Nhân Văn Giai Phẩm
và vấn đề Nguyễn Ái Quốc 6
Chương 19 (tt)
Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh có hai lối viết: lối tranh luận, đôi khi cũng
sát phạt không kém Nguyễn Thế Truyền và lối hòa nhã gần Phan Văn Trường.
Bài Thư gửi ông Outrey - Lettre à Monsieur Outrey ký
Nguyễn Ái Quốc đăng trên Le populaire ngày 14/10/1919, là lối văn tranh luận, với
những chi tiết xác định người viết là Nguyễn An Ninh và sự đụng độ kịch liệt giữa
Outrey và Nguyễn An Ninh.
Việc phát xuất từ bài Đông Dương và Triều Tiên, một sự
so sánh lý thú - L'Indochine et la Corée, une intéressante
comparaison, in trên báo Le populaire ngày 4/9/1919. Trong bài này Nguyễn
An Ninh so sánh sự bảo hộ Triều Tiên của Nhật Bản với sự bảo hộ Đông Dương của
Pháp. Ông buộc tội Pháp đã đầu độc người da vàng bằng những lời hứa hão và dùng
bọn bồi bút để ca tụng chính quyền thuộc địa. Ernest Outrey đã từng làm thống đốc
Nam Kỳ và từ năm 1914, làm dân biểu, đại diện người Pháp ở Sài Gòn tại Hạ Viện.
- Tháng 6/1919, bản Thỉnh Nguyện đưa đến Versailles và gửi
cho các cơ quan có thẩm quyền và báo chí.
- Ngày 23/6/1919, Phủ Tổng Thống yêu cầu bộ Thuộc Địa báo cáo
về Nguyễn Ái Quốc và nhóm Yêu Nước.
- Ngày 18/6/1919 báo L'Humanité - lúc đó là báo của đảng Xã Hội,
đăng bản Thỉnh nguyện dưới tựa đề: Les droits des peuples- Quyền của
các dân tộc.
- Ngày 2/8/1919 L'Humanité đăng bài La question des
indigènes en Indochine của Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết.
- Ngày 4/9/1919 Le populaire đăng bài L'Indochine et la
Corée, une intéressante comparaison ký Nguyễn Ái Quốc do Nguyễn An Ninh viết.
Sự chống Pháp trên báo chí Pháp được phát động qua ngòi bút Nguyễn Ái Quốc.
Tình hình sôi động.
- Ngày 20/9/1919, P. Guesde lệnh cho Cảnh sát Cuộc gọi Nguyễn
Ái Quốc đến hỏi cung và chụp ảnh, lần đầu.
- Ngày 18/9/1919, vấn đề Nguyễn Ái Quốc được đem ra tranh luận
tại Quốc hội giữa Outrey và Longuet - Moutet. Outrey chất vấn Longuet, chủ nhiệm
báo Le Populaire: Đã cho đăng những bài báo của Nguyễn Ái Quốc, một kẻ thù của
nước Pháp, tên này là một kẻ phiến động đã bị truy tố ở Nam Kỳ. Được tin, Nguyễn
An Ninh đang nghỉ ở Biarritz viết lá thư ngỏ cho Outrey, gửi đăng trên báo Le
Populaire, phản pháo mãnh liệt, đồng thời xác định mình là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn
An Ninh viết:
"Ông đã nói đi nói lại (ở Hạ Viện) rằng tôi bị
truy nã ở Đông Dương vì âm mưu chống Pháp. Vậy hãy cho biết, lúc nào, toà
án nào, âm mưu gì?"
Ernest Outrey và Nguyễn An Ninh biết rõ hành tung của nhau.
Xin nhắc lại: Trong suốt thời gian từ 1911 đến 1919, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế
Truyền và Nguyễn Tất Thành không ai có mặt tại Nam Kỳ.
Outrey biết Nguyễn An Ninh thuộc gia đình chống Pháp hàng đầu
ở Nam Kỳ: cha, mẹ, chú, cô đều là những nhà cách mạng. Khách sạn Chiêu Nam Lầu
của cha Ninh là nguồn tài trợ cho phong trào Đông Du, là nơi tá túc hội viên
các hội kín Đông Kinh Nghiã Thục, Cường Để750. Bản thân Nguyễn An Ninh
cũng rất quậy, để tóc dài, hay đánh lộn với Tây và viết báo chống Pháp từ thời
niên thiếu. Outrey, khi đọc văn, đoán chắc Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn
An Ninh và dựa trên các thông tin đã biết, Outrey tố cáo Nguyễn Ái Quốc là
người đã bị truy nã về tội chống Pháp ở Nam kỳ.
Thành tích chống Pháp của Nguyễn An Ninh đã trở thành huyền
thoại: "Thi đậu bằng Brevet Elémentaire751nhà ái quốc đi làm báo
tiếng Pháp, do người Pháp điều khiển. Trong thời gian làm báo, dù chỉ là một cộng
sự viên tầm thường, lượm tin chó cán, nhưng Ninh đã nổi tiếng rồi, vì sự bất
khuất, hay đập lộn với người Pháp, hay chưởi người Pháp. Chính trong thời gian
nầy, trong nước xẩy ra nhiều chuyện bạo động, nào Phan Xích Long khởi nghiã, Trần
Cao Vân rước vua Duy Tân rời kinh thành Huế, Lương Ngọc Quyến bạo động ở Thái
Nguyên. Dù những phong trào ấy bị thất bại, song gieo vào lòng người dân thời
đó một mầm mống sâu đậm trong cõi lòng, trong số đó có nhà ái quốc thanh niên
Nguyễn An Ninh"752.
Sở dĩ Nguyễn An Ninh không bị bắt vì tuổi vị thành niên, vì vậy,
Ninh mới viết Lá thư gửi ông Outrey, thách y phải tìm ra chứng cớ rằng
tôi - Nguyễn Ái Quốc- bị bắt ở Nam Kỳ lúc nào, năm nào, bị bắt ở đâu, ra toà
nào? Ninh đã "đáp lễ" Outrey tới nơi tới chốn.
Vì câu thách thức này mà ta xác định được tác giả Lá thư
gửi ông Outrey là Nguyễn An Ninh. Khi xác định được Nguyễn An Ninh là tác
giả Lá thư gửi ông Outrey thì tự nhiên ông là người viết bài Đông
dương và Triều tiên, vì bài này mà Outrey nhận diện được Quốc là Ninh và gây hấn.
Người viết nào cũng để lại căn cước của mình qua chữ nghiã.
Cho nên dù ký tên gì đi nữa, người đọc tinh ý luôn luôn tìm ra bản chất và lai
lịch của người viết.
Sự xác định tác giả một số bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc mà
chúng tôi ghi danh sách trong phần cuối chương này, dựa trên cơ sở của những
chi tiết đó.
● La France et L'Indochine
Ngoài tài bút chiến, Nguyễn An Ninh còn là ngòi bút văn
chương và tư tưởng. Trong La France et L'Indochine - Nước Pháp và Đông
Dương, Nguyễn An Ninh viết:
"Trong những năm gần đây, mặc dù thực dân hết sức tìm
cách giam hãm người An Nam, nhưng dưới hấp lực của phong trào thanh niên Tây
du, một vài người đã có thể đến Pháp, quan sát đời sống hàng ngày và tìm hiểu
bí quyết về sức mạnh vật chất của Âu Châu. Họ mang về nước tư tưởng dân chủ,
tinh thần phê phán của Châu Âu; hơi thở Tây phương đã làm sống lại niềm tin và
nghị lực của họ. Họ đã nhận tận tay người Pháp bản án chế độ thực dân Pháp tại
Đông Dương. Thực dân không thể ngăn cấm người An Nam biết tiếng Pháp đọc
Montesquieu, Rousseau, Voltaire.
Và, cùng một lúc, tinh thần phê phán Tây phương,
giúp thanh niên An Nam ấp ủ tâm hồn dân tộc trong lòng, giải thoát
triết học Khổng Tử và Mạnh Tử khỏi lớp bụi dầy của đạo lý Khổng Mạnh suy đồi.
Đã có một số xu hướng nổi lên, tìm cách cổ động quần chúng bỏ ý định phục thù bằng
bạo lực và dấn thân vào con đường tranh đấu mới: Đòi hỏi những tự do căn bản để
bảo tồn phẩm giá con người, đòi hỏi những cải cách, hoà hợp tinh thần dân chủ của
dân tộc An Nam với tư tưởng Tây Phương. Họ không còn chấp nhận, như quần chúng
đã phải chấp nhận, như kẻ bại trận trên chiến trường đã phải chấp nhận, cái luật
chiến tranh, cái đắc ý thô bạo của kẻ thắng và sự nhục nhã của người thua. Họ
cũng không còn chiến đấu bí mật với lòng yêu nước thuần tuý nữa mà họ tranh đấu
công khai, nhân danh nguyên tắc nhân quyền 1789. Và bọn thực dân không còn dám
dựa trên cớ "chủ quyền nước Pháp bị đe doạ" để bắt họ đi đày hoặc xử
tử.
Như thế, chính sách người bóc lột người ở Đông Dương đã
được báo trước sẽ bị phá sản.
Hoặc là, điên cuồng vì thất bại, bọn thực dân vẫn cố chấp áp
dụng biện pháp đán áp, tiếp tục siết chặt những nạn nhân đang vùng vẫy, mặc kệ
dấu hiệu báo trước những biến cố sắp tới; như thế, thảm họa chung sẽ xẩy ra: nước
Pháp mất hết quyền lợi và uy tín -"sứ mệnh giáo hoá" của Châu Âu sẽ lộ
bộ mặt thật của nó- và nước An Nam, sau những kinh hoàng, thống khổ, sẽ được tự
do hơn để hoàn tất sứ mệnh của mình.
Hoặc là, nước cộng hoà Pháp đến Đông Dương để thay thế
bè lũ thực dân; như thế, không những, thanh danh và lợi ích của Pháp sẽ được bảo
toàn, mà Pháp còn được hưởng sự tri ân của một dân tộc sẽ ủng hộ họ ở Châu Á.
Cách đây khoảng 15 năm, để trả lời tiếng kêu của những người
bị đàn áp, bọn thực dân đã rêu rao trên báo như sau: "Nước Pháp không đến
đây với Kiếm và Luật. Chỉ có Kiếm"753. Dường như, sau sáu mươi năm bị
đô hộ và chịu ảnh hưởng Pháp, đất Nam Kỳ ngày nay đã được công bố
là đất Pháp, vậy người An Nam có quyền đòi hỏi nước Pháp phải mang sang
Đông Dương, không những Luật, mà cả thanh bảo Kiếm để bảo vệ Luật pháp. Sự hoà
hợp giữa lý tưởng cộng hoà Pháp và tư tưởng dân chủ của một xã hội có nền móng
tư tưởng Khổng Mạnh, không phải là sự tiến hoá theo quy luật tự nhiên, như thực
dân tuyên truyền. Phong trào giải phóng các dân tộc ở Á Châu không phải là sự
"tiến hoá" từ xã hội dã man lên xã hội Âu Châu tân tiến.
Phải là thực dân trong nghĩa ngu xuẩn nhất mới có thể tin
được "nghiã vụ giáo hoá" của những người Âu Châu sang xâm chiếm
Đông Dương. Ở Ấn Độ, sự tuyên ngôn về "nghiã vụ giáo hoá" (của người)
Tây phương gợi trong lòng một Tagore ý thức giáo hoá (đến từ) Đông phương. Ở
Trung Hoa, giới thanh niên đã đi học ở Âu Châu, đặt câu hỏi trên báo chí như một
thách đố với Châu Âu: "Bạn có thể nói cho chúng tôi biết, nước bạn đã văn
minh chưa? (...)
Về chính sách thực dân mà nước Pháp áp dụng ở
Đông Dương, chúng tôi nhận thấy:
1- Rằng, ở Đông Dương, nước Pháp chẳng những không áp dụng
những nguyên tắc lớn mà họ đã tuyên thệ, mà còn tiêu diệt tư tưởng dân chủ
của xã hội An Nam.
2- Rằng, nước Pháp, thừa nhận tự do và quyền công dân Pháp
cho những người, hôm qua, vẫn còn là nô lệ, nhưng lại áp đặt chế độ nô lệ ở
Đông Dương cho một dân tộc tự do, đã có một nền văn minh, từ khi cư dân sống
trên đất Pháp vẫn còn ăn lông ở lỗ (vivait dans des cités lacustres)"754.
Bài viết La France et L'Indochine mà chúng tôi vừa
trích dịch một đoạn trên đây, có thể tóm gọn tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An
Ninh.
Trong cuốn Nguyễn An Ninh tác phẩm755 có in bản dịch Nước
Pháp ở Đông Dương - La France en Indochine và nói rằng bản này
đã in trong in tạp chí Europe, nhưng khi so sánh chúng tôi thấy không hoàn toàn
giống.
Theo Đặng Hữu Thụ, "La France en Indochine" tháng
4/1925, in 2000 bản tại nhà A et F Debeaufauve Tournefort Paris. Ninh trao cho
Nguyễn Thế Truyền 150 bản để Truyền nhờ các thủy thủ Việt Nam đem về nước.
Ngoài ra, sách cũng được gửi tặng một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, Hội Nhân Quyền
và báo chí viết về thuộc địa. Khi đáp tàu về nước ngày 28/5/1925 cùng Phan Châu
Trinh, Nguyễn An Ninh mang theo một số cuốn. Nhưng Bộ thuộc địa biết, đánh điện
về Phủ toàn quyền, và sách đã bị tịch thu khi tàu cập bến756.
Mật báo của Deveze 12/1/1921, nói đến một cuốn Đông Dương, ký
Nguyễn Ái Quốc, như sau:
"Hội Ái Hữu xuất bản ở 118 Avenue Parmentier đã gởi cho
ông Nguyễn Ái Quốc: "Chúng tôi đã đọc bản thảo "Indochine"
hay "Máu của mỗi người" nhưng Hội không thể nhận xuất bản được
vì đã cam kết với nhiều nơi rồi. Nhưng chúng tôi sẵn sàng mời ông đến trao
đổi về bản thảo đó" Dezeve ghi thêm: "Mặc dù Nguyễn Ái Quốc
khẩn thiết nhưng báo L'Humanité cho rằng không thể đưa vào khuôn khổ tờ
báo"757.
Một cuốn sách, mang tên Đông dương (1923-1924) được
dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác
phẩm Indochine hay Máu của mỗi người mà Dezeve nói đến? Trần
Dân Tiên viết: "Ông Nguyễn chỉ viết cuốn sách duy nhất là Bản Án Chế
Độ Thực Dân", vậy ông Hồ không biết đến cuốn Đông Dương ký
tên Nguyễn Ái Quốc.
Đông dương (1923-1924), dịch in trong Hồ Chí Minh toàn tập
có cùng bố cục như Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp, nhưng lời văn điềm
đạm hơn, gần với lối viết của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Điểm chung của
hai tác phẩm là cùng dùng những mẩu chuyện, những nhân chứng đã có trong các
bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đông Dương nói đến tình trạng ở nước ta,
còn Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp viết chung cho nhiều dân tộc.
● Le Procès de la Colonisation Française
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp
Cuốn Le Procès de la colonisation française đề tên
tác giả Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng thực ra ai viết?
Sách in năm 1925, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga hai năm. 1946, in lại lần đầu
ở Hà Nội.
1/ Ngô Văn viết: "Sau khi Phan Châu Trinh khởi
hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa
do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông
Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation
française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn
Thế Truyền viết"758.
2/ Đặng Hữu Thụ kể lại giai thoại sau đây: Ông Bửi Nghi, một
người bạn kể cho ông rằng Nguyễn Thế Truyền có đưa bản thảo cuốn Bản án chế
độ thực dân cho ông Bửu Nghi đọc, nhờ chữa lỗi chính tả, và nói là của
Nguyễn Ái Quốc viết759. Điều này cũng chẳng nói lên được gì, vì Nguyễn Thế Truyền
và nhóm Ngũ Long đã đồng ý với nhau về việc lấy Nguyễn Ái Quốc làm bút hiệu
chung. Khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Nguyễn Thế Truyền vẫn còn ký tên Nguyễn
Ái Quốc trên báo và trong bản quảng cáo sẽ ra báo Việt Nam Hồn. Vậy đó là chiến
lược của cả nhóm.
3/ Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này: "Ông
Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển "Bản án chế độ thực
dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong
những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn
viết cả vở kịch "Rồng tre"760.
Sự quá vắn tắt của Trần Dân Tiên rất khả nghi, tại sao ông
không nói rõ là ông Nguyễn đã viết cuốn Le Procès trong hoàn cảnh
nào? Nhất là cuốn sách ấy lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có
lẽ ông Hồ chưa đọc Le Procès khi viết những dòng này năm 1948, cho
nên mới có câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích
trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia". Bởi vì những
nhân chứng kể tội ác thực dân, mô tả rõ ràng, trần trụi việc hãm hiếp, tra tấn,
giết người, ở những làng mạc có tên rõ như thế, lại được in lại thành sách để
trong thư viện Pháp, cho ông Hồ chép lại, thì quả là lạ. Báo chí đối lập của
Pháp có thể đưa tin này khác về tội ác chiến tranh, nhưng chắc chắn những vụ giết
người kinh hoàng như vậy đã bị quân đội và chính quyền thực dân giấu nhẹm, chỉ
có các nạn nhân và những người lính Việt Nam đã chứng kiến tại chỗ mới có thể
biết được.
4/ Chúng tôi tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không có
khả năng tiếng Pháp và không có đủ tài liệu sống để viết tác phẩm này. Có thể
ngoài tài liệu của nhóm Yêu Nước, Nguyễn Thế Truyền còn tập hợp thêm những bài
báo, những chứng nhân khác ở các thuộc địa, xuất hiện trên báo Le Paria, sửa đổi
đôi chút rồi viết tựa. Tài liệu phong phú và cực kỳ chi tiết về sự tàn ác của
chế độ thực dân trên các nước nhược tiểu, Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp có
thể được coi là một sáng tác tập thể mà Nguyễn Thế Truyền làm "chủ
biên" và viết lời giới thiệu.
Phần nhân chứng về Việt Nam do lính thợ cung cấp, họ kể lại
những tội ác của quân đội viễn chinh mà họ đã mục kích, những lời chứng này có
thể đã được Phan Văn Trường thu lượm trong thời kỳ làm việc tại Công Binh Xưởng
Toulouse.
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp, được viết hay soạn từ những
thông tin, những đoạn, những ý tưởng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc
và những thông tin khác đến từ các thuộc địa châu Phi. Tác phẩm không chỉ đưa
ra bộ mặt lầm than, thống khổ của một dân tộc Việt Nam mà còn của tất cả những
người dân da màu khác đang bị đô hộ. Vì vậy nó có tính chất nhân loại. Khó có
thể xác định ai là tác giả, vì nội dung cho thấy bàn tay của nhiều người: Nguyễn
Thế Truyền, trước tiên, vì ông đã có công soạn thảo, chỉnh đốn, viết tựa. Phan
Văn Trường và Nguyễn An Ninh, viết về luật pháp. Phan Văn Trường viết về công
binh. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường đều có thể khắc họa những
chân dung toàn quyền và viết về các chính sách dã man của thực dân Pháp trên đất
nước ta. Nhưng còn có những đóng góp khác của các nhà văn châu Phi, và thư từ độc
giả từ các nơi gửi về... do đó Nguyễn Thế Truyền đã giữ tên tác giả chung là
Nguyễn Ái Quốc.
● Vở kịch Rồng tre - Le dragon de bambou
Không biết Nguyễn Thế Truyền hay Nguyễn An Ninh viết, nhưng
chắc chắn không phải Nguyễn Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo nghễ
ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối... Rồng - Đế
vương. Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà... Rồng tre - đồ chơi. Ý
nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận là mình
viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi ở bụi
này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận có
các con Rồng khác?
Le dragon de bambou cái tựa của vở kịch, chúng tôi xin
nhấn mạnh, nguyên tên tiếng Pháp là Le dragon de bambou - Rồng
tre chứ không phải Le dragon en bambou -Rồng bằng tre, như có người
đã cố ý sửa lại, bởi vì người sửa không hiểu được sắc thái (nuance) khác nhau
giữa le dragon de bambou và le dragon en bambou.
Kịch bản đã mất, nhưng cái tựa Le dragon de
bambou- Rồng tre đã chứng minh sự tinh tế về Pháp ngữ của tác giả.
Léo Poldès, người được Nguyễn Ái Quốc/Nguyễn Tất Thành đưa đọc để
giúp việc trình diễn, viết: "Như cái tựa của vở kịch, Rồng tre là một vị
nguyên thủ quốc gia Á châu bất lực, bất tài, ngu dốt, bị tác giả mắng nhiếc thậm
tệ trong ba màn" ("Le dragon de bambou, titre de la pièce, était
un chef d'Etat asiatique impuissant, incapable, ignorant, et dont l'auteur
fustigeait sans pitié, pendant trois actes")761.
Ngòi bút Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đều đặn trên các báo từ
tháng 8/1919 đến đầu 1920: thời gian này chủ yếu là Phan Văn Trường và Nguyễn
An Ninh viết.
Trong năm 1920, có ít bài, vì Phan Văn Trường bận việc toà
án, đi về giữa Paris và Mayence, Nguyễn An Ninh về Sài Gòn hè 1920 và Nguyễn Thế
Truyền về Bắc một năm từ 8/1920 đến 8/1921.
Thời điểm tung hoành mạnh mẽ nhất là khoảng 1921- 1922, khi
Nguyễn Thế Truyền chính thức bước vào "nghề báo" và Nguyễn An Ninh
còn ở Paris: bút hiệu Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trên nhiều tờ báo một lúc, vậy
hai người viết chính trong thời kỳ này là Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh.
Phan Văn Trường bận việc ở Mayence, ít tham dự.
Tháng 10/1922, Nguyễn An Ninh về Sài Gòn. Cuối năm 1923, Phan
Văn Trường về nước. Còn lại Nguyễn Thế Truyền, một mình, ký cả Nguyễn Ái Quốc
và tên thật Nguyễn Thế Truyền.
Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi
Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprekorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ,
là của Nguyễn Thế Truyền.
● Xác định một số văn bản
Sự xác định một số văn bản mà chúng tôi nêu tên sau đây, dựa
vào văn phong và tư tưởng khác nhau của mỗi tác giả; nhưng có khi, chỉ dựa vào
một vài chi tiết rất nhỏ.
• Phan Văn Trường: Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản
xứ (L'Humanité 2/8/1919), Những kẻ bại trận ở Đông dương (La
vie ouvrière số 101, ngày 8/4/1921), Quyền của những người lính (La
vie ouvrière số 105, ngày 7/5/1921), Phong trào cộng sản quốc tế Đông
dương (La revue communiste, số 15, tháng 5/1921), Vụ âm mưu ở
Đông Dương (17/8/1921)...
• Nguyễn An Ninh: Đông Dương và Triều Tiên (Le
populaire, 4/9/1919), Thư gửi ông Outrey (Le populaire, 14/10/1919), Phong
trào cách mạng ở Ấn Độ (La revue communiste, số 18-19 tháng 8-9/1921). Nền
văn minh thượng đẳng (Le Libertaire, 23/9/1921), Tội ác của chủ nghiã
thực dân (La vie ouvrière, số 126, ngày 30/9/1921), Sự quái đản
của công cuộc khai hoá (Le Libertaire, ngày 30/9 và 7/10/1921). Hãy
yêu Pháp, nước bảo hộ bạn (Le Libertaire, ngày 14/10/1921)...
• Nguyễn Thế Truyền: Thú vật học (Le Paria số
2, ngày 1/5/1922), Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa (L'humanité ngày
25/5/1922), Paris (L'humanité, 30 -31/5/1922), Lời than của
bà Trưng Trắc (L'humanité, 24/6/1922), Những kẻ khai hoá (Le
Paria số 4, ngày 1/7/1922), Hận thù chủng tộc (Le paria số 4, ngày
1/7/1922), Thư ngỏ gửi ông Albert Sarraut (Le journal du peuple,
25/7/1922), Khai hoá giết người (Le Paria số 5, 1/8/1922), Phụ nữ
An Nam và sự đô hộ của Pháp (Le Paria số 5 ngày 1/8/1922), Nhân
đạo thực dân (Le paria, số 6-7 (tháng 9 và 10/1922), Amdouni và
Ben Belkhir chịu nhục hình (Le Paria, số 8, 11/1922), Về vụ
Siki (Le Paria, số 9, 12/1922), Người bản xứ theo mốt (Le Paria
số 10, 15/1/1922)...
733 Đăng từng kỳ trên La Cloche Fêlée từ 30/11/1925 đến
15/3/1926. 1928, nxb Gia Định, Sài Gòn, xuất bản và 2003 Ngô Văn tái bản,
L'Insomniaque, Paris.
734 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang31.
735 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 46.
736 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 81-89.
737 Cuốn hồi ký này, viết xong tại Paris, tháng 10/1923.
Tháng 12/1923, Phan Văn Trường xuống tàu về nước, tới Sài Gòn cuối tháng giêng
1924. Sau đó ông ra Bắc khoảng một năm, thăm gia đình, đến tháng 2/1925, ông mới
trở lại Sài Gòn và lo việc lập văn phòng luật sư và làm báo. Vì vậy, hồi ký chỉ
bắt đầu đăng trên báo Chuông Rè từ ngày 30/11/1925.
738 Sau khi Phan Văn Trường mất ngày 21/4/1933, bà Phạm Vân
Anh có viết loạt bài tựa đề Cái đời gian truân lưu lạc của Phan Văn Trường, ký
VA (Phụ Nữ Tân Văn từ số 211 (10/8/1933) đến số 218 (28/9/1933), đăng lại trong
cuốn Phụ Nữ Tân Văn Phấn son tô điểm sơn hà của Thiện Mộc Lan,
Văn Hoá Sài Gòn, 2010). Loạt bài này phỏng theo hồi ký của Phan Văn Trường
nhưng đã lược bỏ tất cả những chi tiết liên quan đến chính trị trong bản tiếng
Pháp, có lẽ vì thời ấy, báo tiếng Việt không tự do bằng báo tiếng Pháp.
739 Hồi ký Phan Văn Trường, trang 72.
740 Hồi ký PVT, trang 73-74-75.
741 Hoàng Xuân Hãn, Tựa cuốn Những hoạt động của
Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983,
trang 8.
742Lê Thị Kinh viết: "Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đã
theo dõi phong trào sớm, đích thân chỉ đạo cuộc đàn áp, trước tiên nhằm vào hai
người được đánh giá là chủ chốt: Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp. Rất quỷ
quyệt, y chủ động mọi việc nhưng lại đẩy Phủ Phụ Chính của Triều đình Huế ra
gánh trách nhiệm về các quyết định bắt và xử án các lãnh tụ Duy tân. Từ Huế vào
Hội An, y điện thẳng ra cho Thống sứ Bắc kỳ Morel, nhờ bắt Phan Châu Trinh
nhưng điện lại viết "Phủ Phụ chính nhờ bắt...".
Trong quá trình xét xử tại Huế, y cố gò Phủ Phụ Chính vào quyết
định "trảm quyết" nhưng nhờ lương tri và dũng khí của các thượng thư,
nổi bật nhất là hai cụ Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dám lên tiếng cãi lại
Lévêque với sự đồng tình của toàn Phủ Phụ Chính. Nhờ vậy mà Phan Châu Trinh đã
thoát án chém tức thì, lãnh án "trảm nhưng giam lại", đầy Lao Bảo.
Lévecque và toàn quyền đã đổi thành "đầy Côn Đảo". Thế nhưng sau đó
nhà cầm quyền thực dân đã đổi trắng thay đen, lu loa rằng: "Do thù về việc
đả kích quan lại nên Nam triều đã xử tử hình, may nhờ quan Pháp kịp thời can
thiệp nên Phan Châu Trinh thoát chết". Lập luận này đã được ngay cả những
đại biểu của cánh tả trong Hạ Viện Pháp tiếp thu trong phát biểu bảo vệ Phan
Châu Trinh.
Ở Việt Nam thì lại loan truyền lập luận: "nhờ có Liên
Minh Nhân Quyền can thiệp nên án tử hình được đổi thành khổ sai chung
thân". Thực ra với tốc độ bắt và xử án tại Huế (ngày 31/3 bắt, ngày
10/4 đã xử án tại Huế) thì Liên Minh
sẽ không kịp ngăn chặn việc thi hành án trảm quyết ông Trinh
tại Huế. (...)
Phải chăng vì sợ Phủ Phụ Chính sẽ nương tay với các bậc đại
khoa nên sau đó, khi bắt Trần Quý Cáp (17/4/1908). Lévecque đã cho giữ ông
tại Nha Trang, không cho giải ông về Huế giao cho triều đình xử theo thông lệ đối
với các bậc đại khoa như đã làm với ông Trinh, và y đã cùng công sứ Khánh Hoà
gây sức ép với các quan tỉnh để làm án "trảm quyết không xét xử", giết
Trần Quý Cáp một tháng sau khi bắt (17/5/1908). (Lê Thị Kinh, sđd, tập1,
quyển 2, trang 8-9).
743 Ngô Văn, sđd, trang 63.
744 Hồ Hữu Tường gặp Phan Văn Trường tại Paris khoảng
tháng 2/1930, sau khi Phan ra tù lần thứ nhì, trước khi ông về xứ và ba năm sau
ông mất.
745 Hồ Hữu Tường nhớ lầm, có lẽ là luận văn cử nhân, luận
án tiến sĩ của Phan Văn Trường về Luật Gia Long.
746 Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, trang 20.
747 Thu Trang, sđd, trang 9.
748 Đăng trên La revue communiste, số 15, tháng 5/1921.
749 Tài liệu Vidéo của INA (Institut National
Audiovisuel - Viện Quốc Gia lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh của Pháp) được đưa lên Youtube,
và ông Nguyễn Ngọc Quỳ ở Paris ghi lại trên mạng diendantheky ngày
16/4/2011.
750 Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa, trang 250.
751 Tương đương với Trung học phổ thông.
752 Phương Lan Bùi Thế Mỹ, Nhà cách mạng Nguyễn An
Ninh, trang 10.
753 Nguyễn An Ninh dùng chữ Le Glaive, chỉ đoản kiếm sắc cả
hai bên và là biểu tượng của Sức Mạnh.
754 Trích dịch La France et L'Indochine, Europe, số 31,
ra ngày 15/7/1925.
755 Nxb Văn Học, 2009.
756 Đặng Hữu Thụ, sđd, trang 64.
757 Lê Thị kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 161.
758 Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945 Cách mạng và phản cách mạng
thời đô hộ thực dân, Chuông rè, L'Insomniaque, Paris, 2000, trang 42.
759 Đặng Hữu Thụ, sđd, trang 123.
760 Trần Dân Tiên, sđd, trang 37.
761 Trích bài của Léo Poldès, trên báo Ici Paris
Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong Hồ Chí Minh Le procès de la
colonisation française, L'Harmattan, 2007, trang 194.
Chương 20
vì sao phan châu trinh phó thác "đại sự" cho phan
khôi?
Năm 1922 là năm bản lề, đánh dấu ngõ quặt của nhóm Ngũ Long: Bắt
đầu về nước tranh đấu. Người đầu tiên là Nguyễn An Ninh. Nhưng cũng bắt đầu sự
phân hoá. Về bối cảnh chung, 1922 có một số sự kiện xẩy ra: Hội Chợ đấu xảo
Marseille mở cửa ngày 16/4/1922. Đầu năm1922, Phan Châu Trinh xuống Marseille để
làm việc tại hội chợ. Pháp cử 7 phái viên Bắc Kỳ đi dự đấu xảo gồm:
- Tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định và quan huyện Phong Doanh Trần
Lưu Vị đại diện quan trường.
- Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn đại diện Tư vấn nghị viện.
- Hoàng Kim Bảng đại diện thương mại.
- Nguyễn Hữu Tiệp đại diện canh nông.
- Phạm Quỳnh đại diện Khai Trí Tiến Đức762.
Tháng 2/1922, Phan Châu Trinh gửi thư ngỏ cho Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 5/1922, Phan Châu Trinh gặp gỡ các nhà trí thức sang
Pháp dự hội chợ.
Tháng 6/1922, Vua Khải Định tới Pháp. Một phong trào bài kích
nhà vua nổi lên với Thất Điều Thư của Phan Châu Trinh kể bảy tội của
vua Khải Định, với các bài báo đả kích và vở kịch Dragon de bambou - Rồng
Tre ký Nguyễn Ái Quốc. Nhóm Ngũ Long chống vua Khải Định là tất nhiên, tuy
lời lẽ hơi quá đáng vì sự thực thì nhà vua không còn quyền hành gì cả. Nhưng
hai sự kiện đáng chú ý hơn là việc:
1/ Phan Châu Trinh viết bức thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc đề
ngày 18/2/1922.
2/ Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh Phạm Quỳnh
● Lá thư ngỏ của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc
Trước hết, tại sao Phan Châu Trinh lại gửi cho Nguyễn Ái Quốc,
mà không gửi cho Nguyễn Tất Thành, mặc dù ông thừa biết Nguyễn Tất Thành không
phải là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc?
Lý do nằm trong nội dung lá thư: Phan Châu Trinh viết thư
chung cho các tác giả ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có đoạn viết riêng cho Nguyễn
Tất Thành.
Khi nhắn chung các tác giả ký tên Nguyễn Ái Quốc, ông viết: "Thực
trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay, bọn mình ở bên
này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp
người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng kết quả chẳng được là bao. Cái
khát vọng bình đẳng, tự do, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu và ông Lư
Thoa763 khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên đất An Nam mình"764.
Trong một đoạn khác, nhắn riêng Nguyễn Tất Thành, ông viết: "Bấy
lâu nay, tôi cùng anh và Phan đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ anh cũng
không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi.
Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngọa ngọa chiêu hiền, đãi thời đột
nội (ngồi ngoài đợi thời) của anh và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân
tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh đã nói với anh Phan là tôi là
hạng hủ nho, thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận tý nào cả, bởi
vì suy ra thì tôi đã thấy rằng: Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết
sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với
anh Phan."
Tây Hồ nói dù Tất Thành (và bọn trẻ) coi ông là hủ nho, thủ cựu,
nhưng ông không chấp, ông cũng chẳng thích gì lối ngồi ở nước ngoài đợi thời của
Tất Thành và nhất là câu: Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường
hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì
đọ với anh Phan", có ý mỉa mai: tiếng Pháp anh giỏi hơn tôi nhưng đã
giỏi đến đâu mà dám chê tôi.
Rồi ông tiếp tục mắng mỏ lối viết báo tiếng Tây của Nguyễn Ái
Quốc - Trường, Truyền, Ninh: "Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi
vì, quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ quốc ngữ, cầm tờ báo mà đọc nổi".
Và ông kiên quyết trở về chủ trương của mình: "Theo
ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ
nghiã, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân, đồng bào thì đừng có dùng cái lối
nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn
dã, hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt
là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó
thì tài năng của anh khác gì công dã tràng".
Để nhắn riêng Nguyễn Tất Thành, ông nhấn mạnh thêm những điểm
sau đây: "Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghiã của ông Mã Khắc
Tư, ông Lý Ninh765 nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn
cho anh rõ". Rồi ông kể lại việc cả Karl Marx lẫn Lénine đều
có một thời bị đuổi ra nước ngoài, nhưng sau đó họ đều tìm cách trở về nước để
tranh đấu và ông kết luận: "Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ
nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho mình, như
anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy thì anh nghe tôi mà
về quảng cáo cho quốc dân đồng bào".
Ông nói về những hình phạt dành cho đường lối bạo động: "Ông
Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, Ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xuống sông, ông
Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ Khoa Huân bị đầy biệt xứ và nhiều không kể xiết sự đầu
rơi máu chảy". Cuối cùng ông khuyên Tất Thành nên về nước để "mưu
đồ đại sự".
Lá thư ngỏ này, chắc Phan Châu Trinh đã đưa cho Nguyễn Văn
Vĩnh một bản để dịch sang tiếng Pháp vì chúng tôi thấy bản tiếng Pháp và bản dịch
ra quốc ngữ, từ bản tiếng Pháp trong tập tài liệu Kỷ niệm 115 ngày sinh
ông Nguyễn Văn Vĩnh, do gia đình in năm 1997.
Bản dịch mà chúng tôi trích dẫn trên đây là bản Hoàng Xuân
Hãn, dịch từ bản Thu Trang tìm thấy trong hồ sơ mật thám, và theo Hoàng Xuân
Hãn thì đây cũng chỉ là một bản chép lại. Lá thư này rất quan trọng, vì nó xác
định những điểm khác biệt tư tưởng trong nhóm Ngũ Long do chính ngòi bút Phan
Châu Trinh viết ra:
1/ Phan Châu Trinh không đồng ý với đường lối tranh đấu của
nhóm Tây học: theo ông, viết các bài đả kích thực dân trên báo Pháp là vô ích.
Tư tưởng Rousseau và Montesquieu không thể đến được với dân Việt Nam.
2/ Ông xác định một lần nữa phương pháp tranh đấu của ông:
Khai Dân Trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân Sinh.
3/ Ông chống lại cách mạng bạo động và kêu gọi về nước tranh
đấu bất bạo động.
Xin nhắc lại: Con đường đấu tranh chung của nhóm Yêu Nước là
đuổi Pháp, giành độc lập và dân chủ hoá đất nước, nhưng họ khác nhau ở tư tưởng
và cách thực hiện mục đích:
- Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền chủ
trương dùng ngòi bút để đấu tranh trên đất Pháp và tiếp theo, trên đất Việt, vạch
tội ác của chính quyền thực dân, đánh động người Pháp dân chủ, để họ bãi bỏ chế
độ thuộc địa.
- Phan Châu Trinh viết nhiều kiến nghị gửi toàn quyền và bộ
trưởng Albert Sarraut, yêu cầu thay đổi chính sách cai trị.
- Nguyễn Tất Thành chủ trương cách mạng bạo động theo con đường
cộng sản.
Phan Châu Trinh viết thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc, là một cách
công khai nói lên sự khác biệt giữa ông và nhóm Tây học: Họ chủ trương vạch tội
ác của thực dân trên báo, tìm sự hưởng ứng của người Pháp dân chủ, để nước Pháp
bãi bỏ chế độ thực dân; nhưng Phan Châu Trinh lại cho rằng cách ấy vô ích. Ngược
lại Phan Văn Trường cho rằng việc Phan Châu Trinh viết những thư yêu cầu
Sarraut và chính quyền Pháp thay đổi chính sách là vô ích.
Sự khác biệt cơ bản đó được Nguyễn Văn Vĩnh đặt câu hỏi và trả
lời: "Ông Trường có phải là một nhà yêu nước cùng loại với ông
Phan Chu Trinh, hoặc là một người cộng sản cùng loại như ông Nguyễn Ái Quốc hay
không?
Tôi biết rằng ông rất gắn bó với hai người, ông luôn ở cùng
hai người ở Paris nhưng không bao giờ tán thành lý thuyết của hai người và cũng
không bao giờ tỏ ra có một chút đồng tình nào với cả hai người"766.
Phan Châu Trinh công bố lá thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc, tháng
2/1922. Nguyễn An Ninh về nước đầu tiên: tháng 10/1922. Rồi Ninh ần lượt sang
Pháp đón các vị đàn anh trở về: Tháng 12/1923, Phan Văn Trường về nước. Tháng
6/1925, Phan Châu Trinh về nước và tháng 12/1927, Nguyễn Thế Truyền về nước.
Ngoài ra, ông Khánh Ký cũng đã về nước từ tháng 7/1921.
Vậy chương trình "Ngũ Long tề khởi" mà
Phan Châu Trinh đề xướng, trong một khía cạnh nào đó, đã được nhóm Tây học thực
hiện. Dĩ nhiên họ không làm theo cách của Tây Hồ mà làm theo cách của họ: Đem
tư tưởng tự do dân chủ của Pháp về truyền bá tại Việt Nam và chống thực dân bằng
báo tiếng Pháp trên đất Việt. Nguyễn An Ninh là người "theo
sát" nguyện ước về nước tranh đấu trong lòng dân tộc của Phan Châu
Trinh. Nguyễn Thế Truyền khi bỏ báo Le Paria để làm báo Việt Nam Hồn, tiếng Việt,
có thể đã nghe lời Tây Hồ.
Sự kiện này được Hồ Hữu Tường ghi lại trong hồi ký theo lối "Tam
Quốc Chí" như sau: "Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại,
thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche
fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề
khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng,
Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt
di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là Cơ quan tuyên truyền cho tư
tưởng Pháp (Organe de propagande des idées françaises) (...) Còn hai cụ
Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp
sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra
thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng
sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường
đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án
tù, sang Paris chịu vào khám. Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc,
theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà
thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt Nam, rồi Phục Quốc..."767
Sự đổ vỡ có lẽ đã bắt đầu từ khi Phan Châu Trinh xuống
Marseille, đầu năm 1922: Nhân Hội Chợ Đấu Xảo Marseille, Phan Châu Trinh nhờ
Babut xin Pierre Guesde cho ông xuống Marseille làm việc. Guesde bằng lòng.
Nhưng Outrey phản đối dữ dội. Guesde viết thư trả lời trình bầy lý do, như
sau: "Tôi nghĩ việc nhận cho y làm việc sẽ có lợi về chính trị nên đã
đưa tên An Nam này vào làm ở Ban Tổng Quản Lý Triển Lãm và cũng xin nói thêm là
ở đó y đã làm việc rất tốt.
Như vậy, tôi đã tranh thủ được cơ hội đương sự yêu cầu để
kéo về phía chúng ta một tên An Nam thông minh và kiên trì, tuy có đôi
chút ấm ức vì những đắng cay của một cuộc sống đầy xáo trộn, nhưng tư tưởng
tình cảm không hề có gì đáng ngại cho sự cai trị của chúng ta. Đến nay tôi vẫn
tin chắc đây là một biện pháp tốt, dung hòa được cả hai mặt nhân đạo và chính
trị"768.
Theo các tài liệu sau đó769 ông Phan xuống Marseille chỉ
có mục đích đợi gặp bộ trưởng Thuộc Địa Albert Sarraut để xin một số yêu cầu -
chắc là xin vào quốc tịch Pháp và xin về Việt Nam, vì vậy ông không làm việc
tích cực và đã bị "xếp" khiển trách thô bạo nên ông bỏ việc. Dù sự
tình xẩy ra như thế nào, thì lá thư của Guesde, một lần nữa cho thấy bộ mặt thực
của chính quyền thuộc địa, cả những người giúp đỡ Phan như Roux, Babut, cũng nằm
trong cái guồng máy ấy. Sự ngây thơ về chính trị của Phan Châu Trinh dĩ nhiên bị
Phan Văn Trường "lên lớp" và hai người giận nhau. Các thư
ông Trinh "mắng lại" ông Trường, ông Truyền tỏ rõ điều ấy.
● Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại
Pháp năm 1922
Phan Châu Trinh xuống Marseille để đợi gặp Sarraut770 và có lẽ
cũng để tiếp xúc với những người Việt sang Pháp dự đấu xảo. Quan trọng nhất là
những buổi gặp gỡ giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
Trong chuyến đi Pháp 1922 Phạm Quỳnh gặp nhóm Yêu Nước ít nhất
năm lần. Và luôn luôn bị mật thám theo dõi:
1/ Ngày 11/4/1922: Gặp Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh ghi lại
như sau: "Hôm nay gặp cụ Phan Tây Hồ, là một nhà chí sĩ nước ta, nay
biệt xứ bên quý quốc. Hồi cụ khởi nghiệp, tôi còn nhỏ tuổi, nên chỉ biết tiếng
mà không được biết người. Nay sang đến đây mới được gặp cụ, trong lòng ngổn
ngang nhiều nỗi, không sao nói xiết. Cùng nhau đàm luận trong mấy giờ. Viêc cụ
làm chánh đáng hay không chánh đáng, tôi đây không muốn phẩm bình, nhưng xét
cái thân thế cụ, dẫu ai có chút lương tâm cũng phải ngậm ngùi. Ừ, làm người ai
chẳng muốn vợ đẹp, con nhiều, cửa cao, nhà rộng, bạc đầy tủ, thóc đầy kho; thế
mà có người không muốn như thế, thời con người ấy, dẫu hay dở thế nào, tưởng
làm kẻ quốc dân cũng không nên a dua nhẹ miệng mà gia tiếng thị phi vậy"771.
2/ Theo mật báo của an ninh Marseille ngày 11/5/1922, có cuộc
gặp gỡ giữa ba người: Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Trong cuộc
họp này, Phan Châu Trinh ngỏ ý muốn lật đổ Nam triều, lập Quốc Hội An Nam với
các dân biểu để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh khuyên
không nên, vì người trí thức và người dân vẫn còn gắn bó với nền quân chủ. Vả lại
vua nước Nam không giống như vua Louis XIV hay XVI của Pháp đã áp bức làm khổ
dân; và người dân An Nam cũng chưa đủ trình độ để sử dụng quyền Quốc Hội. Phải
chờ. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh nói sẽ suy nghĩ xem có thể đóng góp gì cho
chương trình hành động của Phan Châu Trinh772.
3/ Ngày 27/6/1922, các ông Lê Thanh Cảnh và Trần Đức mời Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến dùng cơm ở
một khách sạn khu Montparnasse, Paris. Đã có cuộc tranh luận gắt gao giữa Nguyễn
Ái Quốc và Phan Châu Trinh - sẽ nói rõ thêm ở dưới.
4/ Ngày 13/7/1922, Phạm Quỳnh ghi trong sổ tay: "Juillet/13/Jeudi:
Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 rue des
Gobelins)"773.
5/ Ngày 16/7/1922, Phạm Quỳnh ghi: "Dimanche 16/7: ở
nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền (Truyền) đến chơi"774. Như vậy,
khi Phạm Quỳnh Nguyễn Văn Vĩnh đến Marseille và Paris, họ đã gặp nhóm Yêu Nước
năm lần, nhưng ông Trinh và ông Trường không gặp nhau.
Trong năm lần họp mặt, chỉ có buổi ở Montparnasse Paris được
Lê Thanh Cảnh ghi lại trong tập Ký Ức Về Trường Quốc Học775 và được
gia đình Nguyễn Văn Vĩnh lữu trữ. Rất tiếc người biên tập đã không ghi rõ nguồn
của bài viết, năm, tháng... Tuy nhiên, nếu dựa vào mấy chữ "câu chuyện
năm mươi năm trước" mà Lê Thanh Cảnh ghi trong "Lời người
viết", thì có thể đoán bài này viết khoảng 1970-1975 ở trong Nam, vì
tác giả dùng hai chữ "anh Quốc" rất tự nhiên.
Dưới tựa đề "Thử đi tìm một lập trường tranh đấu
cho dân tộc Việt nam", trước hết ông Lê Thanh Cảnh thuật lại bối cảnh
cuộc họp mặt: Nhân dịp phái đoàn Nam triều đi dự cuộc triển lãm do Pháp Quốc Sử
Địa tổ chức tại Ba Lê "Ô. Trần Đức nói khẽ vào tai tôi, bảo hai anh
em chúng mình mời bốn cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Ngọc Thiện, Cao Văn
Sến đến chiều hôm ấy dùng cơm tại khách sạn Montparnasse. Chúng tôi nhân mời
thêm cụ Phan Tây Hồ, anh Quốc, vợ chồng Trần Hữu Thường và ông Hồ Đắc Ứng".
Đáng chú ý nhất là đoạn tác giả ghi lại cuộc tranh luận giữa
năm nhân vật: Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn
Văn Vĩnh. Chúng tôi trích lại những đoạn chính, lướt qua ý kiến Phan Châu Trinh
vì cũng giống như những điều ông đã viết trong thư gửi NAQ ở trên mà chú trọng
vào ý kiến những người khác:
"Cụ Tây Hồ bắt đầu nói: Tôi đã gặp Nguyễn Ái Quốc từ 10
năm trước đây mà tôi thấy anh chủ trương cách mệnh triệt để quá táo bạo
nên tôi không thể theo anh được, và anh cũng không chấp nhận đường lối của
tôi. (...)
Anh Quốc tiếp lời: Mấy hôm nay anh Cảnh qua đây có tiếp
xúc nhiều với tôi và có nói cho tôi một câu ước mơ của cụ Trần (Cao) Vân:
Nếu cuộc khởi nghiã của vua Duy Tân thành công thì sau này việc đầu tiên của
chúng ta sẽ làm là viết chữ Việt Nam không phải chữ "Tuất" một
bên, mà phải viết chữ Việt là Phủ Việt, "Rìu Búa", mới kiện toàn được
sự nghiệp cách mệnh. Sở dĩ tôi chủ trương cách mệnh triệt để là xưa nay muốn
giành độc lập cho tổ quốc và dân tộc thì không thể nào ngã tay xin ai được mà
phải dùng sức mạnh như cụ Trần Cao Vân đã nói là phải dùng BÚA RÌU.
Ô. Nguyễn Văn Vĩnh cướp lời ngay, đã bênh vực chủ trương của
mình và cũng để giác ngộ anh Quốc - Tôi đã từng đứng trong hàng ngũ Đông Kinh
Nghiã Thục cùng các bậc tiền bối và rất đau đớn thấy hàng ngũ lần lượt tan rã
và hầu hết phần tử ưu tú chiến sĩ quốc gia bị tiêu diệt: Hết phong trào
Đông Kinh Nghiã Thục, đến chiến khu Yên Thế của Đề Thám ở Bắc, rồi đến vụ xin
thuế ở miền Trung... (...) Bao nhiêu chiến sĩ đều gục ngã hoặc còn vất vưởng sống
ở Côn Đảo, Thái Nguyên, Lao Bảo hay Banmêthuột. Bạo động như anh Quốc nói là thậm
nguy! (...) Sở dĩ tôi theo lập trường TRỰC TRỊ (administration directe) là kinh
nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị tiến bộ quá xa hơn Trung Bắc. Mà Bắc Kỳ nhờ
chế độ mập mờ, nửa Bảo Hộ nửa Trực Trị (không công khai) mà còn hơn Trung Kỳ
quá xa. (...). Cứ trực trị cái đã rồi sau khi được khai hoá theo đà tiến bộ thì
tức khắc dân chúng tự có sức mạnh mà trồi đầu lên. Nói Trực Trị tôi chẳng khi
nào chịu giao nước Nam cho Tây đâu. Quá khứ đường lối tranh đấu của tôi, cuộc đời
thiếu thốn của tôi đã hùng hồn bảo đảm cho lời nói của tôi hôm nay.
Ô. Phạm Quỳnh tiếp: Có lẽ ngay trong tiệc này tôi đã thấy có
rất nhiều lập trường tranh đấu chống lại chủ thuyết mà tôi hoài bão: "QUÂN
CHỦ LẬP HIẾN". Nói đến quân chủ thì phần đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế.
Nhưng xin đồng bào trương mắt nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền Quân Chủ họ đã
văn minh tột mức và dân chủ còn hơn các nền dân chủ cộng hoà khác nhiều lắm.
(...) Vua chỉ là người đứng lên "thừa hành" bản hiến pháp mà chính
nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định (...)".
Sau lời Phạm Quỳnh biện hộ cho chế độ quân chủ lập hiến, đến
lượt Cao Văn Sến biện hộ cho việc dùng văn minh Tây phương để tiến hành dân chủ
và nhìn nhận rằng ở Nam Kỳ đồng bào tiến bộ hơn nên thực dân không dám ăn hiếp
như ở Trung và Bắc. Lê Thanh Cảnh viết tiếp:
"Tôi khẩn khoản xin quý cụ là bậc tiền bối nên thảo luận
ngay một kế hoạch hay hệ thống nào để làm việc cho có hiệu quả về sau. Anh Quốc
nóng nẩy bảo ngay: "Thì xin chú nói ngay ý kiến của chú ra". Tôi tiếp
lời: "Cũng như anh đã trả lời cho cụ Phan mấy hôm trước đây, tôi muốn
nghe ngóng tất cả để sau này áp dụng một chủ nghiã thực tiễn, lấy văn hóa
Việt Nam làm gốc. Có thế mới hợp với tính tình dân tộc Việt Nam: Hành động gì
bây giờ là thất bại ngay, mà cũng như cụ Phan Tây Hồ đã trịnh trọng cảnh cáo
hai anh em chúng tôi mấy kỳ gặp gỡ trước đây, mà tôi rất bái phục: "Vô bạo
động, bạo động tắc tử, vô vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu. Dư hữu nhất ngôn dĩ
cáo ngộ đồng bào. Viết: Bất như "Học".
Anh Quốc quát to tiếng: "Nầy cụ Tây Hồ, nếu Cụ qua làm
Toàn Quyền Đông Dương thay mặt thực dân cũng chỉ nói như thế thôi. Bó tay mà chịu
lầm than sao? Không được!"
Tôi sợ anh Quốc đi quá trớn, đứng lên thưa, ôn hoà: "Tôi
xin anh suy nghĩ thêm về lời khuyên của Cụ Tây Hồ. Nếu chúng ta khôn khéo thì
"bất chiến tự nhiên thành".
Anh Quốc lại quát lớn: "Lại thêm chú này nữa kìa!"
Tôi được dịp kịch liệt bác bỏ luận điệu anh Quốc và bênh vực
chủ thuyết của cụ Tây Hồ".
Lời lẽ trong cuộc tranh luận này được ông Cảnh ghi lại theo
trí nhớ, có thể không đúng nguyên văn, nhưng phản ảnh được không khí buổi họp
và xác định một số thông tin sau:
- Chủ trương trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh dựa trên sự quan
sát tình hình dân trí trong Nam cao hơn Bắc và Trung. Việc này được chứng minh
qua tình hình báo chí mở rộng tại Nam Kỳ và những phong trào chống Pháp rất mạnh
trên báo ở trong Nam do Nguyễn An Ninh, tiếp đến Phan Văn Trường, rồi nhóm Trốt-kít
viết.
- Nguyễn Tất Thành phản đối Phan Châu Trinh bằng lời lẽ nặng
nề, khác hẳn cung cách "chú cháu" ngày trước, nhưng lại
không có phản ứng gì đối với quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Cao Văn
Sến.
- Để bảo vệ quan niệm bạo lực cách mạng, Nguyễn Tất Thành đưa
ra biểu tượng Búa Rìu, của đảng cộng sản, nhưng lại giải thích bằng Hán tự
và dùng ý nghiã Búa Rìu của Trần Cao Vân. Sau này Trần Huy Liệu cũng đề cao vai
trò Trần Cao Vân nhưng bị Phan Khôi phản bác, Phan Khôi cho rằng Thái Phiên mới
là người chủ chốt trong vụ vua Duy Tân, Trần Cao Vân chỉ là "nửa là
nhà nho gàn, nửa là thầy bói kiêm thầy pháp"776.
Những sự kiện này, mới xem qua, gần như không đáng lưu ý,
nhưng sự thực nó có tầm quan trọng: Việc đề cao Trần Cao Vân là để nâng cao biểu
tượng Búa Rìu của đảng cộng sản, gắn liền Búa Rìu với hình ảnh cách mạng của
vua Duy Tân. Có lẽ Phan Khôi đã thấy chủ đích ấy trái ngược với sự thật lịch sử
nên ông phản bác lại bằng loạt bài trên báo Sông Hương năm 1936.
Hai buổi họp mặt ở Marseille và Paris năm 1922, chứng tỏ Phan
Châu Trinh muốn chia sẻ quan điểm đấu tranh của mình và tìm sự hợp tác với Nguyễn
Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh khi về nước. Sự phản bác kịch liệt Tây Hồ của Nguyễn Tất
Thành ở Montparnasse, chứng tỏ có sự đoạn tuyệt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn
Tất Thành, từ 1922. Trong đám Ngũ Long, Ninh và Truyền là người "rộng
tình" với Phan Tây Hồ hơn cả, có thể trong thâm tâm Ninh cũng chê
Phan cổ lỗ, quá đát: "trọn mười mấy năm ở Pháp cứ ôm bộ Ẩm Băng
Lương Khải Siêu cho đến ngày về nước cũng còn đem theo tàu để lót đầu nằm"777.
Nhưng Ninh vẫn một lòng quý mến ông Phan, sang Pháp đón Phan về nước và chăm
sóc Phan đến khi Ninh bị bắt. Cả Nguyễn Thế Truyền dù bị Phan "xỉ vả"
cũng vẫn tôn kính ông Phan. Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước tìm người thừa kế.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Tây Hồ không chọn Nguyễn An Ninh? Bởi vì Nguyễn
An Ninh Tây quá, sôi động quá. Phan Châu Trinh muốn một người nho học, điềm
tĩnh, gần gụi với tư tưởng của ông hơn, và ông đã tìm thấy trong nhà nho Phan
Khôi.
● Đám tang Phan Châu Trinh
Sự xuất hiện của Phan Khôi
Phan Châu Trinh chủ trương "Ngũ Long tề khởi" từ
1922, nhưng đến tháng 6/1925 mới về được nước, và đến tháng 3/1926 ông mất. Lê
Văn Thử viết: "Cụ Phan Châu Trinh về Sàigòn một lượt với Ninh,
đương ở nhà Ninh tại Quán Tre, kẻ thăm, người viếng rần rần rộ rộ"778.
Nguyễn An Ninh bị bắt đêm 20/3/1926, bốn hôm sau Phan Châu
Trinh mất, 24/3/1926779. Phương Lan Bùi Thế Mỹ thuật lại: "Chính Đặng
Văn Ký, theo sự uỷ thác của Ninh, vào tù, lo săn sóc bịnh tình cụ Phan
Châu Trinh. Khi cụ Phan bịnh nặng, Ký cùng với các bạn đem dời cụ Phan lên nhà
cụ Nguyễn An Cư; chú ruột của Ninh trị bịnh rồi cụ Phan mất tại đấy. Đặng Văn
Ký hợp với Huỳnh Đình Điển, Phan Khôi đem cụ Phan về khách sạn Bá Huê Lầu, đường
Pellerin giờ là Pasteur do Huỳnh Đình Điển là chủ nhơn khách sạn, thành lập ủy
ban làm quốc táng, Phan Khôi đảm nhận viết lời hiệu triệu quốc dân. Đặng Văn Ký
nhóm Jeune Annam lo liên lạc tìm đất chôn"780.
"Lễ quốc táng của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh được tổ chức
châu đáo vĩ đại. Quàn xác gần một tuần, tại Bá Huê Lầu của Huỳnh Đình Điển,
người chen chúc vô dâng hương nhà chí sĩ không biết bao nhiêu mà đếm. Nườm nượp
ra vô cả ngày lẫn đêm. Ngày đưa đám thiên hạ trùng trùng điệp điệp từ bốn
phương xa gần tụ họp tới. Sấp hàng từ đầu cầu Mống, cái cầu ở tận trên đường Thống
Nhất. Câu đối, tràng hoa tiễn đưa vô số kể."781
Sự thành công trong việc tổ chức đám tang vĩ đại của Phan
Châu Trinh là do nhiều yếu tố hợp lại, chúng tôi sẽ bàn đến trong một dịp khác.
Ở đây chỉ xin nhắc đến sự đóng góp của một người, ở hậu trường, đã nổi trội, có "công" hơn:
Nhiều dấu hiệu cho thấy từ khi về nước, Phan Châu Trinh đã tìm Phan Khôi để gửi
gấm "đại sự". Về việc này, Nguyễn Q. Thắng viết: "...năm
1925 khi về nước, Phan Châu Trinh đã cho vời Phan Khôi vào Sàigòn để viết một
quyển sách về đời hoạt động và sách lược cứu nước của Tây Hồ. Phan Khôi đã viết
xong bản thảo có tên "Phan Châu Trinh" nhưng bị phủ toàn quyền Đông
Dương cấm in. Bản thảo đã thất lạc (theo "mật báo về tác phẩm Phan Châu
Trinh của Phan Khôi" của sở mật thám Nam Kỳ, gởi thống đốc Nam Kỳ ký ngày
1/6/1926). Sách "Phan Châu Trinh" dày 94 trang đánh máy, do nhà in
Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản nhưng không phát hành được"782.
Vậy Phan Khôi là ai?
Năm 1925, Phan Khôi chưa phải là một tên tuổi nổi trội trong
giới báo chí tranh đấu như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường. Nhưng Phan Khôi đã
bắt đầu sự nghiệp làm báo với hai nhà báo lừng danh Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh,
những người đã gặp Phan Châu Trinh và nhóm Yêu Nước năm 1922 ở Pháp. Phan Khôi
được Phan Châu Trinh giao cho việc viết lại lịch sử đời mình.
Từ trọng trách ấy, Phan Khôi đảm nhiệm viết lời Hiệu triệu
quốc dân dự đám tang Phan Châu Trinh.
762 Phạm Quỳnh, Hành trình nhật ký, Ý Việt, Paris, 1997,
trang 208.
763 Montesquieu và Rousseau.
764 Thư Phan Châu Trinh viết chữ Hán, chúng tôi trích bản
dịch của Hoàng Xuân Hãn, in trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh
tại Pháp 1911/1925 của Thu Trang, Đông Nam Á 1983 trang 135-140.
765 Karl Marx và Lénine.
766 Nguyễn Văn Vĩnh, Trạng sư Phan Văn Trường từ trần,
L'Annam Nouveau số 231 ngày 24/4/1933.
767 Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris,
1984, trang 24-25.
768 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 211- 214.
769 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 219-228.
770 Nhưng không gặp được vì Sarraut chỉ đến Hội Chợ có một
buổi.
771 Phạm Quỳnh, Pháp du hành trình nhật ký, Nam
Phong số 58 (4/1922) đến số 100 (10-11/1925), in lại trong Hành trình nhật
ký, Ý Việt, Pháp, 1997, trg 252.
772 Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại
Pháp 1911/1925, Đông Nam Á 1983, trang 160.
773 Phạm Tôn, Người nặng lòng với nước, tài liệu gia
đình, Blog Phạm Tôn.
774 Phạm Tôn, Người nặng lòng với nước, tài liệu gia
đình, Blog Phạm Tôn.
775 Đăng trong đặc san của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Quốc Học,
in lại trong tập tài liệu Kỷ niệm 115 ngày sinh ông Nguyễn Văn Vĩnh, do
gia đình ấn hành năm 1997, tập III, trang 21.
776 Phan Khôi, Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân
trong cuộc biến ở Huế năm 1916, Sông Hương số 7, 1936.
777 Nguyễn An Ninh, Vài lời nhắc nhở- Điếu văn khóc Phan
Văn Trường, Trung Lập 27/4/1933, in lại trong Nguyễn An Ninh tác phẩm, Văn
Học, 2009, trg 1037.
778 Lê Văn Thử, Hội kín Nguyễn An Ninh, trang 25.
779 Xin nhắc lại: nhiều chỗ (kể cả cuốn Nguyễn An Ninh
do gia đình in) ghi sai: Nguyễn An Ninh bị bắt hôm ông Phan mất. Thực ra Ninh bị
bắt ngày 20/3/1926 vì tội tổ chức mít tinh tại Xóm Lách, Vườn Xoài ngày
21/3/1926 (tổ chức chứ không tham dự, vì bị bắt từ hôm trước), ở nhà bà Đốc Phủ
Tài, dì ruột Ninh, buổi mít tinh đưa ra bản quyết nghị có ba ngàn người biểu
quyết, Quyết nghị đòi Tám điểm, tương tự như Bản Thỉnh Nguyện Thư của Phan
Văn Trường 1919. Bốn ngày sau, 24/3/1926, Phan Châu Trinh mới mất.
780 Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ,
trang 130.
781 Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 164.
782 Nguyễn Q. Thắng, Phong Trào Duy Tân, những khuôn mặt
tiêu biểu, Văn Hoá Thông Tin, 2006, trang 478.
Chương 21
phan khôi (1887-1959)
● Sự chôn vùi Phan Khôi
Sau Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, từ thập niên
1930 Phan Khôi tiếp tục xây dựng nền móng mới cho Việt học, bằng phương pháp độc
đáo: phân tích, phê bình và phản biện, cổ võ phải viết lịch sử
cho đúng, kể cả các chi tiết nhỏ. Phải viết tiếng Việt cho đúng từng câu, từng
chữ, từng chữ cái, từng chấm, phẩy. Phải dùng từ Việt và từ Hán Việt cho thích
hợp. Phải hiểu Khổng học cho đúng. Sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và triết học
Tây phương đi từ Thánh Kinh. Nữ quyền bắt đầu với Võ Tắc Thiên. Phan Khôi luôn
luôn tìm đến nguồn cội để giải thích vấn đề. Là một nhà báo, nhưng không phải
nhà báo bình thường. Là một học giả, nhưng không phải học giả cổ điển chỉ biết
nghiên cứu. Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt
Nam trong thế kỷ XX. Nhưng sự nghiệp văn học của Phan Khôi bị chôn vùi trong gần
nửa thế kỷ783.
♦ Tạ
Trọng Hiệp: Phan Khôi, người xa lạ
Tạ Trọng Hiệp là người đầu tiên ở hải ngoại, đặt vấn đề
nghiên cứu lại Phan Khôi trong buổi trả lời phỏng vấn RFI năm 1996784:
"Tôi gọi Phan Khôi là Người xa lạ, vì từ những năm 56,
57 trở đi, qua hiện tượng đấu tranh của nhóm NVGP, thì sau đó có một cuộc đàn
áp ghê gớm của nhà cầm quyền Hà Nội. Và từ đó đến nay, đã có rất nhiều thay đổi
về tình hình trong nước (...) đã gần như không còn chỉ thị cấm kỵ gì nữa. Nhưng
hình như với riêng một số người -chứ không phải toàn bộ- cứng đầu nhất trong
NVGP, trong đó có Phan Khôi, thì những cấm kỵ ấy vẫn còn, còn dưới nhiều hình
thức lắm. Thứ nhất là không nói đến Phan Khôi. Không nói đến Phan Khôi, làm như
là không có hiện tượng Phan Khôi. Phan Khôi không xuất hiện ở trên trái đất
này.
Nhưng tìm nhiều thì thấy có một vài trường hợp không thể
tránh khỏi, nên miễn cưỡng, họ phải làm ra một tiểu sử về Phan Khôi. Trong một
cuốn sách ra cũng lâu lắm rồi, từ năm 1972, tập 2 bộ Lược Truyện Các Tác Gia Việt
Nam, ở mục số 50, có một trang rưỡi dành cho Phan Khôi. Nội dung bài viết và
phong cách câu văn làm ta sống lại những năm chung quanh vụ đàn áp NVGP, mà đỉnh
cao là về sau, xuất hiện dưới hình thức một cuốn gọi là "Bọn Nhân Văn Giai
Phẩm trước toà án dư luận", in năm 1959 (...) Người nào có cuốn ấy thì thấy
trong đó có ba, bốn bài gì đó, tập trung nện cụ Phan Khôi bằng đủ mọi cách, bằng
những bịa đặt rất là bẩn thỉu, để chứng minh rằng ngay từ khi còn thiếu niên,
Phan Khôi đã là người không ra gì. Và người viết không phải là người lơ tơ
mơ đâu, đây là những người nổi tiếng có cá tính bướng bỉnh và có tinh thần phê
phán rất ghê gớm như Nguyễn Công Hoan. Nếu tôi là con cháu Nguyễn Công Hoan,
thì có lẽ lúc này tôi sẽ tìm những nơi nào có cuốn sách đó, đốt đi, để xóa một
giai đoạn không tốt cho Nguyễn Công Hoan785.
Còn riêng cá nhân tôi, Tạ Trọng Hiệp, thì tôi lại chủ trương
ngược lại: Nhân dịp ta ra 1 hay 2 đặc san về Phan Khôi, thì cũng nên in lại vài
bài, kiểu bài của Nguyễn Công Hoan hay là của một vài người khác đã viết về
Phan Khôi, để ta nhớ lại, nhất là để giáo dục thanh niên ngày hôm nay, là đã có
những thời gian mà trình độ văn hóa và đạo đức trong nước nó sa đọa đến một cái
mức thấp mà không ai có thể ngờ được. Đây có tính cách giáo dục, mở đường cho
tương lai. Ngày hôm nay thì những cấm kỵ, phần lớn đã được bỏ rồi. Nhưng mà người
ta vừa bỏ cấm kỵ, vừa muốn cho chúng mình nghĩ rằng trong quá khứ có một vài sự
hiểu lầm chứ chẳng bao giờ sa đọa đến nỗi bẩn thỉu như thế. Đấy là chuyện nó cắt
nghĩa tại sao tôi muốn gọi cụ Phan Khôi là người xa lạ. (...) Tôi tiếp tục cái
ý Phan Khôi, người xa lạ là người ta hình như cố tình xóa dấu vết về Phan
Khôi".
Tạ Trọng Hiệp đưa ra bằng chứng về luận điểm này:
1/ Sự cố tình xoá tên Phan Khôi
"Một bằng chứng rất gần đây là Phan Khôi trong những
năm 30 có một số bài tranh biện với cụ Trần Trọng Kim (...) Những bài của cụ
Kim đáp lại Phan Khôi được nhà xuất bản Tân Việt, khi in cuốn Nho Giáo lần thứ
3, cho vào phần Phụ Lục.(...) Bây giờ, muốn xóa dấu vết Phan Khôi
cho tốt, là ta bỏ phắt cái Phụ Lục đi. Và quả nhiên, năm 1991,
khi tái bản Nho Giáo ở Sài Gòn, người ta bỏ hẳn phần Phụ Lục ấy. Ta có thể
đọc hết cuốn Nho Giáo mà vẫn không biết là Phan Khôi đã giới thiệu, đã có
công rất lớn để giúp cho cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim được giới có học,
tạm gọi là trí thức hồi đó, tìm đọc. Và nhờ những biện luận của Phan Khôi mà có
một số điểm sai lầm trong Nho Giáo được sửa lại. Như vậy là riêng về một tác phẩm
mà Phan Khôi có công, và cái công đó đã hoàn toàn bị xoá bỏ, khi người ta tước
cái phần phụ lục ấy đi".
2/ Về nhà văn Sở Cuồng Lê Dư, em rể Phan Khôi
"Ông Vũ Ngọc Phan, tác giả bất hủ của bộ Nhà Văn Hiện Đại
mà tôi cũng như mọi người mang ơn rất nhiều trong thời còn trẻ (...) Những năm
cuối đời, có đủ thì giờ, ông viết hồi ký rất tường tận. Đặc biệt ông dành riêng
gần 100 trang để tả lại cái buổi ban đầu lưu luyến ấy, ông được gặp người yêu của
ông và sau ông cưới làm vợ. Đó là cô Hằng Phương, người có quan hệ gia đình với
Phan Khôi.
Tại sao tôi nhớ đến Vũ Ngọc Phan khi nói về Phan Khôi?
Tôi muốn đưa ra một minh họa, đố ai chối cãi, rằng người ta cố ý, hay là quá sợ,
người ta không dám nói đến Phan Khôi: Ông Vũ Ngọc Phan, nhà anh hùng văn hóa
này, ông anh hùng đến nỗi kể về cô gái đẹp như tiên, ông tả Hằng Phương tóc dài
mượt. Cái gì cũng đẹp cả. Thế thì bố cô Hằng Phương là ai? Đọc hết cả tập hồi
ký của Vũ Ngọc Phan nhan đề Những Năm Tháng Ấy (...) cả thẩy 423 trang (...) vẫn
không biết ông ấy tên là gì! Ông bố của Hằng Phương là nhà văn Sở Cuồng, tên thật
là Lê Dư!
Lê Dư, hồi trẻ, có một giai đoạn bồng bột, nghe theo tiếng gọi
của nhiệt huyết yêu nước, xuất ngoại Đông Du.(...) Vì đói quá, ông chuồn về Việt
Nam. Và lại gặp lúc mật thám Pháp đang tìm cách dụ những người trí thức chống đối,
về làm việc với nó, vì nó đang muốn mở ra một lối thoát cho trí thức nho học
duy tân: Các anh đi con đường chống chúng tôi thì chết; nhưng nếu các anh đừng
chống chúng tôi, mà lại có một hoạt động văn hóa, có lợi cho cả các anh lẫn
chúng tôi, thì các anh sống được. Tức là bằng sự mở tờ Nam Phong. Một người
có tư tưởng ôn hòa như Phạm Quỳnh đứng chủ trương. Cụ Lê Dư về được bổ nhiệm
làm chủ bút, giữ phần Hán văn của Nam Phong786. Thì chỉ vì những năm đó mà về
sau Lê Dư bị mang một nhãn hiệu -sau khi Cộng Sản lên cầm quyền- gần như là một
người phản cách mạng. Cho nên Lê Dư cũng bị một số phận -tuy không nặng bằng
Phan Khôi, nhưng cũng gần như thế.(...)- là trong bộ sách quý báu mà tôi hay
dùng, Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, tập II, ở mục số 19, có
một tiểu sử Lê Dư, mà người cán bộ viết sách đó, lúc đó đang sống ở Hà Nội, có
con gái cụ Lê Dư là bà Hằng Phương, con rể cụ Lê Dư là ông Vũ Ngọc Phan, con
gái út cụ Lê Dư là vợ tướng Nguyễn Sơn, còn đang sống lúc bấy giờ ở giữa Hà Nội,
mà họ dám viết tiểu sử Lê Dư bằng hai câu đầu như thế này: Không biết năm
sinh và năm mất ở đâu. Lúc đó, cụ Lê Dư đang sống phây phây ở giữa Hà Nội (...)
Vợ ông Lê Dư là em ruột Phan Khôi (...) tôi rất bất mãn khi ghi chép tiểu
sử người ta, mà cứ giấu cái này, giấu cái kia. Nhất là cuốn hồi ký của Vũ Ngọc
Phan, là người tôi mến trọng ngày xưa bao nhiêu, thì sau khi đọc cuốn hồi ký,
tôi mất đi nhiều thiện cảm với ông ấy, chỉ vì cái chuyện hèn nhát của ông ấy:
Tên bố vợ không dám nói, chỉ nói ông cụ làm ở Bác Cổ (...) Suốt mấy chục trang
nói về ông bố của người mà mình sắp đến xin cưới con gái, không dám nói đến tên
ông cụ là Lê Dư!
3/ Về cụ Phan Trân, cha Phan Khôi
"Điểm thứ ba, khi nói về tên ông ngoại của vợ mình là cụ
Phan Trân. Trong suốt cả cuốn hồi ký, mỗi lần nhắc đến cụ thì cứ gọi cụ là cụ
Phan Trần.(...) Ai có cuốn sách Những Năm Tháng Ấy của Vũ Ngọc Phan: Tên cụ là Phan
TRÂN chứ không phải Phan TRẦN. Và qua sự chắp nối với một vài điều
đọc ở chỗ khác, thì dần dần tôi thử phác họa Phan Khôi là con cái nhà ai,
sinh năm nào? Ở đâu? Đấy, cái này đã bắt tôi bỏ ra nhiều thời gian tìm kiếm,
nó là khía cạnh khiến tôi đi đến một quyết định là nếu viết bài, thì tôi đề
tựa: Phan Khôi Người xa lạ? Với một dấu hỏi rất lớn vì quả thật là gốc
gác, lý lịch và dấu vết về đời cụ Phan Khôi ngày nay gần như bị xoá hết cả
rồi"787.
Tạ Trọng Hiệp qua đời ba tháng sau khi nói những lời "thịnh
nộ" này. Đó là năm 1996.
Năm 2010, Lê Hoài Nguyên788 cho biết tình trạng chung
như sau: "Tại miền Bắc cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án
dư luận" là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống
về NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu, thường dựa viết theo cuốn
này khi phải nói về giai đoạn 1954-1960 (...) Hầu như toàn bộ các thế hệ sau
không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các luận
điệu chính thống mỗi khi nói về nó. (...) Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn
này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình
Hoè, Gia đình Phan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu... Nghĩa là việc nói lại một cách
rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!"
Và ông kết luận: "Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế
kỷ về sự mê muội dân trí, về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc
để có sự đồng thuận về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể
mò kim¼ Nhưng trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn
thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ
cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên
nữa, người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí,
là không hiểu, không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống
và tàn sát đồng loại và tự biện minh bằng một cái mục đích hão huyền vô
nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới, tôi đã viết trong bài thơ Thế giới
đang tồn tại: "Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những
thần tượng, những tín điều""789.
Đây là bài viết công khai đầu tiên của một người trong ngành
công an, đã từng có trách nhiệm trong hơn 20 năm về hồ sơ NVGP. Một bài viết
can đảm. Không những có những thông tin đúng đắn, những nhận định ngay thẳng,
mà còn đòi hỏi sự sòng phẳng với quá khứ về mặt văn học và lịch sử.
Hoạ sĩ Trần Duy, trong bài Tưởng niệm về Phan Khôi, viết
nhân dịp kỷ niệm 120 năm sinh Phan Khôi 6/10/1887- 6/10/2007790 viết: "Ông
Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có người giải!(...)
nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm giá, thì đã bị
bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh giải?"791.
♦
Đánh Phan Khôi, các văn bản ô nhục
1/ Rồng Nam phun bạc
Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển
II, in năm 1972, của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ
Phong Châu, mục từ số 50, có đoạn như sau: "Phan Khôi đã được Mác-ty
(Marty) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo Nam Phong. Trong phòng kín,
Phan đã bí mật tố giác một số nhân sĩ yêu nước và bí mật hiến mưu dập tắt phong
trào cách mạng"... Trong tạp chí Nam Phong, Phan đã viết những bài văn và
bài thơ lừa dối, kêu gọi "dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ
"Đức tặc" giúp đỡ nước "bảo hộ" Pha-lang-xa đã không quản
trùng dương muôn dặm đem "văn minh" sang gieo rắc ở cái đất
An-nam "hèn yếu hủ lậu này"... Phan đã tuyên truyền rầm rộ cho
giặc dưới cái nhãn hiệu phỉnh nịnh là "Rồng Nam phun bạc".
Những việc làm của Phan Khôi "đã đẹp lòng bọn mật thám
Mác-ty nhưng chỉ đem lại cho sĩ phu hồi đó sự căm giận khinh bỉ. Phan Khôi
là một nhà Nho không những không có sĩ khí văn phong gì, mà đã tụt xuống bại
vong quốc nô vô sỉ" (Xem bài Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi
của Phùng Bảo Thạch, đăng trong tập "Bọn Nhân Văn - Giai Phẩm trước toà án
dư luận" Nhà xuất bản Sự Thật, 1969, trang 76, 78). (...) Nhóm phá hoại
Nhân Văn - Giai Phẩm đã bị vạch mặt và bị dư luận phê phán nghiêm khắc. Cuộc đời
nhơ nhớp, phản bội cách mạng của Phan Khôi lần này được phơi bày ra ánh sáng.
Hai năm sau, 1960, Phan Khôi chết ở Hà Nội"792.
Đó là Phan Khôi, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, 1972, hoàn
toàn trích dẫn bài viết của Phùng Bảo Thạch. Ngày nay, Từ điển Bách khoa,
mục từ Pháp Việt đề huề, cũng vẫn chép lại câu của Phùng Bảo Thạch: Báo
Nam Phong của Phạm Quỳnh đưa ra khẩu hiệu "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc".
Trong số những bài đánh Phan Khôi, bài của Phùng Bảo Thạch tồi
tệ nhất, nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng và dài lâu nhất, tại sao? Vì bài này
được in trong cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" và
đến 2010, theo Lê Hoài Nguyên, người ta vẫn còn dựa vào cuốn này khi phải viết
về giai đoạn 1954-1960. Phùng Bảo Thạch là một trong ba người sáng lập báo Đông
Tây (1929-1932)793 mà Phan Khôi cộng tác năm 1930-1931, tức là "bạn
đồng hành" của Phan Khôi thời trẻ, cho nên là người "có thầm
quyền hơn cả" khi viết về Phan Khôi.
Chúng tôi tìm đọc Nam Phong, thấy bìa sau phần chữ Hán có
hình một con rồng phun lên hai chữ Nam Phong; còn trong những bài tiếng Việt
mà Phan Khôi viết trên Nam Phong, thì tuyệt nhiên không thấy khẩu hiệu "Rồng
Nam phun bạc" và cũng không thấy bài văn, bài thơ nào kêu gọi
"dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ "Đức tặc". Tìm
đọc những bài Phan Khôi viết trên báo khác, thì thấy một bài hài đàm có tên Rồng
Nam, viết năm 1929 trên báo Thần Chung, trong đó Phan Khôi nói phiếm đại ý: cái
tên nào có chữ Nam, hay bị xui. Không biết tay Lang-Sa nào xỏ lá, Siam thì nó gọi
là Siamois; Cambodge là Cambodgien, chỉ có Annam thành Annamite. Vần ite sau
chót chỉ dân bán khai. Vậy mà cũng không hẳn xui đâu, vì Phan nhớ lại hồi thế
chiến "chánh phủ mở cuộc quốc trái ở nơi mấy cái cáo thị dán cùng đường,
thì có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc".
Đức bị đánh đổ không chưa biết, chớ rồng Nam lúc đó phun bạc thiệt nhiều!"794
Thì ra người ta đã lấy "cái cáo thị dán cùng đường,
có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc", đổ
cho Phan Khôi và nhóm Nam Phong, để có cớ lôi Phan Khôi xuống bùn. Trong cuốn Lược
truyện các tác gia Việt Nam, có ba học giả bị kết án nặng nhất, nhưng
Nguyễn Văn Vĩnh -mục từ 24- chỉ bị coi là thân Pháp. Phạm Quỳnh -mục từ 48- dù
bị thủ tiêu, cũng chỉ bị coi là "tay sai đắc lực của đế quốc Pháp
trong lãnh vực văn hoá và một tên Việt gian lợi hại chống cách mạng". Phan
Khôi bị bôi nhọ một cách bỉ ổi hơn cả.
Như vậy, sự bôi nhọ Phan Khôi được chuẩn bị một cách hệ thống,
chắc chắn phải do lệnh từ trên cao nhất của lãnh đạo. Hồ Chí Minh lúc ấy là chủ
tịch kiêm tổng bí thư. Trường Chinh đã từ chức từ tháng 10/1956 và Tố Hữu không
đủ thẩm quyền để đánh Phan Khôi. Chiến dịch này dùng những học giả, nhà văn,
nhà báo lão thành như Hồng Quảng, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Công Hoan, Phùng Bảo
Thạch, Trần Văn Giáp...
Hồng Quảng là tên giả của một trong những học giả hàng
đầu, là người chủ chốt. Bài Tính chất Phan Khôi hay ngựa quen đường
cũ ký tên Hồng Quảng đăng trên Văn Nghệ số 11 tháng 4/1958, là bài chỉ đạo:
Trầm tĩnh, lịch sự tối thiểu, không mày tao, chi tớ, có lúc còn gọi Phan Khôi
là tiên sinh, dù trong nghiã mỉa mai, nhưng dần dần tiệm tiến "chứng minh" Phan
Khôi là kẻ "phản quốc". Lập luận chính: "Phan
Khôi chỉ học mót của Hồ Thích chứ không có tư tưởng gì cả". Hồng Quảng
là "thủ trưởng" vụ đánh Phan Khôi, nhưng viết bài mà không
dám ký tên thật luôn luôn là một hành động phức tạp: ở những kẻ có "tên
tuổi", đây là hành động "kẻ cả", tỏ mình là "bề
trên", không nhúng tay vào những việc bẩn. Nhưng đồng thời cũng chứng
tỏ tác giả không tin vào điều mình viết, thậm chí còn xấu hổ nữa, nên không dám
ký tên thật. Là ai chăng nữa, thì việc ký tên giả luôn luôn chứng tỏ người viết
là kẻ tráo trở hai mặt, ném đá giấu tay. Tên giả thường chỉ xuất hiện trong một "vụ
việc" nào đó, rồi hết. Khác với việc nhà văn dùng nhiều bút hiệu để
phân biệt lối viết và cách trình bày tư tưởng khác nhau của mình trên mặt báo.
Sự chỉ đạo của Hồng Quảng được Nguyễn Đổng Chi gián tiếp nói
ra: "Khi viết bài này, bạn Hồng Quảng ở tạp chí Văn nghệ (số 11)
đã vạch cho ta thấy Phan Khôi "không phải độc lập sáng tạo" mà
chỉ học mót lại những cái Hồ Thích đã nói từ lâu. Đúng thế. Phan Khôi là một
tên học trò vụng về của Hồ Thích, mà Hồ Thích thì là một tên lính xung phong của
thực nghiệm chủ nghĩa hay thực dụng chủ nghĩa của giai cấp tư sản phản động
của đế quốc Mỹ do bọn Đi-uy (Dewey), Ram (James) và Mát (Mach)
v.v¼ sáng tạo"795
Một chi tiết nhỏ trong lời của Nguyễn Đổng Chi: Hồng Quảng đã "vạch
cho ta" chứng nhận tính cách chỉ đạo của Hồng Quảng và bài của Nguyễn
Đổng Chi chỉ lập lại hai ý chính của Hồng Quảng: "Phan Khôi học mót của
Hồ Thích" và "Phan Khôi có bộ óc dương nô" -nô lệ
Tây Phương- của Hồng Quảng, để buộc Phan vào tội "vong bản, phản dân
tộc". Ngày nay, nếu có phương tiện, cũng nên xác định xem Hồng Quảng,
kẻ chỉ đạo việc đánh Phan Khôi trong giới học giả là ai, để hoàn lại cho người
viết, cái trách nhiệm văn bản của mình. Bởi người cầm bút luôn luôn phải chịu
trách nhiệm về những điều mình viết.
2/ Phan Khôi có "học mót" của Hồ Thích không?
Theo các "học giả" nói trên, thì những chủ
đề Phan Khôi đưa ra trên báo, từ thời Phụ Nữ Tân Văn (1929) đến Sông Hương
(1936) đều là "học mót" của Hồ Thích cả. Vậy chúng ta thử
xem Phan Khôi viết gì về người thày quý hoá này?
1/ Trong bài "Lý với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng", năm
1929, Phan Khôi viết: "Trong thời cuộc nước Tàu độ mười lăm năm trở lại
đây, phải kể Hồ Thích là một người quan hệ lắm, quan hệ cả về mặt văn hóa và về
mặt chánh trị. Thế mà mới ba năm gần đây, Hồ trở nên một người không hợp với thời
cuộc, trái với dư luận, ấy là tại va gặp cái thế của Quốc Dân Đảng.
Độ Dân Quốc gây dựng được năm bảy năm chi đó, Hồ Thích bắt
đầu xướng ra cái thuyết dùng bạch thoại thế cho văn ngôn, làm cho văn thể nước
Tàu biến đổi ngay và từ đó tư tưởng người Tàu cũng phát đạt mau. Hồ là một tay
Hán học uyên thâm mà lại đậu Tấn sĩ văn khoa nước Mỹ, bấy giờ va chỉ
viết báo mà cổ động sự cải cách văn thể chớ đích thân va thì còn ở
bên nước Mỹ chưa về. Lúc đó bọn thanh niên nước Tàu trông va về lắm,
trông va về để làm người lãnh tụ dìu dắt bọn thanh niên lên trong đường
cải cách.
Khi va về, trường Đại học Bắc Kinh liền rước làm thầy giáo
(professeur) dạy khoa triết học. Ở đó vài năm, va làm được một cuốn
"Trung Quốc triết học sử đại cương" là sách rất có giá trị trong học
giới Tàu ngày nay"796.
Phan Khôi gọi Hồ Thích bằng va. Trích đoạn này có 7
chữ va. Va là có ý coi thường. Không ai gọi thầy mình là va cả.
Phan Khôi gọi Trần Quý Cáp là thầy tôi; Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của
là đại sư; gọi Lương Khải Siêu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng
Kim, Phạm Quỳnh (kém Phan 5 tuổi), là tiên sanh.
Bài viết có giọng của một người đàn anh (Phan hơn Hồ 4 tuổi)
khen người đàn em, tuy trẻ tuổi mà đã nổi đình đám lắm, nhưng cũng chê Hồ không
ít. Phan viết về một bữa tiệc ở Thượng Hải: "Hồ, chừng như cho mình
là nhà triết học ngôn luận phải khác chúng mới được, bèn đứng lên nói một cách
sỗ sàng. Đại lược va nói rằng thành phố phải độc lập về đường chánh trị (...)
Va nói như vậy có gì lạ đâu, chẳng qua theo cái phép đô thị tự trị thì phải như
vậy. Mới rồi các ông hội đồng quản hạt ta nói về việc tự trị của thành phố Vũng
Tàu cũng nói như vậy mà có ai cãi? Cho nên khi Hồ nói xong thì có ý tự đắc".
Không ai "nhận định" về "người
thầy tư tưởng" của mình bằng một bài viết như thế.
2/ Tóm lại, việc Phan Khôi viết văn tự nhiên và rành mạch,
không phải do ông học mót của Hồ Thích việc dùng bạch thoại.
Trong bài trả lời phỏng vấn Phan Thị Nga797, Phan Khôi cho biết: nhờ nghiên cứu
cái logique trong tiếng Pháp, nên từ khi viết cho Đông Pháp thời
báo, tức là từ 1925 trở đi, ông viết theo lối này.
Ngoài ra, từ 1922 trở đi, Phan giao du và chịu ảnh hưởng của
nhóm trẻ Nguyễn An Ninh kém Phan 13 tuổi, Dejean de la Bâtie dạy Phan tiếng
Pháp, Bùi Thế Mỹ cùng quê... là những người bạn làm báo, học trường Tây. Nhưng
nguyên nhân sâu xa, có thể là Phan đã học lối viết hài đàm của Nguyễn
Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo, và ông đã áp dụng lối văn trong sáng này
trong bản dịch Kinh Thánh từ năm 1920-1925 - chúng tôi sẽ phân tích văn bản
Kinh Thánh ở phần dưới.
3/ Tại sao người ta lại chọn Hồ Thích để gán cho Phan Khôi?
Vì lý do chính trị: Hồ Thích (1891-1962) được đào tạo ở Mỹ. 1910, đi du học rồi
đậu tiến sĩ Ph.D. 1918, về nước. 1938, làm đại sứ cho Tưởng Giới Thạch tại Mỹ.
Gán cho Phan Khôi "học mót" Hồ Thích, để
đi đến kết luận: Phan Khôi phản quốc, trước làm bồi Tây, sau bồi Mỹ.
Việc triệt hạ Phan Khôi ở các học giả, nếu dùng chữ của Phan
Khôi, thì đó là cách hạ độc thủ của "các bạn đồng chí, những người
quân tử".
Năm 1928, khi nói đến việc Hồ Thích bị bọn đồng chí trong Quốc
Dân Đảng hạ thủ, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường
quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người
quân tử!"
Ba mươi năm sau, 1958, Phan Khôi bị rơi vào đúng trường hợp của
Hồ Thích.
3/ Đặt tên con là Phan Lang Sa
Chiến dịch đánh Phan Khôi được tổ chức khá quy mô, sử dụng những
người có tiếng hiền lành như Nguyễn Đổng Chi, Tế Hanh, vừa dễ sai bảo, vừa được
quần chúng tin cậy. Tế Hanh là người được chọn đi cùng với Phan Khôi sang Trung
Quốc nhân dịp kỷ niệm 100 năm Lỗ Tấn, 1956.
Tế Hanh đã làm những câu thơ như sau:
Chống Pháp lại đi ôm đít Pháp
Chửi vua rút cuộc liếm giầy vua
Há mồm lại nói nền dân chủ
Đạo đức ba que quả trái mùa798
Trong bài "tường trình" về chuyến đi
Trung quốc, Tế Hanh kể rặt tội Phan Khôi trong suốt chuyến đi: lúc nào
cũng tìm cách nói xấu đảng. Nhưng còn một việc tệ hơn nữa: Phan Khôi đặt
tên con trai út là Phan Lang Sa, vì mong Pháp trở lại. Trong bài tự trào, gửi
cho gia đình từ Việt Bắc, năm 1949, Phan viết:
Hai nhà cộng lại có mười con
Năm gái năm trai nhắm cũng giòn.
Gả cưới tạm yên nguyền một nửa
Sữa măng riêng mũi máu ba hòn
Tư trào thôi hẳn đành chia rẽ
Nhân cách còn mong được vẹn tròn
Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi
Tên mầy ghi cái nhục sông non799
Bài này nói lên gia cảnh và ý chí của Phan Khôi: Hai vợ, mười
con. Một nửa đã lập gia đình. Ba con vợ hai còn nhỏ. Vì theo tư trào -chỉ cách
mạng- mà phải chia lìa. Mong giữ vẹn toàn nhân cách. Con bé nhất ba tuổi, đặt
tên là Lang Sa - Pháp để ghi "cái nhục sông núi" (mất nước).
Tinh thần bài thơ đi đôi với lời Phan thường chỉ trích những hạng người "vong
bổn", mới đi Tây vài năm mà đã khoe là quên hết tiếng Việt; hoặc
không biết tiếng Tây mà cũng đặt tên con là Trần thị Tờ roi, Trần
văn Xết800.
Nhưng Tế Hanh đã "thuật" lại rằng nhân dịp
ghé Nam Ninh thăm người con học ở đây tên là Phan Lang Sa, Phan Khôi "nói" với
ông như sau:
"Thằng này sinh ngày 9 tháng 3 năm 1945. Ngày Nhật đảo
chính Pháp. Tôi đặt tên nó để cho những người nào vui mừng việc Nhật lật Pháp
biết là Pháp sẽ trở lại cho coi".
Và Tế Hanh kết tội: "Phan Khôi đã đáp lại lòng thù
ghét của nhân dân ta đối với thực dân Pháp như thế. (...) Chỉ có một tâm hồn
vong bản loại Phan Khôi mới mong Pháp trở lại mà thôi"801.
Như vậy đủ biết sự xuyên tạc và vu khống, từ những ngòi bút
có tiếng hiền lành, chân thực có tác động nguy hiểm như thế nào. Bao nhiêu kẻ
khác đã chép lại giai thoại bịa ấy mà buộc Phan vào tội "phản quốc". Đến
con ông cũng phải đổi tên mình thành Phan An Sa.
Nguyễn Công Hoan làm thơ:
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi
Thọ mi mi chúc chớ hòng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-gích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn, nay lại hít gì voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục
Thêm nhục cơm trời chẳng biết gai802.
Những lời "thơ" lỗ mãng luôn luôn là thứ
gậy ông đập lưng ông. Nhưng đặc biệt thâm hiểm là bài Hành động và
tư tưởng phản động của Phan Khôi, đăng trên Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958,
bản điện tử trên Talawas, mà Tạ Trọng Hiệp đã nói đến ở trên: Nguyễn Công Hoan
là người biết nhiều về Phan Khôi hơn cả. Bài viết của ông có những chi tiết về
ngày tháng khá rõ, có thể dùng được trong tiểu sử Phan Khôi. Dựa vào những sự
kiện mình biết, Nguyễn Công Hoan thêm thắt, xuyên tạc, để "chứng
minh" Phan Khôi là người bán nước, đã làm "chỉ điểm" cho Pháp
trong suốt cuộc đời. Bài này với bài Phùng Bảo Thạch là hai "kiệt
tác" về sự ô nhục của trí thức.
II ● Tìm lại cuộc đời đích thực của Phan Khôi
Hiện nay, một phần tác phẩm Phan Khôi đã được in lại, nhưng
cuộc đời thực của ông vẫn chưa được soi tỏ. Hệ thống xuyên tạc và bôi nhọ Phan
Khôi trong hơn nửa thế kỷ trong từ điển và học đường đã "giáo dục" quần
chúng không nhắc đến tên ông hoặc coi ông như một người phản quốc.
Chúng tôi cố gắng tìm lại cuộc đời đích thực của Phan Khôi, ưu
tiên qua những điều do chính ông viết ra, lượm lặt trong các bài ký, truyện ngắn
như: Lịch sử tóc ngắn, Chuyện bà cố tôi, Bạch Thái công ty
thơ ký viên, Đi học đi thi, Ông Bình Vôi, Ông Năm Chuột và bài ông trả lời
phỏng vấn Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta do bà Phan Thị
Nga viết lại năm 1936803. Những tài liệu gia đình như Phan Khôi niên biểu của
Phan Cừ, Phan An804, Nhớ cha tôi805 của Phan Thị Mỹ Khanh, về niên biểu,
cũng chỉ phỏng chừng, nhiều sự kiện trước sau lẫn lộn, có chỗ viết sai. Những
bài đánh Phan Khôi của Nguyễn Công Hoan, Đào Vũ... dù nhơ bẩn, nhưng có một số
chi tiết dùng được, bởi những người này đã có dịp gần Phan Khôi trong 9 năm
kháng chiến nghe ông kể chuyện rồi xuyên tạc đi, để buộc tội ông phản quốc.
♦ Tiểu
sử Phan Khôi
Sinh ngày 6/10/1887 tức ngày 20/8 năm Đinh Hợi tại làng Bảo
An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mất ngày 16/1/1959 tại Hà Nội. Ông nội:
Phan Nhu. Cha: Phan Trân. Mẹ: Hoàng Thị Lệ, con gái tổng đốc Hoàng Diệu. Phan
Khôi chỉ có một người em gái - gia đình gọi là cô Ba, bà là vợ nhà văn Sở Cuồng
Lê Dư và là mẹ của Hằng Phương, vợ Vũ Ngọc Phan, Hằng Phân, vợ Hoàng Văn Chí và
Hằng Huân, vợ tướng Nguyễn Sơn. Phan Khôi có người chú ruột là Phan Định, cha của
Phan Thanh và Phan Bôi tức Hoàng Hữu Nam.
Bút hiệu: Chương Dân, Khải Minh Tử, Tân Việt chung với Diệp
Văn Kỳ, Nguyễn Văn Bá; Thông Reo chung với Nguyễn An Ninh; Tú Sơn, phiên âm chữ Tout
Seul - Một Mình, để nhại Tú Mỡ... Riêng trên báo Sông Hương 1936-
1937, có hơn 10 tên khác nhau: Phan Khôi, Sông Hương, Ngự Sử, Phan Nhưng, Tú Vườn,
Bê Ca, K, PK, TV,... chắc chắn là Phan Khôi; còn TT, TM, PTT... có thể cũng là
Phan Khôi. Vì vậy, việc xác định văn bản Phan Khôi không dễ dàng. 1906, đỗ tú
tài Hán học806. 1906-1907: Bỏ khoa cử, học quốc ngữ và chữ Pháp với Lê Thành
Tài. Hoạt động trong phong trào Duy Tân. Theo Phan Châu Trinh cắt tóc ngắn, làm
bài Vè cúp tóc.
16/2/1908 ra Hà Nội học tiếng Pháp ở Đông Kinh Nghiã Thục,
nhưng tới nơi, trường đã bị đóng cửa. Về Nam Định, học với Nguyễn Bá Học được 3
tháng thì bị bắt giải về Quảng Nam. Bị tù 3 năm. Trong tù, làm bài Dân quạ
đình công, tự học tiếng Pháp, với thầy Ưng Điển807. 1911, ra tù, vẫn tiếp
tục hoạt động bí mật với nhóm Duy Tân và Đông Du Nam Ngãi. 1912, vào học trường
Dòng Pellerin ở Huế được vài tháng, bà nội mất, trở về làng chịu tang, rồi ở lại
quê.
Năm 1913 kết hôn với Lương Thị Tuệ, quê huyện Đại Lộc, tỉnh
Quảng Nam, con nhà cách mạng Lương Thúc Kỳ808.Năm 1908, Lương Thúc Kỳ bị bắt, bị
tù Côn Đảo tới 1917. Bà Lương Thị Tuệ có 8 con: Phan Thao, Phan Cừ, Phan Thị Hựu
Khanh, Phan Thị Bang Khanh809, một con trai chết năm 1935, lúc 10 tuổi, Phan Thị
Mỹ Khanh, Phan Thị Tiểu Khanh, Phan Trản. Bà Nguyễn Thị Huệ, vợ thứ nhì, gặp tại
Hà Nội, chung sống từ 1935, có ba con: Phan Nam Sinh, Phan Thị Thái, Phan Lang
Sa, sau tự đổi tên thành Phan An Sa.
1913-1916, Phan Khôi mở lớp dậy học tại quê nhà.
1916, triều đình và chính quyền thuộc địa bỏ thi lối cũ810.
Phan Khôi nghỉ dậy, trở lại trường học tiếng Pháp với thầy Lê Hiển811 cùng
với học trò. Được Thái Phiên rủ tham gia kháng chiến vua Duy Tân, nhưng Phan
không nhận. Lý do: Một mặt, không tin tưởng vào cách mạng bạo động812, chọn con
đường hoạt động văn hoá. Một mặt, cha hết sức ngăn cản bởi ông là con trai duy
nhất. Nguyễn Công Hoan đã vin vào cớ ông không theo Thái Phiên để đổ tội ông
làm mật thám cho Pháp ngay từ 1916.
Từ 2/1918 - 5/1919, được Nguyễn Bá Trác giới thiệu vào Nam
Phong, ông viết bài báo quốc ngữ đầu tiên đăng trên Nam Phong số 8, ra tháng
2/1918, khai trương mục Nam Âm thi thoại, diễn đàn phê bình thơ sớm
nhất ở Việt Nam. Đi Huế với Phạm Quỳnh dự tế Nam Giao từ 19/3/1918 đến
3/4/1918.
Theo Phan Khôi, ông làm việc chưa đầy một năm với Nam Phong
thì thấy "không thể đi cùng đường với hai vị chủ bút" -tức
là Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác- nên ông xin nghỉ trở về quê. Đầu năm 1919, ông
Bùi Quang Chiêu từ Sài Gòn ra Hà Nội tìm trợ bút cho báo Quốc Dân Diễn Đàn của
ông, Phạm Quỳnh giới thiệu Phan Khôi và đánh điện cho Phan Khôi ra Đà Nẵng xuống
tàu gặp Bùi Quang Chiêu, nhờ vậy ông lại có dịp được đi ra khỏi làng.
Tháng 6/1919, vào Sài Gòn viết cho Quốc Dân Diễn Đàn. Vẫn
theo Phan Khôi, được độ một tháng, không biết Marty nói với Bùi Quang Chiêu thế
nào, mà Bùi Quang Chiêu đổi ông sang làm báo Lục Tỉnh Tân Văn do Marty điều khiển.
Làm được vài tháng, vì một chuyện gì đó, dường như ông viết một bài báo công
kích một viên chức cao cấp Pháp sắp lên làm toàn quyền, ông bị sa thải.
Những sự kiện trên đây cho thấy Phan Khôi dù ra khỏi Nam
Phong nhưng vẫn giữ mối liên lạc khá chặt chẽ với Phạm Quỳnh và Marty.
Tháng 9/1919, trở về quê Quảng Nam.
Tháng 3/1920 ra Hải Phòng, làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi từ
1/5/1920 đến 31/12/1920.
Cuối 1920: Nhận việc dịch Kinh Thánh - dịch toàn bộ
Tân Ước và 1/3 Cựu Ước trong 5 năm, từ 1920 đến 1925, từ bản Hán văn và Pháp
văn ra quốc ngữ.
1921-1922, viết Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh ở Hà Nội.
1922 vào Nam, có thể đã liên lạc và hoạt động với
nhóm Nguyễn An Ninh, Dejean de la Bâtie, khi Nguyễn An Ninh từ Pháp về lập báo
La Cloche fêlée năm 1923.
1922-1925: Xuống Cà Mau ẩn náu. Học tiếng Pháp qua
thư từ với Dejean de la Bâtie. Tiếp tục dịch Kinh Thánh.
1925 Phan Châu Trinh từ Pháp về, giao cho Phan Khôi việc viết
lại lịch sử đời ông.
24/3/1926 Phan Châu Trinh mất: Phan Khôi soạn bản Hiệu
triệu quốc dân đi dự đám tang Phan Châu Trinh và viết cuốn Phan Châu
Trinh.
1926-1928: Phan Khôi viết các báo Thần Chung, Đông Pháp Thời
Báo, Văn Học ở Sài Gòn và Đông Tây ở Hà Nội. Tháng 5/1928, phê bình Trần Huy Liệu,
đặt vấn đề Viết sử cho đúng trên Đông Pháp Thời Báo.
1929-1932: Thời kỳ hoạt động mạnh nhất, viết các báo Thần
Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập, ở Sài Gòn; Đông Tây, Phổ Thông, ở Hà Nội, đặt
những vấn đề:
- 1929, Phê bình Khổng giáo trên Thần Chung. Nữ quyền và Viết
tiếng Việt cho đúng trên PNTV.
- 1930, khai sinh thể loại bút chiến văn học với Phạm Quỳnh
và Trần Trọng Kim trên PNTV.
- 1931, viết bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên
PNTV, phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh: đây là bài
phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
- Đầu 1932, công bố bài Một lối "thơ mới"
trình chánh giữa làng thơ và bài thơ Tình già, cả hai được
coi là bản tuyên ngôn của Thơ Mới trên Tập Văn Mùa Xuân, báo
Đông Tây, rồi PNTV.
- 1933 ra Hà Nội viết Thực Nghiệp và Phụ Nữ Thời Đàm. 1934
về Huế viết cho Phụ Nữ Tân Văn tái bản, rồi làm chủ bút báo Tràng An. Phan Trân
từ trần.
1936-1937: Lập báo Sông Hương tại Huế từ 1/8/1936 đến
27/3/1937. Viết cho Hà Nội báo. Tập hợp những bài viết trong mục Nam Âm
thi thoại in thành sách Chương Dân thi thoại, Đắc Lập, Huế,
1936.
1937-1941: Vào Sài Gòn dậy trường Chấn Thanh. Viết tiểu thuyết.
In cuốn Trở vỏ lửa ra, Phổ Thông Bán Nguyệt San số 41, ra ngày
16/8/1939 tại Hà Nội. Viết báo Tao Đàn từ tháng 3/1939. 1940, viết cho Dân Báo.
1941, Chấn Thanh đóng cửa. Phan Khôi về Quảng Nam ở đến 1946.
19/8/1945:Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 2/3/46: Thành lập
chính phủ liên hiệp.
Ngày 6/3/1946: Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp. Theo
Nguyễn Công Hoan, tháng 6/1946, trong một buổi mít tinh ở Quảng Nam, Phan Khôi
lên diễn đàn đả phá hiệp định sơ bộ. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm chi bộ Quảng
Ngãi của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Theo Hoàng Văn Chí, cán bộ địa phương định phá hủy nhà thờ
Hoàng Diệu, Phan Khôi cực lực phản đối, họ toan bắt Phan Khôi, nhưng nể Phan
Thao, con trai ông, là cán bộ cao cấp. Phan Khôi viết thư cho Huỳnh Thúc
Kháng813 nhờ can thiệp. Hồ Chí Minh giải quyết khéo léo: viết thư mời Phan
Khôi ra Hà Nội, giao cho Phan Bôi814 phụ trách việc quản thúc. Phan Khôi
ra Hà Nội, nhưng không chịu ở nhà Phan Bôi, lên 80 Quan Thánh ở với Khái Hưng.
Theo Nguyễn Công Hoan, đêm 12/7/1946, công an bao vây
nhà Khái Hưng, Phan Khôi bị bắt tại đây:
"Ở Quảng Nam ít lâu, hắn bèn ra Hà Nội, họp với Trung
Ương Đảng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng của hắn để đề nghị một chương trình chống
chính phủ. Chương trình của hắn là gây một cuộc rắc rối về ngoại giao giữa
chính phủ Pháp, để dồn chính phủ đến một nước cờ bí, phải đi đến chỗ tự lật đổ,
hoặc bị thực dân Pháp đánh bại.
Vừa lúc đó, Phan Khôi tiếp được giấy của Bộ Nội Vụ tập hợp Hội
Nghị Văn Hoá. Sau khi họp với bọn "đồng chí" ở Quảng Nam, đặt kế hoạch
hoạt động trong thời gian hắn vắng mặt, hắn tạm rời tỉnh Quảng Nam. Đến thủ đô
hắn xin vào yết kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng khi ấy là bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Nhưng cụ
Huỳnh đã rõ bộ mặt nhơ bẩn của hắn không thèm tiếp.
Đêm 12/7, trong khi hắn đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc
Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, thì xẩy ra việc công an ta đến khám tòa
báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn phản động trong nhà nổ súng ra
để chống cự. Tức thì công an buộc lòng phải bắt bớ người. Trong số những
người bị bắt có Phan Khôi. Song Phan Khôi lại một lần nữa được chính phủ
tha cho về suy nghĩ tội lỗi mà hối cải. Trong thời gian Phan Khôi ở Hà Nội, thì
chi bộ Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam tiếp tục thực hiện chương trình hắn đã vạch ra
(...) Thấy việc bán nước mỗi ngày một khó khăn hơn, Phan Khôi phải ở lại Hà Nội
để bàn việc củng cố đảng hắn. Nhưng tối ngày 19 tháng 12 toàn quốc đứng dậy làm
cuộc kháng chiến Phan Khôi giật nẩy mình, muốn về Quảng Nam thì nghẽn đường,
không đi được. Lại có một người em họ ở trong chính phủ bảo đảm cho, nên hắn được-
hoặc bắt buộc- đi theo kháng chiến" 815.
Theo Phan Khôi, ngày 6/7/1946 ông ra đến Hà Nội, nhưng được
người bạn thân báo tin cụ Huỳnh Thúc Kháng khuyên đừng gặp cụ. Ông quanh quẩn ở
lại Hà Nội xem tình hình, ngày 12/7/46, ông dự buổi họp của Trung Ương Quốc Dân
Đảng ở toà báo Việt Nam.
Theo Hoàng Văn Chí, sau ngày toàn quốc kháng chiến
19/12/1946, Phan Bôi được lệnh đưa Phan Khôi lên Việt Bắc. Phan dịch sách và
làm biên khảo.
Tổng kết các thông tin của Phan Khôi, Hoàng Văn Chí, Nguyễn
Công Hoan, xin tạm hình dung bối cảnh này như sau:
Phan Khôi thấy có thể bị Việt Minh bắt ở Quảng Nam, nên ông
viết thư cho Huỳnh Thúc Kháng, tìm cách chính thức ra Hà Nội. Cụ Huỳnh viết thư
mời ông ra dự Hội Nghị Văn Hoá, nhưng ngại không tiếp ông sợ bị liên lụy, chắc
bản thân cụ cũng không vững. Ở Hà Nội, Phan Khôi hội họp với Quốc Dân Đảng, trụ
sở 90 Quan Thánh, nhà Khái Hưng. Ông bị bắt tại đây, nhưng lại được thả ngay,
vì lẽ gì? Vì em họ Phan Bôi làm bộ trưởng Nội Vụ và con trai Phan Thao làm chủ
nhiệm báo Nhân Dân chăng? Chưa chắc. Rất có thể vì Hồ Chí Minh không dám thẳng
tay với Phan Khôi. Sau khi được tha, ông vẫn tiếp tục hội họp với Quốc Dân Đảng,
mặc dù ông đã chán nản vì thấy tổ chức này lỏng lẻo, chẳng có chính sách gì rõ
ràng, có lúc ông muốn tìm đường ra ngoại quốc.
Theo Đào Vũ, nhà cửa, ruộng đất của gia đình Phan Khôi ở Điện
Bàn bị tịch thu trong Cải Cách Ruộng Đất.
1954-55: Về Hà Nội, gặp lại vợ con từ Quảng Nam ra. Ở số 51
Trần Hưng Đạo. In Việt ngữ nghiên cứu816.
1956: Lãnh đạo tinh thần phong trào NVGP. Làm chủ
nhiệm báo Nhân Văn.
1957: Được cử đi Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 100 năm sinh Lỗ Tấn,
có Tế Hanh đi cùng.
1958: NVGP bị thanh trừng. Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần
Hưng Đạo, dọn về 10 Nguyễn Thượng Hiền, rồi 73 phố Thuốc Bắc.
Phan Khôi mất ngày 16/1/1959. Chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện,
phía đông Hà Nội. Trên mộ đề Chương Dân. Mộ phần bị "thất lạc" trong
chiến tranh - theo gia đình.
Lại Nguyên Ân cho biết từ giữa năm 2000, ông bắt đầu sưu tầm
tác phẩm Phan Khôi. Đến nay đã ra được 5 tập Phan Khôi, Tác phẩm đăng
báo, từ 1928 đến 1932 và cuốn Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, do
các nxb Đà Nẵng, Hội Nhà Văn và Tri Thức in; riêng sưu tập 1932, khổ 16x24. Các
sách này đã đưa lên website Lại Nguyên Ân: lainguyenan.free.fr817. Tổng
cộng: 4706 trang. Công trình này dành cho giới nghiên cứu, và là bước đầu tiến
tới một tuyển tập Phan Khôi, ngắn gọn hơn, cho mọi từng lớp độc giả.
Năm 2009, Phạm Hồng Toàn in sưu tập Sông Hương, tuần báo
ra ngày thứ bẩy (1/8/1936-27/3/1937), Lao Động và Đông Tây, 2009, gồm 2 tập,
khổ 19x26.
Hiện nay, chỉ còn những bài báo của Phan Khôi trong khoảng
1918-1928 và 1933-1942, chưa được in thành sách. Sưu tập của Thanh Lãng trước
1975 tại Sài Gòn, được xuất bản dưới tiêu đề 13 năm tranh luận văn học
1932-1945, gồm 3 tập, Văn Học, TP.HCM, 1995, trong đó có một số bài của Phan
Khôi.
Bộ sách này so với bản ronéo của Thanh Lãng có chỗ bị cắt,
không hoàn toàn trung thành với bản chính như việc làm của Lại Nguyên Ân.
♦ Bà
cố (1791- 1864)818 dựng nghiệp họ Phan ở Điện Bàn
Năm 1791, trước khi Gia Long lên ngôi 11 năm, tại làng Hoá
Quê gần cửa Hàn, một người con gái ra đời. Đó là bà cố của Phan Khôi,
người dựng nghiệp họ Phan ở Điện Bàn. Phan Khôi viết: "Họ Phan chúng
tôi, ông thỉ tổ nguyên ở Nghệ An vào lập làng tại Quảng Nam, kêu là Bảo
An"819. Làng Bảo An do ba họ Nguyễn, Ngô và Phan lập ra. Họ Phan từ khởi
thủy đến đời ông cố, vốn "nghèo hèn, dốt nát".
1809, ông lấy bà cố, chung sống 15 năm, được 7 con, ông mất,
người con út, Phan Nhu, ông nội Phan Khôi, mới 2 tuổi. Bà cố buôn gánh ở Hội
An, nuôi con trong 6 năm. Rồi bà tái giá, làm kế một ông Đội khá giả ở làng Hội
Vực, nhưng bà ra điều kiện: phải để cho bà về nhà chồng trước trông nom con
cái. Theo lời những người già trong làng, bà thường cưỡi ngựa đi từ làng Hội
Vực về Bảo An hay ngược lại, đồ vật chất đầy trên cổ ngựa, nhờ vậy mà các
con bà được ăn học. Sáu năm sau, ông Đội mất, bà đem 2 con với ông Đội về nuôi
cùng 7 con đời chồng trước.
Nhờ có vốn của chồng để lại, bà mở đại lý buôn đường với tàu
buôn của người Hoa ở Hội An, trở thành người phụ nữ đầu tiên có hãng xuất
cảng đường và thành "cự phú". Hai con trai bà, Hương Đạo và Bá Đức
cũng giàu có tiếng trong vùng. Người con út, Phan Nhu, đậu cử nhân khoa Đinh Tị
1847, làm đến chức Án Sát tỉnh Khánh Hoà thì bị cách chức.
Dù có công lớn với gia đình, nhưng vì tội tái giá, nên
sau khi mất, ở tuổi 73, bà không được chôn ở đất công của làng. Vì vậy, Phan
Khôi đòi kiện cái luật cổ hủ của xã hội thời ấy820. Từ bà cố, người
phụ nữ độc lập, cưỡi ngựa nhảy qua hàng rào lễ giáo cổ hủ đầu thế kỷ XIX để xác
định nữ quyền, nuôi chín con, lập sự nghiệp "tỷ phú". Đến
người cháu, học giả phản biện, lãnh đạo tinh thần phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm, là một dòng máu dân chủ và tự chủ nối dài.
Phan Khôi đấu tranh cho quyền làm người của phụ nữ, ngay từ
thập niên 30 của thế kỷ trước, khi Simone de Beauvoir, mẹ đẻ nữ quyền thế giới,
chưa xuất hiện trên văn đàn. Đó là đặc điểm của Phan Khôi: tiên phong và phản
biện trong nhiều lãnh vực tư tưởng.
● Phan Nhu và Phan Trân
Ông nội Phan Khôi là Phan Nhu, đỗ cử nhân khoa Đinh Tị, 1847,
làm đến chức Án Sát tỉnh Khánh Hoà thì bị cách chức. Cha là Phan Trân
(1862-1934), đậu phó bảng, làm tri phủ Diên Khánh, có lần cãi nhau kịch liệt với
viên công sứ821. Năm 37 tuổi, 1899, ông cáo bệnh từ quan, lúc đó Phan Khôi 12
tuổi.
Nhờ loạt bài Đi học đi thi822 mà chúng ta biết thêm
về Phan Nhu, Phan Trân và Trần Quý Cáp. Trong bài ký này, Phan Khôi tức Tú Vườn
dùng nhân vật lão Nho, ra đời khoảng 1875 thay thế cho mình, để mô tả lại bối cảnh
gia đình họ Phan trước khi Phan ra đời năm 1887, đồng thời vẽ chân dung người
thầy Trần Quý Cáp và trình bầy hoàn cảnh u uất của giới sĩ phu khi nước mất và
sự bất đồng tư tưởng trong gia đình họ Phan, từ đời ông, đời cha đến đời con,
ba thế hệ.
Năm 1885, kinh thành thất thủ823, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng
Trị, phong trào Cần Vương ở Quảng Nam nổi lên rầm rộ trong ba năm từ khi vua xuất
bôn đến khi vua bị bắt, năm 1988824. Phan Nhu cũng muốn theo phong trào, nhưng
Phan Trân khuyên cha không nên vì biết không thể chống nổi Tây: "ông
tôi ban đầu còn chưa chịu nghe, sau thầy tôi can mãi, nhiều khi đến nói mà vừa
lạy vừa khóc, ông tôi mới thôi". Nhưng thời ấy, không theo nghiã
quân, nghiã đoàn, thì có thể bị hại, nên hai cha con phải đem nhau đi trốn: "Có
một lần, chúng tôi ở trong một chiếc ghe, đậu bên gành núi. Đương đêm, vừa
mưa vừa gió, trời tối đen như mực, ông tôi thức dậy, đốt đèn ngồi một mình rồi
không biết vì nghĩ thế nào mà ông tôi khóc oà lên, trong lúc khóc, ông tôi kể lể
nhiều lắm: Chốc lại kêu Hoàng Thượng, chốc lại kêu Phu Tử (...) Về sau, tôi mới
đoán ra rằng lúc đó ông tôi kêu Hoàng Thượng là chỉ đức Hàm Nghi, còn Phu Tử là
đức Khổng Tử"825. Và sau cùng Phan Trân đã phải từ chức. Sau này,
trong khoảng từ 1911 đến 1917 -sau khi đi tù
về- Phan Khôi cũng muốn bỏ nhà đi theo chí hướng của mình,
nhưng cũng lại bị cha cản trở, và ông cũng phải vâng lời. Vì vậy, Phan viết: "Làm
con khác với làm người. Nhiều khi làm con không phải làm người! Thành thử trước
mặt những người cha có học thức, chẳng cứ cái học thức ấy thế nào, thường thường
cái tư cách làm người của những người con phải bị chôn đi. Thương hại cho thầy
tôi, suốt đời ở vào cái hoàn cảnh đó!"827.
Nếu Phan Trân phải chiều lòng cha, thì Phan Khôi cuối cùng,
tìm cách thoát được, ông đã sống một cách tự do bằng ngòi bút, trong đời làm
báo. Phải chăng vì bi kịch cha con trong gia đình Khổng Mạnh, mà sau này, Phan
Khôi quyết liệt chống Tống Nho và ông để các con Phan Thao, Phan Cừ "tự
do" theo Cộng Sản, đi con đường trái ngược với tư tưởng của mình? Sự bất đồng
tư tưởng trong gia đình họ Phan kéo dài thêm một thế hệ nữa: ông, cha, con,
cháu.
♦
Tinh thần bất khuất từ nhỏ
Thuở nhỏ Phan học chữ nho và chịu ảnh hưởng ông nội nhiều hơn
cha. Năm lên bảy, mẹ qua đời. Khi cha phải đi nhậm chức tri phủ Diên Khánh, gửi
Phan về bên ngoại cho người cậu làm tri phủ, là con cả tổng đốc Hoàng Diệu
trông nom. Ông phủ mướn thày dạy học con trai và Phan Khôi, nhưng ít lâu sau,
Phan xin cha cho đi học nơi khác. Tại sao? Phan không nói rõ. Nhưng sau này qua
lời Ông Năm Chuột, Phan gián tiếp cho biết: Ông ngoại hết sức thanh liêm,
làm tổng đốc mà không có tiền lợp lại mái nhà đã tróc ngói. Người cậu làm tri
phủ ba năm đã mua được mươi mẫu ruộng. Ông ngoại đánh Pháp, tuẫn tiết mà chết.
Người cậu theo Pháp đàn áp nghiã quân. Điều này chứng tỏ: từ lúc 8 tuổi, Phan
đã nhìn rõ hành động của người cậu tri phủ, và đó chính là lý do khiến Phan xin
cha cho học chỗ khác.
Phan Trân gửi con cho Trần Quý Cáp. Phan Khôi học Trần Quý
Cáp 10 năm, từ 9 tuổi đến 19 tuổi. Phan Khôi viết: "Tôi từ nhỏ có tư
bẩm thông minh lạ. Lên 13 tuổi đã "cụ thể tam trương": Nghiã là
về lối văn khoa cử, kinh nghiã ở trường nhất, thi phú trường nhì, văn sách
trường ba tôi đều làm được cả trong tuổi ấy. Ông nội tôi và ông thân tôi đều để
hy vọng vào tôi nhiều lắm. Ông nội tôi sống đến năm tôi 16 tuổi, đi thi khoa đầu,
hỏng trường nhất, rồi người mới mất"828.
- 16 tuổi, Phan Khôi đi thi lần đầu, khoa 1903, hỏng trường
nhất.
- 19 tuổi, 1906, thi lần thứ nhì, chỉ đậu tú tài. Phan Khôi tức
giận lắm
Bởi từ khoa Giáp Ngọ, 1894, trở đi, các học quan bắt đầu ăn
đút lót, chấm gian, và đến khoa Bính Ngọ, 1906, thì bị kiện. Phan Khôi viết: "Tôi
là một kẻ đứng đơn với bọn Dương Thưởng kiện sự "thủ sĩ bất
công" hồi khoa Ngọ, tôi đã làm cho mấy ông quan trường bị giáng bị cách
thì tôi còn sợ gì mà chối?" Vì vụ kiện này mà những kỳ thi sau, chính
phủ bảo hộ phái người đến kiểm soát. Đó cũng là một trong những lý do tại sao
Phan Khôi bỏ lối học khoa cử. Ngoài ra Phan còn cho biết: Nguyễn Bá Trác
(1881-1945) đi thi năm Bính Ngọ 1906 không phải để đỗ, mà để làm bài thuê,
kiếm tiền cho phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Chính Nguyễn Bá Trác
đã rủ Phan Khôi bỏ học. Phan học tiếng Pháp với Phan Thành Tài tại trường Diên
Phong là trường đầu tiên của phong trào Duy Tân ở Quảng Nam. Sau Phan Thành Tài
tham gia cuộc chính biến vua Duy Tân, 1916, bị xử tử.
Năm 1906, đánh dấu ngõ quặt quan trọng trong cuộc cách mạng
duy tân và cuộc đời Phan Khôi: bỏ nho học, theo Phan Châu Trinh cắt tóc ngắn, cổ
động cắt tóc và làm bài Vè cúp tóc.
♦
1906-1908: Phong trào cắt tóc
Lập Hội buôn - Trung Kỳ dân biến
Việc cắt tóc và mặc âu phục do Phan Châu Trinh phát động cuối
năm 1906, và kéo dài suốt năm 1907, là một hành động duy tân và phản
kháng: chống cổ hủ829.
Hơn một năm sau, khi vụ biểu tình chống thuế Trung Kỳ
dân biến xẩy ra, chính quyền bèn kết hợp việc cúp tóc với việc biểu tình
chống thuế, thành hành động nổi loạn, chống lại nhà cầm quyền.
Tuy Phan Khôi theo và cổ động phong trào hớt tóc ngắn, làm
bài Vè cúp tóc nổi tiếng, nhưng không tham dự vào cuộc nổi dậy chống
thuế ở Quảng Nam 1908, vì lúc đó ông đã lên đường ra Hà Nội. Sau này trong
hai bài viết trên Sông Hương: Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong
cuộc biến ở Huế năm 1916830 và Mấy cuộc vận động quần chúng ở nước ta831,
Phan Khôi nhắc lại sự thành công của đấu tranh bất bạo động trong đám tang Phan
Châu Trinh năm 1926, trong Nam, và phê bình gay gắt sự thất bại của những cuộc
bạo động ở miền Trung: Khởi nghiã Văn Thân 1883 ở Huế; Trung Kỳ dân biến 1908 ở
Quảng Nam và Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931.
Phong trào Duy Tân phát triển mạnh từ cuối năm 1906, sau khi
Phan Châu Trinh ở Nhật về, phát động phong trào Cắt tóc ngắn, kết hợp
với Tiểu La Nguyễn Hàm -chủ trì khuynh hướng Phan Bội Châu- với nhóm Ngô Đức Kế,
Đặng Nguyên Cẩn ở Nghệ An, Hà Tĩnh chủ trương việc lập Hội buôn và với
Nguyễn Văn Vĩnh trong Đông Dương tạp chí, lập thành một lực lượng phản
kháng đáng ngại. Công sứ Quảng Nam, Charles832 viết:
"Hội buôn Quảng Nam mà các thành viên thường tự xưng
là "những người cắt tóc" theo cách họ nhận biết nhau. Hội này tập hợp
tất cả những phần tử đối lập với ảnh hưởng của Pháp, những viên quan trong đảng
"Cần Vương" An Nam cũ, các nhà yêu nước khuynh hướng quốc gia kiểu
Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Lúc này Hội ấy hoạt động ráo riết. Các thành
viên đi khắp các làng, đề nghị dân chúng cắt tóc, mặc âu phục (!) và khuyên họ
tự giải quyết mọi mâu thuẫn, không cần đến cửa quan hoặc các toà công sứ. Họ hoạt
động cho sự tiến triển về tư tưởng mà tác giả của bài xã luận quan trọng đã
đăng trong số ngày 15/10 của tạp chí bán công Đông Dương tạp chí (...) Hoạt động
của Hội này thực hiện nhiều nhất ở hai phủ Thăng Bình và Tam Kỳ và đặc biệt ở
vùng giáp giới giữa hai phủ này (...) Phan Châu Trinh đã đi ra Bắc Kỳ từ đầu
tháng833, theo người ta nói có đem theo các khoản đóng góp của hội viên (...)
Hội kín ở Quảng Nam tiếp tục công cuộc tuyên truyền chống
Pháp và tư tưởng quốc gia. Trong hai phủ Thăng Bình và Tam Kỳ họ nắm các
trường học và điều hành việc dạy học. Họ trao cho học sinh những tài liệu
kích thích tinh thần yêu nước, hận thù quân xâm lược, xem thường cái chết. Mỗi
người phải sẳn sàng hy sinh cho tổ quốc. Thật là những bài học tuyệt vời về chí
khí, chỉ tiếc là chúng ta một ngày kia phải trả giá cho sự giáo dục ấy mà
thôi"834.
Viên công sứ Charles đã nhận định đúng vai trò của giáo dục.
Mà Trần Quý Cáp lúc đó là giáo thọ835 phủ Tăng Bình giữ trách nhiệm hàng đầu.
Điều này giải thích việc khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đổi Trần Quý Cáp vào Ninh
Hoà, để phân tán lực lượng Duy Tân và giết Trần Quý Cáp. Bị đổi vào Ninh Hoà,
Trần Quý Cáp vẫn tiếp tục công việc, Charles viết: "Trần Quý Cáp đã thận
trọng bổ dụng một số người hoàn toàn tin cẩn của y. Những người tích cực
nhất trong việc xây dựng các trường học sẽ được thưởng bằng một chức quan: như
thế là đủ để cho giáo thọ có trách nhiệm trông nom các trường này có trong tay
một công cụ tuyên truyền ghê gớm. May thay ngôi trường của chính giáo thọ đã bị
cháy, không còn nơi dạy nữa. Trần Quý Cáp đang ở nhà tri huyện Hồ Sĩ Tạo cũng
là tiến sĩ như y, nhưng Hồ Sĩ Tạo có mẹ qua đời đã xin nghỉ về quê836cư tang.
Trần Quý Cáp lợi dụng cơ hội đó chiếm hẳn nhà Hồ Sĩ Tạo và tại ngôi nhà này y
tiến hành tuyên truyền mạnh mẽ"837.
Việc Phan Khôi ra Hà Nội năm 1908, được Phan Trân cho phép, nằm
trong chương trình hành động của nhóm Duy Tân Quảng Nam, gửi 11 học trò: Lê
Dư, Mai Dị, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi, Đặng Huyên, Lê Vỹ, Mai Luyện, Nguyễn Nhự,
Võ Kiền, Lê Lượng và Lê Cơ, ra Bắc học tiếng Pháp ở trường Đông Kinh Nghiã
Thục và có thể tìm đường sang Nhật du học. Phan Châu Trinh đã ra Bắc từ tháng
7/1907, mang theo tiền đóng góp thu được ở Quảng Nam. Trần Quý Cáp, tháng
2/1908, khi bị đổi đi Ninh Hoà đã cảm thấy nguy cơ sắp đến và cũng chuẩn bị ra
Bắc. Ngày 16/2/1908, Phan Khôi đi Hà Nội. Hai thầy trò đã gặp nhau bàn bạc trước
khi lên đường.
Trong bản hỏi cung, Trần Quý Cáp khai: "Sau lúc ông
ta (Phan Châu Trinh) đi, tôi có đến Tourane (Đà Nẵng) để xuống tầu Thủy. Lúc đó
tôi đã gặp một học trò cũ tên là Phan Khôi đỗ tú tài, đang ở đó định sẽ đi tầu
thủy ra Hà Nội và ở lại đó để học tiếng Pháp. Tôi đã nói vói anh ta là tôi nhiều
lần nghe nói các năm trước tại Hà Nội, Nhà Nước bảo hộ có mở những văn phòng để
sửa sách gọi là tu thư, và lại có văn phòng của "Đại Việt tân
báo"838, tôi nhờ anh ta hỏi giúp tôi xem các văn phòng trên có nơi nào nhận
tôi thì tôi sẽ xin từ chức giáo thọ để xin làm việc ở đó nhằm có thể đủ tiền ăn
tiêu hơn và có điều kiện mở rộng kiến văn"839.
Trong bản hỏi cung số 24, phiên xử ngày 12/7/1908, Phan Khôi
khai: "Ngày 15 tháng 1 năm nay (16/2/1908), khi tôi xuống Đà Nẵng
để ra Hà Nội học, tôi đã gặp thày giáo cũ của tôi là ông Trần Quý Cáp (giáo thọ)
đang đi đến nhận nhiệm sở mới. Ông nhờ tôi nếu tôi gặp ông Phan Châu Trinh thì
nói với ông ấy xem có thể tìm giúp cho ông một chỗ làm trong thư viện hay trong
một toà báo và viết thư báo cho ông ấy biết. Đến Hà Nội, tôi có gặp Phan Châu
Trinh và tôi nhắc lại điều ông Trần Quý Cáp đã dặn. Sau đó, tôi nhờ ông nếu có
viết thư cho ông Trần Quý Cáp thì xin ông ghi ở cuối thư rằng tôi đã tới Hà Nội
an toàn. Sau đó, tôi đi Nam Định để học tiếng Pháp. Tôi không hề viết thư cho
thày giáo cũ của tôi, ông Trần Quý Cáp. Đoạn thư có liên quan tới tôi mà người
ta thấy trong bức thư đó chắc hẳn là do ông Phan Châu Trinh viết. Vả chăng, từ
khi tôi từ biệt ông để đi Nam Định, tôi không còn gặp ông nữa. Do đó, tôi không
biết chính xác là ông có viết thư cho ông Trần Quý Cáp hay không"840.
Khi Phan Khôi và các bạn ra đến Hà Nội thì Đông Kinh Nghiã Thục
đã bị rút giấy phép.
Xin nhắc lại: Đông Kinh Nghiã Thục khai giảng tháng 3/1907.
Tháng 5/1907 mới chính thức được phép. Tháng 1/1908, giấy phép bị thu hồi. Ban
giám đốc phải thủ tiêu hết sách vở chứng từ. Pháp bắt những người cầm đầu; bổ một
số người ôn hoà vào ty giáo huấn, chức huấn đạo841 hoặc đi tri huyện, có
người không nhận842.
Việc đổi Trần Quý Cáp vào Khánh Hoà nằm trong chủ trương khủng
bố của nhà cầm quyền cùng với việc đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục và Đăng Cổ
Tùng Báo để phân tán lực lượng của tất cả những phong trào cách mạng và trừng
trị những người chủ xướng.
Tháng 3/1908843 mới bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến:
Cuộc biểu tình chống thuế bắt đầu ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam rồi lan rộng
khắp miền Trung, hình thức bạo động, ảnh hưởng Phan Bội Châu nhiều hơn Phan
Châu Trinh.
Huỳnh Thúc Kháng bị bắt ở Quảng Nam. Phan Châu Trinh bị bắt
ngày 2/3/1908 tại Hà Nội. Ngô Đức Kế bị bắt từ 1907, đến 1908 bị đày Côn Đảo
cùng với những người khác.
Trần Quý Cáp bị bắt ngày 16 hay 17/4/1908844 tại Khánh
Hoà, bị xử tử ngày 15/6/1908 tức là ngày 17/5/Mậu Thân845. Khâm sứ
Trung Kỳ Lévecque không đưa Trần Quý Cáp về Kinh để xử, theo thông lệ đối với
các Tiến sĩ, tại sao? Phải chăng vì sợ Phủ Phụ Chính, đặc biệt các quan Lê
Trinh và Cao Xuân Dục sẽ chống lại bản án tử hình như trường hợp Phan Châu
Trinh, cho nên Lévecque đã cho lệnh giết Trần Quý Cáp tại chỗ?846
♦ Số
phận Phan Khôi và những học trò đi trốn hoặc bị bắt
Các thanh niên Quảng Nam được gửi ra Hà Nội học Đông Kinh
Nghiã Thục tới nơi thì trường đã bị đóng cửa, bèn chạy về Nam Định, học tiếng
Pháp với Nguyễn Bá Học. Phan Khôi bị bắt giải về Quảng Nam. Nguyễn Bá Trác trốn
ở trong Nam một năm rồi chạy qua Thái Lan, Nhật và Tàu. Sở Cuồng Lê Dư có lẽ đã
đi Nhật từ trước, sau sang Tàu...
1/ Bản án số 9, ngày 3/8 năm Duy Tân thứ hai, tức là ngày
29/8/1908, có đoạn như sau: "Trương Huy, Lê Dư càn quấy diễn thuyết mỗi
nơi chỉ trích, phỉ báng quan lại; Mai Dị, Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi không xin
phép, tự tiện đi Bắc Kỳ, dịch phục cải trang (mặc âu phục) (...) Xét
tình đó, thì tự Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng xướng xuất, mà bọn này
là phụ họa đấy thôi. (...) Lê Dư, Mai Dị, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi, Đặng
Huyên, Lê Vỹ, Mai Luyện, Nguyễn Nhự, Võ Kiền, Lê Lượng và Lê Cơ, xin đều xử trượng
100, đồ 3 năm. Tựu trung Nguyễn Bá Trác tại đào, xin nên gia đẳng xử trượng
100, đày 2000 dặm, chờ bắt được, chiếu án thi hành"847.
2/ Phan Châu Trinh viết: "Ông cử nhân Nguyễn Bá
Trác và Phan Khôi, Nguyễn Mai, cùng bạn học hơn 10 người ra Hà Nội học tập
Pháp văn; sau vụ dân biến, đều đánh điện sức về hết. Bạn đồng học năm, sáu người
tuân lệnh về làng; tức thì bị bắt làm án. Ông cử nhân ấy sợ trốn ra ngoại quốc,
nghe nói cha ông ta bị bắt giam, bức bách đủ cách, nhà ông trước cũng khá giàu,
nay thì đã nghèo xơ xác, mà cái lệnh bắt bớ đến nay (1911) cũng chưa
đình, như vậy thì không khác gì đẩy người ta ra ngoại quốc vậy. Bà
con của thân sĩ Quảng Nam và những người vô tội bị bắt giam đánh khảo, nhiều
không kể siết, án tù khổ sai từ 2 tháng đến 3 năm ước hơn trăm"848.
3/ Về việc chạy trốn, Nguyễn Bá Trác viết:
"Ngày tháng giêng năm 1908, tôi cùng mấy người bạn ra
chơi Bắc Kỳ, định ở lại Nam Định mà học. Đến tháng 3 nhân việc ngăn trở849 phải
đáp tàu về Đà Nẵng (Tourane). Khi về đến nơi không tiện lên bờ, bèn chạy thẳng
vào Quy Nhơn. Đến đấy đổ bộ đi xuyên sơn vào Phú Yên, lẩn lút trong chừng 8, 9
tháng. Ngày 24 tháng chạp năm ấy, mới đáp mành vào Nam Kỳ. Từ cửa bể Xuân Đài
mà ra khơi. Đến ngày 7 tháng giêng năm 1909, tới Mỹ Tho, lần vào Bến Tre, đến
làng Tân Hướng tìm chỗ ngồi bảo trẻ. Ngày tháng tư năm ấy, nhân theo bạn lên
Sài Gòn mua sách vở. Đêm nằm nhà trọ nghe người một bên nói chuyện đi Xiêm,
nghe lỏm được kỳ tầu và cách đi, bèn xuống tầu mà châm chước với một người thủy
thủ. Được người ấy chịu lời rồi đêm mồng ba tháng tư xuống tầu mà làm khách xuất
dương từ đấy"850.
Hạn mạn du ký là một áng văn hay, một tư liệu quý về số
phận những thanh niên theo Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, như Lê Dư, Nguyễn Bá
Trác, trong vụ khủng bố 1908 phải chạy trốn: sang Nhật. Nhật đuổi. Sang Tàu. Cuối
cùng, nhớ nước, phải quay về đầu thú.
4/ Kết toán các sự kiện về Phan Khôi: Phan Khôi ra Hà Nội giữa
tháng 2, tháng 3 bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến, Phan Khôi cùng các bạn theo thầy
Nguyễn Bá Học về Nam Định. Học được ba tháng thì bị bắt, khoảng tháng 6/1908 ở
Nam Định. Theo bản án triều Duy Tân ngày 29/8/1908, Phan Khôi bị đánh 100 gậy
và bị tù 3 năm, vì tội "tự tiện đi Bắc Kỳ không xin phép, và mặc
đồ Tây". Sau khi ra tù Phan Khôi còn bị quản thúc khá lâu: "Ra
tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng
làng. Điều ấy, tự tôi lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn
lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì
chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát cái lốt tù"851.
Về sự kiện này, Nguyễn Công Hoan đã xuyên tạc Phan Khôi bằng
những dòng như sau: "Trong những người bị bắt, người thì bị tử hình,
người thì bị chung thân khổ sai, hoặc hai mươi năm, mười năm, không rõ Phan
Khôi đã khai báo như thế nào, hắn chỉ bị giam một thời gian ngắn"852.
Ở tù ra, Phan Khôi vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng một
thời gian nữa. Nhưng lần này Phan Trân đổi ý, khuyên răn con, thậm chí van lơn
con đừng làm cách mạng nữa, vì nhà con một. Đó cũng là một trong những lý do
khiến Phan Khôi không tham gia khởi nghiã Duy Tân, 1916, nên không bị bắt.
♦ Nguời
thầy đầu tiên Trần Quý Cáp
Phan Khôi học Trần Quý Cáp 10 năm, từ 1896 đến 1906. Trần
Quý Cáp (1870-1908), tiến sĩ khoa Giáp Thìn, 1904, Huỳnh Thúc Kháng đậu hoàng
giáp cùng khoa, và Phan Châu Trinh đậu phó bảng, 1901, là ba nhà lãnh đạo Duy
Tân. Trong ba người, Trần Quý Cáp hay chữ và nguy hiểm hơn cả, bởi ông trực tiếp
dậy học, hướng dẫn tư tưởng thanh thiếu niên. Học trò Trần Quý Cáp có đến nhiều
ngàn người. Phan Khôi, sau khi mẹ mất, được cha gửi đi trọ học trường Trần Quý
Cáp, thôn Thái La, làng Bất Nhị, trong 10 năm, từ 9 đến 19 tuổi. Phan tả lại cảnh trường như
sau: "Ở trong một xóm cuối làng, dân cư lơ thơ, nhà ở xen với những
đám ruộng thổ, một nếp nhà tranh đôi khi ở trong rừng mía rậm, ấy là nhà của thầy
tôi và cũng là trường học đó. (...) Thầy tôi là trang quân tử thanh bần, thiên
hạ đều biết, quân trộm cướp cũng đã thấy mà chê rồi, nên dù ở đó cũng chẳng ngại
chi. Còn một lẽ nữa là cái cảnh tĩnh mịch đìu hiu lại rất lợi cho sự học. Cái
nhà ba gian hai chái, sườn bằng gỗ, rộng lòng căn. Trong nhà trừ ba gian bàn thờ
và một cái buồng ở góc, còn thì liệt ván cả. Một bộ ván cao ở giữa là chỗ thầy
ngồi; còn bao nhiêu ván thấp, cho học trò"853.
Khoảng 1889-1896, học trò đông nhất, hàng ngày đến "nghe
sách" có đến trăm rưởi, hai trăm. Người không đến nghe, chỉ nộp bài,
cũng tám chục, một trăm. Mỗi kỳ khảo hạch, thầy phải chấm ba trăm quyển. Học
trò đến từ các nơi, có khi cả Phú Yên, Bình Định nghe tiếng trường lớn cũng ra
học. Phan Khôi viết:
"Thầy bước lên thì ngồi đó854 quay mặt ra phía ghế
xuân ý 855 coi rất nghiêm,
vì bao giờ cũng khăn đen áo rộng.
Sách giảng hàng ngày là kinh, truyện, sử, mà cứ chẵn
ngày lẻ đổi khác nhau.
Như ngày chẵn: Kinh thi, truyện Luận ngữ, sử Hán, thì
ngày lẻ: Kinh dịch,
truyện Mạnh tử, sử Đường. Rồi theo đó cứ luân lưu mà giảng
tiếp.
Thầy ngồi yên rồi, dưới nầy một trò nào chẳng hạn,
chiếu theo ngay mà mở ba cuốn sách, nhằm chỗ tiếp với hôm trước,
theo thứ tự đè chồng lên nhau và đem đặt lên ghế xuân ý,
trước mặt thầy.
Đọc đi! Thầy truyền. (...) Rồi một người tốt giọng bắt đầu
đọc.
Đọc chậm rãi mà ngân ngợi. Được vài ba tờ, tới chỗ thầy
bảo dứt thì dứt.
Đến phiên thầy cắt nghiã."
Về "lương bổng" của thầy: "Thầy đối với
chúng tôi như chẳng thèm kể đến công dậy dỗ. Mỗi một năm hai lễ tết,
đoan dương856 và chánh đán857 trò nào đi bao nhiêu thì đi, thầy
chẳng hề nói ít nhiều (...) Vì vậy nên một trường lớn như trường thầy tôi mà mỗi
lễ tết, thầy thâu vào không đầy trăm bạc"858.
Năm 1906, Trần Quý Cáp được bổ chức giáo thọ phủ Thăng Bình.
Ban đầu ông không nhận, nhưng vì cảnh mẹ già, nghèo túng, và các bạn khuyên,
ông nhận. Việc làm của ông tại phủ Thăng Bình đã đưa đến kết luận của Charles
trong bản báo cáo đã trích dẫn ở trên. Huỳnh Thúc Kháng viết: "Khi tới trường,
tiên sinh mời thầy chữ Tây về dậy chữ quốc ngữ và chữ Tây, làm cho phong khí tỉnh
nhà được mở mới, như Diên Phong, Phú Lâm, Phước Bình. (...). Vì thế Tiên sinh
thành ra tấm bia cho phái cựu học nhắm vào"859. Rồi Trần Quý Cáp viết
bài Sĩ phu tự trị luận công kích đám "trung đẳng sĩ
phu".
Tháng 3/1908, bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến. "Tiên
sinh tuy đã vào miền Nam, nhưng vì cớ lãnh tụ phái tân học, lại đề xướng dân
quyền tự do, cũng như cụ Tây Hồ vậy, làm cho nhà đương đạo Khánh Hoà chú mục,
kiểm soát thư từ ra vào thấy có đôi câu cho là chủ động, kết án "Mạc tu hữu"860.
Tiên sinh lên đoạn đầu đài, thật là thê thảm! Trong lịch sử huyết lệ, Tiên sinh
là người thứ nhất!"
Huỳnh Thúc Kháng ghi rõ ngày 17/5 Mậu Thân, tức ngày
15/6/1908, Trần Quý Cáp bị xử tử tại Nha Trang.
Trần Quý Cáp là người hay chữ nhất trong ba vị lãnh tụ Duy
Tân. Về văn bản, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: "Về thi văn của Tiên
sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài lượm lặt
chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác".
Phan Bội Châu viết: "Nhớ khi ông ra tới trường
chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án
đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khảng khái tựu
hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách."861
Trần Quý Cáp bị xử chém. Cái chết thảm khốc của người thầy đã
in dấu sâu đậm trong đời Phan Khôi và ảnh hưởng sâu xa đến đường lối văn hoá và
sự tranh đấu bất bạo động của Phan Khôi sau này.
Chương 21 (tt)
♦ ba
năm ở ẩn cà mau 1922-1925
●
Con đường văn hoá
♦ Ảnh
hưởng Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh
Người đầu tiên Phan Khôi chịu ảnh hưởng trong nghề báo là
Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi lối viết vừa đàm vừa luận của Nguyễn
Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Bá (1908) sau này thấy sống lại trong lối hài
đàm của Phan Khôi.
Nhưng Nam Phong là nơi khởi sinh nghiệp bút, với mục bình thơ Nam
Âm thi thoại. Bài đầu ít nhiều chịu ảnh hưởng bài Thơ Ta thơ Tây (có
lẽ là bài lý thuyết thơ sớm nhất của Việt Nam) của Phạm Quỳnh viết
năm 1917. Nam Âm thi thoại bình thơ theo lối Tầu, nhưng đã có những
nhận thức mới về ngữ học, đặc cách Phan Khôi: trực bút, cô đọng, dùng chữ độc
sáng, bất ngờ. Khi Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết thay, mục này không còn thú vị
nữa.
Từ 1917, Phạm Quỳnh đã viết phê bình văn học, nhưng cách phê
bình của ông -tóm lược tác phẩm, nói qua cái hay và cái dở- nay đã lỗi thời;
ngược lại, tiểu luận, triết học, ngữ học, biên khảo và dịch thuật của Phạm Quỳnh
có giá trị bất biến. Phan Khôi viết phê bình văn học sau Phạm Quỳnh. Bài Cái
cười của con rồng cháu tiên trên PNTV số 84 ra ngày 28/5/1931, là một sáng
tạo độc đáo: Đọc Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh, ông chú ý đến
ý nghiã trong cái cười của người Việt: tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên,
nhưng vô ý thức, gì cũng cười, cười cả sự tật nguyền của người khác, "cái
cười vô nghiã lý, vô ý thức, cái cười vừa ngu dại, vừa độc ác" ấy "đã
thấm vào máu dân tộc nầy". Đây là bài phê bình văn học theo lối xã hội
học sớm nhất của văn chương Việt Nam. Bài này đã làm Tản Đà nổi giận, viết loạt
bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ862, buộc tội Phan phỉ báng dân
tộc và đòi "giết" Phan Khôi trên văn đàn.
Dù Phan Khôi chỉ cộng tác với Nam Phong trong hơn một năm, có
bài in trên báo từ tháng 2/1918 đến tháng 5/1919, nhưng chịu ảnh hưởng Phạm Quỳnh
khá rõ. Phan tiếc đã bỏ Nam Phong - có lẽ ngoài những lý do khác, còn có vấn đề
hai cá tính độc đáo không thể ngồi chung, Phạm Quỳnh nhỏ hơn Phan Khôi năm tuổi,
mà làm xếp, không dễ. Sau này, dù hai người có tranh luận, nhưng vẫn tương kính
nhau. Thời kỳ Nam Phong, Phan Khôi đã học được tinh thần phê bình, óc lý luận của
Phạm Quỳnh.
♦ Một
đời tự học
Phan Khôi học chữ Hán với ông nội, cha và 10 năm với Trần Quý
Cáp, rồi tự học quốc ngữ và tiếng Pháp từ 1906; dịch Kinh Thánh trong 5 năm
1920-1925: những "trường rèn luyện" ấy đã tạo nên nhà báo
và học giả uyên thâm hai nền văn hoá Đông Tây. Phan Thị Nga, dưới dạng phỏng vấn
Phan Khôi và viết lại, ghi trên Hà Nội Báo về việc ông học tiếng Pháp như sau:
- "Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn Bá Học, gặp
thầy hay, ông thấy sức học mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông lại
bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông (ông Phan Thành Tài người Quảng Nam
(Bảo An tây) trước làm phán toà sau về dạy học can vào việc vua Duy Tân, bị xử
tử). Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture courante,
Manuel v.v... Đọc sách chỗ nào không hiểu ông lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy, ông
nghe nói có thày Ưng Điển dạy giỏi, ông viết thư nhờ thày Điển ra bài cho. Làm
đâu được vài bài vừa bị ông án Trần Văn Thống khám xét thâu hết sách Tây ta,
bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: "Các anh còn học làm gì nữa vì có
ai cho các anh thi nữa mà học!"
Mãn tù ông ra Huế xin học trường dòng (...) ông vô học đứng
chót đội sổ trong hai tháng, qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở nên đứng đầu.
Gặp đại tang, ông thôi học, về quê mở lớp dạy chữ Nho và quốc ngữ. Hai năm sau
có nghị định bỏ thi, ông thôi dạy, bảo học trò: "Dạy các anh cho giỏi chữ
Nho tôi vẫn dạy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được hãy học
chữ Tây đi".
Thôi dạy, ông lại cắp sách đến trường học thầy Lê Hiển, ông
cùng học với học trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn Bá Trác giới thiệu
ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một
năm, ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây
ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được.
Thôi làm thơ ký, ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh
Tân Văn. Làm được ít lâu, ông viết một bài kịch liệt quá, người ta buộc
ông thôi, ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh
chữ Nho ra quốc ngữ. (...). Ông sóng Kinh thánh Tây với Kinh thánh Tàu rồi
dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi, vào Nam kiếm việc"863.
Từ 1911 đến 1917, Phan Khôi tìm cách thoát ly khỏi cảnh bị quản
thúc ở làng: "Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội
nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tôi tự lấy làm uất ức đã đành, mà
tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của
tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu
mau thoát khỏi cái lốt tù. Vậy mà năm 1918 ra Hà Nội làm Nam Phong tạp chí nửa
chừng lại bỏ mà về"864.
Trong thời gian này, Phan Khôi vẫn liên lạc với những hoạt động
yêu nước. Phan Thành Tài, thầy dậy Pháp văn của ông tham dự vào cuộc khởi nghiã
Duy Tân năm 1916, bị tử hình. Phan Khôi cũng được Thái Phiên rủ vào, nhưng ông
từ chối. Vì cái chết của Trần Quý Cáp, nên Phan Khôi lựa chọn con đường văn
hoá? Vì ông không tin ở khả năng những người cầm đầu? Hay vì sự cấm đoán nghiêm
ngặt của cha? Nguyễn Công Hoan sẽ vin vào cớ Phan Khôi từ chối Thái Phiên để
xuyên tạc ông làm chỉ điểm cho Tây từ năm 1916.
Năm 1918, được Nguyễn Bá Trác mời vào Nam Phong. Đó là cơ hội
tốt để vào nghề cầm bút. Nhưng chỉ được một năm, Phan Khôi bỏ Nam Phong vào Nam
và tại Sài Gòn, ông lại gặp khó khăn với tờ Lục Tỉnh Tân Văn:
"Năm 1919 vào Sàigòn, trước làm cho Quốc Dân Diễn Đàn,
sau làm cho Lục Tỉnh Tân Văn, không bao lâu bị giải chức. Những lúc ấy, về ở
nhà, tôi đôi khi cũng nghĩ đến sự mình mà ân hận: Té ta tôi chẳng những là thằng
người không biết chiều đời mà còn là thằng con không biết chiều cha.
Ở Sàigòn về nhà đầu mùa thu năm 1919, nằm khoèo cho đến mùa
xuân năm sau, tôi thấy chán sự đeo đuổi theo đời, nhưng còn thấy chán hơn nữa
là cái cảnh phẳng lỳ với vợ với con. Ấy thế mà mỗi khi bẩm mạng cùng thầy tôi
xin lại đi nữa, thì người một hai ngăn trở không cho, lấy cớ rằng vận hạn của
tôi còn xấu lắm, dẫu có đi cũng chưa làm gì được. Tôi biết làm sao có được tự
do như (...) đây. Xin phép mà không được là phải chịu. Suốt một mùa đông tôi
ngày nào cũng phải nốc rượu và thường thường ban đêm trốn đi đánh cờ đánh kiệu ở
nhà hàng xóm"865.
Những dòng tâm sự trên đây nói rõ nỗi khổ tâm của ông, trên
đường lập thân. Tháng 3/1920, một cơ hội nữa giúp Phan Khôi thoát ly gia đình lần
thứ nhì: Người em họ là Phan Hạnh chết tại Thanh Hoá, Phan được người chú ủy
thác ra Thanh lo mọi việc. Phan đưa hành lý của người đã khuất ra Hà Nội, định
xuống Hải Phòng lấy tàu về Trung. Nhưng tại Hải Phòng, tình cờ kiếm được việc
làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi, lương tháng 50 đồng. Được 8 tháng, 1/5/1920-
31/12/1920, Phan Khôi xin nghỉ vì điều kiện làm việc quá vất vả. Trong bài Bạch
Thái Công Ty thơ ký viên, ông có những lời chỉ trích sự bóc lột và khôn khéo của
Bạch Thái Bưởi, nhưng vẫn ngụ ý khâm phục. Sau này trong một bài viết khác, ông
xác định Bạch Thái Bưởi và Nguyễn Văn Vĩnh là hai nhân vật kỳ tài.
♦
1921- 1925, dịch Kinh Thánh
Sở dĩ Phan Khôi xin nghỉ việc, vì ông đã tìm được việc mới ở
Hà Nội: dịch sách cho Hội Tin Lành của Mỹ, việc này vừa cao lương hơn vừa phù hợp
với chí hướng của ông: trau dồi tiếng Pháp và tìm hiểu tư tưởng Tây Phương -
Sau NVGP, người ta sẽ vin vào cớ này để buộc tội Phan Khôi làm việc cho Mỹ.
Phan Khôi nghỉ việc với Bạch Thái Bưởi ngày 31/12/1920, và có viết thư bảo đảm
báo trước một tháng. Như vậy có thể xác định: Phan Khôi đã nhận dịch Kinh Thánh
vào khoảng tháng 11/1920.
Phan Khôi viết: "Tôi đã từng dịch kinh điển đạo Cơ
Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới
quyền hai ông bà mục sư W. Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong
việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp
câu nào nghĩa hơi khó một chút thì bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu
-vì bà biết đến 13 thứ tiếng- để chọn lấy nghiã nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch
chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới
thành"866.
Bà Phan Thị Nga ghi lại việc ông dịch kinh Thánh như sau: "Ông
chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra chữ quốc ngữ, cứ theo nguyên văn bên chữ
Hán mà dịch thì người mình xem Kinh không thể hiểu được, vì lối chấm câu chữ
Hán không minh, ông sánh Kinh Thánh Tây với Kinh Thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất
rành mạch."867
Trong bài "Giới thiệu và phê bình Thánh Kinh
Báo", có một câu Phan Khôi xác định thời gian dịch Kinh Thánh: "Sau
hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho
tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết
ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút
nào"868.
Phước Nguyên, trong bài viết Quá trình phiên dịch Kinh
Thánh sang tiếng Việt869, cho biết: Hội Công Giáo bắt đầu từ dịch Kinh
Thánh từ 1872 và Hội Tin Lành dịch từ 1916. Ông tìm lại lịch sử những bản dịch
xuất hiện từ 1892 đến 1919, và trong giai đoạn này, Kinh Thánh chỉ mới được dịch
từng phần. Với sự đóng góp của Phan Khôi, bộ Kinh Thánh mới hoàn tất và được Hội
Tin Lành in năm 1926. Phước Nguyên viết: "1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc
xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện
xong vào năm 1925, và xuất bản năm 1926 tại Thượng Hải.
Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà
giáo sĩ William C. Cadman, giáo sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một
số thành viên khác trong đó có cụ: Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Đẳng
Đông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là
cụ Phan Khôi.
Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản
nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Đức, Đại Hàn và Việt Nam. Đây
là bản Kinh Thánh được ấn hành và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù
chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản
Kinh Thánh từ 5000 đến 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát
hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành
nhiều nhất từ trước đến nay".
Sau đó Phước Nguyên liệt kê việc dịch, hiệu đính và in kinh
thánh từ 1925 đến ngày nay ra chữ quốc ngữ và chữ nôm, và ông cho biết:
"Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đã
được tái bản tại Đà Nẵng (Việt Nam). Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh
Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ
trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Đây là bản Kinh Thánh đầu tiên được
phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam"870.
Bây giờ, thử so sánh đoạn Chúa giáng sinh, trong kinh
Tân Ước qua hai bản Tin Lành và bản Công Giáo, để thấy cách dịch của Phan Khôi.
Phúc âm Matthieu - L'Évangile selon Saint Matthieu, bản Tin
Lành dịch:
Phúc âm Mã-Thi
Chúa giáng sinh
Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu diễn tiến như sau:
Cô Ma-ri đã đính hôn với Giô-sép, nhưng khi còn là trinh nữ, nàng chịu thai do
Thánh Linh. "Giô-sép, vị hôn phu của Ma-ri là người ngay thẳng, quyết định
kín đáo từ hôn, vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai.
Đang suy tính việc ấy, Giô-sép bỗng thấy một thiên sứ đến
báo mộng: "Giô-sép, con cháu Đa-vít! Đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ! Vì cô ấy
chịu thai do Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh con trai, hãy đặt tên là Giê-xu vì Ngài
sẽ cứu dân Ngài khỏi xiềng xích tội lỗi"871.
Bản Công giáo dịch:
Tin mừng theo thánh Mát-Thêu
Truyền tin cho ông Giu-se
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người,
đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có
thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công
chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang
toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng:
"Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về,
vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con
trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ"872.
So sánh hai đoạn văn này, chúng ta thấy ngay tài dịch của
Phan Khôi: đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới hơn một dòng, lại rõ nghiã và hay hơn.
Ví dụ Évangile dịch là Phúc âm, Hán Việt, hay hơn Tin
mừng, thuần Việt. Không kể sự vô lý ở đoạn dưới: chưa chung sống thì sao gọi
là vợ chồng? Bản tiếng Pháp phổ thông cũng ghi: "Marie, sa mère,
était fiancée à Joseph - Bà Marie, mẹ người, là vợ chưa cưới của Josep. Tóm
lại: Bản Kinh Thánh phổ biến hiện nay của Hội Tinh Lành, là do Phan Khôi, dịch
giả chính đã dịch Tân ước và 1/3 Cựu Ước. Ông đã làm trong
5 năm, 1921-1925.
Thời kỳ dịch Kinh Thánh là thời kỳ chủ chốt, đã rèn luyện
ngòi bút Phan Khôi. Nhờ sự tiếp xúc sâu sắc với Kinh Thánh, ông hiểu văn minh
Tây phương, từ nguồn cội. Ngoài ra, dịch là trường dạy ngôn ngữ, khiến sau này ở
địa vị "ngự sử văn đàn", không những Phan Khôi viết tiếng Việt đúng
mà ông còn đòi hỏi những nhà văn khác phải viết tiếng Việt cho đúng.
ột dấu hỏi: Tại sao khoảng 1921-1922, Phan Khôi ở Hà Nội, có
việc làm: dịch Kinh Thánh và viết báo Hữu Thanh873 và Thực Nghiệp Dân Báo,
lại bỏ vào Sài Gòn? Vậy Phan Khôi vào Sài Gòn là có "nhiệm vụ" gì,
hay chỉ tình cờ? Nhất là vào Sài Gòn rồi phải trốn xuống Cà Mau. Về việc này,
Phan Thị Nga viết: "Gặp hồi chưa có việc ông dùng thì giờ rỗi để học,
ông ở tại đồn điền của một bạn ở Cà Mau, đồn điền ấy hẻo lánh quá, không có ai
nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ Tây cho
ông De- jean. Rất ngạc nhiên và khen bức thư của ông viết trôi chảy, ông
Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong 6 tháng, ông ta có thể viết được
báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch các bài của ông Dejean viết
ở các báo Tây.
Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi
tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài gì thích thì dịch"874.
Phan An, Phan Cừ viết:"Do một sự việc gì đó, ông bị Pháp
tình nghi và đe doạ, nên phải chạy về Cà Mau ẩn náu nơi nhà người bạn làm chủ đồn
điền"875.
Phan Thị Mỹ Khanh viết: "Rồi nhân có một vụ việc
gì đó xẩy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống
Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây. Thời gian ở
ẩn ăn không ngồi rồi khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó
để làm một việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ,
bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo người Pháp ở Saigòn, tên là
Dejean..."876.
Những thông tin trên đây đưa đến một số câu hỏi:
1- Nếu không có nhiệm vụ gì, tại sao đang có việc ở Hà Nội,
Phan Khôi lại vào Sài Gòn?
2- Phan làm gì mà bị Pháp tình nghi, phải chạy xuống Cà Mau ở
ẩn trong ba năm?
3- Phan vào Nam, phải chăng vì đã nhận được thông điệp của
Phan Châu Trinh từ Pháp? Vào Nam để bắt liên lạc với Nguyễn An Ninh? Người đầu
tiên trong nhóm Ngũ Long vừa từ Paris về nước năm 1922, đang sửa soạn phát hành
báo La Cloche fêlée? Việc ở ẩn ba năm tại Cà Mau, trong bài chỉnh huấn ông sẽ
giấu chính quyền cộng sản.
4- Việc Phan Khôi học tiếng Pháp với Dejean de La Bâ- tie, chứng
tỏ ông có liên lạc với nhóm Chuông Rè877.
Trong thời gian ở ẩn tại Cà Mau 1922-1925, không những Phan
Khôi học tiếng Pháp hàm thụ với Dejean de la Bâtie mà còn tiếp tục việc dịch
Kinh Thánh. Sau này, có thể người ta đã chắp nối hai sự kiện: quen với Tây
(Dejean de la Bâtie) và làm việc cho Mỹ (dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành) để
xuyên tạc Phan Khôi làm bồi Tây, bồi Mỹ.
♦
1925, viết sách về Phan Châu Trinh
Tài liệu 241 của sở mật thám Nam Kỳ, mật báo của P. Arnoux
ngày 1/6/1926, gửi thống đốc Nam Kỳ và Phủ toàn quyền Hà Nội, ghi:
"Tú tài Phan Khôi mà tôi đã báo Ngài cách đây mấy tháng
như là một đồ đệ của Phan Châu Trinh, đã viết một tác phẩm mang tên đơn giản là
"Phan Châu Trinh" tôi đã có trong tay tập sách đó với 94 trang đánh
máy (...) Kèm theo tiểu sử của Phan Châu Trinh, tác phẩm này chứa đựng các bình
luận về đời sống chính trị, tư tưởng, các dự án và công việc tuyên truyền ở
Đông Dương, ở Pháp và ở nước ngoài, những quan điểm chính trị của con người được
dân An Nam coi là nhà đại ái quốc. Nếu được in ra, chắc chắn sách này sẽ được
hoan nghênh và kích động những người An Nam đọc chống đối chính phủ bảo hộ
(...)
Phan Châu Trinh đã cho gọi tú tài Phan Khôi vào Nam Kỳ với
ý đồ cho y viết tác phẩm này và nhiều tác phẩm chính trị khác. Nhưng tình
hình sức khoẻ không cho ông ta thực hiện hoàn toàn ý đồ đó. Phan Khôi đang soạn
thảo ra một tác phẩm theo dạng đó với những thông tin do các bạn cũ thân cận
của Phan Châu Trinh cung cấp, trong đó có Huỳnh Thúc Kháng. Phan Khôi tính dựa
vào nhà in "Bảo Tồn thư xã" đang chuẩn bị ra đời để xuất bản tác phẩm
của y (...) Phan Khôi ở nhà họa sĩ Ky đường Martin des Pallières. Y quan hệ
thường xuyên với Nguyễn Pho và Dejean de la Bâ- tie"878.
Theo mật báo này, ý đồ tiếp tục sự nghiệp của Phan Châu Trinh
khá rõ. Từ 1925 đến 1928, Phan Khôi viết cho Thần Chung, Đông Pháp, Văn Học ở
Sài Gòn và gởi bài cho Đông Tây ở Hà Nội. Hiện nay chưa in sưu tập các bài Phan
Khôi viết trong thời gian này. Đây là giai đoạn Pháp đã bình định nền cai trị,
với những yếu tố quan trọng:
- Đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh, mà Phan Khôi đã tham
gia tổ chức và viết bài Hiệu triệu quốc dân.
- Phan Bội Châu bị bắt, nhưng Pháp không áp dụng án tử hình,
xử vắng mặt trước đó, chỉ đem về quản thúc tại Huế: về việc này, Nguyễn Thế
Truyền đã góp phần quan trọng, cổ động trên báo La Paria và vận động Hội Nhân
Quyền tại Pháp.
- Sự tung hoành của ngòi bút Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường
trên các báo La cloche fêlée và L'Annam, tại Nam Kỳ.
- Sự vận động của Phạm Quỳnh qua các bài diễn thuyết tại các
trường lớn, trong chuyến đi Pháp 1922 dẫn đến việc Pháp cải cách giáo dục: bỏ ý
định Pháp hoá người Việt (thay chữ Hán bằng chữ Pháp). Lần đầu tiên mở cấp sơ học
ở Trung và Bắc, năm 1924, dậy tiếng Việt cho học trò từ nhỏ - Sẽ nói rõ
hơn trong chương Vụ án Nam Phong.
Dường như những yếu tố quan trọng này đã khiến Phan Khôi thấy
sức mạnh của ngòi bút, ông chuẩn bị bước vào giai đoạn nòng cốt: Phụ Nữ Tân
Văn.
♦
1928-1932: Thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn.
Từ năm 1928 đến 1932, ngòi bút Phan Khôi tả xung hữu đột
trong tất cả các "mặt trận" tranh đấu xã hội và văn hoá. Hầu
như ông chỉ ở trong Nam, thỉnh thoảng có viết bài cho báo Bắc, nhưng Nam Kỳ vẫn
là đất chính. Lập luận đấu tranh dựa trên khí giới: phê bình.
1928: Phê bình Trần Huy Liệu trên báo Đông Pháp. Đặt vấn đề: Phải
viết sử cho đúng.
1929: Phê bình Khổng Giáo ở Thần Chung. Tranh đấu nữ
quyền và Đòi hỏi phải viết tiếng Việt cho đúng trên Phụ Nữ Tân
Văn.
1930: Tranh luận với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim
trên Phụ Nữ Tân Văn.
1931: Phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu
Chánh trong bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV. Đây là bài
phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
1932: Công bố Một lối "thơ mới" trình chánh giữa
làng thơ và bài Tình già, cả hai được coi là bản tuyên
ngôn của Thơ Mới, trên Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV.
Tư tưởng và phong cách Phan Khôi được xác định trong thời kỳ
Phụ Nữ Tân Văn, vừa cùng dòng chẩy với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong việc
dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc ngữ bằng cách
phát triển từ vựng, nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với hai vị học giả
này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học, sử học, văn học và xã hội
học.
♦
Phan Khôi và cộng sản
Khi lên án Phan Khôi, người ta thường dẫn chứng rằng ông đã
nói hoặc viết câu này câu kia chống Đảng, chống Bác, là sai cả. Thực ra Phan
Khôi chẳng coi cộng sản ra cái gì, ông chống cái dốt, cái độc tài, cái thần tượng
hoá, và cái ngu dân, từ trước khi có Bác và Đảng viết hoa. Ngay từ năm 1930,
khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đã viết mấy bài về cái ngu và cái dốt
của họ: như bài Quân cách mạng đời nay879 nói về việc ông tướng cách
mạng Trần Đại Lộc, dơ tay lên trán đỡ đạn; bài Quốc ngữ của bọn cọng sản880 nói
về việc cộng sản muốn sửa chữ: Pháp viết là Fáp, gì viết là zì,
đ viết là d. Ý ông: Nếu chỉ muốn thay đổi quốc ngữ thì cũng chẳng
sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh giai cấp mới bậy.
Bình sinh, ngòi bút Phan Khôi không sợ ai bao giờ: Năm 1906,
ông viết đơn kiện triều đình vì thi cử gian lận. Năm 1928, ông viết bài Cái
dốt của triều đình Huế881 đại ý nói: Làm Hán Việt từ điển, mà không biết từ
điển với tự điển khác nhau như thế nào882.
Năm 1928, bàn về việc cấm sách, ông viết: Ở thế
kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự do, nào tôn trọng quyền
ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm sách mới lạ. "Vậy
thì chúng tôi viết đây để làm chi? (...) Một cuốn sách không cấm thì người ta
coi như thường, không chú ý. Đến cấm đi một cái, thì hết thẩy ai nấy đều chú ý
vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho
người ta càng đọc! (...) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt nam vong quốc
sử và Hải ngoại huyết thư đã hiển thánh hai mươi năm nay (...) Không có cái thú
gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi... đọc sách
cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi?...883.
Những lời này mà viết ngày nay thì bị coi là nói xấu Đảng, là
phản động, chẳng tờ báo nào dám in. Nhưng sự thần tình của một tác giả lớn là
tuy Phan nói phiếm về những việc dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại
rất trúng với việc thời nay. Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi đó là một
nhà văn có tính hiện đại.
Về chuyện cấm in, cấm sách, có một số bài của Phan Khôi, đăng
trên báo Trung Lập, Sài Gòn, 1930, được Lại Nguyên Ân sưu tầm. Nhưng khi in
thành sách, gia đình tự kiểm duyệt bỏ đi. Bản trên mạng lainguyenan.free.fr đầy
đủ hơn.
Trong số những bài bị bỏ, có bài Khoái cho ông Musso-
lini884 vì nội dung khen Mussolini nên bị loại, oan. Việc khen
Mussolini, năm 1930, chẳng đáng xấu hổ, mà phải cắt, vì lúc ấy, bộ mặt trái của
đảng Phát-xít chưa được thế giới biết đến. Phan khen cái gì? Phan khen
Mussolini đã cấm tiệt thói ăn mày: khi nước Ý có nơi bị động đất, gần 2000 người
chết, vậy mà Mussolini cấm không được lập hội này hội kia xin tiền. Gần đây nước
Nhật vừa động đất, vừa sóng thần, vừa bể lò nguyên tử, mà họ có ngửa tay xin tiền
ai đâu? Mussolini chẳng được cái nết gì, nhưng ít ra cũng được cái nết dạy dân
không đi ăn mày. Mà cái nết ấy, dân ta, hiện nay đến cả lãnh tụ, cũng còn đang
cần phải dạy. Phan Khôi hiện đại là ở chỗ đó.
Bài "Hơn hai trăm năm còn thúi" cũng bị cắt, vì ông
kể chuyện ngày 11/5/1930, "có một nhà nọ đào móng đặng xây nhà,
trong khi đào, phát lộ ra một cái quan tài xưa coi bề ngoài còn chắc. Người
ta bèn mở ra xem thấy thi thể đã nát rồi, chỉ còn có bộ xương và quần áo. Quần
áo cái dáng vẫn tươi tốt, nhưng khi động tới liền hoá ra tro. (...) Thế
nhưng lạ một điều là lúc dỡ ra, hơi hám xông lên vẫn còn thú nực thúi nồng
(...) Vậy mới biết giống người ta là giống thúi hơn hết thẩy mọi loài
(...) Cái thúi hai trăm năm còn chưa mấy chút; có cái thúi đến muôn năm,
là kẻ "di xú vạn niên" kia"885.
Bài này chẳng hề nói động đến ai, chỉ nói chuyện... đào mả,
tuyệt không chạm huý, mà người ta cũng sợ "nhạy cảm" phải cắt
đi. Ý Phan Khôi: những kẻ nhất thời "vàng ngọc dát đầy, tiền hô
hậu ủng" nhưng chả biết mai sau thế nào, có "di xú vạn
niên" chăng? Ví như Tần Thủy Hoàng đốt sách? Thời ấy có mấy ai đọc
sách, mấy ai biết chuyện? Nhưng bọn nhà văn thường nhớ dai và bênh nhau xuyên
thế kỷ. Đụng đến sách vở, thì hậu quả khó lường.
Còn bài Thúi thây bị cắt là đúng lắm, vì Phan dám đụng
tới thây ông Lê Ninh. Từ 1930, Phan đã chẳng coi ông thánh này ra gì: "An
Nam ta hay mắng những người biết ăn mà không biết làm là "đồ thúi
thây". Kỳ thiệt An Nam ta thuở nay có mấy ai mà thây bị thúi bao giờ. Duy
thấy bây giờ cái thây ông Lê Ninh nước Nga bị thúi đó thôi. Việc đời hay tréo
nhau là vậy, ông Lê Ninh lại là người ăn ít mà làm nhiều!
Không biết hồi họ ướp xác ông thế nào mà ngày nay đến nỗi
thúi ra. Cứ theo tin mới đây thì xác ấy không thể để được nữa mà phải
thiêu ra tro. Nếu vậy thì ra khoa học ngày nay lại dở hơn ngày xưa.
Ai có tri thức khá một chút, há không biết bên Ai Cập đời xưa
có cái thuật ướp xác để lâu kêu là "momie" hay sao? (...) Xứ Nga lạnh
hơn Ai Cập, sao xác ông Lê Ninh lại thúi? (...) Đến như xứ An Nam mình, thuộc về
ôn đới, khí hậu điều hòa, có lẽ giữ xác được lâu mà không thúi chăng? Song ngặt
vì An Nam ta lại không có cái xác nào đáng ướp hết; cái thây nào cũng đáng để
cho thúi quách hết thẩy"886.
Bạn đọc ngày nay phải phục Phan Khôi là tiên tri!
Những việc ông viết cách đây hơn 80 năm mà cứ như bây giờ.
Văn học gọi đó là tính hiện đại.
♦ Phê
Bình Lãnh đạo văn nghệ và Nắng Chiều
Thời kỳ NVGP, Bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ là tác
phẩm tiêu biểu. Phan Khôi vẫn "ngựa quen đường cũ", xử sự
như dưới thời phong kiến, nghĩa là nghĩ sao viết vậy. Ông kê khai toạc hết những
nét chính trong đời sống văn nghệ: kiểm duyệt lời nói, chữ viết, cấm phê bình,
chỉ đạo sáng tác, đàn áp nhà văn, thánh hóa lãnh tụ, bè phái văn nghệ.
1- "Tôi muốn nói sự thực"- Nhưng người ta
bảo: "có những sự thực không nên nói".
2- "Tôi muốn phê bình"- Nhưng người ta bảo, "phê
bình nội bộ thì được, không nên viết lên báo, bên địch chúng thấy chúng
sẽ xuyên tạc"
3- Về việc "giáo dục sáng tác": "Nhược bằng
bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia,
hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
"Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có
giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"
4- Về sự đàn áp nhà văn: "Hỏi độc tội một Trần Dần
thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những
người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
5- Về việc tôn sùng lãnh tụ: "Tôi còn nhớ có vị bắt
lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết
hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải
để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy
mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng:
"Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai,
thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng
thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp
hội Văn nghệ".
6- Về tính gian lận trong việc chấm giải thưởng văn học
54-55: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có
tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban chung khảo. Nếu ở trong ban chung khảo mà
thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại
có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên
ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt
cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi
mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới,
đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp".
Phê bình lãnh đạo văn nghệ trở thành kim chỉ nam cho các
nhà văn trên con đường đòi tự do tư tưởng. Dưới cái tựa: Phê bình lãnh đạo
văn nghệ, Phan Khôi phê bình cả lãnh tụ tối cao Hồ Chí Minh, điều không thể chấp
nhận được trong xã hội cộng sản.
Còn một tác phẩm nữa, hầu như không ai biết, đã bị chôn vùi,
đó là tập truyện ngắn Nắng chiều. Vào lúc "dầu sôi lửa bỏng", toàn
bộ NVGP đã bị đóng cửa được một năm, đang chờ lệnh của Đảng, Phan Khôi đem tập Nắng
chiều đến Hội Nhà Văn để in. Trong bài Tư tưởng phản động trong sáng
tác của Phan Khôi, Đoàn Giỏi viết:
"Tháng 12/1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà
Văn một xấp bản thảo dầy, bên ngoài đề hai chữ "Nắng chiều"887. Mượn
giọng đả kích, để công bố cho hậu thế biết nội dung tác phẩm cuối cùng của Phan
Khôi, Đoàn Giỏi đã bị trừng phạt như một thành viên NVGP.
Nắng chiều, gồm những bài bút ký và tạp văn viết trong kháng
chiến, và mấy bài viết sau 1954: Cầm vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng sản, Thái
văn Thu, Chuyện ba ông vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống, Giới thiệu
Nguyễn Trường Tộ.
Đoàn Giỏi đã giới thiệu từng văn bản một: Truyện Thái văn
Thu chống lại bạo lực cách mạng và sự đàn áp NVGP. Chuyện ba ông vua...
đả kích chế độ phong kiến ngày nay. Bài Nguyễn Trường Tộ so sánh chế
độ hiện hành với những triều đại phong kiến trước. Riêng hai bài Cầm vịt và Tiếng
chim, Phan Khôi "đánh vào vấn đề căn bản của chủ nghiã Mác-Lê
Nin", để xác định: Xã hội không có đấu tranh giai cấp. Của ai người nấy
ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác. Đoàn Giỏi
trích một đoạn trong bài Tiếng chim của Phan Khôi: "Một
lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt con gà
con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; còn con kia bị
gà mẹ chống cự, bắt không được, cũng bay ra đứng cạnh con quạ thứ nhất, nó nhìn
sững và đi đi lại lại, rồi cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: "Mầy phải
cho tao với!"
Đoàn Giỏi giải thích như sau: "Vấn đề thứ nhất
Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai
người ấy ăn. Cho đến thứ quạ kia còn biết giành giật cái miếng không phải của
nó là không ổn, và không hề nói: Mầy phải chia cho tao với"
Bài thứ nhì Cây Cộng sản được giới thiệu khá kỹ,
Đoàn Giỏi viết: "... Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ
ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng:
"Có một thứ thực vật nữa cũng như sen nhật bản, ở xứ ta
trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy chỉ thấy
trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có". Đầu tiên Phan Khôi thấy
nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít
nhau". Nơi gọi là Cỏ Bù-xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là
Cây Cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. "Tên đều không nhã tí nào hết" thứ
cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng
sản".888.
Rồi Đoàn Giỏi kể tiếp về gốc gác cái tên này: Phan Khôi bịa
ra là trước kia xứ ta không có cây này, người Pháp đem đến giồng ở các đồn điền
cà phê, cao su, rồi chẳng bao lâu nó lan ra, không diệt được, tình trạng này bắt
đầu từ những năm 1930-31, cùng lúc Đông Dương Cộng Sản Đảng bắt đầu hoạt động, "phong
trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử
được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe
communiste", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều
người gọi là Cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..."
Tên này là gì? Thì Phan Khôi lại bịa lời một ông già Thổ: "ông
nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ
ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy
cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với
cụ Hồ về thì gọi nó như vậy".
Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ
xít "toàn những tên không nhã tý nào nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản
và Cỏ cụ Hồ?"889
Câu hỏi "ngây thơ" của Đoàn Giỏi chứng tỏ
sự "đồng loã" của ông với tác giả Nắng Chiều. Và Đoàn
Giỏi đã phải trả giá. Đây là lần cuối cùng Phan Khôi dùng ngòi bút châm biếm của
mình để chống lại sự độc tài và dốt nát, mà ông đã mục kích và đả kích từ năm
1930.
Cũng về tập bản thảo Nắng chiều, Chế Lan Viên lại một lần
nữa hiện ra như một hung thần của trí thức và chữ nghiã qua sự mô tả của Đào
Vũ: "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có đọc bản thảo kia", "Đồng
chí Chế Lan Viên lúc ấy có phân tích nhiều mặt về những ám ý xấu xa, phản động
trong những "tìm tòi" ấy của Phan Khôi; và tỏ ý rất công phẫn. Chúng
tôi cũng đồng tình". Vẫn theo Đào Vũ, khi "Phan Khôi nói với
chị Chế Lan Viên nên về khuyên bảo anh ấy đừng đi theo lãnh đạo", thì Đồng
chí Chế Lan Viên "lên tận phòng của y cho một bữa nên thân. Những
nào: Đừng cậy già mà nói láo, đây ba mươi năm nữa cũng già, đồ đốn mạt đồ hèn
v.v¼"890.
♦ Những
ngày tháng cuối
Gia đình Phan Khôi nhận hậu quả cuộc "đấu tranh
giai cấp" khi ông đang ở Việt Bắc. Đào Vũ kể:
"Đồng chí cùng quê với Phan Khôi ôn lại chuyện
nhân dân địa phương căm thù định đến tàn phá nhà Phan Khôi từ phong
trào bình dân (1936) và cho biết, ý định ấy mãi đến sau cách mạng (sau
1945) mới thực hiện được: Những nương dâu phì nhiêu kia của Phan Khôi
bà con nông dân đã giành lấy về tay chia nhau trồng trọt, tre nhà Phan Khôi, vì
căm thù, bà con đốn không còn một gốc, nhà của Phan Khôi, bà con đập lấy gạch về
xây bao nhiêu hầm khắp làng để che chở cho dân làng kháng chiến trường kỳ. - Giữa
Phan Khôi và nông dân địa phương từ bao lâu, đã diễn ra một cuộc đấu tranh giai
cấp gay gắt"891.
Sau Nhân Văn, Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Trần
Duy viết: "Cũng từ dạo ấy, tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa
sút. Có lúc thấy ông đi không vững. Có lúc thấy ông khó thở. Ông nói với tôi
ông bị sốt thường xuyên, xin được đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy giới
thiệu.
Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp cảnh: Một
quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng
Đạo. Người này quát lớn:
"Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"
Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo
theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói: "Thôi, anh về đi¼ Buồn
không cần thiết!"892
Bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Phan Khôi dọn về số 10 Nguyễn
Thượng Hiền rồi 73 Phố Thuốc Bắc. Lâm Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, viết
về căn nhà cuối cùng này:
"Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kề
vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài căn nhà cụ là chân cầu thang của
hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng
khép kín, rộng chừng 9 m2, bằng 3/4 gian nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của
chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cớ tướng. Tôi
thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ.
Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba tôi và các chú nhà thơ hay
vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ vừa
đăng báo; bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị
con cụ, mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều
gì đó, lung lắm. Các cô các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử tỏ ra
dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, vắng dần tiếng trẻ.
Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, xa lạ. Tôi hỏi má tôi "tại sao
vậy?". Bà nói nhỏ sợ người khác nghe: " Ông Khôi đang bị coi là người
cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, con không nên vào nhà cụ, có người đang theo
dõi nhà mình đấy¼". Tôi không hiểu Nhân văn - Giai phẩm là tội
gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ liên lụy đến như thế. Tuy không nói ra
nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với
gia đình cụ Khôi. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có bệnh dịch lây lan. (...) Dường
như gia đình cụ hiểu được điều băn khoăn của mọi người nên tế nhị lấy báo dán
kín cửa sổ lại. Lâu lâu tôi thấy cụ ngang qua nhà, vẫn dáng người cao, nhưng gầy
yếu hơn trong bộ đồ tây màu vàng nhạt, tóc còn lơ thơ vài cọng bạc trắng, ẩn
sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong, gặp ai cụ
không nhìn, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ.
Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà
cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên giường, giờ cụ trầm ngâm, buồn buồn,
mắt nhìn đâu đâu, tôi thương cụ quá chừng. Có lần tôi nghe cụ ngâm bằng giọng
Quảng Nam: "Làm chi cũng chẳng làm chi / Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
/ Làm sao cũng chẳng làm sao / Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi¼"893
♦ Cái
chết của Phan Khôi
Phan Cừ, Phan An viết: "Ông nằm quay mặt vào tường
lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong sự túc trực chăm sóc của bà vợ Nguyễn Thị
Huệ (...) Cỗ xe song mã màu đen quàn thi hài ông, đi sau là vợ con, cháu cùng một
vài bạn hữu tiễn ông lần cuối đến nghiã trang Hợp Thiện ở phía đông thành phố
Hà Nội. Trong chiến tranh, phần mộ của ông bị thất lạc"894.
Phan Thị Thái viết: "Mộ cha tôi được ghi dấu bằng tấm bia
nhỏ mang tên: Chương Dân (...) Khoảng một năm trước khi mất, thầy tôi rất buồn.
Mỗi dịp nghỉ hè về thăm thầy, tôi thường thấy người ngồi bàn viết lách hoặc đọc
sách.
Có khi nằm đọc rồi ngủ quên nhưng hai tay vẫn giữ chặt
quyển sách dày cộm, hầu hết là sách chữ Hán. Hầu như thầy tôi không có thì giờ
rảnh. Sáng sáng đi vài ba đường quyền, ăn uống điểm tâm rồi ngồi vào bàn làm việc
cho đến tối. Chỉ có một tuần trước khi mất, vì quá đuối sức, người đành phải
lìa chiếc bàn và quyển sách. Gia tài lớn mà thầy tôi để lại cho chúng tôi là
sách và rất nhiều các bài viết, các bài nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Hán.
Chúng tôi đã gìn giữ tất cả trước tác của thầy tôi trong nhiều năm và sau đó đã
chuyển giao cho Viện Hán Nôm để các đồng nghiệp của ông tiếp tục công việc
nghiên cứu, dịch thuật"895.
Lâm Bích Thủy viết: "Chở linh cữu cụ là một chiếc
xe có hai con ngựa kéo bị che hai bên mắt, khoảng bảy hoặc tám người, kể cả người
đánh xe ngựa và ba tôi - nhà thơ Yến Lan. Nhưng điều để lại sau
đám tang là sự dè bỉu và mỉa mai đối với ba tôi mà người thời bấy giờ gọi
là "thằng". Sáng hôm sau, ngoài phố, họ kháo nhau bằng những
câu: "Nghe nói ngoài gia đình còn có thằng cha nhà thơ nào đó cả gan
đưa đám lão Phan Khôi". Giải thích điều này ba tôi nói: "Đó là
đạo lý của người Việt Nam - Nghĩa tử là nghĩa tận"896.
Theo Lại Nguyên Ân, nghiã trang Hợp Thiện bị chiếm đất dần để
xây nhà. Năm 1970, nghiã trang này được chuyển lên Bất Bạt. Những ngôi mộ bị dời
đi, có đánh số, nhưng sau gia đình không tìm lại được. Tất yếu của định mệnh?
Hay là vẫn cố tình xoá dấu Phan Khôi?
Được biết những năm gần đây đã có ngôi mộ của Phan Khôi ở Điện
Bàn, chúng tôi hỏi nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về việc này, qua điện thư ngày
27/7/2012, ông cho biết:
"Chuyện mộ Phan Khôi, thì con trai ông là Phan An Sa kể
cho tôi: Năm 1959 ông mất, được chôn cất tại nghiã trang Hợp Thiện, Hà Nội.
Theo anh Sa thì mộ ở phía đông khu nghiã trang. Khu nghiã trang này, từ những
năm 1960 bị lấn từng phần làm một số cơ quan, xí nghiệp như nhà máy mỳ kẹo Hải
Châu, kho của mấy công ty thương mại quốc doanh, rồi phần giữa nghiã trang cũng
sớm bị dùng làm bãi chiếu bóng Mai Động, vv... Đến đầu những năm 1970 chính quyền
Tp. Hà Nội cho chuyển toàn bộ các ngôi mộ còn lại ở Nghiã trang Hợp Thiện lên
nghiã trang Yên Kỳ ở huyện Ba Vì (khi đó thuộc tỉnh Hà Tây), lấy đất xây thêm một
nhà máy dệt.
Theo tôi hỏi một số viên chức làm ở Cty quản lý
nghiã trang Hà Nội, thì các ngôi mộ chuyển lên chỉ được đánh số chứ
không gắn bia mộ họ tên, phần họ tên ở bia mộ cũ được ghi vào sổ lưu lại
Cty quản lý nghiã trang, gia đình nào cần tìm phải tới xem sổ lưu ấy để xác nhận
lại vị trí mộ ở nơi mới Yên Kỳ.
Tuy vậy, các con ông PK tìm đến vị trí mộ ở Hợp Thiện
theo trí nhớ thì không thấy, đào cũng không thấy, hình như cũng không có hồi
âm gì từ thông tin về số mộ đưa lên Yên Kỳ, cuối cùng đành bốc một ít đất ở nơi
mà họ nhớ là nơi chôn lần đầu, đem về trong quê ở Quảng Nam chôn vào trong ngôi
mộ trống, tất nhiên có khắc bia họ tên lên đấy".
Điều mà Phan Khôi làm cho bà Cố cách đây hơn nửa thế
kỷ, tức là kiện cái chế độ phong kiến, để mộ của bà cố được trở về chôn ở mảnh
đất gia tiên, hiện chưa ai làm cho ông. Phan Khôi có mười con, bao nhiêu cháu?
Nếu ngày nay có một sự xám hối nào đó về phía chính quyền, hẳn không phải là những
lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là việc tìm lại hài cốt Phan Khôi
trong đám mộ ở Yên Kỳ, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ Phan Khôi, cho xứng
đáng với địa vị của một trong những nhà văn, nhà trí thức và tư tưởng hàng đầu
của Việt Nam trong thế kỷ XX.
783 Phan Khôi bị cấm ở miền Bắc từ 1958 đến 1975 và sau 75,
trên toàn thể đất nước. Khi chúng tôi đến gặp ông tại nhà, Tạ Trong Hiệp chỉ
vào tập ronéo cao vài thước, và nói: "Tôi đã xin được của Thanh Lãng,
lúc đó còn là giáo sư đại học văn khoa Sài Gòn đã sưu tầm những bài viết trên
báo xưa, bỏ tiền thuê người đánh máy, cho sinh viên học, trong đó có khoảng 5,
6 trăm trang của Phan Khôi viết trên Phụ Nữ Tân Văn. Thế nào chúng ta cũng phải
đọc và giới thiệu Phan Khôi với giới trẻ ngày nay trong nước, vì họ chẳng biết
gì về ông này cả! (...) Nếu tôi có can đảm viết, có thì giờ, và tôi
không đau ốm quá, thì tôi sẽ viết về Phan Khôi, và sẽ đặt nhan đề là Phan Khôi:
Người Xa Lạ". Năm 1995, sưu tập của Thanh Lãng được in lại dưới tiêu
đề 13 năm tranh luận văn học (Văn Học, tp Hồ Chí Minh). 1996, cuốn Chương
Dân thi thoại. 2001, cuốn Nhớ cha tôi của Phan Thị Mỹ Khanh; và 2003
Lại Nguyên Ân bắt đầu xuất bản loạt Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, tất
cả do cố gắng của nxb Đà Nẵng.
784 Thu thanh 10/7/1996, phát trên RFI tháng 12/96 sau
khi ông qua đời về bệnh ung thư ngày 25/10/1996 tại Paris.
785 Bài của Nguyễn Công Hoan không đưa vào Bọn Nhân Văn
Giai Phẩm trước toà án dư luận, Tạ Trọng Hiệp nhầm với bài Một
nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi của Phùng Bảo Thạch, được đưa
vào, trang 75-81.
786 Lúc đầu Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn. Lê Dư cộng
tác sau.
787 Tạ Trọng Hiệp trả lời phỏng vấn RFI, phát thanh những
ngày 15, 22 và 29/12/1996.
788 Nhà thơ Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại,
nguyên Đại Tá công an, trực thuộc A 25, đặc trách NVGP.
789 Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn- Giai Phẩm từ góc nhìn một
trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, mạng nguyentrongtao tháng
8/2010.
790 Bài của Trần Duy không được đọc trong buổi lễ.
791 Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi đăng trên
Talawas ngày 18/6/2008.
792 Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển II, của
Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu, nxb Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội, 1972, mục từ Phan Khôi, số 50, trang 141.
793 Cùng với Hoàng Tích Chu và Tạ Đình Bính, cha của Tạ
Trọng Hiệp.
794 Phan Khôi, Rồng Nam, Thần Chung số 38 (2/3/1929),
sưu tập Lại Nguyên Ân.
795 Nguyễn Đổng Chi, Quan điểm phản động, phản khoa học
của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích? Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa,
Hà Nội, số 41, tháng 6/1958, tài liệu Talawas.
796 Lý với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng, Đông
Pháp thời báo, Sài Gòn, số 807 (18/12/1928), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928,
sưu tập Lại Nguyên Ân, trang 123-124.
797 Phan Thị Nga (vợ Hoài Thanh), Lối tự học của những
bậc đàn anh nước ta, Hà Nội Báo, số 10 (11/3/1936). In lại trong 13 năm
tranh luận văn học, tập I, Văn Học tp Hồ Chí Minh, 1995, trang 255-159.
798 Thơ họa "Con rùa đá" của Tế Hanh - 1957.
799 Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi, nxb Đà Nẵng,
2001, trang 161.
800 Phan Khôi, Cái thói nói tiếng Lang Sa, Đông
Pháp thời báo, số 733 (19/6/1928).
801 Báo Độc Lập số 357 (1/5/1958), in lại trong Bọn NVGP
trước toà án dư luận, trang 138-139.
802 Thơ họa của Nguyễn Công Hoan - 1957.
803 Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh
nước ta, 13 năm tranh luận văn học, tập I, trang 255-159.
804 Bài in trong cuốn Chương Dân thi thoại, nxb Đà
Nẵng, 1996.
805 Nxb Đà Nẵng, 2001.
806 Nhiều chỗ ghi 1905, là sai, vì 1905 không có kỳ thi
hương.
807 Chúng tôi dùng bản Phan Thị Nga, năm 1936. Các con Phan
Khôi sau này ghi là Ưng Diễn.
808 Lương Thúc Kỳ, đỗ cử nhân 1900, làm quan tại Huế, theo
phong trào Duy Tân, sau có dạy trường Dục Thanh, trường đầu tiên của phong trào
Duy Tân, mở năm 1905 ở Phan Thiết, được ít lâu thị bị bắt. Lương Thúc Kỳ mất
năm 1947.
809 Còn có tên là Phan Thị Yến, cùng chồng và con chết
vì bom tháng 9/1952.
810 Khoa thi hương cuối, ở Bắc: 1915 và ở Trung: 1918.
811 Theo bản Phan Thị Nga. Các con ông ghi là Lê Hiên.
812 Trong hai bài: Địa vị của Thái Phiên và Trần
Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916 (Sông Hương số 7-8-9 ra ngày
12/9-19/9 và 26/9/1936) và Mấy cuộc vận động quần chúng ở nước ta (Sông
Hương số 29-30-31 ra ngày 27/2- 13/3 và 20/3/1937), sưu tập Sông Hương của Phạm
Hồng Toàn; Phan Khôi nói rất rõ bối cảnh những cuộc cách mạng bạo lực và phân
tích sự thất bại của những phong trào này.
813 Là bộ trưởng Nội Vụ trong chính phủ liên hiệp lúc bấy giờ.
814 Là em họ Phan Khôi. Phan Bôi tức Hoàng Hữu Nam là Ủy viên
Trung Ương Đảng, thứ trưởng Bộ Nội Vụ.
815 Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động
của Phan Khôi cho đến thời ký toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số 12,
tháng 5/1958.
816 Do nhà xuất bản Văn Nghệ, Hoàng Cầm trách nhiệm, in tại
Hà Nội, 1955.
817 Bản điện tử có vài chỗ sửa lại chữ của Phan Khôi, ví dụ tấn
sĩ thành tiến sĩ, có lẽ không nên.
818 Theo Chuyện bà cố tôi của Phan Khôi, Phụ Nữ
Tân Văn, số 25, 17/10/1929, in lại trong Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1929, Lại
Nguyên Ân, trang 228-234.
819 Phan Khôi, Chuyện bà cố tôi, bđd.
820 Theo Chuyện bà cố tôi, bđd.
821 Theo truyện ngắn Ông Năm Chuột, Văn số 36
(10/1/1958), in lại trong Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng
Văn Chí.
822 Bài Đi học đi thi có tiểu tựa: Ký ức lục của
một vị lão Nho, ký tên Tú Vườn, in trên Sông Hương từ số 23 (7/1) đến 30
(13/3/1937), sưu tập Phạm Hồng Toàn.
823 Ngày 23/4 Ất Dậu, tức ngày 5/6/1885.
824 Ngày 26/9 Mậu Tý tức ngày 30/10/1888.
825 Đi học đi thi, bđd.
826 Ông Năm Chuột, bđd.
827 Đi học đi thi, bđd.
828 Đi học đi thi, bđd.
829 Trong bài tự truyện Lịch sử tóc ngắn đăng trên
báo Ngày Nay năm 1939, Phan Khôi kể lại đầy đủ các chi tiết: Từ 1906 trở về trước,
đàn ông Việt Nam vẫn để tóc dài rồi búi lại đằng sau ót thành một cái đùm.
Ngoài Bắc thì đàn bà vấn tóc, còn từ Huế trở vào, đàn bà cũng búi tóc, thành thử
nhìn sau lưng có thể lẫn lộn đàn bà với đàn ông. Giữa lúc toàn dân đang còn để
tóc dài, thì vua Thành Thái đã cắt tóc ngắn, mặc đồ Tây và ông bắt cận thần phải
cắt tóc. Năm 1905, vua ngự giá vào Quảng Nam, bị dân chúng chế nhạo. Năm sau,
phong trào cắt tóc được Phan Châu Trinh phát động. Phan Khôi viết:
"Mùa đông năm 1906, thình lình ông Phan Châu Trinh đi với
ông Nguyễn Bá Trác đến nhà tôi. Đã biết tin ông Phan mới ở Nhật về, tiên
quân tôi chào mừng một cách thân mật với câu bông đùa này:"Cửu bất kiến
quân, quân dĩ trọc!" Bấy giờ tôi có mặt ở đó, câu ấy khiến tôi phải chú ý
xem ngay đầu ông Phan. Thấy không đến trọc, nhưng là một mớ tóc ngắn bờm xờm
trong vành khăn nhiễu quấn.
Ở chơi nhà tôi ba hôm, lúc đi, ông Phan rủ tôi cùng đi sang
làng Phong Thử, nơi hiệu buôn Diên Phong, là một cơ quan của các đồng chí chúng
tôi lúc bấy giờ mới lập được mấy tháng. Tại đó, gặp thêm ông cử Mai Dị nữa, rồi
bốn người chúng tôi cùng đi thuyền lên Gia Cốc, thăm ông Học Tổn (...) Giữa bữa
cơm sáng đầu tiên, khi ai nấy đã có chén hoặc ít hoặc nhiều, ông Phan mở đầu
câu chuyện, nói:
- Người đời, nhất là bọn nhà nho chúng ta, hay có tánh rụt
rè, không dám làm việc. Mỗi khi có việc đáng làm, họ thường tìm cớ trách
trút, có khi họ nói: Việc nhỏ, không xứng đáng. Trong ý họ, đợi đến việc lớn
kia. Nhưng nếu họ đã có ý không muốn làm thì đối với họ việc nào cũng sẽ là nhỏ
cả, thành thử cả đời họ không có việc mà làm!...
Ông Phan lúc đó gặp ai cũng hay diễn thuyết. Những câu chuyện
luân lý khô khan như thế, mấy hôm nay ông đem nói với bọn tôi hoài, thành thử
khi nghe mấy lời trên đó của ông, không ai để ý cho lắm, cứ tưởng là ông phiếm
luận. Thong thả, ông nói tiếp:
- Nếu lấy bề ngoài mà đoán một người là khai thống hay hủ
lậu thì trong đám chúng ta ngồi đây duy có ba anh - vừa nói ông
vừa chỉ ông Trác, ông Dị và tôi - là hủ lậu hơn hết, vì ba anh
còn có cái đùm tóc như đàn bà.
Cả mâm đều cười hé môi. Ba chúng tôi bẽn lẽn. Ông Phan lại
nói:
- Nào! Thử "cúp" đi có được không? Đừng nói là
việc nhỏ; việc này mà các anh không làm được, tôi đố các anh còn làm được
việc gì! Câu sau đó, ông nói với giọng rất nghiêm, như muốn gây với chúng tôi vậy.
Ông Mai Dị đỏ mặt tía tai:
- Ừ thì cúp chứ sợ chi!
- Thì sợ chi! - Thì sợ chi!
Ông Trác rồi đến tôi lần lượt phù họa theo (...) Ông Mai Dị
được hớt trước rồi đến hai chúng tôi. Mỗi người đều đầy ý quả quyết và tin nhau
lắm, chẳng hề sợ ai nửa chừng thoái thác (...) Ở Gia Cốc về, chúng tôi chưa về
nhà vội, còn định trú lại Diên Phong mấy ngày. Ở đó, chúng tôi yêu cầu các ông
Phan Thúc Duyện, Phan Thành Tài, Lê Dư cũng làm như chúng tôi; luôn với năm,
sáu mươi vừa người làm công, vừa học trò, đều cúp trong một ngày. Rồi hễ có vị
thân sĩ nào đến chơi là chúng tôi cao hứng lên diễn thuyết, cổ động, khuyến họ
cúp thảy cả. Trong số đó có ông tiến sĩ Trần Quý Cáp, thầy chúng tôi và các ông
tú Hữu, tú Bân, tú Nhự, còn nhiều không kể hết. Ít hôm sau, ông Huỳnh Thúc
Kháng ở Hà Đông ra, cũng cúp tại đó, chính tay ông Lê Dư cầm kéo hớt cho ông Huỳnh
dù ông Lê chưa hề biết qua nghề hớt là gì.
Hôm ở Diên Phong về nhà, tôi phải viện ông Lê Dư đi về với.
Thấy hai chúng tôi, cả nhà ai nấy dửng dưng. - Trước tôi mảng tưởng về nhà chắc
bị quở dữ lắm, nhưng không, thầy tôi tảng lờ đi, bà tôi càng lạnh lùng hơn nữa,
chỉ ba chặp lại nhìn cái đầu tôi mà chặc lưỡi. Dò xem ý bà tôi, hẳn cho rằng
tôi đã ra như thế là quá lắm, không còn chỗ nói! (...) Qua đầu năm 1907 giở đi,
thôi thì cả tỉnh nơi nào cũng có những bạn đồng chí về việc ấy (...) Lúc này
không còn phải cổ động nữa, mà hàng ngày có những người ở đâu không biết, mang
cái búi tóc to tướng đến xin hớt cho mình. Bởi một ý đùa, tôi đặt một bài ca
dao cho Đoan để mỗi khi hớt cho ai thì ca theo nhịp đó:
"Tay trái cầm lược,
Tay mặt cầm kéo,
Cúp hè! Cúp hè!
Thẳng thẳng cho khéo!
Bỏ cái hèn mầy,
Bỏ cái dại mầy,
Cho khôn, cho mạnh,
Ở với ông Tây!" v.v¼
"Giữa lúc đó có lời phao đồn ở Diên Phong, chúng tôi hay
cưỡng bách người ta hớt tóc, đến nỗi khuyên không nghe mà rồi đè xuống cắt đi,
thì thật là thất thực, không hề có thế bao giờ. Sự cưỡng bách ấy nếu là có
trong vụ "xin xâu" năm 1908, do những kẻ cầm đầu đoàn dân thi hành.
Tôi vắng mặt trong vụ ấy, nhưng sau nghe nói lại rằng mỗi một đoàn dân kéo đi,
giữa đường nếu có ai xin gia nhập thì đều buộc phải hớt tóc; hoặc khi đoàn dân
nghỉ ở một cái chợ thì người cầm đầu đứng ra diễn thuyết, bắt đàn ông trong chợ
đều phải hớt tóc rồi mới cho nhập bọn đi theo mình. Cũng nhờ vậy mà sau vụ này,
thấy số người tóc ngắn tăng giá lên rất nhiều. Hớt tóc cũng là một cớ buộc tội
trong vụ án năm 1908 ở mấy tỉnh Trung Kỳ. Làm người không có việc gì cả, chỉ đã
hớt tóc mà cũng bị ghép vào mặt luật bất ưng vi trọng, phải 18 tháng tù. Lại,
cuộc phiến loạn năm 1908 ấy, trong các ký tài của người Pháp cũng gọi là
"cuộc phiến loạn của đảng hớt tóc" (Révolte des cheveux tondus). Xem
đó đủ thấy hớt tóc ở thời đại ấy bị coi là nghiêm trọng dường nào. (Trích Lịch
sử tóc ngắn, Tự truyện của Phan Khôi, Ngày Nay số 149, 15/2/1939), in
lại trong 13 năm tranh luận văn học, tập III, trang 535-543).
830 Sông Hương số 7-8-9 ra ngày 12/9-19/9 và 26/9/1936.
831 Sông Hương số 29-30-31 ra ngày 27/2- 13/3 và 20/3/1937.
832 Là người sẽ đuợc trao nhiệm vụ cha nuôi Hoàng tử
Vĩnh Thụy, tại Pháp.
833 Theo mạch văn của bài này thì Charles muốn nói: đầu
tháng 11/1907, nhưng theo tài liệu của Lê Thị Kinh thì Phan ra Bắc từ tháng
7/1907.
834 Trích báo cáo của công sứ Quảng Nam Charles từ
9/1906 đến 3/1908 về Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân, Lê Thị Kinh,
Phan Châu Trinh trong những tài liệu mới, Tập I, quyển I, trang 47-52.
835 Quan coi việc học của một Phủ.
836 Ở Bình Định, chú thích Lê Thị Kinh.
837 Charles, bài đã dẫn.
838 Là báo của Ernest Babut và Đào Nguyên Phổ, Phan Châu
Trinh có cộng tác.
839 Trích hồ sơ thẩm vấn Trần Quý Cáp, số 79, Lê Thị
Kinh, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 118)
840 Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1,
trang 120.
841 Quan coi việc dạy học một huyện.
842 Theo Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghiã Thục, chương
XI.
843 Nhiều nơi ghi tháng 2, vì không đổi ngày ta sang ngày
Tây. Nguyễn Bá Trác ghi rõ tháng 3/1908.
844 Theo lời khai của Đoàn Thoại, Lê Thị Kinh, Phan Châu
Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 53.
845 Hầu hết các tài liệu đều ghi ngày xử Trần Quý Cáp là
17/5/1908. Chỉ có Huỳnh Thúc Kháng ghi rõ: ngày 17 tháng 5 năm Mậu Thân. Vậy
người ta đã chép ngày ta của Huỳnh Thúc Kháng, và thêm năm Tây vào.
846 Lê Thị Kinh cũng đưa ra giả thiết này, Phan Châu Trinh
qua... Tập I, quyển 1, trang 39.
848 PCT, Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký, bản dịch Nguyễn
Q. Thắng và Lê Ấm, in trong PCT cuộc đời và tác phẩm, Văn Học, 1992, trang
321-322.
849 Ý nói vụ Trung Kỳ dân biến.
850 Trích Hạn mạn du ký - Bài ký của người đi chơi phiếm của
Nguyễn Bá Trác, nguyên tác chữ Hán, bản dịch in trên Nam Phong, số 19 tháng
11/1919.
851 Bạch Thái Công Ty thơ ký viên, Dân báo, Sàigòn, số
201, số Tết 1940, tài liệu Lại Nguyên Ân.
852 Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động
của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt
thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14.
853 Đi học đi thi, bđd.
854 Tức là thày ngồi trên ván cao kê giữa nhà.
855 Ghế để nghiên son bút son.
856 Đoan ngọ.
857 Nguyên đán.
858 Đi học đi thi, bđd.
859 Trích theo Tiểu sử Trần Quý Cáp của Huỳnh
Thúc Kháng, tiểu sử này ghi viết ngày 20/2/Mậu Dần (21/3/1938), bản dịch của
báo Minh Tân số 63, in năm 1959, in lại trong Trần Quý Cáp của Lam
Giang, Đông A, Sài Gòn, 1971, trang 10-16.
860 Xử tội chẳng cần án.
861 Phan Bội Châu, Văn khóc cụ nghè Trần Quý Cáp, in
trong Thi văn quốc cấm, Thái Bạch soạn, Sài Gòn, 1968, trang 390.
862 An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)
863 Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước
ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, trích đoạn này dùng bản Thanh Lãng soạn, tài
liệu đánh máy, của Tạ Trọng Hiệp. Bản in trong 13 tranh luận văn học bị
cắt mấy câu.
864 Bạch Thái Công ty thơ ký viên- một tự truyện của
Phan Khôi, Dân báo, Sài Gòn, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân.
865 Bạch Thái Công ty thơ ký viên, bđd.
866 Bàn về việc dịch kinh Phật, Trung Lập 5/9/1931, Phan
Khôi 1931, Lại Nguyên Ân sưu tầm, trang 352.
867 Phan Thị Nga, bđd.
868 PNTV, số 74 (16/10/1930), Phan Khôi 1930, LNA, trang
568.
869 Phước Nguyên, Quá trình phiên dịch Kinh Thánh
sang tiếng Việt, Báo Linh Lực, 1/1996, baolinhluc.org
870 Phước Nguyên, bđd.
871 Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước do Thánh Kinh Hội quốc
tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, trích Kinh Tân Ước, sách Phúc
âm Mã-Thi, Chúa giáng sinh, trang 1.
872 Kinh Thánh Tân Ước, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000,
trang 68.
873 Hữu Thanh là báo của Ngô Đức Kế, một trong những người
lãnh đạo phong trào Đông Du và Duy Tân, vừa từ Côn Đảo trở về.
874 Phan Thị Nga, bđd.
875 Phan Khôi niên biểu, Chương dân thi thoại, Đà Nẵng,
1996, trang 157.
876 Nhớ cha tôi, Đà Nẵng, 2001, trang 39.
877 Xin nhắc lại: Dejean de La Bâtie, người Pháp lai, là đồng
chí của Nguyễn An Ninh, từng làm chủ nhiệm báo La Cloche fêlée (Chuông rè).
Phan Văn Hùm trong Ngồi tù khám lớn (Bảo Tồn, Sài Gòn, 1929. Phan
Tùng Mai (con Phan Văn Hùm) tái bản, Sài Gòn, 1957) cho biết: lần vào tù năm
1928, Dejean được giam cùng với người Pháp, còn Nguyễn An Ninh, thì các cai tù
Pháp rất nể trọng, gọi là Monsieur.
878 Tài liệu của Lê Thị Kinh, in lại trong Nhớ cha
tôi, trang 279-280.
879 Trung Lập số 6151 (20/5/1930).
880 Trung Lập, số 6235 (1/9/1930). Phan Khôi thường viết:
cọng sản. Cả hai chữ cộng và cọng đều dùng được.
881 Đông Pháp, số 717 (8/5/1928).
882 Phan Khôi giải thích: Tự là chữ, mà từ là lời.
Trong tự điển mỗi mục từ chỉ có một chữ. Trong từ điển mỗi
mục từ có thể có nhiều chữ ghép lại. Nhưng không phải chữ ghép nào
cũng được coi là từ để đem vào từ điển được. Ví dụ, thiên mã thì
gọi là từ được, vì đó là một cách nói đặc biệt (expression), gần như một điển cố,
chỉ việc vua Võ Đế nhà Hán có con ngựa hay lắm, vua đặt tên là thiên mã, tức là
ngựa nhà trời. Còn tẫn mã (ngựa cái) hay dịch mã (ngựa trạm)
thì không thể đem vào từ điển được, vì nếu cứ lấy những chữ ghép tràn
như vậy, thì phải bao nhiêu từ điển cho đủ!
883 Phan Khôi, Cấm sách, sách cấm, Đông Pháp thời báo, số
763 (1/9/1928).
884 Khoái cho ông Mussolini, Trung Lập, số 6207
(28/7/1930).
885 Hơn hai trăm năm còn thúi, Trung Lập, số 6152
(21/5/1930).
886 Thúi thây, Trung Lập, số 6216 (7/8/1930).
887 Đoàn Giỏi, Tư tưởng phản động trong sáng tác của
Phan Khôi, Văn Nghệ số 15, tháng 8/1958, in lại trong Trăm hoa đua nở
trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.
888 Đoàn Giỏi, bđd. 889 Đoàn Giỏi, bđd.
890 Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp
của Phan Khôi ngày nay, Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958 - Số đặc biệt thứ hai chống
NVGP.
891 Đào Vũ, bđd.
892 Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi, Talawas
18/6/2008.
893 Lâm Bích Thuỷ, Thủy chung tình bạn sau linh cữu, tài
liệu Talawas.
894 Phan Cừ, Phan An, bđd.
895 Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi, học giả Phan Khôi.
19/12/1996, Kiến Thức Ngày Nay.
896 Lâm Bích Thuỷ, bđd.
Chương 22
vụ án nam phong
uy không chính thức có vụ án Nam Phong, nhưng sau khi Phạm Quỳnh
và Nguyễn Bá Trác, chủ nhiệm và chủ bút Nam Phong bị xử tử năm 1945; tại miền Bắc,
toàn bộ trước tác trên Nam Phong, được coi là tờ báo của thực dân do "trùm
mật thám" Louis Marty điều khiển, bị khai trừ khỏi nền giáo dục và văn học.
Tại miền Nam từ 1954 đến 1975, các nhà nghiên cứu như Thanh Lãng, Phạm Thế
Ngũ... tuy có nhắc đến nguồn cội phát xuất Nam Phong, từ chính quyền thực dân,
nhưng vẫn xác nhận giá trị Phạm Quỳnh và đưa Nam Phong vào chương trình giáo dục
trung-đại học. Sự kết án Phạm Quỳnh của Nguyễn Văn Trung, chỉ là một hình thức
phản phê bình, chống lại quan điểm Thanh Lãng và Phạm Thế Ngũ, nhưng không đủ bằng
chứng thuyết phục.
Cái án vô hình về Nam Phong vẫn còn đó, chưa ai minh giải.
Xoá án Nam Phong là tìm lại công lao của những người đã xây dựng nền văn học quốc
ngữ, đã bị chôn vùi trong 66 năm ở miền Bắc, 36 năm trên toàn quốc: Học trò
không được học, không được biết, không được sử dụng những thành tựu vô giá về dịch
thuật và tư tưởng mà Nam Phong để lại. Tên Phạm Quỳnh và Nam Phong hiện nay đã
được đưa vào Từ điển Bách khoa và Từ điển Văn học, bộ mới, nhưng
tên Nguyễn Bá Trác bị loại. Sự đánh Nam Phong dựa trên hai yếu tố chính:
1- Chuyện Rồng Nam phun bạc mà chúng tôi đã đề cập
trong chương trước.
2- Báo Nam Phong do Louis Marty sáng lập.
Ở điểm thứ 2 này, lời vu cáo của Phùng Bảo Thạch:
"Phan Khôi đã được Mác-ty (Marty) gọi ra làm việc cạnh
nó và viết báo Nam Phong. Trong phòng kín, Phan đã bí mật tố giác một số
nhân sĩ yêu nước và bí mật hiến mưu dập tắt phong trào cách mạng"897 được Lược
truyện các tác gia Việt Nam chép lại, đã có ảnh hưởng lâu dài trong sự
tàn phá uy tín của Phan Khôi.
Nguyễn Công Hoan phụ hoạ: "Làm chỉ điểm cho
Pháp, cố nhiên Phan Khôi được sở mật thám Pháp tin dùng. Báo Nam Phong của
tên chùm (trùm) mật thám Đông dương Lu-y Mác-ty sáng lập, cho hai tên
phản cách mạng phụ trách, Phạm Quỳnh làm chủ bút phần quốc văn, Nguyễn Bá Trác
làm chủ bút phần Hán văn. Nguyễn Bá Trác được lệnh của Mác Ty dùng Phan Khôi.
Từ đó, đời Phan Khôi xoay ra làm báo để reo rắc những tư
tưởng phản động, có lợi cho thực dân hơn nghề làm chỉ điểm cho chúng"898.
Những lời vu hãm trên đây tiêu biểu cho lối buộc tội Nam
Phong, được dùng để đánh Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Lê Dư, nhưng đặc biệt với
Phan Khôi, sự xuyên tạc đã đạt đến đỉnh cao. Lập luận xoáy vào 3 điểm chính:
- Báo Nam Phong được Pháp bảo trợ.
- Nam Phong do Louis Marty, Nguyễn Bá Trác và Phạm Quỳnh điều
hành.
- Phan Khôi, "vốn nghề chỉ điểm" nên được
Marty tin dùng.
● Louis Marty
Không chỉ Nam Phong mà hầu hết các báo quốc ngữ, từ khởi thủy
đều do người Pháp sáng lập899: Gia Định báo,1865: Ernest Potteaux sáng lập-Trương
Vĩnh Ký chủ bút. Nông cổ mín đàm, 1901: Canavaggio - Lương Khắc Ninh. Đại
Việt tân báo, 1905: Ernest Babut - Đào Nguyên Phổ. Lục tỉnh Tân
văn, 1909: Pierre Jeantet - Trần Nhất Thăng. Đăng cổ tùng báo, 1907-1908
và Đông Dương tạp chí, 1913: Schneider - Nguyễn Văn Vĩnh... Vậy việc
Nam Phong do Marty - Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, trách nhiệm, nằm trong quy
luật trên và trong chủ trương của chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ: thúc đẩy
trí thức hoạt động văn hoá để họ không chống đối chính quyền. Việc người trí thức
lợi dụng lại khí giới này để truyền bá quốc ngữ và văn hoá Tây phương, là mặt
trái của mề đai.
Trường hợp Nam Phong, dính liền với Louis Marty, người được
coi là "trùm mật thám", vậy cần tìm hiểu xem Louis Marty là ai?
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, chỉ ghi vỏn vẹn:
Marty là một ông quan cai trị Pháp. Phạm Thế Ngũ cho biết thêm: 1907,
Marty vào ngạch tham sự hành chánh, làm việc tại Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ. 1914, làm
phụ tá trưởng Phòng Chính Trị Phủ Toàn Quyền, được đặc phái đi Bắc Kinh. 1915,
thăng trưởng phòng Chính Trị, phụ trách việc lấy tin để đối phó với âm mưu tấn
công vào Đông Dương của Đức. Cơ quan gián điệp ấy sau trở thành Tổng Cục An
Ninh Đông Dương. 1934, Marty bị toàn quyền Robin đẩy đi làm khâm sứ Ai Lao900.
Hoàng Văn Chí viết: "Mai (Đặng Thai Mai) và
Giáp (Võ Nguyên Giáp) đều là "con nuôi" của Louis Marty,
giám đốc phòng chính trị của phủ toàn quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở
trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là
sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bị tù đày
hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp
đưa sang Tầu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp "chiến tranh
du kích" do Mỹ mở ở Tĩnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An"901.
Đặng Thai Mai viết trong hồi ký: "Tôi tham gia đảng
Phục Việt, tiền thân của đảng Tân Việt (...) Khoảng 1928, tôi vào dạy trường Quốc
học Huế. Ở đây tin tức không có bao nhiêu. Năm 1930-1931 tôi bị tù. Năm 1932
tôi ra Hà Nội dạy học trường Gia Long, sau dạy ở trường Thăng Long. (...) Ở trường
Thăng Long lúc đó có đồng chí Phan Thanh902 Võ Nguyên Giáp và tôi. Tôi được
giao một vài công tác góp phần vào việc mở Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo đảng
bằng quốc ngữ và tiếng Pháp"903.
Nguyễn Vỹ, trong Tuấn chàng trai nước Việt904, viết: "Võ
Nguyên Giáp, sinh viên cao đẳng luật khoa, Hà Nội, vừa thi đỗ chứng chỉ 2, cấp
bằng cử nhân Luật, tháng 6 năm 1937. Nhưng năm sau, 1938, anh lại thi rớt cấp bằng
Luật pháp Hành chánh. Số đông sinh viên Luật Hà nội thi đậu chứng chỉ cử nhân
Luật liền học một năm về "Droit administratif (Hành chánh Luật), thi đậu cấp
bằng này được bổ ra làm Tri huyện, theo Hành Chánh Nam triều, hoặc
"commis"905 làm tại phủ toàn quyền, hoặc các toà Thống sứ, Khâm
sứ, Thống Đốc, nếu phục vụ cho chính quyền thuộc địa.
Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ có ước vọng làm commis, nhưng thi
rớt nên bỏ học luôn, và tiếp tục làm giáo sư sử địa trường trung học Thăng
Long"906.
Những thông tin của Hoàng Văn Chí, Đặng Thai Mai và Nguyễn Vỹ
trên đây phát xuất ở những thời điểm và vị trí hoàn toàn khác nhau, nhưng không
đối chọi nhau và có phần bổ túc cho nhau:
- Marty là một nhân vật khôn khéo: liên lạc và giúp đỡ những
thanh niên "có đầu óc" gặp khó khăn, không phân biệt chính
kiến.
- Tình trạng thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ không đơn giản.
Chống Pháp hay ra làm quan với Pháp chỉ cách nhau một bước: Nếu Võ Nguyên Giáp
thi đỗ, đã trở thành Tham tá làm việc tại Phủ Toàn quyền, cuộc đời ông có thể
đã thay đổi hoàn toàn.
- Không nên thần thánh hoá bất cứ một nhân vật lịch sử nào. Sự
bôi nhọ Phan Khôi trong hơn nửa thế kỷ. Sự kết tội Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác "bán
nước", nếu giúp chúng ta rút ra được một bài học nào, là trong cái
nghiã đó.
Tất cả "tội ác" quy vào việc Nam Phong được
thành lập do nghị định của phủ toàn quyền, với sự cộng tác của Louis Marty, lúc
đó là trưởng phòng chính trị. Nhưng Marty không chỉ đỡ đầu Nam Phong, năm 1917,
mà đến thập niên 1930, còn đỡ đầu cho Đặng Thai Mai và Võ Nguyên Giáp nữa. Vậy
cần phải xác định lại vị trí của Nam Phong và trả lời những câu hỏi: Chủ đích của
Nam Phong là gì? Những người xây dựng Nam Phong có phải là người "bán
nước" hay không?
● Nguyễn Bá Trác (1881-1945)
Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn của Nam Phong từ
tháng 7/1917 đến tháng 9/1919 được vời vào Huế làm quan, đến chức tổng đốc.
Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh xác định vai trò của Nguyễn
Bá Trác: "Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả
thực đã đóng vai đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín
của một quá khứ mạo hiểm đã khiến ông nổi danh là lịch duyệt"907.
Nguyễn Bá Trác hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi. Những trước tác trên
Nam Phong chứng tỏ ông là một người thơ văn lỗi lạc.
Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác là hai người bạn thân từ thời đi
học. Trong bài Đi học đi thi, Phan Khôi cho biết: Nguyễn Bá Trác đi thi
năm Bính Ngọ (1906) không phải để đỗ, mà để làm bài thuê, kiếm tiền cho
phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Rồi Nguyễn rủ Phan bỏ lối học
khoa cử, cùng theo phong trào Duy Tân, Đông Du, từ 1906 và được gửi ra Hà Nội học
tiếng Pháp năm 1908. Khi phong trào bị đàn áp, Phan Khôi bị bắt ở Nam Định.
Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam rồi sang Xiêm, sang Nhật, sang Tầu.
Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, mục từ 59, ghi: "...
Trác được vào học lớp cán bộ quân sự ở Quảng Tây cùng với Trần Huy Lực
(xem Phan Bội Châu niên biểu, trang 111). Nhưng rồi Trác làm mật thám cho Pháp,
vào làm phòng báo chí của phủ toàn quyền. Lúc đầu, Trác được giao cho việc làm
tờ "Công thị báo" bằng chữ Hán. Năm 1917, khi tên trùm mật thám
Mác-ty (Marty) sai Phạm Quỳnh làm chủ bút tờ Nam Phong thì Trác được giữ gìn phần
chữ Hán của tạp chí đó. Vì có công lao ấy, Trác được bổ ra làm Tá lý bộ Học ở
Huế rồi làm Tuần phủ Quảng Ngãi, y đã đàn áp nhân dân và tàn sát nhiều nhà cách
mạng."908
Những "thông tin" trên đây vừa lộn xộn vừa
đáng ngờ: Nguyễn Bá Trác làm mật thám lúc nào? Ở Quảng Tây hay ở Hà Nội? Vì làm
mật thám nên được vào phủ toàn quyền hay vào phủ toàn quyền rồi mới làm mật
thám? Ở Quảng Ngãi, Nguyễn Bá Trác đã giết những ai? Tên họ các nạn nhân là gì
mà bảo là "tàn sát nhiều nhà cách mạng"? Chúng tôi chỉ nhắc
đến cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, vì đây là cuốn sách chính mà những
người đi sau, thường sao chép lại. Từ điển văn học loại hẳn tên Nguyễn
Bá Trác ra ngoài.
Vấn đề Nguyễn Bá Trác không chỉ nổi cộm trong chế độ cộng sản,
mà nhiều nhà nghiên cứu trong Nam ngoài Bắc khi nhắc đến Nguyễn Bá Trác, thường
úp mở ngụ ý ông là Việt gian. Nguyễn Văn Xuân trong Phong Trào Duy Tân nói
đến việc Mai Dị "gởi cho Nguyễn Bá Trác một bức thư chửi rủa thậm tệ,
được nhiều người truyền tụng"909. Điều này cũng chẳng chứng tỏ được gì. Điểm
đáng chú ý là Huỳnh Thúc Kháng khi viết tiểu sử Trần Quý Cáp, năm 1938, có câu: "Về thi
văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài
lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác"910.
Vậy Nguyễn Bá Trác, sau khi về đầu thú, vẫn được các bạn đồng
hành tín nhiệm, trao giữ tác phẩm của thầy Trần Quý Cáp, và khi ra làm báo Nam
Phong, Nguyễn vào Quảng Nam rủ Phan Khôi làm cùng, Phan Khôi không chối từ,
chưa kể việc Nguyễn được thầy cũ là Nguyễn Bá Học gả con gái cho. Từ khi Nguyễn
Bá Trác về đầu thú đến lúc ông bị Việt Minh xử tử, Phan Khôi không ngừng giao
thiệp với Nguyễn Bá Trác. Theo Phan Khôi, năm 1926, cụ Phan Bội Châu về Huế đến
ở nhà Nguyễn Bá Trác và ông cũng đến ở đó. Như vậy, Phan Bội Châu cũng tin cẩn
Nguyễn Bá Trác.
Về phía kết tội Nguyễn Bá Trác, chưa ai nêu được chứng cớ rõ
rệt, thường chỉ phỏng theo lời đồn. Cho tới nay, chứng cớ duy nhất dựa vào một
chú thích trong cuốn Mémoires de Phan Bội Châu911 của Georges
Boudarel, 1968, cho biết: Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt đã chỉ điểm cho
Pháp bắt Trần Hữu Lực, một chiến sĩ của Phan Bội Châu.
Trần Hữu Lực là ai? Phan Bội Châu viết trong Tự Phán: "Trần
Hữu Lực người Nghệ An, tên thực là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên
sinh, là thầy học tôi. Nhà đời nghiệp Nho, mà tính chất ông khác riêng một
cách, có thái độ như một nhà võ sĩ thời xưa"912.
Trần Hữu Lực theo phong trào Đông Du sang Nhật, học trường
quân sự Đông Kinh. Khi Nhật giải tán Đông Du, trục xuất Cường Để (1909), Lực nổi
giận, định chống lại, nhưng các đồng chí ngăn cản, ông bỏ sang Tầu. Trần Hữu Lực
cùng Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được vào học trường quân sự Quảng Tây.
Sau khi tốt nghiệp, Trần Hữu Lực về Quảng Đông, nhận chức thiếu úy. Phan Bội
Châu kể tiếp:
"Đến lúc Việt Nam Quang Phục Hội thành lập913 ông tự nguyện
sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt Kiều. Tôi lấy tư cách Quang Phục hội
Tổng lý, đặc uỷ ông làm trú Xiêm Quang phục hội chi bộ bộ trưởng914 (...) Rủi
lúc đó, nước Xiêm cũng tuyên chiến với Đức. Chính phủ Xiêm theo lời giao
thiệp của người Pháp hết sức phá cách mạng đảng của người Việt Nam, kẻ tù
người đuổi. Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc
Kỳ, hết sức săn cho được ông, ông bị dẫn độ với chính phủ Pháp, bắt về Hà
Nội, tống vào nhà pha khuyên ông chịu thú phục thì được tha tội. Ông không
chịu, đồng một ngày ấy với Hoàng Trọng Mậu bị sang sát915 dưới núi Bạch
Mai"916.
Vẫn theo Phan Bội Châu, Trần Hữu Lực bị bắt ở Xiêm ngày
26/6/1915. Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Hương Cảng ngày 28/5/1915917. Phan Bội Châu
viết rất rõ, trong Tự Phán: "Hai tên trinh thám cho Pháp, một người
Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông". Câu này trong Phan
Bội Châu niên biểu, Chương Thâu ghi như sau: "Hai tên trinh
thám Pháp, một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ(2) hết
sức săn cho được ông"; và trong chú thích (2) Chương Thâu viết: "Câu
này trong bản của Anh Minh chỉ ghi Nguyễn... và Nguyễn... nhằm che dấu cho
hai tên phản bội này. Bản Nguyễn Khắc Ngữ thì không ghi rõ tên mà chỉ chú theo
MP là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong
Di)"918.
Tóm lại, trong các bản dịch khác nhau của Tự phán:
- Bản Nhân Chủ học xã: Không ghi tên 2 người trinh thám.
- Bản Chương Thâu ghi một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người
Trung Kỳ tên là mỗ919.
- Theo Chương Thâu: Bản Anh Minh ghi: Nguyễn... và Nguyễn...
- Bản Nguyễn Khắc Ngữ không ghi tên mà chỉ chú theo M P.
- MP là viết tắt của Mémoires de Phan Bội Châu, bản
dịch Tự phán của Boudarel. Và Boudarel chú thích hai người này là
Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di).
Nhưng Phan Bội Châu không hề viết rõ tên hai mật thám
săn bắt Trần Hữu Lực.
Nguyễn Khắc Ngữ và Chương Thâu chép lại chú thích của
Boudarel để xác định hai kẻ đó là Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt. Hiện chúng
tôi không có bản của Boudarel, nên không rõ Boudarel dựa vào đâu, để xác định
như thế.
Nhưng khi khảo sát Tự phán của Phan Bội Châu và Hạn mạn
du ký của Nguyễn Bá Trác, thì thấy nhiều chứng, minh oan cho Nguyễn Bá
Trác, Nguyễn Thái Bạt và cả Lê Dư:
1/ Nếu Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và Lê Dư làm chỉ điểm
cho Pháp, thì tại sao Phan Bội Châu lại không viết rõ tên họ ra? Tại sao họ lại
không bị đảng Quang Phục giết như trường hợp Phan Bá Ngọc? Phan Bội Châu viết rất
rõ hành vi phản bội của Phan Bá Ngọc - con trai Phan Đình Phùng và việc Ngọc bị
Lê Tán Anh ám sát, với súng và tiền lộ phí do Cường Để cung cấp920.
2/ Ra đầu thú không phải là một tội đối với đảng: chứng cớ là
sau khi đầu thú, Lê Dư vẫn hoạt động tiếp. Phan Bội Châu viết: "Vừa
lúc đó (1917), ông Lê Dư ở trong nước ra, đương ở Nhật Bản, đi theo Kỳ
Ngoại Hầu, viết giấy mời tôi qua, bảo rằng có 2000 hễ đến Nhật Bản thì đưa
ngay. Nghĩ đến Lê mới về thú, bạc này lấy ở đâu vào? Ngẫm nghĩ một hồi lâu mới
biết được manh mối bạc này rồi"921. Lê Dư tiếp tục kinh tài cho đảng
tới 1918. Lê Dư chơi thân với Phan Bá Ngọc, cả hai đều khuyên Phan Bội Châu viết Pháp
Việt đề huề luận922, các việc này Phan Bội Châu đều ghi rõ, nhưng ông
không hề xác định Lê Dư phản đảng: Vậy đảng biết rất rõ hành động từng người.
3/ Trong Tự phán, Phan Bội Châu chỉ nhắc đến Nguyễn Bá
Trác hai lần, trong câu "Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt, ba người -
tức là kể cả Trần Hữu Lực- đồng thời vào nhà quân hiệu" và
câu "Quảng Tây cán bộ học đường thì có những người như Trần Hữu
Lực, Nguyễn Tiêu Đẩu, Nguyễn Thái Bạt"923. Ngoài ra, không có lời
nào khác trong Tự phán chỉ định Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt làm chỉ điểm
lùng bắt Trần Hữu Lực ở Xiêm.
4/ Trong Hạn mạn du ký, Nguyễn Bá Trác cho biết:
ông về tới Sài Gòn tháng 8/1914. Và trong bài Lời di ngôn của cụ Nguyễn Bá
Học, Nguyễn viết:
"Hồi tháng 9 năm 1914 tôi tới Hà Nội, mới được tha về vài
ngày, liền xuống Nam Định hỏi thăm tiên sinh924 (...) Tiên sinh lại hỏi
tôi rằng: "Anh ở Hà Nội định làm kế sinh hoạt gì?". Tôi chưa kịp đáp,
tiên sinh lại nói rằng: "Tôi bây giờ nguyệt bổng925 đã được bốn năm chục,
nếu anh chửa được việc gì để làm sinh kế, thời tôi có thể giúp anh được; bản
tâm tôi là muốn bảo toàn danh dự cho anh vậy". Tôi mới đáp là đã làm việc
báo, tiên sinh nói rằng: "Ừ, thế được, phải cố gắng lên mà phải cẩn thận,
chớ có táo suất926 mà làm cho lấp đường ngôn luận của nước ta"927.
Khi về đầu thú, Nguyễn Bá Trác làm công chức ở sở toàn quyền,
phụ trách Công thị báo từ 1914, làm báo Âu Châu chiến sử với
Phạm Quỳnh, và đến tháng 6/1917, ra báo Nam Phong. Tháng 9/1914, ông xuống Nam
Định thăm Nguyễn Bá Học, người thày dạy ở Đông Kinh Nghiã Thục, sau biến cố
Trung Kỳ dân biến, đã cưu mang học trò Quảng Nam ra Hà Nội, nuôi và dậy học
trong nhà, số 108, phố Hàng Rượu, Nam Định. Nguyễn Bá Học không những giúp đỡ học
trò gỡ rối việc ra đầu thú mà còn gả con gái cho Nguyễn Bá Trác.
Như vậy không hề có chứng cớ rõ ràng, để có thể gán cho Nguyễn
Bá Trác việc sang Xiêm săn lùng và làm chỉ điểm để Pháp bắt Trần Hữu Lực ngày
26/6/1915.
5/ Hạn mạn du ký một lần nữa minh oan cho Nguyễn Bá
Trác: Hạn mạn du ký - Lời ký của một người đi chơi phiếm928 viết
về 6 năm trốn ra ngoại quốc của Nguyễn Bá Trác, từ tháng 3/1908 đến tháng
8/1914.
Sau vụ Trung kỳ dân biến, phong trào Duy Tân và Đông Du
bị khủng bố: Nguyễn Bá Trác trốn xuống tàu về Trung, đến Phú Yên, ẩn trong rừng
8, 9 tháng. Ngày 24/12/1908, ông lên tàu vào Nam. Ngày 7/1/1909 đến Mỹ Tho, rồi
đi Bến Tre và vào làng Tân Hương dậy học. Ba tháng sau ông lên Sài Gòn, rồi đêm
3/4/1909, từ Sài Gòn xuống tàu trốn đi Xiêm, tới Bangkok ngày 6/4/1909. Từ đây
bắt đầu cuộc lưu vong, đi Hương Cảng, rồi sang Nhật. Tới Nhật, sinh viên du học
đã bị trục xuất. Ở Nhật một tháng, rồi quay về Thượng Hải, định tìm đường lên Bắc
Kinh, nhưng không thành. Tháng 2/1910, làm báo với Trần quân, tức Trần Thế Mỹ,
một yếu nhân của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tại Thượng Hải.
Tháng 6/1910, gặp Nguyên quân - tức Trần Hữu Lực cả
hai được một ân nhân giới thiệu thi vào trường sĩ quan Quảng Tây, ở Quế Lâm,
tháng 9/1910. Trong thời gian học ở Quế Lâm, một lão bà tìm đến trường: Bà người
Việt, con quan, bị giặc Khách bắt về Tàu từ thủa nhỏ, bị bán nhiều lần, có người
con gái là Trần Tuệ Nương, muốn gả cho Bá Trác để mẹ con tìm đường về nước.
Nghĩ phận mình trôi nổi chưa biết ra sao nên Bá Trác khước từ. Hai năm sau trên
đường lưu lạc, Bá Trác hay tin Tuệ Nương đã chết.
Chương trình học quân sự là ba năm, nhưng Trác và Lực đỗ vào
năm thứ nhì; vì thiếu ngân quỹ, chính phủ Trung Hoa gộp hai năm làm một, nên
tháng 9/1911, cả hai tốt nghiệp. Trần Hữu Lực được bổ làm sĩ quan ở sở Binh Bị.
Nguyễn Bá Trác rời Quế Lâm, theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bị kéo vào cuộc nội
chiến, nay Thượng Hải, Nam Kinh, mai Bắc Kinh, Trùng Khánh, rồi quay về Thượng
Hải, cuối cùng quyết định về nước. Trong khi đó, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng
Châu ngày 20/1/1914 đến tháng 4/1916 mới được tha.
Tháng 1/1914, Bá Trác từ Thượng Hải về Quảng Đông, ở lại 6
tháng. Đầu tháng 7/1914, đáp tầu đi Hương Cảng. Rồi từ Hương Cảng về đến Sài
Gòn tháng 8/1914.
Hạn mạn du ký là một thiên ký sự. Tác giả ghi rõ ngày
tháng từng sự kiện, nhưng đổi tên nhân vật và giấu những gì liên hệ đến tổ chức
cách mạng Phan Bội Châu. Tác phẩm còn là văn bản nghiên cứu lịch sử và văn hoá
ba nước: Nhật Bản, Trung Hoa và Cao Ly (Triều Tiên). Về giá trị văn chương, sử
học và xã hội, Hạn mạn du ký có phần sâu sắc hơn Hải Trình Chí
Lược của Phan Huy Chú hay Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đình Hổ.
Tác phẩm có 2 đoạn đáng chú ý, có thể minh oan cho Nguyễn Bá
Trác:
1/ Đoạn viết về lòng nhớ nước và khát vọng trở về đất tổ
của lão bà bị cướp khỏi gia đình từ thời niên thiếu, lưu lạc trên đất khách, trọn
đời chỉ có một quyết tâm: nuôi con thành người Việt, lấy chồng Việt để tìm đường
về tổ quốc. Người mẹ ấy nói: "Ôi! Người mà quên cả ông cha, gọi là
người "vong tổ" có thể là người được chăng?" Lời nói ấy,
dường như phát tự đáy lòng Nguyễn Bá Trác.
2/ Đoạn tả Nguyên quân ngâm bài Hồ Trường. Nguyên quân -anh
Nguyên- chính là Trần Hữu Lực, được mô tả như một hiệp sĩ thời xưa, vừa nghệ
sĩ, vừa khẳng khái, với giọng thân ái và kính phục, nhưng cũng bộc lộ tâm sự của
tác giả:
"Nguyên quân cả năm không hay uống rượu đã uống
thì say, đã say hay hát. Hát không hiểu khúc, song tiếng trong mà cao; cứ
nghêu ngao mấy câu cổ phong, tự người ngoại quốc nghe đã lấy làm kiêu điệu lắm;
cho nên ngày ở Quế Lâm, thi tốt nghiệp rồi, Nguyên quân say rượu tay gõ miệng
hát, anh em đồng học đều khen là danh ca.
Chiều hôm ấy929 rượu ngà ngà, Nguyên quân cũng đứng dậy
mà hát. Cách phòng có một người khác tên là Lưu mỗ, là người Trực Lệ, hiện
làm quan võ coi lính ở Quảng Tây, nghe Nguyên quân hát, bèn vào phòng,
chào nói tên họ rồi hỏi Nguyên quân: "Tôi nhớ năm xưa có gặp quý hữu
một lần ở tại Đông Kinh nước Nhật". Nguyên quân nói: "Lâu ngày không
nhớ rõ". Khách lại hỏi: "Vừa nghe quý hữu hát ấy là điều gì?".
Nguyên quân nói: "Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam!" Khách
nói:" Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khẳng khái, nam phương có điệu hát
đến như thế ru?". Nói rồi, liền gọi thằng hầu lấy bút, xin Nguyên quân viết
bài hát cho mà xem. Nguyên quân cầm bút viết ngay. Bài hát dịch ra như sau này:
Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương.
Trời Nam nghìn dậm thẳm; mây nước một mầu sương.
Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà
đầu bạc; trăm năm thân thể bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang
mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh
cuồng lan.
Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát
dương;
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén
như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết lòng ta hay;
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây" 930
Không ai viết như vậy về người mình đã "chỉ điểm" cho
Pháp bắt giết. Giọng văn bí ẩn, cố giấu tông tích người hiệp sĩ anh hùng, nhưng
cũng muốn ngỏ cho người đọc thấy sự thực: Nguyên quân - Trần Hữu Lực là
một "hiệp sĩ", có giọng ngâm hay, nhưng không phải là người văn học,
vì "hát không hiểu khúc".
Bài mà Nguyên quân hát, Ấy là một điệu đặc biệt
ở phương Nam! - Một điệu phương Nam, mà phương Nam là đâu? Là nước Việt,
nhưng người Việt có ai biết bài này, trừ Nguyễn Bá Trác? Vậy người sáng
tác Hồ Trường phải là Nguyễn Bá Trác. Từ trước đến nay, vì không có sự
khảo sát văn bản, người ta vẫn cho rằng bài Hồ trường là của Nguyên Quân, người
Tầu, được Nguyễn Bá Trác dịch sang tiếng Việt.
Sự thực, Nguyên quân chỉ là Nguyễn quân đã
bỏ dấu ngã. Tác giả phải giấu mình, nhưng trong vô thức luôn luôn có cái gì
"phản lại" tác giả, ở đây là bốn chữ: Nguyên quân và phương
Nam.
Hồ trường là một tuyệt tác, nói lên tâm sự bi tráng của
những thanh niên đất Quảng ra Hà Nội, mong học "thành tài" để
góp phần canh tân đất nước. Nào ngờ đến Bắc việc đã hỏng. Trốn sang Xiêm, Nhật,
chậm rồi. Về Tầu lang thang khất thực, học làm tướng. Theo Quốc Dân Đảng Trung
hoa. Nhưng Dân Đảng bại trận. Mọi việc đều hỏng. Bốn phương mù mịt. Đói khát
vây quanh. Hồ trường chính là tâm sự bi đát của Nguyễn Bá Trác.
● Phạm Quỳnh (1892-1945)
Lời Phạm Quỳnh: "Tôi sinh ra nước đã mất rồi, còn
đâu mà tôi bán?" Ẩn một sự thật bi thương. Nam Phong ra đời do
nghị định ngày 30/12/1916 của phủ toàn quyền. Vậy Nam Phong nằm trong chính
sách cai trị của Pháp lúc bấy giờ.
Trên cái manchette Nam Phong tạp chí là hàng chữ:
"L'Information française - Thông tin Pháp", và "La
France devant le monde. Son rôle dans la guerre des nations - Nước Pháp trước
thế giới. Vai trò của Pháp trong cuộc chiến giữa các nước". Vậy chủ
đích Nam Phong đã rõ.
Với một "chủ đích" như thế, Phạm Quỳnh và
Nguyễn Bá Trác, hai chủ bút quốc ngữ và Hán văn và cũng là hai công chức của
Pháp, có thể làm gì?
Trong bài trả lời phỏng vấn Đào Hùng931 năm 1931, Phạm Quỳnh
cho biết: Trong thế chiến thứ nhất, Đức làm báo chữ Hán để tuyên truyền bên Tầu;
Pháp bèn giao cho hai ông Quỳnh và Trác làm tờ Âu Châu chiến sử, chữ Hán,
viết bài ký tên người Tầu, tuyên truyền cho Pháp, đem sang Tầu phát không.
Trong mấy năm, tờ báo ấy chỉ phát hành ở Tầu, không có ở Đông Dương. Đến năm
1917, phủ toàn quyền bàn với tôi (Phạm Quỳnh) rằng sẵn có tin tức và bài vở
thì nên mở ra một bản quốc văn để làm cơ quan tuyên truyền tin tức trong xứ. Từ
đó Nam Phong mới xuất hiện cùng với Đông Dương tạp chí, là hai tờ báo quốc văn ở
đất Bắc. Như vậy, Phạm Quỳnh đã nói rõ mục đích tuyên truyền của Pháp trong
việc cho phép Đông Dương, Nam Phong xuất hiện. Sau này những lập luận chống Phạm
Quỳnh thường vịn vào cớ ấy để buộc tội ông.
Nguyễn Văn Trung viết cuốn Chủ đích Nam Phong932 để
buộc tội Phạm Quỳnh và phản bác các quan điểm của Thanh Lãng và Phạm Thế Ngũ.
Tiếc rằng, Nguyễn Văn Trung không đem lại điều gì mới hơn các "chủ
đích" đã in trên đầu tờ báo và đã được Phạm Quỳnh nói rõ từ năm 1931
với Đào Hùng; ông chỉ đưa ra một số văn thư chính thức của Pháp, khen ngợi Phạm
Quỳnh là người bạn tốt của Pháp, như vụ làm báo Âu Châu chiến sử; ông cũng
chỉ đọc sơ vài bài viết của Phạm Quỳnh, lựa những câu có thể phê phán được, đưa
ra ngoài bối cảnh để buộc tội: tại sao Phạm Quỳnh không chống Pháp mạnh mẽ như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An
Ninh? Lối lập luận như thế khó đứng vững, bởi Phạm Quỳnh là người ôn hoà, chọn
đường khác: con đường văn hoá, và Phan Khôi cũng chọn con đường này trong nhiều
thập niên sau.
Giọng ca tụng Pháp tồi tệ nhất trên Nam Phong là của Tuyết
Huy Dương Bá Trạc933 trong Bài ký ngày kỷ niệm quan toàn quyền
Sarraut đến Hà Nội 934 và bài Lời mừng cuộc toàn thắng đồng
minh935. Lời lẽ đáng xấu hổ, gọi Pháp là "mẹ nuôi ta", coi
Nã Phá Luân là "xứ nhà giời", hoan hô "Đại
Pháp muôn năm", "Quan toàn quyền Sarraut muôn năm",
"Ta chúc nước Lang sa ta vinh quang hách dịch đời đời kiếp kiếp", nhưng
rất lạ là Dương Bá Trạc lại không bị kết tội "bán nước".
Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, trong phần quốc văn, không viết
bài nào đáng trách. Cùng chủ trương cộng tác Pháp-Việt, nhưng lời lẽ Phạm Quỳnh
chừng mực, ít "thân Tây" hơn Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh trong các bài viết có tính cách Pháp-Việt đề huề, đúng như nhận xét
của Thanh Lãng.
Tóm lại, trên Nam Phong, ngoài mục Thời Đàm -tin tức bình luận
thời sự- tuyên truyền cho chính sách của Pháp ở Á Châu, theo đúng chủ đích đã
ghi trên đầu tờ báo, khó có thể tìm được chứng cớ nào buộc tội Phạm Quỳnh "bán
nước" qua các văn bản biên khảo, triết học, phê bình, dịch thuật của
ông trên Nam Phong. Vậy ta thử tìm hiểu trong chuyến đi Pháp năm 1922, Phạm Quỳnh
có thái độ như thế nào đối với các nhà ái quốc và với nước Pháp?
♦ Gặp
gỡ các nhà ái quốc năm 1922 tại Pháp
Tâm sự sâu lắng của Phạm Quỳnh trong chuyến đi Pháp năm 1922
được bộc lộ qua loạt bài Pháp du hành trình nhật ký936, ông ghi lại tỷ
mỷ chuyến đi và những nhận xét tinh vi của ông về xã hội Pháp đương thời.
Khởi hành từ Hải Phòng ngày 9/3/1922, đến Marseille 9/4 và về
nước ngày 11/8/1922. Trong 4 tháng, Phạm Quỳnh đã gặp các nhà ái quốc trong
nhóm Ngũ Long nhiều lần:
1/ Đến Marseille 9/4, ngày 11/4/1922, Phạm Quỳnh ghi: "Hôm
nay gặp cụ Phan Tây Hồ, là một nhà chí sĩ nước ta, nay biệt xứ bên quý quốc. Hồi
cụ khởi nghiệp, tôi còn nhỏ tuổi, nên chỉ biết tiếng mà không được biết người.
Nay sang đến đây mới được gặp cụ, trong lòng ngổn ngang nhiều nỗi, không sao
nói xiết. Cùng nhau đàm luận trong mấy giờ"937.
2/ Theo mật báo ở Marseille, ngày 11/5/1922, có cuộc gặp gỡ
giữa Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Phan Châu Trinh muốn lật đổ
Nam triều, lập Quốc hội An Nam để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nguyễn Văn
Vĩnh không đồng ý. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh hứa sẽ nghĩ biện pháp giúp
Phan Châu Trinh938. Phạm Quỳnh ở Mar- seille đến 12/5 đi Lyon, tới Paris ngày
16/5/1922, ở Hôtel du Monde, số 15, Rue Berthollet cùng với Nguyễn Văn Vĩnh.
3/ Ngày 27/6/1922, Phạm Quỳnh đến Hội Địa Dư Thương
Mại - Société de Géographie Commerciale đọc diễn văn giới thiệu hội Khai
Trí Tiến Đức.
Lê Thanh Cảnh trong bài "Thử đi tìm một lập trường tranh
đấu cho dân tộc Việt nam"939 cho biết, ngay chiều hôm ấy, tức là chiều
27/6/1922, ông tổ chức mời cơm tại khách sạn Montparnasse, có sự tranh luận sôi
nổi giữa Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn
Vĩnh.
4/ Ngày 13/7/1922, Phạm Quỳnh ghi trong Hành Trình nhật
ký: "Chiều hôm nay ăn cơm An Nam với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy
ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi không khỏi
có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi;
nhưng họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi!"940 Trong cuốn sổ
tay, ông viết rõ tên: "Juillet /13 /Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn
Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 rue des Gobelins)"941.
5/ Ngày 16/7/1922, Phạm Quỳnh ghi: "Trưa, mấy ông
chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các
ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đã đứng đâu ngoài cửa cả"942
Và trong sổ tay: "Dimanche 16/7: ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền (Truyền) đến
chơi"943
Tóm lại, trong chuyến đi Pháp 1922, Phạm Quỳnh gặp nhóm Yêu
Nước, ít nhất năm lần. Và hầu như luôn luôn bị mật thám theo dõi. Điều
này chứng tỏ: năm 1922, có sự tham vấn về tình hình đất nước giữa khuynh hướng
ôn hoà của Phạm Quỳnh chủ trương quân chủ lập hiến và Nguyễn Văn Vĩnh chủ
trương trực trị và khuynh hướng chống đối mạnh mẽ của nhóm Ngũ Long, tại Pháp.
♦ Đối
diện với trí thức Pháp: đấu tranh cho giáo dục ở Việt Nam
Hoạt động thứ nhì trong thời kỳ Phạm Quỳnh ở Pháp, là tranh đấu
cho một đường lối giáo dục phù hợp với dân tộc Việt Nam, thể hiện qua 4 bài diễn
thuyết tại các trường lớn. Những bài này được đăng báo ở Pháp, rồi trên Nam
Phong song ngữ và in lại trong Nouveaux essais franco-annamites - Những
bài tiểu luận Pháp-Việt mới944.
Đây là những bài tham luận quan trọng, nhưng ít ai biết, lại
phải đọc nguyên văn tiếng Pháp, vì bản dịch dù của tác giả, nhưng với thứ tiếng
Việt đầu thế kỷ: La France dịch là Đại Pháp; Messieurs là Thưa
các ngài, đã làm mất tính dân chủ trong sự khẳng khái đòi chính quyền Pháp thực
thi một nền giáo dục đúng đắn ở Việt Nam.
Trước sinh viên và trí thức Pháp, Phạm Quỳnh dùng lối thuyết
khách: ông trình bầy và phân tích tiến trình lịch sử và văn hoá Việt Nam từ thời
thượng cổ, để thuyết phục Pháp không thể "giáo hoá" dân Việt
như một dân tộc dã man, tức là bỏ hẳn tiếng Việt, chỉ dạy tiếng Pháp, biến người
Việt thành người Pháp.
1/ Ngày 26/5/1922. Diễn thuyết tại Ecole des Langues
orientales vivantes - Trường Sinh ngữ Đông phương. Đề tài: L'évolution de
la langue annamite - Sự tiến hóa của tiếng An- nam945.
Phạm Quỳnh lược qua tình trạng ngôn ngữ ở Việt Nam: Trải ngàn
năm bị Tầu đô hộ, văn chương Việt chia làm hai loại: bác học, chữ Hán và bình
dân, chữ Nôm. Tiếng nói dân tộc bị coi thường, chữ Nôm bị khinh rẻ.
Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Du, một đại văn hào xuất hiện,
đưa thứ ngôn ngữ thông tục lên hàng kiệt tác với Truyện Kiều. Công của
Nguyễn Du đối với quốc âm cũng giống như công của Ronsard, Rabelais đối với tiếng
Pháp.
Chữ quốc ngữ, do các linh mục Tây Phương đặt ra với mục đích
truyền giáo; nhờ Trương Vĩnh Ký và Paulus Của, được truyền bá rộng rãi ở Nam Kỳ,
bởi vì trong Nam không có lớp nho học bảo thủ như đất Bắc.
Khoảng 1900, sau khi Tầu thua Nhật, người Tầu bắt đầu du học
Âu Mỹ; khi về nước, họ đã dịch đủ loại tác phẩm Tây phương, từ Darwin, Kant, đến
Rousseau, Montesquieu, Vol- taire, Diderot... sang chữ Hán. Đó là những sách
Tân Thư. Các nhà nho Việt đọc tân thư, tiếp nhận, và dịch lại những danh từ
khoa học, kỹ thuật, triết học, mà người Hoa đã dịch sang chữ Hán.
Khi lớp người Tây học (chúng tôi) bắt đầu dịch các sách Tây
Phương sang tiếng Việt, thì đã có sẵn kho danh từ Hán- Việt do các bậc đàn anh
dịch từ chữ Hán sang: Chữ quốc ngữ hiện đại hình thành và giàu mạnh,
là nhờ sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phái Nho và Tây học.
Sự phục hưng tiếng Việt qua quốc ngữ không được người Pháp biết
đến, kể cả những người đã Việt hoá nhất, họ chỉ học tiếng Việt hàng ngày, khi đụng
phải một vài danh từ Hán Việt là họ giãy nẩy lên, bảo đấy là tiếng Tầu. Nói là
mượn tiếng Tầu thì cũng không đúng hẳn: Thực ra, để tạo chữ mới, tiếng Việt
cũng như tiếng Cao Ly, Nhật, quan thoại, đều mượn chữ Hán, một tử ngữ, hệt như
người Âu mượn chữ La tinh, Hy lạp. Khi các bạn viết: électro-dynamique thì
cũng giống như chúng tôi dùng từ Hán-Việt vậy.
Tại sao phải dùng từ Hán-Việt? Ví dụ intuition dịch
là trực giác, trực là thẳng, giác là thấy, dễ hiểu hơn là phiên âm thành anh-tuy-di-on hay
giải nghĩa dài dòng sang tiếng Việt. Nhưng có những tiếng có thể dịch thẳng
sang tiếng Việt, như l'aréoplane thành tầu bay hoặc automobile phiên
âm thành ô tô; la gare thành nhà ga. Về tên riêng, chúng
tôi phiên âm tên Napoléon thành từ Hán Việt Nã Phá Luân, bởi
ba chữ này có âm vang chiến đấu; Washington thành Hoa Thịnh Đốn vì
âm vang thanh nhã hợp với đất kinh thành.
Khi ngôn ngữ bất đồng, thì không thể hiểu nhau được. Các bạn
đang học trường Sinh Ngữ Đông Phương, vậy nếu các bạn muốn học tiếng nước tôi
thì không chỉ học ngôn ngữ hàng ngày, nên học cả ngôn ngữ văn chương, và nếu có
thể, học thêm chữ nho, để có thể tìm hiểu đến nguồn cội ngôn ngữ Việt Nam946.
Bài L'évolution de la langue annamite mở đầu
cho "chiến dịch" cổ động mà Phạm Quỳnh đã trù định: Thừa dịp
được toàn quyền Maurice Long cử sang Pháp diễn thuyết tại các trường lớn, ông
đã tìm cách thuyết phục Pháp đừng thi hành chính sách đồng hoá ngôn ngữ ở Việt
nam. Mở đầu bằng lời khuyên sinh viên trường sinh ngữ, ngoài tiếng Việt hàng
ngày, nên học văn chương Việt, học thêm chữ nho, để hiểu những danh từ Hán-Việt.
2/ Ngày 31/5/1922 diễn thuyết ở Ecole
Coloniale- Trường Thuộc Địa, đề tài: L'évolution intellectuelle et
morale des Annamites depuis l'établissement du Protectorat français -
Sự tiến hóa về đường tinh thần của người Việt Nam từ khi nước Pháp đặt Bảo hộ947.
Phạm Quỳnh ghi trong Hành Trình Nhật Ký: "Trị
cái đề này cho cứng và cho ổn cũng khó thật; khó là muốn cho vừa cứng vừa ổn.
Nếu ổn quá thì thành ra nịnh rồi, mà nịnh thì mình không mặt mũi nào; mà nếu cứng
quá tất sẵng, mà sẵng cũng không xong". "Tối hôm nay quyết ăn mặc quần
áo An Nam, lấy quốc phục làm lễ phục, cho nó thêm trịnh trọng. Nghiễm
nhiên là một anh "đồ" An Nam mà ngồi diễn thuyết bằng tiếng
Pháp"948.
Bài này có tính cách chính trị: Phạm Quỳnh tổng kết tiến
trình lịch sử và văn hoá Việt Nam từ đô hộ Tàu đến đô hộ Tây. Mục đích nói cho "các
quan cai trị" tương lai biết rằng: các bạn muốn thành công thì nên học
tiếng Việt, tìm hiểu văn hoá Việt. Mọi sự đàn áp đều đưa đến hậu quả khôn lường.
Phần đầu, ông nói về tình hình văn hoá Việt dưới sự đô hộ của
Tàu: Chữ Hán trở thành ngữ tự chính thống.
Phần thứ nhì, và cũng là phần cốt lõi, ông nói đến nền đô hộ
của Tây. Đại ý như sau: Nước Pháp đến nước chúng tôi đã nửa thế kỷ. Chuyện đã rồi,
chúng tôi đành phải chịu. "Nhưng đối với lớp đàn anh chúng tôi, thì
chẳng qua quý quốc cũng chỉ là một giống "xâm lược" mà
thôi". "Trừ là một dân tộc hèn mạt suy đốn, chứ có bao giờ người dân
một nước lại giương tay ra đón lấy kẻ ngoại quốc đến cưỡng chiếm nước
mình". Bởi thế nên 20 năm sau khi quý quốc đến chiếm hữu, biết bao
nhiêu cuộc nổi dậy chống đối, "cũng chỉ vì cái lòng ái quốc bị
khổ nhục, lòng căm tức tới tâm gan".
Sự căm thù khiến chúng tôi coi việc học tiếng Pháp và học vần
quốc ngữ do người Tây phương đem lại là một cái nhục. Nhưng dần dần, sĩ phu của
chúng tôi cũng phải thừa nhận sự yếu kém của nước mình, và họ đã tìm đọc những
tư tưởng tiến bộ của J.J. Rousseau, Montesquieu qua những cuốn Tân Thư của Tàu,
từ đó phát xuất phong trào Đông Du. Họ muốn trông cậy vào Tầu, Nhật để đuổi
Pháp ra khỏi xứ sở, mà biến cố 1908 - Trung kỳ dân biến là đỉnh điểm.
Khi toàn quyền Paul Beau nhậm chức (1902-1908), ông đã hết sức
cải tổ chính trị, mở rộng các trường Pháp-Việt và mở trường đại học đầu tiên ở
Đông Dương, tôi (Phạm Quỳnh) có hân hạnh với vài người bạn được vào học trường
này. Nhưng chỉ ít lâu sau trường bị đóng cửa vì biến cố 1908.
Người ta giải thích rằng: Vì người Nam chưa có trình độ để học
Đại học; điều đó đúng vì hồi đó chúng tôi làm gì có trường trung học? Việc lập
đại học khi chưa có trung học là một nghịch lý. Thực ra thì ông Beau đã có chủ
kiến sẳn: Từng làm đại sứ Pháp tại Trung hoa, ông biết rõ mỗi năm có hàng nghìn
người Hoa sang Âu, Mỹ du học, quá tốn kém cho gia đình và nhà nước Trung hoa,
cho nên nếu ông lập ra một Đại học Đông Dương ở Hà Nội, mà người Tầu sang học
thì uy thế của Pháp tại Viễn đông càng nổi trội.
Nhưng chính sách khôn ngoan của ông Beau đã không được người
kế nhiệm thấu hiểu. - Ở đây, Phạm Quỳnh muốn nói đến toàn quyền
Antoine Klobukovski (1908-1910), người đã tàn khốc đàn áp các phong trào Duy
Tân và Đông Du, đóng cửa Đông Kinh Nghiã Thục và Đại Học Đông Dương. Đến khi
ông Albert Sarraut sang làm toàn quyền, chính sách cộng tác văn hóa Pháp Việt của
ông Beau mới lại được tiếp tục: những vở kịch của Molière qua bản dịch của Nguyễn
Văn Vĩnh đã được trình diễn ở Hà Nội - Xin nhắc lại: Albert Sar- raut, thuộc đảng
xã hội, làm toàn quyền hai lần (1911-1914) và (1917-1919), sau đó là Maurice
Long (1921-1923), cả hai tiếp tục chính sách cộng tác văn hoá của Beau.
Phạm Quỳnh kết luận: Chúng tôi là một dân tộc cổ
kính có một nền văn hoá lâu đời, ngày nay muốn hội nhập vào thế giới
hiện đại, nhưng dứt khoát không muốn từ bỏ nền văn minh, cái quá khứ mà tổ tiên
đã để lại qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi muốn là chính mình. Muốn giữ lấy bản sắc
của mình, giữ lấy cái quốc hồn quốc tuý của dân tộc mình.
Vì sự tình cờ của lịch sử, chúng tôi phải chịu sự bảo hộ của
nước Pháp. Chúng tôi muốn được nước Pháp giúp đỡ trong công cuộc cải cách, bởi
nước Pháp là một cường quốc, thông qua lịch sử, luôn luôn góp phần vào công cuộc
tranh đấu giải phóng con người949.
Với bài L'évolution intellectuelle et morale des Anna-
mites depuis l'établissement du Protectorat français trên đây, Phạm Quỳnh
đánh vào tâm lý những nhà cai trị tương lai. Nội dung mãnh liệt. Lời lẽ khôn
khéo. Không khác gì lời Phan Văn Trường trong bản Thỉnh Nguyện Thư 1919. Phạm
Quỳnh trong tư thế thuyết khách. Phan Văn Trường viết lời thỉnh nguyện của một
dân tộc.
3/ Ngày 5/7/1922. Diễn thuyết ở Société française des
amis de l'Orient- Hội Ái hữu Đông phương. Đề tài: La poésie annamite - Thi
ca Việt Nam950. Bài này giới thiệu hai mảng thi ca quan trọng nhất của Việt
Nam: Ca dao và Truyện Kiều. Vào đề, ông nói ngay: Thi ca của dân
tộc nào là đặc biệt của dân tộc ấy, không thể dịch ra tiếng nước khác được. Dịch
tức là diệt. Mà muốn dịch, lại phải thông thạo cả hai thứ tiếng. Tôi (Phạm Quỳnh)
có thể tự hào biết rõ tiếng nước tôi, nhưng làm sao tôi biết hết những tinh vi trong
tiếng Pháp, vậy tôi dịch phải sai nhiều lắm. Muốn thưởng thức thơ nước tôi, các
bạn chỉ có cách học tiếng Việt.
Sau đó ông dịch một số câu ca dao và giải thích những cái hay
tuyệt vời không thể dịch sang tiếng Pháp được, ví dụ hai chữ chiều chiều dịch
thành soir soir thì làm sao nói được nỗi buồn với dư âm day dứt tiềm ẩn
trong âm thanh chiều chiều.
Ca dao, mới chỉ là những bông hoa dân gian, hoa rừng, không
trồng mà mọc. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du, mới là thơ của nhà đại
thi hào dân tộc. Kiều là một quyển sách bói - livre d'horoscopes, giây phút nào
trong đời người, bạn cũng có thể mở Kiều và tìm thấy những câu thơ phù hợp. Từ
thượng cổ Hy Lạp đến nay, thi nhân luôn luôn băn khoăn tới số phận con người.
Nhưng Tây phương thường diễn ca theo lối huyền ca thần bí, trong khi thi nhân
nước tôi, lấy thân phận làm chủ não - leit-motiv của đời người đàn bà
bị khổ nhục vì có nhan sắc, có lòng cao thượng và có quan niệm khác thường về
nghĩa vụ con người.
Quý quốc sang cai trị chúng tôi đã 50 năm. Trong 100 công chức
Pháp thì có độ 10 người biết tiếng Việt, nhưng điều quái lạ là không ai tìm đọc
truyện Kiều! Ông Abel des Mi- chels có dịch và chú thích nhưng cũng dịch sai
nhiều lắm. Ông Nguyễn Văn Vĩnh, bạn của chúng tôi, đã dịch nhiều tác phẩm của
quý quốc sang tiếng nước tôi, và ông đã dịch cuốn Kiều sang tiếng Pháp. Lần này
ông sang Pháp để tìm một văn tài thượng đẳng của quý quốc (nobilité littéraire
française) có thể nhuận sắc lại bản dịch của ông để in bên Pháp951.
Tôi nói thế không ra ngoài đề đâu, mỗi chi tiết đều có ý quan
trọng về chính trị cả đấy. Bởi có những ý kiến đang thịnh hành cho rằng tiếng
An Nam chẳng qua là một "thổ âm" phải tiêu diệt dần đi,
thay tiếng Pháp vào. Một tiếng nói mà chúng tôi đã giữ được qua bao nhiêu thế kỷ
chống lại tiếng Tầu. Người ta thường nói một dân tộc sống về tiếng nói, và nếu
đúng như thế thì dân tộc chúng tôi quyết muốn sống đây! Chẳng phải vì bọn
trí thức chúng tôi ghét tiếng Pháp mà nói vậy: chúng tôi muốn truyền bá
văn minh Tây phương, nhưng sự truyền bá này phải không phương hại gì đến
tiếng Quốc âm và nền văn minh lâu đời của chúng tôi.952
Với chủ đề văn chương, Phạm Quỳnh đã nói chính trị: bảo
vệ triệt để ngôn ngữ dân tộc trước nguy cơ bị chính quyền thuộc địa dẹp hẳn để
thay thế bằng tiếng Pháp như đối với các nước Châu Phi. Để bảo vệ tiếng Việt,
Nguyễn Văn Vĩnh dịch Kiều và hai ông Vĩnh, Quỳnh đề cao Kiều như một kiệt tác,
để người Pháp thấy cái hay trong tiếng Việt khiến họ phải kính phục và tôn trọng.
Sự đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh là trong chủ đích ấy, nhưng một số nhà nho
không hiểu. Ngô Đức Kế đã cực lực phản đối bằng những lời lẽ luân lý hết sức
thiển cận. Sự hiểu lầm Phạm Quỳnh còn kéo dài trong nhiều thập niên sau với
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Hoàn...
4/ Ngày 22/7/1922 diễn thuyết tại Académie
des Sciences morales et politiques - Hội Hàn Lâm Luân lý Chính trị học.
Mặc quốc phục.
Đề tài giáo dục: Un problème d'éducation des races.
Comment doit-être faite l'éducation des Annamites par La France?- Một vấn đề
giáo dục giống nòi. Nước Pháp phải giáo hoá người An Nam như thế nào?
Đây là bài quan trọng nhất, bàn thẳng vào chính sách giáo dục
của Pháp ở Việt Nam, mở đầu bằng những lời:
"Trong sử cũ nước Việt Nam chúng tôi, thường nói đến những
bậc người đại trí (...) Gặp những cơ hội gì quan trọng, hay là khi nào phải xét
đến một cái vấn đề lợi hại cho cả nước, thời chính Hoàng đế hay là các quan quốc
vụ đại thần, hay là bất cứ người dân nào hữu tâm về vận mệnh nước nhà, thường
hay tìm đến để hỏi han. Mà các bậc ấy bao giờ cũng lấy những điều chính lý, những
sự khôn ngoan mà khuyên bảo. Mà những lời khuyên bảo ấy, hầu hết là nghe theo cả.
Toà Hàn Lâm của Đại Pháp, là nơi tẩu trạch (sanc-
tuaire) những ngài học vấn uyên thâm, khôn ngoan tài trí của quý quốc..."953
Lời mở đầu vẫn xác định nước mình có nền văn hoá lâu đời, có
những bậc hiền triết mà vua, quan, dân đều phải nghe theo. Sau mới nói đến Hàn
Lâm Viện Pháp, đặt các vị hàn lâm lên trên hết, hy vọng tiếng nói của họ sẽ được
chính quyền Pháp nghe, như ở xứ Việt, từ xưa. Chúng tôi đã bị Pháp đô hộ hơn 40
năm. Bởi yếu thế về chính trị, nên đã không "đủ sức chống lại một
kẻ xâm lược vừa giỏi vừa mạnh hơn nhiều". Chúng tôi thua trận vì: "nước
chúng tôi là gốc ở một cái văn minh rất cổ ở Á Châu, trong bao nhiêu thế kỷ
tựa hồ như cách biệt với thế giới bên ngoài".
Trước Hàn Lâm Viện Pháp, Phạm Quỳnh vẫn xác định: Pháp là kẻ
xâm lược, sau nông nỗi mất nước buổi đầu, những phần tử ưu tú của
đất nước chúng tôi mới nhận thức được sự yếu kém về học thuật của mình, muốn được
thấm nhuần "cái học thuật và cái văn minh nhân đạo" của
nước Pháp. Chúng tôi là một dân tộc bị áp bức, trông chờ ở nước Pháp, cái nôi của
nhân quyền và giải phóng con người, giúp đỡ học hỏi để trở thành một nước tân
tiến. Tóm lại, chúng tôi rất mong được giáo hoá, nhưng quý quốc định
giáo hoá chúng tôi như thế nào đây? Sau khi bãi bỏ nền giáo dục cổ truyền
của chúng tôi, quý quốc chưa tìm được giải pháp nào ổn thoả. Hiện có hai lập luận:
- Nhóm thực dân lâu đời cho rằng: Dân An Nam càng có kiến thức
càng nổi lên chống Pháp, vậy chỉ nên dậy chúng trở thành những người thợ, hoặc
thư ký, dễ sai bảo. Đây là một "lập luận hẹp hòi, ích kỷ, không xứng đáng
với truyền thống nhân đạo của nước Pháp, mà còn nhục mạ khả năng tri thức của
dân tộc tôi". May mà chưa thực hiện.
- Lập luận thứ nhì, đang thực hiện, là mở trường dậy từ cấp
tiểu học, tiến dần lên trung học, và đã bắt đầu nền đại học, xin rất cám ơn.
Nhưng lại có vấn đề:
Nếu chúng tôi là một dân tộc vô văn hoá, hay một dân tộc mới,
vừa xuất hiện trên mảnh đất tân bồi nào đó, không có quá khứ, không có lịch sử,
thì việc giáo hoá như vậy cũng được. Tức là cứ việc "Tây hoá" cho
thành người Pháp. "Nhưng dân Việt Nam chúng tôi, không thể ví như tờ
giấy trắng được. Dân tộc chúng tôi là một quyển sách cổ (un
vieux parchemin) đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai, đã mấy
mươi thế kỷ nay; không có thuốc gì xoá hẳn được thứ chữ ấy đi. Không ai có
quyền tự do muốn viết gì vào đấy thì viết được. Quyển sách cổ ấy, có thể
đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang, nhưng không thể đem in một thứ chữ ngoài
lên trên các dòng chữ cũ được".
Còn một thuyết khác nữa khá phổ biến, cho rằng: Người Nam xưa
đã học chữ Tầu, nay học chữ Tây là phải, còn cái tiếng An Nam man rợ ấy phải
tiêu diệt dần đi, nó chỉ là một thứ "thổ âm" (patois); đến
ngày nào bao nhiêu trẻ con nước Nam đếu biết nói tiếng Pháp cả, thì nước Nam sẽ
trên đường tiến bộ. Nhưng giả thử có ngày bao nhiêu trẻ con An Nam đều biết nói
mấy câu tiếng Tây "ba rọi" (petit nègre), nhưng lại quên tiếng
nước mình, vì không còn được dậy ở trường nữa, thì đó có phải là thời tiến bộ của
nước tôi không?
Hay còn một giải pháp hợp lý hơn, là cho dân An Nam học tiếng
Việt ở bậc tiểu học, tức là bậc giáo dục phổ thông trước đã. Rồi lên cao hơn, học
thêm tiếng Pháp để dự bị vào trung học, cao đẳng, đại học. Chính ở bậc trung học
này, cũng phải dậy thêm chữ nho, vì đối với tiếng An Nam, chữ nho cũng giống
như chữ La tinh đối với tiếng Pháp. Hiện nay chưa có nghị định nào bắt người An
Nam phải học thuần tiếng Pháp cả, nhưng chữ An Nam chỉ có một địa vị rất
nhỏ ở cuối bậc tiểu học mà thôi. Thử hỏi chính phủ Pháp có thể trông cậy
vào những người An Nam học ở bên Tây, đỗ kỹ sư, tiến sĩ, mà quên cả tiếng mẹ đẻ,
thì đối với dân mình, chỉ là những người xa lạ, làm sao có thể truyền bá cái
văn minh Tây phương cho họ được?
Vậy nền giáo dục của chính phủ Bảo hộ, muốn có kết quả tốt
thì phải đào tạo được những người Việt Nam chân chính, vừa có cái học thái tây,
vừa biết giữ gìn ngôn ngữ, phong tục của nước mình. Vì dân tộc tôi mà tôi tha
thiết mong các danh sư của Viện Hàn Lâm Pháp soi xét vần đề này954.
Bốn bài diễn văn của Phạm Quỳnh năm 1922 tại Paris đã có tác
dụng.
Phạm Thế Ngũ viết: "Đến năm 1924, vì nhiều nguyên
nhân chính trị, và cũng vì chiến dịch vận động của Phạm Quỳnh, người Pháp lần đầu
ở Bắc và Trung, lập ra một bậc Ấu học ở Việt Nam trong ba năm hoàn toàn học bằng
tiếng Việt để thi lấy bằng Sơ học yếu lược.(...) Phạm Quỳnh coi đó là một thắng
lợi trong công cuộc vận động giáo dục, thực hành chủ nghiã quốc gia về đường
văn hoá. Cũng như một thắng lợi khác nữa của ông là việc mở một khoa "Ngôn
ngữ và văn chương Hán-Việt" ở trường Cao đẳng mà ông đã được cử phụ trách
giảng dậy, một thứ mầm mống của Đại học văn khoa sau này"955.
Công trình văn học, triết học, ngữ học, dịch thuật của Phạm
Quỳnh đã xác định địa vị của ông, không ai có thể chối cãi được. Hầu hết trước
tác của Phạm Quỳnh nằm trong Nam Phong, hiện nay, trọn bộ 210 số, đã được Viện
Việt Học ở Ca- lifornia đưa vào DVD. Di sản văn hoá đồ sộ của Nguyễn Văn Vĩnh
và Phạm Quỳnh, hai nhà văn hoá bị kết án "bán nước", hiện vẫn
còn ngủ yên chưa được lựa chọn, soạn thảo, chú thích theo tiếng Việt hiện thời
và in lại một cách hệ thống để dùng làm sách giáo khoa. Phần Thượng Chi
văn tập, đã in lại, không có gì đáng kể. Chỉ riêng về triết học và dịch sách
Pháp, công trình của Phạm Quỳnh Nguyễn Văn Vĩnh, cũng đã đầy đủ cho học sinh và
sinh viên sử dụng, thay vì dùng những bản dịch của những "dịch giả" mới
học tiếng Pháp dăm năm, chưa đủ trình độ và kiến thức để hiểu nguyên bản, nói
gì đến dịch đúng.
Nguyễn Bá Trác, ngoài Hán Văn, còn đóng góp hai bài tuyệt bút Ngọn
gió hồ Gươm và Bài tình tự với sông Hương, trên Nam Phong số 1 và 2,
hai bài tuỳ bút quốc ngữ đầu tiên nói lên tâm sự đớn đau của người xa quê nhớ
nước.
Ngoài trước tác, Phạm Quỳnh còn lập phụ trương Tự vựng,
quốc ngữ, chữ nho, chữ Pháp - từ Nam Phong số 1 đến số 10, in những chữ mới,
gồm những từ Hán Việt, được các nhà Nho và Tây học dịch từ tiếng Pháp và chữ
Hán sang quốc ngữ. Đó là những danh từ khoa học, triết học, ngữ học, luận lý,
trừu tượng... như anh hùng ca, ảnh hưởng, áp chế chủ nghiã, bán khai,
bành trướng, bi đát, bi kịch, bí quyết, duy tâm chủ nghiã, duy vật chủ nghiã...
có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện, và sau này sẽ trở thành thông dụng đối với
chúng ta. Tiếc rằng, phần phụ trương Tự vựng này, không được chụp lại
trong DVD Nam Phong, nhưng trên sưu tập sachxua.net có đủ, cho thấy
con đường của Phạm Quỳnh: xây dựng tiếng Việt từ những số đầu Nam Phong.
Phạm Quỳnh tiếp tục với bộ Việt Nam Tự Điển của hội
Khai Trí Tiến Đức, mà ông là chủ tịch, soạn cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ,
Trần Trọng Kim, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đỗ Mục.... Việt Nam Tự Điển ra
đời năm 1931 -tuy còn nhiều khuyết điểm, chưa làm xong và chưa thể sánh với Đại
Nam Quấc Âm tự vị của Paulus Của- nhưng đã có thêm một số chữ mới, đánh dấu
giai đoạn phát triển quốc ngữ Nguyễn Văn Vĩnh - Phạm Quỳnh tiếp nối giai đoạn
Trương Vĩnh Ký - Huỳnh Tịnh Của.
897 Phùng Bảo Thạch, Một nhà nho "tiết
tháo": Phan Khôi, Bọn NVGP trước toà án dư luận, trang 76.
898 Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động
của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt
thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958.
899 Việc này có thể hiểu: người Pháp đứng tên thì mới được cấp
giấy phép và được hưởng quyền tự do báo chí.
900 Theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, tập 3, Đại Nam in lại tại Mỹ, chú thích trang 128.
901 Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, chương
IV, chú thích trang 83, Chân trời mới, 1962, có bản điện tử trên Talawas.
902 Em họ Phan Khôi.
903 Hồi ký Đặng Thai Mai, Tác Phẩm Mới, 1985, trang
355-356.
904 Đã dành chương 39, quyển II, (trang 381- 394) để viết
về Đặng Thai Mai và Võ Nguyên Giáp, thời kỳ 1932- 1940 mà ông có dịp gặp gỡ thường
xuyên, nhất là về người vợ đầu của ông Giáp và người con gái của Đặng Thai Mai
sau này trở thành vợ thứ nhì của ông Giáp.
905 Tức là Tham tá.
906 Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt, quyển II, in lại
ở Mỹ, không đề năm, trang 381-382.
907 Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (Tìm
hiểu tạp chí Nam Phong), bản dịch Phạm Trọng Nhân, Ý Việt, Paris, 1993, trang
68.
908 Lược truyện các tác gia Việt Nam, quyển II, trang
152.
909 Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, Là Bối, Sài
Gòn, 1970, trang 213.
910 Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu sử Trần Quý Cáp, Trần Quý Cáp
của Lam Giang, Đông A, Sài Gòn, 1971, trang 16.
911 Bản dịch Tự phán ra tiếng Pháp của Georges
Boudarel, France-Asie số 194- 195, Paris, 1968.
912 Phan Bội Châu, Tự phán, bản Nhân Chủ Học Xã in,
Hoa Kỳ, 1987, trang127.
913 Ngày 19/6/1912.
914 Tức là quyền Chi bộ trưởng Quang Phục Hội ở Xiêm.
915 Xử bắn.
916 Tự phán, sđd, trang 128.
917 Tự phán, sđd, trang 186.
918 Phan Bội Châu niên biểu, tên khác của Tự
phán, Chương Thâu, Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh, 2001, trang 177.
919 Mỗ là tiếng chỉ người, thay cho tên thật.
920 Tự phán, bản Nhân Chủ học xã, trang 209.
921 Tự phán, trang 191.
922 Tự phán, trang 199-200.
923 Tự phán, trang 128 và 166.
924 Nguyễn Bá Học.
925 Lương tháng.
926 Nóng nẩy sơ suất.
927 Nam Phong số 50, tháng 8/1921.
928 Nguyên bản chữ Hán, in trên Nam Phong phần chữ Hán
trước, sau tác giả dịch và in lại trên Nam Phong quốc ngữ từ số 38, 8/1920 đến
số 43, 1/1921.
929 Khoảng tháng 3- 4/1910
930 Trích Hạn mạn du ký.
931 Đào Hùng, Phụ Nữ Tân Văn từ Nam ra Bắc, Ông
Phạm Quỳnh và vấn đề lập hiến ở nước Nam, PNTV số 87 (18/6/1931), đăng lại trên 13
năm tranh luận văn học, sưu tập Thanh Lãng, trang 252-261.
932 Trí đăng, Sài Gòn, 1972.
933 Là anh Dương Quảng Hàm.
934 In trên Nam Phong số 1 (7/1917).
935 Nam Phong số 17 (11/1918).
936 Nam Phong từ số 58 (4/1922) đến số 100 (10-11/1925)
in lại trong Hành trình nhật ký, Ý Việt, Pháp, 1997.
937 Hành trình nhật ký, Ý Việt, Pháp, trang 252.
938 Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh
tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, trang 160.
939 Bài đã dẫn trong chương 20.
940 Hành trình nhật ký, trang 485.
941 Phạm Tôn, Người nặng lòng với nước, tài liệu gia
đình, Blog Phạm Tôn.
942 Hành trình nhật ký, trang 491.
943 Phạm Tôn, bđd.
944 Nxb Bùi Huy Tín, Huế, 1938.
945 Nam Phong, phụ lục tiếng Pháp, số 69 (3/1923) và số
70 (4/1923).
946 Tóm tắt các ý chính trong bài diễn văn của Phạm Quỳnh.
947 Nam Phong, phụ lục tiếng Pháp số 66 (12/1922) và 67
(1/1923).
948 Hành trình nhật ký, trang 343- 345.
949 Tóm lược các ý chính trong bài diễn thuyết.
950 In trong Revue Orient et Occident ở Paris, tháng 8/1922,
và Nam Phong phụ trang Pháp ngữ, số 63 (9/1922).
951 Bản dịch Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh được in dần trên
Đông Dương tạp chí từ số 18 trở đi, rồi trên Trung Bắc Tân Văn. Xuất bản sau
khi Nguyễn Văn Vĩnh qua đời (nxb Alexandre de Rhodes, 1942, Hà Nội), 2 tập, gồm
ba phần: thơ, chú giải, và dịch từng chữ. Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch Kiều trong
khoảng 1913-1916.
952 Tóm lược những ý chính trong bài diễn thuyết.
953. Trích theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Nam Phong số 71
(5/1923).
954. Tóm tắt những ý chính trong bài diễn thuyết.
955. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân
Biên, quyển 3, trg 150.
10/9/1995
Thụy Khuê
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét