Nhân Văn Giai Phẩm
và vấn đề Nguyễn Ái Quốc 2
Chương 6
Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX
Từ phan châu trinh, hoàng đạo đến nhân văn giai phẩm
Những bài viết chủ yếu in trên NVGP gồm hai loại: Loạt bài
chính luận trực tiếp định hướng tư tưởng của các nhà trí thức và loạt bài sáng
tác dấn thân nói lên khát vọng tự do của các văn nghệ sĩ. Hai thể loại này đan
cài và bổ sung cho nhau, tạo nên làn sóng đấu tranh toàn diện cho tự do dân chủ
và tự do tư tưởng. Trí thức trong vị trí dẫn đường, được xếp vào loại A. Văn
nghệ sĩ, ít "nguy hiểm" hơn, được xếp vào loại B135.
Vì trí thức và dân chủ là hai trục chính trong cuộc đấu
tranh: trí thức dẫn đường và dân chủ là mục đích, cho nên trước khi phân tích nội
dung tranh đấu của phong trào NVGP, ta cần tìm hiểu mối tương quan giữa trí thức
và dân chủ ở Việt Nam trước và trong thời kỳ NVGP. Nguyễn Mạnh Tường là nhà trí
thức duy nhất trong thời kỳ NVGP, đã để lại những trang viết mà ngày nay ta có
thể dựa vào như những tư liệu chính trị, xã hội, phản ảnh vai trò của người trí
thức trong giai đoạn đấu tranh cho tự do dân chủ những năm 50 ở miền Bắc và hiểu
được tại sao chế độ cộng sản lại "căm thù" trí thức và loại
trừ trí thức.
● Phan Châu Trinh và dân trị chủ nghiã
Khái niệm tự do dân chủ phát xuất từ Tây phương. Nhưng tự do
dân chủ không xa lạ gì với người Việt, bởi, nói như Hoàng Đạo: "Khái
niệm tự do dân chủ đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta từ cuối thế kỷ
XIX". Đối với những nhà cách mạng Tây học đầu thế kỷ XX đã dùng tiếng Pháp
để chống Pháp trên báo ở Pháp và ở Việt Nam, như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn An Ninh... tự do dân chủ là điều kiện hiển nhiên và tất yếu của
con người, thu nhận trực tiếp qua giáo dục học đường.
Nhưng đối với những nhà nho, tự do dân chủ, phải đi vòng qua tân
thư, là những sách mà trí thức Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu...
đã dịch Montesquieu, J.J. Rousseau... ra chữ Hán. Phan Châu Trinh, một trong những
nhà nho chủ trương phong trào Duy Tân, đã tiên phong bàn về dân chủ. Sau 14 năm
ở Pháp về, cuối năm 1925, ông diễn thuyết tại Hội Thanh Niên Sài Gòn, đề tài Quân
trị chủ nghiã và dân trị chủ nghiã, luận văn cơ bản phân biệt quân chủ và
dân chủ, cho một dân tộc chưa thoát vòng nô lệ.
Việt Nam đầu thế kỷ XX, trình độ dân trí còn kém, Phan Châu
Trinh chỉ cắt nghiã ngắn gọn: dân trị là cứ bảy năm người dân bàu lại
ông Giám Quốc (Tổng Thống) một lần, còn quân chủ, vua là cha truyền con nối.
Dân trị có nghị viện do dân bàu lên, giữ quyền lập pháp. Quyền hành pháp giao
cho quan tòa, thuộc ngành tư pháp, ở trong chính quyền nhưng có vị trí độc lập.
Và ông kết luận: "Nói tóm lại, dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và
bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người
thường, đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn,
cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn
trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người khác thì không được
mà thôi"136.
Sự giáo dục dân chủ cho một quần chúng sống dưới thời
phong kiến và nô lệ, được Phan Châu Trinh đề ra từ năm 1925. Hơn mười năm sau,
Hoàng Đạo, nhà văn kiêm luật gia, tiếp tục việc giáo dục quyền công dân,
quyền làm người trên báo Ngày Nay, sử dụng quyền tự do dân chủ để tranh đấu
với người Pháp và hướng dẫn dân tộc.
● Hoàng Đạo và dân chủ
Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam,
là một trong những người lãnh đạo Quốc Dân Đảng và là nhà văn Việt Nam đầu tiên
sử dụng quyền tự do dân chủ một cách có hệ thống để chống lại thực dân Pháp và
giáo dục dân tộc về nhân quyền.
Sau này, Nguyễn Mạnh Tường xác định: những người xuất thân
trường Luật của Pháp là những người chống Pháp một cách mãnh liệt và có hiệu quả.
Điều này thực không sai nếu ta điểm qua những nhà cách mạng: Phan Văn Trường,
Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, họ đã viết
những bài báo tiếng Pháp, thập niên 1920 ở Paris, rồi đến Nguyễn Tường Long,
Nguyễn Mạnh Tường sau này, đều là những người đã học luật.
Hoàng Đạo đỗ vào trường Luật Đông Dương Hà Nội, năm 1924 và tốt
nghiệp năm 1927. Từ 1933, trên Phong Hoá, dưới bút hiệu Tứ Ly, ông đã viết những
bài châm biếm đả kích toàn bộ hệ thống quan lại của chính quyền thuộc địa và
bài trừ hủ tục trong xã hội Việt Nam. Trên báo Ngày Nay, từ 1937 đến 1939, ông
hoàn tất những hồ sơ lớn về Vấn đề thuộc địa, Vấn đề cần lao, Công
dân giáo dục, nội dung phê phán chính quyền thực dân, chỉ trích sự vi phạm nhân
quyền trong chính sách đánh chiếm thuộc địa của người da trắng, chỉ trích sự vi
phạm luật lao động trong chính sách mộ phu và cổ động việc giáo dục công dân về
dân quyền và nhân quyền. Loạt bài này căn bản dựa trên tự do dân chủ, quyền làm
người, luật lao động, quyền công dân, thoát thai từ tinh thần cách mạng 1789 của
Pháp.
Với người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, Hoàng Đạo gửi tới họ
những khát vọng của dân Việt: "Người Nam chỉ ao ước một điều: là được
những sự tự do của nền dân chủ và được dần dà coi ngó, đảm đang lấy việc công
trong nước của họ. Ngày nào dân Annam có quyền, trong sự tự do, tự kén chọn lấy
những người cầm quyền cai trị họ, ngày ấy nguyện vọng của người Nam đã đạt được
nhiều rồi vậy137".
Kết tội chính sách thuộc địa dã man của Anh, Tây Ban Nha,
Hoàng Đạo cho người Pháp biết rằng chính sách thuộc địa của họ là bất hợp
pháp và nếu họ không thay đổi chính sách cai trị thì người Việt sẽ nổi lên
chống lại.
Loạt bài Vấn đề thuộc địa, tổng hợp những lý luận chặt
chẽ, kiến thức uyên bác, tầm nhìn rộng về thế giới bên ngoài, về lịch sử chinh
phục thuộc địa, về sự tiến hoá của luật pháp.
Trong bức thư ngỏ gửi cựu toàn quyền Varenne, về chỉ dụ báo
chí 4/10/1927, Hoàng Đạo viết: "Tôi không cần phải nhắc lại rằng
đạo chỉ dụ ấy đã bắt các báo chí ở đây 138 phải xin phép mới được xuất
bản và phép cho xuất bản chính phủ muốn thu về lúc nào cũng được. Tôi
không cần phải nói đến tệ hại của chế độ ấy, tôi đã nói nhiều rồi (...)
Muốn rửa sạch cái tiếng không hay đã đem tên ông đặt vào
cái chỉ dụ 1927, ông chỉ còn có một phương pháp, là đem hết tài lực của ông mà
xin hủy bỏ cái chế độ không hợp với trình độ của dân tộc Việt Nam ấy đi, để
chúng tôi được hưởng một chút tự do, một chút quyền lợi về chính trị
mà ông bảo phải đi đôi với công việc giáo hoá139".
Hoàng Đạo không chỉ đòi tự do dân chủ cho người Việt, mà ông
đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn bộ những dân tộc bị trị trên thế giới.
Khi đối đầu với Pháp, ông luôn giữ thái độ bình đẳng của người đòi hỏi người,
của một dân tộc đòi hỏi một dân tộc khác. Ông khẩn thiết yêu cầu nước
Pháp, một nước tự nhận là quê hương, là nguồn cội của Nhân Quyền, hãy áp dụng
cái Nhân Quyền ấy ở Việt Nam.
Loạt bài Vấn đề cần lao, phản đối tình trạng người lao động
bị bóc lột ở Việt Nam nói riêng và người bóc lột người ở thời đại kỹ nghệ phát
triển nói chung, Hoàng Đạo viết:
"Người ta đem phủ một lượt tro lên sự đốn mạt người bóc
lột người. Người ta đem những danh hiệu mới, như tờ cam đoan, tờ giao kèo, lao
công cưỡng bách, để che đậy sự thực140".
Ông phân tích và đứng trên bình diện luật pháp để phê phán những
bất cập, phạm pháp trong các chế độ: Lao công cưỡng bách (mộ phu đi rừng
cao-su), luật xã hội, luật lao động, vấn đề thanh tra và nghiệp đoàn...
Loạt bài Công dân giáo dục nhắm vào sự giáo dục
dân chủ, giải thích cho người Việt hiểu quyền lợi và trách nhiệm của
người công dân trong một nước dân chủ, khác với bổn phận một thần
dân dưới thời phong kiến: Muốn được tự do, dân chủ, người dân trước hết phải
tự ý thức được cái giá phải trả cho tự do, dân chủ, tức là phải ý thức được sự
trưởng thành, độc lập của mình, phải hiểu quyền công dân và trách nhiệm
của người công dân.
Hoàng Đạo viết: "Ý tưởng công dân là một ý tưởng mới.
Cùng với những ý tưởng khác, có sức mạnh vô cùng, ý tưởng tự do bình đẳng, nhân
đạo, công lý, ý tưởng công dân vì một tình cờ trong lịch sử đã theo chiến
hạm Pháp nhập vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ trước141".
Trong loạt bài này, Hoàng Đạo giải thích rõ ràng các khái niệm
mấu chốt: hiến pháp, nhân quyền, tự do, ý nghiã cuộc cách mệnh Pháp,
tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự
do chính trị.
Tóm lại, khái niệm tự do dân chủ đã truyền vào Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX, với đoàn quân viễn chinh Pháp, và được mở rộng, dưới thời Pháp thuộc,
qua ngả học đường, phát sinh một lớp trí thức tân học, đấu tranh cho dân chủ bằng
ngòi bút, và một lớp văn nghệ sĩ mới, sáng tác tự do, xây dựng nền văn học quốc
ngữ.
Hoàng Đạo là ngòi bút duy nhất trong thập niên 1930- 1940,
không những đã đấu tranh cho dân chủ, đòi độc lập với Pháp mà còn giáo dục dân
tộc Việt Nam về dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện.
● Nhân Văn Giai Phẩm và dân chủ
Sau 1954, Nguyễn Hữu Đang đặt trọng tâm tranh đấu tự do dân
chủ trên báo Nhân Văn. Trong ba số đầu, ông phỏng vấn ba nhà trí thức danh tiếng,
không thuộc nhóm Nhân Văn: Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh và Đặng Văn Ngữ về vấn
đề mở rộng tự do dân chủ, với hai câu hỏi:
1- Theo ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn
nghệ nói riêng, cần phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng,
tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?
2- Theo ý ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành
ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng rãi những vấn đề gì?
Trả lời hai câu hỏi này, Nguyễn Mạnh Tường đưa ra hai nguyên
do thiếu dân chủ: Đảng viên và cán bộ thiếu tinh thần dân chủ và quần chúng
chưa thấm nhuần tinh thần dân chủ. Sở dĩ như thế là vì trong kháng chiến, mọi cố
gắng phải dồn vào chiến tranh, "quần chúng nghĩ rằng chưa phải lúc
đòi hỏi các tự do dân chủ". Nhưng khi hòa bình rồi, thì vấn đề đòi hỏi
tự do dân chủ phải là tất yếu. Riêng ngành đại học cần hai nguyên tắc dân chủ: "Tác
phong của cấp lãnh đạo phải thật sự dân chủ" và "việc lựa
chọn cán bộ phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính".
Đặng Văn Ngữ trả lời: "Dưới một chế độ độc tài
không ai dám chỉ trích chính phủ thì còn đâu mà thấy khuyết điểm về tự
do dân chủ?" Và ông xác định nhiệm vụ của người trí thức: "Trong
việc xây dựng tư tưởng tự do và dân chủ, nhiệm vụ chính phải là của trí thức". Nhưng
ông cũng nhận thấy sự "thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm" của người
trí thức: "Trí thức ở một cương vị thuận lợi và có đủ nhận thức để nhận
thấy lãnh đạo có sai lầm, và thực tế là trí thức của ta đã nhận thấy từ lâu một
số sai lầm của lãnh đạo. Nhưng trí thức của ta đã thiếu tự do tư tưởng, thiếu
dũng cảm nên không dám phê bình xây dựng". Đặng Văn Ngữ kết luận: "Để
phát triển bất kỳ một ngành nào, vấn đề cần phải đưa ra thảo luận là vấn đề tự
do dân chủ".
Đào Duy Anh trả lời: Những kẻ thù của tự do, người ta đều biết
cả. Đó là những tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái, những bệnh giáo
điều, công thức, sùng bái cá nhân, ngang nhiên trong công tác lãnh đạo văn nghệ
và học thuật và cả giới trí thức nữa. Muốn thực hiện tự do dân chủ, thì "giới
trí thức là những người thiết tha nhất đối với các thứ tự do ấy chỉ có một cách
là đấu tranh. Đấu tranh trong công tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xã
hội. Đấu tranh bằng hoạt động phê bình, phản phê bình, tự phê bình."
Sự đấu tranh của trí thức không thể là đấu tranh chung chung
mà phải có mục đích thực tiễn ở mỗi ngành. Đào Duy Anh viết: "Không
ai ngăn cấm anh tự do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện
nghiên cứu sáng tác thì thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự
do ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo thì thực tế anh
cũng chẳng có quyền đâu". Nói cụ thể, ví dụ như trong ngành xuất bản,
thì phải tranh đấu "cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát
hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất
bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm
nghiên cứu khoa học." Trong đại học phải tranh đấu để đại học trở
thành "một trung tâm nghiên cứu khoa học cao độ" nghiã là
phải đặt tiêu chuẩn chuyên môn lên trên tiêu chuẩn chính trị trong việc lựa chọn
chuyên viên.
Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, ra ngày 30/10/56, trong bài Muốn
phát triển học thuật, Đào Duy Anh nêu hai căn bệnh nặng nhất trong học thuật
là bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân: "Ở nước ta thì bệnh giáo điều
và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn
đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác- Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc
những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ý
kiến ấy, hoặc gò bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những
công thức rút ra tự những ý kiến ấy (...) Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại
dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những
công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ
sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt
mồm bịt miệng người ta.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc
dầu không ai cấm tranh luận - các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh
luận nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi.
Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo
thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy,
công tác học thuật trở thành trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con
đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của
người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại
tự do cho học thuật".
Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 30/8/56, bài Phê
bình lãnh đạo văn nghệ đi tiên phong như ngọn đuốc dẫn đường, Phan Khôi
"hỏi tội" lãnh đạo. Ngoài ra, còn có truyện ngắn Tiếng sáo tiền
kiếp của Trần Duy, một trong những truyện ngắn hay nhất thời NVGP, nói lên
sự bất lực của chính sách tẩy não: không ai có thể tịch thu quá khứ con người. Bức
thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn mô tả một chân dung bồi bút. Bài
thơ Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính thuật lại sự thức tỉnh của một
nghệ sĩ sau 9 năm theo cách mạng.
Trên Nhân Văn số 1 ra ngày 30/9/56, Nhân câu chuyện mấy
người tự tử của Lê Đạt là một bài xã luận bằng thơ đả phá chế độ công an
trị. Bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm kể lại bi kịch của một nhà
thơ trẻ, chỉ in có một bài thơ trên báo với nội dung yêu nước, mà bị bắt đi
trong một bối cảnh tăm tối, không biết bị giam giữ ở đâu, có thể bị thủ tiêu;
đó là một bản cáo trạng thống thiết về tình trạng bắt bớ giam người trái phép,
vô luật pháp. Tranh Nguyễn Sáng khắc lại hậu quả của sự khủng bố trên con người
Trần Dần.
Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, ra cùng ngày với Nhân Văn số
1, có các bài: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ của
Trương Tửu, Ông Bình Vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của
Trần Duy, Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng
những thằng nịnh hót của Hữu Loan, Em bé lên sáu tuổi của Hoàng
Cầm, Cuốn sổ tay của Lê Đại Thanh,... Đây là số báo mạnh mẽ nhất từ
trước đến giờ về mặt chống đối chế độ.
Trên Nhân Văn số 3 ra ngày 15/10/1956, Trần Đức Thảo trong
bài Nỗ lực phát triển dân chủ, nhấn mạnh đến sự tự do của người trí thức: "Người
trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh
được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển
tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức
cũng như của toàn dân".
Trên Nhân Văn số 4, ra ngày 5/11/1956, Nguyễn Hữu Đang viết
bài Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề xây dựng một nhà nước pháp trị. Phùng
Cung trong Con ngựa già của chúa Trịnh dùng hình ảnh con ngựa già để
chỉ những văn nghệ sĩ phục vụ đảng cũng giống như con ngựa của nhà Chúa, quen
thói tôi đòi, vinh thân phì gia, mất hết mọi khả năng sáng tạo. Văn Cao trong Những
ngày báo hiệu mùa xuân, lại một lần nữa chỉ bọn nịnh thần mà mắng.
Nhân Văn số 5, ra ngày 20/11/1956, trong bài Hiến pháp
Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Nguyễn
Hữu Đang nhắc lại điều 10 của Hiến pháp 1946: Công dân Việt Nam có quyền Tự
do ngôn luận - Tự do xuất bản - Tự do tổ chức hội họp - Tự do cư trú, đi lại
trong nước và ngoài nước và điều 11: Tư pháp chưa quyết định thì
không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công
dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Trong Bài học
Ba-Lan và Hun-ga-ri ký tên Người Quan Sát, Lê Đạt cảnh báo: Nếu muốn tránh
một biến cố như biến động Ba Lan thì Đảng phải: "cương quyết và mạnh
bạo sửa chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống
của nhân dân, mở rộng tự do dân chủ".
Ngày 30/10/56, luật sư Nguyễn Mạnh Tường nổ quả
"bom" ngoài luồng Nhân Văn, với bài diễn thuyết Qua những
sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo, nói trước Mặt
Trận tổ quốc.
Sau đây là những bài viết quan trọng của trí thức trong thời
kỳ NVGP.
● Phan Khôi phê bình lãnh đạo văn nghệ
Lê Đạt tuyên bố: "Mặc dầu Phan Khôi không lãnh đạo trực
tiếp tờ Nhân Văn, nhưng trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là
người lãnh đạo tờ Nhân Văn142". Lê Đạt nói lên ý kiến chung của những ai
đã đọc các bài Phan Khôi viết trong thời kỳ NVGP, đã thấy sự can trường của người
đứng ra lãnh trọng trách chủ nhiệm một tờ báo đòi tự do dân chủ, đối lập với
chính quyền cộng sản. Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi có hai bài viết chính: bài Phê
bình lãnh đạo văn nghệ143 và truyện ngắn Ông Bình Vôi 144.
Phê bình lãnh đạo văn nghệ, là một trong những tác phẩm chủ
chốt của phong trào NVGP, nhắm vào ba vấn đề thời sự văn học đương thời, nhưng
vẫn còn là thời sự văn học hôm nay: Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ. Vụ đàn áp
Giai Phẩm Mùa Xuân. Và vụ giải thưởng văn học 1954-1955. Với ngòi bút sắc sảo,
tác phong "ngự sử văn đàn", Phan Khôi vạch trần những tác hại
của đám quan trường nhất phẩm triều đình: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa
bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, những người tổ chức
và thi hành việc đánh Trần Dần. Phan Khôi tách bạch hai giai cấp: Lãnh đạo
văn nghệ và Quần chúng văn nghệ và ông phê phán ba vấn đề thực
tiễn:
1/ Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn
chứng cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ nhà văn phải viết theo đúng đường
lối của Đảng, Phan Khôi hỏi thẳng lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích
của nó thì cứ việc dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay
sao mà phải dùng đến văn nghệ sĩ? Rồi ông buộc tội: "Lãnh đạo đã xâm
phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ."
2/ Về vụ Giai Phẩm Mùa Xuân: Chất vấn ban chủ tọa Hội
Văn Nghệ về việc tổ chức hội họp đánh Trần Dần, Phan Khôi hỏi: "Hội
Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà
kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần
thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ
người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công". "Tôi nhớ có một vị
bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ "Người" viết hoa. Lấy lẽ rằng
chữ Người viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết
hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở
trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo
ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về
hoàng thượng mới phải đài145 thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám
đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra
là mình đang ngồi trong phòng họp Hội Văn Nghệ".
Những lời trên đây, tưởng Phan Khôi nói với đám nhất phẩm,
nhưng không, đó là những lời ném thẳng vào bệ rồng. Ông không thèm hỏi tội bày
tôi nữa, mà đi ngược lên trên, đến manh mối sau cùng, tới lãnh tụ tối cao, qua
những chữ: Người, sân rồng, Hoàng thượng, ngai vàng, để xác định: Sự sùng
bài lãnh tụ phải đến từ chính lãnh tụ. Nếu lãnh tụ không muốn được tôn sùng, nếu
lãnh tụ ưa sự bình đẳng, dân chủ, thì kẻ dưới quyền không thể xu nịnh tâng bốc
được. Trước Phan Khôi và sau Phan Khôi, chưa có nhà văn nào dám mạnh mẽ trực tiếp
phê bình Hồ Chí Minh như thế.
3/ Về giải thưởng văn học năm 54-55: ba tác phẩm Mưa sao của
Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của
Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: "Cả ba ông Xuân Diệu,
Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban Chung khảo.
Nếu ở trong ban Chung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông
còn ở ban Sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy
có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng: Một người nào có con
em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải "hồi tỵ", không được
chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không "hồi tỵ":
một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã "liêm
chính" cả rồi; một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái "miệng" đã bị
"vú lấp".
Qua việc trao giải thưởng văn nghệ, Phan Khôi mỉa mai sự gian
dối, ám muội trong các địa hạt khác ở "thời đại Hồ Chí Minh", nói
rằng đã đổi mới rồi, mà sao con người lại "thanh liêm" kiểu
ấy, bởi "mọi cái miệng đã bị vú lấp mất rồi". Về việc Hồ
Chí Minh viết "truyện mẫu" cho nhà văn viết theo, Phan Khôi
bảo: "Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình,
thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
Về việc Đảng dạy dỗ các nhà thơ nhà văn sáng tác theo chỉ thị, Phan Khôi bảo: "Đảng
giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ
đâu!"
Những lời khẳng khái của Phan Khôi trong thời kỳ NVGP đã trở
thành biểu tượng của tinh thần bất khuất Phan Khôi trước mọi áp lực tư tưởng.
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ là văn bản "hỏi tội triều
đình" trực tiếp và gay gắt nhất, cho đến nay chưa một trí thức nào dám
làm.
Văn bản này sẽ mãi mãi trụ lại như bài văn tiêu biểu cho sự
can trường của một nhà trí thức trong thế kỷ XX, đương đầu với sự độc tài của một
thể chế, không khác gì bài sớ dâng vua trảm tấu bọn gian thần thời phong kiến.
Chính văn bản này đã khiến giới cầm bút nhìn thấy ở Phan Khôi
một nhà lãnh đạo văn nghệ đích thực, và những trí thức khác như Trương Tửu,
theo gương Phan Khôi dứt khoát bước vào diễn đàn NVGP.
● Trương Tửu:
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ
Trương Tửu bước vào diễn đàn với lập luận chặt chẽ và đanh
thép của nhà phê bình, ông viết hai bài quan trọng về tự do tư tưởng: Bệnh
sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ 146 và Văn nghệ và
chính trị 147 với phần hai là Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích148.
Hai bài viết này xác định Trương Tửu là một trong những người
lãnh đạo tư tưởng của phong trào NVGP.
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, tường thuật
lịch sử đấu tranh dân chủ của văn nghệ sĩ trong kháng chiến. Trương Tửu đi vào
thẳng vấn đề: "Tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm
Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân
trong giới lãnh đạo văn nghệ".
Ông xác định bệnh sùng bái cá nhân là bệnh của lãnh đạo văn
nghệ:
"Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo
văn nghệ (...) Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng
như hôm nay, người văn
nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái
cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng
mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái
kia được".
Rồi ông dẫn chứng những cử chỉ, thái độ sùng bái cá nhân của
các lãnh đạo văn nghệ, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu, mà theo ông, đó là những kẻ
có tâm lý "bảo hoàng hơn vua", "ở cửa miệng họ, bao giờ ta
cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi
từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo
Đảng không bao giờ sai lầm".
Họ sùng bái cá nhân để làm gì? Trương Tửu trả lời: "Họ
sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ
phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần
lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần
chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh
lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng
đường lối ấy."
Nhưng vẫn có những nghệ sĩ như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc: "Ai
cũng còn nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã tranh luận khá gay gắt với ông
Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê bình nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của
Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không vì uy
quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ tiêu ý kiến riêng của mình".
Vẫn 1948, trong một buổi nói chuyện khác ở Thanh Hóa "có
đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát họa phái lập thể chủ nghĩa (của
Picasso). Ông cho họa phái ấy (...) chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng
thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20".
"Sau buổi nói chuyện này, hoạ sĩ Sỹ Ngọc đã viết một bài nói về chủ nghĩa
lập thể trong tạp chí Sáng Tạo số 4 để gián tiếp bác ý kiến của ông Trường
Chinh".
Trương Tửu xác định lại nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong cách mạng
kháng chiến:
"Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi
tìm chính nghĩa, đi tìm tự do (...) họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân
nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp
chế tư tưởng nào." Còn lãnh đạo văn nghệ: "Giống như bọn thầy
bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn "yểm" tất
cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó
"tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn". Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng
đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ
luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v¼ còn
gì nữa?"
Sự đe nẹt của lãnh đạo văn nghệ đã ảnh hưởng đến một số người: "Và
phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều. Một số văn
nghệ sĩ non gan (...) biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi".
Nhưng không phải ai cũng chịu khuất phục: "Còn một số
không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của
thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị "trù", bị hành hạ,
bị gạt sang một bên."
Tình trạng trù dập, chụp mũ này, dẫn đến hậu quả: "Cuộc
đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lãnh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những
năm cuối kháng chiến, khi hoà bình trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong
Phòng Văn Nghệ Quân Đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm
(...) yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do
trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. (...) Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập
lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn Nghệ. Suốt mười tám ngày,
anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã đứng dậy đồng thanh tố cáo
những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lãnh đạo văn nghệ".
Sau khi tóm tắt tình hình toàn bộ đời sống văn nghệ từ kháng
chiến đến lớp học tập dân chủ 18 ngày, Trương Tửu kêu gọi:
"Đã đến lúc phải sa thải những "nhà lãnh đạo"
thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng
văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự
dân chủ". "Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng,
khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái
cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói".
Và đây là nguyện vọng của văn nghệ sĩ: "Họ muốn
tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lãnh đạo văn nghệ đã cản
trở sức phát triển nghệ thuật". "Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc
đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền
tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ
co quắp, mòn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời"."Họ muốn công
việc lãnh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ - bất kể trong Đảng
hay ngoài Đảng - được quần chúng văn nghệ tự ý lựa chọn và tín nhiệm".
Bài Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ trên
Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, xác định đường lối quyết liệt đòi dân chủ của nhóm
NVGP, Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lãnh đạo văn nghệ, và qua đó ông phê
phán bộ mặt lãnh đạo nói chung.
Trong bài Văn nghệ và chính trị, trên Giai phẩm mùa thu,
tập III, ông đi sâu vào vấn đề tự do sáng tạo.
● Văn nghệ và chính trị
Đối diện với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, những người có tư
tưởng quốc gia, triệt để chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp của cộng
sản, Trương Tửu là người cộng sản đệ tứ, đứng trên quan niệm đấu tranh
giai cấp để đòi hỏi tự do dân chủ. Trước tiên, ông xác định quan hệ mật
thiết giữa chính trị và văn nghệ:
"Văn nghệ, tự thân nó, tất yếu phải mang chính trị
tính và có tác dụng chính trị" vì "Văn nghệ, căn bản,
là một thể cách nhận thức và tái tạo thế giới thực tại, một thể cách biến cải
xã hội, biến cải con người bằng đường lối thẩm mỹ". Cho nên, người
nghệ sĩ khi sáng tác bắt buộc phải "dấn thân", nhưng sự dấn
thân ở đây có tính cách "đấu tranh giai cấp", ông viết: "Sáng
tác văn nghệ là tự xác định một thái độ, một lập trường đối với cuộc đấu
tranh giai cấp đương thời".
Đồng ý hay không đồng ý với quan niệm đấu tranh giai cấp của
Trương Tửu, nhưng không ai có thể phủ nhận tính thuyết phục trong bài viết của
ông. Vẫn đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp, chống lại các chế độ người bóc
lột người, ông viết về thời cổ điển: "Lịch sử văn nghệ căn bản là lịch sử
chiến đấu của những văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa đối kháng với chế độ áp
bức con người, bảo vệ quyền tự do tư tưởng, tự do nói sự thực trong tác phẩm". Mà
sự thực là điều mà các chế độ độc tài ghê sợ nhất tuy nhiên các văn nghệ sĩ cổ
điển đã không ngại chiến đấu cho sự thực trong tác phẩm của mình:
"Đó cũng là thái độ của tất cả những văn nghệ sĩ cổ điển
Đông và Tây - của những Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Molière, Heine, Rousseau,
Diderot v.v¼ Họ dũng cảm bảo vệ tự do tư tưởng, tự do nói thực đến kỳ
cùng trước sức tấn công hiểm độc của các giai cấp bóc lột (...) Thiếu chân lý
đó, không thể có tác phẩm nghệ thuật thực sự quan trọng được (...) Muốn
sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc
đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối
nói độc đáo. (...) Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ,
tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản
ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi
áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói
điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều
mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những cái mà mình phản đối.
Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của
nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ không tiết
ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một
phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống. Nó bất thành
nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả."
Trương Tửu đã viết những lời kêu gọi và biện hộ tha thiết cho
sự tự do của văn nghệ sĩ. Ông kêu gọi người nghệ sĩ phải có can đảm là
mình trong những điều kiện xã hội bắt họ không được là mình. Phải
tự do nhìn, cảm, nghĩ, nói theo chủ định cá nhân của mình, trong những điều kiện
xã hội buộc họ phải nhìn, cảm, nghĩ, nói theo những công thức thống trị.
Trương Tửu kết luận: "Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do
tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt".
"Không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính được.
Đó là một chân lý bất di bất dịch."
Văn nghệ và chính trị là bài viết đấu tranh cho tự do tư
tưởng hay nhất và mạnh mẽ nhất trong thời kỳ NVGP, xác định Trương Tửu là nhà
phê bình văn học duy nhất dám đứng lên chống lại sự độc tài đảng trị, trong khi
Vũ Ngọc Phan im lặng, Hoài Thanh trở thành bồi bút cho Đảng.
● Lê Đạt: Nhân câu chuyện mấy người tự tử
Lê Đạt trên Nhân Văn số 1 ngày 20/9/56, mượn câu chuyện thời
sự trên báo: một đôi tình nhân tự tử, để gợi lại chuyện riêng của mình - Lê Đạt
yêu Thúy Thúy, một nghệ sĩ sân khấu và ly dị người vợ cốt cán, nên bị cấp trên
khiển trách- cũng là chuyện tình duyên bị đảng áp chế của những Trần Dần, Hoàng
Cầm, Tử Phác, Đặng Đình Hưng... Bài thơ vượt trên bi kịch cá nhân, để tố cáo sự
độc tài đảng trị kiểm soát đến cả tim người:
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Từ bi kịch đôi tình nhân, Lê Đạt nhìn lại mình, bấy lâu ngủ
quên trong chế độ:
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu (...)
Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều thói "an nam"
Dán nhãn hiệu
"Made in Cách mạng"
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử
Nay bừng tỉnh, nhà thơ kêu gọi mọi người, hãy "quét sạch
mây đen", "chặt hết gông xiềng":
Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người
Bài thơ chiếm trọn trang ba của tờ báo, có vị trí một bài xã
luận, xác định lập trường chính trị của Lê Đạt và Nhân Văn. Hai câu: Đem bục
công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật
đi đường nhà nước đã khắc ghi vào tim người Việt, mọi nơi, mọi thời, bức
hình chế độ công an trị rõ nhất, trên đất nước Việt Nam.
● Nguyễn Mạnh Tường:
Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng
quan điểm lãnh đạo
Sau Hoàng Đạo dưới thời Pháp thuộc, Nguyễn Mạnh Tường là người
dùng lý lẽ luật pháp để phê bình những sai lầm về mọi mặt trong chính sách cai
trị của Đảng Cộng sản, chủ yếu qua buổi diễn thuyết "Qua những sai lầm
trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" nói tại Mặt
trận tổ quốc ngày 30/10/1956.
Sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê bình của Đảng Lao Động
về chính sách Cải Cách Ruộng Đất, với tài hùng biện nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường
đã điễn thuyết trong 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc.
Bằng giọng mỉa mai, chua xót, Nguyễn Mạnh Tường trả lời Trường
Chinh: "Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông
Trường Chinh đọc trước Hội Nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của
tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm
trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng
mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch
mà chính của ta. (...) Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải
Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh".
Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những
sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm
trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của
chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới
để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước. Ông hỏi tội trực
tiếp cấp lãnh đạo cao nhất:
Những người lãnh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất
làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng
đã sai lầm, mà xong đâu149. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người
rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự, thì
Quốc Hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết
án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao nhất xuống dưới.
Đầu tiên hết, ông phân tích tình hình chính trị xã hội Việt
Nam, bằng những chất vấn:
"Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi
quan không?"
"Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào,
ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu
trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho
mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người
ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của
nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ
của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không
có lời oán trách Mậu dịch".
Sau khi tổng kết tình trạng bi quan về kinh tế, xã hội, Nguyễn
Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải Cách Ruộng Đất, ông hỏi: chúng ta đã sai lầm
nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất, nhưng bây giờ phải tìm hiểu xem sai ở
đâu? Vì sao mà sai?
Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng, trên
nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối cãi. Nhưng khi thi hành chính sách
này người ta đã coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp: "Khi
đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch"
thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng
khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: "Thà 10 địch sót còn
hơn một người bị kết án oan".
Rồi Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của
pháp lý: Không phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám
phá ra. Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm việc mình làm, không có trách
nhiệm chung của vợ con, gia đình. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác
đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố
nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
Nhưng những nguyên tắc cơ bản này không được áp dụng trong Cải
Cách Ruộng Đất. Sở dĩ có sai lầm như vậy vì ba nguyên do: Quan điểm ta-địch,
thù-bạn mơ hồ. Bất chấp pháp luật. Bất chấp chuyên môn. Vì ta-địch, thù-bạn mơ
hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch đẫm máu xẩy ra, có "những người suốt
đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ
ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa". Trong cuộc Cải
Cách Ruộng Đất, bao nhiêu "chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy" cũng "bị
kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam
hay bị hành hình".
Những cán bộ hành xử như vậy, nếu vì "chủ mưu phá
hoại" thì phải đưa ra toà, còn nếu vì điên cuồng thì phải đem đi chữa bệnh
thần kinh. Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: "Quyền
xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp".
Vì bất chấp chuyên môn cho nên "khi chọn một người vặn
lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi:
"Có lập trường không?" Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô
Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà
không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang
ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa
chủ thì "mất lập trường". Để nó chết mới chứng minh mình có "lập
trường giai cấp" (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (...) Tại
sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các
khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu
của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý".
Quốc hội thành lập đã mười năm- từ 1946 đến 1956. "Nhưng
quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?" "Dư luận quần chúng quan niệm
rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi".
"Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh,
đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố". Nhưng trong thực tế: "người
dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây
dựng các chính sách của Chính phủ".
Đề nghị sửa chữa sai lầm do thiếu một chế độ pháp trị chân
chính, một chế độ dân chủ thực sự, Nguyễn Mạnh Tường lập luận: Vì không có một
chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất.
Và sau khi xẩy ra rồi, thì: "phải lập một ủy ban điều
tra gồm các vị đại biểu Quốc Hội, Mặt Trận, Đảng Lao Động với sự cộng tác của
các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp
pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện
chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc
điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý.
Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc Hội biến thành Tòa Án tối
cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các Tòa Án tư pháp. Dưới con
mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy,
không còn ai thắc mắc nữa".
Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một chế
độ thực sự dân chủ "trong đó người dân được làm chủ trên đất nước
không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa". Và ông nhấn mạnh:
" Lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao
giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi
các tự do dân chủ".
Tóm lại, các nhà trí thức trong NVGP nói với một quần chúng
đã quen biết với dân chủ, có ý thức, có trình độ về dân chủ, khác hẳn với lối
viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX, nói với một quần
chúng mới phôi thai về dân chủ. Và cũng khác cách viết khoa học, tự tin và tự
hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy rằng từ đầu
đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt Nam, tự do dân chủ đã có những biến
chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.
Từ khi đảng Cộng Sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư tưởng
tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối lập
là thù nghịch, là phản động, và nhất là không còn giáo dục học sinh về quyền
công dân, quyền con người nữa, thì người Việt mới lại rơi vào vòng u
tối, không ý thức được tự do dân chủ là quyền thiết yếu của con người, và chúng
ta mới phải nghe những lập luận thoái hoá của những "trí thức" đưong
thời, coi sự sùng bái lãnh tụ là "bẩm sinh" là tất yếu; loại trừ quyền
tự do dân chủ, như một sản phẩm của phương tây, không phù hợp với Việt Nam.
Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Văn nghệ và
chính trị của Trương Tửu và Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng
đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường là ba văn bản
quan trọng nhất thời kỳ NVGP, nói lên tinh thần bất khuất của người trí thức dưới
chế độ cộng sản và giải thích tại sao cộng sản phải tiêu diệt trí thức.
135 Nhật ký Trần Dần ghi, trang 245.
136 Phan Châu Trinh, Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ
nghiã. Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Dương soạn, nxb Đà Nẵng,
1995, trang 792- 818.
137 Hoàng Đạo, Vấn đề thuộc địa, Thuộc địa
Pháp-Chính sách, Ngày Nay số 80, 10/10/1937.
138 Hoàng Đạo muốn nói đến Trung và Bắc, vì Nam kỳ là nhượng
địa, được hưởng quyền tự do báo chí như ở các thuộc địa của Pháp.
139 Thư ngỏ cho ông cựu toàn quyền Varenne, Ngày Nay, số
130, 1/10/38.
140 Hoàng Đạo, Vấn đề cần lao, Nô lệ trá hình, Ngày Nay,
số 133, 22/10/38.
141 Hoàng Đạo, Công dân giáo dục, Ngày Nay số 160,
6/5/39.
142 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
143 Giai Phẩm Mùa Thu tập I, 29/8/1956
144 Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/1956.
145 Đài là tôn xưng. Ngày trước, khi viết chữ Hán,
nếu gặp những chữ như: Cung vua, Lăng tẩm, Miếu hiệu vua chúa... thì phải đài chữ,
tức là viết cao hơn chữ thường để tỏ ý tôn kính.
146 Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/56.
147 Giai Phẩm Mùa Thu tập III, 30/10/56.
148 Giai Phẩm Mùa Đông tập I, 28/11/56.
149 Nguyễn Mạnh Tường muốn nói đến việc: Hồ Chí Minh
khóc và xin lỗi quốc dân. Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng xác nhận 7 điểm sai lầm
trong Cải Cách Ruộng Đất.
Chương 7
biện pháp thanh trừng
T ình hình từ tháng 12/1956 đến tháng 2/1958
Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện từ tháng 8/1956 đến tháng
12/1956. Cuối tháng 12/1956, tất cả những tờ báo có khuynh hướng theo NVGP, đều
bị đình bản.
Từ 20 đến 28/2/1957, tại Đại Hội Văn Nghệ II, họp ở Hà Nội,
có khoảng 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" NVGP.
Tuy nhiên Trung Quốc chưa dẹp phong trào "Trăm hoa
đua nở, trăm nhà đua tiếng", cho nên Đảng Lao Động chưa thể mạnh tay với
trí thức văn nghệ sĩ: đầu tháng 4/1957, Hội Nhà Văn chính thức thành lập thay Hội
Văn Nghệ, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Nhà xuất bản
Hội Nhà Văn, 65 Nguyễn Du, do Tô Hoài, Hoàng Cầm, Đoàn Giỏi phụ trách. Hoàng Cầm
đại diện miền Bắc, Đoàn Giỏi, nhà văn tập kết, đại diện miền Nam. Tô Hoài làm
chủ nhiệm. Theo Hoàng Cầm, Tô Hoài thường lấy cớ đi sáng tác, để ông quán xuyến
mọi việc, cho nên trong vòng mười tháng, ông đã in được tập Bài thơ trên
ghế đá của Lê Đạt cùng với thơ Vĩnh Mai; tập thơ Quang Dũng và Trần Lê
Văn. Vừa chuẩn bị xong tập thơ Hữu Loan, chưa kịp in, thì có lệnh đình chỉ để
chuẩn bị cho một lớp học chính trị, nhưng thực chất là lớp học tập toàn thể văn
nghệ sĩ để đấu -có thể nói là đấu hơn địa chủ nữa- đấu tư tưởng VGP150.
Ngày 10/5/1957, Hội Nhà Văn ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công
Hoan, chủ bút, Nguyễn Tuân, phó chủ bút, Nguyên Hồng, tổng thư ký. Lúc đầu Văn
theo đường lối chính thống, nhưng đến khi Thế Toàn trên báo Học Tập của Đảng
lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách mạng", Nguyên
Hồng bèn trả lời151 phê bình Thế Toàn "quan liêu", "trịch
thượng".
Cuộc bút chiến giữa Văn và Học Tập khiến Bộ Chính Trị chú ý.
Rồi Văn dần dần thay đổi thái độ: một số cây bút cũ trong NVGP xuất hiện lại
trên Văn. Văn số 21 ra ngày 27/9/1957 đăng bài thơ Lời mẹ dặn của
Phùng Quán. Số 24, ra ngày 18/10/57 đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng
Cầm. Số 28, ngày 15/11/1957, bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần, và số
30, ngày 29/11/1957, hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.
Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, Bắc Triều
Tiên, có ghé Bắc Kinh học hỏi kinh nghiệm. Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh
đánh phái hữu. Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường152 được cử sang học tập
Trung Quốc. Khi họ trở về, Đảng mới thực thụ áp dụng chính sách đàn áp của Bắc
Kinh.
Ngày 6/1/1958, Bộ Chính Trị ra nghị quyết số 30 về văn nghệ.
Tinh thần nghị quyết dựa trên hai điểm chính:
1- Trình bày các hiện tượng chống lại đường lối văn nghệ của
Đảng:
"Về văn học nghệ thuật, ranh giới giữa tư tưởng
văn nghệ của Đảng và tư tưởng văn nghệ tư sản đã bị xóa nhòa. Trên tuần
báo Văn và trong một số sách xuất bản hoặc tái bản, đã biểu hiện khuynh hướng
xa rời thực tế đời sống của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị, thoát
ly chính trị và không nhằm đúng những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong
giai đoạn mới. Những tình cảm cá nhân chủ nghĩa đang có chiều hướng phát triển,
những chủ đề lớn do đời sống thực tại đề ra không được chú ý. Hình ảnh công nông
binh phấn đấu dũng cảm trong hòa bình mờ nhạt trong văn thơ và trong các tác phẩm
nghệ thuật khác. Nhiều quan điểm văn nghệ của giai cấp tư sản lại được nêu lên.
Cuộc tranh luận giữa tạp chí Học Tập và báo Văn gần đây lại
là một biểu hiện cụ thể của cuộc đấu tranh giữa đường lối văn nghệ của Đảng với
khuynh hướng chống lại hoặc xa rời đường lối đó. Tư tưởng chủ đạo biểu hiện
trên báo Văn chính là tư tưởng tách rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông
binh, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại,
tách rời sự lãnh đạo của Đảng."
2- Phải tìm cách giải quyết ngay:
"Rõ ràng những phần tử chống chủ nghĩa xã hội,chống Đảng
đã nhân chỗ sơ hở của ta mà tiếp tục tiến công ta về mặt tư tưởng dưới
hình thức văn nghệ. Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ
là một hiện tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết (...)
Chúng truyền bá những tài liệu và những báo chí phản động. Dưới chiêu bài
"chống giáo điều, máy móc", chúng gieo rắc những nọc độc của chủ
nghĩa xét lại trong văn nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ
thuật tư sản suy đồi. Trước những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể
cả một số văn nghệ sĩ đảng viên, đã mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết
đấu tranh, thậm chí một số còn hùa theo chúng".
Văn bị đình bản ở số 36, ra ngày 10/1/1958, trong có đăng bài Ông
Năm Chuột của Phan Khôi.
Tháng 2, 3 và 4/1958, Đảng Lao Động tổ chức hai "hội nghị" quan
trọng ở ấp Thái Hà.
● Biện pháp thanh trừng đối với văn nghệ sĩ:
"Hội nghị" Thái Hà
Thi hành tinh thần nghị quyết số 30, ngày 6/1/58 của Bộ Chính
Trị, Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh "chống bọn Nhân Văn Giai
Phẩm" ở Thái Hà ấp, chính thức gọi là hai "Hội nghị nghiên cứu
nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản
và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957". Duy chỉ có Hồng
Cương, gọi thẳng tên là hai lớp chỉnh huấn chính trị.
"Hội nghị" đầu, tổ chức tháng 2/58, dành riêng
cho 172 đảng viên, theo Lê Đạt là để học tập cách "phát hiện" và "tố
giác", chuẩn bị cho hội nghị sau, tháng 3-4/58, 304 người, gồm
các đảng viên, quần chúng và những người ngoài đảng đã tham gia NVGP, dốc toàn
lực đấu tranh chống NVGP. Phương pháp này đã áp dụng trong Cải Cách Ruộng Đất
dưới hình thức khác: Giảm Tô là giai đoạn một, Cải Cách Ruộng Đất chính thức là
giai đoạn 2. Và cũng đã áp dụng trong thời điểm đánh Trần Dần: Đại hội Tuyên huấn
trước, rồi Đại hội Văn nghệ sĩ sau.
Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Phùng Cung... "được" dự
hội nghị đầu, vì là đảng viên. Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác... chỉ "được" đi
hội nghị sau, vì Lê Đạt đã bị khai trừ khỏi Đảng từ tháng 5/57, sau khi in bài
thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, bị cấm. Hoàng Cầm không ở trong đảng. Trần Dần, Tử
Phác đã xin ra khỏi đảng từ trước. Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, là những "phần
tử xấu", không được dự cả hai "hội nghị". Ở "hội
nghị" thứ hai, mọi người phải viết bài "thú nhận", sau
đăng báo.
Thành quả hai "hội nghị" được chính thức
ghi lại trong bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần
trước ánh sáng của dư luận", như sau:
"Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị
em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành
Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên
Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc
Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người
dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.
Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ ổi
đã được phát hiện, tất cả nhũng âm mưu, luận điệu, thủ đoạn đều bị vạch trần.
Những con chuột đã phải bò ra khỏi cống. Những người tự giác hay không tự giác
gần gũi với những con chuột ấy cũng đã tự giác tự phê bình. Đây là bước cuối
cùng của trận chiến đấu chống «Nhân văn-Giai phẩm» trong thời kỳ 1956-1958.
Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng
ta được biết nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" bao gồm những tên
"đầu sỏ", những "cây bút" đã viết "hoặc nhiều hoặc
ít" cho "Nhân văn-Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn hữu Đang, Trần
thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử
Phác, Đặng đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tý,
Phùng Quán, Hoàng tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy
Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn khắc Dực, Hoàng
tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn thành Long, Trần lê Văn, Lê đại
Thanh v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và
cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động
phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ,
có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị...153.
Những dòng đây trên đưa đến hai nhận xét:
1- Những tên tuổi liệt kê trong danh sách, đã được xếp đặt
theo trật tự "tội" nặng, nhẹ: trí thức đứng đầu, rồi mới đến văn nghệ
sĩ.
2- Tuy Hồ Chí Minh thân chinh và gửi thêm Tố Hữu, Huy Cận, Hà
Xuân Trường đi học tập chính sách đàn áp ở Trung Quốc, nhưng khi thi hành, Đảng
tránh nói đến Bắc Kinh, mà nêu cao việc "nghiên cứu nghị quyết của Bộ
Chính Trị" và "hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của Đảng
Cộng Sản và Đảng Công Nhân Mạc Tư Khoa cuối năm 1957".
● Hoàng Cầm thuật lại tổ chức "hội nghị" Thái
Hà
Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm:
Hội nghị Thái Hà được tổ chức tại trường Tuyên Huấn Trung
Ương, trước là trường Đại Học Nhân Dân, gần lăng Hoàng Cao Khải, trên đường từ
Gò Đống Đa xuống Ngã Tư Sở, trước cửa Đại Học Thủy Lợi.
Giảng viên là cán bộ từ Trung Ương lên Bộ Chính Trị, các bộ
trưởng... có Lê Duẩn, Hoàng Tùng... không thấy Trường Chinh. Lê Đức Thọ chỉ đến
hôm khai giảng, không nói gì. Tố Hữu là giám đốc trường, ban lãnh đạo cạnh Tố Hữu
có những tay chân đắc lực như Nguyễn Đình Thi, Huyền Kiêu, Chính Hữu, Vũ Tú
Nam, Huy Cận, Xuân Diệu...
Có khoảng 300 người, chia làm 15 hay 16 tổ, mỗi tổ có một tổ
trưởng, một tổ phó, và một thư ký. Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Hữu
Loan, Phùng Quán, Quang Dũng, Trần Lê Văn... mỗi người một tổ, anh em Nhân Văn
không được 2 người ở chung một tổ, họ sợ để 2 người, sẽ hỗ trợ cấu kết với nhau
khó điều khiển.
Tổ của tôi có Nguyễn Khải là tổ trưởng. Lê Khang, tổ phó,
Bàng Sĩ Nguyên, thư ký. Như vậy là họ đánh mình giáp là cà, chứ không đánh xa
xôi gì, tức là họ để cho Nguyễn Khải, một đảng viên sắc sảo, trẻ tuổi, rất
trung thành với xã hội chủ nghiã, làm tổ trưởng. Được chọn làm tổ trưởng thì phải
là người chống bọn Nhân Văn một cách quyết liệt. Nguyễn Khải là tay mới nổi tiếng,
được ông Tố Hữu thích lắm, mới viết một bút ký tên là Xung đột, đăng ở Văn
Nghệ Quân Đội về cuộc đấu tranh chống những linh mục, giám mục mà người ta cho
là những kẻ phản động, làm việc cho phòng nhì Pháp, vì là công giáo nên được ở
lại miền Bắc. Một bên là chính phủ ta, đảng ta, một bên là công giáo. Nguyễn Khải
viết truyện ấy được các cấp lãnh đạo ca ngợi lắm cho là người sắc nước trong cuộc
đấu tranh. Tôi rất ngại Nguyễn Khải, ngại cái trò sắc sảo, mới lên, được Trung
ương tín nhiệm.
Anh Lê Khang, tổ phó, là người đã đi sát với tôi từ 1952, trước
đó, anh là đoàn trưởng và là chính trị viên của đoàn văn công trường Lục quân
Việt Nam đóng bên Trung Quốc. Anh Lê Khang là người thẳng thắn, tốt bụng.
Tôi sợ và ghê tởm nhất là thư ký Bàng Sĩ Nguyên154, trước kia
hắn là chính trị viên cho đoàn tôi ở Việt Bắc, lúc đó hắn là kẻ vô danh tiểu tốt,
có viết lách vớ vẩn. Hắn có một vở kịch dở lắm, trong vòng thảo luận với anh em
có lần tôi lấy ví dụ viết kịch như Bàng Sĩ Nguyên là dở, chuyện đến tai hắn, hắn
thù tôi từ đấy, hắn bịa chuyện tôi đạo văn nhưng không có hiệu quả gì. Người xấu
lắm, mắt lồi, trắng dã, mồm vêu, răng vẩu, người gầy đét, má hóp nhỏ tí, thấy cấp
trên thì khúm núm, cổ rụt lại. Bây giờ hắn lại làm thư ký của tổ, thì mình vào
tay nó rồi, tha hồ nó bới móc.
Sau 15 ngày học "lý thuyết", bắt đầu vào kiểm điểm.
Ban lãnh đạo cho 7 ngày để viết kiểm điểm, không phải lên lớp, mỗi người cứ lặng
lẽ viết. Tôi viết khoảng 100 trang giấy học trò, có thể coi là bản hồi ký cực
đúng về những việc đã diễn ra từ khi hoà bình lập lại. Viết tự kiểm điểm thì phải
tự tố lên, tự mình xỉ vả mình, để trên người ta thấy mình "thành khẩn học
tập", và như vậy là có kết quả.
Vào giai đoạn phải đem bản khai của mình ra đọc cho tổ nghe,
để tổ phê phán trước, giai đoạn này kéo dài độ nửa tháng; thì một hôm Quang
Dũng đến tìm tôi, gọi ra chỗ kín đáo, anh bảo: Tôi bị nó đấu dữ quá, nó bảo
tôi là bí thư Quốc Dân Đảng, chui vào làm chủ báo Nhân Văn để phá hoại
toàn bộ văn nghệ sĩ. Tôi hỏi: Thế ai làm tổ trưởng bên ấy? Anh
nói: Bùi Huy Phồn (hay ai tôi không nhớ rõ lắm, nhưng cũng vào cái loại ấy,
tức là cực kỳ trung thành với Tố Hữu). Tôi bảo: Cái thằng ấy nó làm tổ
trưởng thì nguy thật. Quang Dũng mặt tái đi, chắc sáng nay nó đấu anh ghê
lắm, anh cầu cứu tôi: Ông nói làm sao cho cả lớp, cả trường biết, tôi
có tham gia Nhân Văn đâu, tôi có bao giờ họp hành gì đâu, tôi đã nói tôi chẳng
biết gì về Nhân Văn cả, anh Hoàng Cầm xin bài thì tôi đưa một bài thơ tình mà
cũng chỉ đăng ở Giai Phẩm. Thương bạn quá, lúc đó mà bị kết án là trùm Quốc
Dân Đảng thì sợ thật, có thể nó đem ra xử bắn ngay. Tôi an ủi anh: Anh yên
chí, tôi đã viết tỉ mỉ, tôi báo cáo hết mọi việc Nhân Văn từ đầu đến cuối
rồi. Hôm trước tôi đã đọc xong 100 trang báo cáo cho tổ rồi, còn đang trong
tình trạng phê phán toàn tổ. Thế là tôi báo ngay cho Nguyễn Khải, bảo Khải chiều
nay lên báo với lãnh đạo là tôi xin lên "báo cáo điển hình" vì
tôi là người hoạt động số một, ngay từ khi chưa có Nhân Văn đến khi báo đóng cửa.
Tôi xin báo cáo tất cả mọi hoạt động và ý nghiã của nó cho toàn trường. Nguyễn
Khải hoan nghênh lắm, vừa mới bước vào kiểm điểm mà Hoàng Cầm đã xin lên nói điển
hình như thế, giúp toàn trường đạt kết quả mau chóng.
Ngày hôm sau tôi lên báo cáo từ 7g30 đến 11g30, nghỉ cơm
trưa, rồi nói từ 2g đến 5g30, nghỉ cơm tối, rồi lại tiếp tục từ 7g30 đến 11g
đêm, tổng cộng hơn 10 tiếng đồng hồ. Sau 11g30 trưa hôm đó, anh Quang Dũng đến
tìm tôi vui vẻ: Ông cứu sống tôi đấy. Nó buộc tội Quang Dũng chỉ vì
nó tìm được cái ảnh anh chụp bên Vân Nam, mặc áo đại cán Tôn Dật Tiên, lại chụp
chung với Nhất Linh. Chụp ảnh với trùm Quốc Dân Đảng Nhất Linh là chết rồi! Tuổi
trẻ, óc giang hồ, lại mê văn Nhất Linh, cho nên anh lấy tên Dũng, nhân vật của
Nhất Linh mà đặt tên mình.
Sau khi tôi đọc bài báo cáo điển hình rồi thì về lớp học đến
phần phê phán tác phẩm. Nguyễn Khải lấy quyền tổ trưởng át giọng, trấn áp, tôi
muốn phân trần điều gì, hắn cắt ngay: Im mồm đi! Hắn còn bảo tôi: Gái
đĩ già mồm!, Bàng Sĩ Nguyên là tay khốn nạn nhất, chỉ bới lông tìm vết. Họ
dành 5 ngày để phê phán tác phẩm của tôi. Phê phán ghê lắm, từng bài thơ một,
phê phán cả ngày, từng câu, từng chữ, dùng đủ mọi danh từ, thơ đểu, vu cáo cho
Đảng... Xong thơ đến văn, tên Bàng Sĩ Nguyên phê phán ghê nhất, rồi đến Nguyễn
Khải sắc sảo ra cái vẻ có học hơn, anh Lê Khang chỉ ôn tồn nói rằng tôi không
hiểu gì lắm về thơ, làm thơ không đúng với chính sách của Đảng. Anh đúng là con
người có tình.
Sau báo cáo của tôi thì có ba người mừng là Quang Dũng, Trần
Lê Văn và Thanh Châu, nhưng ông Văn Cao bảo tôi hèn: Mày báo cáo như thế
là hèn, việc gì mày phải khai hết ra? Mày bán anh em à?
Không, tôi chỉ nói sự thật, tôi không bịa chuyện gì, tôi
không vu khống anh em. Tôi đã có kinh nghiệm những lớp chỉnh huấn từ trước, họ
biết hết, nếu mình giấu cái gì. Ngay hôm bắt đầu viết kiểm thảo thì ông Nguyễn
Đình Thi đã loan tin cho cả trường biết anh Đang và "đồng bọn" đã bị
bắt, gây chấn động hết cả, bởi vì lúc bấy giờ văn nghệ sĩ cũng như nhân dân, tất
cả đều như con cá nằm trong cái rọ, họ muốn bắt con nào thì bắt. Vì vậy, tôi thấy
không thể giấu họ bất cứ chuyện gì, kể cả những chuyện không cần phải nói như
chuyện chúng tôi hút thuốc phiện ở nhà Tử Phác có cả Văn Cao. Vì thế mà anh Văn
Cao cho là tôi hèn nhát, chưa bị đánh đã sợ run lên, phản bạn. Từ đó tôi và Văn
Cao xa nhau và cuối cùng thì hầu như không còn là bạn nữa155.
● Những lời buộc tội
Để biết rõ tinh thần và phương pháp chỉnh huấn ở ấp
Thái Hà, chúng ta nên đọc qua bài viết của ba người trách nhiệm
cấp lãnh đạo trong trường: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và Võ Hồng Cương.
♦ Tố
Hữu trong bài "Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ" in
trên báo Học Tập, dựa vào tinh thần nghị quyết 6/1/58, lên án gắt gao:
"Dưới ánh sáng mới ấy156 đã bật rõ ranh giới giữa cách
mạng và phản cách mạng, giữa cái mới và cái cũ; mỗi người yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội đều đã có thể nhìn thấy, phân biệt rõ ràng những con người và
những con quỷ, những hoa thơm và những cỏ độc trong văn nghệ"157.
Sau khi ca tụng "Hai văn kiện có ý nghĩa quốc tế lớn lao
của Mạc Tư Khoa" đã giúp cho "Trung Ương Đảng
ta" chuyển biến, "có con mắt sáng để nhìn đúng tình hình",
Tố Hữu xác định:
"Không thể nào khác, muốn là "kỹ sư tâm hồn"
xã hội chủ nghĩa, không thể nào không tự cải tạo bản thân văn nghệ sĩ thành những
tâm hồn xã hội chủ nghĩa thật sự (...) Càng không thể để lén lút vào trong hàng
ngũ văn nghệ, những con rắn độc thù địch phun nọc giết người."(...) Đó là
tiêu chuẩn chính trị để phân rõ ranh giới: ai là thù, ai là bạn. Không thể mập
mờ".
Rồi ông đe doạ:
"Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ hay
phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối văn nghệ phục
vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và
phục tùng sự lãnh đạo của Đảng?"
"Đã đến lúc cách mạng đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ
và mỗi cán bộ văn hóa "duyệt lại" những tư tưởng, tình cảm của
mình, những sáng tác và công tác trong ba năm qua, và dưới ánh sáng của tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, làm một cuộc phê phán thật nghiêm trang, không khoan nhượng đối
với mình, đối với bạn, đối với địch". (...)
"Thông qua cuộc đấu tranh lần này mà lột trần bộ mặt
gian ác của những phần tử phản cách mạng, chống chế độ, chống nhân dân, phá hoại
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất
nước nhà. Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất."
Rồi ông "vạch mặt" những "tên phản động":
"Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan-Khôi
một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ "người An-nam là
chó, và đã là chó thì phải ăn cứt" để "thuyết phục" người khác đầu
hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là "học giả tiết tháo", và
được kẻ đồng bọn phong cho là "anh hùng của ba trăm nô lệ" (!)
Chúng là những con buôn "mác-xít", "cách mạng"
đầu lưỡi như Trương-Tửu, Trần-Đức-Thảo mà thực chất là những tên tơ-rôt-skit vô
tổ quốc đã từng nấp dưới nách của địch chống lại cách mạng, suốt đời thù
ghét những người cộng sản và tất cả những ai tin yêu (...) Chúng là những kẻ
đầu cơ cách mạng, như Nguyễn-Hữu-Đang (...) Gặp nhau trong một mục
đích chung, chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ, chống phe xã hội chủ
nghĩa, chống Đảng lãnh đạo, tất cả bọn chúng đã liên minh thành một khối, phối
hợp hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trong các hội văn học
nghệ thuật, một số cơ quan văn hóa, trong giới đại học, v.v¼ (...) Trên
thực tế, rõ ràng chúng đã làm như những tay sai của địch thực hành kế hoạch
phá hoại của Mỹ-Diệm ở miền Bắc là "chống cộng trong lòng cộng".
Cuối cùng, Tố Hữu nhấn mạnh đến sự kiện:
"Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân văn và các tập Giai phẩm,
Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: "Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của
những tư tưởng sai lầm". Bởi vậy, vấn đề không phải chỉ là vứt bỏ những hạt
giống xấu, mà còn là dọn lại đất cho tốt158".
Lời kết luận của Tố Hữu xác định hai điểm:
- Khi Trường Xuân đến họp, tuyên bố bác Hồ cũng có "cảm
tình" với Nhân Văn, bác nói: không nên dùng dao mổ trâu để
giết gà, là Trường Xuân đã phản ảnh chỉ thị ở cấp trên cùng, bởi không ai dám bịa
một chuyện như thế về "bác Hồ" dưới thời đại Hồ Chí Minh.
- Khi Tố Hữu tuyên bố: Nhân Văn Giai Phẩm là những
hạt giống xấu, không những phải vứt bỏ mà còn phải dọn lại đất cho tốt. Ông
cũng phản ảnh trực tiếp chỉ thị của Hồ Chí Minh. Trường Xuân và Tố Hữu thi hành
sách lược của vị lãnh tụ, riêng Tố Hữu thực hiện ý nghiã thâm sâu của cuộc
thanh trừng: nhổ cỏ phải nhổ tận rễ.
♦
Nguyễn Đình Thi tổng kết chủ trương của NVGP, cũng trên báo Học Tập, qua 6
điểm:
1. Bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản là không "nhân
văn", là "chà đạp con người", bôi nhọ những đảng viên cộng
sản là "khổng lồ không tim", không phải là "cộng sản chân
chính", xuyên tạc sự giáo dục của Đảng là "rập khuôn đầu óc và tâm hồn",
văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa là "công thức, giả tạo", đẻ ra những
"thi sĩ máy". Dưới chiêu bài "đề cao con người", "chống
công thức", báo Nhân văn, Giai phẩm đã đề cao chủ nghĩa cá nhân, "tự
do" cá nhân, đòi quyền, "tự do" cho những lối sống và tình cảm
ích kỷ trụy lạc.
2. Phản đối chuyên chính, đòi "dân chủ",
"tự do" theo lối tư sản trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Đả
kích từ Mậu dịch, quản lý hộ khẩu, Bưu điện, cơ quan báo chí, bệnh viện, cho tới
Quốc hội, nói chung là đả kích vào bộ máy Nhà nước của ta, đòi tự do đối lập với
Chính phủ, trong lúc bọn phản động đang âm mưu phá hoại và một vài giới tư sản
đang tiến công ta.
3. Đưa ra chiêu bài "chống sùng bái cá nhân" để xuyên
tạc sự lãnh đạo của Đảng là "đảng trị" (...) Đem đối lập quần
chúng với lãnh đạo, khích quần chúng chống lãnh đạo (...)
4. Phỉnh nịnh đầu óc quốc gia chủ nghĩa tư sản, đả kích
Liên-xô, cho sự giáo dục con người ở Liên-xô là "rập khuôn", văn học
nghệ thuật Liên-xô là "công thức", không có giá trị. Vin vào khẩu hiệu
"trăm hoa đua nở" để xuyên tạc đường lối văn học nghệ thuật của Trung
quốc (...)
5. Phủ nhận những thành tích to lớn của nhân dân ta, của
Đảng ta trong công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, phủ
nhận những kết quả to lớn của Cải cách ruộng đất (...)
6. Riêng về văn nghệ, thì trong Nhân văn, Giai phẩm đã
đề xướng "trăm hoa đua nở" theo lối tự phát vô chính phủ, "hoa
lành, hoa độc, hoa thối, hoa thơm" đều có quyền nở tự do như nhau. Thực chất
là nó đòi hủy bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu khẩu hiệu "trả văn nghệ về cho
văn nghệ", "văn nghệ và chính trị vỗ vai nhau hai bên cùng có lợi"
v.v...159
Nguyễn Đình Thi luôn luôn có hành động của một thuộc hạ chân
thành, ông áp dụng đúng chính sách đường lối của Tố Hữu, của Đảng, để tiến
thân.
♦ Võ
Hồng Cương, Cục phó Cục Tuyên huấn, trong bài tổng kết "Cuộc đấu
tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay160 tóm tắt toàn bộ hành
trình đấu tranh của NVGP, chỉ "chân tướng phản động chính trị của những
tên cầm đầu": Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Thụy
An, Minh Đức, và coi phong trào NVGP là cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghiã
xã hội và chủ nghĩa tư bản trên ba khái niệm chính:
1- Đấu tranh giữa hai đường lối chính trị khác nhau.
2- Đấu tranh giữa hai đường lối văn nghệ khác nhau.
3- Đấu tranh giữa hai thế giới quan và nhân sinh quan khác
nhau.
Hồng Cương nhấn mạnh đến những nguy cơ "xụp đổ chế độ":
"Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ
được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của
Đảng và Chính phủ xuống.(...)
Chúng nói Trung Ương Đảng ta, thậm chí nói các lãnh tụ
ta là "dốt văn nghệ".Chúng rêu rao rằng Đảng và Chính phủ ta là
"bọn ngu khờ cầm quyền" (l'ignorance au pouvoir) không thể lãnh
đạo được văn nghệ (...).
Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ
(communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ
ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền
rủa Chỉnh huấn của ta là đồi trụy tinh thần (avilissement de l'esprit), là nô dịch
hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta
là "bổng lộc" vua ban, huân chương của ta là "mề đay" của đế
quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào
đó161".
Lời buộc tội của Hồng Cương, có vẻ mạnh mẽ nhưng khác hẳn lối
nhìn đao phủ của Tố Hữu: Hồng Cương xác nhận NVGP là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa
hai quan niệm khác nhau về chính trị, văn nghệ, nhân sinh. Ông kín đáo biện hộ
và đồng tình. Vậy, không phải mọi người có quyền đều táng tận lương tâm. Hồng
Cương là một nhân cách.
● Bao nhiêu người bị liên lụy?
1/ Danh sách nhóm NVGP, ghi trong bài Cái ổ chuột
"Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận162 có
tên 34 người:
"Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu,
Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng,
Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích
Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai
tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến,
Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh" v.v...163
2/ Danh sách những người ký tên dưới các bài viết, hoặc cộng
tác với 5 số báo Nhân Văn và 5 cuốn Giai Phẩm, gốm có: Nguyễn Hữu Đang, Trần
Thiếu Bảo (nxb Minh Đức), Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Duy, Nguyễn
Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Tô Vũ, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Phan Khôi,
Hữu Loan, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Phác Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Yến,
Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Công, Hoàng Huế, Hồng Lực, Bùi Xuân Phái, Trương Tửu,
Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo,
Trúc Lâm, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh, Đặng Văn Ngữ, Trần Thịnh, Hữu Tâm, Thanh
Bình, Trần Phương, Thanh Châu, Châm Văn Biếm, Hoàng Tố Nguyên, Cao Nhị, Trần Hải
An... gồm 47 người.
Hai danh sách trên đây không hoàn toàn giống nhau, vì ngoài
Nhân Văn và Giai Phẩm, còn có một số sách báo khác, cùng xu hướng, như Trăm Hoa
của Nguyễn Bính, Đất Mới của sinh viên, hoặc Tự Do Diễn Đàn164 và Sách Tết 1957165;
hoặc tạp chí Sáng Tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Trần Thịnh-Trần Công.
Ngoài ra còn có những bài in trên các báo khác như Văn, 1957, sau khi NVGP bị
đình bản.
3/ Lê Hoài Nguyên cho biết: "Số người gọi là tham
gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác
giả (LHN) thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng
khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên
toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người. Bởi vì các ấn phẩm
của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà
Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi166".
Như vậy chúng ta tạm nhận con số gần 100 người bị xử lý nặng
của Lê Hoài Nguyên.
Trong danh sách chính thức năm 1959, thiếu tên hai người:
Phan Tại và Phùng Cung, mặc dù cả hai đều bị đi tù, có thể vì Phan Tại và Phùng
Cung, năm 1959, chưa bị tố giác. Hai trường hợp này cần tìm hiểu.
● Phan Tại và nhóm Sáng Tạo
Trong phiên toà ngày 19/1/1960, xử Nguyễn Hữu Đang, Thụy
An, Trần Thiếu Bảo, Lê Nguyên Chí167, Phan Tại bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm
mất quyền công dân.
Tại sao kịch tác gia Phan Tại, chủ đoàn kịch Sông Nhị, lại
bị kết án nặng như vậy? Ngoài tội trốn vào Nam, ông còn những tội gì nữa?
Tổng hợp lời những nhân chứng và những bài viết, ông đã phạm
những "tội" sau đây:
- "Chứa chấp" Thụy An - Thụy An ở chung nhà với ông
bà Phan Tại.
- Nhà Phan Tại - Thụy An là một "câu lạc bộ văn nghệ"-
Tập kịch, chiếu phim, hội họp.
- "Nhóm" Thụy An-Phan Tại cùng với nhóm Sáng
Tạo của Trần Thịnh-Trần Công chủ trương thành lập hội điện ảnh độc
lập. Đả phá phim tuyên truyền Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo lối Tân
hiện thực- Néoréalisme Ý và Nhật. Thụy An, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm
Từ, Kỳ Nam... viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh. Họ tổ chức chiếu lại
những phim hay đã chiếu ở Hà Nội trước 1954, do Thụy An viết thuyết minh, trong
đó có những kiệt tác tân hiện thực như "Miếng cơm cay đắng - Riz
amer", "Chiếc xe đạp - La bicyclette" của Ý, "Rashomon",
"Những đứa trẻ Hiroshima", "Anh gắng nuôi con" của Nhật,
v.v...
- Những người trong Sáng Tạo như đạo diễn Trần Thịnh
chủ nhiệm, Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, Cao Nhị, v.v... đều có bài trên NVGP.
Trong bài Đi ttìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo, Hà Nội,
1956 168 Lại Nguyên Ân cho biết: Sáng Tạo ra được hai số: Số 1, ngày
5/11/1956 và số 2, ngày 20/11/1956. Trong đợt đánh Sáng Tạo, Trần Đức Hinh, chủ
nhiệm tờ Điện Ảnh của Cục Điện Ảnh tố cáo:
"Nửa tháng "Liên hoan phim Liên Xô" khai mạc
vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản,
trong đó có đăng bài "Chúng ta gắng nuôi con", hoạt cảnh của Chu Ngọc,
đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số
đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô (...) Những bài như trên phải
được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu,
Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v¼ đang nhan nhản lúc bấy giờ ở
các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của
nó169".
Như vậy, có thể nói: song song với Nhân Văn và Giai Phẩm, đã
có phong trào điện ảnh kịch trường, do hai nhóm Phan Tại-Thụy An và Trần
Thịnh-Trần Công chủ trương.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như vậy, không chỉ giới hạn
trong phạm vi văn học, mà còn lan rộng ra các ngành nghệ thuật khác, để trở
thành cuộc cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ
sĩ miền Bắc, đòi tự do sáng tác và tự do dân chủ.
Phan Tại, bị tù 6 năm, kèm 3 năm quản thúc, có thể vì những tội:
"cấu kết" với Thụy An và là một trong những người "lãnh đạo"
phong trào điện ảnh kịch trường cùng với Trần Thịnh-Trần Công.
● Các biện pháp kỷ luật
"Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết
thúc bằng Hội Nghị thứ ba của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt
Nam, họp tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và nghị
quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam lên án
"bọn NVGP".
Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bản nghị
quyết gọi là "Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ" phụ họa với
nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các
ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện
pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đã tham gia NVGP:
Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban
chấp hành. Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, "chấp nhận cho Sĩ Ngọc
và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành". Hội Nhạc Sĩ "chấp
nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành". Cả ba hội
quyết định: Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần
Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật. Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng
Quán ra khỏi Hội Nhà Văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà Văn,
ba năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc Sĩ. Và cảnh cáo một số hội
viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.
Tháng 7/58: Văn Cao đi thực tế Điện Biên cùng với Nguyễn Tuân
và Nguyễn Huy Tưởng, ông bị chảy máu ruột và được trở về.
Ngày 22/8/58: Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác... đi
lao động cải tạo ở Chí Linh, đến Tết mới được về Hà Nội nghỉ, đợi đợt sau. Trần
Dần cho biết: Phùng Quán mới đầu "bất trị" đi rồi lại bỏ về, đến
tháng 8/58 mới chịu đi thực tế Thái Bình với Hoàng Cầm. Trong thời kỳ lao động
cải tạo này Tử Phác bị ho lao. Nhật ký Trần Dần ghi: 25/11/58 Tử Phác
đi khám ruột, lại thấy bị lao phổi.
Hoàng Cầm kể: Phùng Quán đi độ 3 hôm thì lộn về Hà Nội, anh
loan tin: Không biết Đảng nghĩ thế nào mà cho anh em văn nghệ đi cải tạo ở gần
một làng hủi, tin đồn ầm lên, BBC biết, họ loan trên đài. Anh Võ Hồng Cương hoảng
quá, cho là Đảng cũng vô tình thôi, anh lập tức chỉ thị cho Hoàng Trung Thông
phải tìm chỗ khác. Phùng Quán đến tôi và vài tuần sau đi cùng với tôi. Tới nơi,
bị Hoàng Trung Thông đuổi: Anh vô kỷ luật, tôi không nhận anh nữa. Phùng
Quán: Về thì về, sợ gì! Thế là anh lại trở về Hà Nội. Hoàng Trung
Thông đã tìm được một chỗ mới ở làng Thái Thủy, huyện Vũ Ninh. Phùng Quán lại
xuống, có giấy của Võ Hồng Cương viết cho Hoàng Trung Thông, yêu cầu phải nhận
Phùng Quán vào tổ vì Phùng Quán đã nhận khuyết điểm với ban chấp hành rồi.170
Những người tội nặng, bị đưa ra toà ngày 19/1/1960. Qua những
bản tin về phiên toà này, đăng trên các báo tại Hà Nội tháng giêng năm 1960, do
Lại Nguyên Ân sưu tầm và công bố mới đây trên Talawas, luận điệu các bài viết
khá giống nhau:
"Ngày 19/1/1960, Toà án Nhân Dân Hà Nội đã xử vụ gián
điệp có tổ chức do bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Nhiều đại biểu các tầng
lớp nhân dân Hà Nội đã tới dự phiên toà này. Bọn gián điệp bị đưa ra xử gồm năm
tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức,
Phan Tại và Lê Nguyên Chí"171.
Chánh án: Nguyễn Xuân Dương. Hội thẩm: Nguyễn Tử Các và Phùng
Bảo Thạch.
Vẫn theo bài báo trên: "Thụy An là một tên gián điệp
lợi hại quốc tế (...) Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi nhập thành
một nhóm (...) tháng 9/1956 xuất bản tờ Nhân Văn" (...) Nguyễn Hữu Đang và
Thụy An lấy nhà Phan Tại làm một "câu lạc bộ" bí mật, tụ tập một số
phần tử phản cách mạng (...) "Đến khi chúng thấy âm mưu và hoạt động của
chúng bị bại lộ, chúng định trốn vào Nam để tiếp tục làm tay sai cho Mỹ-Diệm.
Lê Nguyên Chí thú nhận: "Đang nói với tôi, Đang vào theo Mỹ-Diệm sẽ được
chúng tin dùng và sẽ làm được những việc lớn". Đang cùng Lê Nguyên Chí chuẩn
bị trốn vào Nam". Toà đã tuyên án: Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5
năm mất
quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5
năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất
quyền công dân; Phan Tại, 6 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên
Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân172.
Phùng Cung bị bắt tháng 5/61. Bị giam 12 năm tù. Không có án.
Trường hợp Phùng Cung sẽ được tìm hiểu trong phần viết về Phùng Cung.
Các giáo sư đại học Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy
Anh,... bị cách chức và bị quản thúc. Cách đối xử với họ như thế nào, tư liệu
chính thức không nhắc đến. Trong bài báo cáo tổng kết, có một đoạn Tố Hữu viết:
"Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ
Chính Trị, mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ,
qua một cuộc đấu tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại "Nhân
văn-Giai phẩm" mới hoàn toàn rơi xuống đất; và đồng thời, những sai lầm lệch
lạc nghiêm trọng, nhất là tình trạng mất cảnh giác giai cấp trong văn nghệ sĩ,
trong các đảng viên và cơ quan của Đảng cũng được vạch chỉ rõ ràng.
Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại
học, chủ yếu ở khoa Văn, khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần đức Thảo
khoác áo giáo sư cũng phơi trần chân tướng173".
Câu: "Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh
trong các trường Đại học..." của Tố Hữu, xác định sự kiện cùng
lúc với hai lớp Thái Hà, dành cho văn nghệ sĩ, trong Đại học có các "lớp"
khác, dành cho các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh
Tường...
Hiện nay, có rất ít tư liệu của các nhà trí thức NVGP viết về
vấn đề này, nên không thể biết những gì đã xẩy ra cho họ, nhờ cuốn Un
Excommunié - Kẻ bị khai trừ174, trong đó giáo sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại ông
đã bị đưa ra "corrida - đấu trường" ba lần: đấu trường Mặt Trận
Tổ Quốc, đấu trường Đại Học và đấu trường Đảng. Sau đó, ông hoàn toàn bị ly
khai, không được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư,
rơi vào cảnh đói rét, bệnh tật. Về những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ
văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã
mua báo, hoặc đã giúp đỡ, ủng hộ phong trào NVGP bằng cách này hay cách khác,
hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật.
Tháng 8/2010, Lê Hoài Nguyên tiết lộ trong bài Vụ Nhân
Văn- Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng
văn học không thành175 một số
thông tin quan trọng, chúng tôi xin trích lại sau đây những
điểm chính:
"Tại các đợt học tập Chỉnh huấn tại các trường
Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy
Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố,
bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật
như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy,¼ Một số sinh viên cũng bị
kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ
(Thúc Hà)¼
Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ
NVGP cũng chịu các hình thức đối xử như Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn
Đức, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng¼ Ngoài ra, tại các địa phương những
giáo viên, cán bộ, học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP đều bị xử lý
với nhiều hình thức.
Trong vòng ba đến bốn tháng các văn nghệ sĩ đi cải tạo lao động
tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã¼ Một số người phải cư trú lâu dài
tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê
Văn, Nguyễn Khắc Dực¼
Kết tội nhóm NVGP có 3 nguồn chính thức như sau:
- Nghị quyết 30 của BCTĐCSVN176 ngày 6/1/1958 về
việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.
- Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm phá hoại Nhân
Văn-Giai Phẩm của Tố Hữu tại Hội Nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ
thuật Việt Nam ngày 4/6/1958.
- Bản án của Toà án nhân dân Hà Nội ngày 19/1/1960 xử vụ
gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An. NVGP không hoạt động gián điệp. Cái tội
gọi là hoạt động gián điệp ở đây là sự gán ghép suy diễn buộc tội. Nguyễn
Hữu Đang không liên quan gì đến những người Pháp còn ở Hà Nội. Còn Thụy An
thì được một cơ quan giao nhiệm vụ nắm ý đồ của mấy người Pháp đối với tình
hình Hà Nội lúc đó. Sau đó những lời báo cáo của bà trở thành chứng cứ
buộc tội bà hoạt động gián điệp. Họ cũng không có tài liệu bí mật để chuyển
giao cho cái gọi là cơ quan tình báo Pháp".
● Thực chất hội nghị Thái Hà
Trong ba người bạn thân Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, ban đầu
Trần Dần có vẻ rất cứng cỏi, nhưng trong lớp Thái Hà, dường như ông lại là người
nao núng nhất. Sự nao núng này sống lại trong những trang nhật ký. Nhật ký, chủ
đích là viết riêng cho mình, không cần giấu diếm, che đậy, nhưng trái lại, ngay
trong nhật ký của Trần Dần, đã có màu sắc "hối cải", giống
như lời tự thú để đăng báo, viết cho "người khác" đọc, phản
ảnh một Trần Dần đã thấm đòn, biết sợ, ông viết:
"Nhân Văn Giai Phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ
nghiã, phản đối xã hội chủ nghiã; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất
thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu NVGP, đó là một công ty phá hoại bao gồm
những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc Dân Đảng cũ (PhKhôi), đứa là mật
thám trước (TDuy), đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghiã
trotskisme (Nguyễn hữu Đang),... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, TrầnđThảo,
và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với Sainteny, là Thụy An"177. Đó là
những "nhận định" về người đồng hành, còn đây là "nhận
định" về cái "tôi":
"Tôi là cái gì? Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổ
lốn phản động của những tư tưởng tư sản địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám
danh to đến bệnh "vĩ đại cuồng", vô chính phủ đến phá phách mọi trật
tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạt sa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật
vị nghệ thuật, tượng trưng, lập thể, siêu thực... và vào triết học ru ngủ tối
phản động của Bergson (...)
Tôi đã tự lừa dối (...) Tôi đã tự lừa dối (...) Tôi đã tự
lừa dối (....)"178
Trần Dần là người duy nhất để lại ba trang nhật ký về giai đoạn
Thái Hà, nhưng ông không dám viết gì về nội dung học tập, mà chỉ ghi lại những "kết
quả" học tập và sự tự hối của mình sau "lớp nghiên cứu 2
văn kiện".
Đến khi Lê Đạt trả lời phỏng vấn năm 1999 ở Paris, phát trên
sóng RFI năm 2004, chúng ta mới biết rõ thực chất hai "hội nghị" Thái
Hà.
Trước hết, ông giải thích tại sao lại có hai lớp học khác
nhau (lớp đầu tháng 2/56 và lớp sau tháng 3-4/56): "Lớp đầu tiên
tổ chức cho các đảng viên (...) tức là người ta vận động các đảng viên
khác phát hiện tất cả những tội của những đảng viên tham gia Nhân Văn Giai Phẩm
đã đành rồi, nhưng còn để phát hiện cả những tội của những người chưa tham
gia Nhân Văn, của quần chúng, vì vậy người ta phải làm trong buổi trước".
Hình thức "học tập trước" các cách "phát
hiện tội" này, đã được dùng trong Cải Cách Ruộng Đất và
Hoàng Văn Chí đã trình bầy rõ trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản và
Nguyễn Mạnh Tường cũng mô tả trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit, sẽ
nói đến sau. Ở đây xin tiếp tục lời thuật của Lê Đạt. Và đây là diễn biến của lớp
thứ nhì, với 304 người, trong tháng 3 và 4/56. Trước tiên, về không khí của "lớp
học", Lê Đạt kể:
"Không khí rất căng thẳng, tôi nói thế này để chị biết nó
căng thẳng như thế nào: Văn Cao đã đi lớp trước rồi, lớp cho đảng viên hồi
tháng 2, thì sau đó, họ cũng kéo tất cả trở lại lớp sau để đánh tiếp. Tôi
xin nhắc lại: tức là trong lớp trước, họ học tập đảng viên phát hiện quần
chúng, để họ đánh; nhưng bây giờ, ở lớp thứ hai này: quần chúng lại phát hiện
trở lại, để nếu đảng viên có gì, họ lôi ra đánh tiếp luôn, chị có rõ ý tôi
không? Thế thì tôi thấy Văn Cao -hôm ấy trời nóng- Văn Cao mặc áo sơ mi to phồng
thế mà sau khi nó tố những khuyết điểm của Văn Cao, tôi thấy cái áo sơ mi cứ
dính dần, dính dần, dính dần... toát hết cả mồ hôi, nó dính như một cái áo lót
cơ mà... Ðấy, chị thấy không khí căng thẳng như thế nào".
Về thực chất của "lớp học", Lê Đạt cho biết:
"Ðây không phải là một cuộc học tập mà là một cuộc đấu
tranh, nó khác hẳn các cuộc học tập khác. Trong những ngày đầu, người ta vạch tất
cả "những tội" của những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, ai nhớ được
gì thì nói ra..., nó là một cái tụi... tố cáo nhau (...)Trong khi "học"
như thế thì công an đi ra đi vào rất nhiều, mà đi một cách rõ ràng cho mình
trông thấy chứ không phải người ta kín đáo gì! Sau khi tất cả mọi người đều đã
"phát hiện các tội" của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn,
từng người một, nhận tội".
Cuộc "đấu tranh" kéo dài hơn một tháng, theo Lê Đạt: "Trong
suốt một tháng ấy là cứ ngày nào, ngày nào cũng... lên phát hiện tội. Cứ phát
hiện tội, tức là mình có gì thì mình báo cáo; còn người ta, người ta phát hiện
tội của mình. Nó là một thứ đấu tranh đấy mà. Ðấu tranh rất gay gắt. Và lẽ dĩ
nhiên, nói là cả lớp, nhưng người ta chỉ tập trung vào một vài người thôi,
trong số đó có tôi cho nên vất vả lắm".
Cách "phát hiện tội" như thế nào? Bằng miệng
hay là ghi trên giấy? "Bị can" có quyền cãi khi lời "phát
hiện" là bịa đặt hay không?
Lê Đạt trả lời: "Không! Không! Tất cả mọi người đều đứng
lên phát hiện chứ. Phát hiện thì có thư ký ghi hết và bản thân mình cũng phải
ghi. Rồi sau căn cứ trên cái phát hiện của người ta, mình về tổ, mình phát hiện
cái khuyết điểm của mình, cái tội của mình và sau đó mình phải làm bài kiểm điểm
rất dài về toàn bộ thời gian mà mình tham gia Nhân Văn. Người ta phát hiện, còn
mình không được nói nữa. Ðông Tây người ta phát hiện ầm ầm, ầm ầm, làm sao mà
mình có quyền, nhất là không được cãi gì".
Về các văn bản "thú tội", Lê Đạt cho biết
đã được viết trong hoàn cảnh thế nào:
"Tức là như thế này: Bây giờ anh làm trong tổ, tổ thông
qua bài khai của anh. Bài của anh lại phải đưa ra hội trường, hội trường
thông qua thì anh mới được xong. Nếu không thì anh cứ việc tiếp tục lại. Viết
xong, nhưng chưa thành khẩn, thì lại phải viết tiếp. Mình cứ phải viết tiếp, viết
tiếp... mãi, mà mình chỉ có từng ấy ý thì làm sao viết thêm được mãi!"
Về việc bắt Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt kể:
"Trong lúc kiểm thảo như thế, thì người ta loan tin, người
ta nói rằng: "Công an đã bắt Nguyễn Hữu Ðang!" Cái anh Ðang này cũng
là người hoạt động mà sao dại dột thế! Ông ấy lại nhờ người mang một lá thư về
Hải Phòng để bố trí cho ông ấy vào Nam. Thế là nó bắt được cái thư ấy. Vì chính
người đưa thư ấy là người của công an. Thế là họ đồn ầm lên: "Sự liên hệ
giữa Nhân Văn và bọn Mỹ Diệm là đã rõ ràng rồi. Nguyễn Hữu Ðang trong lúc không
còn đường thoát nữa, liên lạc với trong ấy và chúng ta đã bắt được Nguyễn Hữu
Ðang rồi, bắt vào ngày bao nhiêu, bao nhiêu"... Tất cả mọi người vỗ
tay: Hoan hô! Hoan hô!... Tức là một sức ép rất ghê gớm."
Về việc lao động cải tạo, Lê Đạt cho biết:
"Lúc đầu mới đi thì mình cũng lao động, cũng hăm hở. Mình
hăm hở vì chắc là hai năm thì xong. Thế nhưng mà hai năm rồi cũng không thấy ai
nói gì về vấn đề đó cả và lại tiếp tục hai năm nữa... rồi dần dần nó phai
nhạt đi không ai nhắc đến chuyện đó nữa. Thì thời gian disponibilité -thời
gian mà phải đi, lúc nào người ta gọi đi lao động cũng được- thời gian đó
kéo dài 10 năm. Lẽ dĩ nhiên là trong 10 năm ấy, không phải lúc nào cũng đi. Người
ta gọi đi, rồi người ta lại cho mình về; về rồi, họ lại kéo mình đi, nghĩa là
trong 10 năm là thời gian mình phải dành cho việc đi lao động cải tạo. Thế còn
sau này hết 10 năm thì ở nhà. Nhưng mà ở nhà thì... Tôi không ngờ nó kéo dài đến
thế: cả thời kỳ đi lao động lẫn thời kỳ "cấm" là gần 40 năm chị ạ.
Mình thấy nó đằng đẵng mà mình coi như là số mệnh thôi".
"Lúc bấy giờ, nếu tôi không có sự cưỡng lại thì tôi là một
người vứt đi, thành một cái giẻ rách. Tôi cho cái việc giẻ-rách-hóa-con-người
đó, chính quyền phải chịu trách nhiệm"179.
Ngày 10/12/1959, Trần Dần ghi trong nhật ký: "Sớm
mai toà xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại, cả hai: hiện hành.
Tôi không có giấy gọi cho dự (...) Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng
với nhóm Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở
đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến
chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát
dao nào nữa không? Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...) Ngoài trời mưa
bụi. Rét xoàng. Không có gió. Đôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn.
Đang ra toà cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này.
Chao ơi! Con đường để đi tới chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm
sao?"
● Biện pháp thanh trừng đối với trí thức
Các đấu trường khác
Un excommunié của Nguyễn Mạnh Tường thuật lại những nổi
trôi của một người trí thức có lòng với đất nước, trong buổi đổi đời. Tác phẩm
phản ảnh phong cách của một kẻ sĩ bất phục tòng, mô tả sự hèn mạt và tráo trở của
những phường mũ mão cân đai và chứng minh thế nào là lòng yêu nước đích thực.
Qua biện pháp kỷ luật mà nhà cầm quyền dành cho Nguyễn Mạnh Tường, chúng ta có
thể đoán được chính sách đối xử với những nhà trí thức khác như Trương Tửu, Trần
Đức Thảo, Đào Duy Anh...
Sau Nhân Văn, Nguyễn Mạnh Tường đã trải qua ba "đấu trường":
Mặt Trận Tổ Quốc, Đại Học và Đảng. Tại mỗi đấu trường, ông phải trả lời về "tội
trạng" của mình. Đấu trường đầu tiên là phòng họp của Mặt Trận Tổ Quốc
ở phố Tràng Thi, được ông mô tả như sau:
"Tôi đã có nhiều dịp tới đây dự các cuộc họp, hồi
tôi còn ở trong nhóm những người được sủng ái được ngồi bên cánh phải của
Người. Tôi biết rõ tất cả các vị "đồng liêu" sẽ quyết định số phận
của tôi hôm nay!
Lần này, tôi vào phòng họp như con bò mộng bị thả vào đấu trường.
Đúng là một đấu trường bởi vì tất cả bàn ghế đã được xếp dẫy dọc tường, chừa một
chỗ trống giữa phòng. Sau dẫy bàn, là đám đông nhiều hạng người. Những người ngồi
là thành viên Mặt Trận, đứng là những kẻ hiếu kỳ, phần đông là nhà báo, hoặc
các cơ quan hội đoàn. Đó là thứ quần chúng đấu trường, thèm cảm giác mạnh và
sôi sục ham muốn thấy quang cảnh lạ lùng khó tả sắp diễn ra!
Như con bò mộng thả trong đấu trường, tôi đưa mắt nhìn một lượt
cử tọa. Nếu những người đứng, trố mắt nhìn và lắng tai nghe, thì những vị
"đồng liêu" của tôi ngồi sau dãy bàn, có vẻ ngượng nghịu với nhiệm vụ
mà họ chưa quen lắm. Tuy những câu hỏi đã được các vị "có thẩm quyền"
soạn sẵn, nhưng trong cách diễn tả, giọng họ có chút bối rối. Tôi không khỏi
thương cho họ bị rơi vào hoàn cảnh trái khoáy này"180.
Biết rõ bản lĩnh của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cảm thấy
hoàn toàn thoải mái trong việc tự biện hộ, ông nắm chắc phần "thắng"
trước những đối thủ tầm thường, đuối lý, không đáp lại được những lời hùng biện
của người luật sư đầy kinh nghiệm.
Ngày hôm sau, đấu trường Đại học diễn ra trong
không khí công cộng, mọi hạng người đều có thể tham dự. Hàng ngàn sinh viên,
nhân viên trong đại học, nhà báo, những kẻ hiếu kỳ, bọn lang bang, đến kín chật
hành lang, giảng đường, muốn dự kiến buổi "xử tử một trí thức nổi tiếng
ở Hà Nội". Lần này quan toà không ngồi bàn, mà thay phiên nhau bước
lên giảng đàn. Nếu bên Mặt Trận Tổ Quốc còn có chút nể mặt ông, chưa
làm quá lộ liễu, thì ở đây, ông thấy rõ:
"Người ta muốn kéo tên tôi xuống bùn đen, họ muốn chỉ
rõ tội ác của tôi để biện minh trước cho sự trừng phạt mà họ sẽ dành cho tôi.
Và đồng thời, để răn đe tầng lớp trí thức, để cải tạo họ, bắt họ tuân thủ vô điều
kiện những mệnh lệnh và quyết định của đảng, theo đúng đường lối chính thống cộng
sản. Tất cả mọi vi phạm vào nguyên tắc thần thánh này sẽ bị trừng phạt nghiêm
ngặt, dù cho thủ phạm đã có công lớn như thế nào đối với tổ quốc và cách mạng.
Dưới chân giảng đàn mà tôi đã trải qua những giây phút đẹp nhất
cuộc đời, tôi được thấy những điều tồi tệ nhất. Tôi thấy, không những người ta
muốn trừng phạt tôi -xin lỗi- cải tạo tôi, mà còn hơn nữa: họ muốn dìm tôi xuống
địa vị một phạm nhân dưới chân cái bục mà thời vàng son tôi đã đứng, bắt tôi
nghe những lời thoá mạ mỉa mai cay độc của những kẻ không phải là đồng song với
tôi như ở Mặt Trận mà là những đứa nhãi ranh không biết lượm được ở đâu, một
vài kẻ hình như đã học tôi.181"
Những lời đấu tố thô bỉ người thày, không được Nguyễn Mạnh Tường
nhắc lại, ông chỉ ghi lại cuộc tranh luận của ông với một sinh viên học trò cũ
và một nhà giáo trung học nhờ chạy chọt, được lên dạy đại học, vì những vấn đề
họ đưa ra, có chỗ đáng bàn. Và ông vẫn vận dụng kiến thức của mình để thuyết giảng.
Ông thấy mình như đã chiếm được cảm tình của số đông cử tọa, qua ánh mắt của họ.
Đấu trường Đảng xẩy ra trong không gian kín, không có quần
chúng tham dự. Có lẽ người ta thấy bất lợi khi đưa ông ra trước công chúng:
không những ông không bị bôi nhọ mà dường như ông còn được quần chúng ủng hộ.
Trong đấu trường thứ ba này, Nguyễn Mạnh Tường phải trả lời ba vị quan tòa về Thái
độ của người trí thức trong thế giới cộng sản. Câu hỏi chính đặt ra trong buổi
thẩm vấn là: Sau chín năm theo cách mạng, đồng chí đã gặt hái được những thành
quả không nhỏ và được sự trọng đãi của Đảng và nhà nước, thay vì hưởng thụ những
đặc quyền mà Đảng đã dành cho, tại sao đồng chí lại đứng lên chống Đảng? Và đây
là lời vấn đáp cuối cùng giữa người hỏi cung và Nguyễn Mạnh Tường, trong buổi đối
chất trước toà án Đảng:
"Đồng chí không thể không biết những gì đang chờ đợi.
Nhà nước chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của trí thức. Đó là thái độ theo
đúng đường lối chính thống, tin vào Đảng, trung thành với Đảng, suy nghĩ, cảm
nhận, hành động, theo chiều hướng và cung cách mà các cấp lãnh đạo đã quy định.
Bất luận kẻ nào đi ra ngoài con đường này là bị rơi vào tà thuyết và sẽ bị trừng
trị như những kẻ phản động bán nước. Đây là cơ hội cuối cùng để đồng chí hối
cải về sự cả gan và bất cẩn của đồng chí. Hãy nắm lấy!"
Nguyễn Mạnh Tường trả lời:
"Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của
mình. Nếu xã hội, tức là nhân dân, đạt tới một trình độ văn hoá cao, có mức
nhận thức trong sáng, thì những cả gan của một tư tưởng khác với đường lối
chung sẽ không bị trừng phạt, mà ngược lại sẽ được khuyến khích, bởi sự tiến bộ
của dân tộc tùy thuộc vào những cả gan này. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng
không bao giờ số đông quần chúng có thể khai quang được một lối đi trong rừng rậm
của dốt nát, thành kiến, hèn hạ, để tiến lên một bước về phía ánh sáng mặt trời.
Trong thành Athènes, kinh đô của hiền triết, Socrate đã phải uống cạn cốc độc cần,
để lại bài học cho những trí thức trên thế giới suy nghiệm và noi theo: người
trí thức phải giữ vai trò tiên phong, hướng đạo trên con đường khó khăn và nhọc
nhằn, để dẫn dân tộc đến niềm vui và hạnh phúc.
Nước ta đã phải chứng kiến sự thâm nhập của một chủ nghĩa
ngoại bang hoàn toàn không bắt rễ từ quá khứ dân tộc. Bao nhiêu nhà ái quốc lớn
mà mọi người đều kính phục đã bảo vệ, đã bênh vực, đã bảo trợ cho chủ nghiã
này, họ đã đưa nó ra rồi bắt dân chúng phải thừa nhận, bằng cách hứa hẹn nó là
chìa khoá mở cửa vào thiên đàng trần thế. Quần chúng tin vào lời nói của lãnh đạo
và chờ đợi sự thực hiện những lời hứa. Chính nhờ vào sự đồng tình, vào những cố
gắng, những hy sinh của của toàn dân mà đất nước đã giành được độc lập và tự
do. Những cánh tay làm việc và những cái đầu suy nghĩ đã là rường cột cho đảng
cầm quyền.
Bất hạnh thay, con đường chúng ta đi không bọc nhung. Hợm
mình trước những chiến công hiển hách mà họ tưởng đã đạt được nhờ chủ
nghiã mác-xít, những người lãnh đạo đã xây dựng nền móng và áp dụng sâu rộng
hơn chủ nghiã này trong tất cả các ngành, không cần đếm xỉa đến khoa học
và thực tế, tuy vẫn hô hào kính trọng giáo dục. Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đưa đến
những sai lầm nghiêm trọng mà những người cầm quyền phải chịu trách nhiệm. Sự
đói khổ của nhân dân đã đến mức khốc liệt, vậy mà những kẻ trách nhiệm vẫn khoác
lác rêu rao những điều ngược lại.
Trước bi kịch này, thái độ của trí thức phải thế nào? Có kẻ bịt
mắt đút nút lỗ tai để đồng thanh phụ họa với bọn cơ hội và phỉnh nịnh, luôn miệng
kêu gào: "Cộng Sản thắng lợi. Đảng Cộng Sản muôn năm". Những kẻ này
hy vọng được ân sủng đến ba đời. Công chúng biết rõ và khinh họ. Nhưng những khối
óc biết nghĩ và và những trái tim yêu tổ quốc và dân tộc không thể nhẫn nhục chịu
đựng -trong im lặng và thụ động- những cay đắng của khát vọng không thành và những
giấc mơ bị chà đạp. Họ lên tiếng tố cáo những sai lầm và đề nghị những biện
pháp sửa đổi. Họ được cám ơn bằng những cú roi quất, bằng tù tội suốt đời, họ bị
kết tội phản đảng, phản cách mạng, là kẻ thù của nhân dân! Sự an ủi duy nhất của
họ là được quần chúng hiểu, ái ngại, nhưng không làm gì cho họ được. Họ phải đợi
sự phán đoán của Lịch sử".
Và ông viết tiếp:
"Không một lời tuyên án. Những người cộng sản ưa
bí mật. Lệnh được quyết định và thi hành trong yên lặng chết chóc. Công
chúng không biết gì cả: bí mật được giữ trọn để khỏi khơi lên những tình cảm vô
ích, những xao động đáng tiếc! Họ đã tiên đoán tất cả và hành động kịp thời!182"
Ba đấu trường. Không có án. Nguyễn Mạnh Tường đã phải xuyên
qua hơn ba mươi năm sa mạc từ 1958 đến 1990. Bị khai trừ khỏi đại học. Chiếc xe
đạp đi dạy bị lấy lại. Không được mở lớp dạy tư để kiếm tiền. Phải bán dần đồ đạc
trong nhà. Sống trong đói khát. Bệnh tật. Bạn bè xa lánh. Người quen đổi vỉa
hè.
Nhưng trong đêm khuya tăm tối vẫn có những đốm lửa lóe lên:
"Thỉnh thoảng, sáng thức dậy mở cửa tôi thấy ai đã nhét
vào kẽ cửa một phong bì đầy tiền. Chúng tôi cảm động rơi nước mắt, tuyệt vọng
vì không thể cám ơn ân nhân được bởi có biết họ là ai. Hay có những hôm tôi đi
dạo lúc trời nhá nhem. Luôn luôn vẫn có cớm theo dõi đằng xa. Bỗng một chiếc xe
đạp đạp rất nhanh, sát bên tôi, nhét vào tay tôi một phong bì hay một gói nhỏ rồi
biến mất. Tất cả chỉ trong nháy mắt.183"
Những đốm lửa hy vọng đó đã nuôi sống nhà trí thức trong suốt
cuộc đời còn lại.
Chú thích:
150 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
151 Trên Văn số 15, ra ngày 16/8/1957.
152 Theo Hoàng Cầm có Huy Cận, Lưu Trọng Lư. Theo Lê
Hoài Nguyên có Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường. Ở đây, chúng tôi dùng thông tin
của LHN.
153 Trích bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm"
bị vạch trần trước ánh sang của dư luận, in trong BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội,
1959, trg 309-310.
154 Bàng Sĩ Nguyên là người đã viết những dòng vô cùng nhơ bẩn
về Thụy An, được đăng lại trong BNVGPTTADL.
155 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn
bè.
156 Tức là Ánh sáng xã hội chủ nghiã.
157 Những chữ in đậm trong bài "Ý nghĩa một cuộc
đấu tranh trong văn nghệ" của Tố Hữu, được trích dẫn ở đây, là theo
đúng nguyên văn.
158 Tố Hữu, Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ",
Học Tập số 4, tháng 4/1958.
159 Nguyễn Đình Thi, Chống chủ nghiã xét lại trong
văn nghệ, Học Tập số 3, tháng 3/58.
160 Văn Nghệ Quân Đội, số 6, tháng 6/58.
161 Hồng Cương, Bọn phản bội Trần Dần-Hoàng Cầm-Tử Phác,
Quân Đội Nhân Dân số 437, ra ngày 11/4/1958.
162 In trong cuốn BNVGPTTADL mà chúng tôi đả trích dẫn ở
trên.
163 BNVGPTTADL, trang 310.
164 Báo chuyên nghị luận, số 1 ra ngày 10/12/ 56, do
Minh Đức xuất bản, vừa phát hành đã bị tịch thu.
165 Sách Tết cùng hình thức với Giai Phẩm do
Minh Đức in đầu năm 1957.
166 Lê Hoài Nguyên, bđd, website nguyentrongtao.com
06/08/2010.
167 Lê Nguyên Chí là người đưa đường cho nhóm Nguyễn Hữu Đang
trốn vào Nam, nhưng Hoàng Cầm cho là người của công an trá hình. Con trai ông
có viết bài thanh minh cho cha.
168 In trên mạng Talawas ngày 3/2/2010.
169 Trần Đức Hinh, Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa
xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh, Điện Ảnh số 14,
ngày 1/5/58, tài liệu Lại Nguyên Ân.
170 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
171 Trích bản tin báo Nhân Dân, Hà Nội, 21/01/1960, tài
liệu Lại Nguyên Ân.
172 Trích bản tin của báo Nhân Dân, bđd.
173 Tố Hữu Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm Nhân
Văn- Giai Phẩm, in trong BNVGPTTADL, trang 34-35.
174 Nxb Quê Mẹ, Paris, 992.
175 Lê Hoài Nguyên tên thật Thái Kế Toại, nguyên Đại Tá
công an, công tác văn hoá tại A25, chuyên theo dõi văn nghệ sĩ, bài đăng trên mạng
nguyentrongtao từ 6/8/2010.
176 Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam
177 Nhật ký Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn,
trang 239-240.
178 Trần Dần ghi trang 240-241.
179 Tất cả những trích đoạn trên đây đều rút ra từ Lê Đạt
trả lời phỏng vấn RFI.
180 Trích dịch Un Excommunié, trang 151-152. 181
Trích dịch Un Excommunié trang 173-174.
182 Un Excommunié, trang 226- 229.
183 Un Excommunié, trang 335.
Chương 8
thụy an (1916-1987)
ảnh tư liệu
Chương 9
nguyễn hữu đang (1913-2007)
Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn
thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của
phong trào NVGP, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền
tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 năm 2007, khi ông
mất.
Là một trong những người hoạt động cách mạng trong phong trào
Cộng sản từ khởi thủy, Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện
Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm
tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính ông viết215,
thì từ 16 tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia Học Sinh Hội216 làm tổ trưởng
và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm 1929.
Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn
thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của
phong trào NVGP, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền
tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 năm 2007, khi ông
mất.
Là một trong những người hoạt động cách mạng trong phong trào
Cộng sản từ khởi thủy, Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện
Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm
tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính ông viết215,
thì từ 16 tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia Học Sinh Hội216 làm tổ trưởng
và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm 1929.
Cuối 1930, bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà
lao Thái Bình. Hè 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên217 cho
nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang học trường
sư phạm Hà Nội.
1937-1939: tham gia Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương. Biên tập các
báo của Mặt Trận như Thời Báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày Mới
(cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng Sản như Tin Tức
(cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời Nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh và
Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, ở
các vị trí: uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng
ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.
1943: Gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật
thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được
chính thức kết nạp vào đảng.
1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc,
tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị
giam một tháng tại Nam Định. Được thả, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Giải
Phóng Dân Tộc. Tham gia Chính Phủ Lâm Thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng Bộ Tuyên
Truyền. Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.
Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: thứ trưởng
Bộ Thanh Niên, chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn
Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.
12/1946-3/1948: Làm trưởng ban Tuyên Truyền Xung Phong Trung
Ương.
Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông
Dương.
Tháng 4/1948 - 4/1949, phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ
quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.
Tháng 7/49 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ.
Tháng 11/54 - 4/58: Tổ chức biên tập báo Văn Nghệ.
Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo
Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.
Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu
Đang, đã dẫn ở trên. Về NVGP, ông chua thêm: "Những hoạt động này là
tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".
Hoạt động NVGP từ tháng 9/1956, với Nhân Văn số 1, ra ngày
20/9/56, và chấm dứt với Nhân Văn số 6, chưa ra, đã bị đình bản, tháng 12/56.
Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào Nam.
Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu
Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.
Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, tội "phá
hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi Hà Giang.
1973, được thả cùng với Thụy An, diện "Ðại xá
chính trị phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái
Bình.
1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu.
Từ 1993, được về sống ở Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc
mất.
● Quyền tự do phát biểu bị tước đoạt
Sau 15 năm tù và 16 năm quản thúc ở Thái Bình (1973- 1989),
Nguyễn Hữu Đang được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và vẫn bị chăm sóc kỹ
càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm
soát, riêng ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả
lời phỏng vấn công khai như những người khác. Sở dĩ có buổi trả lời RFI tháng
9/1995 là nhờ sự tổ chức của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày lễ Độc Lập
2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt hẹn với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ
chức ngày lễ, qua điện thoại nhà Lê Đạt, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về
NVGP. Buổi thu thanh này, phát trên RFI, tháng 9/1995218. Đó là lần phỏng vấn đầu
tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với Nguyễn Hữu Đang, mặc dù
ông đã có điện thoại riêng, nhưng chỉ nói vài câu, là bị cắt ngay. Vậy sự
"phục hồi" chỉ là hình thức, vì trên thực tế, Nguyễn Hữu Đang chưa
bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng
hành. Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu 1997, được ông đến thăm 2 lần,
nhưng lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của Bộ Nội Vụ -nay là Bộ Công An- chở.
Ông Vũ Toàn nay cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có người của Bộ Nội Vụ ngồi
nghe, nên không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến
khi gặp cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt
động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn
nguyên trong bóng tối.
Ông dặn:"Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với
nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Nói
như để trấn an người của chính quyền, nhưng không có kết quả: Khi trở lại
Paris, chúng tôi đã cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương
trình", nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc
dù đề tài nói chuyện, như đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá,
ông đã quát lên: "Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa
văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng..." Ông
chưa dứt lời, tiếng điện thoại đã lại u u... Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu
Đang, đã gây chấn động trong tôi nhiều năm tháng. Từ đó đến khi ông mất, tôi
không bao giờ gọi cho ông nữa, phần vì, không muốn ông bị phiền thêm trong cuộc
đời đã quá nhiều thử thách, đớn đau; phần vì, sau này ông nghe không rõ, những
người đến thăm thường phải bút đàm.
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt
đãi" hơn cả, "biệt đãi" đến phút cuối. Đám tang
Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối
trọng thể, dù chỉ để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn
khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn: Tang
lễ cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho
vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh
cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai
lầm".
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên
đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn
bạn qua điện thoại. Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi
bị ngã, chỉ nằm liệt không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người
Nguyễn Hữu Đang.
Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một
tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả
ngày hôm sau và một thời gian sau nữa, cũng không thể liên lạc lại được với
Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris đã bị chặn.
Như vậy, tiếng nói của những thành viên NVGP, cho đến ngày
Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007, và sau nữa vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ.
● Nguyễn Hữu Đang là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng
với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình ở trên. Bởi những
điều được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những
gì diễn ra trên thực tế. Ví dụ:
- Hoạt động cách mạng từ 16 tuổi, tức là từ 1929 Nguyễn Hữu
Đang đã là đối tượng được kết nạp đảng nhưng mãi đến 1947, mới được chính thức
kết nạp.
- Đang ở địa vị hàng đầu, ngang ngửa với Trường Chinh, ông bỏ
tất cả để về Thanh Hoá.
- Trong hơn 6 năm: từ 4/1948 đến 10/1954, về mặt chính thức,
ông phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt
(từ 4/1948 - 4/1949) và làm trưởng ban Thanh Tra Bình Dân Học Vụ (từ 7/1949 -
10/1954). Hai chức này đều "hữu danh vô thực".
Theo Hoàng Văn Chí: "Cộng sản thành lập nhiều
đoàn thể chính trị "hữu danh vô thực" như đảng Dân chủ, dành cho
địa chủ và phú thương; Đảng Xã hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt,
dành cho nhân sĩ và bô lão. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong
để cộng sản nấp sau giật dây"219. Còn theo Hoàng Trung Thông, thì "Cơ
quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm "quân
sư" cho nhà xuất bản Minh Đức"220.
● Hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm
cho hội Truyền Bá Quốc Ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên. Về cách làm
việc của ông trong hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Nguyễn Huy Tưởng viết:
"Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền
Bá Quốc Ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài Chính (Hà Nội)
xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được.
Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông
tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng
anh ấy"221.
Không biết Nguyễn Hữu Đang đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong đời
cách mạng và trong thời NVGP. Chỉ riêng bài "Người thuyền trưởng" viết
năm 1988 về Nguyễn Văn Tố, ông cũng phải ký hai tên giả: phần đầu Phạm Đình
Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới nhập một, ký tên thật Nguyễn
Hữu Đang222. Nhờ Người thuyền trưởng, ta có thể xác định lại nguồn cội
của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được miền Bắc đưa ra. ông viết:
"Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo
hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường
thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới
dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch
Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều
nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc"223.
Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số sự kiện từ trước đến nay
vẫn bị chính quyền che đậy, hoặc nói sai đi:
- Hội Truyền Bá Quốc Ngữ được Pháp bảo trợ từ đầu - năm 1938.
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập
Hội. Ngày khai mạc, ông đang dạy học ở nông thôn, khi về Hà Nội nghỉ hè, tình cờ
gặp Đào Duy Kỳ224, Kỳ khuyên Đang nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, nhận việc
dạy học giúp Hội.
- Có một số thành viên cộng sản tham dự Hội, nhưng Đảng không
lập ra Hội này, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch
Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch truyền bá quốc ngữ".
- Truyền bá quốc ngữ do Hội Trí Tri, một tổ chức trí thức thời
Pháp thuộc chủ trương, Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số thành viên xây dựng
Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả
hai...
- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết
của Nguyễn Hữu Đang, không thấy ông nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân
Hãn trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng
Xuân Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ,
ngay khi chưa có hội. Từ năm 1936, khi ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp học
chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o
tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...
- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu
Đang cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản,
đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau 1945, chính phủ lâm thời mới quyết định
thành lập Nha Bình Dân Học Vụ thay thế Hội Truyền Bá Quốc Ngữ; vai trò thuyền
trưởng Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
● Xác định lập trường văn hoá
Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I
Hội Văn Hoá Cứu Quốc thành lập tháng 4/1943 tại Hà Nội, là một
thành viên của Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo.
Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiên Phong, xuất hiện công khai từ 10/11/1945
đến 1/12/1946, ra được 24 số225.
Nguyễn Hữu Đang cho biết, ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội
Văn Hoá Cứu Quốc. Trên ba số đầu Tiên Phong, Nguyễn Hữu Đang viết 5 bài xác định
lập trường của Tiên Phong và Hội VHCQ: Định nghiã hai chữ văn hoá (viết
chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới ách đế quốc226, Hội
nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam227, Nhận rõ thêm về ý nghiã hai
chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá toàn quốc sẽ tổ chức
như thế nào228.
Đó là những bài tiểu luận ngắn xác định lập trường văn hoá của
Nguyễn Hữu Đang, hoàn toàn khác biệt với lập trường của Trường Chinh trong bản Đề
Cương Văn Hoá Việt Nam229, và ông chuẩn bị cho việc tổ chức Hội Nghị Văn
Hoá Toàn Quốc I, sẽ họp năm 1946 ở Hà Nội.
Theo quảng cáo đăng trên Tiên Phong số 20 (1/10/46) thì Đại Hội
Nghị Văn Hoá Cứu Quốc Toàn Quốc sẽ họp từ 11-12-13/10/1946 và có thể kéo dài 1
đến 2 tuần. Nhưng cuối cùng bị đẩy lui, rút gọn và lấy tên là Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc lần thứ nhất, chỉ họp đúng một ngày 24/11/1946.
Có hai vần đề đáng chú ý:
• Thứ nhất: Trường Chinh trong Đề cương, in trên
Tiên Phong số 1, xác định lập trường văn hoá của Đảng Cộng sản trên ba điểm
chính:
- Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. - Nền văn
hóa được Đảng chọn là văn hoá XHCN.
- Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á: triết
học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ
(Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng
trưng v.v...
• Thứ nhì: trên Tiên phong số 2, Trường Chinh chĩa thẳng mũi
dùi vào nhóm Tri Tân "phong kiến" và nhóm Thanh Nghị "tư
sản", vạch ra những tội của họ đối với cách mạng230.
Nguyễn Hữu Đang, trong ba số báo đầu, cũng không thua, ông
xác định đường lối hoạt động và lập trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc một
cách thuần tuý văn hoá, không hề đả động đến Đảng, đến xã hội chủ nghiã, và ông
coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi
với công cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ. Ông chủ trương một nền văn
hoá mở rộng, tương giao với các trào lưu khác đương thời và những trí thức
không cộng sản. Trong bài ký tên Phóng Viên, tường thuật lại Đại Hội Văn Hoá
Toàn Quốc I, chắc do ông viết, có một số thông tin như sau:
"Hai ban kịch Đông Phương và Hoa Lan cổ động ráo riết
hai vở kịch lớn Kiều Loan và Lôi Vũ sẽ diễn trong dịp hội nghị", "Hội
nghị khai mạc lúc 9 giờ sáng tại Nhà Hát Lớn. Có mặt gần hai trăm đại biểu Bắc,
Trung, Nam (...) có mặt đông đủ đại biểu các ngành văn hoá khác, khoa học, triết
học... như các ông: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường,
Nguyễn Văn Huyên... Thật là xứng đáng một cuộc Hội Nghị Toàn Quốc, nhất là khi
Hồ chủ tịch bước lên đọc diễn văn khai mạc. Bằng một giọng thân ái cụ chúc hội
nghị thành công (...) Tiếp lời cụ có bài diễn văn của ông Đào Duy Anh trong ban
vận động. Và sau đó thì hội nghị được tin bất ngờ: hội nghị chỉ họp trong một
ngày hôm nay thôi. Cái chương trình rộng lớn trong bảy ngày đành phải gác lại.
Chỉ còn một buổi chiều nữa thì bế mạc, thì giờ chỉ đủ cho các đại biểu đi đặt
vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong"231.
Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc của Nguyễn Hữu Đang bị tuyên bố
"rút gọn" giống như vở kịch Kiều Loan của Hoàng Cầm, vừa diễn xong buổi
ra mắt 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, thì bị Trần Duy Hưng lên diễn đàn ra
lệnh đình chỉ. Dĩ nhiên lấy lý do chiến tranh.
Nhưng ngoài ra còn có những lý do khác, mà sau này Hoàng
Trung Thông, dưới bút hiệu Hồng Vân, bộc lộ trong bài Tên quân sư quạt mo:
Nguyễn hữu Đang:
"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn
Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít".
"Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu Quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại
hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa
toàn quốc". "Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì
với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này
người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao"232.
Điều này giải thích tại sao Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, lại
có mặt tất cả những nhà văn hoá lớn mà Đảng không mấy thiết tha như: Hồ Hữu
Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... và
tại sao đại hội bị đình chỉ, sau một ngày họp.
Qua lời buộc tội của Hoàng Trung Thông, chúng ta còn hiểu rõ
nguyên nhân tại sao ngay từ 1929, Nguyễn Hữu Đang đã được coi là "đối tượng
kết nạp" mà mãi đến năm 1947, mới được kết nạp vào đảng, rồi ông lại bỏ đảng
khoảng một năm sau khi được kết nạp:
"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc
vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới
được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra
chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm
"quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang
đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng
năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền,
Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng"233.
Gần hai năm sau, Trường Chinh tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn
Quốc II, ngày 15/7/1948 tại Việt Bắc, đọc bản Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt
Nam, xác định văn nghệ kháng chiến là văn nghệ công nông binh, văn nghệ
tuyên truyền. Bỏ Hội Văn Hóa Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang bỏ về
Thanh Hoá. Trong 6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với
chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh
Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án
hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v... Đến năm 1951, Đảng
chính thức khai trừ Nguyễn Hữu Đang.
Nguyễn Hữu Đang nổi danh vì tài tổ chức, ông đã thành công
trong ba chương trình lớn: Tổ chức ngày lễ 2/9/1945, tổ chức Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc và tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Sự thành công của Việt Minh dựa
trên sự thành công của ba tổ chức này:
- Được Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày
2/9/1945, để vị chủ tịch đọc diễn văn mắt quốc dân, Nguyễn Hữu Đang kể lại:"Ông
cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ
có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi
măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá
như vậy."234 Và chỉ có 4 ngày. Để tổ chức ngày lễ, ông vận động hội
Truyền Bá Quốc Ngữ, hội Văn Hóa Cứu Quốc và hội Hướng Đạo Sinh, cả ba dưới quyền
điều khiển của ông. Ông đặt tên cho ngày lễ là Ngày Độc Lập, và ông lấy lại
tên Ba Đình mà chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt cho rond point Phủ
Toàn Quyền, là vườn hoa Ba Đình. Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ
hơn nửa triệu người ở các thành phần khác nhau của dân tộc đến Ba Đình dự Ngày
Độc Lập 2/9/1945. Đó là thành công lớn đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang.
Theo Hoàng Cầm, trong thời kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang thực
hiện hai công trình lớn nữa:
- Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc năm 1946 ở Hà Nội đoàn kết
tất cả các thành phần văn nghệ sĩ và trí thức đứng lên chống Pháp. Lúc bấy giờ
hầu hết các văn nghệ sĩ trí thức đều đi theo kháng chiến, rất ít người ở lại
trong thành và đó cũng là một thành công của Nguyễn Hữu Đang.
- Lên Việt Bắc, ông Hồ giao cho Nguyễn Hữu Đang nhiệm vụ:
thành lập Uỷ Ban Vận Động Thanh Niên Xung Phong Toàn Quốc. Ông đi khắp các tỉnh,
các địa phương, để thành lập một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong, kêu gọi
thanh niên xung phong đi bộ đội hoặc vào các đội dân công, hoặc cổ động bà con
đi dân công, làm nhiệm vụ chiến trường, gánh đất, gánh gạo, chăm sóc thương
binh... Nguyễn Hữu Đang cũng thành công trong nhiệm vụ đó.
Đối với Trường Chinh, từ hồi còn làm báo Tin Tức, tuy ông Trường
Chinh đứng tên nhưng ông Đang làm tất cả. Nhưng sau này, hình như ông Trường
Chinh không còn tín nhiệm ông Đang nữa, tất cả các việc ông Đang làm đều do ông
Hồ nghĩ ra và trao cho, như việc tổ chức buổi lễ đọc tuyên ngôn Ba Đình, và
trong chính phủ lâm thời thì ông
Đang làm bộ trưởng Không Bộ - Ministre sans portefeuille235 tức
là rất quan trọng, như con dao pha, chạy chỗ nào cũng được, phải là người tài
giỏi và nhiều năng lực lắm.236
Nhiều tín hiệu đồng quy ở điểm: sau bản tuyên ngôn Chủ
nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, 1948, có sự rạn nứt chung, giữa đảng Cộng Sản
và thành phần trí thức độc lập. Nguyễn Hữu Đang là một trí thức độc lập đã theo
Đảng từ những ngày đầu, lúc 16 tuổi, năm 1929, và đến năm 1948, Nguyễn Hữu Đang
không còn theo cách mạng nữa.
● Hoạt động trở lại: báo Văn Nghệ
1954, Trường Chinh phái Tố Hữu triệu tập Nguyễn Hữu Đang trở
lại và cử Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân của Nguyễn Hữu Đang đi mời ông về. Họ đề
nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, nhưng ông từ chối, ngỏ ý muốn
làm biên tập viên báo Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang phụ trách báo Văn Nghệ từ tháng
11/1954 đến tháng 4/58, mới chính thức ngừng hẳn.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho rằng:
"Năm 1954, Tố Hữu mời Nguyễn Hữu Đang lên Việt Bắc, đề
nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Hà Nội, hy vọng ngày tiếp quản sẽ có một người uy
tín đại diện cho văn hoá tại Hà Nội. Tôi đoán ông Đang từ chối vì cho chức đó
không xứng với ông. Nếu mời làm bộ trưởng Văn Hoá thì ông nhận, bởi ông nhiều
tham vọng lắm, có đầu óc lãnh tụ lắm. Tờ Văn Nghệ, lúc bấy giờ Xuân Diệu làm tổng
biên tập237. Khi ông Đang mới về, báo in mỗi số khoảng một hai vạn, mà chỉ 10
tháng sau, đến tháng 10/1955, báo in đến bẩy vạn, thì đủ biết tài làm báo của
ông Đang"238.
Về việc Nguyễn Hữu Đang không nhận chức giám đốc Sở Văn Hoá
Thông Tin Hà Nội, lập luận của Hoàng Cầm chưa chắc đúng hẳn. Có lẽ Nguyễn Hữu
Đang từ chối chức này, vì ông biết là do Trường Chinh, đối thủ của ông -theo lệnh
của ông Hồ, miễn cưỡng đề nghị- thì chỉ có thể là "ngồi chơi xơi nước",
như chức thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ ngày trước, và dù có làm đến bộ trưởng
-ông đã từng làm thứ trưởng- thì cũng vậy thôi: bên trên là cả một cơ chế chỉ đạo
từ Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư đến Chủ Tịch.
Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ, vì một chủ đích khác và
có thể ông đã bàn trước với Lê Đạt: là để "lãnh đạo" hoặc "lũng
đoạn" cơ quan văn nghệ lớn nhất của Đảng cùng với Lê Đạt. Bởi vì, trả
lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nói:
"Tôi quen với anh Đang lâu rồi, từ trước";
"Anh Đang chỉ thân với với tôi thôi, anh không thân thiết gì với anh
em Giai Phẩm Mùa Xuân". Và theo Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt
lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, tức là người của Tuyên Huấn gửi sang
như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"239.
Được Tuyên Huấn gửi sang, nhưng Lê Đạt quá trẻ, lại chưa có sự
nghiệp sáng tác, nên khó điều khiển những người như Xuân Diệu. Lê Đạt kể:
"Thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở
trong báo Văn Nghệ. Anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào
nằm bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy
nói với anh Tưởng là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của
mình cũng bị nó gạt luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi:
Thế thì để ai làm? Anh Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh
Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng
luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm
đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi. Anh Đang là người rất nghệ sĩ, trông có vẻ hắc
thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu.
Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ,
một cách rất say mê. Về văn nghệ ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội
họa, anh rất tinh. Chỉ có là anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn
nghệ."240
Vậy có thể tạm thời kết luận: Việc Nguyễn Hữu Đang xin vào
báo Văn Nghệ dường như có chủ đích và đã hẹn với Lê Đạt từ trước: Một người được
Tuyên Huấn gửi sang, một người được ông Hồ tin cẩn. Cả hai sẽ nắm tờ báo văn
nghệ chính thức của đảng Cộng Sản từ 1954 đến 1958, đưa vào những bài họ viết
hoặc họ kiểm soát, thậm chí bỏ cả bài của Xuân Diệu và thực hiện những việc mà
họ muốn như phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phê
bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ
tháng 11/1954. Đến tháng 4/1955, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu khó chịu, ông ghi
trong nhật ký:
"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý.
Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là
chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến
sĩ làm cách mạng bất mãn"241. "Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế.
Hữu khuynh"242. "Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập.
Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: in Gốc
đa, Gặp Bác, v.v..."243.
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người
lãnh đạo văn nghệ, kể cả những bạn thân như Nguyễn Huy Tưởng. Mặt khác, trong
thời gian này, nhiều biến cố quan trọng xẩy ra:
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức "Dự thảođề
nghị cho một chính sách văn hoá", đòi tự do sáng tác.
Tháng 6/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt.
Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu. Ngày
24/2/1956, Khrouchtchev vạch tội ác của Staline tại đại hội XX đảng Cộng sản
Liên Xô.
Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa
đua nở trăm nhà đua tiếng".
Tháng 8- 9/56 tại hội nghị X, Đảng Lao Động phát động Sửa Sai
Cải Cách Ruộng Đất.
Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập
dân chủ 18 ngày.
● Lớp học tập dân chủ 18 ngày (8/8/56-26/8/56)
Hẳn phải do lệnh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Đang mới được điều
động đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Trong ngày cuối, ông đã đọc
bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng Cộng
Sản và của lãnh đạo văn nghệ.
Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự
việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết".
Hoàng Cầm cho rằng tinh thần đòi hỏi dân chủ, những thắc
mắc có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em
phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh
Nguyễn Hữu Ðang (...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một
bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang
có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những
người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng
ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để
cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân
Văn"244.
Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày: "Nguyễn
Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về Văn Nghệ để làm rầy rà mình. Chính
người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang"245.
Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, làm rõ tấm
lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ
trích nặng nề, nhưng sau này, Nguyễn Huy Tưởng là người duy nhất trong ban lãnh
đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực NVGP, như Lê Đạt thuật lại và chính Nguyễn Huy
Tưởng cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn,
nhưng vô hiệu.
Về lớp học 18 ngày, trên Nhân Văn số 1 ra ngày 20/9/56, Người
Quan Sát tường thuật như sau:
"Trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo
luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu
với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội
20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co
như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau
lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt
tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở
nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng
bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh
mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những
ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ
trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo.
Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có
hệ thống"246.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích
đường lối văn nghệ của Đảng được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua
lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo
văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ
sửa chữa".
Dựa vào những biến động ở Liên Xô và Trung Quốc, vào sự đồng
thuận của đông đảo trí thức văn nghệ sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau chính
sách Cải Cách Ruộng Đất, Nguyễn Hữu Đang, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn
phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính trị miền
Bắc Việt Nam.
● Nhân Văn Giai Phẩm
Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của
Trường Chinh và đảng Cộng Sản yếu đi sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu.
Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những
lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu
Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng
tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.
Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn
đã hoạt động trong kháng chiến: Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm
đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân. Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong NVGP được
xác nhận từ nhiều phía:
Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng
Cầm, Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Cả Trần Dần,
dù không thích ông, cũng ghi trong bài "thú nhận": "Nếu
không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với
những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Nguyễn Hữu Đang được coi là "đầu sỏ", Mạnh Phú Tư
buộc tội:
"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số
báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người
ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng
chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát
và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những
kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền
in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng,
với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên
lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có
tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước.
Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn
người cơ hội, có âm mưu chính trị..."247.
Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên
báo Nhân Văn:
Nguyễn Hữu Đang thực hiện những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường,
Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ. Trong Nhân Văn số
1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký
tên XYZ. Rất ít người biết XYZ (tên gọi thành phần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng
Đất) là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh, trừ Nguyễn Hữu Đang. Trong
bài này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ, ý giễu
cợt vị chủ tịch. Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo
chính trị - Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn
số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết- theo lời
Trần Duy. Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời
từng điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc
bén, không nhân nhượng. Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số
4, là bài xã luận đầu tiên ông ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường
chính trị của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một
nhà nước pháp trị. Bài "Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp
Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân Văn số 5, ký tên
thật, mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và
trên thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân
chủ, một nhà nước pháp quyền.
Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố trên RFI:
"Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt
chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ
và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản
đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông.
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông đưa đến nhiều hiện
tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay
gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách
ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả
những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không
phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời
mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là
Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú, địa,
hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được
độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác,
chúng tôi theo đảng Cộng Sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa
Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp
lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả"248.
Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu
tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo
đảng từ 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản.
Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do
trong hành động cũng như tư tưởng của mình.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức văn nghệ sĩ trí thức
toàn quốc đi theo kháng chiến, ông đã làm.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức thanh niên xung phong
chống Pháp, ông đã làm.
Làm trong tư thế của một người yêu nước, tự do.
Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo NVGP,
đã tạo được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ,
dám nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam
thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu
Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả còn kéo dài đến ngày
nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa tự
nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu
tiên là quyền tự do tư tưởng.
215 Tài liệu diendan.org.
216 Tổ chức thuộc Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội,
rồi Đông Dương Cộng Sản Đảng.
217 Trên giấy tờ, rút tuổi, khai sinh năm 1916.
218 Có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr
219 Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, trang 102.
220 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo:
Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.
221 Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 16/6/1942.
222 Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm
50 năm Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1938-1988), đăng trong kỷ yếu của Hội, do Bộ
Giáo Dục in, đăng lại trên Diễn Đàn, số 78, Paris, tháng 10/1998 và
diendan.org.
223 Trích Người thuyền trưởng.
224 Em trai Đào Duy Anh.
225 Sưu tập của Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận, nxb Hội Nhà
Văn, 1996.
226 Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45.
227 Tiên Phong số 2, 1/12/45.
228 Tiên Phong số 3, 16/12/45.
229 Được coi là văn bản lịch sử của đảng Cộng Sản từ 1943, in
lại trên Tiên Phong số 1.
230 TR.CH. [Trường Chinh], Mấy nguyên tắc lớn của
cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này, Tiên Phong số 2 ra ngày 1/12/1945.
231 Phóng viên, Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất
24/11/1946, Tiên phong số 24, ra ngày 1/12/1946.
232 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn
Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.
233 Hồng Vân Hoàng Trung Thông, bđd.
234 Trả lời phỏng vấn RFI
235 Trong bản tiểu sử, Nguyễn Hữu Đang ghi: Thứ trưởng
Tuyên Truyền và thứ trưởng Thanh Niên.
236 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
237 Theo Lê Đạt, Xuân Diệu làm thư ký toà soan. Thời ấy
chức thư ký toàn soạn là làm tất cả, tương đương với tổng biên tập sau này.
238 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
239 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.
240 Lê Đạt nói chuyện với RFI, sau khi Nguyễn Hữu Đang mất.
241 Nhật ký NHT ngày 21/4/55, Nxb Thanh Niên, 2006.
242 Nhật ký NHT ngày 24/4/1955.
243 Nhật ký NHT ngày 23/6/1955.
244 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
245 Nhật ký NHT ngày 21/8/56.
246 Trích bài Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một
đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ, Nhân Văn số 1, ra ngày
20/9/56.
247 Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ra ngày 24/4/1958,
BNVGPTTADL in lại, trang 49-50.
248 Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995.
Cuối 1930, bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà
lao Thái Bình. Hè 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên217 cho
nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang học trường
sư phạm Hà Nội.
1937-1939: tham gia Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương. Biên tập các
báo của Mặt Trận như Thời Báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày Mới
(cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng Sản như Tin Tức
(cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời Nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh và
Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, ở
các vị trí: uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng
ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.
1943: Gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật
thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được
chính thức kết nạp vào đảng.
1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc,
tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị
giam một tháng tại Nam Định. Được thả, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Giải
Phóng Dân Tộc. Tham gia Chính Phủ Lâm Thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng Bộ Tuyên
Truyền. Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.
Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: thứ trưởng
Bộ Thanh Niên, chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn
Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.
12/1946-3/1948: Làm trưởng ban Tuyên Truyền Xung Phong Trung
Ương.
Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông
Dương.
Tháng 4/1948 - 4/1949, phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ
quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.
Tháng 7/49 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ.
Tháng 11/54 - 4/58: Tổ chức biên tập báo Văn Nghệ.
Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo
Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.
Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu
Đang, đã dẫn ở trên. Về NVGP, ông chua thêm: "Những hoạt động này là
tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".
Hoạt động NVGP từ tháng 9/1956, với Nhân Văn số 1, ra ngày
20/9/56, và chấm dứt với Nhân Văn số 6, chưa ra, đã bị đình bản, tháng 12/56.
Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào Nam.
Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu
Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.
Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, tội "phá
hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi Hà Giang.
1973, được thả cùng với Thụy An, diện "Ðại xá
chính trị phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái
Bình.
1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu.
Từ 1993, được về sống ở Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc
mất.
● Quyền tự do phát biểu bị tước đoạt
Sau 15 năm tù và 16 năm quản thúc ở Thái Bình (1973- 1989),
Nguyễn Hữu Đang được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và vẫn bị chăm sóc kỹ
càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm
soát, riêng ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả
lời phỏng vấn công khai như những người khác. Sở dĩ có buổi trả lời RFI tháng
9/1995 là nhờ sự tổ chức của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày lễ Độc Lập
2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt hẹn với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ
chức ngày lễ, qua điện thoại nhà Lê Đạt, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về
NVGP. Buổi thu thanh này, phát trên RFI, tháng 9/1995218. Đó là lần phỏng vấn đầu
tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với Nguyễn Hữu Đang, mặc dù
ông đã có điện thoại riêng, nhưng chỉ nói vài câu, là bị cắt ngay. Vậy sự
"phục hồi" chỉ là hình thức, vì trên thực tế, Nguyễn Hữu Đang chưa
bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng
hành. Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu 1997, được ông đến thăm 2 lần,
nhưng lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của Bộ Nội Vụ -nay là Bộ Công An- chở.
Ông Vũ Toàn nay cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có người của Bộ Nội Vụ ngồi
nghe, nên không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến
khi gặp cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt
động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn
nguyên trong bóng tối.
Ông dặn:"Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với
nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Nói
như để trấn an người của chính quyền, nhưng không có kết quả: Khi trở lại
Paris, chúng tôi đã cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương
trình", nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc
dù đề tài nói chuyện, như đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá,
ông đã quát lên: "Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa
văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng..." Ông
chưa dứt lời, tiếng điện thoại đã lại u u... Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu
Đang, đã gây chấn động trong tôi nhiều năm tháng. Từ đó đến khi ông mất, tôi
không bao giờ gọi cho ông nữa, phần vì, không muốn ông bị phiền thêm trong cuộc
đời đã quá nhiều thử thách, đớn đau; phần vì, sau này ông nghe không rõ, những
người đến thăm thường phải bút đàm.
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt
đãi" hơn cả, "biệt đãi" đến phút cuối. Đám tang
Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối
trọng thể, dù chỉ để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn
khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn: Tang
lễ cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho
vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh
cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai
lầm".
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên
đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn
bạn qua điện thoại. Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi
bị ngã, chỉ nằm liệt không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người
Nguyễn Hữu Đang.
Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một
tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả
ngày hôm sau và một thời gian sau nữa, cũng không thể liên lạc lại được với
Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris đã bị chặn.
Như vậy, tiếng nói của những thành viên NVGP, cho đến ngày
Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007, và sau nữa vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ.
● Nguyễn Hữu Đang là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng
với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình ở trên. Bởi những
điều được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những
gì diễn ra trên thực tế. Ví dụ:
- Hoạt động cách mạng từ 16 tuổi, tức là từ 1929 Nguyễn Hữu
Đang đã là đối tượng được kết nạp đảng nhưng mãi đến 1947, mới được chính thức
kết nạp.
- Đang ở địa vị hàng đầu, ngang ngửa với Trường Chinh, ông bỏ
tất cả để về Thanh Hoá.
- Trong hơn 6 năm: từ 4/1948 đến 10/1954, về mặt chính thức,
ông phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt
(từ 4/1948 - 4/1949) và làm trưởng ban Thanh Tra Bình Dân Học Vụ (từ 7/1949 -
10/1954). Hai chức này đều "hữu danh vô thực".
Theo Hoàng Văn Chí: "Cộng sản thành lập nhiều
đoàn thể chính trị "hữu danh vô thực" như đảng Dân chủ, dành cho
địa chủ và phú thương; Đảng Xã hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt,
dành cho nhân sĩ và bô lão. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong
để cộng sản nấp sau giật dây"219. Còn theo Hoàng Trung Thông, thì "Cơ
quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm "quân
sư" cho nhà xuất bản Minh Đức"220.
● Hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm
cho hội Truyền Bá Quốc Ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên. Về cách làm
việc của ông trong hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Nguyễn Huy Tưởng viết:
"Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền
Bá Quốc Ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài Chính (Hà Nội)
xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được.
Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông
tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng
anh ấy"221.
Không biết Nguyễn Hữu Đang đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong đời
cách mạng và trong thời NVGP. Chỉ riêng bài "Người thuyền trưởng" viết
năm 1988 về Nguyễn Văn Tố, ông cũng phải ký hai tên giả: phần đầu Phạm Đình
Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới nhập một, ký tên thật Nguyễn
Hữu Đang222. Nhờ Người thuyền trưởng, ta có thể xác định lại nguồn cội
của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được miền Bắc đưa ra. ông viết:
"Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo
hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường
thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới
dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch
Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều
nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc"223.
Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số sự kiện từ trước đến nay
vẫn bị chính quyền che đậy, hoặc nói sai đi:
- Hội Truyền Bá Quốc Ngữ được Pháp bảo trợ từ đầu - năm 1938.
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập
Hội. Ngày khai mạc, ông đang dạy học ở nông thôn, khi về Hà Nội nghỉ hè, tình cờ
gặp Đào Duy Kỳ224, Kỳ khuyên Đang nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, nhận việc
dạy học giúp Hội.
- Có một số thành viên cộng sản tham dự Hội, nhưng Đảng không
lập ra Hội này, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch
Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch truyền bá quốc ngữ".
- Truyền bá quốc ngữ do Hội Trí Tri, một tổ chức trí thức thời
Pháp thuộc chủ trương, Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số thành viên xây dựng
Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả
hai...
- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết
của Nguyễn Hữu Đang, không thấy ông nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân
Hãn trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng
Xuân Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ,
ngay khi chưa có hội. Từ năm 1936, khi ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp học
chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o
tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...
- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu
Đang cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản,
đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau 1945, chính phủ lâm thời mới quyết định
thành lập Nha Bình Dân Học Vụ thay thế Hội Truyền Bá Quốc Ngữ; vai trò thuyền
trưởng Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
● Xác định lập trường văn hoá
Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I
Hội Văn Hoá Cứu Quốc thành lập tháng 4/1943 tại Hà Nội, là một
thành viên của Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo.
Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiên Phong, xuất hiện công khai từ 10/11/1945
đến 1/12/1946, ra được 24 số225.
Nguyễn Hữu Đang cho biết, ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội
Văn Hoá Cứu Quốc. Trên ba số đầu Tiên Phong, Nguyễn Hữu Đang viết 5 bài xác định
lập trường của Tiên Phong và Hội VHCQ: Định nghiã hai chữ văn hoá (viết
chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới ách đế quốc226, Hội
nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam227, Nhận rõ thêm về ý nghiã hai
chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá toàn quốc sẽ tổ chức
như thế nào228.
Đó là những bài tiểu luận ngắn xác định lập trường văn hoá của
Nguyễn Hữu Đang, hoàn toàn khác biệt với lập trường của Trường Chinh trong bản Đề
Cương Văn Hoá Việt Nam229, và ông chuẩn bị cho việc tổ chức Hội Nghị Văn
Hoá Toàn Quốc I, sẽ họp năm 1946 ở Hà Nội.
Theo quảng cáo đăng trên Tiên Phong số 20 (1/10/46) thì Đại Hội
Nghị Văn Hoá Cứu Quốc Toàn Quốc sẽ họp từ 11-12-13/10/1946 và có thể kéo dài 1
đến 2 tuần. Nhưng cuối cùng bị đẩy lui, rút gọn và lấy tên là Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc lần thứ nhất, chỉ họp đúng một ngày 24/11/1946.
Có hai vần đề đáng chú ý:
• Thứ nhất: Trường Chinh trong Đề cương, in trên
Tiên Phong số 1, xác định lập trường văn hoá của Đảng Cộng sản trên ba điểm
chính:
- Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. - Nền văn
hóa được Đảng chọn là văn hoá XHCN.
- Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á: triết
học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ
(Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng
trưng v.v...
• Thứ nhì: trên Tiên phong số 2, Trường Chinh chĩa thẳng mũi
dùi vào nhóm Tri Tân "phong kiến" và nhóm Thanh Nghị "tư
sản", vạch ra những tội của họ đối với cách mạng230.
Nguyễn Hữu Đang, trong ba số báo đầu, cũng không thua, ông
xác định đường lối hoạt động và lập trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc một
cách thuần tuý văn hoá, không hề đả động đến Đảng, đến xã hội chủ nghiã, và ông
coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi
với công cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ. Ông chủ trương một nền văn
hoá mở rộng, tương giao với các trào lưu khác đương thời và những trí thức
không cộng sản. Trong bài ký tên Phóng Viên, tường thuật lại Đại Hội Văn Hoá
Toàn Quốc I, chắc do ông viết, có một số thông tin như sau:
"Hai ban kịch Đông Phương và Hoa Lan cổ động ráo riết
hai vở kịch lớn Kiều Loan và Lôi Vũ sẽ diễn trong dịp hội nghị", "Hội
nghị khai mạc lúc 9 giờ sáng tại Nhà Hát Lớn. Có mặt gần hai trăm đại biểu Bắc,
Trung, Nam (...) có mặt đông đủ đại biểu các ngành văn hoá khác, khoa học, triết
học... như các ông: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường,
Nguyễn Văn Huyên... Thật là xứng đáng một cuộc Hội Nghị Toàn Quốc, nhất là khi
Hồ chủ tịch bước lên đọc diễn văn khai mạc. Bằng một giọng thân ái cụ chúc hội
nghị thành công (...) Tiếp lời cụ có bài diễn văn của ông Đào Duy Anh trong ban
vận động. Và sau đó thì hội nghị được tin bất ngờ: hội nghị chỉ họp trong một
ngày hôm nay thôi. Cái chương trình rộng lớn trong bảy ngày đành phải gác lại.
Chỉ còn một buổi chiều nữa thì bế mạc, thì giờ chỉ đủ cho các đại biểu đi đặt
vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong"231.
Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc của Nguyễn Hữu Đang bị tuyên bố
"rút gọn" giống như vở kịch Kiều Loan của Hoàng Cầm, vừa diễn xong buổi
ra mắt 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, thì bị Trần Duy Hưng lên diễn đàn ra
lệnh đình chỉ. Dĩ nhiên lấy lý do chiến tranh.
Nhưng ngoài ra còn có những lý do khác, mà sau này Hoàng
Trung Thông, dưới bút hiệu Hồng Vân, bộc lộ trong bài Tên quân sư quạt mo:
Nguyễn hữu Đang:
"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn
Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít".
"Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu Quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại
hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa
toàn quốc". "Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì
với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này
người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao"232.
Điều này giải thích tại sao Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, lại
có mặt tất cả những nhà văn hoá lớn mà Đảng không mấy thiết tha như: Hồ Hữu
Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... và
tại sao đại hội bị đình chỉ, sau một ngày họp.
Qua lời buộc tội của Hoàng Trung Thông, chúng ta còn hiểu rõ
nguyên nhân tại sao ngay từ 1929, Nguyễn Hữu Đang đã được coi là "đối tượng
kết nạp" mà mãi đến năm 1947, mới được kết nạp vào đảng, rồi ông lại bỏ đảng
khoảng một năm sau khi được kết nạp:
"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc
vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới
được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra
chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm
"quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang
đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng
năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền,
Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng"233.
Gần hai năm sau, Trường Chinh tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn
Quốc II, ngày 15/7/1948 tại Việt Bắc, đọc bản Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt
Nam, xác định văn nghệ kháng chiến là văn nghệ công nông binh, văn nghệ
tuyên truyền. Bỏ Hội Văn Hóa Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang bỏ về
Thanh Hoá. Trong 6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với
chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh
Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án
hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v... Đến năm 1951, Đảng
chính thức khai trừ Nguyễn Hữu Đang.
Nguyễn Hữu Đang nổi danh vì tài tổ chức, ông đã thành công
trong ba chương trình lớn: Tổ chức ngày lễ 2/9/1945, tổ chức Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc và tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Sự thành công của Việt Minh dựa
trên sự thành công của ba tổ chức này:
- Được Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày
2/9/1945, để vị chủ tịch đọc diễn văn mắt quốc dân, Nguyễn Hữu Đang kể lại:"Ông
cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ
có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi
măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá
như vậy."234 Và chỉ có 4 ngày. Để tổ chức ngày lễ, ông vận động hội
Truyền Bá Quốc Ngữ, hội Văn Hóa Cứu Quốc và hội Hướng Đạo Sinh, cả ba dưới quyền
điều khiển của ông. Ông đặt tên cho ngày lễ là Ngày Độc Lập, và ông lấy lại
tên Ba Đình mà chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt cho rond point Phủ
Toàn Quyền, là vườn hoa Ba Đình. Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ
hơn nửa triệu người ở các thành phần khác nhau của dân tộc đến Ba Đình dự Ngày
Độc Lập 2/9/1945. Đó là thành công lớn đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang.
Theo Hoàng Cầm, trong thời kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang thực
hiện hai công trình lớn nữa:
- Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc năm 1946 ở Hà Nội đoàn kết
tất cả các thành phần văn nghệ sĩ và trí thức đứng lên chống Pháp. Lúc bấy giờ
hầu hết các văn nghệ sĩ trí thức đều đi theo kháng chiến, rất ít người ở lại
trong thành và đó cũng là một thành công của Nguyễn Hữu Đang.
- Lên Việt Bắc, ông Hồ giao cho Nguyễn Hữu Đang nhiệm vụ:
thành lập Uỷ Ban Vận Động Thanh Niên Xung Phong Toàn Quốc. Ông đi khắp các tỉnh,
các địa phương, để thành lập một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong, kêu gọi
thanh niên xung phong đi bộ đội hoặc vào các đội dân công, hoặc cổ động bà con
đi dân công, làm nhiệm vụ chiến trường, gánh đất, gánh gạo, chăm sóc thương
binh... Nguyễn Hữu Đang cũng thành công trong nhiệm vụ đó.
Đối với Trường Chinh, từ hồi còn làm báo Tin Tức, tuy ông Trường
Chinh đứng tên nhưng ông Đang làm tất cả. Nhưng sau này, hình như ông Trường
Chinh không còn tín nhiệm ông Đang nữa, tất cả các việc ông Đang làm đều do ông
Hồ nghĩ ra và trao cho, như việc tổ chức buổi lễ đọc tuyên ngôn Ba Đình, và
trong chính phủ lâm thời thì ông
Đang làm bộ trưởng Không Bộ - Ministre sans portefeuille235 tức
là rất quan trọng, như con dao pha, chạy chỗ nào cũng được, phải là người tài
giỏi và nhiều năng lực lắm.236
Nhiều tín hiệu đồng quy ở điểm: sau bản tuyên ngôn Chủ
nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, 1948, có sự rạn nứt chung, giữa đảng Cộng Sản
và thành phần trí thức độc lập. Nguyễn Hữu Đang là một trí thức độc lập đã theo
Đảng từ những ngày đầu, lúc 16 tuổi, năm 1929, và đến năm 1948, Nguyễn Hữu Đang
không còn theo cách mạng nữa.
● Hoạt động trở lại: báo Văn Nghệ
1954, Trường Chinh phái Tố Hữu triệu tập Nguyễn Hữu Đang trở
lại và cử Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân của Nguyễn Hữu Đang đi mời ông về. Họ đề
nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, nhưng ông từ chối, ngỏ ý muốn
làm biên tập viên báo Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang phụ trách báo Văn Nghệ từ tháng
11/1954 đến tháng 4/58, mới chính thức ngừng hẳn.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho rằng:
"Năm 1954, Tố Hữu mời Nguyễn Hữu Đang lên Việt Bắc, đề
nghị chức giám đốc Sở Văn Hoá Hà Nội, hy vọng ngày tiếp quản sẽ có một người uy
tín đại diện cho văn hoá tại Hà Nội. Tôi đoán ông Đang từ chối vì cho chức đó
không xứng với ông. Nếu mời làm bộ trưởng Văn Hoá thì ông nhận, bởi ông nhiều
tham vọng lắm, có đầu óc lãnh tụ lắm. Tờ Văn Nghệ, lúc bấy giờ Xuân Diệu làm tổng
biên tập237. Khi ông Đang mới về, báo in mỗi số khoảng một hai vạn, mà chỉ 10
tháng sau, đến tháng 10/1955, báo in đến bẩy vạn, thì đủ biết tài làm báo của
ông Đang"238.
Về việc Nguyễn Hữu Đang không nhận chức giám đốc Sở Văn Hoá
Thông Tin Hà Nội, lập luận của Hoàng Cầm chưa chắc đúng hẳn. Có lẽ Nguyễn Hữu
Đang từ chối chức này, vì ông biết là do Trường Chinh, đối thủ của ông -theo lệnh
của ông Hồ, miễn cưỡng đề nghị- thì chỉ có thể là "ngồi chơi xơi nước",
như chức thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ ngày trước, và dù có làm đến bộ trưởng
-ông đã từng làm thứ trưởng- thì cũng vậy thôi: bên trên là cả một cơ chế chỉ đạo
từ Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư đến Chủ Tịch.
Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ, vì một chủ đích khác và
có thể ông đã bàn trước với Lê Đạt: là để "lãnh đạo" hoặc "lũng
đoạn" cơ quan văn nghệ lớn nhất của Đảng cùng với Lê Đạt. Bởi vì, trả
lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nói:
"Tôi quen với anh Đang lâu rồi, từ trước";
"Anh Đang chỉ thân với với tôi thôi, anh không thân thiết gì với anh
em Giai Phẩm Mùa Xuân". Và theo Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt
lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, tức là người của Tuyên Huấn gửi sang
như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"239.
Được Tuyên Huấn gửi sang, nhưng Lê Đạt quá trẻ, lại chưa có sự
nghiệp sáng tác, nên khó điều khiển những người như Xuân Diệu. Lê Đạt kể:
"Thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở
trong báo Văn Nghệ. Anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào
nằm bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy
nói với anh Tưởng là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của
mình cũng bị nó gạt luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi:
Thế thì để ai làm? Anh Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh
Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng
luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm
đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi. Anh Đang là người rất nghệ sĩ, trông có vẻ hắc
thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu.
Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ,
một cách rất say mê. Về văn nghệ ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội
họa, anh rất tinh. Chỉ có là anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn
nghệ."240
Vậy có thể tạm thời kết luận: Việc Nguyễn Hữu Đang xin vào
báo Văn Nghệ dường như có chủ đích và đã hẹn với Lê Đạt từ trước: Một người được
Tuyên Huấn gửi sang, một người được ông Hồ tin cẩn. Cả hai sẽ nắm tờ báo văn
nghệ chính thức của đảng Cộng Sản từ 1954 đến 1958, đưa vào những bài họ viết
hoặc họ kiểm soát, thậm chí bỏ cả bài của Xuân Diệu và thực hiện những việc mà
họ muốn như phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phê
bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ
tháng 11/1954. Đến tháng 4/1955, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu khó chịu, ông ghi
trong nhật ký:
"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý.
Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là
chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến
sĩ làm cách mạng bất mãn"241. "Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế.
Hữu khuynh"242. "Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập.
Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: in Gốc
đa, Gặp Bác, v.v..."243.
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người
lãnh đạo văn nghệ, kể cả những bạn thân như Nguyễn Huy Tưởng. Mặt khác, trong
thời gian này, nhiều biến cố quan trọng xẩy ra:
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức "Dự thảođề
nghị cho một chính sách văn hoá", đòi tự do sáng tác.
Tháng 6/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt.
Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu. Ngày
24/2/1956, Khrouchtchev vạch tội ác của Staline tại đại hội XX đảng Cộng sản
Liên Xô.
Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa
đua nở trăm nhà đua tiếng".
Tháng 8- 9/56 tại hội nghị X, Đảng Lao Động phát động Sửa Sai
Cải Cách Ruộng Đất.
Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập
dân chủ 18 ngày.
● Lớp học tập dân chủ 18 ngày (8/8/56-26/8/56)
Hẳn phải do lệnh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Đang mới được điều
động đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Trong ngày cuối, ông đã đọc
bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng Cộng
Sản và của lãnh đạo văn nghệ.
Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự
việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết".
Hoàng Cầm cho rằng tinh thần đòi hỏi dân chủ, những thắc
mắc có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em
phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh
Nguyễn Hữu Ðang (...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một
bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang
có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những
người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng
ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để
cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân
Văn"244.
Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày: "Nguyễn
Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về Văn Nghệ để làm rầy rà mình. Chính
người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang"245.
Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, làm rõ tấm
lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ
trích nặng nề, nhưng sau này, Nguyễn Huy Tưởng là người duy nhất trong ban lãnh
đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực NVGP, như Lê Đạt thuật lại và chính Nguyễn Huy
Tưởng cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn,
nhưng vô hiệu.
Về lớp học 18 ngày, trên Nhân Văn số 1 ra ngày 20/9/56, Người
Quan Sát tường thuật như sau:
"Trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo
luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu
với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội
20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co
như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau
lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt
tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở
nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng
bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh
mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những
ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ
trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo.
Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có
hệ thống"246.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích
đường lối văn nghệ của Đảng được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua
lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo
văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ
sửa chữa".
Dựa vào những biến động ở Liên Xô và Trung Quốc, vào sự đồng
thuận của đông đảo trí thức văn nghệ sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau chính
sách Cải Cách Ruộng Đất, Nguyễn Hữu Đang, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn
phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính trị miền
Bắc Việt Nam.
● Nhân Văn Giai Phẩm
Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của
Trường Chinh và đảng Cộng Sản yếu đi sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu.
Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những
lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu
Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng
tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.
Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn
đã hoạt động trong kháng chiến: Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm
đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân. Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong NVGP được
xác nhận từ nhiều phía:
Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng
Cầm, Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Cả Trần Dần,
dù không thích ông, cũng ghi trong bài "thú nhận": "Nếu
không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với
những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Nguyễn Hữu Đang được coi là "đầu sỏ", Mạnh Phú Tư
buộc tội:
"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số
báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người
ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng
chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát
và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những
kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền
in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng,
với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên
lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có
tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước.
Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn
người cơ hội, có âm mưu chính trị..."247.
Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên
báo Nhân Văn:
Nguyễn Hữu Đang thực hiện những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường,
Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ. Trong Nhân Văn số
1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký
tên XYZ. Rất ít người biết XYZ (tên gọi thành phần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng
Đất) là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh, trừ Nguyễn Hữu Đang. Trong
bài này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ, ý giễu
cợt vị chủ tịch. Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo
chính trị - Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn
số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết- theo lời
Trần Duy. Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời
từng điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc
bén, không nhân nhượng. Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số
4, là bài xã luận đầu tiên ông ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường
chính trị của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một
nhà nước pháp trị. Bài "Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp
Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân Văn số 5, ký tên
thật, mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và
trên thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân
chủ, một nhà nước pháp quyền.
Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố trên RFI:
"Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt
chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ
và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản
đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông.
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông đưa đến nhiều hiện
tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay
gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách
ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả
những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không
phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời
mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là
Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú, địa,
hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được
độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác,
chúng tôi theo đảng Cộng Sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa
Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp
lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả"248.
Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu
tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo
đảng từ 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản.
Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do
trong hành động cũng như tư tưởng của mình.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức văn nghệ sĩ trí thức
toàn quốc đi theo kháng chiến, ông đã làm.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức thanh niên xung phong
chống Pháp, ông đã làm.
Làm trong tư thế của một người yêu nước, tự do.
Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo NVGP,
đã tạo được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ,
dám nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam
thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu
Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả còn kéo dài đến ngày
nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa tự
nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu
tiên là quyền tự do tư tưởng.
Chú thích:
215 Tài liệu diendan.org.
216 Tổ chức thuộc Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội,
rồi Đông Dương Cộng Sản Đảng.
217 Trên giấy tờ, rút tuổi, khai sinh năm 1916.
218 Có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr
219 Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, trang 102.
220 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo:
Nguyễn Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.
221 Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 16/6/1942.
222 Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm
50 năm Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1938-1988), đăng trong kỷ yếu của Hội, do Bộ
Giáo Dục in, đăng lại trên Diễn Đàn, số 78, Paris, tháng 10/1998 và
diendan.org.
223 Trích Người thuyền trưởng.
224 Em trai Đào Duy Anh.
225 Sưu tập của Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận, nxb Hội Nhà
Văn, 1996.
226 Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45.
227 Tiên Phong số 2, 1/12/45.
228 Tiên Phong số 3, 16/12/45.
229 Được coi là văn bản lịch sử của đảng Cộng Sản từ 1943, in
lại trên Tiên Phong số 1.
230 TR.CH. [Trường Chinh], Mấy nguyên tắc lớn của
cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này, Tiên Phong số 2 ra ngày 1/12/1945.
231 Phóng viên, Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất
24/11/1946, Tiên phong số 24, ra ngày 1/12/1946.
232 Hồng Vân (Hoàng Trung Thông), Tên quân sư quạt mo: Nguyễn
Hữu Đang, Văn Nghệ số 12 tháng 5/58.
233 Hồng Vân Hoàng Trung Thông, bđd.
234 Trả lời phỏng vấn RFI
235 Trong bản tiểu sử, Nguyễn Hữu Đang ghi: Thứ trưởng
Tuyên Truyền và thứ trưởng Thanh Niên.
236 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
237 Theo Lê Đạt, Xuân Diệu làm thư ký toà soan. Thời ấy
chức thư ký toàn soạn là làm tất cả, tương đương với tổng biên tập sau này.
238 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
239 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.
240 Lê Đạt nói chuyện với RFI, sau khi Nguyễn Hữu Đang mất.
241 Nhật ký NHT ngày 21/4/55, Nxb Thanh Niên, 2006.
242 Nhật ký NHT ngày 24/4/1955.
243 Nhật ký NHT ngày 23/6/1955.
244 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
245 Nhật ký NHT ngày 21/8/56.
246 Trích bài Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một
đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ, Nhân Văn số 1, ra ngày
20/9/56.
247 Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ra ngày 24/4/1958,
BNVGPTTADL in lại, trang 49-50.
248 Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995.
Chương 10
lê đạt (1929-2008)
Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật
ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký, băng ghi âm nói chuyện
với bạn bè, chỉ Lê Đạt là không viết gì về đời mình. Tại sao? Một phần, dường
như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn lý do nữa,
vì đời ông, nếu viết rõ ra, chỉ "có hại" cho gia đình. Ông
không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương
Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ,
vì trong nhà "không có một quyển truyện một quyển thơ nào".
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã
Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào
Công Đệ, mất năm 1975, quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang, Bắc Giang,
làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen, mất
năm 1982, bà người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn
bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái. 1941, 12 tuổi lên Hà Nội học trường Bưởi.
Chiến tranh bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo
kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:
"Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo
cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn.
Năm 49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm
1952, tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà
văn chuyên nghiệp"249.
Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi viết: "Đầu
kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban
Tuyên Huấn tỉnh Vĩnh Phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp Lý250 cho
đến khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng Lao Động
VN. 1952 về Hội Văn Nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội Văn Nghệ".
Đấy là những gì ghi trong tiểu sử chính thức. Nhưng Hoàng Cầm
cho biết, từ 1948 (19 tuổi), Lê Đạt đã là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều
này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.
Hoàng Cầm viết: "Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái
viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ
làm trợ lý cho ông Tố Hữu"251.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết rõ hơn: "Lê Đạt
kể lại với tôi: Năm 1949, khi ông Trường Chinh cử anh sang làm trợ lý cả
chính trị và chuyên môn cho ông Tố Hữu, ông ấy có dặn hai điều:
Thứ nhất, trình độ văn hóa của anh Lành (tức Tố Hữu) có
hạn, lãnh đạo anh em văn nghệ mà trình độ thấp thì bất lợi, vậy anh phải giúp
cho anh ấy nâng cao trình độ văn hoá lên. Thứ hai, anh Lành là người tính nết
arrogant, kiêu căng, hợm mình lại khinh người, mà trong văn nghệ có những
cây đa cây đề như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Thế Lữ, Đoàn
Phú Tứ... tất cả họ tập trung về theo kháng chiến, thì phải khéo léo lắm, nếu
làm mất lòng họ, họ bỏ về tề252 là một thất bại lớn.
Lê Đạt xử sự rất khéo, với tính kiêu căng của ông Tố Hữu
thì việc gì muốn làm, anh cũng bảo là do chỉ thị của ông Trường Chinh, vì
thế năm 1949, anh tổ chức được ba cuộc hội thảo quan trọng tranh luận về
thơ, nhạc, kịch. Làm cho không khí văn nghệ lúc bấy giờ sống động hẳn lên, có
thảo luận trong sinh hoạt hàng ngày của anh em văn nghệ.
Khoảng 1952, 53, tôi có đọc mấy bài thơ ngắn của anh, như bài
Lúa Bác Hồ gì đó, đăng trên báo Nhân Dân, thấy thơ anh rất mới, khác hẳn
thơ tôi. Anh không làm theo vần điệu cũ, thơ anh bám sát đời sống hàng ngày, mà
chữ rất mới. Tôi thấy Lê Đạt tính nết trẻ trung nhưng học vấn uyên bác. Anh làm
việc trên Tuyên Huấn từ đầu, ở Tuyên Huấn có đủ loại sách báo, anh lại chịu học,
chịu đọc, thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp, anh hiểu sâu sắc lắm.
Cuối năm 1954, chúng tôi gặp lại nhau ở Hà Nội. Lê Đạt còn rất
trẻ253 anh vừa ly dị cô vợ cốt cán, lấy trong cải cách ruộng đất, đang yêu
Thúy Thúy trong đoàn kịch Thế Lữ.
Lúc bấy giờ chúng tôi thân nhau lắm. Từ đầu năm 1955, thường
hẹn nhau, khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều ở quán trà Phúc Châu của người Tàu, ở
Hàng Giầy: Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... ta gọi là bộ
ngũ. Quán này khi có khách đến thì đem ra một cái khay, với phích nước sôi và một
ấm có sẵn trà. Chúng tôi tha hồ uống, có khi pha đến nước thứ 6, thứ 7, đến nước
chủ nhật, loãng toẹt ra rồi. Nhiều hôm gọi đến ấm thứ nhì, thứ ba. Bàn toàn
chuyện thơ văn, khuyến khích nhau viết, Lê Đạt, Trần Dần đọc nhiều, biết
nhiều lý luận về thơ, các nhà thơ hiện đại Pháp, Tử Phác nói chuyện âm nhạc
mới... Thỉnh thoảng Phùng Quán cũng ghé qua nghe các ông anh nói chuyện thi ca:
Thơ Đông phương, thơ Tây phương. Lê Đạt, Trần Dần, đọc nhiều, rồi họ nói lại
thành ra mình học thêm được. Tiếng Pháp tôi chẳng kém gì các ông ấy nhưng tôi
lười lý luận. Đọc thơ tượng trưng của Pháp, có chỗ tôi không hiểu, hỏi: Bài này
nó hay ở chỗ nào? Tao dốt lắm. Thì Lê Đạt lại thân mật giảng cho tôi rất kỹ,
tôi quý anh ở chỗ đó.
Cuối năm 1955, lúc ấy Trần Dần, Tử Phác còn đang đi học
tập cải cách ruộng đất ở Yên Viên; gần Tết, Lê Đạt bảo tôi: Mày có nhiều
bài không? Tết có gởi bài cho báo nào không? Các báo thì đông lắm, nhưng thơ mới
kiểu chúng mình thì chưa chắc nó đã đăng đâu, hay ta soạn ra một tập, gọi là
tác phẩm mới gì đó, giao cho Thầy Bảo (tiếng lóng của chúng tôi, nghiã là in
tự do, không qua kiểm duyệt). Lúc đó vẫn còn vài nhà in sách báo tư nhân như
nhà xuất bản Xây Dựng, nhà Minh Đức. Tao vẫn còn giữ cái bài Nhất Định Thắng
của thằng Trần Dần, mày đi thúc đẩy Văn Cao, nó còn nhiều tiềm năng lắm, chỉ có
mày bằng vai vế, mới thúc đẩy được nó, tao còn nhỏ, mà lại chưa có sự nghiệp
gì, nói nó mắng cho. Thì tôi nghe lời Lê Đạt đến thúc đẩy Văn Cao. Lúc ấy Văn
Cao không sáng tác nhạc nữa, anh đang mê vẽ, Lê Đạt giục tôi xuống nhà anh, Văn
Cao hứa: - Được, rồi tao sẽ có bài. - Liệu mấy ngày, một tuần nhé? - Ừ,
được, ít nhất tao có một bài, hào hứng lên là có hai. Thế là có bài Anh
có nghe chăng? của Văn Cao trong Giai Phẩm Mùa Xuân254.
Lời Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cho thấy sinh hoạt vô tư và
tự do của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân lúc ấy, cùng sự hình thành cuốn giai phẩm đầu
tiên và vai trò của Lê Đạt.
Việc Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong báo Văn Nghệ,
đã được đề cập trong chương trước, ở đây chỉ nhắc lại lời Hoàng Cầm: "Anh
Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, anh là người của Tuyên Huấn gửi
sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư
chi bộ"255.
Vậy Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang dường như đã bàn tính với nhau
từ trước, nắm báo Văn Nghệ. Cùng thời điểm đó, bên quân đội, Tử Phác và Trần Dần
nắm tờ Văn Học Nghệ Thuật. Hai tờ báo này sẽ "thao túng" dư
luận văn học qua vụ phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và Việt
Bắc của Tố Hữu.
Trong bài "thú nhận", Lê Đạt có câu:
"Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn
tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ"256.
Như vậy, có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử Lê Đạt, giai đoạn
kháng chiến như sau: Năm 1945, 16 tuổi, còn học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo
Việt Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, mẫu người lý tưởng
đương nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh,
tâm cảm Lê Đạt thời trẻ rất lãng mạn:
Yên Bái
dăm cô gái lỡ thì
thổn thức Nhất Linh
tay Loan Dũng
lên ô kính bụi
Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn
đoàn, có lẽ cũng là cách chôn "lỗi lầm tuổi trẻ". Lê Đạt theo Quốc
Dân Đảng trong bao lâu? Có thể từ rất trẻ, theo cha, bài Cha tôi, có
những câu thơ úp mở:
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...
Bởi thời ấy, chống Pháp, chỉ có vài con đường: Việt Minh hoặc
Quốc Dân Đảng. Nếu theo Việt Minh, đã là chính nghĩa, có thể nói công khai. Vậy
chắc Quốc Dân Đảng.
Từ 1945 đến 47 (16 đến 18 tuổi), tiểu sử chính thức ghi là theo
cách mạng, rồi theo kháng chiến. Vậy tạm hiểu: theo cách mạng là thời theo
Quốc Dân Đảng; đến 1947, mới theo kháng chiến, tức là mới "giác ngộ"
Việt Minh.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết nhiều thông tin về Lê Đạt,
chưa thấy ghi ở đâu, có lẽ do chính Lê Đạt kể:
"Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, lúc đầu đi kháng chiến cũng
là đi lang thang như vợ chồng Hoàng Cầm thôi, tức là chưa biết tạt vào đâu để
móc nối với kháng chiến. Bộ đội thì bí mật, họ lại ăn mặc như người dân, rất
khó phân biệt. Hai anh đi lang thang thì gặp một người quen với anh Hưng, làm
trưởng ty văn hoá Vĩnh Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Anh trưởng ty vớ được hai ông
sinh viên trường Luật, lại giỏi, thích quá. Một hôm ông Trường Chinh đi công
tác, đêm về ngủ tại cơ quan, anh trưởng ty khoe: Báo cáo anh, em có hai
người giúp việc giỏi lắm. Ông Trường Chinh cho gọi họ lên nói chuyện, rồi
trò chuyện cả đêm về công tác tuyên truyền, văn hoá. Sáng sau, ông Trường Chinh
dặn anh trưởng ty: Cậu thu xếp ngay cho hai anh này lên làm việc với tôi
trên Tuyên Huấn Trung Ương. Ông Trường Chinh lúc bấy giờ (1947) làm tổng bí
thư, chọn hai người làm thư ký riêng, là Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Ông ấy muốn
huấn luyện cả hai thành lý thuyết gia của đảng Cộng Sản"257.
Như vậy, Lê Đạt gia nhập Việt Minh lúc 18 tuổi, vì có tài, được
tuyển ngay vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư cho Trường Chinh cùng với Đặng
Đình Hưng (cháu họ Trường Chinh), nhạc sĩ, nhà thơ, nhà trí thức có tầm vóc.
Trường Chinh quả biết dùng người: ông chọn phụ tá Lê Đạt và Đặng
Đình Hưng, sau này sẽ trở thành những nhà thơ tiên phong cho thi ca hiện đại Việt
Nam, tiếc rằng ông lại không tính đến cái tự do của họ.
Vẫn theo Hoàng Cầm, 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn
nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt sang làm trợ lý cho Tố Hữu, thực chất
là dạy văn hoá và sửa đổi tính tình Tố Hữu. Như vậy, cấp lãnh đạo -Hồ Chí Minh
hay Trường Chinh- đã thấy ở Lê Đạt, ngoài khả năng văn hoá, còn có khả năng chiến
lược và chính trị cao hơn Tố Hữu. Khi chuyển Lê Đạt sang làm bí thư chi bộ báo
Văn Nghệ, 1954, trung ương lại một lần nữa xác định "lòng tin" vào Lê
Đạt.
Những dữ kiện trên đây giải thích tại sao Lê Đạt thấy mình vững
hơn Nguyễn Hữu Đang, khi làm báo Nhân Văn. Thực chất Lê Đạt khôn khéo và mềm dẻo
hơn Nguyễn Hữu Đang, lại là "thầy" của Tố Hữu, cho nên
trong vụ thanh trừng Giai Phẩm Mùa Xuân, tuy Lê Đạt chủ xướng, nhưng Tố Hữu vẫn
còn nể Lê Đạt, chũi cả mũi dùi vào Trần Dần; cũng như ở Thái Hà ấp, Tố Hữu đã
có một thái độ tương đối mềm mỏng với Lê Đạt.
Lê Đạt thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba
đều đã từng hoạt động hoặc có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Lê Đạt tranh đấu trên
hai mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi tự do dân chủ và về
văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.
● Đổi mới thi ca
Thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng Lê Đạt thành công
trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được "phục hồi" năm
1988. Tập Bóng chữ 258 tác phẩm đầu tiên xác định ông như một
nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, bốn nhà thơ mới,
đã xây dựng nền thơ Việt Nam hiện đại. Tiếp đến tập truyện ngắn Hèn đại
nhân (Phụ Nữ, 1994), thơ Ngó lời (Văn Học, 1997), Từ tình
Epphen (Tạp Chí Thơ, California, 1998), tập truyện ngắn Mi là người
bình thường (Phụ Nữ, 2007), Thơ và đoản ngôn U75 từ tình (Phụ Nữ,
2007), và Tuyển tập Đường chữ (Hội Nhà Văn và Bách Việt, 2009) in sau
khi ông mất.
Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào? Chắc
từ trong kháng chiến. Hiện nay, tập Tỉnh mẹ (in trong Đường chữ)
là chứng từ đầu tiên, chưa rõ năm nào. Hoàng Cầm cho biết: sau Giai Phẩm Mùa
Xuân, Lê Đạt làm thơ về quê hương. Đến năm 1959, Đặng Đình Hưng viết được tập Cửa
ô259, tôi viết Về Kinh Bắc, Trần Dần viết Cổng tỉnh, Lê Đạt làm
một số thơ về vùng Yên Bái. Vậy tạm coi Tỉnh mẹ, làm trong khoảng 1955-
1959.
Một sự kiện ít người biết đến: Lê Đạt tổ chức cuộc tranh luận
về thơ năm 1949, là để bênh vực thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, đang bị phe
thủ cựu Tố Hữu đánh.
Hoàng Cầm viết:
"Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí
thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý
cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến
Hội, Lê Đạt đã làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ,
Nguyễn Xuân Khoát. (...) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới
mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (...) Anh Nhị
Ca (...) nói: "Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng
góp được nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ
với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm
bác
Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một
tá những ông già khác không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông
Lành260. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi.
Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đòn đếch cãi vào đâu được"261.
Lê Đạt cũng nói: "Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình
Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi.
Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng
của Maïakovski rất đậm262".
Như vậy, Lê Đạt cùng trường phái thơ không vần với Nguyễn
Đình Thi từ 1948.
● Đem bục công an đặt giữa tim người
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng gió suốt
thời kỳ NVGP, tiêu biểu sức phản kháng mãnh liệt của nhà thơ đối với chế độ độc
tài, ngăn cấm tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những
sự kiện có thật trong đời Lê Đạt:
Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, một cốt cán trong Cải
cách ruộng đất, nhưng họ không hợp nhau, chỉ sống chung một thời gian ngắn rồi
hai bên thoả thuận ly dị. Thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị
Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống
chung. Việc "bỏ người vợ cốt cán", để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt
và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi trong nhật
ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:
"Phê phán Lê Đạt: Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục
vàng lấy cục đất. Còn gì quý hơn là người làm việc cho Đảng? Đi
CCRĐ263 bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí còn muốn
gì? Không yêu nhân dân thì yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân
thôi chứ! Kể xấu Thuý. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ rồi. Tôi
không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng đồng ý những cái
sai. Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền lành, đồng chí
có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng
ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp, bằng lòng mồm chứ
không bằng lòng thực"264.
Trần Dần cung cấp một số thông tin đáng quý: Cô Nguyện là
thành phần cốt cán, có lẽ đã được Đảng "gả" cho Lê Đạt. Cô
Nguyện bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị). Vì vậy, Đảng
răn đe: "dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng
ý".
Nhưng không chỉ có mình Lê Đạt, mà Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử
Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Hoàng Yến,... đều bị Đảng xen vào đời tư,
ngăn cấm tự do luyến ái, hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.
♦
Hoàng Cầm
Hoàng Cầm kể:
"Tôi gặp bà Hoàng Yến lần đầu vào khoảng tháng giêng năm
1945, lúc đó bà ấy đã nhận lời đóng vai Kiều Loan và đã tập được 4, 5 buổi,
không hiểu sao ông chồng cũ của bà ấy lại đổi ý, không cho tập tiếp. Chín năm
sau, khi đi kháng chiến về, tôi gặp lại ở Hà Nội, thì ông chồng đã chết cách đấy
hai năm. Trông bề ngoài có vẻ quý tộc, đài các, còn đẹp lắm, tuy bên trong cuộc
sống rất cực khổ, vì ông chồng bị phá sản, tự tử chết đi để lại toàn nợ nần. Gặp
bà ấy, trong tôi nổi lên một sự thương cảm lạ lùng và quyết định xây dựng với
bà ấy. Lúc đầu chỉ đi chơi với nhau, tối tôi về doanh trại.
Từ tháng 3, tháng 4/1955, tôi ăn ở với bà Hoàng Yến, tuy
không tổ chức cưới xin gì, cứ độ mấy ngày tôi ra ngủ ở 43 Lý Quốc Sư một tối,
sáng lại về trại. Tôi là trưởng đoàn văn công nên có thẻ đỏ, đi về lúc nào cũng
được. Lúc ấy cũng là lúc tôi tham gia kiến nghị đòi hủy bỏ vai trò chính trị
viên trong quân đội, trả văn nghệ về cho văn nghệ của Trần Dần, Tử Phác.
Đến khoảng tháng 4/1955, một hôm tôi nhận được giấy triệu tập
của Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, yêu cầu đồng chí Hoàng Cầm phải có mặt
đúng 9 giờ sáng ngày... có việc cần. Giấy ký tên Thành, Lê Thành gì đó, cục phó
Cục Tổ Chức. Tôi lên. Thấy hắn tỏ ra rất oai, mình chào nó không chào lại. Tôi
tự kéo ghế ngồi, bảo đã nhận được cái giấy anh triệu tập, xin anh cho biết việc
gì? Bằng một giọng lạnh lùng, hách dịch, hắn bảo: "Ít lâu nay, chúng
tôi được báo cáo anh có quan hệ với một người đàn bà tư sản ở ngoài phố. Tôi gọi
anh lên đây báo cho anh biết kể từ hôm nay, anh phải cắt đứt ngay quan hệ với
người đàn bà đó, nếu không, anh sẽ bị thi hành kỷ luật rất nặng".
Thế là mình biết rõ ý định của nó rồi, nó đưa ra cái đường lối
của Đảng là không quan hệ với giai cấp tư sản vì đó là kẻ thù. Nhưng cái bà Lê
Hoàng Yến mà nó gọi là tư sản thì vừa chua chát vừa buồn cười, hay tại cái dáng
đẹp đài các của bà ta? Người đàn bà ấy phải nuôi một đàn con 6 đứa, đứa lớn nhất
11 tuổi, với một mẹ già, một quả trứng không có mà ăn, chỉ toàn ăn rau muống với
dưa, lương y tá công nhật hạng bét, 100 đồng, làm ở bệnh viện Việt Đức.
Tôi bèn xích cái ghế lại gần hắn, hỏi: "Anh Thành
à, anh cho tôi biết thế nào là tư sản?" Thế là nó thấy mình vặn lý,
nó đập bàn quát: "Này, tôi không lý luận gì với anh nhá! Chính
sách tiếp quản thủ đô anh đã học hết rồi! Tôi gọi anh lên đây để cảnh cáo anh.
Anh cứ liệu hồn đấy". Thế là tôi lấy chân gạt cái ghế ra, đứng dậy đi
phắt ra cửa, đóng sầm một cái, rồi ra về. Tôi viết ngay một cái thư xin giải
ngũ hoặc chuyển ngành sang Hội Văn Nghệ, gửi đủ bốn ông: đồng chí tổng tư lệnh
Võ Nguyên Giáp, đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Nguyễn Chí Thanh, đồng
chí trưởng Ban Tuyên Huấn Lê Quang Đạo, đồng chí phó Ban Tuyên Huấn Võ Hồng
Cương.
Viết xong tôi đưa cho ông Võ Hồng Cương xem trước, ông trố mắt
hỏi: Tại sao anh lại làm cái này nhỉ? Tôi trả lời đại ý: "Tôi
đi bộ đội cũng tám năm rồi, mà trong quân đội tôi đã làm trọn nghiã vụ, thì bây
giờ hoà bình, tôi xin chuyển ngành hoặc giải ngũ". Anh Cương nói: "Trong
quân đội anh được mọi người rất yêu mến, nhất là anh Giáp rồi anh Thanh đấy,
cái đơn anh xin giải ngũ thật vô lý". Tôi bắt buộc phải kể lại câu
chuyện sáng nay: "Anh Thành bên Cục Tổ Chức triệu tập tôi, cảnh cáo tôi có
quan hệ với một người phụ nữ ngoài phố, cái đó tôi không chối, nhưng lại nói là
quan hệ bất chính với một người đàn bà tư sản, phải cắt đứt ngay. Tôi chỉ hỏi
thế nào là tư sản thì anh ấy đập bàn đập ghế với tôi, thì anh bảo tôi còn ở lại
quân đội sao được. Anh là cục phó Cục Tuyên Huấn, nhưng Cục Tổ Chức vẫn nắm
sinh mệnh của anh vì họ nắm lý lịch của anh. Tôi là nghệ sĩ, tôi quen sống tự
do, mà lại phải ở dưới quyền một người như thế thì làm sao tôi chịu được".
Anh Cương hơi lúng túng: "Cái này là bệnh ấu trĩ, chứ anh Thành làm sao có
thể thi hành kỷ luật anh về chuyện ấy được!" "Người ta là cục phó Cục
Tổ Chức mà người ta nói như thế thì người ta thừa sức kỷ luật tôi về việc hủ
hoá, đạo đức không tốt, có quan hệ với tư sản, kẻ thù của cách mạng".
Nhưng anh Cương nhất quyết từ chối. Thế là lá đơn tôi xin giải ngũ cứ nằm chờ,
từ tháng 5 đến tháng 11, tôi nhất định không đổi ý, mà các anh, anh Giáp, anh
Thanh, anh Cương, đều muốn giữ tôi lại. Nhưng tôi biết mình là người sống buông
thả, lãng mạn về chuyện phụ nữ, mình biết bệnh của mình, không thể ép vào cái kỷ
luật ấy được. Trong kháng chiến đã ba lần tôi từ chối vào đảng, chỉ vì nghe đọc
cái kỷ luật của đảng viên, là tôi đã ngại rồi. Sau cùng tôi nghĩ chỉ còn cách
nhờ ông Tố Hữu. Tố Hữu lúc bấy giờ đối với tôi chỉ có vụ phê bình thơ Việt Bắc,
đối với ông ấy thì cũng nặng nề đấy, nhưng cũng chưa tan vỡ lắm, ông ấy vẫn có
phần nể mình. Tôi mới viết thư cho ông Tố Hữu, muốn xin sang làm việc bên Hội
Văn Nghệ, nghiã là xin chuyển ngành thôi, chứ không xin giải ngũ nữa. Tố Hữu viết
thư cho ông Lê Quang Đạo, mọi việc được giải quyết ngay. Ngày 8/11/1955 tôi ra
khỏi quân đội. Về Hội Văn Nghệ, thì được ông Hoài Thanh phân sang làm việc ở
nhà xuất bản Văn Nghệ với Tô Hoài và Kim Lân.
Lúc đó là tháng 1/1956.
♦ Trần
Dần
Hoàng Cầm kể:
Từ cuối năm 1954, Trần Dần yêu một người phụ nữ.
Một hôm đi xem chiếu bóng với Cao Nhuệ, tình cờ hai anh gặp
hai cô gái có dáng đi uyển chuyển, bèn lân la làm quen, rồi rất nhanh anh Dần
có cuộc tình với cô Khuê. Hẹn với cô Khuê, thì anh ấy, hoặc mượn thẻ đỏ của tôi
để ra trại, hoặc trèo tường ở chỗ đầu Lý Nam Đế.
Lúc bấy giờ, trong quân đội có tin đồn rất ghê: Vì cô Khuê
theo đạo Cơ Đốc, lại là con nuôi ông tổng giám mục, tên là Douley (?) gì đó,
nên nó tung tin cô Khuê được gài lại làm gián điệp, mà gián điệp thì trước tiên
nó xông vào quân đội, và như thế là Trần Dần mắc cạm bẫy gián điệp. Tôi mới hỏi
ông Võ Hồng Cương: "Có gì mà bảo cô ấy là gián điệp hở anh?" Ông
Cương rất lành và thật thà, ông ấy bảo: "Cái này là bên Cục Tổ Chức
và Cục Bảo Vệ, bao giờ người ta cũng theo dõi tất cả hành động của cán bộ khi mới
về tiếp quản, tôi cũng chẳng biết thế nào, nhưng anh là bạn thân của anh ấy,
anh bảo anh ấy thôi đi, chuyện này nó phiền phức quá, mà tôi thì không muốn làm
cái gì nặng nề với anh ấy". Nhưng cái dư luận ấy càng ngày càng tăng,
bởi vì Trần Dần và Tử Phác còn đưa ra cái Đề nghị cải tổ, mà họ cho hai anh là
chính, Hoàng Cầm không sâu sắc gì, chỉ a dua thôi, không phải chủ mưu. Thế là họ
mở cái lớp đấu tranh nội bộ chống Trần Dần Tử Phác, ông Võ Hồng Cương phải chịu
trách nhiệm, học tập tình hình trong Cục Tuyên Huấn, có biểu hiện không tốt, học
tập để đấu tranh chống tư tưởng tư sản của Trần Dần. Sau đó, Trần Dần và Tử
Phác bị kỷ luật hai tháng265, bị giam trong hai cái phòng, để viết kiểm điểm, tối
họ khoá cửa để anh ấy khỏi trèo tường ra ngoài. Hoàng Cầm thì được ở Liễu Giai
với đoàn văn công và không bị truy tố gì cả, mặc dầu có tham gia bản kiến nghị.
Độ mấy ngày viết xong kiểm điểm, thì anh ấy làm thơ. Anh Dần có bài thơ nhớ cô
Khuê hay lắm. Cũng trong thời gian đó Trần Dần viết bài thơ dài Nhất Định Thắng.
♦ Tử
Phác
Về trường hợp nhạc sĩ Tử Phác, Hoàng Cầm kể:
Tử Phác là con nhà tư sản, sau 1954, về Hà Nội, anh vẫn giữ nếp
sống tư sản, về ở nhà riêng, phố Hàng Giấy, trước cửa chợ Đồng Xuân, nhà to lắm.
Anh có bà vợ chính thức là cô Nghiã, dạy piano, violon, ở trường nhà nước. Tử
Phác làm trưởng phòng Văn Nghệ Quân đội, vì dan díu với một cô diễn viên, nên bị
mất chức. Tử Phác, Trần Dần và tôi, đều bực mình về việc văn nghệ sĩ bị trói buộc
trong cái kỷ luật nghiệt ngã, nên bàn nhau làm cái kiến nghị lên ông Nguyễn Chí
Thanh để cải tiến lãnh đạo văn nghệ.
Tử Phác bị đánh không phải vì chuyện tình duyên mà vì thái độ
của anh: Anh luôn luôn chống lại những giáo điều. Khi cán bộ lên lớp dạy dỗ mọi
người thì Tử Phác cứ khinh khỉnh, quay mặt đi, không thèm nghe, ngồi quấn thuốc
lá hút. Vì thái độ kiêu kỳ, khinh cấp trên, nên Tử Phác bị ghét, bị coi là đồng
loã với Trần Dần chống Đảng, bị bắt hai lần cùng với Trần Dần266.
Ngoài thái độ kiêu kỳ, Tử Phác còn là thư ký toà soạn báo
Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội. Ông bị liệt vào tội cùng Trần Dần tổ chức hội
họp soạn bản Dự thảo và chiến dịch chống Đảng trên báo Sinh Hoạt Văn Nghệ.
♦ Đặng
Đình Hưng
Hoàng Cầm kể:
"Năm 1952, Đặng Đình Hưng nhận chỉ thị của ông Trường
Chinh đứng ra thành lập Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, anh làm đoàn trưởng
kiêm chính trị viên. Bà Kim Thoa vợ anh Hưng đã về Hà Nội từ trước 1952. Cũng
năm ấy, bà Thái Thị Liên, nữ dương cầm nổi tiếng, ở Pháp, được ông Pham Văn Đồng
mời về nước. Bà Liên là vợ goá của ông Trần Ngọc Danh, em ruột ông Trần Phú.
Đón bà Liên về, ông Đồng đưa lên sinh hoạt ở Đoàn Văn Công Trung Ương của Đặng
Đình Hưng. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau. Lúc ấy, bà Thoa đã về Hà Nội và
người ta chưa biết cuộc chiến khi nào kết thúc. Việc đến tai Tố Hữu, nếu là người
khác, thì đã bị ông quác lên ngay, nhưng ông Hưng thì ông Tố Hữu không dám, vì
là bí thư và cháu họ của ông Trường Chinh. Sau 1954, ông Hưng thuê nhà phố Hai
Bà Trưng ở với bà Liên267, nhưng cũng không bỏ hẳn bà Thoa. Rồi có chuyện bà
Thoa kiện lên ông Trường Chinh, ông này giao cho ông Tố Hữu giải quyết.
Một hôm, khoảng 8 giờ tối, bà Liên đi vắng, chúng tôi đang ngồi
uống rượu với ông Hưng thì ông Tố Hữu sai liên lạc xuống nói với ông Hưng: Anh
Tố Hữu mời anh lên nói chuyện. Ông Hưng bảo tôi: Thằng đó gọi tao làm gì,
tao đâu có quan hệ gì với nó, ban ngày thì là việc hành chánh, ban đêm tao
đéo đi! Tôi can: Hưng ơi, dù sao cậu cũng là đảng viên, đoàn trưởng
đoàn văn công, thì vẫn ở dưới quyền Tố Hữu, mà người ta mời lên chứ có gọi đâu! Tôi
kích lên như thế thì ông ấy mới đi. Độ một tiếng sau, thấy trở về, mặt lầm lầm
lì lì, chẳng nói chẳng rằng, ngồi xuống uống rượu tiếp. Một lúc tôi mới hỏi: Có
việc gì quan trọng không? Thế là Hưng cáu: Mẹ nó đập bàn với tao, thì
tao đập lại. Nó bảo: Anh không cắt đứt với bà Liên thì anh coi chừng
cái sinh mạng chính trị của anh. Tao bảo: Tôi không có lỗi gì với Đảng
hết, việc làm tôi không sai phạm gì hết. Việc bà Liên và bà vợ tôi là chuyện
riêng của tôi, Đảng không có quyền can thiệp. Thế là nó đập bàn: Anh
coi chừng cái sinh mạng chính trị của anh. Tao cũng đập bàn: Tôi chả
coi anh ra cái thá gì cả, anh không là cái thá gì mà anh dọa tôi!
Thế là ngày hôm sau Tố Hữu chỉ thị cho Nguyễn Xuân Khoát, tổ
trưởng đảng bên âm nhạc, kiểm điểm Đặng Đình Hưng, bắt nhận lỗi hủ hoá với bà
Liên. Ông Khoát nhận chỉ thị thì phải làm chứ ông biết thừa tính ông Hưng. Ông
Khoát tổ chức ba buổi, hỏi ý kiến anh Hưng nghĩ thế nào về việc bà Liên, ông
Hưng trả lời dứt khoát: Tôi không có lỗi gì hết mà phải kiểm điểm. Việc
tôi với bà Liên là việc riêng, Đảng không có quyền can thiệp.
Sau ba ngày kiểm điểm kết quả zéro, đến ngày thứ tư Tố Hữu ra
lệnh khai trừ khỏi Đảng và cất chức đoàn trưởng, Thế Lữ lên thay. Việc này hoàn
toàn không dính dáng gì đến NVGP, bởi vì Đặng Đình Hưng không viết bài cho
NVGP, chuyện gia đình anh Hưng là chuyện riêng, nhưng người ta kéo vào NVGP, bởi
vì cái gì cưỡng lại chỉ thị của Đảng, chống lại Tố Hữu thì bị quy là NVGP"268.
Hai nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và Tử Phác hầu như không đóng góp
bài vở cho NVGP -Tử Phác chỉ viết một bài nghiên cứu âm nhạc- nhưng vẫn bị
thanh trừng nặng nề vì Đặng Đình Hưng được coi là đệ nhất quân sư. Tử Phác, thư
ký toà soạn báo Văn Học Nghệ Thuật, là đệ nhị quân sư, đã cùng Trần Dần chủ mưu
chống Đảng.
● Áp lực bắt vợ Nhân Văn bỏ chồng
Hoàng Cầm kể:
Sau NVGP, ở những nơi có vợ Nhân Văn làm việc, đều được người
ta vận động chi bộ, nếu là đảng viên hoặc công đoàn, nếu ngoài đảng, cho người
đó bỏ chồng. Lập luận đưa ra: NVGP có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, mà sống với
người chồng như thế thì không thể hạnh phúc được.
Ví dụ, bà Nhất là vợ ông Trần Đức Thảo, dạy trường Cao Đẳng
Sư Phạm. Hai người lấy nhau lâu rồi nhưng không có con. Thì chi bộ đại học vận
động bà Nhất phải làm đơn ly dị, vì chồng có tư tưởng xấu, chống tổ quốc, chống
Đảng. Chuyện đến tai ông Phạm Văn Đồng, ông Đồng mời bà Nhất lên vì ông rất
kính trọng ông Trần Đức Thảo, can gián đại ý: "Việc anh Thảo tham gia
NVGP, nếu ta gọi là sai lầm thì đó cũng chỉ là cái sai lầm nhất thời, nếu
chị lấy cái cớ đó để ly dị, tôi e rằng nó xấu hổ cho người trí thức lắm". Quả
nhiên bà Nhất về có rút cái đơn ly dị đi. Và chi bộ cũng biết ý kiến ông Đồng
như thế, nên nó đình lại 5 năm, rồi sau nó làm lại, thủ tục rất nhanh, ông Đồng
không biết, lần này ly dị thật. Đấy là chuyện họ ép bà Nhất.
Còn chuyện tôi với bà Lê Hoàng Yến thì như thế này: khoảng
năm 1959, sau khi thi hành kỷ luật, tôi đi lao động ở Thái Bình về, bà Yến kể:
Một buổi sáng, anh thư ký công đoàn ở bệnh viện Việt Đức, ông giám đốc và một
người nữa, đến nói chuyện với tôi, đề nghị tôi bỏ chồng: "Chồng chị
là NVGP, tội nặng đấy, tư tưởng chống Đảng là xấu lắm, như ở bên Trung Quốc
thì người ta đã bắn bỏ rồi, bên ta nhờ có cụ Hồ bao giờ cũng khoan hồng...". Bà
ấy trả lời: "Báo Nhân Văn thì tôi cũng chả đọc, mà có đọc tôi
cũng chả hiểu họ viết gì, mà cho là phản động. Bây giờ các anh lại bảo Nhân Văn
là xấu, tôi cũng chả hiểu xấu là thế nào, mà đến nỗi phải bỏ chồng. Thôi xin
các anh miễn cho tôi nghe cái chuyện ấy". Rồi họ ra về. Mấy hôm sau họ
lại đến nữa, lần này thì bà ấy đuổi thẳng: "Nếu các anh đến thăm tôi
về chuyện bênh viện Việt Đức thì mời các anh vào, còn nói chuyện như lần
trước thì mời các anh về, tôi chả nghe cái chuyện ấy nữa đâu."
Sang đến chuyện Lê Hoàng Yến. Anh Yến có viết bài phê bình
thơ Tố Hữu năm 1955, đăng báo trước bài của tôi, và sau đó anh tham gia NVGP.
Năm 1959, anh ấy phải đi lao động ở Phú Thọ, vợ là chị Thao, Xuân Thao gì đấy,
vẫn ở Hà Nội, chị tuy năm con nhưng còn đẹp lắm. Anh Lê Hoàng Yến trước kia là
trưởng ty công an tỉnh Quảng Nam, nhưng anh mê kịch, bỏ ngành công an về làm
sân khấu. Anh có uy tín vì am hiểu sân khấu lắm, anh đọc nhiều kịch nước ngoài.
Sau Nhân Văn anh cũng bị phê phán nặng, nhưng kỷ luật thì giống tôi, nghiã là
chỉ bị khai trừ một năm.
Anh là đảng viên, thì cái tổ Đảng bên Sân Khấu của anh nó đến
vận động bà Thao bỏ chồng. Bà Thao đã 5 con nhưng còn xuân sắc lắm, hơ hớ như độ
đôi mươi. Chúng nó vận động thế nào mà bà Thao sốt sắng viết đơn đệ toà ngay.
Người ta mời anh Lê Hoàng Yến từ Phú Thọ về ra toà để ly dị. Buổi đầu còn hoà
giải. Anh Yến bảo "Tôi hoàn toàn không biết có lỗi gì, tôi yêu quý vợ
tôi lắm và tôi luôn luôn giữ đủ bổn phận với gia đình, không hiểu sao vợ tôi lại
có đơn này". Toà hỏi chị Thao thì chị trả lời: "Anh Yến từ
trước đến giờ quả thực không có lỗi gì, trước kia anh còn làm đến trưởng
ty công an, nhưng không ngờ anh ấy lại tham gia vào cái bọn khốn nạn NVGP. Nhờ
ơn Đảng nuôi dậy suốt đời các anh được hiểu biết, được sáng tác, như anh Hoàng
Cầm viết được Bên Kia Sông Đuống, anh Trần Dần viết Người người lớp lớp,
anh Văn Cao cũng thế... Vậy mà chỉ vài năm nay, không biết các anh ăn phải cái
bả gì, người ta bảo là cái bả tiền nong, gái đẹp, khiến các anh đi vào con đường
xấu xa phá hoại, chống Đảng, vì thế sống với anh, tôi mất hết hạnh phúc, tôi
làm cái đơn này, mong toà giải quyết ngay cho, sớm ngày nào hay ngày ấy!" Anh
Lê Hoàng Yến thuật lại với tôi như thế, bà ấy cứ một giọng chắc nịch, anh đi từ
chỗ ngạc nhiên, đến chỗ buồn, buồn lắm, anh không hiểu sao vợ mình lại thay đổi
nhanh chóng như thế. Tôi buồn quá, tôi nói như van vỉ vợ tôi: "Thôi
em hãy nghĩ đến hạnh phúc của năm đứa con, nếu như tôi có lỗi gì thì tôi cũng
đã vui vẻ đi lao động cải tạo để xây dựng lại cho tốt, xin Thao rút cái đơn đó
đi, nghĩ đến tương lai các con mà rút đơn đi". Chị Thao vẫn một mực
khăng khăng: "Chính vì tôi nghĩ đến tương lai các con, không muốn
chúng nhiễm tư tưởng độc hại NVGP của bố nó, trở thành những phần tử xấu xa của
xã hội mà tôi phải ly dị!" Sau đó toà giải tán, hẹn nửa tháng nữa gặp
lại. Trước khi về Phú Thọ, anh Yến xin với cô ấy: "Anh muốn gặp em để
nói chuyện một tý", cô ấy trả lời: "Chả có gì mà phải
gặp, tôi đã nói hết ở toà rồi, anh Nhân Văn là khốn nạn lắm, tôi không thể sống
được với anh nữa". Lần hoà giải thứ nhì cũng vậy, bà ấy vẫn một giọng.
Đến phiên toà chính thức, đông người xem, tôi cũng đến. Chị
Thao lên nói một cách oai phong lẫm liệt, đanh thép và rất ác: "Tôi với
anh Yến lấy nhau có 5 mặt con, không có chuyện gì, nhưng gần đây, tư tưởng chồng
tôi thay đổi một cách rất rõ rệt, trước kia là người tốt, công tác, tư tưởng, lập
trường rất rõ ràng, nhưng từ khi anh ấy tham gia nhóm phá hoại NVGP, có tư tưởng
cực kỳ xấu, phản Đảng, phản nhân dân, tôi nghĩ nếu tôi còn tiếp tục sống với
anh ấy nữa thì đời tôi chỉ là đống bùn hôi thối..."269.
Bi kịch của các văn nghệ sĩ bị Đảng can thiệp vào đời sống
riêng tư, được Lê Đạt thuật lại trong bài "Nhân câu chuyện mấy
người tự tử" với hai câu thơ "để đời":
Đem bục công an máy móc
đặt giữa tim người.
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Lời thơ phát xuất từ những chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên
bi kịch của những người muốn tự do trong tình yêu, nhưng bị Đảng trực tiếp gán
ép hoặc ngăn cản. Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, đều
chung cảnh ngộ: bị Đảng can thiệp vào đời sống cá nhân.
Riêng những người vợ Nhân Văn, nếu không chịu bỏ chồng, thì
phải gánh chịu hậu quả việc chồng làm, trong suốt cuộc đời còn lại.
Lê Đạt kể: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào
cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt
và khuyên cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống
làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là
không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ
thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ.
(...) Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì
ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không
thể hé miệng được"270.
Lê Đạt ghi lại bi kịch gia đình trong thơ như một lời tạ lỗi
vợ con, như một ân hận suốt đời, bài thơ vượt khỏi khuôn khổ gia đình để nói
lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn mà Lê Đạt đã khắc chân
dung họ vào văn học sử:
● Vợ Nhân Văn
Lịch sử quýt làm cam chịu
Xin lỗi em
những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm271 trằn trọc
Anh Thái Hà 272 chưa về
và em khóc
Xin lỗi em
những lời khuyên "cắt đứt"
Vạ gì đeo hai tiếng "liên quan"
Những buổi sớm
muốn chui đầu xuống đất
Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu
Xin lỗi em
tiếng oan vợ thằng phản động
Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ
Xin lỗi em
tuổi ước mơ không được sống
Những giấc ngủ
chưa một lần tròn mộng
Chung thân tâm thần
trọng tội đa mang
Đời sau ơi!
May còn đoái đến tôi
Hãy trả giùm tôi món nợ
Người vợ nhỏ
vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ
Đã chụp mũ chồng
lưng thập tự
Sói ăn
Và Đức Phật
duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ
Xin độ trì
những Thị Kính-vợ-Nhân Văn.
● Con Nhân Văn
Đào Phương Liên ghi lại cuộc sống gia đình nhân ngày giỗ đầu
của cha.
Bài văn khơi động một bi kịch kinh hoàng mà người ngoại cuộc
không thể hình dung nổi:
"... Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở mãi trong lòng câu
hỏi Bố là ai? (...)
Nhưng con không dám hỏi Bố vì sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ
lại lo lắng nhắc Bố: "Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!". Bố thế
nào cũng nổi cáu, quặc lại: "Tôi có làm gì khuất tất đâu mà không được cười
to, nói to?" Con đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm
thắc mắc: "Vì sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch sự?".
Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to thì thầm: "Bà vợ
ông Văn Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy. Ông phải cẩn thận.
Đừng có cười to, nói to. Người ta để ý đấy!" Con đã quá quen với lời nhắc
nhở đó, giờ chỉ còn mỗi bận tâm: "Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được
với tác giả TIẾN QUÂN CA cơ chứ?"
Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng
tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim
cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới
sàn, hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến
cái nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề
những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy
đen xì nổi gai: "chi chi¼chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi
lửa"¼(Mà mỗi khi con hỏi bố tìm gì vì thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn
lên thì bố chỉ im im rồi thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng
là rác vứt đi rồi!). Con vội gạt đi ngay vì nhà mình không có một quyển truyện,
một quyển thơ nào (...) Và con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì?
(...)
Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn
cùng phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ,
đến lớp bô bô: "Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ". Con nghe máu
nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm:
"Bố nó sỏ nhầm giầy à?" Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.
Về nhà, con len lén để ý xem Bố có đúng là "phản động"
không? Con không dám hỏi vì sợ¼ đúng???. Vì sợ¼ đụng phải nỗi đau cần
phải che giấu của Bố dù con không hề tin!
Con đã tự trấn an mình bằng những kiến thức thu nạp được qua
biết bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện
trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong
các tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện,
bảo vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lý giải:
Nếu Bố là "phản động" thì Bố đã không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu
Bố "phản động" thì đã không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết
đó là thẻ Bố được tặng?) (...) Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp
nào con cũng được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác
hàng xóm cười khẩy: "Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng
vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì đừng mơ!"
Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: "Làm gì có chuyện đó. Con cứ thi
đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt". Bố chợt trầm ngâm: "Chắc không có
chuyện gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà
lo?". Rồi Bố lo lắng hỏi lại: "Thế có thật không phải Đoàn viên thì
không được vào Sư phạm không con?". Và bố lại tất tả dắt xe đi¼ Cho đến
lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không
gây ấn tượng gì với con vì con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.
Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư
phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc
đến "bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt" với những câu "bôi xấu chế độ".
"Ta đi không thấy phố thấy phường
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ"
Của bác Trần Dần
Và của Bố:
"Đặt bục công an giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo chế độ".
Con đã cúi gằm mặt, người nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn
mắt nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên "nếu thế thì sai quá còn
gì" dù con không biết những câu sau. Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ
nhiệm của con mới móm mém: "tao đến khổ vì chuyện vào Đoàn của
mày". Con thật thà: "vì em chưa xứng đáng". Cô vỗ vai: "vì
cái lý lịch"273.
Và câu trả lời của Đào Công Uẩn, trước linh cữu Lê Đạt, có đại
diện của chính quyền: "Cha chúng tôi là một người luôn sống và trả giá
"cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự
do".
● Lê Đạt và Hồ Chí Minh
Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của
Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn,
khó hiểu.
Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04- 1999) tại
Paris, ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI,
2004, Lê Đạt đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng cách thời gian, xin ghi lại
hai câu đã bị cắt như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị
lãnh tụ cộng sản:
TK: Chính ở trong phong trào của các anh cũng có điều
khó hiểu: Ngay từ đầu, các anh đã phê bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó
thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng
lãnh tụ. Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng
Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà vẫn thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế
không? Điều này làm cho người ta khó hiểu.
LĐ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình có thể phê phán người khác, nhưng
mình vẫn phạm sự thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi
không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý đến việc ấy, nhưng chắc là trong
ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.
TK: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là "thần
tượng". Nhưng cụ Hồ lại chủ trương điều mà các anh chống lại, đó là sự
toàn trị, và cụ Hồ cấm đoán cái mà các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình
không thể nào "tranh đấu" với một thần tượng mình tôn thờ và đòi lật
đổ sự độc tôn thần tượng đó. Đấy là điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được
trong lập luận của các anh?
LĐ: Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ
cho đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị
nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện thì tôi không bao giờ
có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước
Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa là tôi đấu tranh cả với
cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị
thông cảm cho tôi.
Ngoài micro, tôi nói đùa với nhà thơ: "Cụ Hồ đã làm
các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh được thì lạ quá!". Lê
Đạt cười: "Thì mình cũng phải tin là còn có một người tử tế, chứ nếu
cả nước đều một bọn vứt đi thì làm sao sống nổi!"
Lê Đạt có viết bài trường ca Bác274. Đây là bài thơ
ca tụng bác Hồ với những tình cảm chung chung, không thấy bộc lộ cảm xúc chân
thực, phát xuất tự đáy lòng:
"Trong lặng im trắng
mênh mông
mỗi tấc lòng
Ta càng nghe rất rõ
cái thủa Ba Đình
Di chúc
bác mở tay
mở bay
trang rộng"275
Thời đầu kháng chiến, hầu hết người Việt đều coi bác Hồ là
"cứu tinh của dân tộc", và nhà thơ nào cũng có bài ca tụng thần tượng,
kể cả Vũ Hoàng Chương.
Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời
điểm khá trễ này? Phong Lê trong bài "Có một trường ca về Hồ Chí
Minh..." cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu
của HCM, nhưng phải 20 năm sau, mới được in276. Đào Phương Liên cho biết, khi
"Ông" mất, bố mẹ để tang "Ông". Như vậy bài thơ Bác đã
làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?
Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đe dọa Lê Đạt: "Tội của anh
cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng vì
nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích được
cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh-đừng-nên- nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!"
Ðó là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về."277
Trong "lời dặn dò" của Tố Hữu, hình như Đảng chính
là Bác?
"Tội" của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn "tội"
Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao
giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc.
Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng đã có sự "khoan
hồng" ở Bác, đối với một nhà thơ có tài? Lê Đạt đã cảm nhận như
thế và đó chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và tình cảm
"khoan hồng" của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như thế.
● Những bài thơ khóc bác Hồ không được đăng
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết "lý lịch" một
số những bài thơ ca tụng bác Hồ:
"Làm thơ ca tụng bác Hồ, trước tiên là Tố Hữu. Thời trước
cách mạng, tôi đọc được trên báo một số bài thơ ký tên Tố Hữu, trong đó có một
bài tên là Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, chưa mấy ai biết rõ bác Hồ. Phải đến ngày
2/9/1945, người ta mới biết đó là một lãnh tụ ở xa về. Còn tên Tố Hữu chưa biết
là ai. Bài thơ Hồ Chí Minh rất dài trong có một câu làm tôi chú ý: "Hồ
Chí Minh mắt sáng quắc tay xanh lè mã tấu. Quyết vùng lên thề phanh thây uống
máu lũ cường quyền. Ôi khoái trá vô biên". Bài thơ tả một người: mắt
sáng quắc, tay xanh lè mã tấu, thế ông ấy là tướng cướp à? Còn câu: Thề
phanh thây uống máu quân thù thì có trong quốc ca của Văn Cao, trong bài
Đêm Liên Hoan của tôi cũng có moi gan uống máu quân thù, và ngay quốc ca
Pháp cũng có, nghe thấy mà ghê. Nhưng đặc biệt câu này: Ôi khoái trá vô
biên, mới thật là rùng rợn, uống máu quân thù mà thấy khoái trá vô biên thì ghê
quá, khát máu quá, không thể chấp nhận nổi. Đấy, tôi biết Tố Hữu qua bài thơ ấy.
Đến khi ông Hồ mất, năm 1969, Đặng Đình Hưng mới đưa ra ý kiến:
Một người như bác Hồ mất đi thì ai cũng có cái xúc động. Vậy nhân dịp này, nếu
chúng ta còn cái cảm tình gì đối với ông Hồ thì mỗi thằng nên làm một bài thơ,
gửi lên Trung Ương để tỏ rằng: chúng tôi là những người công dân chân chính,
cái gì đáng yêu đáng kính thì chúng tôi trân trọng. Trước cái chết của bác Hồ,
chúng tôi biết rung động, tác phẩm của chúng tôi đây. Mọi người đều tán thành.
Đặng Đình Hưng viết bài "Bác còn", tức là Bác không chết
đâu. Tôi viết bài "Bác về", Lê Đạt viết "Bác Hồ" gồm
3 bài dài như trường ca. Riêng Trần Dần quanh quẩn mãi sau chịu thua: "Tao
loay hoay mãi mà không làm nổi một câu nào!" Đành thôi. Thế là được
ba bài, gửi lên bốn nơi: Ban Tuyên Huấn Trung Ương, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí
Trường Chinh và Hội Nhà Văn.
Chúng tôi nhận được hai danh thiếp trả lời: Ông Phạm Văn Đồng
trả lời anh Đặng Đình Hưng, đại ý: "Anh Hưng thân mến, tôi đã nhận được
bài thơ anh viết về Bác, tôi đọc và rất xúc động. Ở trên này chúng tôi vẫn hết
sức đấu tranh, thảo luận để làm thế nào cho anh em trở lại sáng tác như trước." Hoàng
Cầm nhận được thiếp của ông Trường Chinh vỏn vẹn: "Cảm ơn đã nhận được
bài thơ về Hồ Chủ Tịch".
Lê Đạt không nhận được gì cả. Lê Duẩn, Tố Hữu không viết lời
nào.
Đến Tết năm ấy, trên báo Nhân Dân người ta mở cái mục gọi cảm
tình của "Quần chúng với Bác Hồ", tôi cũng gửi bài thơ ấy đến
báo Nhân Dân, kèm lá thư cho ông chủ nhiệm Hoàng Tùng, giãi bày: nhân danh công
dân, trước cái chết của bác Hồ, tôi làm bài thơ "Bác về" mong
được báo Nhân Dân trích dăm ba câu, như một tác giả vô danh, đăng trong mục
"Quần Chúng với bác Hồ".
Gửi hôm trước thì hôm sau anh Nguyễn Địch Dũng cầm trả tôi bản
thảo cả bài thơ đó, bảo anh Hoàng Tùng có nhận được thư anh nhưng báo chật chỗ
quá rồi. Điều đó chứng tỏ, người ta thù ghét anh em NVGP đến thế nào, đến khóc
bác Hồ mà cũng không được phép đăng báo"278.
Việc làm thơ khóc bác Hồ của ba thành viên NVGP, có thể có
hai ý nghiã: ý nghiã trữ tình, phát xuất tự tâm hồn của họ và ý nghiã chiến lược:
muốn nhân dịp này để đo mức độ tình cảm của Đảng dành cho họ.
Sự trả lời của Đảng thật rõ ràng, tàn nhẫn, nhất là đối với
Lê Đạt.
Tóm lại, dường như ở những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần,
Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình,
khi nhìn vị lãnh tụ.
Trong khi những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn
Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ
không mấy lãng mạn mà nghiêng về lý trí.
● Quốc Dân Đảng
1- Trong bản "tự thú" Lê Đạt viết một câu đáng chú
ý:
"Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi
bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh
tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va
chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của
giai cấp tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng"279.
2- Khi trả lời phỏng vấn Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:
"Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một
người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy
là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được
ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa
lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn"280.
3- Truyện ngắn "Thế l༠chị ơi!" của
Vũ Ngọc Tiến, đăng trên Talawas, gián tiếp viết về đời sống nhà thơ Trần Dần và
bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ ông, đặc biệt có đoạn tả cái chết của ông Phán Hậu (ân
nhân của bà Khuê) như sau:
"Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh (...). Song
cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất
tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc Dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp
ai rửa cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt
trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học
bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái:
"Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng "không
thành công cũng thành nhân". Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn
đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!..." Cái án oan ấy khiến
anh đang đi công tác Cải cách ruộng đất ở Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở
đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt thì còn đâu những tác
phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm
ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"
Câu chuyện ông anh cả của Thuý Thuý, và ông Phán Hậu, ân nhân
của Ngọc Khuê, khơi lại chính sách thanh trừng những người có "liên
quan" với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt phải tuyệt đối giấu quá khứ
Quốc Dân Đảng của mình. Trong NVGP, ba người có "liên quan" với Quốc
Dân Đảng là Phan Khôi, Thụy An và Lê Đạt, vì thế, một mối thâm tình liên kết họ
với nhau:
- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan
Khôi, với những lời đầy ý nghiã: "Phan Khôi với tôi vốn có những quan
hệ đặc biệt". "Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người
lãnh đạo tờ Nhân Văn". Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ
Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như bạn đồng hành, Phan Khôi
mới là thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào
khác, nếu không vì Phan Khôi là người theo Quốc Dân Đảng, lý tưởng đầu đời
của Lê Đạt?
- "Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián
điệp", "Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là
thân với tôi". "Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy
An đối với tôi". Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% Thụy An không phải
gián điệp, nếu ông không biết rõ hành động của Thụy An? Nếu họ không cùng một
lý tưởng?
Câu "Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối
với tôi", có nhiều ý nghiã. Công gì? Thụy An có công với nhiều người,
công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ
khi Thụy An bị nạn cho đến khi chết, những bạn đồng hành không ai nói một lời
biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ "công" này
là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự
hàm ơn Thụy An, đã không "khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một
thành viên cũ của VNQDĐ.
Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt
Nam Hiện Đại281 là: "Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến
việc thành nhân hơn là thành danh" có gì rất gần với lời Nguyễn Thái
Học: "Không thành công thì thành nhân".
● Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái
Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu
xa: Yên Thế, quê nội và Yên Bái, quê ngoại.
Yên Thế là đất của Đề Thám, triều Nguyễn thuộc phân Phủ Lạng
Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), có 2 mảnh đất lịch sử: tổng Nhã Nam và tổng
Yên Thế:
- Nhã Nam, nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã (1889),
và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng
(1913).
- Yên Thế, nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn
20 năm, vị trí hiểm trở, "rừng thiêng nước độc", nằm giữa rặng Cai
Kinh (Lạng Sơn) và đồi núi Thái Nguyên.
Yên Thế, một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một
can trường chống Pháp thất bại:
Đất quê cha tôi
đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ
cha tôi dẫn đầu
lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau
vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...
(Cha tôi)
Rồi người cha buông tay, bỏ cuộc, vì miếng cơm manh áo. Người
con, tiếp tục lên đường:
Cuộc sống hàng ngày
nhỏ nhen
tàn bạo
Rác rưởi gia đình
miếng cơm
manh áo
tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa
như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
kiên quyết làm người.
(Cha tôi)
Bài Cha tôi sáng tác tháng 7/56, giữa Giai Phẩm
Mùa Xuân và Nhân Văn, trong thời kỳ phục xuống mà sáng
tác theo lời Văn Cao, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu của
Lê Đạt, lấy đất Yên Thế làm khởi điểm. Yên Thế được Lê Đạt công khai xác nhận,
vì Yên Thế là tỉnh cha, là đất của Đề Thám.
Ngược lại, Lê Đạt không thể công khai trình làng Yên Bái, quê
ngoại, bởi Yên Bái là quê hương Quốc Dân Đảng.
Yên Bái có pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học
và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới lên một. Yên Bái là đất
sinh, Yên Bái là Tỉnh mẹ. Yên Bái, hơn là một nơi chôn rau cắt rốn,
đã trụ lại như cái mốc đầu đời, là khởi điểm của cõi viết Lê Đạt và nẩy mầm ý
chí cách mạng vùng lên chống Pháp.
Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ: Yên Bái. Tập
thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, âm thầm dành cho
Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh
mẹ, in trong phần di cảo của Đường chữ, tác giả mơ hồ cho biết đây là
tập thơ bị thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào có ghi ngày tháng ở dưới.
Lê Đạt cũng không hề nhắc đến Tỉnh mẹ khi còn sống. Vậy Tỉnh mẹ có
thật sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch thu", sau này mới được trả lại? Tỉnh
mẹ bị tịch thu, hay vì Yên Bái là một "liên quan" thầm
kín mà tác giả cần phải giấu đi? Cũng như, về nơi sinh, Lê Đạt chỉ ghi Âu Lâu,
trên bờ sông Hồng, không dám nhắc đến tên Yên Bái?
Tỉnh mẹ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên,
nguồn gốc quốc dân đảng. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng
thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt
là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền
trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập
thân, khởi đi từ Yên Bái. Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một "người hàng
xóm", "người chị", và cũng là "người yêu", bị con trai
quan phủ làm nhục, bị xóm làng hắt hủi:
Đêm ấy
chị ra sông tự tử
Theo những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo trắng
như buồm mộng
về một chân trời nào
cao rộng
thăm thẳm
xa 282
Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo
đường, bèn hỏi Chúa có thấy không?
Chúa về tự bao giờ
Có phải thật Người không?
Tiếng chuông
lu loa
hối hả
giục
người bõ già
Quét
chiếc xác
nằm co quắp
Chết
giữa ngày Phục sinh 283
Từ Yên Bái, nhà thơ thấy một người anh, ban đầu có "chí
lớn", rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ
đời: Người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà đang ở thời cách mạng:
"Trong khoảnh khắc
đối diện cùng sự thật
Sởn tóc gáy
như kẻ sát nhân
đột nhiên
thấy
người mình thủ tiêu
lững thững
hiện theo về
đối chất.
"Anh có thể lừa
cha mẹ
vợ con
lừa cả nước
Nhưng thế nào
cũng có lần
anh phải lôi ra
trước vành móng ngựa bản thân anh"284
Yên Bái, một xã hội Việt Nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:
Yên Bái
dăm cô gái
lỡ thì
thổn thức
Nhất Linh
Tay Loan Dũng
lên ô kính bụi
Chơ chỏng
mấy con búp bê
gẫy cẳng
bạc màu
Yên Bái
một phố chiều
thượng du nắng lụi
Một con đường
rơm rớm
máu rơi
Đôi vợ chồng già
không con
nhìn bóng tối
Ôm con mèo gầy
nhức nhối
chuyện ngày xưa
Yên Bái
hôm nào
cũng ra ga
Hôm nào
cũng nhỡ tàu
ở lại
Với những tiếng còi
rứt ruột
gọi đi
Và một chân trời
nhêu nhếch
khói (...)
Yên Bái
những ngày trích lục nhau
sao thành nhiều bản (...)
Yên Bái
một quê hương vỡ nợ (...)
Một ngã ba thành năm sáu ngã ba 285.
Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ
tội đã trót đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời
kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến
như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc:
Yên Bái
chỉ để lại
trong tôi
những kỷ niệm
nhạt
như nước ốc
Sao hôm nay
khi tiêu thổ quê hương
tôi bỗng khóc (...)
Yên Bái ơi!
Cố sống
lấy thêm
dăm ngày nữa (...)
Hôm nay
ta đánh vỡ
quê hương
Đánh vỡ
từng viên gạch
tổ tiên ta
cóp nhặt (...)
Quê hương ơi!
Ta không phải
kẻ ăn tàn phá hại
Vén tay áo xô
đốt gia tài
ông cha để lại...286
Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc
đi vào tan nát, khổ đau:
"Ôi! Những ngày đầu
quê hương tan nát lửa
Như đàn cò
vỡ tổ
bế nhau đi
Đằng trước một chân trời sẹo đạn
Đằng xa
thông thống một đường về
Ta đã
chọn
đường
đi về phía trước
Chân chảy máu
nạng vào nhau ta bước
Điểm chỉ
trên khắp mọi ngả đường
Trong bản giao kèo
ta ký
với tương lai 287
Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:
Bà mẹ Âu Lâu
ngồi
như gốc mai nở trắng
giữa đàn con
đủ
các giống người
Thằng cả
Xa lum
người Xê nê gan
làm mỏ than Ma rốc
Vào hầm than
đen
như thấy dân tộc mình
mấy ngàn đời
vùi dập
chết
ở đây
Tan tầm về
ra bờ sông nước trong
rửa mặt
Rửa xong
nhìn
mặt vẫn nhọ than
Thằng hai
Ma Hô Mét
Công nhân bốc vác
An Giê
Gù gù
lưng cánh phản
Ngày ngày
khuân tổ quốc
xuống tàu buôn...288
Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca
thời ấy, Mẹ là bài thơ phản chiến, nhân bản nhất trong văn chương Việt
Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến,
"dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy
"tội" của Lê Đạt phải là rất nặng, nặng từ trườc thời kỳ NVGP.
● Nhân Văn Giai Phẩm
Xuân Diệu lên giọng: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai
Phẩm Mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt
là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn:
"Trích thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai
"Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo
Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất
cay độc (...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm
"nhà lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm,
Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc
lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt
luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ
lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt,
ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản
chất giai cấp thù địch"289.
Lê Đạt không chối cãi vai trò chủ chốt của mình trong bài tự
kiểm thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận
của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm
có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm
vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi
góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân
Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một
thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp
nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán"290.
Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên
Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất
và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có: Thế giới
này là của chúng ta (phát hành tháng 12/1955). Bài thơ trên ghế
đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957). Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ,
Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957). Đụng long mạch (in
trên Tự Do Diễn Đàn, tháng12/56, báo bị cấm). Lê Đạt còn nói đến bút ký "Vào
21", viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất
lạc ở đâu.
Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống.
Nhưng thơ bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Nếu muốn tìm hiểu thực chất của
xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không
chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi. Những
tác phẩm viết trong tù của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, gia đình các em, hoặc bạn
bà là Trinh Tiên -tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo- còn giữ.
Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng
ta có thể biết được nội dung một số thơ Lê Đạt sáng tác trong thời kỳ NVGP, đã
bị cấm. Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu "dưới sự
lũng đoạn của Hoàng Cầm" nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ
này năm 1957, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa. Vẫn theo Xuân Diệu, tác phẩm này "là
cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối", "anh
ta [Lê Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế độ", bài "Đu"
là "một sự khiêu khích". Bài "Gia đình", với
những câu như: "Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình yêu bị
những cái hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra và
cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một điệu hưởng lạc, chết
lịm trong tình yêu".
Vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản
còn có bài "Trong hầm bí mật", nhưng không in, bài này rất tiêu
biểu cho cái triết lý "máu, sướng và chết" của Lê Đạt. Xuân
Diệu viết tiếp:
"Bài thơ trên ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng.
Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ
cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng
chưa bắc qua được một lòng người".
"Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh,
yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn-Giai Phẩm thì chỉ
có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu"291.
Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung
bài Đụng long mạch, in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng 12/56, báo bị cấm:
"Trong bài thơ "Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng
lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng
nhưng vì sợ bị "đụng long mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau
có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào
giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun
loang loáng", và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn
khắp nơi.
(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những
"anh hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã "dám
cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời". Lê Đạt đã kêu ầm
lên một cách hậm hực rằng:
"Những con người ụ
Ềnh ra cản đường"
Và Lê Đạt hô hào:
"Cần biết bao nhiêu
Những cái đầu táo bạo
Dám nghĩ, dám làm
Không nô lệ chung quanh"
(...) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:
..."lưng con rồng,
Ai đào giếng đụng vào long mạch
Thì phải tội mù hai con mắt
Cả nhà hộc máu chết tươi"
Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:
"Long mạch này mà đứt
Cả nhà không thoát một người"
hoặc:
"Long mạch hôm nay rung chuyển Phen này rồi chết cả
nhà"292.
Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà
thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên
đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ
nguyên mới cho đường chữ.
Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch
sử:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời.
Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối
đau thương:
Vũ trụ ơi
tha cho tôi
Tất cả những gì
thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở
mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn
màn đóng lại mục đời.
Chú thích:
249 Trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn,
2009.
250 Theo Hoàng Cầm là Trường Luật, nhưng học ít lâu thì
trường Luật bị giải tán.
251 Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn
Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.
252 Vào thành.
253 Năm 1954, Nguyễn Hữu Đang 41 tuổi, Hoàng Cầm 32, Văn Cao
31, Trần Dần 28, Lê Đạt 25 tuổi.
254 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
255 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.
256 Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12,
tháng 5/58, trang 80.
257 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.
258 nxb Hội Nhà Văn, 1994.
259 Theo Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng (1924-1990) để lại 6
tập thơ, phần lớn chưa xuất bản. Chúng tôi chỉ thấy Bến lạ (1991) và Ô
mai (1991) và đã giới thiệu hai tác phẩm khai phá này trong cuốn Cấu
Trúc Thơ, Văn Nghệ, 1995.
260 Tức Tố Hữu.
261 Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình
Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.
262 Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân phỏng vấn
tháng 1/2003, BBC Việt Ngữ 6/5/2008.
263 Cải Cách Ruộng Đất.
264 Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, Văn Nghệ
Cali, 2001, trang 87.
265 Thực ra là ba tháng.
266 Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
267 Nhạc sĩ Đặng Thái Sơn, con của hai người sinh năm 1957.
268 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
269 Những chuyện về Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình
Hưng, bà Nhất, bà Yến, bà Thao trên đây, theo băng HC nói chuyện với bạn bè.
270 Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân, bài dã dẫn.
271 Vợ tác giả là diễn viên kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch
phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (Chú thích Lê Đạt).
272 Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu tranh chống NVGP (chú
thích Lê Đạt).
273 Đào Phương Liên, Bố ơi, những câu chuyện của con...,
Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009.
274 Một phần trích in trong Văn học VN sau cách mạng
tháng Tám, Văn Học, Hà Nội 1992.
275 Sđd, trang 132.
276 Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990, nhân ngày kỷ niệm 100 năm
sinh HCM. 277 Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
278 Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
279 Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số
12, tháng 5/58, trang 80. 280 Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd.
281 Nxb Hội Nhà Văn, 2007.
282 Thơ ngây, Tỉnh mẹ, Đường chữ, trang 298.
283 Người ăn mày già, sđd, trang 319.
284 Một cuộc đời, sđd, trang 309.
285 Phác họa màu xám, sđd, trang 333.
286 Tiêu thổ, sđd, trang 345.
287 Quê hương du ca, sđd, trang 353.
288 Mẹ, sđd, trang 363.
289 Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản
trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tập Dao có
mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95.
290. Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12,
tháng 5/58.
291. Xuân Diệu, Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân
trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58.
292. Xuân Hoàng, Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72.
10/9/1995
Thụy Khuê
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét