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các
thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng,
vì Nhật chưa muốn trả.
• Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên
Bái tại vườn Bách Thảo.
• Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại
tên Việt cho các đường phố Hà Nội.
• v.v...
Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội
Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập
với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật
hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt
Minh đã thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.
Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không
cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm
Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc
lập với những câu thơ:
"... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy
Núi sông còn có buổi hôm nay
Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết
Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)
Ngoài kia dừng chén mà coi
Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do
Lắng nghe dân tộc reo hò
Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."
Tạ Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn
Sáng vẽ giấy bạc cụ Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh
cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị:
"Chúng mình không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi:
"Hành động cái gì?" Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi
nói hành động tức là phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng
nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi
đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng
lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận". Tôi đang phân vân chưa biết trả lời
ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi,
nghiã là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng
làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi
chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng
nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy
khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng:
"Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công". (...)
Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc
bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp
lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng,
Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương
cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước
Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh
để làm nên lịch sử (...) Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào
cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua
ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công
việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp
với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của
Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi
lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều
do Nguyễn Sáng vẽ."453
Tạ Tỵ đã phản ảnh rõ tâm trạng và tình thế những người đi
theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và
Văn Cao trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nhìn tương tự.
● Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến Quân Ca
Tiến Quân Ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến
tháng tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và
19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó?
Phạm Duy viết: "Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật
ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ
đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan
Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít
tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ
sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên
khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là
cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của
Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra
tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người
biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay.
Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở
đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không
kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.
Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban
Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn
võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm
chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông
Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức"454.
Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết,
nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một
người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của
Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam.
Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công khai nhìn nhận mình có "vai
trò lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê
Đạt không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.
Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng, trong hồi ký như sau: "Tôi
ở lại một mình trên căn gác vắng455 vào những ngày đầu thu năm 1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang
đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa
cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể
nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ
tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có
đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi
năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi
từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh
Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường
chú ý giúp đỡ tôi. (...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn
bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm
đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần
thánh. Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn
gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động
viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ
khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng
sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo
dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích
tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng
rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi
vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của
chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa? - Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng
tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm
dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải
dung những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn
một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói,
tìm một âm thanh đầu tiên. (...) Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một
gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun
một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc
mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi.
Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở
xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó.
Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể
nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào
nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng
anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần
chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều.(...)
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng
nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn
đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm
lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi
âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra
đời của bài Tiến Quân Ca.
(...)
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công
chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài
"Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung
quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những
cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của
chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân
ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn.
Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh.
Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh
hát.Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm
đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần
duy nhất"456.
Đoạn hồi ký này xác định năm sự kiện quan trọng:
1/ Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra
Hải Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi
lại đúng như thế.
2/ Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều
đó dễ hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp.
3/ Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao tìm gặp Vũ Quý.
4/ Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến
Quân Ca" ở căn gác phố Mongrand.
5/ Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống
cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức
hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.
Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy,
kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở
thành huyền thoại.
Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối
với Cách Mạng Tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn
Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César.
● Không khí ám sát thủ tiêu
Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ
gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng
giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:
"Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát"
mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút
dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời
cũng cho tiêu luôn các đảng phái không đi một con đường với họ.
Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm
Đùn", "Lý Bá Sơ" nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những
vụ át các bỉnh bút báo "Việt Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng"
đường Bô-Nan Hải-Phòng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết...
Sức mấy mà không sợ? Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi?
Nhưng cùng tắc biến, biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ
đả kích Trần Huy Liệu457 và những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi
thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng làm sao hết"458
Trong tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy459, Nhất
Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được
lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất
Linh mô tả rất rõ bối cảnh "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người
nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp". Nhất Linh đã viết những
trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các
nhân vật tự hỏi: "Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế
này". Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác
nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng
máy chỉ đạo, khác nhau.
Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong
kháng chiến: Văn Cao làm việc cho tình báo Việt Minh, tại Quán Biên Thùy năm
1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng
sông Thanh Thủy:
"Vào khoảng đầu mùa hè năm 1947 tôi tới Lào Cai
và thấy ở đây có một phòng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một
nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ chức tình báo. Lúc đó, đối diện với
Lào Cai vẫn còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp
Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho phòng trà này. (...) Quán Biên Thùy
đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động
tình báo của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt
Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập
trung ở đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy
này đang đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới
tiêu diệt. Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc
Cốc Lều, nay sòng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở
Lào Kai, tôi còn có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người
Nùng là Hoàng A Tưởng (...) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ
thuốc phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai
"anh hùng" kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy."460
Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn
Cao những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi
ông hoạt động trong đội "Biệt động vũ trang".
● Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin
Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang?
Giả thuyết của Vũ Bằng:
"... Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào
Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần
Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng
đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh "át" cô Nga461"giao
du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ
bắn Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.
Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu462là Voi đen (...) Tôi đi lại
thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo mười hai trang - tờ Rạng
Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên là Con ong do Tam Lang Vũ
Đình Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị
Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo
rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in truyền đơn cho Việt Minh. Cho đến
bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến
chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao
có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó hay không -nếu quả có in truyền đơn tại
nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao im lìm, không ai biết hành tung ra
sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải
Phòng. (...) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với một số anh em văn nghệ,
có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó. Sau ngày 19/8
tiếng của Văn Cao nổi như cồn".463
Doãn Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật
lại các sự kiện: "Năm 1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một
tên mật thám cho Nhật - nó đã phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải
trừ khử nó. Tháng 7- 1945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn
Khang, Xứ Ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình Thi giao cho Văn Cao khẩu súng
7165. Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm dò đường đi lối lại của Đỗ
Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn
Cao, Trần Liễn có lần đã đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết
mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc
được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động.
Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời
nhá nhem tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần
đen, áo va-rơi, đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không
ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một
quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý
là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức
Phin đang nằm hút thuốc phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát
vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công
bám vào ống máng tụt xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy
đến nhốn nháo. Văn Cao bình tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt
một tên Việt Nam bán nước thôi".
Nói rồi dưới ánh đêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà
tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải
Phòng"464.
Hành động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao
như một lương tâm trầm uất suốt đời.
● Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?
Sau ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa,
lý do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Đêm ấy,
trong cuộc tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam
Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:
- Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm
thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa?
- Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị
trước để làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động.
Tôi là đội viện biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm
một khẩu súng, vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó
là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi
đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có
thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến
công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.
Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe
rõ giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng
nói đến từ một biển khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương.
Nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy"465.
Nhiệm vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân
vật Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy. Vết thương Văn Cao cũng là vết
thương Nhất Linh. Nhất Linh viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước
khi tự vận, như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng
trên dòng Xích Bích, Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô
Đông Pha, chỉ còn lại tiếng thơ, cho muôn đời...
● Lưu Hữu Phước và Tiếng Gọi Thanh Niên
Viết về Tiến Quân Ca của Văn Cao, không thể không
nhắc đến Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền
Nam trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc.
Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Học
nhạc từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi
tiếng với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát
Giang trường hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng... và một
loạt hành khúc cho sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài
hát của thiếu sinh, Bài hát của thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn... Sau Cách
Mạng Tháng Tám, Lưu Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ tịch...
Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên từ thập niên
bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước
con người và sự nghiệp466 không thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc Dân Đảng
của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu.
Tô Hoài kể lại, trong một dịp "học tập bảo vệ Đảng",
ông nhận được lá đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng: "thành khẩn bộc
lộ thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ 1938 ở Sài Gòn, tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức
phản động là Quốc Dân Đảng. Tổ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu
Phước, Nguyễn Hải Trừng"467. Việc này xẩy ra khi Mai Văn Bộ làm đại sứ
tại Paris và Lưu Hữu Phước đang ở trong B, Tô Hoài đưa lá thư cho Hà Huy Giáp,
lúc đó là bí thư, nhưng Hà Huy Giáp ỉm đi.
Trong Giòng sông Thanh Thủy, đoạn Nhất Linh viết về
nhân vật Ngọc (Quốc Dân Đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt Minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc
họ, trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:
"Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân
ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt gươm, thề với núi sông...
Hồn nước muôn năm sống cùng...
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc
trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có
nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời
bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến
rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp"468.
Chính Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của
Lưu Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như
sau:
Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước
Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng
Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước!
Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long! Nhưng điều
đó không quan trọng.
Quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc Dân
Đảng.
Sự kiện này đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng
chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước thực sự là người của
Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao Tiếng Gọi
Thanh Niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc
ca? Tiếng Gọi Thanh Niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, bản nhạc
này được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và trở thành quốc ca của
Việt Nam Cộng Hoà, sau 1954.
Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông
tin văn hoá, ký ba Thông tri cấm lưu hành sách báo "phản động". Bản
đầu, số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ,
với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,
Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền,
Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng,
Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam...469
Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung
Ương. Nhưng người nghệ sĩ, khi ký những công hàm huỷ diệt tác phẩm văn học của
nửa phần đất nước, hẳn không thể không nghĩ đến hậu quả. Riêng đối với người
dân miền Nam hơn 20 năm gắn bó với Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước
đáp lại những ân tình của họ bằng một văn bản tiêu diệt tự do tư tưởng.
● Kháng chiến và văn nghệ sĩ
Trong hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng,
tại sao văn nghệ sĩ lại theo Việt Minh?
Vì phần lớn không làm chính trị.
Tạ Tỵ kể rõ các chặng đường từ bước đầu:
"Thủ đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh
gay go ngay từ phút đầu giữa Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp.
Phần lớn dân chúng đã tản cư. Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của
chính phủ từ mấy tháng trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngã
dùng làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày
chiến tranh thật nghẹt thở. Vợ con tôi đã theo ông bà nhạc tản cư về quê cả
tháng nay. Gia đình phía tôi cũng vậy. Tôi ở một mình vừa sáng tác vừa vẽ tranh
cổ động"470.
Và ông tìm cách ra khỏi Hà Nội, đi kháng chiến:
"Tôi chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi
men theo bờ ruộng ra đường số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm
Duy, không biết Duy ra khỏi Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong
kháng chiến, Duy mới cho biết đã ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường
Dạ Lạc. Văn Cao có báo cho Duy biết nhưng Duy không tin".
Tìm liên lạc với tổ chức:
"Tôi ăn Tết với gia đình xong rồi đến làng Bài Trượng thăm
vợ con, trước khi lên đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú
Thọ, mong gặp anh em quen biết có thể giới thiệu mình với một cơ quan nào đó.
Người thì đông, anh em chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng
gặp Phạm Duy từ trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ
đi Yên Bái. Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng lòng, hỏi
Duy có phương tiện gì không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm
đó, tôi quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy
tiền tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội
mũ ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, còn một tay xách chiếc túi đựng
quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đã bóc hết đường rầy đi ngược lên.
Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến
nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:
- Sao làm vậy?
Duy nói:
- Đeo mệt xác, ném khoẻ hơn!
Trong lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước.
Sau khi ra khỏi Hà Nội, Duy tìm đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ
Giải Phóng, rồi Việt Trì, bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai
với những bản dân ca. Duy lúc này đã nổi tiếng, chẳng những về hát, mà còn ở
sáng tác nhưng ca khúc như Cô hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...
Năm ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui
vì Duy hay nói tục. Nhưng sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có
dự tính nào đó, có thể, một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy
long lanh như được chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành
phố đã tiêu thổ 95%, tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay.
Tôi ở lại Yên Bái chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống
rượu, loại rượu đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc
với nụ cười chìm lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm
chiếc trấn thủ"471.
"Văn Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến
và mãi mãi, mọi người đều nghe nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa
tài, ngoài nghệ thuật còn làm nhiều thứ khác.
Tôi lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược
Lào Cai để đi làm công tác tình báo biên giới được ngụy trang bằng một phòng ca
nhạc. Phạm Duy có lên Lào Cai và hát ở phòng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của
Duy được sáng tác tại đó."472
Tạ Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm thì bị
sốt rét nặng, phải về Liên khu Ba (vùng Thái Bình), vẽ tranh hí họa chống Pháp
trên báo Cứu Quốc Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt
tình cách mạng của Văn Cao:
"Một chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn
Đình Thi đến thăm. Thật không gì vui hơn, khi nằm một mình trong căn
nhà vắng lại được bạn đến thăm. Văn Cao cho biết từ Liên khu 1 mới xuống công
tác ở Khu 3, nhân tiện ghé chơi. (...) Nói chuyện tầm phào mãi cũng chán, tôi
yêu cầu Văn Cao đọc lại bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn
Cao tuy làm nhạc nhưng không có giọng hát, nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của
Phạm Duy, Bùi Công Kỳ v.v... Văn Cao cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như
Hoàng Cầm, nhưng tiếng đọc thơ của Văn Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng
vọng từ đáy huyệt. (...)
Tôi nhớ, đêm ấy Văn Cao nói với tôi:
- Này cậu, tôi có ý định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu
Chủ Nghiã Các-Mác473cậu nghĩ sao? Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị,
chỉ yêu nghệ thuật thôi! Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy nét mặt Văn Cao và
Nguyễn Đình Thi ra sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
- Không còn con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải
phục vụ chính trị. Tôi chỉ biết nói thế. Còn tùy cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần
đây thôi, mất công gì đâu mà cậu ngại?
Tôi không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...)
Sáng hôm sau, Thi và Văn Cao đều dậy sớm, đi ngay".474
Tạ Tỵ và Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu kháng chiến,
nghệ sĩ được tương đối tự do sáng tác. Tạ Tỵ vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa
chống Pháp) vừa sáng tác nghệ thuật theo ý riêng mình và có thể triển lãm. Phạm
Duy viết:
"Trong ba, bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc,
những văn nghệ sĩ rời thành thị ra thôn quê đều là những người tự động tham gia
cuộc chiến đấu chung và dù có gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính
quyền thì cũng được tự do đi lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng
Sản đã có đề cương văn hoá từ lâu475 quy định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có
"tính Đảng" nhưng chỉ tới khi có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ
chức ở Bắc Kạn vào năm 1950476 thì mới có những đường lối văn nghệ được
Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài Đảng học hỏi"477.
Trong không khí còn khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba
năm 1949, và các họa sĩ có thể tổ chức triển lãm chung, Tạ Tỵ kể: "Từ
khi có Văn Cao ở gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm phòng
triển lãm. Văn Cao cũng vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở
Phòng Tranh là việc nên làm vì từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Phòng
Tranh nào. Chúng tôi478 giao việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo,
còn tranh, có bức nào bày bức đó. (...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏ và
Đường cấm. Tôi có hai bức: Lìa phố và Chiến tranh. Cả bốn bức là sơn dầu, còn
toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên giấy. Tuy vậy, phòng Triển Lãm cũng nhiều người
xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự
trưng bày này hoàn toàn có tính cách biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng
ai mua. Sau khi phòng triển lãm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm hai tác phẩm
nói trên vì lý do không ở đây lâu, nhưng sau khi tôi đã "dinh tê", đến
năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy đi tất cả!"479
Trước đây, người ta chỉ biết bức tranh Cây đàn đỏ của
Văn Cao bị phê bình, nhưng nội dung phê bình ra sao, không ai rõ. Nhờ những điều
Tạ Tỵ viết về buổi phê bình tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể
đoán được cảnh phê bình tranh Văn Cao: "Tôi vẽ thêm được bức tranh
Mưa Núi, vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi
tham dự buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến
một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đã có nhiều anh em, tuy
vậy, tôi quen rất ít, chỉ có Phái480, Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn.(...)
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục
vụ kháng chiến, anh trưởng ban Tổ Chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi
của tôi trên chiếc giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ý kiến về tác phẩm
đó. Mỗi người nói một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm
mình có "nội dung cách mạng". Chắc đã được sắp đặt trước, anh trưởng
ban Tổ Chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi
mỗi người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những
lời phát biểu vô cùng thật thà vì không hiểu gì về hội họa của những người dân
quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn
phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê bình khốn khổ, tôi dự đoán được Tổ Chức Chi Bộ
Văn Nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng
về phía thiểu số, cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một
ngày. Đáng lẽ sau khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối
hôm đó, tôi về ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp trưởng Cơ Quan Bình Dân Học Vụ
nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi
là "dinh tê", chứ ở lâu không xong!"481
Đó là tình hình năm 1949. Và đó là lý do khiến những hoạ sĩ
như Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự "dinh tê" của văn nghệ sĩ được Vũ Bằng cảm nhận
như sau: "Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc
cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn
vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người"482.
● Nhân Văn Giai Phẩm: Thơ Văn Cao
Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa.
Ông trở lại với hội họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm
Mùa Xuân.
Văn Cao nhận lời và làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những
bi đát sâu lắng trong nội cảnh của tâm hồn. Với sự "đốc thúc" của
Hoàng Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên
cửa biển.
Lần này trở lại, Văn Cao như người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn
người đã làm cho nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác từ 1949. Tác giả quốc ca
hỏi tội:
"Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả"
"Chúng nó" đây là những khuôn mặt đã tạo dựng
nên cái xã hội có nửa mặt:
"Một nửa thế giới
Một nửa tâm hồn
Một nửa thế kỷ
Chưa khai thác xong".
"Chúng nó" đây là những con người:
"... những con người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng"
"Chúng nó" đây là những vi khuẩn đã len lỏi
vào sự sống của con người:
"Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân các cô gái
Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm"
Và một lần nữa tác giả Tiến Quân Ca kêu gọi mọi người
đứng lên bảo vệ tự do như đã từng bảo vệ tổ quốc:
"Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta."483
Những lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động
những tâm hồn yêu tự do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước. Chỉ riêng những kẻ cảm
thấy mình bị gọi là "chúng
nó" mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những lời tàn nhẫn:
"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch;
không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn,
khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc
dán nhãn hiệu là "bổ". Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như
thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái
hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương,
lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất
cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá
cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một
mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một
âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu,
tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng
nhiều người; mơ ước "Hải quân Việt Nam", "Không quân Việt
Nam" lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan¼
¼ Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi
đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình
đó là tiền thân của cái lối "Hãy đi mãi" của Trần Dần; chúng ta giật
mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy
"những kinh thành tan" dưới bom đạn mà không chút xót thương, và
"chiến công ngang trời" kia lại là của "không quân Việt
Nam", mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt,
nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc,
khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu
vị tan rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài
"Ngoại ô mùa đông 46"484
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ¼ ...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche¼ (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu
trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm,
hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là
"chúng nó"? Đối lập với ai là "chúng ta"?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta "chúng nó" là Mỹ-Diệm ở miền Nam,
là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-
Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay,
xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới "lừng lẫy Điện
Biên, chấn động địa cầu", dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả
Trái Đất cũng biết chúng ta vĩ đại!"485
Lời Xuân Diệu chứng minh những điều Văn Cao viết về
"chúng nó" là đúng. Xuân Diệu còn cho biết: Đảng chưabao giờ hiểu nghệ
thuật của Văn Cao. Tất cả những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi
là "thuốc độc". Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến
Quân Ca.
Nhưng Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của dân
tộc. Nếu nhạc Văn Cao đưa người vào mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc
đời: phần đời thực với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa
đông 1946, Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con
người mất tự do trong các bài thơ ngắn, cô đọng đau thương những giọt nước
mắt không rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nhạc sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội họa
và thi ca. Ngày nay khó tìm được họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn Cao
đã tự trình bày bìa những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant garde. Nếu
tìm lại được những bản nhạc đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên phong của
Văn Cao.
Riêng về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi
chặng sống, ông viết những tác phẩm giá trị.
Cúi xuống lầm than của kiếp người, Văn Cao đã để lại những
hình ảnh kinh hoàng của trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc, chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn
trong xóm cô đầu của một Hà Nội bán linh hồn:
"Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ (...)
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc!"
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến
quân ca, là những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu một dân tộc vùng đứng
lên kháng chiến. Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng
chiến, với một bút phápđộc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn:
"Phố chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác
The thé thất thanh giọng kêu tàn ác
Quạ dăm con, chập choạng cánh dơi xa
Lơ láo tường vôi, than bụi dui nhà (...)
Cửa ô cần lao
Cửa ô trụy lạc
Cửa ô trầm mặc...
Mấy bức tường hồng rơi xuống cùng trâm
Một dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội
Dòng ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối
Mấy xác quân thù bên cống tanh hôi
Sọ nứt toang óc chảy lẫn với ròi ...
Xóm âm u
thành khối đen đặc quánh
Ơi ai ngâm mình hố lạnh
Gió mùa rú ghê người
Trăng đông dầm khe rãnh
Lưỡi lê đậu sương rơi..."486
Kháng chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng.
Kháng chiến còn là chiến tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng... Ngoại ô
mùa đông 46 là bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong
những năm đầu, người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc và Ngoại ô mùa đông 1946, in trên
báo Tiên Phong. Đó là Văn Cao thời kháng chiến.
Thời NVGP, Văn Cao viết trường ca Những người
trên cửa biển, bài ca lịch sử của Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời Văn
Cao, từ lúc sinh ra dưới thời Pháp thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn
Cao đã phụng sự hết mình. Văn Cao chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại.
Nhưng ngày dứt chiến tranh cũng là ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch
tuộc hiện hình:
Vợ xa chồng
Anh xa em
Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu
Tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc ...
Gió bão tới đâu cũng không một lúc
Rụng hết lá vàng
Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn
Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất
Từng đêm đau nhức vết đạn trên mình ...
Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nướng
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người ...
Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt 487
Văn Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng
sẽ xẩy ra trên mặt trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt,
chỉ tên đã hoảng loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.
Sau Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào
nội tâm con người. Một con người:
Có lúc
một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
có lúc
ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
có lúc
nước mắt không thể chảy ra ngoài được488
Con người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như
bức tường vô tri, nhích dần, nhích dần trên than xác mình:
Cái bức tường lê từng bước một
Đến gần chân chúng tôi hàng ngày
Chúng tôi nhìn chậm chạp
Châm chạp một cái chết
Thời gian đang héo thời gian đang rụng489
Bài thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người
bị mất tự do. Bài thơ bị cấm trong ba mươi năm. Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục
vẽ bằng thơ. Lần này ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn:
Tôi đã gặp lại anh
Im lìm như một bức ảnh
Người anh dẹt như một con dao
Gây nhiều vết thương cho bạn hữu
Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt
Đâu là cái cuối cùng
Chỉ còn hai con mắt
Trắng dã không thể lừa dối490
Bài Ba biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao
trong một tình thế chính trị không lối thoát. Biến khúc I viết về thời
kháng chiến trừ gian:
Một người cho tôi con dao găm
Không biết dùng làm gì
đêm nhìn qua cửa sổ một khoảng trống đen
tôi ném vào khoảng trống...
bỗng nhiên có tiếng ngã ngoài sân
một người trúng tim đã chết
tôi không hề biết người ấy
tôi là kẻ không muốn giết người
chỉ biết bóng tối
mà tôi đã ném dao.
Những lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán
kinh hoàng của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt
vào guồng máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có «bàn tay bẩn» (JP
Sartre).
Biến khúc II viết về bi kịch của người Nhân Văn:
Tôi đi trên phố
bỗng nhiên mọi người nhìn tôi
một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
tôi chạy tôi chạy
tại sao tôi chạy?
tôi không hiểu tôi
cả phố đuổi theo tôi
xe cộ đuổi theo tôi
tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội.
Chạy hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối
thoát. Biến khúc III, viết về mạng lưới công an trị:
Tôi rơi vào mạng nhện
mạng nhện cuốn lấy tôi
không còn cách gì gỡ được...
muốn phá cái mạng nhện
tôi không đủ tay491
Sau Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến
Quân Ca như những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối.
Không nhắc tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm.
Nhưng Văn Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt. Người dân miền Nam vẫn
nghe những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái
Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly... Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội
ngộ với Văn Cao.
Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao
vàng gắn liền với Đảng Cộng Sản sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến
Quân Ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ
thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi
khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến Quân Ca trong lòng dân tộc Việt
Nam.
Chương 13 - Phụ bản
hồi ký của văn cao:
Bài Tiến quân ca
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn
gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày
vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo giới
thiệu cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống bằng hội họa tại Hà Nội không thể
thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người đã xuất bản mấy bản
nhạc đầu tiên của tôi cũng không nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận
được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn nhiều lần ở
các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện
ngắn. Đối với những cây bút trẻ, việc đăng báo là một vinh dự, người ta phải
mua báo và còn phải mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân. Hàng
ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc.
Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì
không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói. Những người bạn nuôi tôi cũng gặp nhiều
khó khăn. Căn gác 45 ấy bắt đầu đông người thêm. Mấy người bạn tôi cũng bỏ Hải
Phòng để lên đây kiếm việc. Họ đều là những bạn hướng đạo, trước đây chưa hề phải
lo đến chuyện làm ăn. Những năm trước, chúng tôi thường kéo tới nhà nhau để sống
hàng tháng trời bắt gia đình phải nuôi hay thỉnh thoảng mang lều đi ra ngoài
thành phố, về những nơi có núi đồi để cắm trại và ca hát. Đầu tiên chỉ có hai
người tới ở chỗ tôi, sau đấy lại thêm ba người nữa và có người chỉ mới biết tôi
qua bạn bè cũ. Căn gác 45 ấy biến thành một cái quán trọ của những người thất
nghiệp. Hàng ngày mỗi người đi tìm bạn bè trên phố để kiếm ăn. Đêm đêm họ phải
nằm trên cái sàn nhà lát gỗ. Bởi vì tôi chỉ có một cái giường nhỏ. Chủ nhà đã cắt
điện vì tôi không có tiền trả hàng tháng. Tôi phải làm việc với một ngọn đèn dầu.
Đã hết những câu chuyện tâm tình, những ước mơ và khát vọng của tuổi thanh
niên. Mỗi đêm, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau với những bộ mặt chán chường thất vọng.
Đôi lúc có những bộ mặt thấy vui hơn. Đấy là dấu hiệu thắng lợi của những người
gặp may trong ngày đã kiếm được một bữa ăn ngon, hay một số tiền nhỏ do bạn bè
bố thí. Chúng tôi ở với nhau không ai nghĩ đến sự giúp đỡ nhau. Mạnh ai tìm lấy
việc, tìm lấy cơm ăn hàng ngày. Không chí hướng. Không mục đích.
Buổi sáng mỗi lần ra đi, tôi thấy họ vẫn nằm ôm nhau trên sàn
gác, dù nắng đã chiếu vào giữa nhà. Thấy tiếng kẹt cửa họ cũng không buồn cựa
quậy. Có lúc trở về vào hai ba giờ chiều tôi vẫn thấy họ nằm như buổi sáng. Anh
em thường gọi đấy là những ngày phải "gồng". Tiếng "gồng"
có nghĩa là chịu đói. Tiếng "gồng" theo nghĩa võ là chịu đòn. Nhóm thất
nghiệp còn đặt thêm nhiều từ để chỉ sự đói: ép gồng, ép rệp. Những cảnh "gồng"
thường diễn ra ở căn gác xép ấy.
Người "giải gồng" -có nghĩa là giải được sự đói- giỏi
nhất là tôi. Mỗi buổi sáng ra đi tôi thường không biết là sẽ đi đến đâu và sẽ
làm gì, và chỉ cầu vào sự may mắn: may gặp bữa ăn ở nhà một người bạn, may gặp
một người bạn mời ăn ở dọc đường. Nhờ những năm học vẽ tại Hà Nội, tôi có một số
bạn nên gặp được nhiều may mắn. Nghe tiếng chân của tôi lao trên mấy bậc thang
gạch, mấy anh bạn trở mình nói với nhau: "Nó hôm nay lại thấy về sớm?"
Tôi nhìn các bạn nằm trên sàn gác nhịn đói không biết nói gì thêm. Cái đói đã
trói chúng tôi lại một nơi này.
Có một lần tôi khệ nệ xách lên gác một con cá mè dài gần một
sải tay. Cả bọn vùng dậy. Mặt anh nào cũng sáng hẳn lên:
- Ở đâu ra cái của này?
- Bà mẹ Nguyễn Đình Phúc cho đấy.
Tôi chỉ kịp ngồi thở, vì đã phải đi bộ xách cá từ Hàng Than về.
Bà mẹ nhạc sĩ ấy nay đã mất rồi, nhưng chúng tôi không thể quên ngày chúng tôi
nhờ mẹ mà có một bữa đỏ lửa trên sân gác, một bữa "tiệc" với món cá
luộc chấm muối chưa bao giờ ngon lành và no nê đến thế. Hình như chỉ có một buổi
tối hôm ấy thôi có người trong chúng tôi mới kể đến những chuyện về tình yêu.
Thế rồi bỗng nhiên họ rẽ nhau đi hết trong một ngày. Và căn
gác bỗng lạnh vắng. Bọn họ đã tìm được công việc trong một dịp may. Một người
chủ thầu chợ Hà Đông nhận tất cả làm nhân viên dán vé. Riêng tôi không thể làm
nghề ấy được. Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng vào những ngày đầu thu năm
1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang
đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa
cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể
nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ
tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có
đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi
năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph.D. là bạn thân của tôi
từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh
Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường
chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con đường
của người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của
các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm khác
vói việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác, bằng
những hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về
những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo
v.v... Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi
lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi,
thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy
đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi
đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường
đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng
thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có
muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động
viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ
khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng
sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những
hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng
tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng
rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi
vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của
chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa? - Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng
tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định công tác. Đây là lần đầu
tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu
hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân
đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để
nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không vang
một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người
hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia
vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh
chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc
này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người
đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một
cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé
gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt
con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn
sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị
lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết
đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về
gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy, Ph.D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về
Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt
Minh ngày càng nhiều. Các báo chí gửi về các cơ sở như "Cờ Giải
Phóng" và "Cứu Quốc" cũng tăng thêm số lượng. Tất cả đã chất đầy
mặt bàn tôi. Những tin đấu tranh ở các tỉnh được phản ảnh đầy đủ trên báo chí.
Tin chiến khu được mở rộng. Tin về các đội du kích thành lập. Rồi những tặng phẩm
gửi tôi có thêm cả máy ảnh, ống viễn kính, cả những bì gạo. Mỗi vật tiếp nhận càng
cho thấy sự phát triển lớn mạnh thêm của phong trào quần chúng đô thị và nông
thôn. Những cột báo không đăng hết được danh sách những người ủng hộ Mặt trận.
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng
nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu,
bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất
tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của
từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài
Tiến Quân Ca.
Ngày nay tôi vẫn không sao nhớ nổi, dù nhớ đủ mọi kỷ niệm, rằng
mình đã soạn nhạc bằng phương tiện nào, một cây đàn ghi-ta, một măng-đô-lin hay
một băng-giô. Cũng không nhớ tôi đã mượn đàn của ai và ở đâu. Có thể bài
"Tiến quân ca" đã soạn trên một chiếc ghi-ta Ha-oai chăng? Bởi vì tôi
đã quen sáng tác trên cây đàn này những năm trước đây.
Bài hát đã làm trong không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp
số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy
lùm cây và một màu trời xám. Ở đấy thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác
người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đấy hàng đêm mất ngủ vì gió mùa luồn
vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một anh viên chức nghèo khổ thiếu
ăn dưới nhà vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đấy tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời.
Ở đấy có những tiếng đập cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và
đang bị đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một
cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của các
em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ nhiều hôm. Tất cả đang chờ tôi
tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ
trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ
biết những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi.
Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên
ấy, để biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật
giản dị cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Minh đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp
điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng
Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn bước,
mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng
Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca Thét vang rừng núi
xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và
tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát: "Tiến lên! Cùng thét
lên!"
"Chí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng"
đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa.
Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và
nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại
nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc
điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt
Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc
quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước
tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát xít"
của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng tôi cùng phụ
trách.
Tháng 11-1944, tôi tự tay viết bài Tiến quân ca lên
đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ viết
của một anh thợ mới vào nghề.
Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về
Hà Nội. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe tiếng
đàn măng-đô-lin, từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tập Tiến quân ca.
Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất cả những
tác phẩm, tôi đã được ra mắt, ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra được vài chỗ
nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài hát đã được phổ
biến. Có thể những người cùng khổ, mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của
tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát.
Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng, và phải đưa những
vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc
mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn
xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào
ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở
những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng
của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, nhưng tờ bướm in "Tiến quân
ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít- tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn.
Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph.D. qua loa phóng thanh.
Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh
hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm
đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất.
Ngày 18 tháng tám 1945, đội thiếu niên tiền phong đến tìm tôi
nhận nhiệm vụ mới. Tôi không biết giao việc gì cho các em lúc này khi chúng tôi
không phải nhờ các em làm nhiệm vụ trinh sát như trước đây các em đã giúp chúng
tôi hết sức thông minh và dũng cảm. Chúng ta sẽ bắt tay vào nhiệm vụ mới của
cách mạng. Các em sẽ quay về với công việc học tập hàng ngày của các em. Lúc
này... lúc này chúng ta hãy tập hát. Một dàn đồng ca được thành lập ngay trong
Trụ sở Hướng đạo tại phố Hàng Trống, nơi chúng tôi thường sinh hoạt với các em.
Tôi đã hướng dẫn các em học bài Tiến quân ca để ngày hôm sau làm lễ chào cờ.
Lúc ra về, một em bé khệ nệ ôm một gói khá to và nặng đến gặp
tôi. Đó là một em làm việc quét dọn ở nhà in Lê Văn Tân. Tôi ngạc nhiên nhìn em
mở bọc giấy ra trước mắt các đội viên: một gói truyền đơn mà em đã từng đêm trốn
lại buồng máy, tự xếp chữ và in lấy được vài trăm tờ theo một khẩu hiệu em đã
được xem trên báo Cứu Quốc ngày gần khởi nghĩa. Tôi chợt nhìn đôi mắt đầy tự
hào của em. Đôi mắt em đẹp quá! Tôi ngờ ngợ như đã nhìn thấy đôi mắt ấy từ bao
giờ. Đôi mắt của những đứa trẻ bị lạc!
Ngày 19 tháng tám 1945, một cuộc mít-tinh lớn họp tại quảng
trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân
ca" chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi, có
còn nhớ lại cái buổi sáng tháng tám nắng vàng rực rỡ ấy? Nhớ lại giọng hát của
họ lẫn với giọng tôi vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng? Hàng chục ngàn giọng
hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự hào hùng
chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc lập
kể từ ngày hôm đó. Nay nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến lên thành nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bài "Tiến quân ca" hẳn còn vang vọng
mãi tác dụng của nó như thuở nó ra đời trong buổi bình minh kỷ nguyên mới của lịch
sử đất nước.
Văn Cao
(Sông Hương, số 26, tháng 7&8/1987, trang 1-5)
412 Nguyễn Huệ Chi, Vân Long, Từ điển văn học, bộ mới,
Thế Giới, 2003, mục từ Văn Cao.
413 Bị Việt Minh coi là gián điệp cho Nhật.
414 "Giữa lúc ấy (1944), thì một người đồng hương của
Văn Cao, tên là Vũ Quý vì hoạt động cho Việt Minh ở Hải Phòng nên bị Nhật
lùng bắt. Anh ta trốn lên Hà Nội, đến ở nhờ Văn Cao và tuyên truyền cho Văn Cao
theo Việt Minh. Văn Cao được giới thiệu để viết bài và vẽ tranh cho tờ báo Lao
Động là cơ quan của Việt Minh xuất bản ở ngoại ô Hà Nội, đồng thời căn gác của
Văn Cao được Vũ Quý dùng làm lớp học để giảng chính trị cho những thanh niên mới
gia nhập đoàn thể Việt Minh" (Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở
trên đất Bắc, trang 220). Nhiều nơi nhầm với báo Độc Lập mà Văn Cao cộng tác
năm 1947 ở Vĩnh Yên.
415 In trên Tiên Phong số 9, tháng 4/46.
416 In trên Tiên Phong tháng 8/1946
417 Theo hồi ký Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca (Sông
Hương số 26 tháng 7/1987)
418 Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, nxb Lao
Động 1991, trang 65.
419 In trên Văn Nghệ số 2, tháng 4/1948.
420 Mùa đông 1947, in trên Văn Nghệ số 1, tháng
3/48. 421 Làm ở Tuyên Quang, 1947.
422 Phạm Duy, Hồi ký cách mạng kháng chiến, trang 122.
423 Theo Hoàng Văn Chí, vì sợ gia đình Văn Cao về thành, Việt
Minh điều động Văn Cao lên Việt Bắc (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 221).
424 Hoàng Văn Chí, sđd, trang 221.
425 Hoàng Văn Chí, sđd, trang 221.
426 Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, nxb Lao Động
1991, trang 65.
427 Văn Cao vui và buồn sang tuổi cổ lai hy, đăng lại
trên Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, Văn Học, trang 423.
428 Nxb Lao Động 1991.
429 Nxb Thanh Niên, 2005.
430 Sông Hương số 26 tháng 7/1987.
431 Nguyễn Thụy Kha, sđd, trang 29.
432 In trong Thiên thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, Trẻ,
1988, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 86.
433 Bích Thuận, Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân
cách, Thanh Niên 2005, trang 77-78.
434 Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời
tôi, Thằng Mõ, Hoa Kỳ 1990, trang 39.
435 Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Văn Sử Học,
Sài Gòn 1971, trang 47.
436 Văn Cao, Bài tiến quân ca, Sông Hương số 26,
tháng 7/1987.
437 Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang
17.
438 Phạm Duy, Hồi ký I, Thơ Ấu Vào Đời, trang
234-235.
439 Phạm Duy, Hồi ký I, trang 236-237.
440 Phạm Duy, Hồi ký II, Cách mạng kháng chiến, trang
49-50.
441 Kim Tiêu là một trong những danh ca hàng đầu trước kháng
chiến đã hát nhạc Văn Cao tuyệt vời như Thái Thanh hát nhạc Pham Duy, nhưng số
phận ông vô cùng bi đát. Phạm Duy nhắc đến vai trò của Kim Tiêu trong việc truyền
bá ca khúc Văn Cao: "Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là
người hát hay nhất. Trong khi tôi vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong
Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ giọng hát Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương
Chi của Văn Cao được nổi tiếng" (Phạm Duy, Hồi ký II, trang 56- 57).
Về số phận người danh ca này, Tạ Tỵ cho biết: Kim Tiêu về
thành trước ông nhiều tháng, nhưng sau vì chống đối, bị Pháp bắt và buộc tội là
Việt Minh: "Vào tù, anh vẫn không sợ, dù bị đánh đập tra khảo thế nào, anh
cứ coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (Cellule), anh vẫn ca hát, những bài
hát của Việt Minh. Sáng nào, anh cũng nắm chặt tay vào song sắt hát bản Tiến
quân ca của Văn Cao để đánh thức mọi tù nhân khác dậy. Từ ngoài khu kháng chiến,
Văn Cao được tin, cảm động lắm, làm một bài thơ bí mật đem vào Hà Nội, rồi nhờ
các cán bộ tình báo nội thành đưa vào Hoả Lò cho ca sĩ Kim Tiêu. Tôi có được đọc
cả bài thơ, nhưng lâu ngày, bây giờ chỉ nhớ vài câu:
... Người danh ca ấy nằm trong ngục
Hà Nội nhớ tôi, hát bài ca cũ
Tiếng ca như buổi sớm trong
Tiếng ca vang vang phá phách
Xà-lim nổ tung ra
Cả Hoả Lò vỡ toang thành khối nhạc!...
Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đấy, còn sau
này, Kim Tiêu sống hay chết trong tù, tôi không hay" (Tạ Tỵ, Những
khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 114)
Trong đoạn viết về Bến Xuân, Nguyễn Thụy Kha có nhắc đến
người ca sĩ giọng vàng nhưng không (dám?) nêu tên, và sau cùng có câu "Và
đau đớn nhất là chàng đã chết trong cơn đói không thể nào sống được (Nguyễn
Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 28). Tại sao? Tìm kỹ thì chúng
tôi thấy trong tạp chí Âm Nhạc, Minh Hiền viết: "Kháng chiến, Kim
Tiêu ở lại hoạt động vùng địch. Ông đã bị bắt. Trong tù, Kim Tiêu vẫn hát
vang những bài cách mạng. Khi được thả, ngay giữa Hà Nội tạm chiếm, trong một
liên hoan sinh viên, Kim Tiêu đã hát Sông Lô của Văn Cao mà không hề sợ sệt
chút nào. Rất tiếc, sau hoà bình, do bị nghi ngờ được thả ra tù vì đã khai báo,
Kim Tiêu buồn chán đi lang thang. Càng buồn ông càng hát hay. Kim Tiêu đã hát đến
hơi thở cuối cùng ở Ga Hàng Cỏ". (Minh Hiền, Những giọng vàng một thủa,
tạp chí Âm Nhạc số 3- 4-5, 1994, trang 43-44.) Bi kịch Kim Tiêu chắc hẳn còn
nhiều u uẩn.
442 Phạm Duy, Hồi ký II, trang 49.
443 Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển,
trang 23.
444 Phạm Duy, Hồi ký I, trang 237-239.
445 Phạm Duy, Hồi ký I, trang 240-241.
446 Phạm Duy, Hồi Ký I, trang 247- 249.
447 Phạm Duy, Hồi ký I, trang 183.
448 Tạ Tỵ, sinh năm 1921 tại Hà Nội, là họa sĩ Việt Nam đầu
tiên vẽ theo lối lập thể từ 1940. Tạ Tỵ theo kháng chiến từ những ngày đầu.
Tháng 5/1950, sau khi bức tranh lập thể Mưa núi, bị phê bình gay gắt, ông
quyết định về thành. Năm 1951, ông tổ chức cuộc triển lãm tranh lập thể đầu
tiên với 60 tác phẩm tại Hà Nội. Năm 1953, bị động viên đi lớp Sĩ quan Thủ Đức.
Ông tiếp tục sự nghiệp hội họa tại Sài Gòn, với hai cuộc triển lãm lớn năm 1956
và 1961. Tạ Tỵ phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, cấp bậc sau cùng là
Trung Tá. Sau 1975, ông bị đi cải tạo và đưa ra Bắc. 1981 được tha về. 1982,
cùng gia đình vượt biển. Viết hồi ký Đáy Địa ngục (nxb Thằng Mõ,
1985, Hoa Kỳ). Năm 2004, sau khi vợ ông từ trần, Tạ Tỵ trở lại sống tại Sài Gòn
và mất ngày 24/8/2004. Tạ Tỵ, như Vũ Bằng nhận xét là "một nghệ sĩ
"trọn vẹn", ngoài môn vẽ, viết, thơ ca, anh lại còn có tài về nhạc
và trình diễn". Ông để lại những trang hồi ký giá trị về sinh hoạt
văn nghệ Việt Nam, từ tiền chiến đến thập niên 80.
449 Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời
tôi, trang 18-34.
450 Lại Nguyên Ân, Đôi lời dẫn giải, trong Vũ Bằng,
các tác phẩm mới tìm thấy, mạng Viet-studies.
451 Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, hồi ký,
chương 4, đã có trên Internet.
452 Theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, việc
từng ngày
453 Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời
tôi, Thằng Mõ, Hoa Kỳ, 1990, trang 41 và 47.
454 Phạm Duy, Hồi Ký II, Cách mạng kháng chiến, trang
30-31.
455 171 phố Mongrand nay là số 45 Nguyễn Thượng Hiền.
456 Văn Cao, "Bài tiến quân ca", hồi ký,
Sông Hương số 26, tháng 7/1987.
457 Trần Huy Liệu lúc ấy là Bộ Trưởng Thông Tin.
458 Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Tủ sách Nam Chi,
nxb Phạm Quang Khai, Sài Gòn, 1969, trang 160.
459 Nhất Linh viết sai chính tả: thực ra là Dòng sông
Thanh Thuỷ.
460 Phạm Duy, Hồi Ký II, trang 105- 107.
461 Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho rằng Văn Cao bắn cô
Hoàng Thị Nga, chắc ông lầm, vì cả Vũ Bằng lẫn Văn Cao đều không xác định việc
này.
462 Sước hiệu tức biệt hiệu.
463 Vũ Bằng, Văn Cao - Một nghệ sĩ tài hoa, Văn Học
số đặc biệt Văn Cao, tháng 11/1970, Sàigòn, in lại trong Văn Cao cuộc đời
và tác phẩm, trang 173.
464 Doãn Tòng thuật lại, theo ghi chép của Bích Thuận, sđd,
trang 197-198.
465 Hoàng Phủ Ngọc Tường, Cảm nhận Văn Cao, Hợp
Lưu số 8, đặc biệt Văn Cao, tháng 12/1992.
466 Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp, Trẻ,
1989.
467 Tô Hoài, Chiều chiều, Hội Nhà Văn, 1999, trang
195.
468 Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy, tập 1, trang
214.
469 Bản Thông tri và toàn bộ danh sách các tác phẩm,
tác giả bị cấm, in trong cuốn Văn hoá Văn nghệ... Nam Việt Nam của Trần
Trọng Đăng Đàn (nxb Thông Tin, 1993), phần Phụ Lục II, từ trang 697 đến
754.
470 Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời
tôi, Thằng Mõ, 1990, trg 53.
471 Tạ Tỵ, sđd, trang 55-56. 472 Tạ Tỵ, sđd, trang 57.
473 Tức là Đảng Cộng sản, ngày 11/11/1945, tuyên bố
"tự giải tán", đổi tên thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông
Dương, mục đích thu phục toàn dân.
474 Tạ Tỵ, sđd, trang 68-69.
475 Tức là bản Đề Cương văn hoá Việt Nam do Trường
Chinh viết năm 1943.
476 Tại đại hội này Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ của mình.
477 Phạm Duy, Hồi ký II, trang 111-112.
478 Tức là Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị...
479 Tạ Tỵ, sđd, trang 99.
480 Bùi Xuân Phái.
481 Tạ Tỵ, sđd, trang 102.
482 Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 167.
483 Văn Cao, Anh có nghe thấy không, Giai Phẩm Mùa
Xuân.
484 Bài Ngoại ô mùa đông 46 của Văn Cao đăng
trên Văn Nghệ số 2, tháng 4- 5/1948.
485 Xuân Diệu, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn
Cao, in trong Dao có mài mới sắc, Văn Học, 1963, tr. 101-114. Bản điện
tử của Lại Nguyên Ân, Talawas.
486 Văn Cao, Ngoại ô mùa đông 1946.
487 Văn Cao, Những ngày báo hiệu mùa xuân, Nhân Văn số
4, ra ngày 30/9/56
488 Bài Có lúc.
489 Bài Với Nguyễn Huy Tưởng.
490 Bài Về một người.
491 Bài Ba biến khúc tuổi 65.
Chương 14
phùng cung (1928-1998)
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án,
thậm chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm
người bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người đã "liên hệ" xa gần
với NVGP. Mỗi cá nhân là một trường hợp, một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt
tích, trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm
NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt chân dung, trước khi bước sang địa hạt trí
thức. Nhưng không có nghiã là những người khác không có giá trị: Mỗi con người
đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến
ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không
thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng
nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự đóng góp của Bùi Xuân Phái
không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc.
Mỗi văn nghệ sĩ là một chân dung mà ký ức lịch sử văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng
ông bị tù vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh". Sự thực
phức tạp hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng
Cung. Chúng tôi cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào
vòng tù tội và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau:
• Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng.
• Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn
hoá dân tộc.
● Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong bài Nhà
thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng
Châu, huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ xã Cam Lâm,
quận Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên, quê sinh và Hà Tây, quê
tổ của Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng
Hưng - Bố Cái Đại Vương.
Con trưởng một gia đình giàu có, đông con, được gửi đi trọ học
ở Sơn Tây, đỗ bằng Trung Học - Brevet. Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng
Cung trở lại quê nhà.
Tháng 9/45, Phùng Cung, 17 tuổi, được bầu làm chủ tịch liên
xã Hồng Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay.
Phùng Cung làm chủ tịch xã được 2 năm.
Tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy
lên Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình bị liên lụy vì có con
đi làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: "Khi lên chiến khu, bố tôi làm
công tác thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn
Tấn Gi Trọng (bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y
Dược Hà Nội và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập
lại). Sau một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an
toàn khu và làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố,
Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa bình lập
lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội"492.
Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, gia đình bị quy vào thành
phần địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại
Cò Nỉ - Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ
kháng chiến ở Tuyên Quang. Phùng Hà Phủ viết: "Khi bố tôi hay tin, bố
rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân
trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng
- Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa
sai. Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp
mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với
cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và
chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của
cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp
xúc với bên ngoài."493
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn Nghệ.
1956, tham gia phong trào NVGP với truyện ngắn Con ngựa
già của chúa Trịnh494.
Theo Phùng Hà Phủ, tháng 5/1961 công an đến nhà bắt Phùng
Cung. Theo Nguyễn Hữu Hiệu, đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh
Tý" tức ngày 4/2/1961. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào
Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái)
và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ khi ông tham gia NVGP năm 1956 đến
tháng 5/61, khi ông bị bắt, Phùng Cung vẫn sáng tác đều, không hề nhụt tay
trong sự lên án chế độ.
Tháng 11/1972 được tha về. Phùng Cung làm nghề thợ đinh, vẫn
âm thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo
làm nhiều bản gửi nhiều nơi. Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
● Sáng tác chui, bản thảo gửi
1- Nguyễn Chí Thiện gặp Phùng Cung tại trại Phong Quang, năm
1970, Phùng Cung đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Nguyễn Chí Thiện hỏi Phùng
Cung:
"- Anh tù đã 10 năm rồi, anh sáng tác được nhiều không?
Anh Cung lắc đầu:
- Mấy năm đầu rầu rĩ, lo nghĩ về vợ con, không làm gì được.
Sau đó có viết một số truyện ngắn trong đầu, nhưng không nhớ nổi. Đành
chuyển sang thơ. Làm cũng được ít thôi, độ vài chục bài"495.
2- Phùng Quán viết: "Được trả lại tự do, việc đầu
tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở
về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh
xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con
trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không
át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng
chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt
bàn"496.
3- Về việc bản thảo và giữ gìn bản thảo, Ngô Minh thuật chuyện
được Phùng Quán dẫn đến gặp Phùng Cung lần đầu, năm 1986: "... rồi
ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng
bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: "Sau mười
hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm."
Phùng Cung trầm ngâm: "Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không
sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi
lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê
nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng
dưng chú cười hỏi: "Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ
nữa à?". Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này
toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có "chuyện gì"
trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình
cho chắc."(...)
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy
học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn,
có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haiku của Nhật Bản, nét chữ
Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả.
Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên nhan đề là "Bèo", bỗng nổi da gà:
Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (...)
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: "Anh để em
giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn".
Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế. (...)
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút
chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập
Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988
đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như "Nghiêng lụy",
"Bèo", "Người làng", "Chiếc lá rụng", "Cô
lái đò", rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. (...) Một lần nữ nhà
văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ
Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu
Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà
Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải
bút chì (...) Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách "lưu trữ" thơ của
Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất"497.
● Xuất hiện lại trên văn đàn
Như vậy, lần đầu tiên Phùng Cung xuất hiện trở lại, là trên
báo Sông Hương ở Huế năm 1988, với các bài thơ Nghiêng lụy, Bèo, Người
làng, Chiếc lá rụng, Cô lái đò.
Nguyễn Hữu Hiệu, hay về nước, đã gặp Phùng Cung và nhiều nhà
văn NVGP. Ông đem bản thảo của Phùng Cung ra hải ngoại: Bài Dạ Ký được
đăng lần đầu trên tạp chí Khởi Hành của Viên Linh498 năm 1996, tiếp đó là Ván
cờ khai xuân499 và Phòng tuyên truyền địa ngục500.
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin in tập Xem đêm của
Phùng Cung, gồm 200 bài thơ, là nhờ Quang Huy: "Tập thơ Xem đêm được
in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Đang và sự nhiệt
tình của ông Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong
khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là
người viết tựa cho cuốn sách này"501.
Năm năm sau khi Phùng Cung qua đời, Lâm Thu Vân cho in tại hải
ngoại, cuốn Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản502 gồm tập
thơ Trăng ngục (35 bài làm trong tù, từ 1961 đến 1972) và 11 truyện
ngắn (10 truyện mới và Con ngựa già của chúa Trịnh). Năm sau, sách tái bản
dưới tựa Phùng Cung Trăng ngục503 có thêm 74 bài thơ trích
trong Xem đêm.
Về tập Xem đêm, Nguyễn Hữu Đang viết: "Khi
đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của
thi hào cổ đại Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi
sẽ không chết tất cả" (nguyên văn tiếng La Tinh Non omnis moriar, ngụ
ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ
còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu
dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong
thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến"504.
Thơ Phùng Cung in được là nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, những
người bạn "trong cuộc" và vài người "ngoài cuộc" như Quang
Huy và nhóm Sông Hương ở Huế gồm Ngô Minh, Hà Khánh Linh và Nguyễn Khắc Phê ủng
hộ. Còn sĩ phu Bắc Hà thì sao?
Xem đêm ra mắt độc giả trong nước từ 1995. Về mặt giá trị
văn học, thơ Phùng Cung không thua gì những tập thơ khác của các nhà thơ NVGP
đã được in ra. Nhưng "giới sànhthơ" ngoài Bắc không ai nhắc đến Phùng
Cung. Từ điển văn học cũng không có mục từ Phùng Cung trong khi Văn
Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, có. Phải chăng vì
Phùng Cung chưa bao giờ được chính thức "xoá án"? Chưa bao giờ
được công khai "hồi phục" như những thành viên khác của
NVGP?
Nhưng còn một lý do nữa, có lẽ quan trọng hơn: là mọi người
ngại, không nhắc đến Phùng Cung, không phải vì Xem đêm, mà vì nội
dung toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, dù chưa in ở trong nước, nhưng đã có nhiều
người biết hoặc đã đọc qua.
Cái khiến người ta ngại, chính là tư tưởng của Phùng Cung. Một
tư tưởng độc đáo và ngược hướng với người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP,
trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu,
kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người.
Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời
đả kích mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về
chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt
Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù.
Rồi khi được thả, ông vẫn bị gạt ra ngoài vòng "chấp nhận" của
nhiều người trong và ngoài đảng.
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu dòng tư tưởng yêu nước đối lập
với các quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng
là kim chỉ nam cho một dân tộc mới: sự chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục
hận thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
● Phùng Cung và lớp chỉnh huấn Thái Hà
NVGP bị dẹp cuối tháng 12/1956. Trong năm 57, mọi việc "bình
thường" trở lại. Đến tháng 2/1958 sự thanh trừng mới bắt đầu với hai
"lớp học" ở ấp Thái Hà.
1- Trần Dần ghi trong nhật ký một số dữ kiện về Phùng Cung,
trước ngày "đi học":
27/2/58 PhCung: Tự dưng học hành đến nơi mà Liên Hiệp Hội lại
cho PhCung nghỉ công tác. PhCung lo. Không hiểu sao. Có phải vì các ông ấy sợ
mình ở đấy đâm lộ chuyện hay không? Hay là vì cái "giả vía", các ông ấy
mới cho mình là cái thằng mất dậy? Đã mất dậy thì thôi, không dậy cho nữa, để
mà biết tay!
Tôi hỏi PhCung xem cái "giả vía" ấy có gì?
PhCung cười hì hì, kể lại:
- Cũng chả có gì hì... Có một chỗ mình bảo là
cái "đảng mạ", hì, nghiã là cái thứ mạ, mình gọi là "đảng mạ",
dùng tiếng quê vậy cho nó vui, hì... Lại có chỗ mình định ca ngợi các đồng chí
chuyên gia, thì mình cũng dùng tiếng quê, bảo là "các ông ấy béo mà phương
phi như tây đoan", "cái đệm các ông ấy nằm mà bà con ta nằm thì ngủ
không biết khi nào trở dậy được", hì, mình cứ nói tiếng quê vậy, để bà con
nhân dân ta đọc cho nó vui... hì...
Tôi lo dựng tóc gáy:
Anh viết thế mà anh bảo là tiếng quê! Anh có bị đánh mất xác
cũng không oan...
Về sau tôi hỏi HtLinh 505 Linh bảo:
- Cái thằng, nó cứ có cái lối thế. Nó cho rằng viết phải đả
cái gì một tí thì mới oai. Anh em khỏi cười.
- Ai bảo nó thế?
- Ấy thế mới khỉ!... Nó cứ nghĩ như thế cơ chứ!506
Vậy, trước lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và vẫn
châm biếm Đảng.
2- Phùng Hà Phủ viết: "Cũng khoảng thời gian
này,507 bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và
chỉ viết ở nhà, một số bạn thân của bố tôi thường lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm,
Ðặng Ðình Hưng..."508
3- Phùng Quán cho biết về những truyện ngắn Phùng Cung viết
trong thời kỳ này:
"Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện
thì phải, cũng một dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì
đã bị cái khách quan khắc nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác
giả. Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê
vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với
tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết
tiếng Việt"509.
Tóm lại, từ tháng 12/1956, khi NVGP bị đóng cửa, đến tháng
5/61, khi Phùng Cung bị bắt, ông vẫn sáng tác và các bạn đều đọc. Theo Tô Hoài,
bài Dạ Ký lúc bấy giờ đã nổi tiếng lắm510.
4- Phùng Cung là đảng viên, vào đảng ở Việt Bắc, chưa rõ năm
nào. Vậy ông phải đi cả hai lớp chỉnh huấn Thái Hà. Tuy nhiên chưa bị tội nặng,
vì ở lớp này, Hoàng Cầm, Lê Đạt đều "bao che" Phùng Cung, một nhà văn
trẻ. Hoàng Cầm viết trong bài "tự thú" như sau: "Tôi
đi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết "Con ngựa
già của Chúa Trịnh" đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý kiến vào
việc diễn tả: "Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng ghét hơn".
Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả
cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo"511.
Lê Đạt viết: "Tôi lại viết "lời toà soạn"
cho chuyện "Con ngựa già" của Phùng Cung đả kích và vu khống lãnh đạo
văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ".512
Hai lời "thú nhận" trên đây chứng tỏ
Hoàng Cầm, Lê Đạt trong lớp Thái Hà, nhận mình chủ mưu, Phùng Cung chỉ là đàn
em.
5- Về Thái độ của Phùng Cung ở Thái Hà ấp, Trần Dần ghi:
29/4/58 Phùng Cung
- Nhục lắm. Mẹ nó. Mình xin về nhà có được không nhỉ? (...)
Có nên xin ra biên chế không? Tôi nhìn PhCung, ái ngại cho anh quá. Đâu như
trong khi học tập, anh ta "hỗn" quá, bị đuổi khỏi lớp làm sao ấy...
Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con đường, "họ"
là chân lý, mình đầu hàng, là phải; rằng không nên xin ra biên chế, lúc này việc
ấy có thể là một sự tiến công của tư tưởng thù địch; rằng không nên coi là nhục,
oan ức gì nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng cái bồ chữ mình đã chửi vào lãnh đạo
nó to như thế nào, còn oan và nhục gì nữa? PhCung xem ý không thông gì lắm. Tôi
thấy khổ! Một con người có cái gan "tử vì đạo" là PhCung, than ôi,
cái đạo anh định chết vì nó chính là cái đạo phản cách mạng, sao mà anh chưa tỉnh
ngộ ra hử anh?"513
Tại lớp Chỉnh huấn Thái Hà, Phùng Cung đã có thái độ cứng rắn,
không đầu hàng, "tử vì đạo" như Trần Dần ghi.
6- Về tình trạng tự kiểm thảo của mọi người sau lớp Thái Hà,
Trần Dần ghi:
Ngày 7/5/58 Kiểm thảo sáng tác. Đảng đoàn HNVăn để
cả một tuần này, để cho Nhân Văn viết lại cái phần kiểm thảo sáng tác! Theo như
đồng chí NxSanh514 nói, thì tuần trước, phần đó viết chưa sâu, vì thiếu
thời giờ, thì tuần này viết lại cho kỹ. Mà phải viết sao cho có thể dùng in
công khai được. Sau khi mọi người đã nộp cái của quốc cấm, nghiã là cả một đống
những Nhân Văn Giai Phẩm rồi, thì tập trung ở cả một phòng, viết kiểm thảo
(...) Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm hình dung từ, lắm tiếng tự phê dao búa!
(...) Tôi cũng không kém. Bao nhiêu hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản
Đảng, phản bội, chống chế độ, xét lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc
bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ
nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản v.v... Tôi sáng tác thêm nhiều chữ nữa để
mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể. Chắc các đồng chí lãnh đạo
đọc một loạt kiểm thảo bọn tôi lần này thì phải bựt cười lắm đấy! "Trước
kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe. Bây giờ thì chúng lại còn tự sỉ vả gấp
triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!"515
7- Về hình phạt và tâm trạng chung, Trần Dần ghi:
Ngày 12/5/58, Tình hình Cuộc đấu tranh cứ lộn
đi lộn lại từ B516 sang A517 lại A
sang B, báo chí cứ xoay đi xoay lại mãi, cứ như một cái nồi khổng
lồ của vô sản chuyên chính, ninh đi ninh lại cho nó dừ cái chủ nghiã xét lại
ra.
Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt
của một người bị bung dừ. Không còn cách nào. Đây không phải là một sự trừng trị
cá nhân; mà đây là "chúng ta" trừng trị một phong trào, một trào lưu
tư tưởng của chủ nghiã xét lại... Tôi vừa là một tội nhân. Vừa phải cố tách
mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi
và đám Nhân Văn"518.
8- Vể sự phải tố bạn để thoát thân, Trần Dần kể:
21/5/58 "Thực ra, trước khi HCầm báo cáo, tôi dự định
là giữ VCao và ĐđHưng lại, như là "giữ một nửa thành phố, chỉ đầu hàng một
nửa" (...). Nên báo cáo tổ, bị hỏi, bị dồn, bị truy nữa, tôi vẫn giấu
quanh, không chịu thúc thủ cái một nửa thành phố đó! Đến lúc HCầm báo cáo, tức
HCầm "rendre"519 hai ông bạn quý đó rồi. PhVũ lên tố thêm VCao.
LĐạt thì chỉ xác nhận, tố thêm tí tỉnh, còn bao che ĐdHưng nhiều. Hơn nữa, qua
báo cáo HCầm và LĐạt, thì tôi "được" đưa lên mũi nhọn, "được"
hội trường chờ đợi rất ghê!
Bão lúc ấy chầu chực trên đầu lâu tôi! Tôi phải tính kế,
vừa thoát thân, vừa thoát cho 4 thằngđang bị dồn đánh ghê gớm (TD, HC, LĐ,
TPh)520 vừa để sao cho VCao, ĐdH hiểu mình, qua cái ý ngầm của bản
báo cáo!
Cụ thể, tức là tôi nghĩ rằng: "Bây giờ chỉ còn
con đường duy nhất, là đầu hàng Đảng. Không có con đường khác. Mà đã hàng
thì hàng thực sự, về sau mới thực sự trời êm bể lặng được. Thế nào là hàng thực
sự? Hàng thực sự là: mỗi người phải ra mà gánh lấy cái phần bão, do chính trách
nhiệm mình gây ra! 4 thằng đang chịu cái trận bão đó rồi, còn hai ông anh VCao,
ĐdHưng thì xin nhờ đến vai hai ông, mang vác lấy cái phần của các ông! (...)
Thực tế đã chứng minh cho giá trị chủ trương đó. Quả nhiên:
ngay trong lớp học, bão cũng đã ngàn đi dần dần trên đầu 4 thằng, và sau
khi chuyển mạnh sang đầu 2 thằng kia ít bữa, rồi nó cũng ngàn đi.
Đến sau lớp học nữa, thằng nào cũng đều được sống trong một
không khí được giải vây tương đối dễ thở. Với thời gian chắc nó sẽ càng dễ thở
hơn.
Chỉ có cái là trong bộ 6521 thì có một sự phân hoá của trách
móc, hằn thù... HCầm có vẻ khổ! LĐạt tự cho mình là oai nhất, "đúng
nhất, vừa mức nhất, không vấy cho ai!", LĐạt cho tôi là "quá mức!",
ĐdHưng thì kẻ cả: "Tất nhiên có chuyện đó, nhưng đã thuộc lịch sử rồi.
TPhác khó hiểu, vừa ghét HCầm, vừa ghét VCao mà vẫn nối lại một phần, còn đối
tôi thì lại bảo là: "anh ghê nhất, anh giỏi nhất!"522
Đoạn nhật ký Trần Dần trên đây và đoạn Hoàng Cầm kể lại trong
băng ghi âm về buổi "báo cáo điển hình" hơn 10 tiếng đồng hồ của ông
tại Thái Hà ấp, hoàn toàn ăn khớp với nhau. Trần Dần giải thích tại sao phải đầu
hàng trước hệ thống cưỡng bách thẩm vấn, cho biết điều kiện viết những bản tự
thú và sự bắt buộc phải tố bạn để cứu mình. Trần Dần đã vạch trần chế độ toàn
trị trong vài hàng nhật ký: Sự tan nát tình bạn và sự giẻ rách hoá con người.
● Phùng Cung bị bắt
1- Trần Duy viết:
"Chính việc anh Phùng Cung bị bắt làm tôi rất lo sợ
và đau buồn, vì Phùng Cung không tham gia Nhân văn ngoài bài viết "Con
ngựa già của Chúa Trịnh" nhằm vào một nhân vật có tên tuổi trong Hội
Nhà Văn (Nguyễn Tuân). Nhưng vì anh Phùng Cung có một số bài viết đầu tay
đã chuyển cho một số đàn anh xem để biết, rồi không hiểu bằng cách
nào đó những bản thảo ấy lại vào tay lãnh đạo (tôi không được đọc những
bài viết ấy) (...)
Tôi nhớ một cuộc họp tại trụ sở Hội Nhà Văn ở đường Nguyễn
Du năm 1957 dưới sự chủ tọa của Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng¼ người đến họp
có đông văn nghệ sĩ, trong đó có Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần¼, qua những
câu hỏi, những lời xác minh của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì
đúng Phùng Cung là tác giả của những bài viết kể trên, và như vậy bản án đã úp
lên đời Phùng Cung một tội trạng. Tôi còn nhớ câu của Nguyên Hồng nói sau khi kết
thúc buổi họp: "Các anh lúc bình thường đối xử với nhau có vẻ
trí thức lắm, nhưng lúc có sự việc xảy ra thì các anh đối xử với nhau không bằng
lũ chăn trâu!". Ra đến cổng anh Nguyên Hồng vỗ vào vai tôi và bảo:
"Đã biết sợ chưa!".
Quả tình tôi rất sợ, tất nhiên sợ về pháp luật là chính nhưng
sợ hơn nữa là nhân tâm con người, sự tàn nhẫn của những con người đã bán rẻ
nhân phẩm của mình để tự cứu mình, giẫm lên sinh mạng của những người khác để tự
thoát thân"523.,
Theo Trần Duy, Phùng Cung bị tố năm 1957 và Lê Đạt, Hoàng Cầm,
Trần Dần là ba người tố. Nhưng so sánh với những tài liệu khác, không thấy nơi
nào ghi 1957 có việc tố Phùng Cung. 1957 là năm tương đối yên tĩnh. 1958, tại lớp
chỉnh huấn Thái Hà, Hoàng Cầm và Lê Đạt còn cố "gỡ tội" cho Phùng
Cung. Vậy việc tố Phùng Cung, nếu có, phải xẩy ra vào khoảng 1960-1961, trước
khi ông bị bắt, bị tịch thu bản thảo. Tóm lại Trần Duy đã nhớ nhầm năm.
2- Phùng Hà Phủ viết:
"Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúcđó
hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình
tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch
thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà
Nội). Ðó là tháng 5/1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp
định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu
bố tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên
Bình (Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai)".
"Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là
đi tập trung cải tạo (...)
Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối
tượng bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tôi đa tiếp xúc với thân
nhân.
Nhớ lại theo bố tôi kể "khi xẩy ra chuyện", buổi
sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người
xung quanh đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước.
Ngay cả những bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay
sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi
đấu tố thời "cải cách" của Liên Hiệp Hội Văn Học Nghệ Thuật (gồm cả đại
diện bên văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn
Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với
bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào
việc "đấu tố". Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên "tố"
để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị "tố"
là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác
cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác - Tất cả
nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng Cộng Sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông,
Quản thổi, Kép Nghế... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân
Văn nhưng theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa (...)
Từ ngày ra tù bố tôi sống như người bị câm, hầu như không
quan hệ với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp
"tố" bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin
lỗi bố tôi."524
Phùng Hà Phủ, không ghi rõ ngày "xẩy ra chuyện" -khi
đó hai anh em mới 4 và 2 tuổi- chỉ ghi lại những gì trong ký ức nghe cha mẹ kể
lại. Buổi đấu tố này, những người chủ trì khác với buổi Trần Duy kể lại, nhưng
có những chi tiết đúng như Nguyễn Hữu Hiệu viết trên báo Khởi Hành.
3- Nguyễn Hữu Hiệu viết:
"Theo lệ thường, mỗi năm, hội viên Hội Nhà Văn phải viết
bá cáo, tự thuật, tự đánh giá mình đọc trước lãnh đạo.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, tổ học tập gồm bọn bốn người
cứng đầu kia525bị trực tiếp đặt dưới quyền tổ trưởng Võ Hồng Chương526. Trong đợt
học tập này T.D.527 được lãnh đạo viết bản tố cáo dài gần 40 trang viết tay chữ
nhỏ như kiến. Phùng Cung bị đấu hai buổi trước đông đảo văn nghệ sĩ tại trụ sở
Hội Nhà Văn; bị tố cáo là tên phản động ngoan cố nhất của "Nhân Văn Giai
Phẩm".
Chế Lan Viên, cuối cùng, mới đứng lên đề nghị phải lập tức
điều công an đến khám nhà và bắt Phùng Cung.
Nỗi đau nhục bị phản bội chưa qua thì họa khám nhà đã đến.
Ngày 19 tháng Chạp năm Canh Tý 1960 [tức là ngày 4/2/1961] công an
vây kín ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn
bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa
vào Hỏa Lò Hà Nội.
Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn
Tây), Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt
trong mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha
khác. Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương.(...)
Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng
Cung- dâng lên de dọa nhận chìm Liên Xô "Thành đồng của Cách Mạng"
thì Phùng Cung không được làm "bất
cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa" kể cả việc làm gia
sư. Đều đặn hàng tuần công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong nhà khiến
không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng theo đà
"đổi mới" theo, nghiã là công an vẫn đến thăm hỏi như xưa nhưng nhẹ
nhàng và ít thường xuyên hơn. Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với gia đình tại
một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ"528.
Nguyễn Hữu Hiệu viết rất rõ ràng, đúng trật tự lô-gíc, chắc
chắn ông đã nghe Phùng Cung kể lại. Tóm lại, có 2 buổi đấu tố Phùng Cung cuối
năm 1960, Trần Duy được dự buổi có Hà Minh Tuân và Nguyên Hồng chủ trì.
Hoàng Cầm kể chuyện Phùng Cung
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm nói về việc Phùng Cung bị bắt
như sau:
Theo tôi, trong truyện Con ngựa già của chúa Trịnh,
Phùng Cung ám chỉ một số người, như Nguyễn Công Hoan, Chính Hữu, Nguyễn Đình
Thi... trước kia có tài, bây giờ đi hầu hạ một cách đê tiện, chẳng khác gì con
ngựa kéo xe cho bà Phi, ông Chúa. Vì bài đó, Phùng Cung mua sự căm ghét của những
người mà anh ám chỉ. Truyện này không phải anh chủ ý đem đăng ở Nhân Văn, mà
hoàn toàn là do tôi, vì anh quý mến tôi nên những gì viết xong anh thường đem
cho tôi đọc và sửa. Việc đăng bài ở Nhân Văn là hoàn toàn do tôi.
Sau vụ NVGP, năm 1958, mọi người đã đi cải tạo đợt đầu rồi,
nhưng người ta vẫn cho Phùng Cung làm việc ở Hội Nhà Văn, chứ không đuổi. Chỉ
cho làm việc lặt vặt quét dọn nhà cửa, rửa ấm chén... với lương nhân viên hành
chính độ 40 đồng. Còn hai anh Trần Dần và Lê Đạt, sau khi đi chăn bò ở Chí Linh
với Tử Phác và Đặng Đình Hưng về, năm 1959 chưa được cơ quan sắp xếp đi lao động
chỗ khác, nhưng bắt buộc mỗi buổi sáng phải đến Hội Nhà Văn. Có Phùng Cung ở đấy,
họ lại hội họp trò chuyện. Mà ba ông này thảo luận văn nghệ, thì có khi họ nói
to, ví dụ anh Phùng Cung cứ chê cái thứ văn giẻ rách của hai ông Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông, cả hai đều là lãnh đạo Hội Nhà Văn. Vì vậy họ thù. Ông
Nguyễn Đình Thi lúc ấy là tổng thư ký, ông ghét cay ghét đắng Phùng Cung.
Sau khi đóng cửa Nhân Văn đến năm 1960, anh viết được độ 20
truyện ngắn529, tôi đọc khoảng 10 truyện, tất nhiên không sắc nước bằng Con
ngựa già của chú Trịnh, nhưng đều có những nét rất đặc biệt, mang tâm trạng bi
phẫn. Lại có truyện rất humour, trào lộng và sâu sắc. Tôi và Lê Đạt mượn độ dăm
ngày rồi trả lại, riêng anh Trần Dần mượn hơn một tháng. Thế mà không hiểu lầm
sao, hai ông Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông lại biết là anh vẫn viết văn
chửi chế độ. Theo Phùng Cung, thì chính hai ông này gửi công văn sang Sở Công
An Hà Nội, bảo Phùng Cung là phần tử xấu, nhờ Công An xử lý cho nghiêm. Phùng
Cung nói với tôi: "Hai thằng khốn nạn, khi tôi làm thư ký công đoàn,
tôi lo cho tất cả mọi gia đình anh em, sao nó nỡ đối xử với mình như vậy!" Tôi
bảo: "Chắc nó ghét cậu chứ gì!"
Công an bịa chuyện có đơn khiếu nại của một thiếu nữ hàng xóm
bị anh hãm hiếp, nên họ gọi anh lên để điều tra. Có lệnh khám nhà, bắt và tịch
thu toàn bộ bản thảo, bản nháp các tác phẩm của anh. Tóm lại, chỉ có ba người
mượn đọc là tôi, Lê Đạt và Trần Dần, mà tại sao anh bị bắt.
Sau này tôi nghe chị Thoa, vợ anh kể lại: Anh vẫn khăng khăng
nghĩ như thế suốt mãi đến sau này, tức là trong 30 năm trời, anh cho rằng Trần
Dần đã đem nộp tập truyện ngắn của anh cho Ban Tuyên Huấn hay Bộ Công An. Vì thế
các ông Thông và Thi mới biết và làm công văn gửi Bộ Công An nên anh bị bắt.
Anh rất thù Trần Dần. Tôi nói thế nào cũng không nghe, anh luôn luôn trả lời: "Ông
đừng nhắc chuyện ấy với tôi, tôi không muốn nghe đến cái tên ấy nữa, thằng
bán bạn, thằng phản bạn". Vì Trần Dần giữ một tháng mới trả, rồi anh
bị bắt, nên anh nghi, anh nghĩ ra thế thôi, chứ còn Trần Dần có làm gì hay
không thì làm sao ai biết được. Riêng tôi và Lê Đạt đều nghĩ rằng Trần Dần
không thể làm cái việc như thế, vì có làm như thế cũng không gỡ lại được những
kỷ luật mà người ta đã giáng xuống đầu anh. Những nghi ngờ nó gậm nhấm tâm hồn
anh Cung, anh khổ quá nên anh gần như có lời nguyền là không bao giờ anh gặp lại
Trần Dần nữa, lời nguyền đó anh nói với vợ anh.
Khi anh bị giam, tôi không dám viết thư vì sợ quản giáo kiểm
soát, để phân trần cho Trần Dần. Tôi biết anh không nghi cho tôi, vì tính nết
tôi anh quá hiểu, khi làm thư ký công đoàn, anh đã giúp đỡ vợ chồng tôi nhiều lắm,
chính anh làm đơn cho tôi có hộ khẩu ở Lý Quốc Sư. Tôi chỉ nhắn chị Thoa mỗi lần
lên thăm anh, nói hộ rằng: "Tôi đã hỏi anh Dần, anh ấy bảo là
mình đọc rất chậm, có khi nghiền ngẫm 2, 3 ngày một truyện, mà anh ấy viết có
phải để in ấn gì đâu, nên mình không vội, chứ không cho ai mượn cả. Vậy Cung đừng
nên hiểu làm như thế mà anh em thù ghét nhau vô lý lắm, tôi nhờ chị ấy nói thế". Nhưng
về chị ấy kể: "Anh vẫn khăng khăng, chuyện này không thể tha thứ
được, Trần Dần với tôi là kẻ thù rồi, anh Cầm đừng thanh minh vô ích".
Đến khi được về, anh vẫn thế, anh bảo: "Dù anh Trần
Dần không phải như thế, nhưng cái chuyện kia nó đã ăn vào đầu tôi rồi, tôi
yêu cầu anh đừng nhắc đến nữa, càng nhắc càng gợi sự đau lòng". Thế
là tôi không dám nhắc đến nữa. Trong anh em có gì mâu thuẫn với nhau, như Văn
Cao và Lê Đạt, có lần mâu thuẫn với Đặng Đình Hưng về vấn đề văn nghệ, tôi luôn
tìm cách giảng hoà, nhưng lần này, trong 30 năm, tôi không làm được.
Mãi đến lúc sắp kỷ niệm ông Đang 80 tuổi, tất cả anh em xúm lại,
cùng họp nhau ở nhà Phùng Quán bên cạnh Hồ Tây, thì lúc bấy giờ Phùng Cung mới
đưa tay bắt tay Trần Dần: "Thôi thế nhé Dần, thôi không có chuyện gì
với nhau nữa nhé!" Trần Dần chỉ nói: "Không phải lỗi tại
tôi". Nhưng Phùng Cung không thân với Trần Dần được nữa nên cũng
không đi lại. Phùng Cung ở gần nhà ông Đang, kết nghĩa anh em, vì cùng đi tù,
tôn ông là anh cả, Phùng Cung, rồi đến Phùng Quán, là ba anh em kết nghiã.
Khi anh bị đi tù, chị Thoa lên thăm trên trại giam, từ Lào
Cai phải đi thêm 40 cây số nữa, rồi rẽ đường rừng 10 cây số mới đến chỗ anh ở.
Hai lần đầu nhất định không tiếp, anh đóng vai tàn nhẫn, cố ý để người vợ trẻ đẹp,
trung hậu của anh phải giận, phải nản chí mà về đi lấy chồng khác. Khi về chị kể
lại, thì tôi khuyên: Anh phẫn chí mới làm như thế, lần sau lên thăm, chị xin quản
giáo cho phép ở lại, làm việc gì cũng được, miễn là được gặp chồng. Chị nghe
tôi, lần sau chị xin quản giáo cho ở lại, chờ 2 ngày, thì anh phải tiếp, nhưng
anh khuyên vợ: "Em nên về nhà nuôi con, lập lại cuộc đời vì anh
đi tù không biết ngày nào ra, có khi chết trong tù". Chị bảo: "Em
quỳ xuống chân anh ấy em khóc, anh đừng nghĩ như thế, anh đã bị như thế này thì
cố gắng làm việc, theo đúng kỷ luật, rồi thế nào cũng có ngày về." Nhưng
anh ấy kiên quyết: "Em về lấy chồng đi!"
Nhưng chị ấy cứ kiên trì lên thăm, vài lần sau, anh ấy mới
thuận, vợ chồng lại chuyện trò âu yếm như trước.
Đến khi được về, sau này anh kể với tôi: Mình bị giam trong rừng
thuộc huyện Hoàng Xu Phì, trong suốt 12 năm, không một ngày nào trông thấy mảnh
trời xanh, vì ở rừng, chỉ thấy trời âm u qua kẽ lá. Đến khi được về, ra đến đường
cái, bấy giờ mới biết mảnh trời xanh, anh như người bị mê sảng, mất phương hướng,
mặc dù trời nắng, người anh run lên, không biết đây là đâu, lạc cả hồn đi,
không biết mình ở thế giới nào.
Tôi nhớ anh được về vào năm 1972 thì phải, B52 đang đánh Hà Nội
trong 12 ngày. Anh về Hà Nội vắng ngắt, đèn phòng thủ lờ mờ, đèn báo động, về đến
nhà cửa khoá không biết vợ con sơ tán ở đâu. Đêm ấy anh phải ngủ ngoài hiên và
dự trận B52 ném bom ầm ầm.
Hôm tôi và bà vợ xuống thăm, chị khóc gọi: "Anh Cung ơi,
anh Cầm, chị Yến xuống thăm mình đây này!" Tôi chưa nhìn thấy anh, không
phải vì mắt tôi cận thị mà vì cái phòng tôi tối, không biết anh đứng đâu, mà chị
Cung lại gọi, thì hoá ra, khi định thần lại, tôi thấy anh đứng trong góc nhà,
ngay cạnh tủ chè, kề bức tường. Một bóng ma! Người nhợt nhạt, anh nói thều thào
như sắp chết. Tôi phải hỏi lại chị: "Cô Thoa ơi! Chú ấy nói gì đấy?" Chị
Thoa trả lời: "Em cũng chả nghe rõ đâu, nhìn mồm thì em đoán là anh ấy
nói rất vui trông thấy anh chị xuống thăm!" Tôi chạy lại ôm hai cánh
tay anh, thương vô cùng, người đúng như một hồn ma, gầy gò, sờ thịt nhão ra, đi
lần từng bước, không nói được một câu nào cho ra lời. Nếu tôi không đăng bài Con
ngựa già của chúa Trịnh, trên Nhân Văn thì anh đâu đến nỗi
này!"530
● Lệnh bắt Phùng Cung
Tổng hợp những thông tin của Hoàng Cầm, Phùng Hà Phủ, Nguyễn
Hữu Hiệu và Trần Duy, chúng ta có thể hình dung các sự kiện đã xẩy ra như sau:
Việc Phùng Cung nghi Trần Dần sẽ mãi mãi là một nghi vấn khó
giải đáp, trừ khi có những tài liệu mới. Nhưng không loại trừ khả năng lãnh đạo
biết việc này từ một nguồn tin khác. Hoàng Cầm không nhắc đến hai buổi học tập
đánh Phùng Cung, có lẽ ông tránh kể lại việc này. Tóm lại, có thể tóm tắt sự kiện
như sau:
Lãnh đạo biết việc Phùng Cung viết văn chống Đảng. Một mặt,
giao cho Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông chính thức yêu cầu công an Hà Nội
bắt. Một mặt, giao cho Chế Lan Viên tổ chức các buổi hội thảo đánh Phùng Cung.
Vậy, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Nguyễn Đình Thi, ba người ghét Phùng
Cung, đều được Tố Hữu ra lệnh tổ chức bắt Phùng Cung.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, T.D. tức Trần Dần, được chỉ
định viết bản tố cáo dầy gần 40 trang, (Trần Dần từng xác nhận việc bắt buộc phải
khai các bạn, để thoát). Sau bài tố của Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt, phải đứng
lên phụ họa, xác định các tác phẩm mà Phùng Cung viết trong mấy năm qua ngụ ý
chống đảng là có thật.
Nhưng bi kịch này có thể đã được dàn dựng trước, vì những yếu
tố sau:
1- Sau lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác và tụ họp
với Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt
lãnh đạo. Nguyễn Hữu Hiệu viết:
"Quả thật sau đợt học tập này, những anh em "Nhân
Văn" hầu hết đều không dám qua lại nhà nhau, có chạm mặt ở cơ quan cũng
không dám chào hỏi nhau, len lén cúi đầu sợ sệt. Riêng có bọn "chúng nó bốn
thằng" là Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt vẫn bất chấp, ngang
nhiên quấn quýt, trao đổi văn chương, chuyện trò rôm rả, nhất là khi gặp nhau tại
trụ sở Hội Nhà Văn 84 Nguyễn Du. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt lãnh đạo.
Khi nào Công an chịu bỏ qua?"531
2- Bài Dạ Ký đã "nổi tiếng" lắm trong giới
văn học và công an lúc đó. Tô Hoài viết:
"Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám
Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất
Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau,
ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm"532.
3- Cuối 1960, khi Phùng Cung bị gọi lên kiểm thảo, bộ ba Trần
Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đã bị đánh tan nát rồi. Trần Dần, Lê Đạt, phải đi chăn
bò, chăn trâu, bị cách ly, bị coi là "hai tên nhà thơ phản động nhất
nước". Trong hoàn cảnh ấy, liệu họ có quyền từ chối khi được lệnh phải tố
Phùng Cung hay không?
4- Việc tố này, chẳng qua là một sự dàn cảnh, để cho mọi người
thấy rõ "bộ mặt tồi tệ của bọn Nhân Văn", "bọn chúng tố cáo
lẫn nhau", để Chế Lan Viên có cớ ra lệnh khám nhà và bắt tên phản
động ngoan cố nhất của Nhân Văn Giai Phẩm".
5- Chế Lan Viên đã đóng đúng vai trò Tố Hữu trong việc bắt Trần
Dần, nhưng một cách "đường đường chính chính", không ám lậu
như Tố Hữu.
6- Ba người nắm hồ sơ và hoạt động đắc lực nhất trong vụ
thanh trừng NVGP là Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Đào Vũ. Nhưng Chế Lan
Viên khôn khéo hơn hai người kia, không viết bài đánh nên không có văn bản "để
đời".
7- Chế Lan Viên thù Phùng Cung vì bài Dạ Ký, trong đó
Phùng Cung vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị "tứ
bất tử": Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, lại có thêm "đương
kim vô địch khôn" Tô Hoài, tuy Phùng Cung châm biếm cả các bạn đồng
hành Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
8- Chế Lan Viên không thể thích bức chân dung "nhà
thơ giả thiểu số" chuyên dùng khoa "Phật vận" tức
là "lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay" mà
Phùng Cung viết về mình. Bài Dạ Ký đối với bốn vị lãnh đạo văn nghệ
"tứ bất tử" là không thể chấp nhận được. Đặc biệt với Chế Lan Viên, sự
"phạm thượng" có thể sánh ngang vụ Việt Bắc đối với Tố Hữu.
9- Phùng Cung bị bắt, bị tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên
ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ - theo Nguyễn Hữu Hiệu. Vậy những bản
thảo này hiện ở đâu? Từ khi được tha về cho đến lúc mất, Phùng Cung chỉ viết lại
hay sửa lại được 10 truyện ngắn, in năm 2003 tại hải ngoại.
● Dạ Ký, tai họa của Phùng Cung
Dạ Ký là cái họa lớn của Phùng Cung, lớn hơn Con ngựa
già của chúa Trịnh. Trong Cát bụi chân ai, đoạn viết về Phùng
Cung, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
"Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ
quan hội văn nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn
không tên, sổ sách công văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo,
khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan (...) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt
đến, không nhớ. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ
Phùng Cung đi đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn
"Con ngựa già của chúa Trịnh" của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn
tôi cũng gật gù đại khái "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới
nên cơm cháo đấy, con ạ". Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã
mà có sừng có mỏ ngay.
Phùng Cung bị bắt khi "nhân văn, nhân võ" đã được dọn
dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần,
Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương".
Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng.
Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm". Tôi không thể tưởng
tượng một Phùng Cung thế nào (...) anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết
nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi
làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột.(...)
Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa.
Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên
tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không? – Tôi đây.
- Còn sống về được à?
- Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
(...)
- Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm? - Không biết.
- Vâng tù biệt giam mười một năm.
Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết
rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại
lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở
Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung
làm việc, trước khi phải tù.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào"cám ơn bác".
Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa.
Nghe nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp
tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi
được"533.
Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho
cái xóm "nhà lá" mà ông gọi mỉa là "nhân văn, nhân
võ". Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông tả: "anh chàng
mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc
sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo
vờ lù rù rình chuột". Phùng Cung làm việc dưới quyền ông ở Việt Bắc,
chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại "công tác chạy hiệu",
làm "những việc tủn mủn", "đi chặt củi, vác gạo, khiêng người
ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan"... Việc quan trọng nhất được ông
sai là "đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy". Và
khi đọc Con ngựa già của chúa Trịnh, Tô Hoài nghĩ "thằng
này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Sau
khi đi tù 12 năm, về, đến thăm, Tô Hoài rủa thầm "Đã tù, lại biệt
giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù". Ấy thế mà vẫn
không chừa, vẫn lại chứng nào tật ấy: "Lại thấy bảo đương viết, viết hồi
ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời?"
Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị
dẹp, mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy
trang Dạ Ký của Phùng Cung, nặng nợ đến thế nào.
Nhưng chỉ một Dạ Ký thôi, có lẽ chưa đủ để lĩnh án
12 năm. Dạ Ký là cái cớ làm cho những người lãnh đạo văn nghệ bị
Phùng Cung biếm họa nổi giận. Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa
trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung phanh phui tận gốc
chính sách tiêu diệt văn hoá của Đảng:
- Giải thoát và Mộ phách viết về sự bức tử
nghề ca trù và tuồng chèo cổ.
- Biệt tích là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.
- Mạt kiếp viết về cái đói và cái chết của người
cùng đinh.
- Phòng tuyên truyền địa ngục, là cơ quan dụ con người bỏ
trần gian về địa ngục.
Như vậy, Phùng Cung đã viết về chính sách thủ tiêu văn hoá của
Cách Mạng Tháng Tám, từ 1956, tức là 6 năm sau khi Đại Hội Văn Nghệ Việt Bắc
tháng 8/1950 ra chỉ thị tiêu diệt tuồng, chèo, cải lương. Phùng Cung viết về sự
tiêu diệt ca trù, một sản phẩm văn hóa của vùng đất tổ Hùng Vương mà Mộ
phách -mồ chôn phách- là tác phẩm tiêu biểu. Chính sách tiêu diệt văn hóa
này, sẽ tiếp diễn với sự chôn vùi văn nghệ sĩ và trí thức của phong trào NVGP
1956; sự thiêu hủy văn học miền Nam sau 1975, và vẫn còn tiếp diễn đến ngày
nay, qua việc cấm in, tịch thu sách, cách chức tổng biên tập, chia đất, bán rừng,
coi nhẹ di sản văn hoá của tiền nhân... Một cái nhìn rộng và xa như vậy, phải
được khởi viết từ đất Tổ: Phùng Cung, người Sơn Tây- nước Văn Lang.
● Đất Sơn Tây - nước Văn Lang
Sơn Tây phát sinh hai tài năng lớn trong phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm: Quang Dũng và Phùng Cung. Quang Dũng, sinh năm 1921, tại xã Phượng
Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây 534 khắc hình ảnh vùng đất tổ, trong
lòng người Việt qua những câu thơ:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì"
Quang Dũng đi vào lòng người miền Nam, không qua ngả Tây
tiến mà qua Đôi mắt người Sơn Tây do Phạm Đình Chương phổ nhạc.
Đại gia đình Thăng Long -Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc- có một
người anh chết ở Sơn Tây trong kháng chiến. Có lẽ vì vậy mà Phạm Đình Chương đã
phổ thơ Quang Dũng bằng những nét nhạc tuyệt vời, với một tâm hồn đồng điệu. Nhờ
bản nhạc Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương mà nước "sông
Đáy chậm buồn qua phủ Quốc" thấm vào hồn người nghe, dù họ chưa hề đặt
chân lên đất tổ bao giờ. Những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có khả năng truyền cảm
vượt tuyến, nối tình đất và tình người trong khoảng khắc câu thơ, tiếng nhạc.
Còn Phùng Cung?
Là người thông bác lịch sử, gắn bó với đất đai và văn hóa lâu
đời của dân tộc, Phùng Cung, đã dùng ngôn ngữ quật khởi, ngôn ngữ "rừng
rú" của Đường Lâm để bảo tồn nền văn hoá Việt một cách quyết liệt và toàn
diện.
Bài của Nguyễn Hữu Hiệu có một thông tin về nguồn gốc họ
Phùng: "Quê tổ của Phùng Cung ở Đường Lâm, Sơn Tây, vốn dòng dõi Bố
Cái Đại Vương Phùng Hưng". Chỉ Phùng Cung mới có thể cung cấp cho
Nguyễn Hữu Hiệu thông tin này. Bởi lẽ: Đường Lâm là một tên xưa, đã
biến mất từ đời Lê, chỉ người gốc Đường Lâm mới biết, và khi Nguyễn Hữu
Hiệu viết câu này năm 1996, Đường Lâm chắc chưa được "khôi phục" lại
với khu "di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm", như ngày nay
- không rõ việc khôi phục này có do các nhà khảo cổ giám định, hay chỉ là sự
bài trí màu mè để lôi kéo du khách. Vậy việc Phùng Cung dòng dõi Phùng Hưng là
khả thể. Nhưng không phải cứ dòng dõi Phùng Hưng thì trở thành anh hùng. Dòng
dõi và đất sinh có thể giải thích sự can trường và lòng bất khuất ở một con người
như Phùng Cung. Sinh trưởng trong cái nôi lịch sử Sơn Tây, từ một ông tổ chống
ngoại xâm lâu đời nhất, cái khí phách ấy, sự kiên cường ấy, không thể giải
thích cách nào khác, ngoài đất đai, sông núi và lịch sử.
Nhưng trước hết, tại sao lại Sơn Tây?
Đất Sơn Tây có gì đáng nói?
Miền Bắc có bốn vùng đất cổ, đã trụ các kinh đô xưa:
1- Sơn Tây thuộc nước Văn Lang, có kinh đô của
HùngVương, Trưng Vương, Phùng Vương, Ngô Vương.
2- Ninh Bình, có kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh, nhà
Tiền Lê, và những năm đầu nhà Lý.
3- Hà Nội là kinh đô Thăng Long của nhà Lý, Trần và
Hậu Lê.
4- Thanh Hoá có Lam kinh còn gọi là Tây kinh, kinh
đô đầu tiên của nhà Hậu Lê, do Lê Thái Tổ dựng lên ở phía đông núi Lam Sơn, có
cung điện nhà Lê ở phủ Yên Trường và Vạn Lại, có gò Phật Hoàng, mộ tổ nhà Lê,
có Thành nhà Hồ tức Tây đô, có Ly cung của nhà Hồ ở huyện Vĩnh Lộc...
Trong bốn vùng lịch sử này, Sơn Tây lâu đời nhất.535
Vì vậy mà trải các triều Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê,
Nguyễn, các vua, dù có thay đổi cách gọi, là lộ, là trấn, là thành,
là xứ, không vua nào dám đụng đến "bờ cõi" Sơn Tây, bởi
đó là "bờ cõi" Văn Lang, nơi vua Hùng dựng nước, với những
bia, miếu, đền... những địa danh lịch sử như Phong Châu, Mê Linh, sông Hát...
Sơn Tây còn là trung tâm của nước Việt cổ, một địa điểm chiến lược và tâm lý.
Vì vậy, khi dàn trận Thu Đông 1947, Pháp đã chiếm Tông và Sơn Tây trước, để
làm bàn đạp đánh lên Việt Bắc, cũng là một đòn tâm lý đánh vào não trạng người
Việt.
● Sự sát nhập Sơn Tây vào Hà Nội
Năm 1965, chính quyền miền Bắc sát nhập Sơn Tây vào Hà Đông.
Từ 1975 đến 1978, Sơn Tây bị nhập vào Hà Sơn Bình. Từ 1978 đến 1991, Sơn Tây bị
nhập vào Hà Nội. Từ 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Tây. Đến tháng 8/2007, thị xã
Sơn Tây536 được nâng cấp lên thành phố Sơn Tây và năm 2008, toàn bộ tỉnh
Hà Tây bị sát nhập vào thủ đô Hà Nội. Đường Lâm537 như vậy, ngày nay đã
thuộc vào tỉnh Hà Nội. Những sự "sát nhập" này, luôn luôn
thay đổi, tùy tiện và lúng túng, không do một chính sách địa lý, chính trị, văn
hoá có nghiên cứu khoa học và lịch sử làm hậu thuẫn. Sự "sát nhập" toàn
bộ thành phố Hà Tây -trong có thị trấn Sơn Tây- năm 2008 vào Hà Nội, cũng như
việc ủi nền cổ thành Đại La để tổ chức lễ hội ngàn năm Thăng Long, bất chấp ý
kiến các chuyên viên khảo cổ, có thể hiểu như thế nào?
- Rằng để kịp thời phục vụ "lễ hội ngàn năm
Thăng Long", nên cần làm đẹp Hà Nội và "bành trướng" Hà
Nội về phía đất tổ Hùng Vương chăng?
- Rằng để cho nhà, đất lên giá theo đúng đơn đặt hàng của bọn
đầu cơ bất động sản?
- Rằng để xác định sự chính thống của nhà nước Việt Nam, tự
xưng thời đại cộng sản như một triều đại "mở nước", ngang
với triều Lý, với tổ Hùng Vương chăng?
Cái tin nhà nước định "rời đô" về chân
núi Ba Vì, bất chấp ý kiến chuyên gia, lại càng làm cho các giả thuyết trên
đây, đặc biệt giả thuyết sau cùng, thêm vững chắc.
Sự phá vỡ bờ cõi Văn Lang, bất chấp lịch sử, văn hoá, cũng
không đi ra ngoài quỹ đạo truyện ngắn của Phùng Cung. Truyện của ông xoáy vào
toàn bộ chính sách văn hoá của đảng cộng sản: từ việc loại trừ phần văn hóa cổ
dân gian, như chèo, tuồng, ca trù, thời kháng chiến, đến sự phá vỡ vùng đất tổ
Hùng Vương hiện nay, là hậu quả của chính sách phi văn hoá, xuất phát từ 1950
khi đảng cộng sản quyết định áp dụng chính sách đấu tranh giai cấp trên
toàn lãnh thổ để xây dựng một nhà nước do vô sản độc quyền lãnh đạo.
● Đấu tranh giai cấp giữa chó và người
Dưới mắt Phùng Cung, chính sách Đấu Tranh Giai Cấp của Đảng Cộng
Sản, được mô tả dưới dạng phân chia giai cấp giữa Chó và Người.
Giai cấp mà ông gọi là chó thuộc thành phần những kẻ "úp
mặt hôn mê liếm lộc", những kẻ "cưỡng bức ngữ ngôn", những
kẻ "tình nguyện trọn kiếp bút nô", những kẻ "ngợi
ca tội ác"... Và trong bối cảnh "chó đô hộ người" các công
tác dò thám, hãm hại, thủ tiêu, đều đạt đỉnh điểm. Sự triệt tiêu văn hoá trở
thành quốc sách. Chưa một ngòi bút nào đi xa đến thế trong việc mô tả xã hội
toàn trị. Tư tưởng chủ đạo này chi phối toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, mỗi
truyện có nhiệm vụ biểu trưng một vấn đề mà nhà văn đưa ra. Cách nhìn xã hội
chó-người này, sẽ sống lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, sau này. Con
ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm duy nhất của Phùng Cung in trong thời
NVGP, tả bọn quần thần như những con ngựa già suốt đời nhắm mắt bịt tai cúi đầu
phủ phục lãnh tụ.
Ngay từ Con ngựa già của chúa Trịnh, Phùng Cung đã lấy đất
Sơn Tây làm nền cho tác phẩm: từ vùng đất tổ, phát xuất giống ngựa nòi, sau này
sẽ bị thế quyền làm mai một, mất giống. Lão Nông là hình ảnh đầu tiên về người
nông dân chân chính của vùng đất tổ.
Con ngựa già của chúa Trịnh viết về con thần mã Kim Bông
của lão Nông ở Sơn Tây, có sức vượt nghìn dặm với cái thế "cao đầu
phóng vĩ" của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào, Kim Bông cũng đứng
đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù
luyến tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim
Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng
Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở
thành con vật sủng ái, được kéo xe hầu chúa. Sống trong nhung lụa, thần mã được
ngự tại mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Chúa ban áo mão cân đai, đặc
biệt cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con
ngươi nhìn thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến
dũng mãnh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao
nhiêu năm che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choáng váng,
chân không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật
xuống đất, đứt ruột mà chết.
Kim Bông tượng trưng cho những tài năng lớn, khi đã mũ ni che
tai, quỳ gối, úp mặt, phục vụ thế quyền, để tìm bổng lộc, đều trở thành những
con ngựa già, vô dụng. Kim Bông là "nhân vật" đầu tiên, từ "thần
mã" xuống "chó" mà Phùng Cung mô tả.
Là một trong những truyện ngắn hay nhất thời kỳ Nhân Văn Giai
Phẩm, cùng với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Con ngựa già của
chúa Trịnh mang tính chất ẩn dụ tế nhị, kín đáo và sâu sắc, khó có thể kết
tội công khai tác giả.
Dạ ký là một bút ký tưởng tượng hài hước về những nhân vật
chính trong vụ NVGP, bên nguyên cũng như bên bị, mập mờ những chân dung: Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Tô Hoài..., cả người thầy học cũ của
tác giả cũng có mặt... đến Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt...
Không chỉ tứ trụ triều đình được phác họa dưới những nét châm biếm, mà cả những
bạn đồng hành cũng không thoát khỏi... tất cả đều bị cuốn theo cơn lốc, dưới
chân một ngọn tháp, "trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe loé, hơi giống
mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng
là một lá cờ đại, xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ
cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không dính tua kim tuyến mà là lưỡi
câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra cờ bay mà tiếng gầm rú
hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc
hàm"538.
Dạ Ký biếm họa một thời đại cuồng điên, người người lớp
lớp phục xuống trước một ngọn tháp vĩ đại, "chạy vòng quanh tháp -
như đèn kéo quân"; "hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực",
"một rừng cờ" có "lưỡi câu thép ngoại"; "cờ
bay mà tiếng gầm rú hãi hùng"...
Chưa có tác giả miền Bắc nào dám viết về bác Hồ, về lá cờ búa
liềm và ngày 19/8 như thế. Dạ ký là bức tranh châm biếm hãi hùng về sự
tung hoành của lá "cờ có lưỡi câu thép ngoại", là điềm
báo hiệu 12 năm tù không án của Phùng Cung. Nhưng "tội" của
Phùng Cung, không chỉ là đã nặn ra một "con ngựa già", và
vài trang "dạ ký" phạm thượng, mà còn ở những truyện ngắn
sâu xa khác, tất cả viết trong khoảng 1957-1960, thời kỳ NVGP bị đàn áp sôi sục
nhất.
Chính những tác phẩm này mới đưa đến 11 năm biệt giam. Chúng
bày ra những cảnh trường bi đát của một thời đại u tối mà ngày nay chúng ta
đang cần tìm hiểu.
Ðó là số phận mạt kiếp của những người như lão Thiều,
suốt đời sống trong đói nhục, cuối cùng, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô
tưới xuống đè chết.
Mạt kiếp là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về
cái đói, trong xã hội phân chia giai cấp chó-người.
Vẫn trong bối cảnh Sơn Tây, Ba Vì, vẫn trên nền đất tổ. Ngay
từ dòng đầu, không khí bạo lực bốc lên qua giọng văn mạnh, phũ, như một bức họa
phổ nhạc, với những âm thanh loang lổ, màu sắc hoắc loạn: "Chiều xuống
chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng
trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang vãi từ
đỉnh Ba Vì hắt lại. (...)
Thình lình tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc
Ba -điếm tuần của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần
điếm còn nghe được cả tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng
đấm đá, lên gối vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng
tập thể tru lên một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm
cũng chẳng ăn nhằm gì".
Ðó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lão Thiều.
Thiều không phải tên của lão, lão tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão
có một quá khứ tù mù, có thể trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội
mũ chào mào khố xanh, khố đỏ, nhưng bây giờ thân tàn ma dại, không biết vợ bỏ
hay vợ chết, lão ở nhờ nhà con rể cả chục năm rồi. Ăn uống phải tự túc, gặp lúc
nhà ai có việc gọi đến, lão còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài,
lão đói rã họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt
được trói gô vào cột đình, đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng "no
nên bụt, đói ra ma", "ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa
rã họng chưa biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất
cái đói, ông căm thù nhất cái đói".
Ăn nói kiểu Chí Phèo; Chúa, Phật, chả coi ra gì, bất kỳ quỷ
ma thần thánh gì lão cũng theo tuốt miễn có cái bỏ vào mồm, lão làm tất tần tật:
đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc
nào. Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết
việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá... Lão đã trải hết
các "thời", vậy mà lão vẫn sống.
Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại: "Năm ấy là
năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thủy dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước
tràn lên đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa
đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!"
Chẳng biết lão Thiều có ý nói kháy cái năm bốn nhăm thần
thánh ấy, cái năm quái gở trùng hợp đói, lụt và biến cố lịch sử vĩ đại của cuộc
cách mạng nào không.
Dám lắm, đến nước này, lão còn nể gì. Lão đổ tội cho cái năm
thổ tả ấy, vì nó mà lụt lội tràn lan khắp nơi. Đói quá, lão Thiều chẳng còn nể
nang gì nữa, lão chửi cái đói "Mày đang tâm biến người thành chó, chó
thành người!". Lời chửi đổng của lão cũng mập mờ đầy ý nghiã, chẳng biết
lão chửi cái đói, chửi thần thánh, hay thoá mạ cách mạng.
Đường cùng, lão tính nước cờ chót: liều chết, lão lội lụt vào tận đáy cót ngô của
nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống, lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không
ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão
không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn"539.
Mạt kiếp được viết với bút pháp lạnh lùng gần như châm
biếm, vô cảm hóa nghịch cảnh, và đó chính là nghệ thuật trình bày cái bi đát
trong thân phận con người sâu sắc nhất: Từ cái năm ấy, cái năm đói ấy, Lão
Thiều bị nghiền nát nhân phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống
như người, nhưng cuối cùng lão bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyện phó Lâm, người thợ không hội nhập được
với "đời sống mới"'. Người thợ mộc đầy lương tâm và nhân
cách này không thể chấp nhận lối "ăn thật làm dối" của Ủy
Ban Nhân Dân. "Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng,
không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!"540, nhưng bây giờ Ủy Ban lại bắt
Phó Lâm phải làm nhanh, đóng bàn không cần tua, mộng gì cả, cứ ghép lại bằng
đinh năm phân, chặt mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã lại còn ra lệnh:
"- Cứ mẫu ấy mà đóng!
Phó Lâm lo âu xoa hai bàn tay vào nhau:
- Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"
Phó Lâm lẩm bẩm trả lời bằng những dạ thưa, không làm được
ạ, dạ thưa, khó quá ạ.... cho tới lúc bị đuổi về. Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt
tích... Có người đồn thấy phó Phó Lâm vai vác rìu, tay sách hòn đục ngược dòng
sông lên núi Tản Viên, bước trên nước như đi đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả
người! Ở đây không ai còn lạ gì chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại
một lần xuống núi tìm thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba
năm, sáu năm, rồi chín năm... không thấy về, bà chọn tháng bẩy ngày rằm xá tội
vong nhân làm giỗ.
Biệt tích phác những nét mơ hồ nhưng vô cùng xác thực về
một thời mà những cái chết bí ẩn, những sự mất tích, biệt tích của
con người khá thường xuyên. Thời mà những giá trị đạo đức nghề nghiệp không còn
chỗ đứng. Thời mà dốt nát, cẩu thả, lên ngôi. Phó Lâm, kẻ muốn bảo tồn đạo đức
nghề nghiệp, đã bị gọi về trời. Phó về trời, như bị mất tích, như bị thủ
tiêu, như tự thăng cùng thần núi Tản, để giữ mãi cái chân chất của nghề tổ, giữ
trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Chắc chắn Phùng Cung có dự Đại hội Văn Nghệ 1950 ở Việt Bắc,
và ông là nhà văn duy nhất đã phản ảnh lại chính sách chôn sống tuồng chèo, ca
trù, của đại hội, trong hai tác phẩm: Giải thoát và Mộ phách:
"Từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt,
không để nấm mồ, không luyến tiếc"541.
Giải thoát viết về sự phá sản của nghề hát chèo ở làng
Ô. Cái thế "cao đầu phóng vĩ" của con Kim Bông, loài ngựa
chúa, được thể hiện lại trong nhân vật Cả Miêng, hay Trùm Nhất ở
làng Ô, kẻ được coi là Bố cái đại vương của làng Vân Ô, nơi ngự trị của
thần tổ nghề hát chèo, trên một giải đất cao, thế đất chim Phượng cạnh
dòng sông Hát - sông Đáy.
Văn Phùng Cung luôn luôn có cái uy của đất tổ, cái đẹp của nghề
tổ, cái trách nhiệm của bố cái -cha mẹ- trong nhiệm vụ bảo tồn văn
hoá và lịch sử.
Ở thế cao đầu phóng vĩ như thế, Phùng Cung một mình
một ngựa, cầm cương chống lại giai cấp mà ông gọi là "chó" của
bọn tàn phá văn hoá dân tộc, tàn phá những nghề tổ: nghề mộc, nghề chèo, nghề
ca trù... đã nuôi sống con người. Bỏ nghề đi, là cắt đứt cuộc sống, là tiêu diệt
nghệ thuật cùng miếng cơm, manh áo. Mà Mộ phách là một giá trị độc
đáo.
● Mộ phách
Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn
phách. Bi kịch của vợ chồng kép Tư Chản và Ðào Khuê cả đời gắn bó với cây đàn
tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của
Nguyễn Tuân. Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau
này lớn lên nối tiếp nghề tổ để được no ấm một đời. "Thằng Thuyên,
con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy
làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn,
vuốt dây tơ".
Ngoài thằng con, Tư Chản chỉ còn cây đàn là quý: "Ðàn
này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại", "cụ Kép chọn gỗ, thuê
thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu
vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn,
hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa
thế kỷ. (...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! tiếng dụng! tiếng
dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!"
Tư Chản, coi đàn như người cha, như ông tổ, đàn là nguồn nghệ
thuật và nguồn sống: "Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng
giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ-
cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn
the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả. Ngày nào ông
cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng;
vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng
xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng
ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái."
Thế rồi thời thế thay đổi, thằng Thuyên lớn lên đi bộ đội
cầm súng thay đàn... Vợ chồng Tư Chản không còn được tự do đàn hát kiếm sống
như trước nữa, nhưng trong lòng vẫn "nhớ dồn thương góp", âm thầm
lấy đêm 17 tháng 8542 cúng tổ tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng
then cài, tìm lại nghề cũ, tiếng đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha
thiết của những đêm xưa... "Khúc "Cung bắc" đang chơi
vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang.
Ðàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó
vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người,
va vào miệng chó".
Từ đêm đàn ca vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ
người và sợ chó, sợ cả chó người. Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Thuyên, đứa
con trai duy nhất, đang đợi được kết nạp vào Ðảng, dưới sự chỉ đạo của Đảng, đã
ra tay xử lý cây đàn. Thuyên khẳng định: cây đàn đáy chính là "đồn địch". Và
như một chiến sĩ can trường, Thuyên xông vào tóm lấy cổ
"địch":
"Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây
đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng
ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết".
Kêu cứu cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan
trái của mình. Sau khi bị đập tan tành, xác đàn bị hoá kiếp lần nữa: trở thành
mớ củi nấu nước tắm cho cậu quý tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm.
Ông Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy.
Tai ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương
có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. [...] Ông hỏi vợ
có nghe tiếng gì không?543
Từ đấy, Tư Chản cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng
sau ông mất. Đào Khuê chọn ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách của
mình, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy
lừng không kém cây đàn đáy của Tư Chản. Đào Khuê mai táng Kim phách trong
ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ phách ngân lên như tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc
về bên kia thế giới trong một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lý như một phạm
nhân. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại những âm giai bất tử về sự bức tử
một cây đàn và sự tuẫn tiết của một cỗ phách. Và qua đó là sự
tàn phá nền văn hoá cổ Văn Lang.
● Từ bà Huyện Thanh Quan đến Phùng Cung
Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn gỡ cung điện Thăng
Long đem về Huế. 1831, vua Minh Mạng lấy hai chữ Hà Nội, tên một tỉnh nhỏ phía
bắc nước Tàu, đặt cho Thăng Long. Nhà Nguyễn gỡ cung điện vua Lê và đổi tên
Thăng Long thành Hà Nội nhằm xoá tinh thần phò Lê trong lòng người dân đất Bắc,
nhưng không qua mắt được nhà thơ: Bà Huyện Thanh Quan, thày dạy con gái vua
Minh Mạng, sáng tác bài Thăng Long thành hoài cổ, một kiệt tác hoài
Lê, một sự phản kháng âm thầm và mãnh liệt của kẻ sĩ Bắc Hà "nhớ nước
đau lòng con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia", vậy mà Gia
Long không hề đốt sách và Minh Mạng không dám lấy tên Gia Long đặt cho Bắc
thành.
175 năm sau, thống nhất xong Nam-Bắc, chính quyền miền Bắc đổi
tên Sài Gòn thành Hồ Chí Minh, vẫn sách lược cũ của nhà Nguyễn,
kèm thêm chiến dịch cải tạo và nghị quyết tiêu diệt hầu như toàn bộ
văn học miền Nam. Kết quả: hơn 35 năm sau, cái tên "cúng cụ" của
thủ đô miền Nam vẫn không thu phục được nhân tâm. Với dân chúng miền Nam, nó vẫn
chỉ là vết tích tủi nhục của sự bại trận, sự "mất nước", đúng
như tình cảm bà Huyện dành cho nhà Nguyễn.
Vì sao? Vì bất cứ chính quyền nào, chính sách văn hoá cũng vẫn
là cốt tuỷ. Đối xử một cách văn hoá với người bại trận là phương sách uỷ lạo
lòng người. Bởi văn hoá ở trên chính trị. Đối với văn hoá, không thể áp dụng
chính sách diệt trừ địch thủ như trong chiến tranh.
Không phải cứ loại Tự lực văn đoàn, văn học xã hội chủ
nghiã sẽ trở thành lãnh đạo. Không phải cứ tiêu diệt Nhân Văn Giai Phẩm,
thì những Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... sẽ ngời sáng mãi
mãi trên vòm trời văn học Việt Nam. Không phải cứ đốt hết văn học miền
Nam, thì văn học miền Bắc sẽ trở thành độc nhất vô nhị. Bởi văn học
không phải là một vùng chiến địa, để một còn một mất, mà là vùng hoà bình, sống
chung, càng nhiều tác phẩm hay, nền văn học của một nước càng thêm sáng giá. Việc
loại trừ những tác giả lớn của văn học Việt Nam trong suốt thế kỷ XX ra ngoài
vì lý do chính trị, đã thu nhỏ nền văn học Việt Nam, trong lòng một bàn tay, đã
bị cắt hết ngón -là những tinh tuý của dân tộc- chỉ còn lại những công thần, bịt
tai, bịt mắt như những Con ngựa già của chúa Trịnh mà Phùng Cung mô tả.
Đó là tiếng kêu tha thiết nhất mà Phùng Cung để lại trong tác
phẩm, tiếng chim báo bão về nền văn hoá Việt đang bị thu gọn và tự hủy, từ việc
bảo tồn đất tổ Hùng Vương đến sự loại trừ các giá trị tinh thần không theo đúng
đường lối của Đảng.
● Đường Lâm thi chí, một nền thơ chống chiến tranh và tù
ngục
Những thành viên NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến
tranh, họ đã có những suy nghĩ khác:
- Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ
gian, sáng tác quốc ca. Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không còn sáng tác ca
khúc nữa.
- Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai
đoạn sôi nổi nhất.
- Ở Lê Đạt, đọng lại hình ảnh máu lửa tiêu thổ kháng chiến,
là tội đốt quê hương.
- Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh
tật phủ lên xác anh hùng.
- Ở Quang Dũng là hình ảnh hãi hùng của đoàn quân không mọc
tóc.
Các thi sĩ trên đều thấy hậu quả chiến tranh và rút ra bài học
của mình.
Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nhìn hậu quả
chiến tranh để hối hận như các bạn. Ông cũng không đổ trách nhiệm lên đầu kẻ
thù như người khác. Phùng Cung coi chiến tranh -chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc-
đều phát xuất từ căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đã thấm
vào máu, khó có thể chữa được.
Đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước, Phùng Cung phê
bình quốc ca.
Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách Mạng
Mùa Thu, nhìn sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc
chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp 46-54 và thống nhất đất nước bằng võ lực, chống
Mỹ và chiếm miền Nam 54-75. Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong
tù. Vì không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung "bắt
buộc" phải làm thơ. Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập
khác lạ, đầy bất khuất, trong những dòng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả.
Tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao
nhọn, đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường xà lim, để lộ diện
con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình, chống
lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt
năm 1961, Phùng Cung bị tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ.
Nhà thơ ví chế độ toàn trị như biển cả:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa - đáng thương (...)
Hỡi biển cả!
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Bố Cái đã bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả
đều đã sụp đổ. Dân tộc, bây giờ, không đứng trước quân nhà Đường phương Bắc, mà
đối diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền. Người dân hỏi ý cha. Bố
Cái trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Nhà thơ trình bày trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là
thế quyền lồng lộng, khoác "Triều phục Đại Dương"; một bên
là sinh linh "trăm họ", những con người.
Đại dương có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn sinh
linh trong một trận thủy triều. Còn con người, con người lấy gì chống lại?
Con người chỉ có ánh mắt. Mắt trẻ thơ.
Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế quyền lồng lộng ấy là gì?
- Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không. Bởi dưới mắt đứa
bé: "Mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa
xanh".
Rồi Bố Cái chỉ cho dân cách đối phó với bạo lực
cách mạng:
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Bài Biển cả tung trên trang đầu tập Trăng ngục như
một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả đối
với cực quyền toàn trị. Phùng Cung đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền
sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính
trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.
Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất
hạnh của một đời tù biệt giam trong xà lim:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...
Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng. Trăng quấn
quýt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ. Trên
vai áo tù trăng vá lụa một câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềm và cứng,
giữa tù và lụa, giữa trăng và áo, giữa xa và gần,
giữa xót xa và âu yếm, giữa tự do và tù tội. Nhà
thơ đã kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả
trả lời, chỉ một vầng trăng đáp lại.
● Ai liều tảo mộ chiều nay
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản
chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào, vì đối với Phùng
Cung "dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược" cũng
như nhau. "Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương
quỷ dữ!"544
Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến
là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những
người già ngồi gãi đất.
Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng
ca chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu... cả những anh hùng ca bàng thống của Trần
Dần, Phùng Quán... Thu xa là giấc mơ phản chiến, chống Cách Mạng
Mùa Thu, kết án tử hình chiến tranh, kêu gọi con người hãy làm tình yêu, làm
hoà bình, đừng làm chiến tranh, hãy thôi chém giết:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Tất cả thi sĩ miền Bắc, không ai dám đả động đến "Cách
Mạng Mùa Thu", bởi đó là "chính nghiã tuyệt đối" được "tất
cả mọi người" công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung
đi ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những hình ảnh kinh
hoàng như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách Mạng
Mùa Thu.
Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà
không quay tơ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa
là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa còn là bánh xe chiến tranh như chiến
xa; xa còn là xa lià đứt đoạn. Người chinh phụ ở đây, không chỉ
là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh
phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng đang
quay bánh chiến xa, nàng đang "tắm máu rừng thu" như chồng.
Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay lại cảnh toàn thể dân tộc lao vào cuộc chiến
tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt Nam đã chụp bắt được trách nhiệm mỗi
cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.
Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông còn đi sâu
hơn, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được
tôn sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gió!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...
"Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ còn hỏi tội quốc
ca, quốc kỳ. Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu
tượng "thiêng liêng" như thế:
Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Bên cạnh những hình ảnh dễ sợ "cờ máu rợp trời lợm
gió", bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng trong "kho
nhớ của loài người", không thấy có "quốc thiều nào man
rợ" như thế; là những lời thơ trữ tình đẫm lệ gửi cho quê hương tan
nát vì chiến tranh, lầy nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Phùng Cung là người chữ duy nhất trên đất Bắc, đối
với hai cuộc chiến, đã nhìn thấy và đã dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho
hòa bình đã mất. Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên
đường, không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời
là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa.
Những hình ảnh "gia nô thần chết" trong
thơ Phùng Cung, hoà cùng những xác "người chết hai lần" trong
ca từ Trịnh Công Sơn, đã hợp thành dòng máu của anh em giết nhau. Trong buổi
liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Hướng về những linh hồn quá trẻ đã bị vay tuổi để
xuất trận, Phùng Cung tảo mộ con, liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương
khói trên những nghiã trang giả, mồ không xác:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược dòng với Văn Cao,
Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho
dân tộc.
10/9/1995
Thụy Khuê
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét