Nguyễn Thị Manh Manh - Nữ sĩ
tiên phong trong Phong trào Thơ
mới
Manh Manh đăng đàn diễn thuyết bênh vực Thơ mới với tư
cách là nhà hoạt động văn hóa đi tìm những chân trời sáng tạo mới cho thơ hơn
là một thi sĩ chuyên nghiệp. Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Manh Manh để lại chừng
mươi bài: Viếng phòng vắng, Thơ gởi cho em Vân, Mộng du, Canh tàn, Lá rụng,
Sa đà, Hai cô thiếu nữ, Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới, Một
bài thơ gởi riêng cho các anh ghiền: Bà Lafugie – nhà thám hiểm và họa sĩ, Đêm
khuya qua Xuân Lộc.
Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp
Nguyễn Thị Manh Manh tên thật là Nguyễn Thị Kiêm, có nhiều
bút hiệu như: Manh Manh, Myn, Nguyễn Văn Myn, Lệ Thủy…, sinh năm 1914 tại tỉnh
Gò Công. Cha là tri huyện Nguyễn Đình Trị, một nhà báo có tiếng đương thời.
Nguyễn Thị Kiêm lúc nhỏ học ở Gò Công, sau lên Sài Gòn học trường Trường trung
học thiếu nữ bản xứ (Collèges des Jeunes filles Indigènes), tức trường Collèges
des Jeunes filles Annamites de Saigon/ Trường nữ Trung học Annam Sài Gòn([i]).
Khoảng năm 1931-1932, Nguyễn Thị Kiêm tốt nghiệp bằng Thành
Chung ban sư phạm, rồi được giữ lại trường dạy học. Vừa dạy học, Nguyễn Thị
Kiêm vừa tham gia hoạt động xã hội và viết báo, cô viết cho Phụ nữ tân văn,
Công luận, Nữ lưu…
Khoảng những năm 1933-1934, cô đăng bài trên Phụ nữ tân văn ủng
hộ Phong trào Thơ mới của các thi sĩ đàn anh: Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…
Ngày 26.7.1933, năm 19 tuổi cô đăng đàn diễn thuyết tại Nhà hội của Hội khuyến
học Sài Gòn về đề tài Thơ mới. Tiếp đó cô lần lượt ra Qui Nhơn, Đà Nẵng, Huế, Hải
Phòng, Hà Nội… diễn thuyết hô hào cải cách văn chương, cải cách xã hội, nhất là
cổ động cho nữ quyền. Các buổi diễn thuyết được đông đảo người tham dự và ủng hộ
nhiệt liệt.
Sau này có lẽ Nguyễn Thị Kiêm có tham gia hoạt động yêu nước
chống Pháp. Trong Hồi ký 1925-1964, tập 2 (1945-1954), nhà văn, nhà báo Nam
Đình Nguyễn Thế Phương có kể chuyện Manh Manh đi rải truyền đơn chống Pháp
nhưng không nói rõ của tổ chức nào.
Nguyễn Thị Manh Manh kết hôn với người bạn thơ Lư Khê Trương
Tuấn Cảnh([ii]). Trương Tuấn Cảnh sinh năm 1916 tại Hà Tiên, là nhà thơ, nhà
báo có tiếng đương thời, được người đời xưng tụng là “Hà Tiên tứ kiệt” cùng với
Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà. Hai người kết hôn khoảng năm 1936-1937, lúc ấy
Nguyễn Thị Kiêm 22-23 tuổi, Lư Khê 20-21 tuổi. Hai người sinh được người con
gái, gọi là bé Mi Nu. Bé Mi Nu yểu mệnh, chỉ sống được một tuổi. Nguyễn Thị
Kiêm không sinh được nữa, nên để cho chồng kết hôn với người khác. Năm 1950, Lư
Khê bị ám sát chết. Cũng năm ấy Manh Manh sang định cư ở Pháp và sống âm thầm ở
đấy cho đến cuối đời. Nữ sĩ mất ngày 26.1.2005 tại một nhà dưỡng lão ở Paris.
Tác phẩm: Nguyễn Thị Manh Manh để lại tổng cộng 10 bài thơ mới,
đó là: Viếng phòng vắng, Thơ gởi cho em Vân, Mộng du, Canh tàn, Lá rụng,
Sa đà, Hai cô thiếu nữ, Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới,
Một bài thơ mới gởi riêng cho các anh ghiền: Bà Lafugie – nhà thám hiểm và họa
sĩ, Đêm khuya qua Xuân Lộc. Đáng chú ý là loạt bài du ký: Cuộc
hành trình từ Nam ra Bắc, Hà Nội với mấy cái cảm tưởng đầu (Phụ nữ tân văn
số ngày 25.10.1934, 8.11.1934, 13.12.1934), Dưới chân đèo Cả (Phụ nữ
tân văn số 252/ 1934). Bên cạnh đó cô có nhiều phóng sự trên báo Phụ nữ tân
văn, Nữ lưu… Đóng góp quan trọng hơn cả của Manh Manh là các bài diễn thuyết rất
nổi tiếng đương thời:
– Phụ nữ và văn học, bài diễn thuyết vận động thành lập
nữ lưu học hội tại Hội chợ phụ nữ 1932 (Phụ nữ tân văn số 131, ngày 26.5.1932,
sau nhà in Nguyễn Văn Viết in lại, Sài Gòn chung với bài Phụ nữ với thể dục của
cô giáo Út/ Bùi Thị Út diễn thuyết tại Hội chợ nói trên)
– Về lối thơ mới, bài diễn thuyết ở Hội Khuyến học Sài
Gòn, ngày 26.7.1933 (Phụ nữ tân văn, số 211, ngày 10.8.1933; số 213 ngày
24.8.1933)
– Dư luận nam giới đối với phụ nữ tân tiến, bài diễn
thuyết ở Hội Quảng Tri, Huế, ngày 8.5.1934 (Phụ nữ tân văn, số 243, ngày
24.4.1934)
– Một ngày của một người đàn bà tân tiến, bài diễn thuyết
ở Hội Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội, ngày 8.9.1934 (Phụ nữ tân văn, số 259, ngày
20.9.1934)
– Có nên tự do kết hôn hay không? Bài diễn thuyết ở nhà
séc Lạc Bằng do Hội Trí Tri Nam Định tổ chức ngày 03.11.1934 (Phụ nữ tân văn, số
267, ngày 21.11.1934)
– Có nên bỏ chế độ đa thê không? Bài diễn thuyết ở
Hội quán Hội Trí Tri Hải Phòng (Phụ nữ tân văn, số 268, ngày 9.11.1934).
2. Người bênh vực và khẳng định Thơ mới
Nguyễn Thị Kiêm thuộc thế hệ những phụ nữ đầu tiên được hưởng
trọn vẹn nền giáo dục Tây học. Trường Áo Tím của cô là trường nữ đầu tiên trong
cả nước. Trường thành lập năm 1913, sau đó mới đến trường nữ ở Hà Nội (trường
Trưng Vương hiện nay), trường Đồng Khánh ở Huế. Tất nhiên trước Manh Manh đã có
những người phụ nữ được hưởng nền giáo dục Tây học như: Nhàn Khanh, Tương Phố,
Đạm Phương, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phan Thị Bạch Vân… nhưng tất cả còn nửa cổ nửa
kim, và chưa đạt những bằng cấp cao. Ông Huyện Nguyễn Đình Trị quê Gò Công có
hai cô con gái, ông đều cho vào học trường nữ. Cô chị học xong được ông cho
sang Pháp du học, lấy được bằng Tiến sĩ văn chương và quay trở lại dạy ở Trường
Áo Tím, cô đã sống một cuộc đời chắc là hạnh phúc và bình lặng của nữ giáo sư
trung học. Cô em – Nguyễn Thị Kiêm, lấy được bằng tốt nghiệp trung học (bằng
Thành chung) năm 1932 thì ở lại trường dạy học, đồng thời tham gia hoạt động
báo chí và xã hội. Cô trở thành phóng viên của tờ Phụ nữ tân văn mà chủ
bút của nó là nhà ngôn luận cự phách Phan Khôi.
Ngày 10.3.1932, trên báo Phụ nữ tân văn số 122, Phan Khôi đã
tuyên chiến công khai với Thơ cũ với bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ. Trong đó ông cho rằng cần phải phá bỏ tất cả niêm luật thơ cũ để có thể
trình bày một cách thành thực tình, cảnh ở trong thơ. Phan Khôi đã tiên liệu cuộc
đấu tranh để đả phá thành trì của thơ cũ đã từng tồn tại hàng nghìn năm không
phải là chuyện dễ, trước ông đã có người thất bại, thậm chí có thể cả ông cũng
thất bại, nhưng tương lai tươi sáng cho Thơ mới nhất định sẽ đến:
“Chẳng phải tôi là người thứ nhứt làm ra việc nầy. Hơn mười
năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại.
Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng
cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí
đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng
của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau nầy có người làm như
tôi mà thành công.”
Sau bài viết của Phan Khôi, người ủng hộ nhiệt thành nhất là
Lưu Trọng Lư với bài Bức thơ ngỏ cùng Phan Khôi tiên sinh sau
khi đọc bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (Phụ nữ Tân
Văn, số 174, ngày 27.10.1932). Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và thơ cũ rất quyết
liệt, từ Sài Gòn cuộc tranh luận này lan ra cả nước: người tán đồng cũng lắm, kẻ
chê bài dè bỉu cũng nhiều. Người chê bai Thơ Mới đều là những tay cự phách
trong làng thơ ca, báo chí, học thuật.
Trong tình hình ấy, ngày 26.7.1933 tại Hội Khuyến học Sài
Gòn, Nguyễn Thị Manh Manh đã đăng đàn diễn thuyết để bảo vệ Thơ mới. Manh Manh
sinh năm 1914, vậy là năm ấy cô mới 19 tuổi.
Trong bài diễn thuyết của mình, mở đầu Manh Manh đã chỉ ra những
hạn chế của các thể thơ truyền thống, nhất là thơ Đường luật. Cô nói:
“Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó buộc về từng câu từng
chữ, chặt chịa về luật bình trắc, về phép đối câu, đối chữ. Vì khuôn khổ luật
phép phiền phức nên người làm thơ Đường ở trong một phạm vi eo hẹp lúng túng, hễ
cảm hứng ra bài nào là câu văn nhái lại như mấy trăm bài khác; còn ý tưởng dường
như đã có nhiều nguời “phát minh” ra trước rồi. Bằng muốn bỏ hết mấy sáo cũ, diễn
những tư tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn khổ. Ta chỉ nói rằng thơ Đường luật
không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay, bao nhiêu cái ý tưởng sâu đều
đã có một hạng thi tài đời xưa phô tả hết rồi người đi sau vì cái vòng niêm luật
ấy phải lập lại câu cũ ý xưa mà thôi, thành ra lời văn không thích hạp với sự đời
bây giờ mà ý tưởng thì không tả ra hết được.”([iii])
Từ đó cô khẳng định: thơ mới ra đời là một nhu cầu tất yếu để
diễn tả tình tứ: “Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà “đẹt mất” thì rất cầm
phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác lối
xưa nên gọi là “Thơ mới”.
Hẳn không ít độc giả rất thích thú với cách dùng khẩu ngữ Nam
Bộ qua từ “đẹt mất” để diễn tả tình trạng tư tưởng và tình cảm của người làm
thơ không lớn lên được do sự gò bó của niêm luật.
Sau đó bài diễn thuyết đề cao các bài thơ mới, bắt đầu từ
bài Tình già của Phan Khôi. Cô gái tân học 19 tuổi này đã phê bình
bài thơ của nhà chí sĩ, học giả Phan Khôi thế này: “Về hình thức thì bài Tình
già không được gọn, nhưng về nội dung, tình tứ giãi ra một cách rõ ràng, dễ
hiểu mà thật thà. Chỉ đọc qua là nghe khác hẳn lối thơ xưa, có vẻ thiết thực và
cảm hóa được người đọc”.
Lời phê bình ấy không thể nói là không chí lý. Tiếp theo Manh
Manh ca ngợi giọng điệu mới mẻ trong bài Trên đường đời của Lưu Trọng
Lư, Vắng khách thơ của Thanh Tâm – như cô nói: “đó là ba bài thơ mới
đầu hết mà ít có ai để ý tới”.
Sau đó Manh Manh nói về thơ của mình và thơ của Hồ Văn Hảo. Về
Hồ Văn Hảo, Manh Manh có cái nhìn rất tinh, rất sắc :
“Bài thơ đầu của Hồ Văn Hảo là Tự tình với trăng. Câu văn thật
êm đềm mà rõ rệt, người xem bài này có thể vẽ ra được một cảnh : “Màn trời
ai vén/ Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi/ Một nụ cười/ Ra chiều xẻn lẻn…”. Tiếc
là ý tưởng bài thơ này hơi cũ, tác giả chê cõi đời này là “bể khổ trầm luân”,
không thiết tha gì đến đời, muốn lên ở cung trăng, cho êm tịnh”.
Manh Manh đặc biệt ca ngợi bài thơ Con nhà thất nghiệp của
Hồ Văn Hảo (Ngọn đèn leo lét/ Xác xơ một nóc nhà tranh/ Trên chiếu tan tành/ Một
trẻ thơ nằm im, xanh mét…). Cô ca ngợi bài thơ này vì nó đã mở ra một chân
trời sáng tạo mới: thơ ca làm sao phải tả được những xúc động chân thật nhất của
con người: “Có lẽ trong thơ văn, người cu ly ở trần, quần vắn là một động vật
không có gì lãng mạn chăng? Có lẽ cái bi kịch một người nghèo khổ phải đi ăn trộm
hụt, chúng hay được la “ăn trộm! ” rồi anh chạy trốn, kịch ấy không gì lạ, đáng
để ý chăng? ”.
Kết thúc bài diễn thuyết, Manh Manh tỏ ra tin tưởng vào tương
lai tươi sáng của Thơ mới: “Tôi xin nhắc rằng chúng tôi chẳng hề nói mình đã đặt
ra những thơ mới hoàn toàn xuất sắc bao giờ, chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều
người để ý đến và có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực
rõ ràng những thi cảm của các thi nhân hiện thời”.
Cuộc đăng đàn diễn thuyết về Thơ mới của Manh Manh sau đấy đi
vào lịch sử văn học, vì đây là lần đầu tiên sau 25 năm hoạt động của Hội khuyến
học Sài Gòn “lần này mới có nữ sĩ đăng đàn diễn thuyết” như lời Bác sĩ Trần Văn
Đôn, Hội trưởng đã nói. Còn hai nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân nhận
xét: “Cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế”
và khen ngợi Manh Manh là “một nữ sĩ có tài và có gan”.
3.Nữ thi sĩ tiên phong đổi mới thơ ca
Manh Manh đăng đàn diễn thuyết bênh vực Thơ mới với tư cách
là nhà hoạt động văn hóa đi tìm những chân trời sáng tạo mới cho thơ hơn là một
thi sĩ chuyên nghiệp. Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Manh Manh để lại chừng mươi
bài: Viếng phòng vắng, Thơ gởi cho em Vân, Mộng du, Canh tàn, Lá rụng, Sa
đà, Hai cô thiếu nữ, Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới, Một
bài thơ gởi riêng cho các anh ghiền: Bà Lafugie – nhà thám hiểm và họa sĩ, Đêm
khuya qua Xuân Lộc. Mặc dù thơ của Manh Manh không thật hay nhưng không phải
là không có phong cách riêng và nhất là những bài thơ mới của cô là những sáng
tạo có tính vạch thời đại, đoạn tuyệt mạnh mẽ với thơ cũ.
Thơ Manh Manh đậm chất hiện thực như thơ Hồ Văn Hảo mà cô từng
bênh vực. Bài Hai cô thiếu nữ tiêu biểu nhất cho cảm hứng đó:
“Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
(một cô ở chợ, một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen”
Bài thơ kể câu chuyện về hai cô gái đi ra đồng, người bắt cá,
người hái hoa, và câu chuyện diễn ra pha màu cổ tích: hai người trở về thì gặp
một bà lão nghèo đứng khóc bên vệ đường. Hỏi chuyện thì biết bà đang phải nuôi
ba cháu mồ côi cả cha mẹ, hiện nhà hết gạo. Hai cô đưa hết những thứ mình có được:
cô đưa giỏ cá, cô đưa giỏ hoa. Bà lão nhận giỏ cá còn từ chối giỏ hoa vì nó chẳng
giúp ích gì… Bài thơ kết lại:
“Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng
Cô ở đồng hay nhẹ bỗng tấm lòng
Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng
Cô áo hồng mang nặng cái giỏ bông…”
(Phụ nữ tân văn, số 204, ngày 15.6.1933)
Bài thơ ngây thơ như câu chuyện cổ tích mà cô kể lại, nhưng lại
có ý nghĩa như một tuyên ngôn về nhân sinh và nghệ thuật của nữ sĩ: ý nghĩa của
nhân sinh và nghệ thuật là ở chỗ phụng sự nhân dân. Chính cuộc đời của một nhà
báo, nhà hoạt động xã hội – nữ quyền và cả một nhà yêu nước là minh chứng cho
điều đó.
Cảm hứng thứ hai khá rõ trong thơ Manh Manh là đấu tranh cho
nữ quyền. Trong bài Một bài thơ gởi riêng cho các anh ghiền: Bà Lafugie – nhà
thám hiểm và họa sĩ, nhà thơ say mê với hình ảnh nhà thám hiểm, nhà khoa học –
bà Lafugie, ca ngợi bà như biểu tượng của phụ nữ mới mạnh mẽ:
“Người từng lướt đi chẳng kể nắng nung, tuyết lạnh, đất
nghiêng, đá vỡ
Người ăn vận như bạn trai, ngồi lưng ngựa long chong, mà qua
đèo, xuống hố, lên dốc, lội hào
Cùng một bọn tùy tùng dân lạ, sấn đi giữa non núi chình
chòng
Rồi trải qua những ngày phẳng lặng, những đêm hung dông bão…”
Lấy đó làm gương cho các anh ghiền á phiện đầy rẫy trong xã hội
bấy giờ. Bài thơ kết thúc bằng cách nói lạ và thú vị:
“Các anh có nghe tôi chăng? Hay là:
Đang lúc tâm hồn tôi rúng động, vì một bậc anh tài mới thoáng
qua
Đang lúc tôi hăm hở hát ca, cái can đảm, cái khí liệt, cái
hùng dũng
Của một người đàn bà, mà các anh vẫn nằm điềm nhiên vẫn móc,
vẫn tim, vẫn hút, vẫn ghiền
Thì các anh ơi
Đành rằng trọn đời, trên thế giới người ta:
Các anh chẳng phải là đàn ông, mà các anh cũng chẳng đáng làm
đàn bà!
(Phụ nữ tân văn, số 239, ngày 26.4.1934)
Nổi bật nhất trong thơ Manh Manh là nỗi buồn man mác: buồn vì
một người đã mất chỉ còn lại một căn phòng không (bài Viếng phòng vắng,
Thơ gởi cho em Vân), buồn vì cô đơn trên đường lữ thứ (Đêm khuya qua Xuân Lộc),
và buồn vì “không hiểu vì sao tôi buồn” – một nỗi buồn man mác trước cảnh “Lá rụng”,
trong một đêm “Canh tàn”, với nỗi mơ màng “Mộng du”…
“Chiều hôm tựa cửa sổ,
Trông bóng chiều thiết tha…
Chân trời mây bay xa…
Thân ta chỉ một chỗ!”
(Mộng du, Phụ nữ tân văn, số 192, ngày 23.3.1933)
Manh Manh là nữ sĩ đầu tiên của phong trào Thơ mới cách tân
hình thức thơ ca, và cách tân một cách mạnh mẽ – ngay từ những bài đầu tiên.
Manh Manh xuất hiện lần đầu với bài Viếng phòng vắng đăng trên Phụ nữ
tân văn số Xuân ngày 19.1.1933:
“Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng… (…)
Hò hẹn khiếp sau
lại tìm nhau
có đặng nào?
Dầu có tin
nàng sẽ tái sinh
ở vũ trụ nào?
Thôi duyên có bấy
nhiêu ngần ấy!…
Hoa để tàn
trong trương sách ([iv])
hơi lây lách
Như thấm từ hàng!
Nàng tựa đoá hoa
mà người ta
là quyển sách
lật nửa chừng
từ mỗi tờ, bừng
hương lên bay tách…
Gió lọt phòng không
tạt hơi đông
lạnh như đồng
Ngồi tơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
Ấm dịu cõi lòng…”
Thể thức của bài thơ này rõ ràng là rất mới. Nó mới không chỉ
ở câu dài câu ngắn khác nhau, vì câu dài ngắn khác nhau vẫn có thể rất xưa cũ,
nếu hình tượng, ngôn ngữ thơ chưa đổi mới – như thơ Tản Đà chẳng hạn:
“Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!”
(Tống biệt)
Bài Viếng phòng vắng mới ở nhịp điệu ngắn mà trúc
trắc, ở nhiều câu thơ vắt dòng, ở rất nhiều ngôn ngữ đời thường theo giọng Sài
Gòn bấy giờ, và ở nhiều hình tượng mới không hề có trong thơ xưa: nàng sẽ
tái sinh/ ở vũ trụ nào (không phải kiếp nào), Nàng tựa đoá hoa/ mà người ta/ là
quyển sách…. Bài thơ này và những bài thơ sau đó xuất phát từ một tâm tình
khác, một điệu hồn khác – một điệu tâm hồn hình thành từ cái học mới với những
Vigny, Baudelaire, Verlaine… Như chính Manh Manh đã nói: Bài Thơ gửi cho
em Vân theo điệu Gió chiều, bài Mộng du, Canh tàn theo điệu bài Hòa âm chiều ([v]):
“Điệu này tôi có làm hai bài Canh tàn và Mộng
du (đọc hai bài ấy). Tôi xin chép một bài ra đây để tiện chỉ cách đặt:
Canh tàn
Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa,
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the!...
Gió đêm thoáng qua cửa…
Não dạ, dế tỉ te.
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Em ôi, khêu chút lửa,...
Não dạ, dế tỉ te.
Gió ru… “thiết chi nữa !”
Em ôi, khêu chút lửa,
Rồi lại ngồi đây nghe...
Gió ru… “thiết chi nữa !”
Sụt sùi mấy cành tre…
Em ngồi đây có nghe.
Tơ lòng chị đứt nữa ?…
Bài này có 4 khúc, mỗi khúc 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Khác là câu
thứ 2 và 4 của khúc trước đem vô khúc kế làm ra câu thứ 1 và 3. Tôi ngụ ý đặt
điệu này theo bài Harmonie du soir của thi sĩ Pháp Charles Baudelaire. Có mấy
câu lập đi lập lại (chúng tôi tô đậm – ĐLG). Không phài là túng vận hay là chỉ
để êm tai, mà thật là cái dụng ý để tả cái buồn, một cái ý tưởng đang vấn vít
theo mãi”([vi]).
Để tiện hình dung, chúng ta xem lại bài Harmonie du soir của
Baudelaire (những chỗ in đậm là để lưu ý những câu lặp lại):
“Voici venir le temps où vibrant sur sa tige
Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;
Les sons et les parfums tournent dans l’air du soir;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;
Le violon frémit comme un coeur qu’on afflige;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir.
Le violon frémit comme un coeur qu’on afflige,
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir;
Le soleil s’est noyé dans son sang qui se fige.
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir,
Du passé lumineux recueille tout vestige!
Le soleil s’est noyé dans son sang qui se fige…
Ton souvenir en moi luit comme un ostensoir!” ([vii])
Trong bài diễn thuyết, Manh Manh cũng nhắc đến bài Chanson
d’automne (Bài ca mùa thu) của thi sĩ Paul Verlaine (1844-1896). Xin chép
dưới đây để thấy rằng về hình thức, những bài thơ Thư gửi em Vân, Lá rụng… của
Manh Manh rất giống bài thơ ấy:
“Chanson d’automne
Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une langueur
Monotone.
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l’heure,
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Deçà, delà,
Pareil à la
Feuille morte.” ([viii])
Có lẽ những cách tân của Manh Manh quá táo bạo, nên gặp phản ứng
khá mạnh của những người cựu học. Vì thế Manh Manh có làm bài thơ Bức thư gởi
cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới để trả lời lại với giọng thơ đầy khiêu
khích:
“Phải, tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à!
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng “nột dạ”?
Phải, tôi đấy, Manh Manh, mấy ông à!
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?”
Trong bài này Manh Manh đã đẩy hình thức thơ gần như thành
văn xuôi. Đây là sự cách tân có tính cực đoan nhất mà Thơ Mới có thể có, vì thơ
văn xuôi phải đến hai chục năm sau đó mới được bàn tới.
Manh Manh nắm khá chắc về thơ ca cổ điển dân tộc, bằng chứng
là cô có làm hai bài thơ Đường luật rất chỉnh: Vịnh hội chợ đêm Việt-Pháp, Tặng
“Văn học tuần san”([ix]), nhưng Manh Manh không cách tân thơ ca bằng cách quay
về những hình thức truyền thống ít bị ràng buộc hơn như thơ cổ phong, hát nói,
dân ca hay lục bát. Manh Manh học cách đổi mới thơ ca từ thơ Pháp. Dẫu
con đường cách tân thơ ca như thế ít có ai theo, nhưng có thể thấy Manh Manh đã
nói lên tiếng nói của những thanh niên Tây học không chịu gò bó vào những khuôn
khổ cũ mà công cuộc cận đại hóa – dẫu là ở một nước thuộc địa, với văn chương
và tư tưởng Pháp đã mở ra cho họ.
Tài liệu tham khảo:
(1) Nguyễn Q. Thắng, Văn học Việt Nam nơi miền đất
mới, Nxb. Văn học, 2007.
(2) Phan Văn Hoàng, Nhớ một nữ sĩ có gan và
có tài, báo Hồn Việt, 22.3.2011,
http://honvietquochoc.com.vn/.
(3) Thanh Việt Thanh, Thiện Mộc Lan, Nữ sĩ Nguyễn Thị
Manh Manh, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1998.
(4) Trương Minh Đạt, Những kỷ niệm sống với
anh Lư Khê và chị Manh Manh, trong sách Nghiên cứu Hà Tiên, Nxb. Trẻ,
2008.
(i) Nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh
Khai.
(ii) Lư Khê tên thật là Trương Tuấn Cảnh, sinh ngày
5.2.1916, tại Thuận Yên, Hà Tiên. Tốt nghiệp Thành Chung, trường Collège de Cần
Thơ (Trung Học Cần Thơ), sau đó đi lên Sài Gòn dạy học, viết báo, làm thơ, viết
cho các tờ: Sống (1935), Nữ lưu tuần báo (1936), Thế giới tân văn (1937), Tự do
(1938), Tuần lễ NAY (1940), Đông Tây (1942), Gió Mùa, Tân Việt… Sau 1945, Lư
Khê ở Sài Gòn, chủ trương các báo: Sự thật (1946-1947), Ánh sáng
(1947-1950)…Ngày 3.7.1950, Lư Khê bị ám sát.
(iii) Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm về lối thơ
mới, Phụ nữ tân văn, số 211, ngày 10.8.1933 và số 213, ngày 24.8.1913. Các
trích dẫn trong bài ấy dưới đây cũng theo nguồn ấy.
(iv) Trang sách
(v) Khi đăng trên báo, Manh Manh có viết trong ngoặc đơn
dưới đầu đề bài Mộng du là theo điệu Sợi tơ lòng. Nhưng trong bài diễn
thuyết Manh Manh lại nói là viết theo điệu bài Harmonie du soir (Hòa âm chiều)
của Baudelaire. Phải chăng Sợi tơ lòng là cách mà nữ sĩ dịch đầu đề bài
Harmonie du soir?
(vi) Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm về lối thơ mới,
Phụ nữ tân văn, số 211, ngày 10.8.1933 và số 213, ngày 24.8.1913.
(vii) Bài thơ này được Vũ Đình Ninh dịch như sau:“Trên
cành run rẩy gót thời gian/ Từng đóa hoa lay thở khói trầm/ Chùm tiếng và hương
choàng buổi tối/ Điệu buồn Valse lướt ngực âm âm!
Từng đóa hoa lay thở khói trầm/ Đàn violon run khúc thương
tâm/ Điệu buồn Valse lướt âm âm ngực! Bầu trời diễm lệ vọng xa xăm.
Đàn violon run khúc thương tâm/ Tim mềm đau nhức mãi đen
thâm! Bầu trời diễm lệ xa xăm vọng/ Chết đuối vừng dương vũng máu bầm.
Tim mềm đau nhức mãi đen thâm/ Dĩ vãng bày ra dấu vết hồng!
Chết đuối vừng dương bầm vũng máu/ Một vùng kỷ niệm sáng trong tâm!”
(viii) Bài thơ này được T.T dịch như sau:“Tiếng nức nở nỉ
non/ Của những cây đàn violon/ Của mùa thu/ Làm tan nát tim tôi/ Trong mỏi mòn/
Đơn điệu.
Tất cả ngột ngạt/ Và nhợt nhạt, khi mà/ Giờ đã điểm/ Tôi nhớ
lại/ Những ngày xa xưa/ Và tôi khóc.
Và tôi ra đi/ Theo gió chướng/ Cuốn tôi bay/ Đây, đó/
Giống như những chiếc/ Lá rụng.”
(ix) Ví dụ bài Tặng “Văn học tuần san”: “Văn học tuần
san sắp ấn hành,/ Làm cho khỏi phụ tiếng Thần kinh./ Gốc xưa đạo đức tài bồi dưỡng,/
Vẻ mới từ chương điểm chuyết xinh./ Trận bút quét ngàn quân liệt bại,/ Ngọn đèn
soi một nẻo văn minh./ Mang sao tạp chí cho bền vững,/ Cùng với sông Hương núi
Ngự Bình.” (Phụ nữ tân văn, số 194, ngày 13.4.1933).
3/11/2022
Đoàn Lê Giang
Nguồn: Tạp chí ĐH Sài Gòn
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét