Thứ Tư, 16 tháng 10, 2024

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc 2

Nhân Văn Giai Phẩm
và vấn đề Nguyễn Ái Quốc 2

Chương 6

Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX
Từ phan châu trinh, hoàng đạo đến nhân văn giai phẩm

Những bài viết chủ yếu in trên NVGP gồm hai loại: Loạt bài chính luận trực tiếp định hướng tư tưởng của các nhà trí thức và loạt bài sáng tác dấn thân nói lên khát vọng tự do của các văn nghệ sĩ. Hai thể loại này đan cài và bổ sung cho nhau, tạo nên làn sóng đấu tranh toàn diện cho tự do dân chủ và tự do tư tưởng. Trí thức trong vị trí dẫn đường, được xếp vào loại A. Văn nghệ sĩ, ít "nguy hiểm" hơn, được xếp vào loại B135.

Vì trí thức và dân chủ là hai trục chính trong cuộc đấu tranh: trí thức dẫn đường và dân chủ là mục đích, cho nên trước khi phân tích nội dung tranh đấu của phong trào NVGP, ta cần tìm hiểu mối tương quan giữa trí thức và dân chủ ở Việt Nam trước và trong thời kỳ NVGP. Nguyễn Mạnh Tường là nhà trí thức duy nhất trong thời kỳ NVGP, đã để lại những trang viết mà ngày nay ta có thể dựa vào như những tư liệu chính trị, xã hội, phản ảnh vai trò của người trí thức trong giai đoạn đấu tranh cho tự do dân chủ những năm 50 ở miền Bắc và hiểu được tại sao chế độ cộng sản lại "căm thù" trí thức và loại trừ trí thức.

● Phan Châu Trinh và dân trị chủ nghiã

Khái niệm tự do dân chủ phát xuất từ Tây phương. Nhưng tự do dân chủ không xa lạ gì với người Việt, bởi, nói như Hoàng Đạo: "Khái niệm tự do dân chủ đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta từ cuối thế kỷ XIX". Đối với những nhà cách mạng Tây học đầu thế kỷ XX đã dùng tiếng Pháp để chống Pháp trên báo ở Pháp và ở Việt Nam, như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh... tự do dân chủ là điều kiện hiển nhiên và tất yếu của con người, thu nhận trực tiếp qua giáo dục học đường.

Nhưng đối với những nhà nho, tự do dân chủ, phải đi vòng qua tân thư, là những sách mà trí thức Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... đã dịch Montesquieu, J.J. Rousseau... ra chữ Hán. Phan Châu Trinh, một trong những nhà nho chủ trương phong trào Duy Tân, đã tiên phong bàn về dân chủ. Sau 14 năm ở Pháp về, cuối năm 1925, ông diễn thuyết tại Hội Thanh Niên Sài Gòn, đề tài Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ nghiã, luận văn cơ bản phân biệt quân chủ và dân chủ, cho một dân tộc chưa thoát vòng nô lệ.

Việt Nam đầu thế kỷ XX, trình độ dân trí còn kém, Phan Châu Trinh chỉ cắt nghiã ngắn gọn: dân trị là cứ bảy năm người dân bàu lại ông Giám Quốc (Tổng Thống) một lần, còn quân chủ, vua là cha truyền con nối. Dân trị có nghị viện do dân bàu lên, giữ quyền lập pháp. Quyền hành pháp giao cho quan tòa, thuộc ngành tư pháp, ở trong chính quyền nhưng có vị trí độc lập. Và ông kết luận: "Nói tóm lại, dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người thường, đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người khác thì không được mà thôi"136.

Sự giáo dục dân chủ cho một quần chúng sống dưới thời phong kiến và nô lệ, được Phan Châu Trinh đề ra từ năm 1925. Hơn mười năm sau, Hoàng Đạo, nhà văn kiêm luật gia, tiếp tục việc giáo dục quyền công dân, quyền làm người trên báo Ngày Nay, sử dụng quyền tự do dân chủ để tranh đấu với người Pháp và hướng dẫn dân tộc.

● Hoàng Đạo và dân chủ

Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, là một trong những người lãnh đạo Quốc Dân Đảng và là nhà văn Việt Nam đầu tiên sử dụng quyền tự do dân chủ một cách có hệ thống để chống lại thực dân Pháp và giáo dục dân tộc về nhân quyền.

Sau này, Nguyễn Mạnh Tường xác định: những người xuất thân trường Luật của Pháp là những người chống Pháp một cách mãnh liệt và có hiệu quả. Điều này thực không sai nếu ta điểm qua những nhà cách mạng: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, họ đã viết những bài báo tiếng Pháp, thập niên 1920 ở Paris, rồi đến Nguyễn Tường Long, Nguyễn Mạnh Tường sau này, đều là những người đã học luật.

Hoàng Đạo đỗ vào trường Luật Đông Dương Hà Nội, năm 1924 và tốt nghiệp năm 1927. Từ 1933, trên Phong Hoá, dưới bút hiệu Tứ Ly, ông đã viết những bài châm biếm đả kích toàn bộ hệ thống quan lại của chính quyền thuộc địa và bài trừ hủ tục trong xã hội Việt Nam. Trên báo Ngày Nay, từ 1937 đến 1939, ông hoàn tất những hồ sơ lớn về Vấn đề thuộc địa, Vấn đề cần lao, Công dân giáo dục, nội dung phê phán chính quyền thực dân, chỉ trích sự vi phạm nhân quyền trong chính sách đánh chiếm thuộc địa của người da trắng, chỉ trích sự vi phạm luật lao động trong chính sách mộ phu và cổ động việc giáo dục công dân về dân quyền và nhân quyền. Loạt bài này căn bản dựa trên tự do dân chủ, quyền làm người, luật lao động, quyền công dân, thoát thai từ tinh thần cách mạng 1789 của Pháp.

Với người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, Hoàng Đạo gửi tới họ những khát vọng của dân Việt: "Người Nam chỉ ao ước một điều: là được những sự tự do của nền dân chủ và được dần dà coi ngó, đảm đang lấy việc công trong nước của họ. Ngày nào dân Annam có quyền, trong sự tự do, tự kén chọn lấy những người cầm quyền cai trị họ, ngày ấy nguyện vọng của người Nam đã đạt được nhiều rồi vậy137".

Kết tội chính sách thuộc địa dã man của Anh, Tây Ban Nha, Hoàng Đạo cho người Pháp biết rằng chính sách thuộc địa của họ là bất hợp pháp và nếu họ không thay đổi chính sách cai trị thì người Việt sẽ nổi lên chống lại.

Loạt bài Vấn đề thuộc địa, tổng hợp những lý luận chặt chẽ, kiến thức uyên bác, tầm nhìn rộng về thế giới bên ngoài, về lịch sử chinh phục thuộc địa, về sự tiến hoá của luật pháp.

Trong bức thư ngỏ gửi cựu toàn quyền Varenne, về chỉ dụ báo chí 4/10/1927, Hoàng Đạo viết: "Tôi không cần phải nhắc lại rằng đạo chỉ dụ ấy đã bắt các báo chí ở đây 138 phải xin phép mới được xuất bản và phép cho xuất bản chính phủ muốn thu về lúc nào cũng được. Tôi không cần phải nói đến tệ hại của chế độ ấy, tôi đã nói nhiều rồi (...)

Muốn rửa sạch cái tiếng không hay đã đem tên ông đặt vào cái chỉ dụ 1927, ông chỉ còn có một phương pháp, là đem hết tài lực của ông mà xin hủy bỏ cái chế độ không hợp với trình độ của dân tộc Việt Nam ấy đi, để chúng tôi được hưởng một chút tự do, một chút quyền lợi về chính trị mà ông bảo phải đi đôi với công việc giáo hoá139".

Hoàng Đạo không chỉ đòi tự do dân chủ cho người Việt, mà ông đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn bộ những dân tộc bị trị trên thế giới. Khi đối đầu với Pháp, ông luôn giữ thái độ bình đẳng của người đòi hỏi người, của một dân tộc đòi hỏi một dân tộc khác. Ông khẩn thiết yêu cầu nước Pháp, một nước tự nhận là quê hương, là nguồn cội của Nhân Quyền, hãy áp dụng cái Nhân Quyền ấy ở Việt Nam.

Loạt bài Vấn đề cần lao, phản đối tình trạng người lao động bị bóc lột ở Việt Nam nói riêng và người bóc lột người ở thời đại kỹ nghệ phát triển nói chung, Hoàng Đạo viết:

"Người ta đem phủ một lượt tro lên sự đốn mạt người bóc lột người. Người ta đem những danh hiệu mới, như tờ cam đoan, tờ giao kèo, lao công cưỡng bách, để che đậy sự thực140".

Ông phân tích và đứng trên bình diện luật pháp để phê phán những bất cập, phạm pháp trong các chế độ: Lao công cưỡng bách (mộ phu đi rừng cao-su), luật xã hội, luật lao động, vấn đề thanh tra và nghiệp đoàn...

Loạt bài Công dân giáo dục nhắm vào sự giáo dục dân chủ, giải thích cho người Việt hiểu quyền lợi và trách nhiệm của người công dân trong một nước dân chủ, khác với bổn phận một thần dân dưới thời phong kiến: Muốn được tự do, dân chủ, người dân trước hết phải tự ý thức được cái giá phải trả cho tự do, dân chủ, tức là phải ý thức được sự trưởng thành, độc lập của mình, phải hiểu quyền công dân và trách nhiệm của người công dân.

Hoàng Đạo viết: "Ý tưởng công dân là một ý tưởng mới. Cùng với những ý tưởng khác, có sức mạnh vô cùng, ý tưởng tự do bình đẳng, nhân đạo, công lý, ý tưởng công dân vì một tình cờ trong lịch sử đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ trước141".

Trong loạt bài này, Hoàng Đạo giải thích rõ ràng các khái niệm mấu chốt: hiến pháp, nhân quyền, tự do, ý nghiã cuộc cách mệnh Pháp, tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do chính trị.

Tóm lại, khái niệm tự do dân chủ đã truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, với đoàn quân viễn chinh Pháp, và được mở rộng, dưới thời Pháp thuộc, qua ngả học đường, phát sinh một lớp trí thức tân học, đấu tranh cho dân chủ bằng ngòi bút, và một lớp văn nghệ sĩ mới, sáng tác tự do, xây dựng nền văn học quốc ngữ.

Hoàng Đạo là ngòi bút duy nhất trong thập niên 1930- 1940, không những đã đấu tranh cho dân chủ, đòi độc lập với Pháp mà còn giáo dục dân tộc Việt Nam về dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện.

● Nhân Văn Giai Phẩm và dân chủ

Sau 1954, Nguyễn Hữu Đang đặt trọng tâm tranh đấu tự do dân chủ trên báo Nhân Văn. Trong ba số đầu, ông phỏng vấn ba nhà trí thức danh tiếng, không thuộc nhóm Nhân Văn: Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh và Đặng Văn Ngữ về vấn đề mở rộng tự do dân chủ, với hai câu hỏi:

1- Theo ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?

2- Theo ý ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng rãi những vấn đề gì?

Trả lời hai câu hỏi này, Nguyễn Mạnh Tường đưa ra hai nguyên do thiếu dân chủ: Đảng viên và cán bộ thiếu tinh thần dân chủ và quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần dân chủ. Sở dĩ như thế là vì trong kháng chiến, mọi cố gắng phải dồn vào chiến tranh, "quần chúng nghĩ rằng chưa phải lúc đòi hỏi các tự do dân chủ". Nhưng khi hòa bình rồi, thì vấn đề đòi hỏi tự do dân chủ phải là tất yếu. Riêng ngành đại học cần hai nguyên tắc dân chủ: "Tác phong của cấp lãnh đạo phải thật sự dân chủ" và "việc lựa chọn cán bộ phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính".

Đặng Văn Ngữ trả lời: "Dưới một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích chính phủ thì còn đâu mà thấy khuyết điểm về tự do dân chủ?" Và ông xác định nhiệm vụ của người trí thức: "Trong việc xây dựng tư tưởng tự do và dân chủ, nhiệm vụ chính phải là của trí thức". Nhưng ông cũng nhận thấy sự "thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm" của người trí thức: "Trí thức ở một cương vị thuận lợi và có đủ nhận thức để nhận thấy lãnh đạo có sai lầm, và thực tế là trí thức của ta đã nhận thấy từ lâu một số sai lầm của lãnh đạo. Nhưng trí thức của ta đã thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm nên không dám phê bình xây dựng". Đặng Văn Ngữ kết luận: "Để phát triển bất kỳ một ngành nào, vấn đề cần phải đưa ra thảo luận là vấn đề tự do dân chủ".

Đào Duy Anh trả lời: Những kẻ thù của tự do, người ta đều biết cả. Đó là những tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái, những bệnh giáo điều, công thức, sùng bái cá nhân, ngang nhiên trong công tác lãnh đạo văn nghệ và học thuật và cả giới trí thức nữa. Muốn thực hiện tự do dân chủ, thì "giới trí thức là những người thiết tha nhất đối với các thứ tự do ấy chỉ có một cách là đấu tranh. Đấu tranh trong công tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xã hội. Đấu tranh bằng hoạt động phê bình, phản phê bình, tự phê bình."

Sự đấu tranh của trí thức không thể là đấu tranh chung chung mà phải có mục đích thực tiễn ở mỗi ngành. Đào Duy Anh viết: "Không ai ngăn cấm anh tự do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện nghiên cứu sáng tác thì thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự do ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo thì thực tế anh cũng chẳng có quyền đâu". Nói cụ thể, ví dụ như trong ngành xuất bản, thì phải tranh đấu "cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học." Trong đại học phải tranh đấu để đại học trở thành "một trung tâm nghiên cứu khoa học cao độ" nghiã là phải đặt tiêu chuẩn chuyên môn lên trên tiêu chuẩn chính trị trong việc lựa chọn chuyên viên.

Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, ra ngày 30/10/56, trong bài Muốn phát triển học thuật, Đào Duy Anh nêu hai căn bệnh nặng nhất trong học thuật là bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân: "Ở nước ta thì bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác- Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ý kiến ấy, hoặc gò bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ý kiến ấy (...) Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.

Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận - các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".

Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 30/8/56, bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ đi tiên phong như ngọn đuốc dẫn đường, Phan Khôi "hỏi tội" lãnh đạo. Ngoài ra, còn có truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, một trong những truyện ngắn hay nhất thời NVGP, nói lên sự bất lực của chính sách tẩy não: không ai có thể tịch thu quá khứ con người. Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn mô tả một chân dung bồi bút. Bài thơ Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính thuật lại sự thức tỉnh của một nghệ sĩ sau 9 năm theo cách mạng.

Trên Nhân Văn số 1 ra ngày 30/9/56, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt là một bài xã luận bằng thơ đả phá chế độ công an trị. Bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm kể lại bi kịch của một nhà thơ trẻ, chỉ in có một bài thơ trên báo với nội dung yêu nước, mà bị bắt đi trong một bối cảnh tăm tối, không biết bị giam giữ ở đâu, có thể bị thủ tiêu; đó là một bản cáo trạng thống thiết về tình trạng bắt bớ giam người trái phép, vô luật pháp. Tranh Nguyễn Sáng khắc lại hậu quả của sự khủng bố trên con người Trần Dần.

Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, ra cùng ngày với Nhân Văn số 1, có các bài: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ của Trương Tửu, Ông Bình Vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan, Em bé lên sáu tuổi của Hoàng Cầm, Cuốn sổ tay của Lê Đại Thanh,... Đây là số báo mạnh mẽ nhất từ trước đến giờ về mặt chống đối chế độ.

Trên Nhân Văn số 3 ra ngày 15/10/1956, Trần Đức Thảo trong bài Nỗ lực phát triển dân chủ, nhấn mạnh đến sự tự do của người trí thức: "Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân".

Trên Nhân Văn số 4, ra ngày 5/11/1956, Nguyễn Hữu Đang viết bài Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề xây dựng một nhà nước pháp trị. Phùng Cung trong Con ngựa già của chúa Trịnh dùng hình ảnh con ngựa già để chỉ những văn nghệ sĩ phục vụ đảng cũng giống như con ngựa của nhà Chúa, quen thói tôi đòi, vinh thân phì gia, mất hết mọi khả năng sáng tạo. Văn Cao trong Những ngày báo hiệu mùa xuân, lại một lần nữa chỉ bọn nịnh thần mà mắng.

Nhân Văn số 5, ra ngày 20/11/1956, trong bài Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Nguyễn Hữu Đang nhắc lại điều 10 của Hiến pháp 1946: Công dân Việt Nam có quyền Tự do ngôn luận - Tự do xuất bản - Tự do tổ chức hội họp - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước và điều 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Trong Bài học Ba-Lan và Hun-ga-ri ký tên Người Quan Sát, Lê Đạt cảnh báo: Nếu muốn tránh một biến cố như biến động Ba Lan thì Đảng phải: "cương quyết và mạnh bạo sửa chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống của nhân dân, mở rộng tự do dân chủ".

Ngày 30/10/56, luật sư Nguyễn Mạnh Tường nổ quả "bom" ngoài luồng Nhân Văn, với bài diễn thuyết Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo, nói trước Mặt Trận tổ quốc.

Sau đây là những bài viết quan trọng của trí thức trong thời kỳ NVGP.

● Phan Khôi phê bình lãnh đạo văn nghệ

Lê Đạt tuyên bố: "Mặc dầu Phan Khôi không lãnh đạo trực tiếp tờ Nhân Văn, nhưng trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân Văn142". Lê Đạt nói lên ý kiến chung của những ai đã đọc các bài Phan Khôi viết trong thời kỳ NVGP, đã thấy sự can trường của người đứng ra lãnh trọng trách chủ nhiệm một tờ báo đòi tự do dân chủ, đối lập với chính quyền cộng sản. Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi có hai bài viết chính: bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ143 và truyện ngắn Ông Bình Vôi 144.

Phê bình lãnh đạo văn nghệ, là một trong những tác phẩm chủ chốt của phong trào NVGP, nhắm vào ba vấn đề thời sự văn học đương thời, nhưng vẫn còn là thời sự văn học hôm nay: Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ. Vụ đàn áp Giai Phẩm Mùa Xuân. Và vụ giải thưởng văn học 1954-1955. Với ngòi bút sắc sảo, tác phong "ngự sử văn đàn", Phan Khôi vạch trần những tác hại của đám quan trường nhất phẩm triều đình: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, những người tổ chức và thi hành việc đánh Trần Dần. Phan Khôi tách bạch hai giai cấp: Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ và ông phê phán ba vấn đề thực tiễn:

1/ Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ nhà văn phải viết theo đúng đường lối của Đảng, Phan Khôi hỏi thẳng lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ việc dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay sao mà phải dùng đến văn nghệ sĩ? Rồi ông buộc tội: "Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ."

2/ Về vụ Giai Phẩm Mùa Xuân: Chất vấn ban chủ tọa Hội Văn Nghệ về việc tổ chức hội họp đánh Trần Dần, Phan Khôi hỏi: "Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công". "Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ "Người" viết hoa. Lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài145 thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi trong phòng họp Hội Văn Nghệ".

Những lời trên đây, tưởng Phan Khôi nói với đám nhất phẩm, nhưng không, đó là những lời ném thẳng vào bệ rồng. Ông không thèm hỏi tội bày tôi nữa, mà đi ngược lên trên, đến manh mối sau cùng, tới lãnh tụ tối cao, qua những chữ: Người, sân rồng, Hoàng thượng, ngai vàng, để xác định: Sự sùng bài lãnh tụ phải đến từ chính lãnh tụ. Nếu lãnh tụ không muốn được tôn sùng, nếu lãnh tụ ưa sự bình đẳng, dân chủ, thì kẻ dưới quyền không thể xu nịnh tâng bốc được. Trước Phan Khôi và sau Phan Khôi, chưa có nhà văn nào dám mạnh mẽ trực tiếp phê bình Hồ Chí Minh như thế.

3/ Về giải thưởng văn học năm 54-55: ba tác phẩm Mưa sao của Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban Chung khảo. Nếu ở trong ban Chung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban Sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng: Một người nào có con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải "hồi tỵ", không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không "hồi tỵ": một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã "liêm chính" cả rồi; một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái "miệng" đã bị "vú lấp".

Qua việc trao giải thưởng văn nghệ, Phan Khôi mỉa mai sự gian dối, ám muội trong các địa hạt khác ở "thời đại Hồ Chí Minh", nói rằng đã đổi mới rồi, mà sao con người lại "thanh liêm" kiểu ấy, bởi "mọi cái miệng đã bị vú lấp mất rồi". Về việc Hồ Chí Minh viết "truyện mẫu" cho nhà văn viết theo, Phan Khôi bảo: "Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết". Về việc Đảng dạy dỗ các nhà thơ nhà văn sáng tác theo chỉ thị, Phan Khôi bảo: "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"

Những lời khẳng khái của Phan Khôi trong thời kỳ NVGP đã trở thành biểu tượng của tinh thần bất khuất Phan Khôi trước mọi áp lực tư tưởng. Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ là văn bản "hỏi tội triều đình" trực tiếp và gay gắt nhất, cho đến nay chưa một trí thức nào dám làm.

Văn bản này sẽ mãi mãi trụ lại như bài văn tiêu biểu cho sự can trường của một nhà trí thức trong thế kỷ XX, đương đầu với sự độc tài của một thể chế, không khác gì bài sớ dâng vua trảm tấu bọn gian thần thời phong kiến.

Chính văn bản này đã khiến giới cầm bút nhìn thấy ở Phan Khôi một nhà lãnh đạo văn nghệ đích thực, và những trí thức khác như Trương Tửu, theo gương Phan Khôi dứt khoát bước vào diễn đàn NVGP.

● Trương Tửu:

Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ

Trương Tửu bước vào diễn đàn với lập luận chặt chẽ và đanh thép của nhà phê bình, ông viết hai bài quan trọng về tự do tư tưởng: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ 146 và Văn nghệ và chính trị 147 với phần hai là Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích148.

Hai bài viết này xác định Trương Tửu là một trong những người lãnh đạo tư tưởng của phong trào NVGP.

Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, tường thuật lịch sử đấu tranh dân chủ của văn nghệ sĩ trong kháng chiến. Trương Tửu đi vào thẳng vấn đề: "Tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ".

Ông xác định bệnh sùng bái cá nhân là bệnh của lãnh đạo văn nghệ:

"Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ (...) Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn

nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia được".

Rồi ông dẫn chứng những cử chỉ, thái độ sùng bái cá nhân của các lãnh đạo văn nghệ, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu, mà theo ông, đó là những kẻ có tâm lý "bảo hoàng hơn vua", "ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm".

Họ sùng bái cá nhân để làm gì? Trương Tửu trả lời: "Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy."

Nhưng vẫn có những nghệ sĩ như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc: "Ai cũng còn nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê bình nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không vì uy quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ tiêu ý kiến riêng của mình".

Vẫn 1948, trong một buổi nói chuyện khác ở Thanh Hóa "có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát họa phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho họa phái ấy (...) chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20". "Sau buổi nói chuyện này, hoạ sĩ Sỹ Ngọc đã viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng Tạo số 4 để gián tiếp bác ý kiến của ông Trường Chinh".

Trương Tửu xác định lại nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong cách mạng kháng chiến:

"Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi tìm chính nghĩa, đi tìm tự do (...) họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào." Còn lãnh đạo văn nghệ: "Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn "yểm" tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó "tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn". Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v¼ còn gì nữa?"

Sự đe nẹt của lãnh đạo văn nghệ đã ảnh hưởng đến một số người: "Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (...) biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi".

Nhưng không phải ai cũng chịu khuất phục: "Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị "trù", bị hành hạ, bị gạt sang một bên."

Tình trạng trù dập, chụp mũ này, dẫn đến hậu quả: "Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lãnh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà bình trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm (...) yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. (...) Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn Nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lãnh đạo văn nghệ".

Sau khi tóm tắt tình hình toàn bộ đời sống văn nghệ từ kháng chiến đến lớp học tập dân chủ 18 ngày, Trương Tửu kêu gọi:

"Đã đến lúc phải sa thải những "nhà lãnh đạo" thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ". "Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói".

Và đây là nguyện vọng của văn nghệ sĩ: "Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lãnh đạo văn nghệ đã cản trở sức phát triển nghệ thuật". "Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ co quắp, mòn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời"."Họ muốn công việc lãnh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ - bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng - được quần chúng văn nghệ tự ý lựa chọn và tín nhiệm".

Bài Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, xác định đường lối quyết liệt đòi dân chủ của nhóm NVGP, Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lãnh đạo văn nghệ, và qua đó ông phê phán bộ mặt lãnh đạo nói chung.

Trong bài Văn nghệ và chính trị, trên Giai phẩm mùa thu, tập III, ông đi sâu vào vấn đề tự do sáng tạo.

● Văn nghệ và chính trị

Đối diện với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, những người có tư tưởng quốc gia, triệt để chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp của cộng sản, Trương Tửu là người cộng sản đệ tứ, đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp để đòi hỏi tự do dân chủ. Trước tiên, ông xác định quan hệ mật thiết giữa chính trị và văn nghệ:

"Văn nghệ, tự thân nó, tất yếu phải mang chính trị tính và có tác dụng chính trị" vì "Văn nghệ, căn bản, là một thể cách nhận thức và tái tạo thế giới thực tại, một thể cách biến cải xã hội, biến cải con người bằng đường lối thẩm mỹ". Cho nên, người nghệ sĩ khi sáng tác bắt buộc phải "dấn thân", nhưng sự dấn thân ở đây có tính cách "đấu tranh giai cấp", ông viết: "Sáng tác văn nghệ là tự xác định một thái độ, một lập trường đối với cuộc đấu tranh giai cấp đương thời".

Đồng ý hay không đồng ý với quan niệm đấu tranh giai cấp của Trương Tửu, nhưng không ai có thể phủ nhận tính thuyết phục trong bài viết của ông. Vẫn đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp, chống lại các chế độ người bóc lột người, ông viết về thời cổ điển: "Lịch sử văn nghệ căn bản là lịch sử chiến đấu của những văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa đối kháng với chế độ áp bức con người, bảo vệ quyền tự do tư tưởng, tự do nói sự thực trong tác phẩm". Mà sự thực là điều mà các chế độ độc tài ghê sợ nhất tuy nhiên các văn nghệ sĩ cổ điển đã không ngại chiến đấu cho sự thực trong tác phẩm của mình:

"Đó cũng là thái độ của tất cả những văn nghệ sĩ cổ điển Đông và Tây - của những Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Molière, Heine, Rousseau, Diderot v.v¼ Họ dũng cảm bảo vệ tự do tư tưởng, tự do nói thực đến kỳ cùng trước sức tấn công hiểm độc của các giai cấp bóc lột (...) Thiếu chân lý đó, không thể có tác phẩm nghệ thuật thực sự quan trọng được (...) Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. (...) Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống. Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả."

Trương Tửu đã viết những lời kêu gọi và biện hộ tha thiết cho sự tự do của văn nghệ sĩ. Ông kêu gọi người nghệ sĩ phải có can đảm là mình trong những điều kiện xã hội bắt họ không được là mình. Phải tự do nhìn, cảm, nghĩ, nói theo chủ định cá nhân của mình, trong những điều kiện xã hội buộc họ phải nhìn, cảm, nghĩ, nói theo những công thức thống trị.

Trương Tửu kết luận: "Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt". "Không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lý bất di bất dịch."

Văn nghệ và chính trị là bài viết đấu tranh cho tự do tư tưởng hay nhất và mạnh mẽ nhất trong thời kỳ NVGP, xác định Trương Tửu là nhà phê bình văn học duy nhất dám đứng lên chống lại sự độc tài đảng trị, trong khi Vũ Ngọc Phan im lặng, Hoài Thanh trở thành bồi bút cho Đảng.

● Lê Đạt: Nhân câu chuyện mấy người tự tử

Lê Đạt trên Nhân Văn số 1 ngày 20/9/56, mượn câu chuyện thời sự trên báo: một đôi tình nhân tự tử, để gợi lại chuyện riêng của mình - Lê Đạt yêu Thúy Thúy, một nghệ sĩ sân khấu và ly dị người vợ cốt cán, nên bị cấp trên khiển trách- cũng là chuyện tình duyên bị đảng áp chế của những Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Đặng Đình Hưng... Bài thơ vượt trên bi kịch cá nhân, để tố cáo sự độc tài đảng trị kiểm soát đến cả tim người:

Chế độ ta không cấm họ yêu nhau

Mà sao họ chết?

Người công an đứng ngã tư đường phố

Chỉ huy

bên trái

bên phải

xe chạy

xe dừng

Rất cần cho việc giao thông.

Nhưng đem bục công an

máy móc

đặt giữa tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi

theo đúng luật đi đường nhà nước

Có thể gây rất nhiều chua xót

ngoài đời

Từ bi kịch đôi tình nhân, Lê Đạt nhìn lại mình, bấy lâu ngủ quên trong chế độ:

Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ

Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ

Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ

La liệt đầy đường hoa nở

chim kêu (...)

Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi

Vẫn còn lọt lưới

nhiều thói "an nam"

Dán nhãn hiệu

"Made in Cách mạng"

Ngang nhiên xúc phạm con người

Đẩy họ đi tự tử

Nay bừng tỉnh, nhà thơ kêu gọi mọi người, hãy "quét sạch mây đen", "chặt hết gông xiềng":

Phải quét sạch mây đen

cho chân trời rộng mở

Chặt hết gông xiềng

cho những cánh tung lên

Ngày và đêm

mộng bay đầy cuộc sống

Khát vọng theo khát vọng

Không gì ngăn cản con người

Bài thơ chiếm trọn trang ba của tờ báo, có vị trí một bài xã luận, xác định lập trường chính trị của Lê Đạt và Nhân Văn. Hai câu: Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước đã khắc ghi vào tim người Việt, mọi nơi, mọi thời, bức hình chế độ công an trị rõ nhất, trên đất nước Việt Nam.

● Nguyễn Mạnh Tường:

Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo

Sau Hoàng Đạo dưới thời Pháp thuộc, Nguyễn Mạnh Tường là người dùng lý lẽ luật pháp để phê bình những sai lầm về mọi mặt trong chính sách cai trị của Đảng Cộng sản, chủ yếu qua buổi diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" nói tại Mặt trận tổ quốc ngày 30/10/1956.

Sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê bình của Đảng Lao Động về chính sách Cải Cách Ruộng Đất, với tài hùng biện nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường đã điễn thuyết trong 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc.

Bằng giọng mỉa mai, chua xót, Nguyễn Mạnh Tường trả lời Trường Chinh: "Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trường Chinh đọc trước Hội Nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. (...) Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh".

Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước. Ông hỏi tội trực tiếp cấp lãnh đạo cao nhất:

Những người lãnh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đã sai lầm, mà xong đâu149. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự, thì Quốc Hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao nhất xuống dưới.

Đầu tiên hết, ông phân tích tình hình chính trị xã hội Việt Nam, bằng những chất vấn:

"Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không?"

"Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch".

Sau khi tổng kết tình trạng bi quan về kinh tế, xã hội, Nguyễn Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải Cách Ruộng Đất, ông hỏi: chúng ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất, nhưng bây giờ phải tìm hiểu xem sai ở đâu? Vì sao mà sai?

Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng, trên nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối cãi. Nhưng khi thi hành chính sách này người ta đã coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp: "Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch" thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: "Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan".

Rồi Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp lý: Không phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm việc mình làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đình. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.

Nhưng những nguyên tắc cơ bản này không được áp dụng trong Cải Cách Ruộng Đất. Sở dĩ có sai lầm như vậy vì ba nguyên do: Quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ. Bất chấp pháp luật. Bất chấp chuyên môn. Vì ta-địch, thù-bạn mơ hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch đẫm máu xẩy ra, có "những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa". Trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu "chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy" cũng "bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình".

Những cán bộ hành xử như vậy, nếu vì "chủ mưu phá hoại" thì phải đưa ra toà, còn nếu vì điên cuồng thì phải đem đi chữa bệnh thần kinh. Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: "Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp".

Vì bất chấp chuyên môn cho nên "khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: "Có lập trường không?" Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì "mất lập trường". Để nó chết mới chứng minh mình có "lập trường giai cấp" (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (...) Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý".

Quốc hội thành lập đã mười năm- từ 1946 đến 1956. "Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?" "Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi". "Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố". Nhưng trong thực tế: "người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ".

Đề nghị sửa chữa sai lầm do thiếu một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự, Nguyễn Mạnh Tường lập luận: Vì không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất.

Và sau khi xẩy ra rồi, thì: "phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc Hội, Mặt Trận, Đảng Lao Động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc Hội biến thành Tòa Án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các Tòa Án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa".

Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một chế độ thực sự dân chủ "trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa". Và ông nhấn mạnh: " Lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ".

Tóm lại, các nhà trí thức trong NVGP nói với một quần chúng đã quen biết với dân chủ, có ý thức, có trình độ về dân chủ, khác hẳn với lối viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX, nói với một quần chúng mới phôi thai về dân chủ. Và cũng khác cách viết khoa học, tự tin và tự hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy rằng từ đầu đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt Nam, tự do dân chủ đã có những biến chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.

Từ khi đảng Cộng Sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư tưởng tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối lập là thù nghịch, là phản động, và nhất là không còn giáo dục học sinh về quyền công dân, quyền con người nữa, thì người Việt mới lại rơi vào vòng u tối, không ý thức được tự do dân chủ là quyền thiết yếu của con người, và chúng ta mới phải nghe những lập luận thoái hoá của những "trí thức" đưong thời, coi sự sùng bái lãnh tụ là "bẩm sinh" là tất yếu; loại trừ quyền tự do dân chủ, như một sản phẩm của phương tây, không phù hợp với Việt Nam.

Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu và Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường là ba văn bản quan trọng nhất thời kỳ NVGP, nói lên tinh thần bất khuất của người trí thức dưới chế độ cộng sản và giải thích tại sao cộng sản phải tiêu diệt trí thức.

135 Nhật ký Trần Dần ghi, trang 245.

136 Phan Châu Trinh, Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ nghiã. Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Dương soạn, nxb Đà Nẵng, 1995, trang 792- 818.

137 Hoàng Đạo, Vấn đề thuộc địa, Thuộc địa Pháp-Chính sách, Ngày Nay số 80, 10/10/1937.

138 Hoàng Đạo muốn nói đến Trung và Bắc, vì Nam kỳ là nhượng địa, được hưởng quyền tự do báo chí như ở các thuộc địa của Pháp.

139 Thư ngỏ cho ông cựu toàn quyền Varenne, Ngày Nay, số 130, 1/10/38.

140 Hoàng Đạo, Vấn đề cần lao, Nô lệ trá hình, Ngày Nay, số 133, 22/10/38.

141 Hoàng Đạo, Công dân giáo dục, Ngày Nay số 160, 6/5/39.

142 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

143 Giai Phẩm Mùa Thu tập I, 29/8/1956

144 Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/1956.

145 Đài là tôn xưng. Ngày trước, khi viết chữ Hán, nếu gặp những chữ như: Cung vua, Lăng tẩm, Miếu hiệu vua chúa... thì phải đài chữ, tức là viết cao hơn chữ thường để tỏ ý tôn kính.

146 Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/56.

147 Giai Phẩm Mùa Thu tập III, 30/10/56.

148 Giai Phẩm Mùa Đông tập I, 28/11/56.

149 Nguyễn Mạnh Tường muốn nói đến việc: Hồ Chí Minh khóc và xin lỗi quốc dân. Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng xác nhận 7 điểm sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.

Chương 7

biện pháp thanh trừng

T ình hình từ tháng 12/1956 đến tháng 2/1958

Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện từ tháng 8/1956 đến tháng 12/1956. Cuối tháng 12/1956, tất cả những tờ báo có khuynh hướng theo NVGP, đều bị đình bản.

Từ 20 đến 28/2/1957, tại Đại Hội Văn Nghệ II, họp ở Hà Nội, có khoảng 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" NVGP.

Tuy nhiên Trung Quốc chưa dẹp phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", cho nên Đảng Lao Động chưa thể mạnh tay với trí thức văn nghệ sĩ: đầu tháng 4/1957, Hội Nhà Văn chính thức thành lập thay Hội Văn Nghệ, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 65 Nguyễn Du, do Tô Hoài, Hoàng Cầm, Đoàn Giỏi phụ trách. Hoàng Cầm đại diện miền Bắc, Đoàn Giỏi, nhà văn tập kết, đại diện miền Nam. Tô Hoài làm chủ nhiệm. Theo Hoàng Cầm, Tô Hoài thường lấy cớ đi sáng tác, để ông quán xuyến mọi việc, cho nên trong vòng mười tháng, ông đã in được tập Bài thơ trên ghế đá của Lê Đạt cùng với thơ Vĩnh Mai; tập thơ Quang Dũng và Trần Lê Văn. Vừa chuẩn bị xong tập thơ Hữu Loan, chưa kịp in, thì có lệnh đình chỉ để chuẩn bị cho một lớp học chính trị, nhưng thực chất là lớp học tập toàn thể văn nghệ sĩ để đấu -có thể nói là đấu hơn địa chủ nữa- đấu tư tưởng VGP150.

Ngày 10/5/1957, Hội Nhà Văn ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công Hoan, chủ bút, Nguyễn Tuân, phó chủ bút, Nguyên Hồng, tổng thư ký. Lúc đầu Văn theo đường lối chính thống, nhưng đến khi Thế Toàn trên báo Học Tập của Đảng lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách mạng", Nguyên Hồng bèn trả lời151 phê bình Thế Toàn "quan liêu", "trịch thượng".

Cuộc bút chiến giữa Văn và Học Tập khiến Bộ Chính Trị chú ý. Rồi Văn dần dần thay đổi thái độ: một số cây bút cũ trong NVGP xuất hiện lại trên Văn. Văn số 21 ra ngày 27/9/1957 đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán. Số 24, ra ngày 18/10/57 đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm. Số 28, ngày 15/11/1957, bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần, và số 30, ngày 29/11/1957, hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.

Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, có ghé Bắc Kinh học hỏi kinh nghiệm. Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường152 được cử sang học tập Trung Quốc. Khi họ trở về, Đảng mới thực thụ áp dụng chính sách đàn áp của Bắc Kinh.

Ngày 6/1/1958, Bộ Chính Trị ra nghị quyết số 30 về văn nghệ. Tinh thần nghị quyết dựa trên hai điểm chính:

1- Trình bày các hiện tượng chống lại đường lối văn nghệ của Đảng:

"Về văn học nghệ thuật, ranh giới giữa tư tưởng văn nghệ của Đảng và tư tưởng văn nghệ tư sản đã bị xóa nhòa. Trên tuần báo Văn và trong một số sách xuất bản hoặc tái bản, đã biểu hiện khuynh hướng xa rời thực tế đời sống của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị, thoát ly chính trị và không nhằm đúng những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn mới. Những tình cảm cá nhân chủ nghĩa đang có chiều hướng phát triển, những chủ đề lớn do đời sống thực tại đề ra không được chú ý. Hình ảnh công nông binh phấn đấu dũng cảm trong hòa bình mờ nhạt trong văn thơ và trong các tác phẩm nghệ thuật khác. Nhiều quan điểm văn nghệ của giai cấp tư sản lại được nêu lên.

Cuộc tranh luận giữa tạp chí Học Tập và báo Văn gần đây lại là một biểu hiện cụ thể của cuộc đấu tranh giữa đường lối văn nghệ của Đảng với khuynh hướng chống lại hoặc xa rời đường lối đó. Tư tưởng chủ đạo biểu hiện trên báo Văn chính là tư tưởng tách rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại, tách rời sự lãnh đạo của Đảng."

2- Phải tìm cách giải quyết ngay:

"Rõ ràng những phần tử chống chủ nghĩa xã hội,chống Đảng đã nhân chỗ sơ hở của ta mà tiếp tục tiến công ta về mặt tư tưởng dưới hình thức văn nghệ. Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ là một hiện tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết (...) Chúng truyền bá những tài liệu và những báo chí phản động. Dưới chiêu bài "chống giáo điều, máy móc", chúng gieo rắc những nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ thuật tư sản suy đồi. Trước những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể cả một số văn nghệ sĩ đảng viên, đã mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết đấu tranh, thậm chí một số còn hùa theo chúng".

Văn bị đình bản ở số 36, ra ngày 10/1/1958, trong có đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

Tháng 2, 3 và 4/1958, Đảng Lao Động tổ chức hai "hội nghị" quan trọng ở ấp Thái Hà.

● Biện pháp thanh trừng đối với văn nghệ sĩ: "Hội nghị" Thái Hà

Thi hành tinh thần nghị quyết số 30, ngày 6/1/58 của Bộ Chính Trị, Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh "chống bọn Nhân Văn Giai Phẩm" ở Thái Hà ấp, chính thức gọi là hai "Hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957". Duy chỉ có Hồng Cương, gọi thẳng tên là hai lớp chỉnh huấn chính trị.

"Hội nghị" đầu, tổ chức tháng 2/58, dành riêng cho 172 đảng viên, theo Lê Đạt là để học tập cách "phát hiện" và "tố giác", chuẩn bị cho hội nghị sau, tháng 3-4/58, 304 người, gồm các đảng viên, quần chúng và những người ngoài đảng đã tham gia NVGP, dốc toàn lực đấu tranh chống NVGP. Phương pháp này đã áp dụng trong Cải Cách Ruộng Đất dưới hình thức khác: Giảm Tô là giai đoạn một, Cải Cách Ruộng Đất chính thức là giai đoạn 2. Và cũng đã áp dụng trong thời điểm đánh Trần Dần: Đại hội Tuyên huấn trước, rồi Đại hội Văn nghệ sĩ sau.

Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Phùng Cung... "được" dự hội nghị đầu, vì là đảng viên. Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác... chỉ "được" đi hội nghị sau, vì Lê Đạt đã bị khai trừ khỏi Đảng từ tháng 5/57, sau khi in bài thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, bị cấm. Hoàng Cầm không ở trong đảng. Trần Dần, Tử Phác đã xin ra khỏi đảng từ trước. Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, là những "phần tử xấu", không được dự cả hai "hội nghị". Ở "hội nghị" thứ hai, mọi người phải viết bài "thú nhận", sau đăng báo.

Thành quả hai "hội nghị" được chính thức ghi lại trong bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận", như sau:

"Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.

Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ ổi đã được phát hiện, tất cả nhũng âm mưu, luận điệu, thủ đoạn đều bị vạch trần. Những con chuột đã phải bò ra khỏi cống. Những người tự giác hay không tự giác gần gũi với những con chuột ấy cũng đã tự giác tự phê bình. Đây là bước cuối cùng của trận chiến đấu chống «Nhân văn-Giai phẩm» trong thời kỳ 1956-1958.

Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" bao gồm những tên "đầu sỏ", những "cây bút" đã viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân văn-Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn hữu Đang, Trần thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Phùng Quán, Hoàng tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn khắc Dực, Hoàng tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn thành Long, Trần lê Văn, Lê đại Thanh v.v...

Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị...153.

Những dòng đây trên đưa đến hai nhận xét:

1- Những tên tuổi liệt kê trong danh sách, đã được xếp đặt theo trật tự "tội" nặng, nhẹ: trí thức đứng đầu, rồi mới đến văn nghệ sĩ.

2- Tuy Hồ Chí Minh thân chinh và gửi thêm Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường đi học tập chính sách đàn áp ở Trung Quốc, nhưng khi thi hành, Đảng tránh nói đến Bắc Kinh, mà nêu cao việc "nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị" và "hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của Đảng Cộng Sản và Đảng Công Nhân Mạc Tư Khoa cuối năm 1957".

● Hoàng Cầm thuật lại tổ chức "hội nghị" Thái Hà

Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm:

Hội nghị Thái Hà được tổ chức tại trường Tuyên Huấn Trung Ương, trước là trường Đại Học Nhân Dân, gần lăng Hoàng Cao Khải, trên đường từ Gò Đống Đa xuống Ngã Tư Sở, trước cửa Đại Học Thủy Lợi.

Giảng viên là cán bộ từ Trung Ương lên Bộ Chính Trị, các bộ trưởng... có Lê Duẩn, Hoàng Tùng... không thấy Trường Chinh. Lê Đức Thọ chỉ đến hôm khai giảng, không nói gì. Tố Hữu là giám đốc trường, ban lãnh đạo cạnh Tố Hữu có những tay chân đắc lực như Nguyễn Đình Thi, Huyền Kiêu, Chính Hữu, Vũ Tú Nam, Huy Cận, Xuân Diệu...

Có khoảng 300 người, chia làm 15 hay 16 tổ, mỗi tổ có một tổ trưởng, một tổ phó, và một thư ký. Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Hữu Loan, Phùng Quán, Quang Dũng, Trần Lê Văn... mỗi người một tổ, anh em Nhân Văn không được 2 người ở chung một tổ, họ sợ để 2 người, sẽ hỗ trợ cấu kết với nhau khó điều khiển.

Tổ của tôi có Nguyễn Khải là tổ trưởng. Lê Khang, tổ phó, Bàng Sĩ Nguyên, thư ký. Như vậy là họ đánh mình giáp là cà, chứ không đánh xa xôi gì, tức là họ để cho Nguyễn Khải, một đảng viên sắc sảo, trẻ tuổi, rất trung thành với xã hội chủ nghiã, làm tổ trưởng. Được chọn làm tổ trưởng thì phải là người chống bọn Nhân Văn một cách quyết liệt. Nguyễn Khải là tay mới nổi tiếng, được ông Tố Hữu thích lắm, mới viết một bút ký tên là Xung đột, đăng ở Văn Nghệ Quân Đội về cuộc đấu tranh chống những linh mục, giám mục mà người ta cho là những kẻ phản động, làm việc cho phòng nhì Pháp, vì là công giáo nên được ở lại miền Bắc. Một bên là chính phủ ta, đảng ta, một bên là công giáo. Nguyễn Khải viết truyện ấy được các cấp lãnh đạo ca ngợi lắm cho là người sắc nước trong cuộc đấu tranh. Tôi rất ngại Nguyễn Khải, ngại cái trò sắc sảo, mới lên, được Trung ương tín nhiệm.

Anh Lê Khang, tổ phó, là người đã đi sát với tôi từ 1952, trước đó, anh là đoàn trưởng và là chính trị viên của đoàn văn công trường Lục quân Việt Nam đóng bên Trung Quốc. Anh Lê Khang là người thẳng thắn, tốt bụng.

Tôi sợ và ghê tởm nhất là thư ký Bàng Sĩ Nguyên154, trước kia hắn là chính trị viên cho đoàn tôi ở Việt Bắc, lúc đó hắn là kẻ vô danh tiểu tốt, có viết lách vớ vẩn. Hắn có một vở kịch dở lắm, trong vòng thảo luận với anh em có lần tôi lấy ví dụ viết kịch như Bàng Sĩ Nguyên là dở, chuyện đến tai hắn, hắn thù tôi từ đấy, hắn bịa chuyện tôi đạo văn nhưng không có hiệu quả gì. Người xấu lắm, mắt lồi, trắng dã, mồm vêu, răng vẩu, người gầy đét, má hóp nhỏ tí, thấy cấp trên thì khúm núm, cổ rụt lại. Bây giờ hắn lại làm thư ký của tổ, thì mình vào tay nó rồi, tha hồ nó bới móc.

Sau 15 ngày học "lý thuyết", bắt đầu vào kiểm điểm. Ban lãnh đạo cho 7 ngày để viết kiểm điểm, không phải lên lớp, mỗi người cứ lặng lẽ viết. Tôi viết khoảng 100 trang giấy học trò, có thể coi là bản hồi ký cực đúng về những việc đã diễn ra từ khi hoà bình lập lại. Viết tự kiểm điểm thì phải tự tố lên, tự mình xỉ vả mình, để trên người ta thấy mình "thành khẩn học tập", và như vậy là có kết quả.

Vào giai đoạn phải đem bản khai của mình ra đọc cho tổ nghe, để tổ phê phán trước, giai đoạn này kéo dài độ nửa tháng; thì một hôm Quang Dũng đến tìm tôi, gọi ra chỗ kín đáo, anh bảo: Tôi bị nó đấu dữ quá, nó bảo tôi là bí thư Quốc Dân Đảng, chui vào làm chủ báo Nhân Văn để phá hoại toàn bộ văn nghệ sĩ. Tôi hỏi: Thế ai làm tổ trưởng bên ấy? Anh nói: Bùi Huy Phồn (hay ai tôi không nhớ rõ lắm, nhưng cũng vào cái loại ấy, tức là cực kỳ trung thành với Tố Hữu). Tôi bảo: Cái thằng ấy nó làm tổ trưởng thì nguy thật. Quang Dũng mặt tái đi, chắc sáng nay nó đấu anh ghê lắm, anh cầu cứu tôi: Ông nói làm sao cho cả lớp, cả trường biết, tôi có tham gia Nhân Văn đâu, tôi có bao giờ họp hành gì đâu, tôi đã nói tôi chẳng biết gì về Nhân Văn cả, anh Hoàng Cầm xin bài thì tôi đưa một bài thơ tình mà cũng chỉ đăng ở Giai Phẩm. Thương bạn quá, lúc đó mà bị kết án là trùm Quốc Dân Đảng thì sợ thật, có thể nó đem ra xử bắn ngay. Tôi an ủi anh: Anh yên chí, tôi đã viết tỉ mỉ, tôi báo cáo hết mọi việc Nhân Văn từ đầu đến cuối rồi. Hôm trước tôi đã đọc xong 100 trang báo cáo cho tổ rồi, còn đang trong tình trạng phê phán toàn tổ. Thế là tôi báo ngay cho Nguyễn Khải, bảo Khải chiều nay lên báo với lãnh đạo là tôi xin lên "báo cáo điển hình" vì tôi là người hoạt động số một, ngay từ khi chưa có Nhân Văn đến khi báo đóng cửa. Tôi xin báo cáo tất cả mọi hoạt động và ý nghiã của nó cho toàn trường. Nguyễn Khải hoan nghênh lắm, vừa mới bước vào kiểm điểm mà Hoàng Cầm đã xin lên nói điển hình như thế, giúp toàn trường đạt kết quả mau chóng.

Ngày hôm sau tôi lên báo cáo từ 7g30 đến 11g30, nghỉ cơm trưa, rồi nói từ 2g đến 5g30, nghỉ cơm tối, rồi lại tiếp tục từ 7g30 đến 11g đêm, tổng cộng hơn 10 tiếng đồng hồ. Sau 11g30 trưa hôm đó, anh Quang Dũng đến tìm tôi vui vẻ: Ông cứu sống tôi đấy. Nó buộc tội Quang Dũng chỉ vì nó tìm được cái ảnh anh chụp bên Vân Nam, mặc áo đại cán Tôn Dật Tiên, lại chụp chung với Nhất Linh. Chụp ảnh với trùm Quốc Dân Đảng Nhất Linh là chết rồi! Tuổi trẻ, óc giang hồ, lại mê văn Nhất Linh, cho nên anh lấy tên Dũng, nhân vật của Nhất Linh mà đặt tên mình.

Sau khi tôi đọc bài báo cáo điển hình rồi thì về lớp học đến phần phê phán tác phẩm. Nguyễn Khải lấy quyền tổ trưởng át giọng, trấn áp, tôi muốn phân trần điều gì, hắn cắt ngay: Im mồm đi! Hắn còn bảo tôi: Gái đĩ già mồm!, Bàng Sĩ Nguyên là tay khốn nạn nhất, chỉ bới lông tìm vết. Họ dành 5 ngày để phê phán tác phẩm của tôi. Phê phán ghê lắm, từng bài thơ một, phê phán cả ngày, từng câu, từng chữ, dùng đủ mọi danh từ, thơ đểu, vu cáo cho Đảng... Xong thơ đến văn, tên Bàng Sĩ Nguyên phê phán ghê nhất, rồi đến Nguyễn Khải sắc sảo ra cái vẻ có học hơn, anh Lê Khang chỉ ôn tồn nói rằng tôi không hiểu gì lắm về thơ, làm thơ không đúng với chính sách của Đảng. Anh đúng là con người có tình.

Sau báo cáo của tôi thì có ba người mừng là Quang Dũng, Trần Lê Văn và Thanh Châu, nhưng ông Văn Cao bảo tôi hèn: Mày báo cáo như thế là hèn, việc gì mày phải khai hết ra? Mày bán anh em à?

Không, tôi chỉ nói sự thật, tôi không bịa chuyện gì, tôi không vu khống anh em. Tôi đã có kinh nghiệm những lớp chỉnh huấn từ trước, họ biết hết, nếu mình giấu cái gì. Ngay hôm bắt đầu viết kiểm thảo thì ông Nguyễn Đình Thi đã loan tin cho cả trường biết anh Đang và "đồng bọn" đã bị bắt, gây chấn động hết cả, bởi vì lúc bấy giờ văn nghệ sĩ cũng như nhân dân, tất cả đều như con cá nằm trong cái rọ, họ muốn bắt con nào thì bắt. Vì vậy, tôi thấy không thể giấu họ bất cứ chuyện gì, kể cả những chuyện không cần phải nói như chuyện chúng tôi hút thuốc phiện ở nhà Tử Phác có cả Văn Cao. Vì thế mà anh Văn Cao cho là tôi hèn nhát, chưa bị đánh đã sợ run lên, phản bạn. Từ đó tôi và Văn Cao xa nhau và cuối cùng thì hầu như không còn là bạn nữa155.

● Những lời buộc tội

Để biết rõ tinh thần và phương pháp chỉnh huấn ở ấp

Thái Hà, chúng ta nên đọc qua bài viết của ba người trách nhiệm cấp lãnh đạo trong trường: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và Võ Hồng Cương.

Tố Hữu trong bài "Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ" in trên báo Học Tập, dựa vào tinh thần nghị quyết 6/1/58, lên án gắt gao:

"Dưới ánh sáng mới ấy156 đã bật rõ ranh giới giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cái mới và cái cũ; mỗi người yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội đều đã có thể nhìn thấy, phân biệt rõ ràng những con người và những con quỷ, những hoa thơm và những cỏ độc trong văn nghệ"157.

Sau khi ca tụng "Hai văn kiện có ý nghĩa quốc tế lớn lao của Mạc Tư Khoa" đã giúp cho "Trung Ương Đảng ta" chuyển biến, "có con mắt sáng để nhìn đúng tình hình", Tố Hữu xác định:

"Không thể nào khác, muốn là "kỹ sư tâm hồn" xã hội chủ nghĩa, không thể nào không tự cải tạo bản thân văn nghệ sĩ thành những tâm hồn xã hội chủ nghĩa thật sự (...) Càng không thể để lén lút vào trong hàng ngũ văn nghệ, những con rắn độc thù địch phun nọc giết người."(...) Đó là tiêu chuẩn chính trị để phân rõ ranh giới: ai là thù, ai là bạn. Không thể mập mờ".

Rồi ông đe doạ:

"Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ hay phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng?"

"Đã đến lúc cách mạng đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ và mỗi cán bộ văn hóa "duyệt lại" những tư tưởng, tình cảm của mình, những sáng tác và công tác trong ba năm qua, và dưới ánh sáng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm một cuộc phê phán thật nghiêm trang, không khoan nhượng đối với mình, đối với bạn, đối với địch". (...)

"Thông qua cuộc đấu tranh lần này mà lột trần bộ mặt gian ác của những phần tử phản cách mạng, chống chế độ, chống nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất."

Rồi ông "vạch mặt" những "tên phản động":

"Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan-Khôi một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ "người An-nam là chó, và đã là chó thì phải ăn cứt" để "thuyết phục" người khác đầu hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là "học giả tiết tháo", và được kẻ đồng bọn phong cho là "anh hùng của ba trăm nô lệ" (!)

Chúng là những con buôn "mác-xít", "cách mạng" đầu lưỡi như Trương-Tửu, Trần-Đức-Thảo mà thực chất là những tên tơ-rôt-skit vô tổ quốc đã từng nấp dưới nách của địch chống lại cách mạng, suốt đời thù ghét những người cộng sản và tất cả những ai tin yêu (...) Chúng là những kẻ đầu cơ cách mạng, như Nguyễn-Hữu-Đang (...) Gặp nhau trong một mục đích chung, chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ, chống phe xã hội chủ nghĩa, chống Đảng lãnh đạo, tất cả bọn chúng đã liên minh thành một khối, phối hợp hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trong các hội văn học nghệ thuật, một số cơ quan văn hóa, trong giới đại học, v.v¼ (...) Trên thực tế, rõ ràng chúng đã làm như những tay sai của địch thực hành kế hoạch phá hoại của Mỹ-Diệm ở miền Bắc là "chống cộng trong lòng cộng".

Cuối cùng, Tố Hữu nhấn mạnh đến sự kiện:

"Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân văn và các tập Giai phẩm, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: "Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của những tư tưởng sai lầm". Bởi vậy, vấn đề không phải chỉ là vứt bỏ những hạt giống xấu, mà còn là dọn lại đất cho tốt158".

Lời kết luận của Tố Hữu xác định hai điểm:

- Khi Trường Xuân đến họp, tuyên bố bác Hồ cũng có "cảm tình" với Nhân Văn, bác nói: không nên dùng dao mổ trâu để giết gà, là Trường Xuân đã phản ảnh chỉ thị ở cấp trên cùng, bởi không ai dám bịa một chuyện như thế về "bác Hồ" dưới thời đại Hồ Chí Minh.

- Khi Tố Hữu tuyên bố: Nhân Văn Giai Phẩm là những hạt giống xấu, không những phải vứt bỏ mà còn phải dọn lại đất cho tốt. Ông cũng phản ảnh trực tiếp chỉ thị của Hồ Chí Minh. Trường Xuân và Tố Hữu thi hành sách lược của vị lãnh tụ, riêng Tố Hữu thực hiện ý nghiã thâm sâu của cuộc thanh trừng: nhổ cỏ phải nhổ tận rễ.

Nguyễn Đình Thi tổng kết chủ trương của NVGP, cũng trên báo Học Tập, qua 6 điểm:

1. Bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản là không "nhân văn", là "chà đạp con người", bôi nhọ những đảng viên cộng sản là "khổng lồ không tim", không phải là "cộng sản chân chính", xuyên tạc sự giáo dục của Đảng là "rập khuôn đầu óc và tâm hồn", văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa là "công thức, giả tạo", đẻ ra những "thi sĩ máy". Dưới chiêu bài "đề cao con người", "chống công thức", báo Nhân văn, Giai phẩm đã đề cao chủ nghĩa cá nhân, "tự do" cá nhân, đòi quyền, "tự do" cho những lối sống và tình cảm ích kỷ trụy lạc.

2. Phản đối chuyên chính, đòi "dân chủ", "tự do" theo lối tư sản trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Đả kích từ Mậu dịch, quản lý hộ khẩu, Bưu điện, cơ quan báo chí, bệnh viện, cho tới Quốc hội, nói chung là đả kích vào bộ máy Nhà nước của ta, đòi tự do đối lập với Chính phủ, trong lúc bọn phản động đang âm mưu phá hoại và một vài giới tư sản đang tiến công ta.

3. Đưa ra chiêu bài "chống sùng bái cá nhân" để xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng là "đảng trị" (...) Đem đối lập quần chúng với lãnh đạo, khích quần chúng chống lãnh đạo (...)

4. Phỉnh nịnh đầu óc quốc gia chủ nghĩa tư sản, đả kích Liên-xô, cho sự giáo dục con người ở Liên-xô là "rập khuôn", văn học nghệ thuật Liên-xô là "công thức", không có giá trị. Vin vào khẩu hiệu "trăm hoa đua nở" để xuyên tạc đường lối văn học nghệ thuật của Trung quốc (...)

5. Phủ nhận những thành tích to lớn của nhân dân ta, của Đảng ta trong công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, phủ nhận những kết quả to lớn của Cải cách ruộng đất (...)

6. Riêng về văn nghệ, thì trong Nhân văn, Giai phẩm đã đề xướng "trăm hoa đua nở" theo lối tự phát vô chính phủ, "hoa lành, hoa độc, hoa thối, hoa thơm" đều có quyền nở tự do như nhau. Thực chất là nó đòi hủy bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu khẩu hiệu "trả văn nghệ về cho văn nghệ", "văn nghệ và chính trị vỗ vai nhau hai bên cùng có lợi" v.v...159

Nguyễn Đình Thi luôn luôn có hành động của một thuộc hạ chân thành, ông áp dụng đúng chính sách đường lối của Tố Hữu, của Đảng, để tiến thân.

 Võ Hồng Cương, Cục phó Cục Tuyên huấn, trong bài tổng kết "Cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay160 tóm tắt toàn bộ hành trình đấu tranh của NVGP, chỉ "chân tướng phản động chính trị của những tên cầm đầu": Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Thụy An, Minh Đức, và coi phong trào NVGP là cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghiã xã hội và chủ nghĩa tư bản trên ba khái niệm chính:

1- Đấu tranh giữa hai đường lối chính trị khác nhau.

2- Đấu tranh giữa hai đường lối văn nghệ khác nhau.

3- Đấu tranh giữa hai thế giới quan và nhân sinh quan khác nhau.

Hồng Cương nhấn mạnh đến những nguy cơ "xụp đổ chế độ":

"Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng và Chính phủ xuống.(...)

Chúng nói Trung Ương Đảng ta, thậm chí nói các lãnh tụ ta là "dốt văn nghệ".Chúng rêu rao rằng Đảng và Chính phủ ta là "bọn ngu khờ cầm quyền" (l'ignorance au pouvoir) không thể lãnh đạo được văn nghệ (...).

Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ (communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa Chỉnh huấn của ta là đồi trụy tinh thần (avilissement de l'esprit), là nô dịch hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta là "bổng lộc" vua ban, huân chương của ta là "mề đay" của đế quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó161".

Lời buộc tội của Hồng Cương, có vẻ mạnh mẽ nhưng khác hẳn lối nhìn đao phủ của Tố Hữu: Hồng Cương xác nhận NVGP là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai quan niệm khác nhau về chính trị, văn nghệ, nhân sinh. Ông kín đáo biện hộ và đồng tình. Vậy, không phải mọi người có quyền đều táng tận lương tâm. Hồng Cương là một nhân cách.

● Bao nhiêu người bị liên lụy?

1/ Danh sách nhóm NVGP, ghi trong bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận162 có tên 34 người:

"Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh" v.v...163

2/ Danh sách những người ký tên dưới các bài viết, hoặc cộng tác với 5 số báo Nhân Văn và 5 cuốn Giai Phẩm, gốm có: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo (nxb Minh Đức), Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Duy, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Tô Vũ, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Phan Khôi, Hữu Loan, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Phác Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Yến, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Công, Hoàng Huế, Hồng Lực, Bùi Xuân Phái, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trúc Lâm, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh, Đặng Văn Ngữ, Trần Thịnh, Hữu Tâm, Thanh Bình, Trần Phương, Thanh Châu, Châm Văn Biếm, Hoàng Tố Nguyên, Cao Nhị, Trần Hải An... gồm 47 người.

Hai danh sách trên đây không hoàn toàn giống nhau, vì ngoài Nhân Văn và Giai Phẩm, còn có một số sách báo khác, cùng xu hướng, như Trăm Hoa của Nguyễn Bính, Đất Mới của sinh viên, hoặc Tự Do Diễn Đàn164 và Sách Tết 1957165; hoặc tạp chí Sáng Tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Trần Thịnh-Trần Công. Ngoài ra còn có những bài in trên các báo khác như Văn, 1957, sau khi NVGP bị đình bản.

3/ Lê Hoài Nguyên cho biết: "Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác giả (LHN) thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người. Bởi vì các ấn phẩm của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi166".

Như vậy chúng ta tạm nhận con số gần 100 người bị xử lý nặng của Lê Hoài Nguyên.

Trong danh sách chính thức năm 1959, thiếu tên hai người: Phan Tại và Phùng Cung, mặc dù cả hai đều bị đi tù, có thể vì Phan Tại và Phùng Cung, năm 1959, chưa bị tố giác. Hai trường hợp này cần tìm hiểu.

● Phan Tại và nhóm Sáng Tạo

Trong phiên toà ngày 19/1/1960, xử Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Lê Nguyên Chí167, Phan Tại bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm mất quyền công dân.

Tại sao kịch tác gia Phan Tại, chủ đoàn kịch Sông Nhị, lại bị kết án nặng như vậy? Ngoài tội trốn vào Nam, ông còn những tội gì nữa?

Tổng hợp lời những nhân chứng và những bài viết, ông đã phạm những "tội" sau đây:

- "Chứa chấp" Thụy An - Thụy An ở chung nhà với ông bà Phan Tại.

- Nhà Phan Tại - Thụy An là một "câu lạc bộ văn nghệ"- Tập kịch, chiếu phim, hội họp.

- "Nhóm" Thụy An-Phan Tại cùng với nhóm Sáng Tạo của Trần Thịnh-Trần Công chủ trương thành lập hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo lối Tân hiện thực- Néoréalisme Ý và Nhật. Thụy An, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam... viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh. Họ tổ chức chiếu lại những phim hay đã chiếu ở Hà Nội trước 1954, do Thụy An viết thuyết minh, trong đó có những kiệt tác tân hiện thực như "Miếng cơm cay đắng - Riz amer", "Chiếc xe đạp - La bicyclette" của Ý, "Rashomon", "Những đứa trẻ Hiroshima", "Anh gắng nuôi con" của Nhật, v.v...

- Những người trong Sáng Tạo như đạo diễn Trần Thịnh chủ nhiệm, Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, Cao Nhị, v.v... đều có bài trên NVGP.

Trong bài Đi ttìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo, Hà Nội, 1956 168 Lại Nguyên Ân cho biết: Sáng Tạo ra được hai số: Số 1, ngày 5/11/1956 và số 2, ngày 20/11/1956. Trong đợt đánh Sáng Tạo, Trần Đức Hinh, chủ nhiệm tờ Điện Ảnh của Cục Điện Ảnh tố cáo:

"Nửa tháng "Liên hoan phim Liên Xô" khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài "Chúng ta gắng nuôi con", hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô (...) Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v¼ đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó169".

Như vậy, có thể nói: song song với Nhân Văn và Giai Phẩm, đã có phong trào điện ảnh kịch trường, do hai nhóm Phan Tại-Thụy An và Trần Thịnh-Trần Công chủ trương.

Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như vậy, không chỉ giới hạn trong phạm vi văn học, mà còn lan rộng ra các ngành nghệ thuật khác, để trở thành cuộc cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc, đòi tự do sáng tác và tự do dân chủ.

Phan Tại, bị tù 6 năm, kèm 3 năm quản thúc, có thể vì những tội: "cấu kết" với Thụy An và là một trong những người "lãnh đạo" phong trào điện ảnh kịch trường cùng với Trần Thịnh-Trần Công.

● Các biện pháp kỷ luật

"Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết thúc bằng Hội Nghị thứ ba của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, họp tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và nghị quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam lên án "bọn NVGP".

Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bản nghị quyết gọi là "Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ" phụ họa với nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đã tham gia NVGP:

Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban chấp hành. Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, "chấp nhận cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành". Hội Nhạc Sĩ "chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành". Cả ba hội quyết định: Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật. Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng Quán ra khỏi Hội Nhà Văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà Văn, ba năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc Sĩ. Và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.

Tháng 7/58: Văn Cao đi thực tế Điện Biên cùng với Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng, ông bị chảy máu ruột và được trở về.

Ngày 22/8/58: Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác... đi lao động cải tạo ở Chí Linh, đến Tết mới được về Hà Nội nghỉ, đợi đợt sau. Trần Dần cho biết: Phùng Quán mới đầu "bất trị" đi rồi lại bỏ về, đến tháng 8/58 mới chịu đi thực tế Thái Bình với Hoàng Cầm. Trong thời kỳ lao động cải tạo này Tử Phác bị ho lao. Nhật ký Trần Dần ghi: 25/11/58 Tử Phác đi khám ruột, lại thấy bị lao phổi.

Hoàng Cầm kể: Phùng Quán đi độ 3 hôm thì lộn về Hà Nội, anh loan tin: Không biết Đảng nghĩ thế nào mà cho anh em văn nghệ đi cải tạo ở gần một làng hủi, tin đồn ầm lên, BBC biết, họ loan trên đài. Anh Võ Hồng Cương hoảng quá, cho là Đảng cũng vô tình thôi, anh lập tức chỉ thị cho Hoàng Trung Thông phải tìm chỗ khác. Phùng Quán đến tôi và vài tuần sau đi cùng với tôi. Tới nơi, bị Hoàng Trung Thông đuổi: Anh vô kỷ luật, tôi không nhận anh nữa. Phùng Quán: Về thì về, sợ gì! Thế là anh lại trở về Hà Nội. Hoàng Trung Thông đã tìm được một chỗ mới ở làng Thái Thủy, huyện Vũ Ninh. Phùng Quán lại xuống, có giấy của Võ Hồng Cương viết cho Hoàng Trung Thông, yêu cầu phải nhận Phùng Quán vào tổ vì Phùng Quán đã nhận khuyết điểm với ban chấp hành rồi.170

Những người tội nặng, bị đưa ra toà ngày 19/1/1960. Qua những bản tin về phiên toà này, đăng trên các báo tại Hà Nội tháng giêng năm 1960, do Lại Nguyên Ân sưu tầm và công bố mới đây trên Talawas, luận điệu các bài viết khá giống nhau:

"Ngày 19/1/1960, Toà án Nhân Dân Hà Nội đã xử vụ gián điệp có tổ chức do bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Nhiều đại biểu các tầng lớp nhân dân Hà Nội đã tới dự phiên toà này. Bọn gián điệp bị đưa ra xử gồm năm tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí"171.

Chánh án: Nguyễn Xuân Dương. Hội thẩm: Nguyễn Tử Các và Phùng Bảo Thạch.

Vẫn theo bài báo trên: "Thụy An là một tên gián điệp lợi hại quốc tế (...) Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi nhập thành một nhóm (...) tháng 9/1956 xuất bản tờ Nhân Văn" (...) Nguyễn Hữu Đang và Thụy An lấy nhà Phan Tại làm một "câu lạc bộ" bí mật, tụ tập một số phần tử phản cách mạng (...) "Đến khi chúng thấy âm mưu và hoạt động của chúng bị bại lộ, chúng định trốn vào Nam để tiếp tục làm tay sai cho Mỹ-Diệm. Lê Nguyên Chí thú nhận: "Đang nói với tôi, Đang vào theo Mỹ-Diệm sẽ được chúng tin dùng và sẽ làm được những việc lớn". Đang cùng Lê Nguyên Chí chuẩn bị trốn vào Nam". Toà đã tuyên án: Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất

quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại, 6 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân172.

Phùng Cung bị bắt tháng 5/61. Bị giam 12 năm tù. Không có án. Trường hợp Phùng Cung sẽ được tìm hiểu trong phần viết về Phùng Cung.

Các giáo sư đại học Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh,... bị cách chức và bị quản thúc. Cách đối xử với họ như thế nào, tư liệu chính thức không nhắc đến. Trong bài báo cáo tổng kết, có một đoạn Tố Hữu viết:

"Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính Trị, mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" mới hoàn toàn rơi xuống đất; và đồng thời, những sai lầm lệch lạc nghiêm trọng, nhất là tình trạng mất cảnh giác giai cấp trong văn nghệ sĩ, trong các đảng viên và cơ quan của Đảng cũng được vạch chỉ rõ ràng.

Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học, chủ yếu ở khoa Văn, khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần đức Thảo khoác áo giáo sư cũng phơi trần chân tướng173".

Câu: "Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học..." của Tố Hữu, xác định sự kiện cùng lúc với hai lớp Thái Hà, dành cho văn nghệ sĩ, trong Đại học có các "lớp" khác, dành cho các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường...

Hiện nay, có rất ít tư liệu của các nhà trí thức NVGP viết về vấn đề này, nên không thể biết những gì đã xẩy ra cho họ, nhờ cuốn Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ174, trong đó giáo sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại ông đã bị đưa ra "corrida - đấu trường" ba lần: đấu trường Mặt Trận Tổ Quốc, đấu trường Đại Học và đấu trường Đảng. Sau đó, ông hoàn toàn bị ly khai, không được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư, rơi vào cảnh đói rét, bệnh tật. Về những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc đã giúp đỡ, ủng hộ phong trào NVGP bằng cách này hay cách khác, hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật.

Tháng 8/2010, Lê Hoài Nguyên tiết lộ trong bài Vụ Nhân Văn- Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành175 một số

thông tin quan trọng, chúng tôi xin trích lại sau đây những điểm chính:

"Tại các đợt học tập Chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy,¼ Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà)¼

Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ NVGP cũng chịu các hình thức đối xử như Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng¼ Ngoài ra, tại các địa phương những giáo viên, cán bộ, học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP đều bị xử lý với nhiều hình thức.

Trong vòng ba đến bốn tháng các văn nghệ sĩ đi cải tạo lao động tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã¼ Một số người phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực¼

Kết tội nhóm NVGP có 3 nguồn chính thức như sau:

- Nghị quyết 30 của BCTĐCSVN176 ngày 6/1/1958 về

việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.

- Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm phá hoại Nhân Văn-Giai Phẩm của Tố Hữu tại Hội Nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ngày 4/6/1958.

- Bản án của Toà án nhân dân Hà Nội ngày 19/1/1960 xử vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An. NVGP không hoạt động gián điệp. Cái tội gọi là hoạt động gián điệp ở đây là sự gán ghép suy diễn buộc tội. Nguyễn Hữu Đang không liên quan gì đến những người Pháp còn ở Hà Nội. Còn Thụy An thì được một cơ quan giao nhiệm vụ nắm ý đồ của mấy người Pháp đối với tình hình Hà Nội lúc đó. Sau đó những lời báo cáo của bà trở thành chứng cứ buộc tội bà hoạt động gián điệp. Họ cũng không có tài liệu bí mật để chuyển giao cho cái gọi là cơ quan tình báo Pháp".

● Thực chất hội nghị Thái Hà

Trong ba người bạn thân Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, ban đầu Trần Dần có vẻ rất cứng cỏi, nhưng trong lớp Thái Hà, dường như ông lại là người nao núng nhất. Sự nao núng này sống lại trong những trang nhật ký. Nhật ký, chủ đích là viết riêng cho mình, không cần giấu diếm, che đậy, nhưng trái lại, ngay trong nhật ký của Trần Dần, đã có màu sắc "hối cải", giống như lời tự thú để đăng báo, viết cho "người khác" đọc, phản ảnh một Trần Dần đã thấm đòn, biết sợ, ông viết:

"Nhân Văn Giai Phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ nghiã, phản đối xã hội chủ nghiã; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu NVGP, đó là một công ty phá hoại bao gồm những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc Dân Đảng cũ (PhKhôi), đứa là mật thám trước (TDuy), đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghiã trotskisme (Nguyễn hữu Đang),... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, TrầnđThảo, và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với Sainteny, là Thụy An"177. Đó là những "nhận định" về người đồng hành, còn đây là "nhận định" về cái "tôi":

"Tôi là cái gì? Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổ lốn phản động của những tư tưởng tư sản địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh "vĩ đại cuồng", vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạt sa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lập thể, siêu thực... và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson (...)

Tôi đã tự lừa dối (...) Tôi đã tự lừa dối (...) Tôi đã tự lừa dối (....)"178

Trần Dần là người duy nhất để lại ba trang nhật ký về giai đoạn Thái Hà, nhưng ông không dám viết gì về nội dung học tập, mà chỉ ghi lại những "kết quả" học tập và sự tự hối của mình sau "lớp nghiên cứu 2 văn kiện".

Đến khi Lê Đạt trả lời phỏng vấn năm 1999 ở Paris, phát trên sóng RFI năm 2004, chúng ta mới biết rõ thực chất hai "hội nghị" Thái Hà.

Trước hết, ông giải thích tại sao lại có hai lớp học khác nhau (lớp đầu tháng 2/56 và lớp sau tháng 3-4/56): "Lớp đầu tiên tổ chức cho các đảng viên (...) tức là người ta vận động các đảng viên khác phát hiện tất cả những tội của những đảng viên tham gia Nhân Văn Giai Phẩm đã đành rồi, nhưng còn để phát hiện cả những tội của những người chưa tham gia Nhân Văn, của quần chúng, vì vậy người ta phải làm trong buổi trước".

Hình thức "học tập trước" các cách "phát hiện tội" này, đã được dùng trong Cải Cách Ruộng Đất và Hoàng Văn Chí đã trình bầy rõ trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản và Nguyễn Mạnh Tường cũng mô tả trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit, sẽ nói đến sau. Ở đây xin tiếp tục lời thuật của Lê Đạt. Và đây là diễn biến của lớp thứ nhì, với 304 người, trong tháng 3 và 4/56. Trước tiên, về không khí của "lớp học", Lê Đạt kể:

"Không khí rất căng thẳng, tôi nói thế này để chị biết nó căng thẳng như thế nào: Văn Cao đã đi lớp trước rồi, lớp cho đảng viên hồi tháng 2, thì sau đó, họ cũng kéo tất cả trở lại lớp sau để đánh tiếp. Tôi xin nhắc lại: tức là trong lớp trước, họ học tập đảng viên phát hiện quần chúng, để họ đánh; nhưng bây giờ, ở lớp thứ hai này: quần chúng lại phát hiện trở lại, để nếu đảng viên có gì, họ lôi ra đánh tiếp luôn, chị có rõ ý tôi không? Thế thì tôi thấy Văn Cao -hôm ấy trời nóng- Văn Cao mặc áo sơ mi to phồng thế mà sau khi nó tố những khuyết điểm của Văn Cao, tôi thấy cái áo sơ mi cứ dính dần, dính dần, dính dần... toát hết cả mồ hôi, nó dính như một cái áo lót cơ mà... Ðấy, chị thấy không khí căng thẳng như thế nào".

Về thực chất của "lớp học", Lê Đạt cho biết:

"Ðây không phải là một cuộc học tập mà là một cuộc đấu tranh, nó khác hẳn các cuộc học tập khác. Trong những ngày đầu, người ta vạch tất cả "những tội" của những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, ai nhớ được gì thì nói ra..., nó là một cái tụi... tố cáo nhau (...)Trong khi "học" như thế thì công an đi ra đi vào rất nhiều, mà đi một cách rõ ràng cho mình trông thấy chứ không phải người ta kín đáo gì! Sau khi tất cả mọi người đều đã "phát hiện các tội" của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội".

Cuộc "đấu tranh" kéo dài hơn một tháng, theo Lê Đạt: "Trong suốt một tháng ấy là cứ ngày nào, ngày nào cũng... lên phát hiện tội. Cứ phát hiện tội, tức là mình có gì thì mình báo cáo; còn người ta, người ta phát hiện tội của mình. Nó là một thứ đấu tranh đấy mà. Ðấu tranh rất gay gắt. Và lẽ dĩ nhiên, nói là cả lớp, nhưng người ta chỉ tập trung vào một vài người thôi, trong số đó có tôi cho nên vất vả lắm".

Cách "phát hiện tội" như thế nào? Bằng miệng hay là ghi trên giấy? "Bị can" có quyền cãi khi lời "phát hiện" là bịa đặt hay không?

Lê Đạt trả lời: "Không! Không! Tất cả mọi người đều đứng lên phát hiện chứ. Phát hiện thì có thư ký ghi hết và bản thân mình cũng phải ghi. Rồi sau căn cứ trên cái phát hiện của người ta, mình về tổ, mình phát hiện cái khuyết điểm của mình, cái tội của mình và sau đó mình phải làm bài kiểm điểm rất dài về toàn bộ thời gian mà mình tham gia Nhân Văn. Người ta phát hiện, còn mình không được nói nữa. Ðông Tây người ta phát hiện ầm ầm, ầm ầm, làm sao mà mình có quyền, nhất là không được cãi gì".

Về các văn bản "thú tội", Lê Đạt cho biết đã được viết trong hoàn cảnh thế nào:

"Tức là như thế này: Bây giờ anh làm trong tổ, tổ thông qua bài khai của anh. Bài của anh lại phải đưa ra hội trường, hội trường thông qua thì anh mới được xong. Nếu không thì anh cứ việc tiếp tục lại. Viết xong, nhưng chưa thành khẩn, thì lại phải viết tiếp. Mình cứ phải viết tiếp, viết tiếp... mãi, mà mình chỉ có từng ấy ý thì làm sao viết thêm được mãi!"

Về việc bắt Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt kể:

"Trong lúc kiểm thảo như thế, thì người ta loan tin, người ta nói rằng: "Công an đã bắt Nguyễn Hữu Ðang!" Cái anh Ðang này cũng là người hoạt động mà sao dại dột thế! Ông ấy lại nhờ người mang một lá thư về Hải Phòng để bố trí cho ông ấy vào Nam. Thế là nó bắt được cái thư ấy. Vì chính người đưa thư ấy là người của công an. Thế là họ đồn ầm lên: "Sự liên hệ giữa Nhân Văn và bọn Mỹ Diệm là đã rõ ràng rồi. Nguyễn Hữu Ðang trong lúc không còn đường thoát nữa, liên lạc với trong ấy và chúng ta đã bắt được Nguyễn Hữu Ðang rồi, bắt vào ngày bao nhiêu, bao nhiêu"... Tất cả mọi người vỗ tay: Hoan hô! Hoan hô!... Tức là một sức ép rất ghê gớm."

Về việc lao động cải tạo, Lê Đạt cho biết:

"Lúc đầu mới đi thì mình cũng lao động, cũng hăm hở. Mình hăm hở vì chắc là hai năm thì xong. Thế nhưng mà hai năm rồi cũng không thấy ai nói gì về vấn đề đó cả và lại tiếp tục hai năm nữa... rồi dần dần nó phai nhạt đi không ai nhắc đến chuyện đó nữa. Thì thời gian disponibilité -thời gian mà phải đi, lúc nào người ta gọi đi lao động cũng được- thời gian đó kéo dài 10 năm. Lẽ dĩ nhiên là trong 10 năm ấy, không phải lúc nào cũng đi. Người ta gọi đi, rồi người ta lại cho mình về; về rồi, họ lại kéo mình đi, nghĩa là trong 10 năm là thời gian mình phải dành cho việc đi lao động cải tạo. Thế còn sau này hết 10 năm thì ở nhà. Nhưng mà ở nhà thì... Tôi không ngờ nó kéo dài đến thế: cả thời kỳ đi lao động lẫn thời kỳ "cấm" là gần 40 năm chị ạ. Mình thấy nó đằng đẵng mà mình coi như là số mệnh thôi".

"Lúc bấy giờ, nếu tôi không có sự cưỡng lại thì tôi là một người vứt đi, thành một cái giẻ rách. Tôi cho cái việc giẻ-rách-hóa-con-người đó, chính quyền phải chịu trách nhiệm"179.

Ngày 10/12/1959, Trần Dần ghi trong nhật ký: "Sớm mai toà xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự (...) Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...) Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Đôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Đang ra toà cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ơi! Con đường để đi tới chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao?"

● Biện pháp thanh trừng đối với trí thức

Các đấu trường khác

Un excommunié của Nguyễn Mạnh Tường thuật lại những nổi trôi của một người trí thức có lòng với đất nước, trong buổi đổi đời. Tác phẩm phản ảnh phong cách của một kẻ sĩ bất phục tòng, mô tả sự hèn mạt và tráo trở của những phường mũ mão cân đai và chứng minh thế nào là lòng yêu nước đích thực. Qua biện pháp kỷ luật mà nhà cầm quyền dành cho Nguyễn Mạnh Tường, chúng ta có thể đoán được chính sách đối xử với những nhà trí thức khác như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh...

Sau Nhân Văn, Nguyễn Mạnh Tường đã trải qua ba "đấu trường": Mặt Trận Tổ Quốc, Đại Học và Đảng. Tại mỗi đấu trường, ông phải trả lời về "tội trạng" của mình. Đấu trường đầu tiên là phòng họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở phố Tràng Thi, được ông mô tả như sau:

"Tôi đã có nhiều dịp tới đây dự các cuộc họp, hồi tôi còn ở trong nhóm những người được sủng ái được ngồi bên cánh phải của Người. Tôi biết rõ tất cả các vị "đồng liêu" sẽ quyết định số phận của tôi hôm nay!

Lần này, tôi vào phòng họp như con bò mộng bị thả vào đấu trường. Đúng là một đấu trường bởi vì tất cả bàn ghế đã được xếp dẫy dọc tường, chừa một chỗ trống giữa phòng. Sau dẫy bàn, là đám đông nhiều hạng người. Những người ngồi là thành viên Mặt Trận, đứng là những kẻ hiếu kỳ, phần đông là nhà báo, hoặc các cơ quan hội đoàn. Đó là thứ quần chúng đấu trường, thèm cảm giác mạnh và sôi sục ham muốn thấy quang cảnh lạ lùng khó tả sắp diễn ra!

Như con bò mộng thả trong đấu trường, tôi đưa mắt nhìn một lượt cử tọa. Nếu những người đứng, trố mắt nhìn và lắng tai nghe, thì những vị "đồng liêu" của tôi ngồi sau dãy bàn, có vẻ ngượng nghịu với nhiệm vụ mà họ chưa quen lắm. Tuy những câu hỏi đã được các vị "có thẩm quyền" soạn sẵn, nhưng trong cách diễn tả, giọng họ có chút bối rối. Tôi không khỏi thương cho họ bị rơi vào hoàn cảnh trái khoáy này"180.

Biết rõ bản lĩnh của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong việc tự biện hộ, ông nắm chắc phần "thắng" trước những đối thủ tầm thường, đuối lý, không đáp lại được những lời hùng biện của người luật sư đầy kinh nghiệm.

Ngày hôm sau, đấu trường Đại học diễn ra trong không khí công cộng, mọi hạng người đều có thể tham dự. Hàng ngàn sinh viên, nhân viên trong đại học, nhà báo, những kẻ hiếu kỳ, bọn lang bang, đến kín chật hành lang, giảng đường, muốn dự kiến buổi "xử tử một trí thức nổi tiếng ở Hà Nội". Lần này quan toà không ngồi bàn, mà thay phiên nhau bước lên giảng đàn. Nếu bên Mặt Trận Tổ Quốc còn có chút nể mặt ông, chưa làm quá lộ liễu, thì ở đây, ông thấy rõ:

"Người ta muốn kéo tên tôi xuống bùn đen, họ muốn chỉ rõ tội ác của tôi để biện minh trước cho sự trừng phạt mà họ sẽ dành cho tôi. Và đồng thời, để răn đe tầng lớp trí thức, để cải tạo họ, bắt họ tuân thủ vô điều kiện những mệnh lệnh và quyết định của đảng, theo đúng đường lối chính thống cộng sản. Tất cả mọi vi phạm vào nguyên tắc thần thánh này sẽ bị trừng phạt nghiêm ngặt, dù cho thủ phạm đã có công lớn như thế nào đối với tổ quốc và cách mạng.

Dưới chân giảng đàn mà tôi đã trải qua những giây phút đẹp nhất cuộc đời, tôi được thấy những điều tồi tệ nhất. Tôi thấy, không những người ta muốn trừng phạt tôi -xin lỗi- cải tạo tôi, mà còn hơn nữa: họ muốn dìm tôi xuống địa vị một phạm nhân dưới chân cái bục mà thời vàng son tôi đã đứng, bắt tôi nghe những lời thoá mạ mỉa mai cay độc của những kẻ không phải là đồng song với tôi như ở Mặt Trận mà là những đứa nhãi ranh không biết lượm được ở đâu, một vài kẻ hình như đã học tôi.181"

Những lời đấu tố thô bỉ người thày, không được Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại, ông chỉ ghi lại cuộc tranh luận của ông với một sinh viên học trò cũ và một nhà giáo trung học nhờ chạy chọt, được lên dạy đại học, vì những vấn đề họ đưa ra, có chỗ đáng bàn. Và ông vẫn vận dụng kiến thức của mình để thuyết giảng. Ông thấy mình như đã chiếm được cảm tình của số đông cử tọa, qua ánh mắt của họ.

Đấu trường Đảng xẩy ra trong không gian kín, không có quần chúng tham dự. Có lẽ người ta thấy bất lợi khi đưa ông ra trước công chúng: không những ông không bị bôi nhọ mà dường như ông còn được quần chúng ủng hộ. Trong đấu trường thứ ba này, Nguyễn Mạnh Tường phải trả lời ba vị quan tòa về Thái độ của người trí thức trong thế giới cộng sản. Câu hỏi chính đặt ra trong buổi thẩm vấn là: Sau chín năm theo cách mạng, đồng chí đã gặt hái được những thành quả không nhỏ và được sự trọng đãi của Đảng và nhà nước, thay vì hưởng thụ những đặc quyền mà Đảng đã dành cho, tại sao đồng chí lại đứng lên chống Đảng? Và đây là lời vấn đáp cuối cùng giữa người hỏi cung và Nguyễn Mạnh Tường, trong buổi đối chất trước toà án Đảng:

"Đồng chí không thể không biết những gì đang chờ đợi. Nhà nước chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của trí thức. Đó là thái độ theo đúng đường lối chính thống, tin vào Đảng, trung thành với Đảng, suy nghĩ, cảm nhận, hành động, theo chiều hướng và cung cách mà các cấp lãnh đạo đã quy định. Bất luận kẻ nào đi ra ngoài con đường này là bị rơi vào tà thuyết và sẽ bị trừng trị như những kẻ phản động bán nước. Đây là cơ hội cuối cùng để đồng chí hối cải về sự cả gan và bất cẩn của đồng chí. Hãy nắm lấy!"

Nguyễn Mạnh Tường trả lời:

"Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của mình. Nếu xã hội, tức là nhân dân, đạt tới một trình độ văn hoá cao, có mức nhận thức trong sáng, thì những cả gan của một tư tưởng khác với đường lối chung sẽ không bị trừng phạt, mà ngược lại sẽ được khuyến khích, bởi sự tiến bộ của dân tộc tùy thuộc vào những cả gan này. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng không bao giờ số đông quần chúng có thể khai quang được một lối đi trong rừng rậm của dốt nát, thành kiến, hèn hạ, để tiến lên một bước về phía ánh sáng mặt trời. Trong thành Athènes, kinh đô của hiền triết, Socrate đã phải uống cạn cốc độc cần, để lại bài học cho những trí thức trên thế giới suy nghiệm và noi theo: người trí thức phải giữ vai trò tiên phong, hướng đạo trên con đường khó khăn và nhọc nhằn, để dẫn dân tộc đến niềm vui và hạnh phúc.

Nước ta đã phải chứng kiến sự thâm nhập của một chủ nghĩa ngoại bang hoàn toàn không bắt rễ từ quá khứ dân tộc. Bao nhiêu nhà ái quốc lớn mà mọi người đều kính phục đã bảo vệ, đã bênh vực, đã bảo trợ cho chủ nghiã này, họ đã đưa nó ra rồi bắt dân chúng phải thừa nhận, bằng cách hứa hẹn nó là chìa khoá mở cửa vào thiên đàng trần thế. Quần chúng tin vào lời nói của lãnh đạo và chờ đợi sự thực hiện những lời hứa. Chính nhờ vào sự đồng tình, vào những cố gắng, những hy sinh của của toàn dân mà đất nước đã giành được độc lập và tự do. Những cánh tay làm việc và những cái đầu suy nghĩ đã là rường cột cho đảng cầm quyền.

Bất hạnh thay, con đường chúng ta đi không bọc nhung. Hợm mình trước những chiến công hiển hách mà họ tưởng đã đạt được nhờ chủ nghiã mác-xít, những người lãnh đạo đã xây dựng nền móng và áp dụng sâu rộng hơn chủ nghiã này trong tất cả các ngành, không cần đếm xỉa đến khoa học và thực tế, tuy vẫn hô hào kính trọng giáo dục. Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đưa đến những sai lầm nghiêm trọng mà những người cầm quyền phải chịu trách nhiệm. Sự đói khổ của nhân dân đã đến mức khốc liệt, vậy mà những kẻ trách nhiệm vẫn khoác lác rêu rao những điều ngược lại.

Trước bi kịch này, thái độ của trí thức phải thế nào? Có kẻ bịt mắt đút nút lỗ tai để đồng thanh phụ họa với bọn cơ hội và phỉnh nịnh, luôn miệng kêu gào: "Cộng Sản thắng lợi. Đảng Cộng Sản muôn năm". Những kẻ này hy vọng được ân sủng đến ba đời. Công chúng biết rõ và khinh họ. Nhưng những khối óc biết nghĩ và và những trái tim yêu tổ quốc và dân tộc không thể nhẫn nhục chịu đựng -trong im lặng và thụ động- những cay đắng của khát vọng không thành và những giấc mơ bị chà đạp. Họ lên tiếng tố cáo những sai lầm và đề nghị những biện pháp sửa đổi. Họ được cám ơn bằng những cú roi quất, bằng tù tội suốt đời, họ bị kết tội phản đảng, phản cách mạng, là kẻ thù của nhân dân! Sự an ủi duy nhất của họ là được quần chúng hiểu, ái ngại, nhưng không làm gì cho họ được. Họ phải đợi sự phán đoán của Lịch sử".

Và ông viết tiếp:

"Không một lời tuyên án. Những người cộng sản ưa bí mật. Lệnh được quyết định và thi hành trong yên lặng chết chóc. Công chúng không biết gì cả: bí mật được giữ trọn để khỏi khơi lên những tình cảm vô ích, những xao động đáng tiếc! Họ đã tiên đoán tất cả và hành động kịp thời!182"

Ba đấu trường. Không có án. Nguyễn Mạnh Tường đã phải xuyên qua hơn ba mươi năm sa mạc từ 1958 đến 1990. Bị khai trừ khỏi đại học. Chiếc xe đạp đi dạy bị lấy lại. Không được mở lớp dạy tư để kiếm tiền. Phải bán dần đồ đạc trong nhà. Sống trong đói khát. Bệnh tật. Bạn bè xa lánh. Người quen đổi vỉa hè.

Nhưng trong đêm khuya tăm tối vẫn có những đốm lửa lóe lên:

"Thỉnh thoảng, sáng thức dậy mở cửa tôi thấy ai đã nhét vào kẽ cửa một phong bì đầy tiền. Chúng tôi cảm động rơi nước mắt, tuyệt vọng vì không thể cám ơn ân nhân được bởi có biết họ là ai. Hay có những hôm tôi đi dạo lúc trời nhá nhem. Luôn luôn vẫn có cớm theo dõi đằng xa. Bỗng một chiếc xe đạp đạp rất nhanh, sát bên tôi, nhét vào tay tôi một phong bì hay một gói nhỏ rồi biến mất. Tất cả chỉ trong nháy mắt.183"

Những đốm lửa hy vọng đó đã nuôi sống nhà trí thức trong suốt cuộc đời còn lại.

Chú thích:

150 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

151 Trên Văn số 15, ra ngày 16/8/1957.

152 Theo Hoàng Cầm có Huy Cận, Lưu Trọng Lư. Theo Lê Hoài Nguyên có Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường. Ở đây, chúng tôi dùng thông tin của LHN.

153 Trích bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sang của dư luận, in trong BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, trg 309-310.

154 Bàng Sĩ Nguyên là người đã viết những dòng vô cùng nhơ bẩn về Thụy An, được đăng lại trong BNVGPTTADL.

155 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

156 Tức là Ánh sáng xã hội chủ nghiã.

157 Những chữ in đậm trong bài "Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ" của Tố Hữu, được trích dẫn ở đây, là theo đúng nguyên văn.

158 Tố Hữu, Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ", Học Tập số 4, tháng 4/1958.

159 Nguyễn Đình Thi, Chống chủ nghiã xét lại trong văn nghệ, Học Tập số 3, tháng 3/58.

160 Văn Nghệ Quân Đội, số 6, tháng 6/58.

161 Hồng Cương, Bọn phản bội Trần Dần-Hoàng Cầm-Tử Phác, Quân Đội Nhân Dân số 437, ra ngày 11/4/1958.

162 In trong cuốn BNVGPTTADL mà chúng tôi đả trích dẫn ở trên.

163 BNVGPTTADL, trang 310.

164 Báo chuyên nghị luận, số 1 ra ngày 10/12/ 56, do Minh Đức xuất bản, vừa phát hành đã bị tịch thu.

165 Sách Tết cùng hình thức với Giai Phẩm do Minh Đức in đầu năm 1957.

166 Lê Hoài Nguyên, bđd, website nguyentrongtao.com 06/08/2010.

167 Lê Nguyên Chí là người đưa đường cho nhóm Nguyễn Hữu Đang trốn vào Nam, nhưng Hoàng Cầm cho là người của công an trá hình. Con trai ông có viết bài thanh minh cho cha.

168 In trên mạng Talawas ngày 3/2/2010.

169 Trần Đức Hinh, Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh, Điện Ảnh số 14, ngày 1/5/58, tài liệu Lại Nguyên Ân.

170 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

171 Trích bản tin báo Nhân Dân, Hà Nội, 21/01/1960, tài liệu Lại Nguyên Ân.

172 Trích bản tin của báo Nhân Dân, bđd.

173 Tố Hữu Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm, in trong BNVGPTTADL, trang 34-35.

174 Nxb Quê Mẹ, Paris, 992.

175 Lê Hoài Nguyên tên thật Thái Kế Toại, nguyên Đại Tá công an, công tác văn hoá tại A25, chuyên theo dõi văn nghệ sĩ, bài đăng trên mạng nguyentrongtao từ 6/8/2010.

176 Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam

177 Nhật ký Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, trang 239-240.

178 Trần Dần ghi trang 240-241.

179 Tất cả những trích đoạn trên đây đều rút ra từ Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

180 Trích dịch Un Excommunié, trang 151-152. 181 Trích dịch Un Excommunié trang 173-174.

182 Un Excommunié, trang 226- 229.

183 Un Excommunié, trang 335.

Chương 8

thụy an (1916-1987)
ảnh tư liệu

A collage of men in different poses

Description automatically generated

A collage of a person

Description automatically generated

Chương 9

nguyễn hữu đang (1913-2007)

Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào NVGP, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 năm 2007, khi ông mất.

Là một trong những người hoạt động cách mạng trong phong trào Cộng sản từ khởi thủy, Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính ông viết215, thì từ 16 tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia Học Sinh Hội216 làm tổ trưởng và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm 1929.

Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào NVGP, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 năm 2007, khi ông mất.

Là một trong những người hoạt động cách mạng trong phong trào Cộng sản từ khởi thủy, Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính ông viết215, thì từ 16 tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia Học Sinh Hội216 làm tổ trưởng và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm 1929.

Cuối 1930, bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao Thái Bình. Hè 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên217 cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang học trường sư phạm Hà Nội.

1937-1939: tham gia Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương. Biên tập các báo của Mặt Trận như Thời Báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày Mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng Sản như Tin Tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời Nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh và Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, ở các vị trí: uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.

1943: Gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được chính thức kết nạp vào đảng.

1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được thả, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc. Tham gia Chính Phủ Lâm Thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng Bộ Tuyên Truyền. Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.

Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: thứ trưởng Bộ Thanh Niên, chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.

12/1946-3/1948: Làm trưởng ban Tuyên Truyền Xung Phong Trung Ương.

Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 4/1948 - 4/1949, phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.

Tháng 7/49 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ.

Tháng 11/54 - 4/58: Tổ chức biên tập báo Văn Nghệ.

Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.

Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu Đang, đã dẫn ở trên. Về NVGP, ông chua thêm: "Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".

Hoạt động NVGP từ tháng 9/1956, với Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, và chấm dứt với Nhân Văn số 6, chưa ra, đã bị đình bản, tháng 12/56.

Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào Nam.

Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.

Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, tội "phá hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi Hà Giang.

1973, được thả cùng với Thụy An, diện "Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái Bình.

1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu.

Từ 1993, được về sống ở Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.

● Quyền tự do phát biểu bị tước đoạt

Sau 15 năm tù và 16 năm quản thúc ở Thái Bình (1973- 1989), Nguyễn Hữu Đang được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và vẫn bị chăm sóc kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, riêng ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác. Sở dĩ có buổi trả lời RFI tháng 9/1995 là nhờ sự tổ chức của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày lễ Độc Lập 2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt hẹn với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ, qua điện thoại nhà Lê Đạt, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về NVGP. Buổi thu thanh này, phát trên RFI, tháng 9/1995218. Đó là lần phỏng vấn đầu tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với Nguyễn Hữu Đang, mặc dù ông đã có điện thoại riêng, nhưng chỉ nói vài câu, là bị cắt ngay. Vậy sự "phục hồi" chỉ là hình thức, vì trên thực tế, Nguyễn Hữu Đang chưa bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân.

Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu 1997, được ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của Bộ Nội Vụ -nay là Bộ Công An- chở. Ông Vũ Toàn nay cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có người của Bộ Nội Vụ ngồi nghe, nên không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối.

Ông dặn:"Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Nói như để trấn an người của chính quyền, nhưng không có kết quả: Khi trở lại Paris, chúng tôi đã cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương trình", nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá, ông đã quát lên: "Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng..." Ông chưa dứt lời, tiếng điện thoại đã lại u u... Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu Đang, đã gây chấn động trong tôi nhiều năm tháng. Từ đó đến khi ông mất, tôi không bao giờ gọi cho ông nữa, phần vì, không muốn ông bị phiền thêm trong cuộc đời đã quá nhiều thử thách, đớn đau; phần vì, sau này ông nghe không rõ, những người đến thăm thường phải bút đàm.

Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt đãi" hơn cả, "biệt đãi" đến phút cuối. Đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối trọng thể, dù chỉ để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn: Tang lễ cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai lầm".

Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn bạn qua điện thoại. Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, chỉ nằm liệt không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang.

Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và một thời gian sau nữa, cũng không thể liên lạc lại được với Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris đã bị chặn.

Như vậy, tiếng nói của những thành viên NVGP, cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007, và sau nữa vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ.

● Nguyễn Hữu Đang là ai?

Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình ở trên. Bởi những điều được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những gì diễn ra trên thực tế. Ví dụ:

- Hoạt động cách mạng từ 16 tuổi, tức là từ 1929 Nguyễn Hữu Đang đã là đối tượng được kết nạp đảng nhưng mãi đến 1947, mới được chính thức kết nạp.

- Đang ở địa vị hàng đầu, ngang ngửa với Trường Chinh, ông bỏ tất cả để về Thanh Hoá.

- Trong hơn 6 năm: từ 4/1948 đến 10/1954, về mặt chính thức, ông phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt (từ 4/1948 - 4/1949) và làm trưởng ban Thanh Tra Bình Dân Học Vụ (từ 7/1949 - 10/1954). Hai chức này đều "hữu danh vô thực".

Theo Hoàng Văn Chí: "Cộng sản thành lập nhiều đoàn thể chính trị "hữu danh vô thực" như đảng Dân chủ, dành cho địa chủ và phú thương; Đảng Xã hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt, dành cho nhân sĩ và bô lão. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong để cộng sản nấp sau giật dây"219. Còn theo Hoàng Trung Thông, thì "Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức"220.

● Hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ

Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm cho hội Truyền Bá Quốc Ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên. Về cách làm việc của ông trong hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Nguyễn Huy Tưởng viết:

"Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền Bá Quốc Ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài Chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy"221.

Không biết Nguyễn Hữu Đang đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong đời cách mạng và trong thời NVGP. Chỉ riêng bài "Người thuyền trưởng" viết năm 1988 về Nguyễn Văn Tố, ông cũng phải ký hai tên giả: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới nhập một, ký tên thật Nguyễn Hữu Đang222. Nhờ Người thuyền trưởng, ta có thể xác định lại nguồn cội của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được miền Bắc đưa ra. ông viết:

"Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc"223.

Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số sự kiện từ trước đến nay vẫn bị chính quyền che đậy, hoặc nói sai đi:

- Hội Truyền Bá Quốc Ngữ được Pháp bảo trợ từ đầu - năm 1938.

- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập Hội. Ngày khai mạc, ông đang dạy học ở nông thôn, khi về Hà Nội nghỉ hè, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ224, Kỳ khuyên Đang nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, nhận việc dạy học giúp Hội.

- Có một số thành viên cộng sản tham dự Hội, nhưng Đảng không lập ra Hội này, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch truyền bá quốc ngữ".

- Truyền bá quốc ngữ do Hội Trí Tri, một tổ chức trí thức thời Pháp thuộc chủ trương, Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số thành viên xây dựng Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả hai...

- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết của Nguyễn Hữu Đang, không thấy ông nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng Xuân Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ, ngay khi chưa có hội. Từ năm 1936, khi ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp học chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...

- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu Đang cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau 1945, chính phủ lâm thời mới quyết định thành lập Nha Bình Dân Học Vụ thay thế Hội Truyền Bá Quốc Ngữ; vai trò thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.

● Xác định lập trường văn hoá

Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I

Hội Văn Hoá Cứu Quốc thành lập tháng 4/1943 tại Hà Nội, là một thành viên của Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiên Phong, xuất hiện công khai từ 10/11/1945 đến 1/12/1946, ra được 24 số225.

Nguyễn Hữu Đang cho biết, ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc. Trên ba số đầu Tiên Phong, Nguyễn Hữu Đang viết 5 bài xác định lập trường của Tiên Phong và Hội VHCQ: Định nghiã hai chữ văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới ách đế quốc226, Hội nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam227, Nhận rõ thêm về ý nghiã hai chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá toàn quốc sẽ tổ chức như thế nào228.

Đó là những bài tiểu luận ngắn xác định lập trường văn hoá của Nguyễn Hữu Đang, hoàn toàn khác biệt với lập trường của Trường Chinh trong bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam229, và ông chuẩn bị cho việc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I, sẽ họp năm 1946 ở Hà Nội.

Theo quảng cáo đăng trên Tiên Phong số 20 (1/10/46) thì Đại Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc Toàn Quốc sẽ họp từ 11-12-13/10/1946 và có thể kéo dài 1 đến 2 tuần. Nhưng cuối cùng bị đẩy lui, rút gọn và lấy tên là Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất, chỉ họp đúng một ngày 24/11/1946.

Có hai vần đề đáng chú ý:

• Thứ nhất: Trường Chinh trong Đề cương, in trên Tiên Phong số 1, xác định lập trường văn hoá của Đảng Cộng sản trên ba điểm chính:

- Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. - Nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá XHCN.

- Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v...

• Thứ nhì: trên Tiên phong số 2, Trường Chinh chĩa thẳng mũi dùi vào nhóm Tri Tân "phong kiến" và nhóm Thanh Nghị "tư sản", vạch ra những tội của họ đối với cách mạng230.

Nguyễn Hữu Đang, trong ba số báo đầu, cũng không thua, ông xác định đường lối hoạt động và lập trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc một cách thuần tuý văn hoá, không hề đả động đến Đảng, đến xã hội chủ nghiã, và ông coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ. Ông chủ trương một nền văn hoá mở rộng, tương giao với các trào lưu khác đương thời và những trí thức không cộng sản. Trong bài ký tên Phóng Viên, tường thuật lại Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, chắc do ông viết, có một số thông tin như sau:

"Hai ban kịch Đông Phương và Hoa Lan cổ động ráo riết hai vở kịch lớn Kiều Loan và Lôi Vũ sẽ diễn trong dịp hội nghị", "Hội nghị khai mạc lúc 9 giờ sáng tại Nhà Hát Lớn. Có mặt gần hai trăm đại biểu Bắc, Trung, Nam (...) có mặt đông đủ đại biểu các ngành văn hoá khác, khoa học, triết học... như các ông: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... Thật là xứng đáng một cuộc Hội Nghị Toàn Quốc, nhất là khi Hồ chủ tịch bước lên đọc diễn văn khai mạc. Bằng một giọng thân ái cụ chúc hội nghị thành công (...) Tiếp lời cụ có bài diễn văn của ông Đào Duy Anh trong ban vận động. Và sau đó thì hội nghị được tin bất ngờ: hội nghị chỉ họp trong một ngày hôm nay thôi. Cái chương trình rộng lớn trong bảy ngày đành phải gác lại. Chỉ còn một buổi chiều nữa thì bế mạc, thì giờ chỉ đủ cho các đại biểu đi đặt vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong"231.

Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc của Nguyễn Hữu Đang bị tuyên bố "rút gọn" giống như vở kịch Kiều Loan của Hoàng Cầm, vừa diễn xong buổi ra mắt 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, thì bị Trần Duy Hưng lên diễn đàn ra lệnh đình chỉ. Dĩ nhiên lấy lý do chiến tranh.

Nhưng ngoài ra còn có những lý do khác, mà sau này Hoàng Trung Thông, dưới bút hiệu Hồng Vân, bộc lộ trong bài Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang:

"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít". "Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu Quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc". "Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao"232.

Điều này giải thích tại sao Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, lại có mặt tất cả những nhà văn hoá lớn mà Đảng không mấy thiết tha như: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... và tại sao đại hội bị đình chỉ, sau một ngày họp.

Qua lời buộc tội của Hoàng Trung Thông, chúng ta còn hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ 1929, Nguyễn Hữu Đang đã được coi là "đối tượng kết nạp" mà mãi đến năm 1947, mới được kết nạp vào đảng, rồi ông lại bỏ đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:

"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng"233.

Gần hai năm sau, Trường Chinh tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc II, ngày 15/7/1948 tại Việt Bắc, đọc bản Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, xác định văn nghệ kháng chiến là văn nghệ công nông binh, văn nghệ tuyên truyền. Bỏ Hội Văn Hóa Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá. Trong 6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v... Đến năm 1951, Đảng chính thức khai trừ Nguyễn Hữu Đang.

Nguyễn Hữu Đang nổi danh vì tài tổ chức, ông đã thành công trong ba chương trình lớn: Tổ chức ngày lễ 2/9/1945, tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc và tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Sự thành công của Việt Minh dựa trên sự thành công của ba tổ chức này:

- Được Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày 2/9/1945, để vị chủ tịch đọc diễn văn mắt quốc dân, Nguyễn Hữu Đang kể lại:"Ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá như vậy."234 Và chỉ có 4 ngày. Để tổ chức ngày lễ, ông vận động hội Truyền Bá Quốc Ngữ, hội Văn Hóa Cứu Quốc và hội Hướng Đạo Sinh, cả ba dưới quyền điều khiển của ông. Ông đặt tên cho ngày lễ là Ngày Độc Lập, và ông lấy lại tên Ba Đình mà chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt cho rond point Phủ Toàn Quyền, là vườn hoa Ba Đình. Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ hơn nửa triệu người ở các thành phần khác nhau của dân tộc đến Ba Đình dự Ngày Độc Lập 2/9/1945. Đó là thành công lớn đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang.

Theo Hoàng Cầm, trong thời kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang thực hiện hai công trình lớn nữa:

- Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc năm 1946 ở Hà Nội đoàn kết tất cả các thành phần văn nghệ sĩ và trí thức đứng lên chống Pháp. Lúc bấy giờ hầu hết các văn nghệ sĩ trí thức đều đi theo kháng chiến, rất ít người ở lại trong thành và đó cũng là một thành công của Nguyễn Hữu Đang.

- Lên Việt Bắc, ông Hồ giao cho Nguyễn Hữu Đang nhiệm vụ: thành lập Uỷ Ban Vận Động Thanh Niên Xung Phong Toàn Quốc. Ông đi khắp các tỉnh, các địa phương, để thành lập một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong, kêu gọi thanh niên xung phong đi bộ đội hoặc vào các đội dân công, hoặc cổ động bà con đi dân công, làm nhiệm vụ chiến trường, gánh đất, gánh gạo, chăm sóc thương binh... Nguyễn Hữu Đang cũng thành công trong nhiệm vụ đó.

Đối với Trường Chinh, từ hồi còn làm báo Tin Tức, tuy ông Trường Chinh đứng tên nhưng ông Đang làm tất cả. Nhưng sau này, hình như ông Trường Chinh không còn tín nhiệm ông Đang nữa, tất cả các việc ông Đang làm đều do ông Hồ nghĩ ra và trao cho, như việc tổ chức buổi lễ đọc tuyên ngôn Ba Đình, và trong chính phủ lâm thời thì ông

Đang làm bộ trưởng Không Bộ - Ministre sans portefeuille235 tức là rất quan trọng, như con dao pha, chạy chỗ nào cũng được, phải là người tài giỏi và nhiều năng lực lắm.236

Nhiều tín hiệu đồng quy ở điểm: sau bản tuyên ngôn Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, 1948, có sự rạn nứt chung, giữa đảng Cộng Sản và thành phần trí thức độc lập. Nguyễn Hữu Đang là một trí thức độc lập đã theo Đảng từ những ngày đầu, lúc 16 tuổi, năm 1929, và đến năm 1948, Nguyễn Hữu Đang không còn theo cách mạng nữa.

● Hoạt động trở lại: báo Văn Nghệ

1954, Trường Chinh phái Tố Hữu triệu tập Nguyễn Hữu Đang trở lại và cử Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân của Nguyễn Hữu Đang đi mời ông về. Họ đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, nhưng ông từ chối, ngỏ ý muốn làm biên tập viên báo Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang phụ trách báo Văn Nghệ từ tháng 11/1954 đến tháng 4/58, mới chính thức ngừng hẳn.

Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho rằng:

"Năm 1954, Tố Hữu mời Nguyễn Hữu Đang lên Việt Bắc, đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Hà Nội, hy vọng ngày tiếp quản sẽ có một người uy tín đại diện cho văn hoá tại Hà Nội. Tôi đoán ông Đang từ chối vì cho chức đó không xứng với ông. Nếu mời làm bộ trưởng Văn Hoá thì ông nhận, bởi ông nhiều tham vọng lắm, có đầu óc lãnh tụ lắm. Tờ Văn Nghệ, lúc bấy giờ Xuân Diệu làm tổng biên tập237. Khi ông Đang mới về, báo in mỗi số khoảng một hai vạn, mà chỉ 10 tháng sau, đến tháng 10/1955, báo in đến bẩy vạn, thì đủ biết tài làm báo của ông Đang"238.

Về việc Nguyễn Hữu Đang không nhận chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, lập luận của Hoàng Cầm chưa chắc đúng hẳn. Có lẽ Nguyễn Hữu Đang từ chối chức này, vì ông biết là do Trường Chinh, đối thủ của ông -theo lệnh của ông Hồ, miễn cưỡng đề nghị- thì chỉ có thể là "ngồi chơi xơi nước", như chức thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ ngày trước, và dù có làm đến bộ trưởng -ông đã từng làm thứ trưởng- thì cũng vậy thôi: bên trên là cả một cơ chế chỉ đạo từ Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư đến Chủ Tịch.

Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ, vì một chủ đích khác và có thể ông đã bàn trước với Lê Đạt: là để "lãnh đạo" hoặc "lũng đoạn" cơ quan văn nghệ lớn nhất của Đảng cùng với Lê Đạt. Bởi vì, trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nói:

"Tôi quen với anh Đang lâu rồi, từ trước"; "Anh Đang chỉ thân với với tôi thôi, anh không thân thiết gì với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân". Và theo Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, tức là người của Tuyên Huấn gửi sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"239.

Được Tuyên Huấn gửi sang, nhưng Lê Đạt quá trẻ, lại chưa có sự nghiệp sáng tác, nên khó điều khiển những người như Xuân Diệu. Lê Đạt kể:

"Thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở trong báo Văn Nghệ. Anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào nằm bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy nói với anh Tưởng là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của mình cũng bị nó gạt luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi: Thế thì để ai làm? Anh Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi. Anh Đang là người rất nghệ sĩ, trông có vẻ hắc thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu. Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ, một cách rất say mê. Về văn nghệ ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội họa, anh rất tinh. Chỉ có là anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn nghệ."240

Vậy có thể tạm thời kết luận: Việc Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ dường như có chủ đích và đã hẹn với Lê Đạt từ trước: Một người được Tuyên Huấn gửi sang, một người được ông Hồ tin cẩn. Cả hai sẽ nắm tờ báo văn nghệ chính thức của đảng Cộng Sản từ 1954 đến 1958, đưa vào những bài họ viết hoặc họ kiểm soát, thậm chí bỏ cả bài của Xuân Diệu và thực hiện những việc mà họ muốn như phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ tháng 11/1954. Đến tháng 4/1955, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu khó chịu, ông ghi trong nhật ký:

"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn"241. "Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh"242. "Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: in Gốc đa, Gặp Bác, v.v..."243.

Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người lãnh đạo văn nghệ, kể cả những bạn thân như Nguyễn Huy Tưởng. Mặt khác, trong thời gian này, nhiều biến cố quan trọng xẩy ra:

Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức "Dự thảođề nghị cho một chính sách văn hoá", đòi tự do sáng tác.

Tháng 6/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt.

Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu. Ngày 24/2/1956, Khrouchtchev vạch tội ác của Staline tại đại hội XX đảng Cộng sản Liên Xô.

Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".

Tháng 8- 9/56 tại hội nghị X, Đảng Lao Động phát động Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất.

Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.

● Lớp học tập dân chủ 18 ngày (8/8/56-26/8/56)

Hẳn phải do lệnh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Đang mới được điều động đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Trong ngày cuối, ông đã đọc bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng Cộng Sản và của lãnh đạo văn nghệ.

Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết".

Hoàng Cầm cho rằng tinh thần đòi hỏi dân chủ, những thắc mắc có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.

Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân Văn"244.

Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày: "Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về Văn Nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang"245.

Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, làm rõ tấm lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này, Nguyễn Huy Tưởng là người duy nhất trong ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực NVGP, như Lê Đạt thuật lại và chính Nguyễn Huy Tưởng cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn, nhưng vô hiệu.

Về lớp học 18 ngày, trên Nhân Văn số 1 ra ngày 20/9/56, Người Quan Sát tường thuật như sau:

"Trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.

Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.

Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống"246.

Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".

Dựa vào những biến động ở Liên Xô và Trung Quốc, vào sự đồng thuận của đông đảo trí thức văn nghệ sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau chính sách Cải Cách Ruộng Đất, Nguyễn Hữu Đang, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính trị miền Bắc Việt Nam.

● Nhân Văn Giai Phẩm

Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của Trường Chinh và đảng Cộng Sản yếu đi sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.

Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến: Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân. Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong NVGP được xác nhận từ nhiều phía:

Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Cả Trần Dần, dù không thích ông, cũng ghi trong bài "thú nhận": "Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".

Nguyễn Hữu Đang được coi là "đầu sỏ", Mạnh Phú Tư buộc tội:

"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước. Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị..."247.

Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn:

Nguyễn Hữu Đang thực hiện những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ. Trong Nhân Văn số 1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký tên XYZ. Rất ít người biết XYZ (tên gọi thành phần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng Đất) là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh, trừ Nguyễn Hữu Đang. Trong bài này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ, ý giễu cợt vị chủ tịch. Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị - Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết- theo lời Trần Duy. Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời từng điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc bén, không nhân nhượng. Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số 4, là bài xã luận đầu tiên ông ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường chính trị của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một nhà nước pháp trị. Bài "Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân Văn số 5, ký tên thật, mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và trên thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân chủ, một nhà nước pháp quyền.

Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố trên RFI:

"Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông đưa đến nhiều hiện tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú, địa, hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác, chúng tôi theo đảng Cộng Sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả"248.

Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo đảng từ 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản. Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do trong hành động cũng như tư tưởng của mình.

Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức văn nghệ sĩ trí thức toàn quốc đi theo kháng chiến, ông đã làm.

Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức thanh niên xung phong chống Pháp, ông đã làm.

Làm trong tư thế của một người yêu nước, tự do.

Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo NVGP, đã tạo được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.

Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả còn kéo dài đến ngày nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa tự nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu tiên là quyền tự do tư tưởng.

215 Tài liệu diendan.org.

216 Tổ chức thuộc Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, rồi Đông Dương Cộng Sản Đảng.

217 Trên giấy tờ, rút tuổi, khai sinh năm 1916.

218 Có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr

219 Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, trang 102.

220 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.

221 Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 16/6/1942.

222 Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1938-1988), đăng trong kỷ yếu của Hội, do Bộ Giáo Dục in, đăng lại trên Diễn Đàn, số 78, Paris, tháng 10/1998 và diendan.org.

223 Trích Người thuyền trưởng.

224 Em trai Đào Duy Anh.

225 Sưu tập của Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận, nxb Hội Nhà Văn, 1996.

226 Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45.

227 Tiên Phong số 2, 1/12/45.

228 Tiên Phong số 3, 16/12/45.

229 Được coi là văn bản lịch sử của đảng Cộng Sản từ 1943, in lại trên Tiên Phong số 1.

230 TR.CH. [Trường Chinh], Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này, Tiên Phong số 2 ra ngày 1/12/1945.

231 Phóng viên, Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất 24/11/1946, Tiên phong số 24, ra ngày 1/12/1946.

232 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.

233 Hồng Vân Hoàng Trung Thông, bđd.

234 Trả lời phỏng vấn RFI

235 Trong bản tiểu sử, Nguyễn Hữu Đang ghi: Thứ trưởng Tuyên Truyền và thứ trưởng Thanh Niên.

236 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

237 Theo Lê Đạt, Xuân Diệu làm thư ký toà soan. Thời ấy chức thư ký toàn soạn là làm tất cả, tương đương với tổng biên tập sau này.

238 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

239 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.

240 Lê Đạt nói chuyện với RFI, sau khi Nguyễn Hữu Đang mất.

241 Nhật ký NHT ngày 21/4/55, Nxb Thanh Niên, 2006.

242 Nhật ký NHT ngày 24/4/1955.

243 Nhật ký NHT ngày 23/6/1955.

244 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

245 Nhật ký NHT ngày 21/8/56.

246 Trích bài Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ, Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56.

247 Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ra ngày 24/4/1958, BNVGPTTADL in lại, trang 49-50.

248 Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995.

Cuối 1930, bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao Thái Bình. Hè 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên217 cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang học trường sư phạm Hà Nội.

1937-1939: tham gia Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương. Biên tập các báo của Mặt Trận như Thời Báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày Mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng Sản như Tin Tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời Nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh và Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, ở các vị trí: uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.

1943: Gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được chính thức kết nạp vào đảng.

1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được thả, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc. Tham gia Chính Phủ Lâm Thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng Bộ Tuyên Truyền. Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.

Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: thứ trưởng Bộ Thanh Niên, chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.

12/1946-3/1948: Làm trưởng ban Tuyên Truyền Xung Phong Trung Ương.

Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 4/1948 - 4/1949, phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.

Tháng 7/49 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ.

Tháng 11/54 - 4/58: Tổ chức biên tập báo Văn Nghệ.

Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.

Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu Đang, đã dẫn ở trên. Về NVGP, ông chua thêm: "Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".

Hoạt động NVGP từ tháng 9/1956, với Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, và chấm dứt với Nhân Văn số 6, chưa ra, đã bị đình bản, tháng 12/56.

Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào Nam.

Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.

Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, tội "phá hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi Hà Giang.

1973, được thả cùng với Thụy An, diện "Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái Bình.

1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu.

Từ 1993, được về sống ở Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.

● Quyền tự do phát biểu bị tước đoạt

Sau 15 năm tù và 16 năm quản thúc ở Thái Bình (1973- 1989), Nguyễn Hữu Đang được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và vẫn bị chăm sóc kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, riêng ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác. Sở dĩ có buổi trả lời RFI tháng 9/1995 là nhờ sự tổ chức của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày lễ Độc Lập 2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt hẹn với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ, qua điện thoại nhà Lê Đạt, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về NVGP. Buổi thu thanh này, phát trên RFI, tháng 9/1995218. Đó là lần phỏng vấn đầu tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với Nguyễn Hữu Đang, mặc dù ông đã có điện thoại riêng, nhưng chỉ nói vài câu, là bị cắt ngay. Vậy sự "phục hồi" chỉ là hình thức, vì trên thực tế, Nguyễn Hữu Đang chưa bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân.

Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu 1997, được ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của Bộ Nội Vụ -nay là Bộ Công An- chở. Ông Vũ Toàn nay cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có người của Bộ Nội Vụ ngồi nghe, nên không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối.

Ông dặn:"Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Nói như để trấn an người của chính quyền, nhưng không có kết quả: Khi trở lại Paris, chúng tôi đã cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương trình", nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá, ông đã quát lên: "Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng..." Ông chưa dứt lời, tiếng điện thoại đã lại u u... Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu Đang, đã gây chấn động trong tôi nhiều năm tháng. Từ đó đến khi ông mất, tôi không bao giờ gọi cho ông nữa, phần vì, không muốn ông bị phiền thêm trong cuộc đời đã quá nhiều thử thách, đớn đau; phần vì, sau này ông nghe không rõ, những người đến thăm thường phải bút đàm.

Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt đãi" hơn cả, "biệt đãi" đến phút cuối. Đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối trọng thể, dù chỉ để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn: Tang lễ cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai lầm".

Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn bạn qua điện thoại. Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, chỉ nằm liệt không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang.

Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và một thời gian sau nữa, cũng không thể liên lạc lại được với Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris đã bị chặn.

Như vậy, tiếng nói của những thành viên NVGP, cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007, và sau nữa vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ.

● Nguyễn Hữu Đang là ai?

Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình ở trên. Bởi những điều được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những gì diễn ra trên thực tế. Ví dụ:

- Hoạt động cách mạng từ 16 tuổi, tức là từ 1929 Nguyễn Hữu Đang đã là đối tượng được kết nạp đảng nhưng mãi đến 1947, mới được chính thức kết nạp.

- Đang ở địa vị hàng đầu, ngang ngửa với Trường Chinh, ông bỏ tất cả để về Thanh Hoá.

- Trong hơn 6 năm: từ 4/1948 đến 10/1954, về mặt chính thức, ông phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt (từ 4/1948 - 4/1949) và làm trưởng ban Thanh Tra Bình Dân Học Vụ (từ 7/1949 - 10/1954). Hai chức này đều "hữu danh vô thực".

Theo Hoàng Văn Chí: "Cộng sản thành lập nhiều đoàn thể chính trị "hữu danh vô thực" như đảng Dân chủ, dành cho địa chủ và phú thương; Đảng Xã hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt, dành cho nhân sĩ và bô lão. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong để cộng sản nấp sau giật dây"219. Còn theo Hoàng Trung Thông, thì "Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức"220.

● Hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ

Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm cho hội Truyền Bá Quốc Ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên. Về cách làm việc của ông trong hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Nguyễn Huy Tưởng viết:

"Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền Bá Quốc Ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài Chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy"221.

Không biết Nguyễn Hữu Đang đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong đời cách mạng và trong thời NVGP. Chỉ riêng bài "Người thuyền trưởng" viết năm 1988 về Nguyễn Văn Tố, ông cũng phải ký hai tên giả: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới nhập một, ký tên thật Nguyễn Hữu Đang222. Nhờ Người thuyền trưởng, ta có thể xác định lại nguồn cội của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được miền Bắc đưa ra. ông viết:

"Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc"223.

Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số sự kiện từ trước đến nay vẫn bị chính quyền che đậy, hoặc nói sai đi:

- Hội Truyền Bá Quốc Ngữ được Pháp bảo trợ từ đầu - năm 1938.

- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập Hội. Ngày khai mạc, ông đang dạy học ở nông thôn, khi về Hà Nội nghỉ hè, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ224, Kỳ khuyên Đang nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, nhận việc dạy học giúp Hội.

- Có một số thành viên cộng sản tham dự Hội, nhưng Đảng không lập ra Hội này, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch truyền bá quốc ngữ".

- Truyền bá quốc ngữ do Hội Trí Tri, một tổ chức trí thức thời Pháp thuộc chủ trương, Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số thành viên xây dựng Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả hai...

- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết của Nguyễn Hữu Đang, không thấy ông nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng Xuân Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ, ngay khi chưa có hội. Từ năm 1936, khi ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp học chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...

- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu Đang cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau 1945, chính phủ lâm thời mới quyết định thành lập Nha Bình Dân Học Vụ thay thế Hội Truyền Bá Quốc Ngữ; vai trò thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.

● Xác định lập trường văn hoá

Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I

Hội Văn Hoá Cứu Quốc thành lập tháng 4/1943 tại Hà Nội, là một thành viên của Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiên Phong, xuất hiện công khai từ 10/11/1945 đến 1/12/1946, ra được 24 số225.

Nguyễn Hữu Đang cho biết, ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc. Trên ba số đầu Tiên Phong, Nguyễn Hữu Đang viết 5 bài xác định lập trường của Tiên Phong và Hội VHCQ: Định nghiã hai chữ văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới ách đế quốc226, Hội nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam227, Nhận rõ thêm về ý nghiã hai chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá toàn quốc sẽ tổ chức như thế nào228.

Đó là những bài tiểu luận ngắn xác định lập trường văn hoá của Nguyễn Hữu Đang, hoàn toàn khác biệt với lập trường của Trường Chinh trong bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam229, và ông chuẩn bị cho việc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I, sẽ họp năm 1946 ở Hà Nội.

Theo quảng cáo đăng trên Tiên Phong số 20 (1/10/46) thì Đại Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc Toàn Quốc sẽ họp từ 11-12-13/10/1946 và có thể kéo dài 1 đến 2 tuần. Nhưng cuối cùng bị đẩy lui, rút gọn và lấy tên là Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất, chỉ họp đúng một ngày 24/11/1946.

Có hai vần đề đáng chú ý:

• Thứ nhất: Trường Chinh trong Đề cương, in trên Tiên Phong số 1, xác định lập trường văn hoá của Đảng Cộng sản trên ba điểm chính:

- Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. - Nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá XHCN.

- Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v...

• Thứ nhì: trên Tiên phong số 2, Trường Chinh chĩa thẳng mũi dùi vào nhóm Tri Tân "phong kiến" và nhóm Thanh Nghị "tư sản", vạch ra những tội của họ đối với cách mạng230.

Nguyễn Hữu Đang, trong ba số báo đầu, cũng không thua, ông xác định đường lối hoạt động và lập trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc một cách thuần tuý văn hoá, không hề đả động đến Đảng, đến xã hội chủ nghiã, và ông coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ. Ông chủ trương một nền văn hoá mở rộng, tương giao với các trào lưu khác đương thời và những trí thức không cộng sản. Trong bài ký tên Phóng Viên, tường thuật lại Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, chắc do ông viết, có một số thông tin như sau:

"Hai ban kịch Đông Phương và Hoa Lan cổ động ráo riết hai vở kịch lớn Kiều Loan và Lôi Vũ sẽ diễn trong dịp hội nghị", "Hội nghị khai mạc lúc 9 giờ sáng tại Nhà Hát Lớn. Có mặt gần hai trăm đại biểu Bắc, Trung, Nam (...) có mặt đông đủ đại biểu các ngành văn hoá khác, khoa học, triết học... như các ông: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... Thật là xứng đáng một cuộc Hội Nghị Toàn Quốc, nhất là khi Hồ chủ tịch bước lên đọc diễn văn khai mạc. Bằng một giọng thân ái cụ chúc hội nghị thành công (...) Tiếp lời cụ có bài diễn văn của ông Đào Duy Anh trong ban vận động. Và sau đó thì hội nghị được tin bất ngờ: hội nghị chỉ họp trong một ngày hôm nay thôi. Cái chương trình rộng lớn trong bảy ngày đành phải gác lại. Chỉ còn một buổi chiều nữa thì bế mạc, thì giờ chỉ đủ cho các đại biểu đi đặt vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong"231.

Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc của Nguyễn Hữu Đang bị tuyên bố "rút gọn" giống như vở kịch Kiều Loan của Hoàng Cầm, vừa diễn xong buổi ra mắt 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, thì bị Trần Duy Hưng lên diễn đàn ra lệnh đình chỉ. Dĩ nhiên lấy lý do chiến tranh.

Nhưng ngoài ra còn có những lý do khác, mà sau này Hoàng Trung Thông, dưới bút hiệu Hồng Vân, bộc lộ trong bài Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang:

"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít". "Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu Quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc". "Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao"232.

Điều này giải thích tại sao Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, lại có mặt tất cả những nhà văn hoá lớn mà Đảng không mấy thiết tha như: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... và tại sao đại hội bị đình chỉ, sau một ngày họp.

Qua lời buộc tội của Hoàng Trung Thông, chúng ta còn hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ 1929, Nguyễn Hữu Đang đã được coi là "đối tượng kết nạp" mà mãi đến năm 1947, mới được kết nạp vào đảng, rồi ông lại bỏ đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:

"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng"233.

Gần hai năm sau, Trường Chinh tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc II, ngày 15/7/1948 tại Việt Bắc, đọc bản Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, xác định văn nghệ kháng chiến là văn nghệ công nông binh, văn nghệ tuyên truyền. Bỏ Hội Văn Hóa Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá. Trong 6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v... Đến năm 1951, Đảng chính thức khai trừ Nguyễn Hữu Đang.

Nguyễn Hữu Đang nổi danh vì tài tổ chức, ông đã thành công trong ba chương trình lớn: Tổ chức ngày lễ 2/9/1945, tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc và tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Sự thành công của Việt Minh dựa trên sự thành công của ba tổ chức này:

- Được Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày 2/9/1945, để vị chủ tịch đọc diễn văn mắt quốc dân, Nguyễn Hữu Đang kể lại:"Ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá như vậy."234 Và chỉ có 4 ngày. Để tổ chức ngày lễ, ông vận động hội Truyền Bá Quốc Ngữ, hội Văn Hóa Cứu Quốc và hội Hướng Đạo Sinh, cả ba dưới quyền điều khiển của ông. Ông đặt tên cho ngày lễ là Ngày Độc Lập, và ông lấy lại tên Ba Đình mà chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt cho rond point Phủ Toàn Quyền, là vườn hoa Ba Đình. Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ hơn nửa triệu người ở các thành phần khác nhau của dân tộc đến Ba Đình dự Ngày Độc Lập 2/9/1945. Đó là thành công lớn đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang.

Theo Hoàng Cầm, trong thời kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang thực hiện hai công trình lớn nữa:

- Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc năm 1946 ở Hà Nội đoàn kết tất cả các thành phần văn nghệ sĩ và trí thức đứng lên chống Pháp. Lúc bấy giờ hầu hết các văn nghệ sĩ trí thức đều đi theo kháng chiến, rất ít người ở lại trong thành và đó cũng là một thành công của Nguyễn Hữu Đang.

- Lên Việt Bắc, ông Hồ giao cho Nguyễn Hữu Đang nhiệm vụ: thành lập Uỷ Ban Vận Động Thanh Niên Xung Phong Toàn Quốc. Ông đi khắp các tỉnh, các địa phương, để thành lập một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong, kêu gọi thanh niên xung phong đi bộ đội hoặc vào các đội dân công, hoặc cổ động bà con đi dân công, làm nhiệm vụ chiến trường, gánh đất, gánh gạo, chăm sóc thương binh... Nguyễn Hữu Đang cũng thành công trong nhiệm vụ đó.

Đối với Trường Chinh, từ hồi còn làm báo Tin Tức, tuy ông Trường Chinh đứng tên nhưng ông Đang làm tất cả. Nhưng sau này, hình như ông Trường Chinh không còn tín nhiệm ông Đang nữa, tất cả các việc ông Đang làm đều do ông Hồ nghĩ ra và trao cho, như việc tổ chức buổi lễ đọc tuyên ngôn Ba Đình, và trong chính phủ lâm thời thì ông

Đang làm bộ trưởng Không Bộ - Ministre sans portefeuille235 tức là rất quan trọng, như con dao pha, chạy chỗ nào cũng được, phải là người tài giỏi và nhiều năng lực lắm.236

Nhiều tín hiệu đồng quy ở điểm: sau bản tuyên ngôn Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, 1948, có sự rạn nứt chung, giữa đảng Cộng Sản và thành phần trí thức độc lập. Nguyễn Hữu Đang là một trí thức độc lập đã theo Đảng từ những ngày đầu, lúc 16 tuổi, năm 1929, và đến năm 1948, Nguyễn Hữu Đang không còn theo cách mạng nữa.

● Hoạt động trở lại: báo Văn Nghệ

1954, Trường Chinh phái Tố Hữu triệu tập Nguyễn Hữu Đang trở lại và cử Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân của Nguyễn Hữu Đang đi mời ông về. Họ đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, nhưng ông từ chối, ngỏ ý muốn làm biên tập viên báo Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang phụ trách báo Văn Nghệ từ tháng 11/1954 đến tháng 4/58, mới chính thức ngừng hẳn.

Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho rằng:

"Năm 1954, Tố Hữu mời Nguyễn Hữu Đang lên Việt Bắc, đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Hà Nội, hy vọng ngày tiếp quản sẽ có một người uy tín đại diện cho văn hoá tại Hà Nội. Tôi đoán ông Đang từ chối vì cho chức đó không xứng với ông. Nếu mời làm bộ trưởng Văn Hoá thì ông nhận, bởi ông nhiều tham vọng lắm, có đầu óc lãnh tụ lắm. Tờ Văn Nghệ, lúc bấy giờ Xuân Diệu làm tổng biên tập237. Khi ông Đang mới về, báo in mỗi số khoảng một hai vạn, mà chỉ 10 tháng sau, đến tháng 10/1955, báo in đến bẩy vạn, thì đủ biết tài làm báo của ông Đang"238.

Về việc Nguyễn Hữu Đang không nhận chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, lập luận của Hoàng Cầm chưa chắc đúng hẳn. Có lẽ Nguyễn Hữu Đang từ chối chức này, vì ông biết là do Trường Chinh, đối thủ của ông -theo lệnh của ông Hồ, miễn cưỡng đề nghị- thì chỉ có thể là "ngồi chơi xơi nước", như chức thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ ngày trước, và dù có làm đến bộ trưởng -ông đã từng làm thứ trưởng- thì cũng vậy thôi: bên trên là cả một cơ chế chỉ đạo từ Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư đến Chủ Tịch.

Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ, vì một chủ đích khác và có thể ông đã bàn trước với Lê Đạt: là để "lãnh đạo" hoặc "lũng đoạn" cơ quan văn nghệ lớn nhất của Đảng cùng với Lê Đạt. Bởi vì, trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nói:

"Tôi quen với anh Đang lâu rồi, từ trước"; "Anh Đang chỉ thân với với tôi thôi, anh không thân thiết gì với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân". Và theo Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, tức là người của Tuyên Huấn gửi sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"239.

Được Tuyên Huấn gửi sang, nhưng Lê Đạt quá trẻ, lại chưa có sự nghiệp sáng tác, nên khó điều khiển những người như Xuân Diệu. Lê Đạt kể:

"Thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở trong báo Văn Nghệ. Anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào nằm bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy nói với anh Tưởng là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của mình cũng bị nó gạt luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi: Thế thì để ai làm? Anh Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi. Anh Đang là người rất nghệ sĩ, trông có vẻ hắc thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu. Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ, một cách rất say mê. Về văn nghệ ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội họa, anh rất tinh. Chỉ có là anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn nghệ."240

Vậy có thể tạm thời kết luận: Việc Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ dường như có chủ đích và đã hẹn với Lê Đạt từ trước: Một người được Tuyên Huấn gửi sang, một người được ông Hồ tin cẩn. Cả hai sẽ nắm tờ báo văn nghệ chính thức của đảng Cộng Sản từ 1954 đến 1958, đưa vào những bài họ viết hoặc họ kiểm soát, thậm chí bỏ cả bài của Xuân Diệu và thực hiện những việc mà họ muốn như phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ tháng 11/1954. Đến tháng 4/1955, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu khó chịu, ông ghi trong nhật ký:

"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn"241. "Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh"242. "Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: in Gốc đa, Gặp Bác, v.v..."243.

Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người lãnh đạo văn nghệ, kể cả những bạn thân như Nguyễn Huy Tưởng. Mặt khác, trong thời gian này, nhiều biến cố quan trọng xẩy ra:

Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức "Dự thảođề nghị cho một chính sách văn hoá", đòi tự do sáng tác.

Tháng 6/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt.

Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu. Ngày 24/2/1956, Khrouchtchev vạch tội ác của Staline tại đại hội XX đảng Cộng sản Liên Xô.

Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".

Tháng 8- 9/56 tại hội nghị X, Đảng Lao Động phát động Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất.

Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.

● Lớp học tập dân chủ 18 ngày (8/8/56-26/8/56)

Hẳn phải do lệnh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Đang mới được điều động đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Trong ngày cuối, ông đã đọc bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng Cộng Sản và của lãnh đạo văn nghệ.

Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết".

Hoàng Cầm cho rằng tinh thần đòi hỏi dân chủ, những thắc mắc có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.

Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân Văn"244.

Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày: "Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về Văn Nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang"245.

Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, làm rõ tấm lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này, Nguyễn Huy Tưởng là người duy nhất trong ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực NVGP, như Lê Đạt thuật lại và chính Nguyễn Huy Tưởng cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn, nhưng vô hiệu.

Về lớp học 18 ngày, trên Nhân Văn số 1 ra ngày 20/9/56, Người Quan Sát tường thuật như sau:

"Trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.

Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.

Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống"246.

Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".

Dựa vào những biến động ở Liên Xô và Trung Quốc, vào sự đồng thuận của đông đảo trí thức văn nghệ sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau chính sách Cải Cách Ruộng Đất, Nguyễn Hữu Đang, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính trị miền Bắc Việt Nam.

● Nhân Văn Giai Phẩm

Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của Trường Chinh và đảng Cộng Sản yếu đi sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.

Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến: Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân. Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong NVGP được xác nhận từ nhiều phía:

Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Cả Trần Dần, dù không thích ông, cũng ghi trong bài "thú nhận": "Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".

Nguyễn Hữu Đang được coi là "đầu sỏ", Mạnh Phú Tư buộc tội:

"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước. Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị..."247.

Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn:

Nguyễn Hữu Đang thực hiện những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ. Trong Nhân Văn số 1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký tên XYZ. Rất ít người biết XYZ (tên gọi thành phần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng Đất) là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh, trừ Nguyễn Hữu Đang. Trong bài này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ, ý giễu cợt vị chủ tịch. Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị - Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết- theo lời Trần Duy. Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời từng điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc bén, không nhân nhượng. Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số 4, là bài xã luận đầu tiên ông ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường chính trị của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một nhà nước pháp trị. Bài "Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân Văn số 5, ký tên thật, mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và trên thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân chủ, một nhà nước pháp quyền.

Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố trên RFI:

"Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông đưa đến nhiều hiện tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú, địa, hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác, chúng tôi theo đảng Cộng Sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả"248.

Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo đảng từ 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản. Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do trong hành động cũng như tư tưởng của mình.

Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức văn nghệ sĩ trí thức toàn quốc đi theo kháng chiến, ông đã làm.

Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức thanh niên xung phong chống Pháp, ông đã làm.

Làm trong tư thế của một người yêu nước, tự do.

Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo NVGP, đã tạo được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.

Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả còn kéo dài đến ngày nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa tự nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu tiên là quyền tự do tư tưởng.

Chú thích:

215 Tài liệu diendan.org.

216 Tổ chức thuộc Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, rồi Đông Dương Cộng Sản Đảng.

217 Trên giấy tờ, rút tuổi, khai sinh năm 1916.

218 Có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr

219 Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, trang 102.

220 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.

221 Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 16/6/1942.

222 Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1938-1988), đăng trong kỷ yếu của Hội, do Bộ Giáo Dục in, đăng lại trên Diễn Đàn, số 78, Paris, tháng 10/1998 và diendan.org.

223 Trích Người thuyền trưởng.

224 Em trai Đào Duy Anh.

225 Sưu tập của Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận, nxb Hội Nhà Văn, 1996.

226 Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45.

227 Tiên Phong số 2, 1/12/45.

228 Tiên Phong số 3, 16/12/45.

229 Được coi là văn bản lịch sử của đảng Cộng Sản từ 1943, in lại trên Tiên Phong số 1.

230 TR.CH. [Trường Chinh], Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này, Tiên Phong số 2 ra ngày 1/12/1945.

231 Phóng viên, Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất 24/11/1946, Tiên phong số 24, ra ngày 1/12/1946.

232 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.

233 Hồng Vân Hoàng Trung Thông, bđd.

234 Trả lời phỏng vấn RFI

235 Trong bản tiểu sử, Nguyễn Hữu Đang ghi: Thứ trưởng Tuyên Truyền và thứ trưởng Thanh Niên.

236 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

237 Theo Lê Đạt, Xuân Diệu làm thư ký toà soan. Thời ấy chức thư ký toàn soạn là làm tất cả, tương đương với tổng biên tập sau này.

238 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

239 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.

240 Lê Đạt nói chuyện với RFI, sau khi Nguyễn Hữu Đang mất.

241 Nhật ký NHT ngày 21/4/55, Nxb Thanh Niên, 2006.

242 Nhật ký NHT ngày 24/4/1955.

243 Nhật ký NHT ngày 23/6/1955.

244 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

245 Nhật ký NHT ngày 21/8/56.

246 Trích bài Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ, Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56.

247 Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ra ngày 24/4/1958, BNVGPTTADL in lại, trang 49-50.

248 Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995.

Chương 10

lê đạt (1929-2008)

Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký, băng ghi âm nói chuyện với bạn bè, chỉ Lê Đạt là không viết gì về đời mình. Tại sao? Một phần, dường như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn lý do nữa, vì đời ông, nếu viết rõ ra, chỉ "có hại" cho gia đình. Ông không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ, vì trong nhà "không có một quyển truyện một quyển thơ nào".

Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào Công Đệ, mất năm 1975, quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang, Bắc Giang, làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen, mất năm 1982, bà người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái. 1941, 12 tuổi lên Hà Nội học trường Bưởi. Chiến tranh bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:

"Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm 49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952, tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn chuyên nghiệp"249.

Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi viết: "Đầu kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban Tuyên Huấn tỉnh Vĩnh Phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp Lý250 cho đến khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng Lao Động VN. 1952 về Hội Văn Nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội Văn Nghệ".

Đấy là những gì ghi trong tiểu sử chính thức. Nhưng Hoàng Cầm cho biết, từ 1948 (19 tuổi), Lê Đạt đã là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.

Hoàng Cầm viết: "Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu"251.

Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết rõ hơn: "Lê Đạt kể lại với tôi: Năm 1949, khi ông Trường Chinh cử anh sang làm trợ lý cả chính trị và chuyên môn cho ông Tố Hữu, ông ấy có dặn hai điều:

Thứ nhất, trình độ văn hóa của anh Lành (tức Tố Hữu) có hạn, lãnh đạo anh em văn nghệ mà trình độ thấp thì bất lợi, vậy anh phải giúp cho anh ấy nâng cao trình độ văn hoá lên. Thứ hai, anh Lành là người tính nết arrogant, kiêu căng, hợm mình lại khinh người, mà trong văn nghệ có những cây đa cây đề như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ... tất cả họ tập trung về theo kháng chiến, thì phải khéo léo lắm, nếu làm mất lòng họ, họ bỏ về tề252 là một thất bại lớn.

Lê Đạt xử sự rất khéo, với tính kiêu căng của ông Tố Hữu thì việc gì muốn làm, anh cũng bảo là do chỉ thị của ông Trường Chinh, vì thế năm 1949, anh tổ chức được ba cuộc hội thảo quan trọng tranh luận về thơ, nhạc, kịch. Làm cho không khí văn nghệ lúc bấy giờ sống động hẳn lên, có thảo luận trong sinh hoạt hàng ngày của anh em văn nghệ.

Khoảng 1952, 53, tôi có đọc mấy bài thơ ngắn của anh, như bài Lúa Bác Hồ gì đó, đăng trên báo Nhân Dân, thấy thơ anh rất mới, khác hẳn thơ tôi. Anh không làm theo vần điệu cũ, thơ anh bám sát đời sống hàng ngày, mà chữ rất mới. Tôi thấy Lê Đạt tính nết trẻ trung nhưng học vấn uyên bác. Anh làm việc trên Tuyên Huấn từ đầu, ở Tuyên Huấn có đủ loại sách báo, anh lại chịu học, chịu đọc, thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp, anh hiểu sâu sắc lắm.

Cuối năm 1954, chúng tôi gặp lại nhau ở Hà Nội. Lê Đạt còn rất trẻ253 anh vừa ly dị cô vợ cốt cán, lấy trong cải cách ruộng đất, đang yêu Thúy Thúy trong đoàn kịch Thế Lữ.

Lúc bấy giờ chúng tôi thân nhau lắm. Từ đầu năm 1955, thường hẹn nhau, khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều ở quán trà Phúc Châu của người Tàu, ở Hàng Giầy: Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... ta gọi là bộ ngũ. Quán này khi có khách đến thì đem ra một cái khay, với phích nước sôi và một ấm có sẵn trà. Chúng tôi tha hồ uống, có khi pha đến nước thứ 6, thứ 7, đến nước chủ nhật, loãng toẹt ra rồi. Nhiều hôm gọi đến ấm thứ nhì, thứ ba. Bàn toàn chuyện thơ văn, khuyến khích nhau viết, Lê Đạt, Trần Dần đọc nhiều, biết nhiều lý luận về thơ, các nhà thơ hiện đại Pháp, Tử Phác nói chuyện âm nhạc mới... Thỉnh thoảng Phùng Quán cũng ghé qua nghe các ông anh nói chuyện thi ca: Thơ Đông phương, thơ Tây phương. Lê Đạt, Trần Dần, đọc nhiều, rồi họ nói lại thành ra mình học thêm được. Tiếng Pháp tôi chẳng kém gì các ông ấy nhưng tôi lười lý luận. Đọc thơ tượng trưng của Pháp, có chỗ tôi không hiểu, hỏi: Bài này nó hay ở chỗ nào? Tao dốt lắm. Thì Lê Đạt lại thân mật giảng cho tôi rất kỹ, tôi quý anh ở chỗ đó.

Cuối năm 1955, lúc ấy Trần Dần, Tử Phác còn đang đi học tập cải cách ruộng đất ở Yên Viên; gần Tết, Lê Đạt bảo tôi: Mày có nhiều bài không? Tết có gởi bài cho báo nào không? Các báo thì đông lắm, nhưng thơ mới kiểu chúng mình thì chưa chắc nó đã đăng đâu, hay ta soạn ra một tập, gọi là tác phẩm mới gì đó, giao cho Thầy Bảo (tiếng lóng của chúng tôi, nghiã là in tự do, không qua kiểm duyệt). Lúc đó vẫn còn vài nhà in sách báo tư nhân như nhà xuất bản Xây Dựng, nhà Minh Đức. Tao vẫn còn giữ cái bài Nhất Định Thắng của thằng Trần Dần, mày đi thúc đẩy Văn Cao, nó còn nhiều tiềm năng lắm, chỉ có mày bằng vai vế, mới thúc đẩy được nó, tao còn nhỏ, mà lại chưa có sự nghiệp gì, nói nó mắng cho. Thì tôi nghe lời Lê Đạt đến thúc đẩy Văn Cao. Lúc ấy Văn Cao không sáng tác nhạc nữa, anh đang mê vẽ, Lê Đạt giục tôi xuống nhà anh, Văn Cao hứa: - Được, rồi tao sẽ có bài. - Liệu mấy ngày, một tuần nhé? - Ừ, được, ít nhất tao có một bài, hào hứng lên là có hai. Thế là có bài Anh có nghe chăng? của Văn Cao trong Giai Phẩm Mùa Xuân254.

Lời Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cho thấy sinh hoạt vô tư và tự do của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân lúc ấy, cùng sự hình thành cuốn giai phẩm đầu tiên và vai trò của Lê Đạt.

Việc Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong báo Văn Nghệ, đã được đề cập trong chương trước, ở đây chỉ nhắc lại lời Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, anh là người của Tuyên Huấn gửi sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"255.

Vậy Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang dường như đã bàn tính với nhau từ trước, nắm báo Văn Nghệ. Cùng thời điểm đó, bên quân đội, Tử Phác và Trần Dần nắm tờ Văn Học Nghệ Thuật. Hai tờ báo này sẽ "thao túng" dư luận văn học qua vụ phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và Việt Bắc của Tố Hữu.

Trong bài "thú nhận", Lê Đạt có câu:

"Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ"256.

Như vậy, có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử Lê Đạt, giai đoạn kháng chiến như sau: Năm 1945, 16 tuổi, còn học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, mẫu người lý tưởng đương nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh, tâm cảm Lê Đạt thời trẻ rất lãng mạn:

Yên Bái

dăm cô gái lỡ thì

thổn thức Nhất Linh

tay Loan Dũng

lên ô kính bụi

Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn đoàn, có lẽ cũng là cách chôn "lỗi lầm tuổi trẻ". Lê Đạt theo Quốc Dân Đảng trong bao lâu? Có thể từ rất trẻ, theo cha, bài Cha tôi, có những câu thơ úp mở:

Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ chăn trâu

Phát ngọn cờ lau vào rừng Na Lương đánh trận

Mơ làm Đề Thám...

Bởi thời ấy, chống Pháp, chỉ có vài con đường: Việt Minh hoặc Quốc Dân Đảng. Nếu theo Việt Minh, đã là chính nghĩa, có thể nói công khai. Vậy chắc Quốc Dân Đảng.

Từ 1945 đến 47 (16 đến 18 tuổi), tiểu sử chính thức ghi là theo cách mạng, rồi theo kháng chiến. Vậy tạm hiểu: theo cách mạng là thời theo Quốc Dân Đảng; đến 1947, mới theo kháng chiến, tức là mới "giác ngộ" Việt Minh.

Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết nhiều thông tin về Lê Đạt, chưa thấy ghi ở đâu, có lẽ do chính Lê Đạt kể:

"Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, lúc đầu đi kháng chiến cũng là đi lang thang như vợ chồng Hoàng Cầm thôi, tức là chưa biết tạt vào đâu để móc nối với kháng chiến. Bộ đội thì bí mật, họ lại ăn mặc như người dân, rất khó phân biệt. Hai anh đi lang thang thì gặp một người quen với anh Hưng, làm trưởng ty văn hoá Vĩnh Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Anh trưởng ty vớ được hai ông sinh viên trường Luật, lại giỏi, thích quá. Một hôm ông Trường Chinh đi công tác, đêm về ngủ tại cơ quan, anh trưởng ty khoe: Báo cáo anh, em có hai người giúp việc giỏi lắm. Ông Trường Chinh cho gọi họ lên nói chuyện, rồi trò chuyện cả đêm về công tác tuyên truyền, văn hoá. Sáng sau, ông Trường Chinh dặn anh trưởng ty: Cậu thu xếp ngay cho hai anh này lên làm việc với tôi trên Tuyên Huấn Trung Ương. Ông Trường Chinh lúc bấy giờ (1947) làm tổng bí thư, chọn hai người làm thư ký riêng, là Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Ông ấy muốn huấn luyện cả hai thành lý thuyết gia của đảng Cộng Sản"257.

Như vậy, Lê Đạt gia nhập Việt Minh lúc 18 tuổi, vì có tài, được tuyển ngay vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư cho Trường Chinh cùng với Đặng Đình Hưng (cháu họ Trường Chinh), nhạc sĩ, nhà thơ, nhà trí thức có tầm vóc.

Trường Chinh quả biết dùng người: ông chọn phụ tá Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, sau này sẽ trở thành những nhà thơ tiên phong cho thi ca hiện đại Việt Nam, tiếc rằng ông lại không tính đến cái tự do của họ.

Vẫn theo Hoàng Cầm, 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt sang làm trợ lý cho Tố Hữu, thực chất là dạy văn hoá và sửa đổi tính tình Tố Hữu. Như vậy, cấp lãnh đạo -Hồ Chí Minh hay Trường Chinh- đã thấy ở Lê Đạt, ngoài khả năng văn hoá, còn có khả năng chiến lược và chính trị cao hơn Tố Hữu. Khi chuyển Lê Đạt sang làm bí thư chi bộ báo Văn Nghệ, 1954, trung ương lại một lần nữa xác định "lòng tin" vào Lê Đạt.

Những dữ kiện trên đây giải thích tại sao Lê Đạt thấy mình vững hơn Nguyễn Hữu Đang, khi làm báo Nhân Văn. Thực chất Lê Đạt khôn khéo và mềm dẻo hơn Nguyễn Hữu Đang, lại là "thầy" của Tố Hữu, cho nên trong vụ thanh trừng Giai Phẩm Mùa Xuân, tuy Lê Đạt chủ xướng, nhưng Tố Hữu vẫn còn nể Lê Đạt, chũi cả mũi dùi vào Trần Dần; cũng như ở Thái Hà ấp, Tố Hữu đã có một thái độ tương đối mềm mỏng với Lê Đạt.

Lê Đạt thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba đều đã từng hoạt động hoặc có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Lê Đạt tranh đấu trên hai mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi tự do dân chủ và về văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.

● Đổi mới thi ca

Thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng Lê Đạt thành công trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được "phục hồi" năm 1988. Tập Bóng chữ 258 tác phẩm đầu tiên xác định ông như một nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, bốn nhà thơ mới, đã xây dựng nền thơ Việt Nam hiện đại. Tiếp đến tập truyện ngắn Hèn đại nhân (Phụ Nữ, 1994), thơ Ngó lời (Văn Học, 1997), Từ tình Epphen (Tạp Chí Thơ, California, 1998), tập truyện ngắn Mi là người bình thường (Phụ Nữ, 2007), Thơ và đoản ngôn U75 từ tình (Phụ Nữ, 2007), và Tuyển tập Đường chữ (Hội Nhà Văn và Bách Việt, 2009) in sau khi ông mất.

Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào? Chắc từ trong kháng chiến. Hiện nay, tập Tỉnh mẹ (in trong Đường chữ) là chứng từ đầu tiên, chưa rõ năm nào. Hoàng Cầm cho biết: sau Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt làm thơ về quê hương. Đến năm 1959, Đặng Đình Hưng viết được tập Cửa ô259, tôi viết Về Kinh Bắc, Trần Dần viết Cổng tỉnh, Lê Đạt làm một số thơ về vùng Yên Bái. Vậy tạm coi Tỉnh mẹ, làm trong khoảng 1955- 1959.

Một sự kiện ít người biết đến: Lê Đạt tổ chức cuộc tranh luận về thơ năm 1949, là để bênh vực thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, đang bị phe thủ cựu Tố Hữu đánh.

Hoàng Cầm viết:

"Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đã làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát. (...) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (...) Anh Nhị Ca (...) nói: "Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng góp được nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác

Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một tá những ông già khác không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành260. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đòn đếch cãi vào đâu được"261.

Lê Đạt cũng nói: "Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng của Maïakovski rất đậm262".

Như vậy, Lê Đạt cùng trường phái thơ không vần với Nguyễn Đình Thi từ 1948.

● Đem bục công an đặt giữa tim người

Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng gió suốt thời kỳ NVGP, tiêu biểu sức phản kháng mãnh liệt của nhà thơ đối với chế độ độc tài, ngăn cấm tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những sự kiện có thật trong đời Lê Đạt:

Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, một cốt cán trong Cải cách ruộng đất, nhưng họ không hợp nhau, chỉ sống chung một thời gian ngắn rồi hai bên thoả thuận ly dị. Thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống chung. Việc "bỏ người vợ cốt cán", để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi trong nhật ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:

"Phê phán Lê Đạt: Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục vàng lấy cục đất. Còn gì quý hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ263 bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí còn muốn gì? Không yêu nhân dân thì yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân thôi chứ! Kể xấu Thuý. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ rồi. Tôi không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng đồng ý những cái sai. Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền lành, đồng chí có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp, bằng lòng mồm chứ không bằng lòng thực"264.

Trần Dần cung cấp một số thông tin đáng quý: Cô Nguyện là thành phần cốt cán, có lẽ đã được Đảng "gả" cho Lê Đạt. Cô Nguyện bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị). Vì vậy, Đảng răn đe: "dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý".

Nhưng không chỉ có mình Lê Đạt, mà Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Hoàng Yến,... đều bị Đảng xen vào đời tư, ngăn cấm tự do luyến ái, hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.

Hoàng Cầm

Hoàng Cầm kể:

"Tôi gặp bà Hoàng Yến lần đầu vào khoảng tháng giêng năm 1945, lúc đó bà ấy đã nhận lời đóng vai Kiều Loan và đã tập được 4, 5 buổi, không hiểu sao ông chồng cũ của bà ấy lại đổi ý, không cho tập tiếp. Chín năm sau, khi đi kháng chiến về, tôi gặp lại ở Hà Nội, thì ông chồng đã chết cách đấy hai năm. Trông bề ngoài có vẻ quý tộc, đài các, còn đẹp lắm, tuy bên trong cuộc sống rất cực khổ, vì ông chồng bị phá sản, tự tử chết đi để lại toàn nợ nần. Gặp bà ấy, trong tôi nổi lên một sự thương cảm lạ lùng và quyết định xây dựng với bà ấy. Lúc đầu chỉ đi chơi với nhau, tối tôi về doanh trại.

Từ tháng 3, tháng 4/1955, tôi ăn ở với bà Hoàng Yến, tuy không tổ chức cưới xin gì, cứ độ mấy ngày tôi ra ngủ ở 43 Lý Quốc Sư một tối, sáng lại về trại. Tôi là trưởng đoàn văn công nên có thẻ đỏ, đi về lúc nào cũng được. Lúc ấy cũng là lúc tôi tham gia kiến nghị đòi hủy bỏ vai trò chính trị viên trong quân đội, trả văn nghệ về cho văn nghệ của Trần Dần, Tử Phác.

Đến khoảng tháng 4/1955, một hôm tôi nhận được giấy triệu tập của Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, yêu cầu đồng chí Hoàng Cầm phải có mặt đúng 9 giờ sáng ngày... có việc cần. Giấy ký tên Thành, Lê Thành gì đó, cục phó Cục Tổ Chức. Tôi lên. Thấy hắn tỏ ra rất oai, mình chào nó không chào lại. Tôi tự kéo ghế ngồi, bảo đã nhận được cái giấy anh triệu tập, xin anh cho biết việc gì? Bằng một giọng lạnh lùng, hách dịch, hắn bảo: "Ít lâu nay, chúng tôi được báo cáo anh có quan hệ với một người đàn bà tư sản ở ngoài phố. Tôi gọi anh lên đây báo cho anh biết kể từ hôm nay, anh phải cắt đứt ngay quan hệ với người đàn bà đó, nếu không, anh sẽ bị thi hành kỷ luật rất nặng".

Thế là mình biết rõ ý định của nó rồi, nó đưa ra cái đường lối của Đảng là không quan hệ với giai cấp tư sản vì đó là kẻ thù. Nhưng cái bà Lê Hoàng Yến mà nó gọi là tư sản thì vừa chua chát vừa buồn cười, hay tại cái dáng đẹp đài các của bà ta? Người đàn bà ấy phải nuôi một đàn con 6 đứa, đứa lớn nhất 11 tuổi, với một mẹ già, một quả trứng không có mà ăn, chỉ toàn ăn rau muống với dưa, lương y tá công nhật hạng bét, 100 đồng, làm ở bệnh viện Việt Đức.

Tôi bèn xích cái ghế lại gần hắn, hỏi: "Anh Thành à, anh cho tôi biết thế nào là tư sản?" Thế là nó thấy mình vặn lý, nó đập bàn quát: "Này, tôi không lý luận gì với anh nhá! Chính sách tiếp quản thủ đô anh đã học hết rồi! Tôi gọi anh lên đây để cảnh cáo anh. Anh cứ liệu hồn đấy". Thế là tôi lấy chân gạt cái ghế ra, đứng dậy đi phắt ra cửa, đóng sầm một cái, rồi ra về. Tôi viết ngay một cái thư xin giải ngũ hoặc chuyển ngành sang Hội Văn Nghệ, gửi đủ bốn ông: đồng chí tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Nguyễn Chí Thanh, đồng chí trưởng Ban Tuyên Huấn Lê Quang Đạo, đồng chí phó Ban Tuyên Huấn Võ Hồng Cương.

Viết xong tôi đưa cho ông Võ Hồng Cương xem trước, ông trố mắt hỏi: Tại sao anh lại làm cái này nhỉ? Tôi trả lời đại ý: "Tôi đi bộ đội cũng tám năm rồi, mà trong quân đội tôi đã làm trọn nghiã vụ, thì bây giờ hoà bình, tôi xin chuyển ngành hoặc giải ngũ". Anh Cương nói: "Trong quân đội anh được mọi người rất yêu mến, nhất là anh Giáp rồi anh Thanh đấy, cái đơn anh xin giải ngũ thật vô lý". Tôi bắt buộc phải kể lại câu chuyện sáng nay: "Anh Thành bên Cục Tổ Chức triệu tập tôi, cảnh cáo tôi có quan hệ với một người phụ nữ ngoài phố, cái đó tôi không chối, nhưng lại nói là quan hệ bất chính với một người đàn bà tư sản, phải cắt đứt ngay. Tôi chỉ hỏi thế nào là tư sản thì anh ấy đập bàn đập ghế với tôi, thì anh bảo tôi còn ở lại quân đội sao được. Anh là cục phó Cục Tuyên Huấn, nhưng Cục Tổ Chức vẫn nắm sinh mệnh của anh vì họ nắm lý lịch của anh. Tôi là nghệ sĩ, tôi quen sống tự do, mà lại phải ở dưới quyền một người như thế thì làm sao tôi chịu được". Anh Cương hơi lúng túng: "Cái này là bệnh ấu trĩ, chứ anh Thành làm sao có thể thi hành kỷ luật anh về chuyện ấy được!" "Người ta là cục phó Cục Tổ Chức mà người ta nói như thế thì người ta thừa sức kỷ luật tôi về việc hủ hoá, đạo đức không tốt, có quan hệ với tư sản, kẻ thù của cách mạng". Nhưng anh Cương nhất quyết từ chối. Thế là lá đơn tôi xin giải ngũ cứ nằm chờ, từ tháng 5 đến tháng 11, tôi nhất định không đổi ý, mà các anh, anh Giáp, anh Thanh, anh Cương, đều muốn giữ tôi lại. Nhưng tôi biết mình là người sống buông thả, lãng mạn về chuyện phụ nữ, mình biết bệnh của mình, không thể ép vào cái kỷ luật ấy được. Trong kháng chiến đã ba lần tôi từ chối vào đảng, chỉ vì nghe đọc cái kỷ luật của đảng viên, là tôi đã ngại rồi. Sau cùng tôi nghĩ chỉ còn cách nhờ ông Tố Hữu. Tố Hữu lúc bấy giờ đối với tôi chỉ có vụ phê bình thơ Việt Bắc, đối với ông ấy thì cũng nặng nề đấy, nhưng cũng chưa tan vỡ lắm, ông ấy vẫn có phần nể mình. Tôi mới viết thư cho ông Tố Hữu, muốn xin sang làm việc bên Hội Văn Nghệ, nghiã là xin chuyển ngành thôi, chứ không xin giải ngũ nữa. Tố Hữu viết thư cho ông Lê Quang Đạo, mọi việc được giải quyết ngay. Ngày 8/11/1955 tôi ra khỏi quân đội. Về Hội Văn Nghệ, thì được ông Hoài Thanh phân sang làm việc ở nhà xuất bản Văn Nghệ với Tô Hoài và Kim Lân.

Lúc đó là tháng 1/1956.

Trần Dần

Hoàng Cầm kể:

Từ cuối năm 1954, Trần Dần yêu một người phụ nữ.

Một hôm đi xem chiếu bóng với Cao Nhuệ, tình cờ hai anh gặp hai cô gái có dáng đi uyển chuyển, bèn lân la làm quen, rồi rất nhanh anh Dần có cuộc tình với cô Khuê. Hẹn với cô Khuê, thì anh ấy, hoặc mượn thẻ đỏ của tôi để ra trại, hoặc trèo tường ở chỗ đầu Lý Nam Đế.

Lúc bấy giờ, trong quân đội có tin đồn rất ghê: Vì cô Khuê theo đạo Cơ Đốc, lại là con nuôi ông tổng giám mục, tên là Douley (?) gì đó, nên nó tung tin cô Khuê được gài lại làm gián điệp, mà gián điệp thì trước tiên nó xông vào quân đội, và như thế là Trần Dần mắc cạm bẫy gián điệp. Tôi mới hỏi ông Võ Hồng Cương: "Có gì mà bảo cô ấy là gián điệp hở anh?" Ông Cương rất lành và thật thà, ông ấy bảo: "Cái này là bên Cục Tổ Chức và Cục Bảo Vệ, bao giờ người ta cũng theo dõi tất cả hành động của cán bộ khi mới về tiếp quản, tôi cũng chẳng biết thế nào, nhưng anh là bạn thân của anh ấy, anh bảo anh ấy thôi đi, chuyện này nó phiền phức quá, mà tôi thì không muốn làm cái gì nặng nề với anh ấy". Nhưng cái dư luận ấy càng ngày càng tăng, bởi vì Trần Dần và Tử Phác còn đưa ra cái Đề nghị cải tổ, mà họ cho hai anh là chính, Hoàng Cầm không sâu sắc gì, chỉ a dua thôi, không phải chủ mưu. Thế là họ mở cái lớp đấu tranh nội bộ chống Trần Dần Tử Phác, ông Võ Hồng Cương phải chịu trách nhiệm, học tập tình hình trong Cục Tuyên Huấn, có biểu hiện không tốt, học tập để đấu tranh chống tư tưởng tư sản của Trần Dần. Sau đó, Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật hai tháng265, bị giam trong hai cái phòng, để viết kiểm điểm, tối họ khoá cửa để anh ấy khỏi trèo tường ra ngoài. Hoàng Cầm thì được ở Liễu Giai với đoàn văn công và không bị truy tố gì cả, mặc dầu có tham gia bản kiến nghị. Độ mấy ngày viết xong kiểm điểm, thì anh ấy làm thơ. Anh Dần có bài thơ nhớ cô Khuê hay lắm. Cũng trong thời gian đó Trần Dần viết bài thơ dài Nhất Định Thắng.

Tử Phác

Về trường hợp nhạc sĩ Tử Phác, Hoàng Cầm kể:

Tử Phác là con nhà tư sản, sau 1954, về Hà Nội, anh vẫn giữ nếp sống tư sản, về ở nhà riêng, phố Hàng Giấy, trước cửa chợ Đồng Xuân, nhà to lắm. Anh có bà vợ chính thức là cô Nghiã, dạy piano, violon, ở trường nhà nước. Tử Phác làm trưởng phòng Văn Nghệ Quân đội, vì dan díu với một cô diễn viên, nên bị mất chức. Tử Phác, Trần Dần và tôi, đều bực mình về việc văn nghệ sĩ bị trói buộc trong cái kỷ luật nghiệt ngã, nên bàn nhau làm cái kiến nghị lên ông Nguyễn Chí Thanh để cải tiến lãnh đạo văn nghệ.

Tử Phác bị đánh không phải vì chuyện tình duyên mà vì thái độ của anh: Anh luôn luôn chống lại những giáo điều. Khi cán bộ lên lớp dạy dỗ mọi người thì Tử Phác cứ khinh khỉnh, quay mặt đi, không thèm nghe, ngồi quấn thuốc lá hút. Vì thái độ kiêu kỳ, khinh cấp trên, nên Tử Phác bị ghét, bị coi là đồng loã với Trần Dần chống Đảng, bị bắt hai lần cùng với Trần Dần266.

Ngoài thái độ kiêu kỳ, Tử Phác còn là thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội. Ông bị liệt vào tội cùng Trần Dần tổ chức hội họp soạn bản Dự thảo và chiến dịch chống Đảng trên báo Sinh Hoạt Văn Nghệ.

Đặng Đình Hưng

Hoàng Cầm kể:

"Năm 1952, Đặng Đình Hưng nhận chỉ thị của ông Trường Chinh đứng ra thành lập Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, anh làm đoàn trưởng kiêm chính trị viên. Bà Kim Thoa vợ anh Hưng đã về Hà Nội từ trước 1952. Cũng năm ấy, bà Thái Thị Liên, nữ dương cầm nổi tiếng, ở Pháp, được ông Pham Văn Đồng mời về nước. Bà Liên là vợ goá của ông Trần Ngọc Danh, em ruột ông Trần Phú. Đón bà Liên về, ông Đồng đưa lên sinh hoạt ở Đoàn Văn Công Trung Ương của Đặng Đình Hưng. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau. Lúc ấy, bà Thoa đã về Hà Nội và người ta chưa biết cuộc chiến khi nào kết thúc. Việc đến tai Tố Hữu, nếu là người khác, thì đã bị ông quác lên ngay, nhưng ông Hưng thì ông Tố Hữu không dám, vì là bí thư và cháu họ của ông Trường Chinh. Sau 1954, ông Hưng thuê nhà phố Hai Bà Trưng ở với bà Liên267, nhưng cũng không bỏ hẳn bà Thoa. Rồi có chuyện bà Thoa kiện lên ông Trường Chinh, ông này giao cho ông Tố Hữu giải quyết.

Một hôm, khoảng 8 giờ tối, bà Liên đi vắng, chúng tôi đang ngồi uống rượu với ông Hưng thì ông Tố Hữu sai liên lạc xuống nói với ông Hưng: Anh Tố Hữu mời anh lên nói chuyện. Ông Hưng bảo tôi: Thằng đó gọi tao làm gì, tao đâu có quan hệ gì với nó, ban ngày thì là việc hành chánh, ban đêm tao đéo đi! Tôi can: Hưng ơi, dù sao cậu cũng là đảng viên, đoàn trưởng đoàn văn công, thì vẫn ở dưới quyền Tố Hữu, mà người ta mời lên chứ có gọi đâu! Tôi kích lên như thế thì ông ấy mới đi. Độ một tiếng sau, thấy trở về, mặt lầm lầm lì lì, chẳng nói chẳng rằng, ngồi xuống uống rượu tiếp. Một lúc tôi mới hỏi: Có việc gì quan trọng không? Thế là Hưng cáu: Mẹ nó đập bàn với tao, thì tao đập lại. Nó bảo: Anh không cắt đứt với bà Liên thì anh coi chừng cái sinh mạng chính trị của anh. Tao bảo: Tôi không có lỗi gì với Đảng hết, việc làm tôi không sai phạm gì hết. Việc bà Liên và bà vợ tôi là chuyện riêng của tôi, Đảng không có quyền can thiệp. Thế là nó đập bàn: Anh coi chừng cái sinh mạng chính trị của anh. Tao cũng đập bàn: Tôi chả coi anh ra cái thá gì cả, anh không là cái thá gì mà anh dọa tôi!

Thế là ngày hôm sau Tố Hữu chỉ thị cho Nguyễn Xuân Khoát, tổ trưởng đảng bên âm nhạc, kiểm điểm Đặng Đình Hưng, bắt nhận lỗi hủ hoá với bà Liên. Ông Khoát nhận chỉ thị thì phải làm chứ ông biết thừa tính ông Hưng. Ông Khoát tổ chức ba buổi, hỏi ý kiến anh Hưng nghĩ thế nào về việc bà Liên, ông Hưng trả lời dứt khoát: Tôi không có lỗi gì hết mà phải kiểm điểm. Việc tôi với bà Liên là việc riêng, Đảng không có quyền can thiệp.

Sau ba ngày kiểm điểm kết quả zéro, đến ngày thứ tư Tố Hữu ra lệnh khai trừ khỏi Đảng và cất chức đoàn trưởng, Thế Lữ lên thay. Việc này hoàn toàn không dính dáng gì đến NVGP, bởi vì Đặng Đình Hưng không viết bài cho NVGP, chuyện gia đình anh Hưng là chuyện riêng, nhưng người ta kéo vào NVGP, bởi vì cái gì cưỡng lại chỉ thị của Đảng, chống lại Tố Hữu thì bị quy là NVGP"268.

Hai nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và Tử Phác hầu như không đóng góp bài vở cho NVGP -Tử Phác chỉ viết một bài nghiên cứu âm nhạc- nhưng vẫn bị thanh trừng nặng nề vì Đặng Đình Hưng được coi là đệ nhất quân sư. Tử Phác, thư ký toà soạn báo Văn Học Nghệ Thuật, là đệ nhị quân sư, đã cùng Trần Dần chủ mưu chống Đảng.

● Áp lực bắt vợ Nhân Văn bỏ chồng

Hoàng Cầm kể:

Sau NVGP, ở những nơi có vợ Nhân Văn làm việc, đều được người ta vận động chi bộ, nếu là đảng viên hoặc công đoàn, nếu ngoài đảng, cho người đó bỏ chồng. Lập luận đưa ra: NVGP có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, mà sống với người chồng như thế thì không thể hạnh phúc được.

Ví dụ, bà Nhất là vợ ông Trần Đức Thảo, dạy trường Cao Đẳng Sư Phạm. Hai người lấy nhau lâu rồi nhưng không có con. Thì chi bộ đại học vận động bà Nhất phải làm đơn ly dị, vì chồng có tư tưởng xấu, chống tổ quốc, chống Đảng. Chuyện đến tai ông Phạm Văn Đồng, ông Đồng mời bà Nhất lên vì ông rất kính trọng ông Trần Đức Thảo, can gián đại ý: "Việc anh Thảo tham gia NVGP, nếu ta gọi là sai lầm thì đó cũng chỉ là cái sai lầm nhất thời, nếu chị lấy cái cớ đó để ly dị, tôi e rằng nó xấu hổ cho người trí thức lắm". Quả nhiên bà Nhất về có rút cái đơn ly dị đi. Và chi bộ cũng biết ý kiến ông Đồng như thế, nên nó đình lại 5 năm, rồi sau nó làm lại, thủ tục rất nhanh, ông Đồng không biết, lần này ly dị thật. Đấy là chuyện họ ép bà Nhất.

Còn chuyện tôi với bà Lê Hoàng Yến thì như thế này: khoảng năm 1959, sau khi thi hành kỷ luật, tôi đi lao động ở Thái Bình về, bà Yến kể: Một buổi sáng, anh thư ký công đoàn ở bệnh viện Việt Đức, ông giám đốc và một người nữa, đến nói chuyện với tôi, đề nghị tôi bỏ chồng: "Chồng chị là NVGP, tội nặng đấy, tư tưởng chống Đảng là xấu lắm, như ở bên Trung Quốc thì người ta đã bắn bỏ rồi, bên ta nhờ có cụ Hồ bao giờ cũng khoan hồng...". Bà ấy trả lời: "Báo Nhân Văn thì tôi cũng chả đọc, mà có đọc tôi cũng chả hiểu họ viết gì, mà cho là phản động. Bây giờ các anh lại bảo Nhân Văn là xấu, tôi cũng chả hiểu xấu là thế nào, mà đến nỗi phải bỏ chồng. Thôi xin các anh miễn cho tôi nghe cái chuyện ấy". Rồi họ ra về. Mấy hôm sau họ lại đến nữa, lần này thì bà ấy đuổi thẳng: "Nếu các anh đến thăm tôi về chuyện bênh viện Việt Đức thì mời các anh vào, còn nói chuyện như lần trước thì mời các anh về, tôi chả nghe cái chuyện ấy nữa đâu."

Sang đến chuyện Lê Hoàng Yến. Anh Yến có viết bài phê bình thơ Tố Hữu năm 1955, đăng báo trước bài của tôi, và sau đó anh tham gia NVGP. Năm 1959, anh ấy phải đi lao động ở Phú Thọ, vợ là chị Thao, Xuân Thao gì đấy, vẫn ở Hà Nội, chị tuy năm con nhưng còn đẹp lắm. Anh Lê Hoàng Yến trước kia là trưởng ty công an tỉnh Quảng Nam, nhưng anh mê kịch, bỏ ngành công an về làm sân khấu. Anh có uy tín vì am hiểu sân khấu lắm, anh đọc nhiều kịch nước ngoài. Sau Nhân Văn anh cũng bị phê phán nặng, nhưng kỷ luật thì giống tôi, nghiã là chỉ bị khai trừ một năm.

Anh là đảng viên, thì cái tổ Đảng bên Sân Khấu của anh nó đến vận động bà Thao bỏ chồng. Bà Thao đã 5 con nhưng còn xuân sắc lắm, hơ hớ như độ đôi mươi. Chúng nó vận động thế nào mà bà Thao sốt sắng viết đơn đệ toà ngay. Người ta mời anh Lê Hoàng Yến từ Phú Thọ về ra toà để ly dị. Buổi đầu còn hoà giải. Anh Yến bảo "Tôi hoàn toàn không biết có lỗi gì, tôi yêu quý vợ tôi lắm và tôi luôn luôn giữ đủ bổn phận với gia đình, không hiểu sao vợ tôi lại có đơn này". Toà hỏi chị Thao thì chị trả lời: "Anh Yến từ trước đến giờ quả thực không có lỗi gì, trước kia anh còn làm đến trưởng ty công an, nhưng không ngờ anh ấy lại tham gia vào cái bọn khốn nạn NVGP. Nhờ ơn Đảng nuôi dậy suốt đời các anh được hiểu biết, được sáng tác, như anh Hoàng Cầm viết được Bên Kia Sông Đuống, anh Trần Dần viết Người người lớp lớp, anh Văn Cao cũng thế... Vậy mà chỉ vài năm nay, không biết các anh ăn phải cái bả gì, người ta bảo là cái bả tiền nong, gái đẹp, khiến các anh đi vào con đường xấu xa phá hoại, chống Đảng, vì thế sống với anh, tôi mất hết hạnh phúc, tôi làm cái đơn này, mong toà giải quyết ngay cho, sớm ngày nào hay ngày ấy!" Anh Lê Hoàng Yến thuật lại với tôi như thế, bà ấy cứ một giọng chắc nịch, anh đi từ chỗ ngạc nhiên, đến chỗ buồn, buồn lắm, anh không hiểu sao vợ mình lại thay đổi nhanh chóng như thế. Tôi buồn quá, tôi nói như van vỉ vợ tôi: "Thôi em hãy nghĩ đến hạnh phúc của năm đứa con, nếu như tôi có lỗi gì thì tôi cũng đã vui vẻ đi lao động cải tạo để xây dựng lại cho tốt, xin Thao rút cái đơn đó đi, nghĩ đến tương lai các con mà rút đơn đi". Chị Thao vẫn một mực khăng khăng: "Chính vì tôi nghĩ đến tương lai các con, không muốn chúng nhiễm tư tưởng độc hại NVGP của bố nó, trở thành những phần tử xấu xa của xã hội mà tôi phải ly dị!" Sau đó toà giải tán, hẹn nửa tháng nữa gặp lại. Trước khi về Phú Thọ, anh Yến xin với cô ấy: "Anh muốn gặp em để nói chuyện một tý", cô ấy trả lời: "Chả có gì mà phải gặp, tôi đã nói hết ở toà rồi, anh Nhân Văn là khốn nạn lắm, tôi không thể sống được với anh nữa". Lần hoà giải thứ nhì cũng vậy, bà ấy vẫn một giọng.

Đến phiên toà chính thức, đông người xem, tôi cũng đến. Chị Thao lên nói một cách oai phong lẫm liệt, đanh thép và rất ác: "Tôi với anh Yến lấy nhau có 5 mặt con, không có chuyện gì, nhưng gần đây, tư tưởng chồng tôi thay đổi một cách rất rõ rệt, trước kia là người tốt, công tác, tư tưởng, lập trường rất rõ ràng, nhưng từ khi anh ấy tham gia nhóm phá hoại NVGP, có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, phản nhân dân, tôi nghĩ nếu tôi còn tiếp tục sống với anh ấy nữa thì đời tôi chỉ là đống bùn hôi thối..."269.

Bi kịch của các văn nghệ sĩ bị Đảng can thiệp vào đời sống riêng tư, được Lê Đạt thuật lại trong bài "Nhân câu chuyện mấy người tự tử" với hai câu thơ "để đời":

Đem bục công an máy móc

đặt giữa tim người.

Bắt tình cảm ngược xuôi

theo đúng luật đi đường nhà nước

Lời thơ phát xuất từ những chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên bi kịch của những người muốn tự do trong tình yêu, nhưng bị Đảng trực tiếp gán ép hoặc ngăn cản. Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, đều chung cảnh ngộ: bị Đảng can thiệp vào đời sống cá nhân.

Riêng những người vợ Nhân Văn, nếu không chịu bỏ chồng, thì phải gánh chịu hậu quả việc chồng làm, trong suốt cuộc đời còn lại.

Lê Đạt kể: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. (...) Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được"270.

Lê Đạt ghi lại bi kịch gia đình trong thơ như một lời tạ lỗi vợ con, như một ân hận suốt đời, bài thơ vượt khỏi khuôn khổ gia đình để nói lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn mà Lê Đạt đã khắc chân dung họ vào văn học sử:

● Vợ Nhân Văn

Lịch sử quýt làm cam chịu

Xin lỗi em

những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm271 trằn trọc

Anh Thái Hà 272 chưa về

và em khóc

Xin lỗi em

những lời khuyên "cắt đứt"

Vạ gì đeo hai tiếng "liên quan"

Những buổi sớm

muốn chui đầu xuống đất

Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu

Xin lỗi em

tiếng oan vợ thằng phản động

Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ

Xin lỗi em

tuổi ước mơ không được sống

Những giấc ngủ

chưa một lần tròn mộng

Chung thân tâm thần

trọng tội đa mang

Đời sau ơi!

May còn đoái đến tôi

Hãy trả giùm tôi món nợ

Người vợ nhỏ

vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ

Đã chụp mũ chồng

lưng thập tự

Sói ăn

Và Đức Phật

duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ

Xin độ trì

những Thị Kính-vợ-Nhân Văn.

● Con Nhân Văn

Đào Phương Liên ghi lại cuộc sống gia đình nhân ngày giỗ đầu của cha.

Bài văn khơi động một bi kịch kinh hoàng mà người ngoại cuộc không thể hình dung nổi:

"... Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở mãi trong lòng câu hỏi Bố là ai? (...)

Nhưng con không dám hỏi Bố vì sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ lại lo lắng nhắc Bố: "Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!". Bố thế nào cũng nổi cáu, quặc lại: "Tôi có làm gì khuất tất đâu mà không được cười to, nói to?" Con đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm thắc mắc: "Vì sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch sự?".

Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to thì thầm: "Bà vợ ông Văn Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy. Ông phải cẩn thận. Đừng có cười to, nói to. Người ta để ý đấy!" Con đã quá quen với lời nhắc nhở đó, giờ chỉ còn mỗi bận tâm: "Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được với tác giả TIẾN QUÂN CA cơ chứ?"

Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới sàn, hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến cái nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy đen xì nổi gai: "chi chi¼chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa"¼(Mà mỗi khi con hỏi bố tìm gì vì thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên thì bố chỉ im im rồi thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!). Con vội gạt đi ngay vì nhà mình không có một quyển truyện, một quyển thơ nào (...) Và con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì? (...)

Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn cùng phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ, đến lớp bô bô: "Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ". Con nghe máu nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm: "Bố nó sỏ nhầm giầy à?" Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.

Về nhà, con len lén để ý xem Bố có đúng là "phản động" không? Con không dám hỏi vì sợ¼ đúng???. Vì sợ¼ đụng phải nỗi đau cần phải che giấu của Bố dù con không hề tin!

Con đã tự trấn an mình bằng những kiến thức thu nạp được qua biết bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong các tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện, bảo vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lý giải: Nếu Bố là "phản động" thì Bố đã không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố "phản động" thì đã không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết đó là thẻ Bố được tặng?) (...) Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp nào con cũng được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác hàng xóm cười khẩy: "Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì đừng mơ!" Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: "Làm gì có chuyện đó. Con cứ thi đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt". Bố chợt trầm ngâm: "Chắc không có chuyện gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà lo?". Rồi Bố lo lắng hỏi lại: "Thế có thật không phải Đoàn viên thì không được vào Sư phạm không con?". Và bố lại tất tả dắt xe đi¼ Cho đến lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không gây ấn tượng gì với con vì con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.

Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc đến "bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt" với những câu "bôi xấu chế độ".

"Ta đi không thấy phố thấy phường

Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ"

Của bác Trần Dần

Và của Bố:

"Đặt bục công an giữa trái tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi theo chế độ".

Con đã cúi gằm mặt, người nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn mắt nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên "nếu thế thì sai quá còn gì" dù con không biết những câu sau. Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ nhiệm của con mới móm mém: "tao đến khổ vì chuyện vào Đoàn của mày". Con thật thà: "vì em chưa xứng đáng". Cô vỗ vai: "vì cái lý lịch"273.

Và câu trả lời của Đào Công Uẩn, trước linh cữu Lê Đạt, có đại diện của chính quyền: "Cha chúng tôi là một người luôn sống và trả giá "cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự do".

● Lê Đạt và Hồ Chí Minh

Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn, khó hiểu.

Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04- 1999) tại Paris, ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI, 2004, Lê Đạt đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng cách thời gian, xin ghi lại hai câu đã bị cắt như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị lãnh tụ cộng sản:

TK: Chính ở trong phong trào của các anh cũng có điều khó hiểu: Ngay từ đầu, các anh đã phê bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng lãnh tụ. Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà vẫn thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế không? Điều này làm cho người ta khó hiểu.

LĐ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình có thể phê phán người khác, nhưng mình vẫn phạm sự thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý đến việc ấy, nhưng chắc là trong ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.

TK: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là "thần tượng". Nhưng cụ Hồ lại chủ trương điều mà các anh chống lại, đó là sự toàn trị, và cụ Hồ cấm đoán cái mà các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình không thể nào "tranh đấu" với một thần tượng mình tôn thờ và đòi lật đổ sự độc tôn thần tượng đó. Đấy là điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập luận của các anh?

LĐ: Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện thì tôi không bao giờ có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa là tôi đấu tranh cả với cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị thông cảm cho tôi.

Ngoài micro, tôi nói đùa với nhà thơ: "Cụ Hồ đã làm các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh được thì lạ quá!". Lê Đạt cười: "Thì mình cũng phải tin là còn có một người tử tế, chứ nếu cả nước đều một bọn vứt đi thì làm sao sống nổi!"

Lê Đạt có viết bài trường ca Bác274. Đây là bài thơ ca tụng bác Hồ với những tình cảm chung chung, không thấy bộc lộ cảm xúc chân thực, phát xuất tự đáy lòng:

"Trong lặng im trắng

mênh mông

mỗi tấc lòng

Ta càng nghe rất rõ

cái thủa Ba Đình

Di chúc

bác mở tay

mở bay

trang rộng"275

Thời đầu kháng chiến, hầu hết người Việt đều coi bác Hồ là "cứu tinh của dân tộc", và nhà thơ nào cũng có bài ca tụng thần tượng, kể cả Vũ Hoàng Chương.

Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời điểm khá trễ này? Phong Lê trong bài "Có một trường ca về Hồ Chí Minh..." cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu của HCM, nhưng phải 20 năm sau, mới được in276. Đào Phương Liên cho biết, khi "Ông" mất, bố mẹ để tang "Ông". Như vậy bài thơ Bác đã làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?

Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đe dọa Lê Đạt: "Tội của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích được cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh-đừng-nên- nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!" Ðó là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về."277

Trong "lời dặn dò" của Tố Hữu, hình như Đảng chính là Bác?

"Tội" của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn "tội" Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc.

Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng đã có sự "khoan hồng" ở Bác, đối với một nhà thơ có tài? Lê Đạt đã cảm nhận như thế và đó chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và tình cảm "khoan hồng" của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như thế.

● Những bài thơ khóc bác Hồ không được đăng

Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết "lý lịch" một số những bài thơ ca tụng bác Hồ:

"Làm thơ ca tụng bác Hồ, trước tiên là Tố Hữu. Thời trước cách mạng, tôi đọc được trên báo một số bài thơ ký tên Tố Hữu, trong đó có một bài tên là Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, chưa mấy ai biết rõ bác Hồ. Phải đến ngày 2/9/1945, người ta mới biết đó là một lãnh tụ ở xa về. Còn tên Tố Hữu chưa biết là ai. Bài thơ Hồ Chí Minh rất dài trong có một câu làm tôi chú ý: "Hồ Chí Minh mắt sáng quắc tay xanh lè mã tấu. Quyết vùng lên thề phanh thây uống máu lũ cường quyền. Ôi khoái trá vô biên". Bài thơ tả một người: mắt sáng quắc, tay xanh lè mã tấu, thế ông ấy là tướng cướp à? Còn câu: Thề phanh thây uống máu quân thù thì có trong quốc ca của Văn Cao, trong bài Đêm Liên Hoan của tôi cũng có moi gan uống máu quân thù, và ngay quốc ca Pháp cũng có, nghe thấy mà ghê. Nhưng đặc biệt câu này: Ôi khoái trá vô biên, mới thật là rùng rợn, uống máu quân thù mà thấy khoái trá vô biên thì ghê quá, khát máu quá, không thể chấp nhận nổi. Đấy, tôi biết Tố Hữu qua bài thơ ấy.

Đến khi ông Hồ mất, năm 1969, Đặng Đình Hưng mới đưa ra ý kiến: Một người như bác Hồ mất đi thì ai cũng có cái xúc động. Vậy nhân dịp này, nếu chúng ta còn cái cảm tình gì đối với ông Hồ thì mỗi thằng nên làm một bài thơ, gửi lên Trung Ương để tỏ rằng: chúng tôi là những người công dân chân chính, cái gì đáng yêu đáng kính thì chúng tôi trân trọng. Trước cái chết của bác Hồ, chúng tôi biết rung động, tác phẩm của chúng tôi đây. Mọi người đều tán thành. Đặng Đình Hưng viết bài "Bác còn", tức là Bác không chết đâu. Tôi viết bài "Bác về", Lê Đạt viết "Bác Hồ" gồm 3 bài dài như trường ca. Riêng Trần Dần quanh quẩn mãi sau chịu thua: "Tao loay hoay mãi mà không làm nổi một câu nào!" Đành thôi. Thế là được ba bài, gửi lên bốn nơi: Ban Tuyên Huấn Trung Ương, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh và Hội Nhà Văn.

Chúng tôi nhận được hai danh thiếp trả lời: Ông Phạm Văn Đồng trả lời anh Đặng Đình Hưng, đại ý: "Anh Hưng thân mến, tôi đã nhận được bài thơ anh viết về Bác, tôi đọc và rất xúc động. Ở trên này chúng tôi vẫn hết sức đấu tranh, thảo luận để làm thế nào cho anh em trở lại sáng tác như trước." Hoàng Cầm nhận được thiếp của ông Trường Chinh vỏn vẹn: "Cảm ơn đã nhận được bài thơ về Hồ Chủ Tịch".

Lê Đạt không nhận được gì cả. Lê Duẩn, Tố Hữu không viết lời nào.

Đến Tết năm ấy, trên báo Nhân Dân người ta mở cái mục gọi cảm tình của "Quần chúng với Bác Hồ", tôi cũng gửi bài thơ ấy đến báo Nhân Dân, kèm lá thư cho ông chủ nhiệm Hoàng Tùng, giãi bày: nhân danh công dân, trước cái chết của bác Hồ, tôi làm bài thơ "Bác về" mong được báo Nhân Dân trích dăm ba câu, như một tác giả vô danh, đăng trong mục "Quần Chúng với bác Hồ".

Gửi hôm trước thì hôm sau anh Nguyễn Địch Dũng cầm trả tôi bản thảo cả bài thơ đó, bảo anh Hoàng Tùng có nhận được thư anh nhưng báo chật chỗ quá rồi. Điều đó chứng tỏ, người ta thù ghét anh em NVGP đến thế nào, đến khóc bác Hồ mà cũng không được phép đăng báo"278.

Việc làm thơ khóc bác Hồ của ba thành viên NVGP, có thể có hai ý nghiã: ý nghiã trữ tình, phát xuất tự tâm hồn của họ và ý nghiã chiến lược: muốn nhân dịp này để đo mức độ tình cảm của Đảng dành cho họ.

Sự trả lời của Đảng thật rõ ràng, tàn nhẫn, nhất là đối với Lê Đạt.

Tóm lại, dường như ở những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi nhìn vị lãnh tụ.

Trong khi những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ không mấy lãng mạn mà nghiêng về lý trí.

● Quốc Dân Đảng

1- Trong bản "tự thú" Lê Đạt viết một câu đáng chú ý:

"Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng"279.

2- Khi trả lời phỏng vấn Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:

"Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn"280.

3- Truyện ngắn "Thế l༠chị ơi!" của Vũ Ngọc Tiến, đăng trên Talawas, gián tiếp viết về đời sống nhà thơ Trần Dần và bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ ông, đặc biệt có đoạn tả cái chết của ông Phán Hậu (ân nhân của bà Khuê) như sau:

"Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh (...). Song cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc Dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: "Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng "không thành công cũng thành nhân". Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!..." Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác Cải cách ruộng đất ở Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt thì còn đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm

ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"

Câu chuyện ông anh cả của Thuý Thuý, và ông Phán Hậu, ân nhân của Ngọc Khuê, khơi lại chính sách thanh trừng những người có "liên quan" với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt phải tuyệt đối giấu quá khứ Quốc Dân Đảng của mình. Trong NVGP, ba người có "liên quan" với Quốc Dân Đảng là Phan Khôi, Thụy An và Lê Đạt, vì thế, một mối thâm tình liên kết họ với nhau:

- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với những lời đầy ý nghiã: "Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt". "Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân Văn". Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như bạn đồng hành, Phan Khôi mới là thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu không vì Phan Khôi là người theo Quốc Dân Đảng, lý tưởng đầu đời của Lê Đạt?

- "Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp", "Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với tôi". "Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi". Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không biết rõ hành động của Thụy An? Nếu họ không cùng một lý tưởng?

Câu "Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối với tôi", có nhiều ý nghiã. Công gì? Thụy An có công với nhiều người, công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ khi Thụy An bị nạn cho đến khi chết, những bạn đồng hành không ai nói một lời biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ "công" này là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự hàm ơn Thụy An, đã không "khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên cũ của VNQDĐ.

Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại281 là: "Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh" có gì rất gần với lời Nguyễn Thái Học: "Không thành công thì thành nhân".

● Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái

Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu xa: Yên Thế, quê nội và Yên Bái, quê ngoại.

Yên Thế là đất của Đề Thám, triều Nguyễn thuộc phân Phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), có 2 mảnh đất lịch sử: tổng Nhã Nam và tổng Yên Thế:

- Nhã Nam, nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã (1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng (1913).

- Yên Thế, nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, "rừng thiêng nước độc", nằm giữa rặng Cai Kinh (Lạng Sơn) và đồi núi Thái Nguyên.

Yên Thế, một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can trường chống Pháp thất bại:

Đất quê cha tôi

đất quê Đề Thám

Rừng rậm sông sâu

Con gái cũng theo đòi nghề võ

Ngày nhỏ

cha tôi dẫn đầu

lũ trẻ chăn trâu

Phát ngọn cờ lau

vào rừng Na Lương đánh trận

Mơ làm Đề Thám...

(Cha tôi)

Rồi người cha buông tay, bỏ cuộc, vì miếng cơm manh áo. Người con, tiếp tục lên đường:

Cuộc sống hàng ngày

nhỏ nhen

tàn bạo

Rác rưởi gia đình

miếng cơm

manh áo

tàn phá con người

Những mơ ước thời xưa

như con chim gẫy cánh

Rũ đầu chết ngạt trong bùn

Năm tháng mài mòn

bao nhiêu khát vọng.

Cha đã dạy con một bài học lớn

Đau thương

kiên quyết làm người.

(Cha tôi)

Bài Cha tôi sáng tác tháng 7/56, giữa Giai Phẩm Mùa Xuân và Nhân Văn, trong thời kỳ phục xuống mà sáng tác theo lời Văn Cao, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu của Lê Đạt, lấy đất Yên Thế làm khởi điểm. Yên Thế được Lê Đạt công khai xác nhận, vì Yên Thế là tỉnh cha, là đất của Đề Thám.

Ngược lại, Lê Đạt không thể công khai trình làng Yên Bái, quê ngoại, bởi Yên Bái là quê hương Quốc Dân Đảng.

Yên Bái có pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới lên một. Yên Bái là đất sinh, Yên Bái là Tỉnh mẹ. Yên Bái, hơn là một nơi chôn rau cắt rốn, đã trụ lại như cái mốc đầu đời, là khởi điểm của cõi viết Lê Đạt và nẩy mầm ý chí cách mạng vùng lên chống Pháp.

Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ: Yên Bái. Tập thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, âm thầm dành cho Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹ, in trong phần di cảo của Đường chữ, tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào có ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng không hề nhắc đến Tỉnh mẹ khi còn sống. Vậy Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch thu", sau này mới được trả lại? Tỉnh mẹ bị tịch thu, hay vì Yên Bái là một "liên quan" thầm kín mà tác giả cần phải giấu đi? Cũng như, về nơi sinh, Lê Đạt chỉ ghi Âu Lâu, trên bờ sông Hồng, không dám nhắc đến tên Yên Bái?

Tỉnh mẹ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên, nguồn gốc quốc dân đảng. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập thân, khởi đi từ Yên Bái. Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một "người hàng xóm", "người chị", và cũng là "người yêu", bị con trai quan phủ làm nhục, bị xóm làng hắt hủi:

Đêm ấy

chị ra sông tự tử

Theo những chiếc lá dâu ngày xưa

Áo trắng

như buồm mộng

về một chân trời nào

cao rộng

thăm thẳm

xa 282

Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường, bèn hỏi Chúa có thấy không?

Chúa về tự bao giờ

Có phải thật Người không?

Tiếng chuông

lu loa

hối hả

giục

người bõ già

Quét

chiếc xác

nằm co quắp

Chết

giữa ngày Phục sinh 283

Từ Yên Bái, nhà thơ thấy một người anh, ban đầu có "chí lớn", rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ đời: Người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà đang ở thời cách mạng:

"Trong khoảnh khắc

đối diện cùng sự thật

Sởn tóc gáy

như kẻ sát nhân

đột nhiên

thấy

người mình thủ tiêu

lững thững

hiện theo về

đối chất.

"Anh có thể lừa

cha mẹ

vợ con

lừa cả nước

Nhưng thế nào

cũng có lần

anh phải lôi ra

trước vành móng ngựa bản thân anh"284

Yên Bái, một xã hội Việt Nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:

Yên Bái

dăm cô gái

lỡ thì

thổn thức

Nhất Linh

Tay Loan Dũng

lên ô kính bụi

Chơ chỏng

mấy con búp bê

gẫy cẳng

bạc màu

Yên Bái

một phố chiều

thượng du nắng lụi

Một con đường

rơm rớm

máu rơi

Đôi vợ chồng già

không con

nhìn bóng tối

Ôm con mèo gầy

nhức nhối

chuyện ngày xưa

Yên Bái

hôm nào

cũng ra ga

Hôm nào

cũng nhỡ tàu

ở lại

Với những tiếng còi

rứt ruột

gọi đi

Và một chân trời

nhêu nhếch

khói (...)

Yên Bái

những ngày trích lục nhau

sao thành nhiều bản (...)

Yên Bái

một quê hương vỡ nợ (...)

Một ngã ba thành năm sáu ngã ba 285.

Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội đã trót đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến

như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc:

Yên Bái

chỉ để lại

trong tôi

những kỷ niệm

nhạt

như nước ốc

Sao hôm nay

khi tiêu thổ quê hương

tôi bỗng khóc (...)

Yên Bái ơi!

Cố sống

lấy thêm

dăm ngày nữa (...)

Hôm nay

ta đánh vỡ

quê hương

Đánh vỡ

từng viên gạch

tổ tiên ta

cóp nhặt (...)

Quê hương ơi!

Ta không phải

kẻ ăn tàn phá hại

Vén tay áo xô

đốt gia tài

ông cha để lại...286

Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi vào tan nát, khổ đau:

"Ôi! Những ngày đầu

quê hương tan nát lửa

Như đàn cò

vỡ tổ

bế nhau đi

Đằng trước một chân trời sẹo đạn

Đằng xa

thông thống một đường về

Ta đã

chọn

đường

đi về phía trước

Chân chảy máu

nạng vào nhau ta bước

Điểm chỉ

trên khắp mọi ngả đường

Trong bản giao kèo

ta ký

với tương lai 287

Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:

Bà mẹ Âu Lâu

ngồi

như gốc mai nở trắng

giữa đàn con

đủ

các giống người

Thằng cả

Xa lum

người Xê nê gan

làm mỏ than Ma rốc

Vào hầm than

đen

như thấy dân tộc mình

mấy ngàn đời

vùi dập

chết

ở đây

Tan tầm về

ra bờ sông nước trong

rửa mặt

Rửa xong

nhìn

mặt vẫn nhọ than

Thằng hai

Ma Hô Mét

Công nhân bốc vác

An Giê

Gù gù

lưng cánh phản

Ngày ngày

khuân tổ quốc

xuống tàu buôn...288

Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca thời ấy, Mẹ là bài thơ phản chiến, nhân bản nhất trong văn chương Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến, "dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy "tội" của Lê Đạt phải là rất nặng, nặng từ trườc thời kỳ NVGP.

● Nhân Văn Giai Phẩm

Xuân Diệu lên giọng: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm "nhà lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch"289.

Lê Đạt không chối cãi vai trò chủ chốt của mình trong bài tự kiểm thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán"290.

Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có: Thế giới này là của chúng ta (phát hành tháng 12/1955). Bài thơ trên ghế đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957). Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957). Đụng long mạch (in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng12/56, báo bị cấm). Lê Đạt còn nói đến bút ký "Vào 21", viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất lạc ở đâu.

Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống. Nhưng thơ bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Nếu muốn tìm hiểu thực chất của xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi. Những tác phẩm viết trong tù của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, gia đình các em, hoặc bạn bà là Trinh Tiên -tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo- còn giữ.

Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta có thể biết được nội dung một số thơ Lê Đạt sáng tác trong thời kỳ NVGP, đã bị cấm. Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu "dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm" nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này năm 1957, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa. Vẫn theo Xuân Diệu, tác phẩm này "là cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối", "anh ta [Lê Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế độ", bài "Đu" là "một sự khiêu khích". Bài "Gia đình", với những câu như: "Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra và cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu".

Vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản còn có bài "Trong hầm bí mật", nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lý "máu, sướng và chết" của Lê Đạt. Xuân Diệu viết tiếp:

"Bài thơ trên ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một lòng người".

"Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn-Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu"291.

Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung bài Đụng long mạch, in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng 12/56, báo bị cấm:

"Trong bài thơ "Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng nhưng vì sợ bị "đụng long mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun loang loáng", và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn khắp nơi.

(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những "anh hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã "dám cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời". Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực rằng:

"Những con người ụ

Ềnh ra cản đường"

Và Lê Đạt hô hào:

"Cần biết bao nhiêu

Những cái đầu táo bạo

Dám nghĩ, dám làm

Không nô lệ chung quanh"

(...) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:

..."lưng con rồng,

Ai đào giếng đụng vào long mạch

Thì phải tội mù hai con mắt

Cả nhà hộc máu chết tươi"

Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:

"Long mạch này mà đứt

Cả nhà không thoát một người"

hoặc:

"Long mạch hôm nay rung chuyển Phen này rồi chết cả nhà"292.

Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.

Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch sử:

Lịch sử muôn đời duyệt lại

Không ai lừa được cuộc đời.

Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối đau thương:

Vũ trụ ơi

tha cho tôi

Tất cả những gì

thơ tôi chưa làm được

Khi tắt thở

mắt tôi đừng ai vuốt

Còn gì buồn hơn

màn đóng lại mục đời.

Chú thích:

249 Trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn, 2009.

250 Theo Hoàng Cầm là Trường Luật, nhưng học ít lâu thì trường Luật bị giải tán.

251 Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.

252 Vào thành.

253 Năm 1954, Nguyễn Hữu Đang 41 tuổi, Hoàng Cầm 32, Văn Cao 31, Trần Dần 28, Lê Đạt 25 tuổi.

254 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

255 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.

256 Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80.

257 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.

258 nxb Hội Nhà Văn, 1994.

259 Theo Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng (1924-1990) để lại 6 tập thơ, phần lớn chưa xuất bản. Chúng tôi chỉ thấy Bến lạ (1991) và Ô mai (1991) và đã giới thiệu hai tác phẩm khai phá này trong cuốn Cấu Trúc Thơ, Văn Nghệ, 1995.

260 Tức Tố Hữu.

261 Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.

262 Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân phỏng vấn tháng 1/2003, BBC Việt Ngữ 6/5/2008.

263 Cải Cách Ruộng Đất.

264 Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, Văn Nghệ Cali, 2001, trang 87.

265 Thực ra là ba tháng.

266 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

267 Nhạc sĩ Đặng Thái Sơn, con của hai người sinh năm 1957.

268 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

269 Những chuyện về Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, bà Nhất, bà Yến, bà Thao trên đây, theo băng HC nói chuyện với bạn bè.

270 Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân, bài dã dẫn.

271 Vợ tác giả là diễn viên kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch phố Nguyễn Bỉnh  Khiêm (Chú thích Lê Đạt).

272 Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu tranh chống NVGP (chú thích Lê Đạt).

273 Đào Phương Liên, Bố ơi, những câu chuyện của con..., Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009.

274 Một phần trích in trong Văn học VN sau cách mạng tháng Tám, Văn Học, Hà Nội 1992.

275 Sđd, trang 132.

276 Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990, nhân ngày kỷ niệm 100 năm sinh HCM. 277 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

278 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

279 Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80. 280 Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd.

281 Nxb Hội Nhà Văn, 2007.

282 Thơ ngây, Tỉnh mẹ, Đường chữ, trang 298.

283 Người ăn mày già, sđd, trang 319.

284 Một cuộc đời, sđd, trang 309.

285 Phác họa màu xám, sđd, trang 333.

286 Tiêu thổ, sđd, trang 345.

287 Quê hương du ca, sđd, trang 353.

288 Mẹ, sđd, trang 363.

289 Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95.

290. Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.

291. Xuân Diệu, Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58.

292. Xuân Hoàng, Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72. 

10/9/1995

Thụy Khuê

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...