Thái Thanh, tiếng hát lên trời
Trong những phút giây thiếu vắng trống trải nhất hay những nhớ
nhung cuồng nhiệt nhất của cuộc đời, mọi hiện diện hữu hình đều vô nghĩa, ta chờ
đợi một đổi trao, khao khát một niềm giao cảm thì sự hiện diện vô hình đem lại
một nguồn sáng, một tri âm, một đồng tình gần gũi: sự hiện diện của tiếng hát.
NếuNếu thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung, theo Valéry, hay thi ca
là tiếng nói của nội tâm không giống như một thứ tiếng nói nào của con ngườitheo
Croce, thì âm nhạc hẳn là tiếng nói của những trạng thái tâm hồn và nhạc công
hay ca sĩ là nguồn chuyển tiếp, truyền đạt những rung động từ hồn nhạc sĩ đến
tâm người nghe. Thị giác giúp chúng ta đọc một bài văn, nghiền ngẫm một bài
thơ, nhưng chúng ta không thể thưởng thức một bản nhạc bằng thị quan của riêng
mình mà phải nhờ đến người trình diễn, đến ca công, ca kỹ. Ngàn xưa nếu người kỹ
nữ bến Tầm Dương chẳng biết gieo "tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây"
chắc gì ngàn sau còn dấu vết Tỳ Bà Hành? Sự biểu đạt tác phẩm nghệ thuật hay sự
truyền thông cảm xúc từ nhạc bản đến thính giả, nơi một vài nghệ sĩ kỳ tài,
không chỉ ngưng ở mực độ trình diễn mà còn đi xa hơn nữa, cao hơn nữa, tới một
tầm mức nào đó, ca nhân đã sáng tạo, đã đi vào lãnh vực nghệ thuật: nghệ thuật
vô hình của sự truyền cảm, nghệ thuật huyền diệu sai khiến con người tìm nhau
trong bom lửa, tìm nhau trong mưa bão, nghệ thuật dị kỳ tái tạo bối cảnh quê
hương đã nghìn trùng xa cách, nghệ thuật mời gọi những tâm hồn đơn lạc xích lại
gần nhau dìu nhau đưa nhau vào ngàn thu, nghệ thuật không tưởng đừng cho không
gian đụng thời gian khi ca nương cất tiếng hát, tiếng hát của bầu trời, giao hưởng
niềm đau và hạnh phúc: Thái Thanh. ° Người ta nói nhiều đến sự nhạy cảm của người
đàn bà, đến một thứ giác quan nào đó ngoại tầm nam giới. Những người đàn bà phi
thường như Thanh Quan, Piaf, Thái Thanh,... đã tận dụng đến cùng cảm quan bén
nhạy của người phụ nữ để sai khiến, xao động, chuyển hóa ngôn ngữ, âm thanh,
màu sắc,... những yếu tố thuần phạm vi ngoại giới thành nội cảm, cấu tạo nên một
vũ trụ thứ hai, đắm đuối, cuồng say, trong lòng người:
Trời trong em, đồi choáng váng
Rồi run lên cùng gió bốn miền
Tiếng hát Thái Thanh đến với chúng ta bằng rung động trực
giác rồi tan loãng trong suy tư, xoáy vào những hố sâu, những đỉnh cao, vào tiềm
lực của sự sống. Trong nghệ thuật hội họa, Van Gogh dùng sắc độ chói rạng để diễn
tả những cuồng nhiệt, những trận bão trong tâm hồn; trong nghệ thuật trình diễn,
Thái Thanh vận dụng tiết tấu của âm thanh tạo nên sự giao thoa mãnh liệt giữa
con người, tình yêu và vũ trụ:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tìm trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng Dương ơi! có xót xa cũng hoài mà thôi! °°°°
Vẽ lên hình ảnh người nữ ca sĩ dưới ánh đèn sân khấu, Hoàng
Trúc Ly đã có câu thơ thật hay:
Vì em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Câu này, trái với vài truyền thuyết, không nhắm vào một danh
ca nào nhất định, chỉ gợi lên không khí các phòng trà ca nhạc Sài Gòn khoảng
1960. Nhưng tiếng hát lên trời là một hình ảnh có lẽ hợp với giọng ca Thái
Thanh nhất, giữa những tiếng hát thời qua và thời nay. Thái Thanh là một danh
hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát
xanh thắm bầu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng
trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Đổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng
Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu,
tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng
tưởng Thế Lữ. Ngày nay, những khi tìm lại giọng ca huyền ảo của Thái Thanh
trong tiện nghi, ấm cúng, chúng ta còn ít ai nhớ đến định mệnh gian truân của một
tiếng hát, những bước gập ghềnh khúc khuỷu, chênh vênh, trôi nổi, theo vận nước
lênh đênh. Tiếng nhạc Phạm Duy gắn bó với tiếng hát Thái Thanh thành tiếng của
định mệnh, chứng nhân của nửa thế kỷ tang thương, chia lìa trên đất nước. Tiếng
hát Thái Thanh là tiếng nước tôi, là tiếng nước ta, là tiếng chúng ta, là tiếng
tình yêu, là tiếng hy vọng, là tiếng chia ly, oan khổ... Tiếng hát Thái Thanh
vang vọng những đớn đau riêng của phận đàn bà, mà người xưa đã nhiều lần nhắc đến
bằng nhiều công thức: hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đối, tạo vật đố hồng
nhan. Giọng hát Thái Thanh dịu dàng đằm thắm vẫn có chất gì đắm đuối và khốc liệt.
Thái Thanh tình tự những khát vọng và những đau thương của hàng chục triệu người
phụ nữ Việt Nam, một thế hệ đàn bà bị dập vùi trong cuộc chiến kéo dài hằng nửa
thế kỷ, kèm theo những giằng co tranh chấp, những băng hoại của một xã hội bất
an. Nạn nhân âm thầm, vô danh là những người tình, những người vợ, những người
mẹ đã có dịp nức nở giữa tiếng hát Thái Thanh: từ o nghèo thở dài một đêm thanh
vắng đến nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, đến lúc anh trở về bại tướng cụt
chân, đến nhiều, rất nhiều bà mẹ Việt Nam, từ Gio Linh đến Đồng Tháp suốt đời
cuốc đất trồng khoai... Tiếng hát Thái Thanh là tiếng vọng khuya khoắc của cơn
bão lịch sử. Và Thái Thanh đã sống lăn lóc giữa cơn lốc đó. Từ tuổi mười lăm,
mười bảy, cô Băng Thanh tên thật Thái Thanh - đã mang ba-lô theo kháng chiến chống
Pháp: Hà Nội, khu III, khu IV, chợ Sim, chợ Đại, chợ Neo, Trung Đoàn 9. Về
thành, cô đã góp công, tích cực và hiệu lực vào việc củng cố, phát triển nền
tân nhạc mới phôi thai với ban hợp ca Thăng Long, sau đó là kiếp ca nhi chạy
phòng trà những nơi gọi là "Sài Thành hoa lệ", những đêm màu hồng,
chiều màu tím. Trong mười năm chờ đi (chữ của Đặng Đình Hưng), cô không hát,
chim gìn giữ tiếng, tiếng chim Thanh như lời Phạm Duy trong một tổ khúc. Sang
Hoa Kỳ, Thái Thanh hát lại, vẫn đắm say, vừa kiêu sa vừa gần gũi, đơn giản và
điêu luyện. ° Xã hội Việt Nam ngày nay tuy đã vượt xa thành kiến lạc hậu
"xướng ca vô loài" vẫn chưa có khả năng đánh gía đúng mức giá trị của
ca sĩ. Nói rằng hát hay, cũng phải ba bảy đường hay. Thái Thanh, ngoài giọng
hát điêu luyện phong phú, mở rộng trên nhiều cung bậc, còn có năng khiếu văn
chương để làm nổi bật lời ca trong nhạc khúc và tạo ra một khí hậu, một tâm cảnh
chung quanh bài hát. Nghe Thái Thanh hát là thưởng thức một khúc nhạc, một bài
thơ, trong một thế giới nghệ thuật trọn vẹn. Giọng hát xoắn sâu, xoáy mạnh vào
tâm tư người nghe, khi lâng lâng, khi tẻ buốt, nhưng lúc nào tâm tư cũng vươn
lên, hay lắng xuống. Giọng hát Thái Thanh tha thướt và tha thiết buộc người
nghe phải sống cao hơn, sâu hơn, sống nhiều hơn. Tiếng hát Thái Thanh có lúc gợi
cảm, khơi tình, những vẫn là những hổn hển như lời của nước mây trong thơ Hàn Mặc
Tử. Hữu thể làm bằng sỏi đá và sắt thép, thân xác và nước mắt phút chốc tan biến,
trở nên vô hình, vô thể, biến thành tiếng hát khi trầm mặc, khi vút cao; Thái
Thanh, phù thủy của âm thanh là một thứ Đào Nương trong truyền thuyết có ma lực
hú về những âm tình u khuất. ° Trong những cassette giới thiệu nhạc của mình,
Phạm Duy một đôi lần có lưu ý Thái Thái khi hát, thỉnh thoảng hát sai. Dĩ nhiên
một tác giả có quyền đòi hỏi người khác phải trung thành với văn bản của mình;
riêng trong nghề ca xướng, nghệ nhân vẫn có thông lệ đổi vài chữ cho hợp với
hoàn cảnh, nhất là ở Việt Nam, nền văn nghệ trình diễn vốn dựa trên truyền thống
truyền khẩu lâu đời. Ví dụ như bài Cho Nhau, Phạm Duy viết:
Cho nhau ngòi bút cùn trơ...
Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Thái Thanh hát:
Cho nhau ngòi bút còn lưa...
Cho nỗi đêm mơ về già
Lưa là một chữ cổ, có nghĩa còn sót lại, nhưng mang một âm
thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Ca dao Bình Trị Thiên có câu:
Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến Cộ con đò vắng đưa
Cây đa bến Cộ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa tê rồi.
Chính Phạm Duy cũng có lần sử dụng chữ lưa trong bài Mộng Du:
Ta theo đường mộng còn lưa... Dĩ nhiên ngòi bút còn trơ có nghĩa chính xác hơn,
nhưng không thi vị bằng ngòi bút còn lưa. Cho nốt đêm mơ về gìa, như Phạm Duy
đã viết, nghĩa là cho phứt đi, cho đi cho xong. Chữ nối của Thái Thanh, thay
vào chữ nốt, tình tứ và thủy chung hơn: những giấc mơ về gìa chỉ là tiếp nối những
giấc mơ tuổi xuân mà anh không tặng được em vì gặp em qúa muộn; cho nhau chỉ
còn trái đắng cuối mùa, nhựa sống trong thân cây chỉ còn dâng được cho em dư vị
chua chát và cay đắng. Phạm Duy viết:
Cho nhau thù oán hờn ghen...
Cho nhau cho cõi âm ty một miền
Thái Thanh hát:
Cho nhau cho nỗi âm ty một miền
Chữ nỗi vô tình buông ra mà hay hơn chữ cõi, vì cõi chỉ là một
miền, một không gian, một ý niệm hiện hữu, có vẻ bao la nhưng thực ra hữu hạn.
Chữ nỗi vô hình, nhỏ bé nhưng vô hạn, đi sâu vào tâm linh con người: với tuổi
già nỗi chết nằm trong cuộc sống. Cho em nỗi chết là cho tất cả những niềm
hoang mang, khắc khoải, đau thương còn lại, nghĩa là chút tình yêu còn lưa
trong từng nhịp đập yếu ớt của trái tim đã cạn dần cạn mòn hết những mùa xuân.
Nói như thế, không có nghĩa là khuyến khích ca nhân đổi lời tác giả. Chính Thái
Thanh nhiều khi hát sai, ví dụ như trong Về Miền Trung: Tan thân thiếu phụ, nát
đầu hài nhi mà đổi ra thành Thương thân... khóc đầu là hỏng, nhưng người nghe dễ
nhận ra và điều chỉnh. Nhiều chỗ sai, người nghe không để ý. Ví dụ câu này có
thể xem như là một trong những câu hay nhất của Phạm Duy và tân nhạc Việt Nam:
Về miền Trung còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao đốt lửa rực đô thành
Thái Thanh hát một chiều mai đốt lửa... là đánh vỡ một viên ngọc qúy. Chữ nao mơ hồ, phiếm định, chỉ là giấc mơ ánh sáng, màu sắc của nghệ sĩ mà Nguyễn Tuân gọi là cơn hoả mộng - nó chỉ là hình ảnh nghệ thuật, chứ Phạm Duy không mong có ngày đốt thành phố Huế. Có lẽ ông còn giữ trong ký ức câu thơ của Chính Hữu trong Ngày Về mà ông rất thích: Bỏ kinh thành rừng rực cháy sau lưng ° Thơ không thể dịch được, nghĩa là không thể chuyển thơ từ ngôn ngữ nước này sang ngôn ngữ nước khác mà không làm mất hồn thơ, làm mất chất thơ, nhưng có thể chuyển thơ sang hình thức nghệ thuật khác như chuyển thơ sang nhạc hay phổ nhạc những bài thơ hoặc ngược lại, đặt lời thơ cho bản nhạc. Chúng ta có nhiều nghệ sĩ sáng tác những nhạc khúc tuyệt vời với ngôn ngữ thi ca, nhưng chúng ta có ít ca sĩ thấm được hồn thơ trong nhạc bản. Đạt tới tuyệt đỉnh trong ngành trình diễn, Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ. Giữa những phôi pha của cuộc đời, tàn phai của năm tháng, giọng hát Thái Thanh vang vọng trong bầu trời thơ diễm tuyệt, ở đó đau thương và hạnh phúc quyện lẫn với nhau, người ta cho nhau cả bốn trùng dương và mặc tàn phai, mặc tháng năm, tiếng hát vẫn bay bổng ở chốn trần gian hoặc ở vô hình.
Chú thích:
Những lời ca trích trong bài này của nhạc sĩ Phạm Duy.
Thụy Khuê
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét