Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

Trăng lên - Tiểu thuyết của Thế Đức

Trăng lên - Tiểu thuyết của Thế Đức

Nhà văn Thế Đức họ tên đầy đủ Nguyễn Thế Đức, sinh năm 1955, quê quán ở Phú Xuyên, Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản các tác phẩm: Hoa rừng – thơ, Lời nguyền thiêng – tập truyện, Ngưỡng đời – tập truyện, Bão Đỏ – tập truyện, Trăng lên – tiểu thuyết.
Suy nghĩ về nghề văn, Thế Đức cho rằng: “Nhà văn giống như người làm vườn, phải tận tụy, một nắng hai sương, và luôn sáng tạo đổi mới trong lao động sản xuất thì mới hy vọng có được những mùa hoa thơm trái ngọt để dâng hiến cho đời!”
Tiểu thuyết lịch sử Trăng lên của ông do NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2022, gồm 17 chương, mỗi chương mang một nhan đề có sức gợi như: Trốn chạy; Vụ bắt cóc hi hữu; Đặng Vũ, Những kỉ niệm đầu tiên với người phụ nữ miền Tây Phú Vân và bài học nhớ đời…
Vanvn.vn trân trọng giới thiệu một số chương tiểu thuyết Trăng lên của nhà văn Thế Đức.
Chương I
TRỐN CHẠY
Mẹ tôi sinh nở lần đầu. Khi chị tôi còn chưa đủ cữ thì cha đi kháng chiến. Từ đó, mẹ và chị ở với ông bà
nội. Ông nội tôi vốn là dân nhà võ nhưng lại rất biết đường làm ăn sinh sống. Năm ba mươi tuổi, ông đã mua được ba mẫu ruộng, mấy sào ao và một nửa con trâu chung với nhà hàng xóm. Ngày mùa vất vả lắm, cứ vào hai vụ cấy, hai vụ gặt thì không ai mở mắt được lúc nào. Cha đi vắng, cảnh nhà đã quạnh hiu thì chớ lại vất vả thêm bội phần. Vừa sớm tinh mơ, mẹ đã phải địu chị tôi ra đồng gặt lúa. Chị tôi ngặt nghẽo trên lưng mẹ, có lúc khóc sủi cả bong bóng mũi. Bà nội vốn là người hay lam hay làm, lúc nào cũng tham công tiếc việc. Chính vì thế, dù mẹ còn rất yếu cũng vẫn phải theo bà, làm việc quần quật cả ngày.
Đến chiều, đống lúa to như đống rơm được xếp ở một góc sân. Ông nội bưng cái cối đá đặt nghiêng bên cạnh. Ông dùng chiếc néo, kẹp chặt hai ba bó lúa đập xuống mặt cối cho thóc rơi ra, xơ lúa quẳng sang bên cạnh. Trước ngày cha tôi đi kháng chiến thì hai cha con ông luôn là một cặp.
Ngày dưng làm một cặp luyện tập võ công. Ngày mùa làm một cặp đập lúa. Tiếng đập lúa đôi nghe thùm thụp, thùm thụp. Thóc rơi rào rào, rào rào, khí thế lắm. Chỉ một lát, khi lưng áo của hai người còn chưa kịp thấm mồ hôi thì đống lúa cũng đã gần hết…
Vậy mà bây giờ, chỉ có một mình ông nội, tiếng đập lúa của ông nghe thật cô đơn. Bà nội và mẹ đứng vịn tay vào bờ tường, chẳng ai trò chuyện với ai, chỉ thấy hai cặp chân cứ vò vò, đạp đạp, cho đến lúc không còn hạt thóc nào sót lại. Bà nội đã quen với công việc này nên chẳng có vấn đề gì. Chứ với mẹ, vốn là con nhà khá giả trong làng, tuổi vừa lớn, lại mới đẻ, da còn non nhớt, rơm sắc cào tứa cả máu, đau rát đến tận ruột. Công việc xong thì đã khuya. Mẹ ra bể nước sau nhà tắm.
Dạo cha ở nhà đã trồng một bụi chuối rất to, thành hình vòng cung bao quanh cái bể, chỉ hở mỗi lối vừa đủ ra vào. Mẹ kéo tấm liếp che kín khoảng trống đó, rồi cởi áo váy, múc nước từ từ giội lên mình. Một ngày làm việc nóng nực, mệt nhọc, dòng nước mát làm mẹ tỉnh hẳn ra…
Mùa gặt vừa xong, lại chuẩn bị bước vào vụ cấy. Ông nội lo việc cày bừa ba mẫu ruộng và nhổ mạ chuyển ra đồng cho bà và mẹ. Xong việc, ông nội về nhà, bắt đầu quanh quẩn với mấy sào ao. Ông nội tôi mê việc ao chuôm cá mú lắm. Ông thả đủ loại tôm cá. Những ngày rỗi rãi, ông nội thức dậy từ lúc gà gáy thứ nhất, đi thuyền ra giữa ao, quây phên, thả mồi, rồi dùng vợt để bắt cá, đến tang tảng sáng thì thu phên, gác vợt. Cá bắt được ông nội giao cho con dâu mang ra chợ bán. Mẹ tôi là con dâu độc nhất, lại được người được nết nên cả ông bà nội đều hết thảy thương quý.
– Nhà này, khéo che thì các con ấm, để hở thì các con lạnh chứ thầy u thì đã già rồi.
Ông nội nói với con dâu. Mẹ tôi hiểu ý, hai bàn tay đan vào nhau, khép nép.
– Thưa thầy, con xin vâng lời thầy chỉ bảo ạ.
Ông nội có việc đi ra phố huyện. Phố huyện chạy dài theo con đường quốc lộ do Việt Minh kiểm soát từ khi mới cướp chính quyền. Đối phương cũng nhiều lần muốn cướp lại nhưng không được, đành bỏ. Làng tôi nằm sâu tít phía trong, vẫn thuộc vùng tạm chiếm của quân đội Pháp. Mỗi lần có việc ra vùng tự do, ông nội phải đi từ rất sớm, đến tối, không nhìn rõ mặt người mới quay về. Ngay tối hôm ấy, ông nội gọi cả nhà ra ngoài hiên, ngồi quây quần bên ngọn đèn dầu. Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày cha đi kháng chiến, cả nhà tôi ít có dịp được ngồi quây quần bên nhau như thế này. Ông nội miệng thì thầm, tay chỉ về hướng mặt trời lặn.
– Có vẻ sắp đánh nhau to rồi. Tôi nhìn thấy quân ta kéo về mạn ấy đông lắm.
Ông nội kể lại những điều mắt thấy tai nghe ở ngoài phố huyện. Bà nội ngồi im, môi mím chặt, mắt đăm đắm nhìn theo hướng ông nội chỉ. Mẹ sụt sịt khóc, nước mắt ướt đầm cả má. Chị tôi khi ấy mới bảy tuổi đầu, chưa có khái niệm gì về thời cuộc nên cứ mặc cho người lớn nói chuyện. Chị nằm ngả ngốn trong lòng mẹ, miệng bi bô hát. Giọng hát của chị, một đứa trẻ nói còn chưa rõ tiếng, chẳng khác gì người đọc nhiều thành quen:
“Cha đi kháng chiến, bắn thằng Tây to xác ngã lăn đùng. Bao giờ kháng chiến thành công, cha sẽ về với con…”
Mẹ đang buồn, nghe tiếng hát của con gái đã chạm vào
từng sợi cảm xúc khiến mẹ càng bị chấn động thêm. Cha ra đi đã sáu bảy năm rồi còn gì nữa. Ngày ở nhà, cha rất thích nghe mẹ hát ru con gái bằng những bài hát dân ca đồng bằng Bắc Bộ, thảng hoặc cũng có những bài hát như thế. Mẹ hát, cha búng búng ngón tay gõ nhịp. Lúc này mẹ đang nhớ cha ghê lắm! Mẹ nhớ cha trào qua khóe mắt, bật thành tiếng nấc. Rồi mẹ ôm chặt con gái vào lòng…
Nghe tiếng khóc của con dâu, ông nội, bà nội bỗng dưng im bặt, lòng dạ se thắt lại. Ông bà đưa mắt nhìn nhau. Chị tôi chẳng hiểu mô tê răng rứa gì cả nhưng thấy thái độ người lớn nghiêm trọng thế cũng có vẻ khép nép. Mẹ tôi cúi nhìn con, đưa tay xoa xoa lên mái đầu lưa thưa vài sợi tóc tết thành cái đuôi gà chổng ngược về phía sau.
Bà nội chép miệng, thở dài. Mắt bà chớp chớp liên hồi và hơi cay cũng bắt đầu trào ngược lên mũi. Ông nội tôi thì cứng rắn hơn. Ông nhìn con dâu rồi lấy giọng động viên an ủi:
– Nín đi con. Cứ nhìn khí thế bộ đội Việt Minh cũng đủ biết họ đang rất mạnh. Kháng chiến sắp thành công rồi. Chỉ nay mai là thằng Cả sẽ về thôi.
Mẹ lau nước mắt.
– Vâng ạ. Lạy trời cho nhà con tránh được hòn tên mũi đạn! Ông nội im lặng một lát rồi gật đầu.
– Lạy trời phù hộ cho nó được như thế! Thôi, khuya rồi, cả nhà đi ngủ đi, để tôi chuẩn bị bộ vợt mới cái đã. Sáng nay có con cá to quá, quẫy mạnh, rách bung hết cả lưới.
Ông nội nói rồi đứng dậy, đi về phía gian nhà ngang chứa lỉnh kỉnh rặt những đồ nghề bắt cá. Bà nội và mẹ cũng đứng dậy theo. Bà nội đi tới chiếc võng mắc ở gian bên. Bà vẫn hay nằm ở đó, có khi tiện thể ngủ luôn đến sáng. Còn mẹ bế chị tôi rẽ vào phòng bên trái. Mẹ chốc chốc lại trở mình. Tiếng giường cọt kẹt. Tiếng võng đưa cót két. Tiếng cây cối ngoài vườn thở khào khào. Tiếng côn trùng rỉ rả trộn lẫn tiếng cú kêu oa oa trên cành nhãn trước sân. Tất cả luồn qua ô cửa sổ tới tận chỗ nằm của mỗi người làm khoảng đêm nhão nhoét. Chẳng hiểu sao, tất cả mọi người trong nhà tôi đêm ấy cứ thao thức mãi, không thể ngủ được…
Sáng hôm sau, mẹ vẫn dậy sớm như mọi ngày. Ông nội đã đem mấy giỏ cá về đặt ở góc sân. Mẹ lấy hai chiếc thúng được phết sơn đen, đổ nước, buông cá vào thúng, đậy kín lại bằng chiếc mẹt rồi quẩy ra chợ. Con đường từ đầu làng ra chợ vắng ngắt còn thấm đẫm hơi sương. Hai bên đường là ruộng lúa đang thời con gái, xanh mượt, lượn sóng rì rào. Khoảng giữa có một ngôi miếu nằm ngay bên vệ đường, cây cối mọc um tùm. Theo lời truyền, có một người con gái tên Xoan bị oan nghiệt vì tình đã trẫm mình xuống giếng. Dân làng Vân Nhuệ thấy oan hồn người con gái ấy rất thiêng nên đã lập miếu thờ, gọi là miếu Cô Xoan…
Mẹ kẽo kẹt quảy hai thúng cá đến chợ, vừa đặt gánh xuống
đã có người đến mua mở hàng. Hôm ấy, mẹ bán đắt hàng ghê lắm, chỉ một loáng đã xong. Mẹ thu dọn quang gánh rồi mua hoa quả và ít tiền vàng ra đặt ở miếu Cô Xoan. Lần nào cũng vậy, hễ bán đắt hàng là mẹ lại ra đặt lễ tạ ơn cô Xoan. Trong tâm niệm của mẹ, cô Xoan là người tốt, vì oan nghiệt mà đành phải chết bất đắc kỳ tử. Mẹ rất thương cô Xoan. Có lẽ vì vậy mà cô Xoan luôn phù hộ cho mẹ mua may bán đắt thì phải…
Vừa rẽ vào miếu, mẹ giật thót tim khi thấy một người đàn ông từ trong miếu bước ra. Thoạt đầu, mẹ thấy người này là lạ. Nhưng chỉ ít giây sau, mẹ đã nhận ra đấy chính là Sang. Sang là con một điền chủ rất giàu có trong làng, cùng học chung thầy dạy với cha tôi. Đến tuổi trưởng thành, cha theo du kích rồi đi kháng chiến, còn Sang đi lính cho Pháp. Đã lâu lắm rồi không thấy Sang về làng. Lúc này, Sang mặc bộ đồ nhà binh đeo quân hàm cấp úy. Khẩu súng lục xệ xuống tận đùi. Tại sao hôm nay Sang lại xuất hiện đột ngột ở chỗ này? Mẹ vụt nghĩ. Sang nhìn mẹ chằm chặp, miệng cười cười, để lộ hai cái răng vàng chóe.
– Chào Loan. Chắc Loan ngạc nhiên lắm phải không? Tôi
được thượng cấp cho về nhà nghỉ ít bữa để chuẩn bị lên chiến trường. Dạo này, Việt Minh hoạt động dữ lắm. Họ đang muốn lấy trứng chọi đá ở một tập đoàn cứ điểm rất hùng mạnh của quân đội Pháp.
Mẹ nghe Sang nói, chột dạ, nhớ tới câu chuyện ông nội vừa kể tối qua. Đúng là bộ đội ta hành quân lên đó rồi. Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, sắp đánh nhau to thật rồi.
– Chào ông Sang. Tôi không dám ạ.
– Ấy chết, Loan đừng nói thế. Chúng ta là người cùng làng cả mà. Tôi và chồng Loan đã từng là bạn thân thiết của nhau hồi còn đi học. Chúng tôi không hề thù oán gì nhau, chắc Loan cũng biết thế? – Hắn vừa nói vừa đặt bàn tay lên ngực như muốn biểu lộ tình cảm, rồi tiếp. – Hôm nay, tôi biết thế nào Loan cũng qua đây nên đã ra từ rất sớm để đợi Loan về.
– Ông đợi tôi làm gì? Giữa tôi và ông có liên quan gì với nhau mà ông phải ra đây đợi tôi? Thôi, xin chào ông, tôi về.
Mẹ nói rồi quay gót. Nhưng Sang đã vượt lên phía trước chặn ngang lối đi của mẹ.
– Ấy chết, tôi xin lỗi Loan. Đã lâu lắm rồi không gặp nhau, Loan hãy ngồi nghỉ chân, tôi cũng muốn hỏi thăm chồng Loan một chút.
– Tôi không biết gì về anh ấy cả. Ông làm ơn cho tôi về. Con tôi còn nhỏ. Tôi xin đội ơn ông.
– Không được. Em phải nể mặt tôi chứ.
Sang nói rồi sấn đến, giằng chiếc đòn gánh trên vai mẹ tôi. Đôi quang đeo hai chiếc thúng đựng cá tuột khỏi đòn gánh, lăn xuống giếng ngay bên cạnh. Hai người giằng co nhau một hồi. Thường ngày, mẹ chỉ là người đàn bà rất yếu đuối. Vậy mà lúc này, mẹ bỗng nhiên mạnh mẽ, đến nỗi chính Sang cũng không thể ngờ được.
– Tôi là gái đã có chồng. Buông tôi ra! Bớ làng nước, cứu tôi với! – Mẹ gào lên.
Sang cười gằn.
– Em không biết đây là lãnh địa của người Pháp chứ không phải của Việt Minh à?
Trong lúc hai người đang co kéo nhau, bỗng nhiên, có một chuyện rất lạ đã xảy ra. Sang đột ngột nhìn thấy từ miếu Cô Xoan có luồng khói trắng bay vút tới trước mặt và hiện nguyên hình một người con gái, tay chỉ mặt Sang quát lớn: “Hãy dừng lại! Tội nhà người đáng chết!” Sang sợ quá, tay buông khỏi chiếc đòn gánh, miệng lắp bắp: “Cô Xoan! Cô Xoan!” Hai tay hắn giơ lên trời, lùi dần, lùi dần: “Xin cô tha cho! Tội tôi đáng chết! Tội tôi đáng chết!” Miệng nói, chân Sang bước giật lùi như người đi trong vô định theo mỗi bước chân người con gái đang tiến đến rất gần. Bỗng Sang lao ùm xuống giếng. Sang không biết bơi mà giếng lại rất sâu nên hắn cứ vùng vẫy, vùng vẫy mãi, lúc chìm, lúc nổi…
Mẹ sợ quá, la toáng lên.
– Bớ người ta, cứu! Cứu!
Sang vẫn vùng vẫy rất mạnh, hai tay đập ùm ùm, nước bắn tung tóe.
– Cứu! Cứu!
Mẹ vẫn kêu đến nỗi lạc cả giọng giữa cánh đồng không một bóng người. Rồi bỗng nhiên, lại một chuyện rất lạ nữa xảy ra. Trong lúc mẹ đang hoảng hốt thì nghe rõ có tiếng người đàn bà quát bên tai: “Chạy đi! Chạy ngay đi!” Trong thoáng chốc, mẹ vụt nghĩ đến cô Xoan. Chẳng phải cô Xoan cũng đã bị oan nghiệt vì tình mà phải chết ở chính cái giếng này đó sao? Cô Xoan đã hiện lên để cứu mẹ thoát khỏi cơn hiểm nghèo. Mẹ vội vứt chiếc đòn gánh, vùng chạy. Mẹ chạy như bay từ miếu Cô Xoan về nhà rồi nằm vật lên giường, khóc nức nở…
Ông bà nội thấy con dâu bỗng dưng như vậy thì hoảng hốt, vội vàng chạy tới. Mẹ vẫn tức tưởi. Bà nội cuống cuồng đưa tay vỗ vỗ, đập đập lên người con dâu.
– Mẹ Cả, mẹ Cả ơi, có chuyện gì thế? Có chuyện gì thế hở con?
– Phải mất lúc lâu, mẹ mới bình tâm dần và cố nhớ lại sự việc vừa diễn ra kể cho ông bà nội nghe. Bà nội nắm chặt lấy tay con dâu, vành môi run run.
– Con tôi ăn ở chung tình nên thần thánh đã rủ lòng thương. Mẹ nghe nói, ngồi bật dậy, ôm chầm lấy bà nội. Ông nội từ nãy vẫn đứng nhìn hai người với vẻ mặt rất căng thẳng. Ông đi đi lại lại một hồi quanh nhà rồi đột ngột dừng lại trước mặt
vợ và con dâu.
– Vậy là nguy rồi. Nội nhật đêm nay phải trốn khỏi đây thôi. Để chậm, xác thằng Sang nổi lên. Nhà chúng nó có thế lực, có tiền của, lại thấy con nhà mình có liên quan gây ra cái chết của thằng Sang thì khốn.
– Nhưng đi đâu bây giờ? – Bà nội lo lắng hỏi.
– Sang sông. Nhà cửa, ruộng vườn, ao chuôm cũng chẳng bằng người được. Có tiếc cũng đành.
Bà nội nghe ông nội nói sang sông, nước mắt nước mũi giàn giụa.
Thì cũng đành vậy. Nhưng đi làm sao được cả từng này người?
Vào thời điểm đó, làng tôi với bên kia sông tuy cùng một xã nhưng bên ấy là vùng tự do. Quân Pháp đã mấy lần bất ngờ vượt sông, định tấn công chiếm lại. Nhưng khi quân lính vừa bơi thuyền ra giữa sông thì bị Việt Minh ém sẵn trên bờ phục kích. Quân Pháp hỗn loạn, vừa nhảy xuống sông chết đuối, vừa bị trúng đạn, chết không còn một mống, máu loang đỏ cả khúc sông mấy ngày không hết mùi tanh tưởi. Từ đó, quân Pháp đành từ bỏ ý đồ tái chiếm, nhưng người dân hai bên bờ sông muốn sang với nhau khó khăn lắm, phải vượt qua một cánh đồng bỏ hoang, cỏ dại mọc lút đầu người mà quân Pháp gọi đó là “vùng đất trắng”. Hễ ai bén mảng đến “vùng đất trắng” ấy đều có thể bị gán cho tội làm nội gián cho Việt Minh và sẽ bị bắn chết.
– Được! Tôi sẽ có cách. – Ông nội đáp lời.
Mẹ thấy vậy, lau nước mắt rồi đưa hai tay chắp trước ngực.
– Con xin thầy u cho con được thưa với thầy u một việc.
– Con cứ nói đi. – Ông nội giục.
– Con xin thầy u xá tội vì đã mang họa lớn cho cả nhà. Bây giờ sang sông, cả từng này người ăn đợ ở nhờ lâu làm sao được. Con tuy phận đàn bà, nhưng tuổi còn trẻ, sức cũng còn khỏe. Con xin phép thầy u cho con được đi theo kháng chiến. Ra mặt trận, con nghe ngóng tin tức rồi cố gắng xem có tìm được nhà con không? Con thấy sốt ruột lắm thầy u ạ.
Ông nội trầm ngâm một lát, rồi gật đầu.
– Cũng phải. Nhưng để thầy tính thêm cái đã. Bây giờ, mọi người cứ tạm lánh xuống hầm, đợi trời tối rồi sang sông.
Ông nội nói xong, đưa vợ, con dâu và cháu gái ra sau vườn. Vườn nhà tôi khi ấy cũng rậm rạp, cây cối um tùm. Lính Pháp rất ngại lùng sục những khu vườn như thế vì sợ dính mìn của du kích. Ông nội và cha tôi đã đào căn hầm bí mật này ở góc vườn từ hồi đầu kháng chiến. Ông nội hay tính xa, bởi thế, dưới hầm lúc nào cũng có nước uống, lương thảo, dự trữ đủ dùng cho vài ba ngày. Ông nội mở nắp hầm, miệng thì thào, giục:
– Xuống đi.
Mẹ đu hai tay trên miệng hầm, thả người xuống, rồi đưa tay đỡ con gái xuống sau. Bà nội cũng làm theo con dâu, lưng lom khom, chân dò dẫm từng bước vào ngồi cùng cháu gái.
– Khi nào nghe đúng ám hiệu mới được lên đấy nhé. – Ông nội cúi sát xuống miệng hầm dặn dò cẩn thận rồi đậy nắp hầm, ngụy trang lại cẩn thận. Cho dù lính Pháp có đứng ngay cạnh cũng không thể phát hiện được.
Công việc xong xuôi, ông nội lên nhà đợi đến chập tối rồi lấy chiếc giỏ và cây xiên ba chạc, đóng giả người bắt ếch, luồn lách qua “vùng đất trắng” hướng về phía bờ sông. Ông nội vốn là người thích làm những chuyện “kinh thiên động địa” nên coi việc sang sông chẳng có nghĩa lý gì. Ông có người bạn cùng học võ thuật chung một thầy ở bên sông, tên Tuệ. Nhà ông Tuệ nằm sát chân đê phía bên kia. Ngày quê hương chưa bị chia cắt, cứ rảnh rỗi, hai người lại bơi thuyền sang chơi với nhau, rồi luyện tập võ công. Sau mỗi buổi luyện tập, hai người lại chén tạc chén thù, thân thiết như anh em ruột thịt. Bây giờ, mỗi lần nhớ bạn, hoặc muốn luyện tập võ công, ông Tuệ ra cây đa trên bờ sông treo một mảnh vải đỏ để làm ám hiệu mời bạn sang chơi. Hai người đã quy ước với nhau như thế từ ngày không còn được tự do đi lại. Ông nội nhận được ám hiệu, dù có bận thế nào cũng thu xếp vượt sông sang thăm ông Tuệ…
Chỉ một loáng, ông nội đã vượt qua được “vùng đất trắng” tới “rừng” cây ở ven đê. Sở dĩ ven bờ đê bên phía làng tôi có một rừng cây như thế bởi từ lâu lắm chẳng ai dám bén mảng tới, cây cối cứ thả sức mọc mà thành rừng như vậy. Chính rừng cây ấy đã che chở cho ông nội vượt qua con đê được dễ dàng hơn. Rồi ông cứ để nguyên cả quần áo, nhẹ nhàng trườn xuống đáy sông, chỉ vài hơi lặn đã sang được bờ bên kia…
Ông Tuệ đang đứng trong sân nhà, thấy bạn sang chơi, mừng quá, chạy ra đón. Con Vện nhà ông Tuệ đánh hơi thấy người quen cũng vội vàng chạy theo sau. Nhìn thấy ông nội, nó cuống cuồng chạy bổ đến, nhảy cẫng lên, giơ cả hai chân trước vịn vào cánh tay ông nội. Cái mõm con Vện vừa giúi giúi vào bàn tay ướt sũng của ông, vừa kêu ư ử làm nũng. Mọi lần, ông nội cũng vồ vập với con Vện chẳng kém gì nó. Nhưng hôm nay ông mặc kệ, miệng buông một câu cộc lốc: “Im nào!” Con Vện cụt hứng, buông tay ông nội, đuôi cụp xuống, len vào đứng giữa hai người. Ông Tuệ nhìn bộ quần áo trên người ông bạn ướt sũng, nét mặt đăm chiêu, lại sang đột ngột như thế thì đoán ngay là có chuyện.
– Ở bên ấy sao rồi hả?
– Có chuyện nghiêm trọng lắm.
Ông nội gật đầu nói rồi cả hai người cùng đi vào nhà.
– Nào có chuyện gì, ông nói ngay đi.
Ông nội mang đầu đuôi sự việc kể cho ông Tuệ nghe. Hai người bàn tính một hồi, ông Tuệ bảo:
– Việc ông bà ở đây thì khỏi phải lo. Đất nước loạn lạc, đồng bào khắp nơi tản cư đến, chẳng cần quen biết còn thương nhau như ruột thịt nữa là tôi với ông. Nhưng còn chuyện vợ thằng Cả muốn đi theo kháng chiến thì phải tính cho thật kỹ.
Ông nội nhìn ông Tuệ, nghiêm giọng:
– Đây là nguyện vọng của cháu muốn ra mặt trận để tìm chồng. Tôi thấy cũng phải. Đàn bà con gái còn trẻ, chồng cứ đi biền biệt thế, tội nghiệp nó. Bây giờ, tôi phải lên huyện gặp bên Ủy ban Kháng chiến nhờ các anh ấy giúp đỡ rồi sẽ quay lại ngay. Nội nhật đêm nay phải đưa được cả nhà sang sông không thì khốn mất.
Ông Tuệ biết tính ông bạn từ xưa đã nói là làm nên cũng chỉ biết chép miệng.
– Thì cũng đành vậy. Nhưng bây giờ, ông lấy tạm quần áo của tôi thay đi đã. Tôi chờ ông quay lại, rồi tối nay, tôi sẽ cùng ông sang sông đón bà ấy và các cháu.
Trở lại nhà ông Tuệ cùng ông nội có hai người vệ binh, một nam, một nữ, còn rất trẻ, được Ủy ban Kháng chiến huyện cử về đón mẹ và đưa mọi người trong nhà tôi sang sông. Họ về tới nhà ông Tuệ thì đêm đã khuya. Tất cả chụm đầu bàn bạc kế hoạch sang sông. Hai người của Ủy ban Kháng chiến mang theo súng đạn sẽ đi cùng ông nội, sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Ông Tuệ luyện được đôi mắt nhìn xuyên màn đêm và làm được tiếng mèo kêu, có thể gọi được cả đàn mèo đến cùng một lúc, sẽ làm nhiệm vụ lái đò đưa mọi người sang bờ bên kia rồi leo lên một ngọn cây thật cao, quan sát, nếu thấy động tĩnh gì thì báo cho mọi người biết bằng ba tiếng mèo gào bạn tình.
– Đi!
Ông nội khoát tay ra hiệu, chân bước đi trước. Tất cả mọi người theo sau rồi nhẹ nhàng lên thuyền, rời bến. Bóng đêm đã che chở cho họ được thuận buồm xuôi gió. Chẳng mấy chốc, họ đã sang được bờ bên kia. Ông nội đưa họ vượt qua “vùng đất trắng” đi tới sau vườn. Ông đứng trên miệng hầm, giậm chân ba lần. Dừng một lát, ông lại giậm chân thêm ba lần nữa. Cửa hầm khẽ động đậy rồi được nâng hẳn lên.
– Thật nhanh lên. Không thể chậm trễ được đâu. – Tiếng ông nội thì thầm giục.
Mẹ vội xốc chị tôi lên trước. Người đàn ông đi cùng đeo khẩu súng lên vai, đưa tay đỡ rồi ôm chặt lấy chị tôi, má áp má, tay vuốt vuốt lên mái tóc rối bù của chị. Ở dưới hầm, mẹ thì thào với bà nội:
– U lên trước đi ạ.
Bà nội đưa hai tay lên. Ông nội nắm lấy tay bà, kéo mạnh. Mẹ bế hai bên sườn bà nâng tiếp sức. Bà nội được nhấc bổng lên mặt đất, loạng choạng suýt ngã. Mẹ kiễng chân, hai tay đặt trên miệng hầm, đu lên. Ông nội đậy nắp hầm lại, gỡ cỏ xung quanh ngụy trang cẩn thận, sau đó giục con dâu chạy vội lên nhà vơ tất cả quần áo cho vào một tay nải to tướng. Ông nội khoác cái tay nải lên vai, khoát tay ra hiệu.
– Nhanh lên con.
Ngoài đường, người nhà của Sang đốt đuốc đi đi lại lại rình rịch. Tiếng gọi nhau í ới. Rồi họ kháo nhau, mỗi người đoán một kiểu. Mẹ nhận ra giọng vợ Sang gào lên: “Ối giời đất ơi, chồng tôi bị du kích bắt, thủ tiêu mất rồi! Ối giời ơi là giời!”
– Ta đi thôi.
Ông nội lại thì thầm. Trên vai ông vẫn khoác cái tay nải, xăm xăm đi trước. Mẹ cõng chị tôi trên lưng. Bà nội vừa chạy theo ông, vừa búi vội mớ tóc bù xù, xõa đầy trên lưng. Hai người lính vệ binh lăm lăm tay súng, mắt đảo tứ phía, lặng lẽ đi sau cùng. Chỉ một loáng, tất cả đã mất hút trong đồng cỏ mịt mùng bóng tối, rồi vượt qua bờ đê. Ông Tuệ ngồi trên ngọn cây, phát hiện mục tiêu đang di động về nơi con thuyền đang neo đậu thì biết là mọi người đã tới. Ông vội chuyền
theo từng cành cây xuống rồi chạy đến đỡ từng người lên thuyền. Bà nội và mẹ ngồi ở đố ngang trên cùng. Chị tôi được mẹ cho ngồi trong lòng, hai tay để trên gối mẹ run bần bật. Mẹ vội ôm ghì lấy con gái, nước mắt lã chã rơi. Hai người du kích nửa ngồi nửa quỳ, tay vẫn lăm lăm khẩu súng chĩa lên bờ đê. Ông nội lên sau, đứng cạnh người đàn ông, hai tay nắm chặt, bắp nổi cuồn cuộn, mắt như muốn nhìn xuyên thủng bờ đê về làng. Ông Tuệ cầm lái, điều khiển con thuyền rẽ nước, lao vùn vụt sang bờ bên kia.
Thuyền vừa cập bến, mẹ cõng chị tôi nhảy lên bờ rồi quay lại, đưa tay đỡ lấy tay bà nội.
– U cẩn thận kẻo ngã.
Mọi người lần lượt rời thuyền rồi cùng dắt díu, lôi nhau lên mặt đê. Mẹ tôi thở phào, đặt chị tôi xuống, hai tay ôm chặt lồng ngực. Lúc này mẹ mới bình tâm được chút ít. Mẹ đứng thẫn thờ, đưa mắt sang bên kia sông tìm căn nhà của gia đình mình nhưng chỉ thấy một vệt dài, đen sẫm. Những con bùi nhùi của người nhà Sang vẫn bập bùng, lúc mờ lúc tỏ như ma trơi chạy đi chạy lại. Tiếng kêu khóc của vợ Sang vẫn văng vẳng bên tai mẹ, rõ mồn một.
Ông Tuệ là người lên mặt đê sau cùng, lên tiếng giục mọi người vào nhà. Mẹ lại cõng chị tôi đi theo mọi người. Bà vợ ông Tuệ thấy mọi người đã sang đến nơi an toàn, mừng rỡ, chạy ra đón. Bà niềm nở chào hỏi mọi người nhưng chẳng ai đáp lời ngoài bà nội và mẹ. Khi những người đàn bà đang luýnh quýnh, nắm chặt lấy tay nhau, còn chưa tìm được lời tâm huyết để thổ lộ nỗi lòng thì một người du kích đã lên tiếng:
– Thưa các ông các bà, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Từ giờ phút này, đồng chí Loan đã trở thành người của kháng chiến rồi. Chúng tôi xin phép được hành quân trở về đơn vị, không thể chậm trễ được nữa.
Mẹ, bà nội và chị tôi ôm chầm lấy nhau trong tiếng khóc vỡ òa. Bà nội tôi nói với con dâu:
– Con đi nhớ giữ gìn nhé.
– Vâng ạ. Thầy u ở nhà cũng giữ gìn sức khỏe, trông cháu giúp con, bao giờ kháng chiến thành công con sẽ về với thầy u.
Chị tôi ôm chầm lấy mẹ, khóc òa lên.
– U cho con đi với!
Một người du kích đến bên chị tôi, vuốt vuốt lên mái tóc rối bù.
– Bé ngoan nào. Để mẹ đi đánh giặc chứ.
– Ứ ừ. – Chị tôi vẫn nức nở. Ông nội đứng im, hết nhìn con dâu lại nhìn đứa cháu gái. Một lát, ông cúi xuống bế thốc chị tôi, quay vào nhà.
– Con đi đi.
Chị tôi vùng vẫy.
– U ơi! U ơi!…
Hai người du kích quay gót bước đi. Mẹ tôi theo sau. Đi được vài bước, mẹ vùng quay lại, bảo: “Thầy cho con bế cháu thêm tí nữa!” Chị tôi nhoài người, ôm chặt lấy mẹ. Mẹ gạt nước mắt, hôn lấy hôn để lên má, lên đầu, lên khắp cả thân thể con gái, rồi trao chị tôi cho ông nội.
– Thầy bế cháu hộ con với. Con chào thầy. Thầy u giữ gìn sức khỏe ạ. – Mẹ nói trong tiếng nức nở, rồi gỡ tay con gái chạy ào đi, không dám quay lại nhìn những bóng người đang đứng ở sau lưng…
Trăng lên – Tiểu thuyết của Thế Đức – Kỳ 2
Cập nhật ngày: 9 Tháng mười một, 2022 lúc 08:48
Vanvn- Ông nội bắt đầu mang đầu đuôi câu chuyện Sang định giở trò đồi bại với con dâu ông ở miếu Cô Xoan kể cho lão Sáng nghe. Khi ông nội kể xong, lão Sáng bỗng ứa hai hàng nước mắt. Môi lão rung rung như người đang sắp khóc…
Chương II
VỤ BẮT CÓC HI HỮU

Sang được tìm thấy khi xác hắn nổi trên mặt giếng với cái bụng trương phềnh. Chính đôi quang gánh dính đầy vảy cá đã buộc tội mẹ là thủ phạm giết chết hắn. Nhà điền chủ Sáng, cha đẻ của Sang tức lắm, dẫn lính và mang theo cả một đống người nhà đến để vây bắt thủ phạm.
Trước lúc chạy trốn, ông nội đã chằng buộc phía trong cổng ngõ rất kỹ rồi đi tắt lối sau. Bọn lính dùng dao, búa và báng súng đập vỡ cánh cổng làm bằng gỗ xoan ngâm rất chắc chắn, xông vào. Thấy trong nhà chẳng còn ai, lão Sáng càng lồng lộn như con thú bị thương. Lão sục sạo khắp trong buồng ngoài nhà, tay nện cái đầu batoong bịt sắt xuống sân gạch kêu toong toóc.
– Vậy là tao đã chậm hơn nhà nó một bước rồi. Chúng mày niêm phong toàn bộ nhà cửa lại, tao sẽ tịch thu tất.
Tên chỉ huy đội lính gật đầu, ra lệnh cho lính tráng và lũ người nhà của lão Sáng làm theo ý đồ của lão. Trước khi rút về, lão Sáng còn tuyên bố tất cả ruộng vườn ao cá của ông nội từ nay sẽ thuộc về lão…
Ở bên kia sông, ông nội nghe tin điền chủ Sáng đã tịch thu toàn bộ tài sản của mình thì không tài nào yên được. Lúc nào ông cũng như người bị giẫm chân vào đống than hồng. Ông liên tục lên bờ đê nhìn sang bên kia sông. Nhà cửa, ruộng vườn, ao cá, tất cả những thứ đó như máu, như thịt, gắn liền với cuộc đời ông bao nhiêu năm nay, bây giờ bị kẻ khác chiếm đoạt, khiến ông không thể cam lòng chịu đựng.
– Có lẽ tôi phải đi khỏi nơi này thôi. – Ông nội quay về, nói với bà nội.
– Ông định bỏ bà cháu tôi đi đâu bây giờ?
– Tôi sẽ ra thành phố kiếm việc làm.
Bà nội hiểu ý chồng. Ông ấy muốn đi cho khuất mắt, chứ ở nhà, ngày nào cũng lên bờ đê nhìn sang bên kia sông, làm sao mà chịu đựng nổi.
– Nhưng tôi cứ thấy lo lo thế nào ấy. Ông ra thành phố, lạ nước lạ cái, biết tìm việc ở đâu để lấy tiền sinh sống?
– Tôi có sức khỏe, lo gì. Bà ở lại trông cháu rồi giúp đỡ vợ chồng ông Tuệ công việc cấy cày. Khi nào có tiền, tôi sẽ gửi về phụ giúp thêm với ông bà ấy.
Ông nội nói với bà nội xong, đem ý định ra thành phố tâm sự với ông Tuệ. Ông Tuệ hết sức ngạc nhiên, trợn mắt nhìn ông bạn. Trong lúc đang bị bọn Pháp truy nã, ông ấy ra thành phố thì làm sao mà thoát khỏi tai mắt của bọn chúng. Hay là ông ấy định trở lại với cuộc sống ngày xưa?
– Tôi hỏi thật nhé, có phải ông định tái xuất giang hồ?
– Không! Không bao giờ!
– Vậy ông tưởng ra đi là chôn vùi hết được nỗi đau hay sao? Thực ra, đó chỉ là sự đầu hàng với chính bản thân mình mà thôi mà đã là kẻ đầu hàng thì chỉ có mất, sẽ mất tất cả. Theo tôi, ông đừng đi đâu nữa, phải ở lại mà tìm cách giữ lấy nhà cửa ruộng vườn của mình chứ.
Ông nội nghe nói, suy nghĩ hồi lâu, rồi gật đầu.
– Ông nói cũng phải. Nhưng bên ấy là vùng tạm chiếm, mình làm gì được bây giờ?
– Tôi nghĩ ra cách này ông xem có được không?
– Cách thế nào?
– Tối nay, tôi và ông vượt sông, bắt cóc điền chủ Sáng rồi đem đi thủ tiêu là mọi việc êm hết.
Đến lượt ông nội trợn mắt nhìn ông Tuệ, rồi lắc đầu lia lịa.
– Không được! Không được! Nhà người ta vừa mất con, bây giờ lại giết chết cả bố thì ác quá.
Ông Tuệ biết tính ông bạn xưa nay vẫn là người hảo hán, không bao giờ làm điều ác với ai nên đành gạt bỏ ngay ý định thủ tiêu lão Sáng. Ông vò đầu bứt tai, suy nghĩ một lát, rồi bảo:
– Nếu ông không muốn thủ tiêu nó thì thôi. Tối nay, tôi và ông sẽ đột nhập vào nhà nó, kề dao vào cổ mà dọa, chỉ cần thế cũng đủ làm cho nó sợ vãi tiểu ra quần thôi mà.
Ông nội gật đầu, hạ giọng:
– Nghe thế còn được. Nhưng làm sao để đột nhập vào nhà nó được mới là vấn đề? Khó lắm đấy.
Nhà lão Sáng rất kín cổng cao tường. Nhưng cái việc kín cổng cao tường thì cũng chẳng khó khăn gì lắm đối với hai con người này. Mà cái khó khăn nhất để tiếp cận được là đàn chó tới hơn chục con, hung dữ như cả bầy hổ. Bình thường, cho dù đàn chó này có hung dữ đến mấy thì cũng chẳng cần đến một cái lia chân của hai ông. Nhưng việc đột nhập vào nhà lão Sáng cần phải tuyệt đối giữ bí mật, không được để một động tĩnh hoặc sai sót gì xảy ra. Cả hai ông cùng bóp trán, nghĩ mãi cũng chẳng biết làm cách nào để bắt cả đàn chó phải câm miệng.
– Tôi nghe người ta nói, cứ lấy tỏi giã nhỏ, xát vào người và quần áo thì đến cả chó săn cũng chịu chết luôn. – Ông Tuệ nói.
– Thì tôi cũng đã nghe, nhưng cũng chỉ là mới nghe người ta nói thế thôi chứ đã ai làm bao giờ. Ngộ nhỡ không hiệu nghiệm thì khốn. Phải tính cho thật kỹ ông ạ.
– Mẹ kiếp! Đàn chó nhà thằng này lợi hại thật.
Ông Tuệ chửi tục rồi đứng dậy, với trong hộc tường vò rượu nút bằng lá chuối, rót ra hai chén gốm màu nâu đất, đưa ông bạn một chén.
– Nào uống đi. Cứ làm vài chén rồi rượu sẽ mách diệu kế. Ông nội đỡ chén rượu, đưa lên miệng nhấp một tợp.
– Từ xưa, tôi với ông hễ uống rượu vào thì chỉ chuyện trò nhăng cuội cho vui chứ có nghị sự nghị siếc bao giờ. Đây là chuyện hệ trọng, sai một li, đi một dặm, không khéo là mất mạng như bỡn đấy.
Ông nội nói xong, tợp thêm một tợp nữa rồi đặt chén rượu xuống, đưa hai tay bó lấy đầu gối suy nghĩ. Cũng áng chừng vừa đủ thời gian rượu bắt đầu ngấm, ông nội đột ngột vỗ hai bàn tay vào nhau đánh độp cái.
– Tôi nghĩ ra rồi.
– Ông có diệu kế gì thế, nói xem nào. – Ông Tuệ giục.
– Thằng Sáng có thói quen ngày nào cũng đến sới bạc ở đầu làng. Có hôm thắng đậm, nó chuốc rượu cả bọn đến tận gà gáy thứ nhất hoặc say khướt mới về. Giờ ấy, tôi vẫn thường ra ao vợt cá nên tôi biết. Tôi sẽ phục sẵn, đánh cho nó ngất đi rồi vác về đây. Đã mang được nó về đây, ai chứ thằng này, nếu muốn gán cả nhà nó cho ta thì nó cũng gật.
Ông Tuệ nghe ông bạn nói, vỗ đùi đánh đét một cái.
– Hay! Hay! Diệu kế! Đúng là diệu kế! Tôi đã bảo mà, cứ rượu vào thì khó đến mấy cũng vỡ ra tuốt.
Cả hai ông cùng khoái trá, cười ngất ngơ. Nhưng rồi ông Tuệ bỗng nhớ ra cái chết của thằng con trai lão Sáng mới chỉ được mấy ngày. Ông nhíu bộ lông mày đến nỗi gần sát lại với nhau.
– Nhưng nhà thằng Sáng vừa làm đám tang cho con trai xong, chắc gì nó đã đến sới bạc ngay, làm thế nào bây giờ hở ông?
– Thằng này khát bạc như khát nước. Hơn nữa, nó có đặc tính, vui cũng mượn sới bạc để chia vui, buồn cũng mượn sới bạc để tiêu sầu. Chắc cùng lắm chỉ mươi ngày nữa nó sẽ mò đến thôi mà. Để chắc ăn, tôi có thằng cháu họ cũng hay lảng vảng tới đó. Tối nay, tôi sang nhờ nó theo dõi. Khi nào thằng Sáng xuất hiện, nó sẽ báo cho ta biết ngay. – Ông nội vì quá hiểu tính cách của lão Sáng nên cũng không khó khăn lắm để có lời giải đáp với ông Tuệ.
– Vậy là ổn rồi. – Ông Tuệ nâng chén rượu làm một tợp cạn đến tận đáy, rồi tiếp. – Nhưng ông Hai này, tình thế bây giờ đã khác rồi. Tôi thấy ông sang đó một mình là không được đâu. Tối nay, tôi sẽ đi cùng ông, nếu có việc gì bất trắc hoặc đụng lính thì cả hai anh em mình cùng ra tay.
Ông nội gật đầu.
Đợi trời tối, hai ông bắt đầu vượt sông. Mặc dù chuyện vượt sông khó khăn là thế, nhưng riêng với ông nội và ông Tuệ thì chuyện vượt sông vẫn cứ dễ dàng như bỡn. Mấy thằng lính Tây đi tuần, hai ông coi chỉ là hạng lông gà lông vịt, không đáng chấp.
Chỉ một loáng, hai ông đã sang được bờ bên kia rồi vượt qua “vùng đất trắng” tới được nhà của người cháu họ nằm khá sâu trong một con hẻm. Cổng ngõ cài then, nếu lên tiếng gọi thì sợ bị lộ, ông nội tìm một cành cây, đu lên, lấy sức bật thật mạnh, văng người qua hàng rào vào giữa sân. Ông Tuệ cũng làm theo ông bạn. Sau đó, cả hai ông nhẹ nhàng như hai con rắn trườn vào trước cửa nhà, đứng nép hai bên cánh cửa nghe ngóng. Một lát, không thấy động tĩnh gì, ông nội đưa tay gõ cửa “cộc cộc cộc” rồi thì thào gọi.
– Tùng ơi! Tùng!
Người cháu họ của ông nội tên Tùng, nhận ra tiếng bác mình, vội vàng chạy ra mở cửa.
– Trời ơi! Bác và cả nhà đi đâu vậy? Cả làng đồn ầm lên chị Cả là du kích đã giết chết thằng Sang. Có phải thế không hở bác?
Ông nội giơ tay lên miệng làm hiệu cho Tùng im lặng, rồi thì thầm:
– Mẹ cháu đâu?
– Dạ, mẹ cháu đang ngủ ạ.
– Thế thì tốt rồi. Chuyện về chị Cả mày dài lắm, để lúc khác bác sẽ nói. Bây giờ bác có việc cần nhờ cháu đây.
– Vâng, việc gì thế ạ?
– Dạo này cháu có hay tới sới bạc không?
– Thỉnh thoảng thôi ạ.
– Cháu có thấy thằng Sáng đến đó không?
– Dạ, nhà ông ấy vừa có tang nên vẫn chưa thấy đến. Nhưng có chuyện gì mà bác hỏi về ông ấy kỹ thế ạ?
– Đã bảo lúc khác bác sẽ nói, tình thế lúc này đang rất khẩn trương, không có đủ thì giờ để nói hết được đâu.
– Vâng ạ! Bác định nhờ cháu việc gì ạ?
– Khi nào cháu thấy thằng Sáng đến sới bạc thì báo cho bác biết ngay.
Ông nội nói rồi ghé sát tai Tùng thì thầm cách làm ám hiệu cho ông biết khi Sáng xuất hiện. Tùng nghe xong, gật đầu, miệng vâng dạ liên tục.
– Nhưng cháu có cách này còn hay hơn nhiều.
Đến lượt Tùng ghé sát tai bác mình thì thầm. Ông nội nghe xong, mừng rỡ nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Nhưng cháu nhớ tuyệt đối giữ kín câu chuyện tối nay nhé. Kể cả mẹ cháu cũng đừng cho biết. Thôi, bác đi đây.
Ông nội không để cho Tùng kịp hỏi han gì thêm nữa, cũng không cần Tùng phải mở cửa ngõ, ông kéo ông Tuệ rồi lại vọt qua hàng rào, biến mất.
Đã mấy ngày trôi qua vẫn không thấy động tĩnh gì, ông nội nhấp nhổm, đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng lại lên bờ đê, hết nhìn lên trời lại nhìn về phía đình làng bên sông. Theo kế hoạch, khi nào Sáng trở lại sới bạc, Tùng sẽ ra sân đình thả chiếc diều có gắn cây sáo trúc để báo hiệu cho ông nội biết.
Dạo Tùng còn nhỏ, ông nội vẫn thường cho Tùng đi theo ra sân đình thả diều. Ông nội là tay làm diều rất sành điệu, không một ai trong cả vùng địch nổi. Cái diều lớn gần bằng cái thúng câu, có gắn cây sáo làm bằng ống trúc, to cỡ bắp chân người lớn. Tiếng sáo diều của ông nội lúc véo von, vi vút, trầm bổng, có lúc lại lắng đọng, khắc khoải, da diết theo từng cấp độ của gió, vang khắp cả một vùng trời. Người ở hai bên bờ sông đều nghe rõ mồn một. Bởi thế, khi Tùng nghe ông nội nói, đã nghĩ ngay tới việc thả diều để làm tín hiệu báo cho bác mình biết khi lão Sáng xuất hiện.
Ông Tuệ cũng đi ra đi vào, sốt ruột chẳng kém gì ông bạn mình. Ông bước đến gần ông bạn, hai tay khoanh trước ngực, có vẻ rất bực giọng.
– Thằng Tùng quên mẹ nó rồi. Đã vào sới bạc thì còn nhớ được con chó gì nữa!
– Không! Thằng Tùng, cháu tôi, tôi hiểu. Chỉ mỗi việc khuyên nhủ không được đánh bạc là nó bỏ ngoài tai. Còn bất kể việc gì, khi tôi đã nhờ, khó đến mấy nó cũng làm cho kỳ được.
Ông nội nói khẳng định như vậy bởi ông rất hiểu Tùng. Chàng trai này rất cá tính, khi đã tôn sùng ai thì hết mực trung thành. Tùng bị ông nội tôi mê hoặc ngay từ lúc mới lên mười, đến nỗi hễ cứ nghe tiếng sáo diều của ông nội là Tùng đã có mặt ngay tức thì. Tùng chạy đến, hổn hển: “Con chào bác Hai. Hôm nay bác Hai có sai con làm việc gì không ạ?” Bác Hai là tên dân làng gọi ông nội tôi vì ông là con trai thứ hai của cụ nội tôi. “Không cần. Chạy đi đâu mà thở hồng hộc thế hả? Vào kia mà ngồi cho mát, trời vẫn còn nắng lắm, hễ ốm là tao đá đít cho đấy.” Ông nội nhìn Tùng, nói, tay chỉ vào gốc cây đề cổ thụ ngay gần đó. “Vâng ạ.” Tùng nhoẻn miệng cười rất hồn nhiên rồi bước đến gốc đề, nằm ngửa nhìn lên trời theo dõi chiếc diều gắn sáo của ông bác mình đang bay lượn. Chỉ một lúc, Tùng đã bị tiếng sáo diều ru, ngủ tít. Ông nội cho diều thật căng dây rồi vào ngồi cạnh, đưa tay vuốt vuốt lên mái tóc cắt cua nom rất bướng bỉnh của Tùng. “Ngủ đi. Rồi bác sẽ bảo mày biết cách làm diều.” Tùng đang ngủ say thế mà bỗng dưng choàng dậy. “Thật thế hở bác Hai?” “Chẳng thật, dễ tao nói chơi chắc.”
Dần dần, hai bác cháu đã trở thành đôi bạn thân với nhau như hình với bóng. Ngoài chuyện mê diều, ông nội tôi còn là thần tượng của Tùng về môn võ thuật. Tùng rất thích xem ông nội và cha tôi luyện võ. Cha tôi là học trò của ông nội. Ông nội cao siêu hơn cha về kỹ thuật. Cha lợi thế hơn ông nội về thể lực nên chỉ gần ba năm sau võ công của cha đã ngang ngửa với thầy. Có lần, hai cha con thi đấu với nhau tới gần nửa ngày mà vẫn không phân thắng bại. Khi Tùng bước vào độ tuổi niên thiếu thì cha tôi cũng bắt đầu đi kháng chiến. Ông nội giữ lời hứa, dạy Tùng cách làm diều. Ông bảo, cánh diều chính là tâm tư, tình cảm của người dân đồng bằng Bắc Bộ. Tiếng sáo diều còn là sứ giả để chuyển lời tâm sự đến với mọi người, đến với quê hương, làng xóm. Những người yêu thích cánh diều chính là những người rất giàu tình cảm với quê hương, với làng xóm của mình. Rồi tự tay ông nội khoét tặng Tùng một chiếc sáo có tiếng kêu không kém gì tiếng sáo diều của ông nội.
Ông nội tôi càng nhớ thương con trai đi xa bao nhiêu, càng gần gũi quý hóa Tùng bấy nhiêu. Ông nội thu nạp Tùng làm đệ tử dạy võ. Tùng càng thêm quy phục ông bác và coi ông như người cha của mình vậy. Nhưng rồi việc dạy võ cho Tùng đã bị chấm dứt khi người yêu của Tùng bị tay trưởng đồn Tây đóng ở đầu làng cưỡng đoạt. Tùng căm lắm. Đã mấy lần Tùng định tòng quân theo Việt Minh để có cơ hội trả thù. Nhưng rồi Tùng không thể thực hiện được ý nguyện bởi nhà chỉ có một mẹ một con. Cha Tùng mất sớm. Mẹ Tùng lại đau ốm bệnh tật quanh năm. Tùng chán đời, bắt đầu sa đà vào sới bạc. Ông nội khuyên nhủ mãi nhưng Tùng vẫn chứng nào tật ấy…
Ngày Việt Minh kéo về chiếm giữ vùng bên kia sông, hai bên đánh nhau to, đạn bắn như vãi. Tùng sợ chiếc diều bị trúng đạn nên đã bọc lại rất cẩn thận, treo lơ lửng gần mái nhà như một báu vật. Bây giờ là lúc ông nội đang chờ cánh diều ấy bay lên…
– Hay là diều của nó hỏng rồi? Diều mà để lâu ngày, bị ẩm mốc, thủng rách thì còn bay thế chó nào được nữa. – Ông Tuệ nhìn ông nội, sốt ruột nói.
– Không! – Ông nội lắc đầu, quả quyết. – Thằng này giữ gìn cẩn thận lắm. Tuy treo diều cao gần đến mái nhà nhưng thỉnh thoảng nó vẫn đem hong nắng, không thể hỏng được. Mà nếu giả sử diều bị hỏng thì bằng giá nào nó cũng tìm cách báo cho tôi biết chứ không bao giờ thất hứa với tôi đâu.
– Vậy là thằng Sáng vẫn chưa chịu chui vào sới bạc à?
– Chắc thế. Tôi chỉ e nó chiếm nhà tôi rồi bán để lấy vàng cất giữ, sau đó rũ trách nhiệm luôn. Thằng này cáo già lắm.
– Thôi thì ta cứ chờ ít bữa xem cụ thể thế nào rồi tính sau.
– Ông Tuệ nói, tay nắm chặt, giơ lên ngang tầm mặt, chửi thề.
– Đ… mẹ thằng Sáng! Mày mà bán nhà của ông Hai thì nhà mày đã đến lúc mục mả rồi. Tao thề sẽ lấy mạng mày cho xem.
– Ông Tuệ ngừng một lát, rồi quay sang phía ông nội, nói tiếp.
– Mà đằng nào ta chẳng bắt nó về đây. Nếu nó đã bán thì bắt nó phải nộp lại tất cả tiền cho mình chứ lo gì.
– Tôi không cần tiền. Nhà cửa, vườn tược của tôi là nơi đất thiêng đặt bát nhang thờ cúng hương hồn tổ tiên nhà tôi, không thể để kẻ khác đến chiếm đoạt được.
– Thì bắt nó phải đòi lại.
– Ví như nó đã bán cho những kẻ có thế lực thì đòi lại thế nào được.
– Mẹ kiếp! Nếu nó bán nhà của ông rồi thì nhất định tôi phải bắt nó thế mạng. Nhưng thôi, bây giờ tôi với ông cứ vào nhà làm chén rượu. Tôi ngẫm, khi nào có việc gì không thuận, cứ làm vài chén rượu là y như rằng lại suôn sẻ ngay.
Hai người quay vào nhà. Ông Tuệ lại chửi thề lần nữa rồi kéo ông bạn ngồi xuống chiếc chõng tre kê ở giữa sân. Vẫn bầu rượu nút bằng lá chuối được ông Tuệ lại mang ra, rót vào hai chiếc chén gốm chuyên để dùng rượu.
Trong lúc hai ông đang uống rượu thì bà nội từ ngoài ngõ bước vào. Từ ngày cả gia đình phải sang sông ở nhờ ông bà Tuệ, nét mặt bà lúc nào cũng tư lự, buồn bã, lại thêm thời tiết oi ả càng làm cho bà rã rời hơn. Bà nội đưa tay quẹt mồ hôi trên mặt, bâng quơ nói:
– Đã vào thu rồi mà cứ như giữa hè vậy, mấy ngày trời, hôm nay mới có được tí gió…
Ông nội đang nhấp tợp rượu, nghe vợ nói vội đặt cái chén xuống, giơ tay chém mạnh vào không khí.
– Có thế mà tôi cũng không nghĩ ra, mấy hôm nay không có gió, làm sao mà thằng Tùng thả diều được. Nếu thằng Sáng đã đến sới bạc thì nhất định hôm nay nó sẽ mang diều ra thả. Ông nội vừa dứt lời thì nghe có tiếng vi vu từ bên kia sông vọng lại. Vốn là người tự tay khoét lỗ sáo cho cánh diều này, ông nội nhận ra ngay đó là tiếng sáo diều của Tùng. Ông vội đặt chén rượu xuống chõng, đứng bật dậy,
chạy thẳng lên bờ đê.
– Thằng Tùng thả diều! Thằng Tùng thả diều!
Ông Tuệ cũng đứng bật dậy, vội vàng lao theo ông bạn. Bà nội đứng nhìn hai người, vừa chép miệng, vừa lắc đầu, than thở.
– Già bạc cả đầu rồi chứ trẻ trung gì nữa, nhà thì đang vận hạn mà vẫn cứ ham diều y như trẻ con ấy.
Bà nội và vợ ông Tuệ hoàn toàn không biết gì về kế hoạch bắt cóc lão Sáng của hai người nên bà nội mới có ý trách móc như thế. Còn ông nội và ông Tuệ thì đã đứng trên bờ đê, chỉ chỉ trỏ trỏ. Con diều to gần bằng cái thúng câu bay cao lên dần, đến lúc chỉ còn nhỏ bằng cái quạt thì đứng im phăng phắc. Tiếng sáo của con diều cũng mỗi lúc một vang hơn, rõ hơn. Ông nội lặng lẽ, ngửa mặt, chăm chú nhìn. Môi ông mím thật chặt. Hai nắm tay ông cũng nắm thật chặt. Tâm trạng của ông lúc này chắc đang xao xuyến lắm.
– Phải ra tay ngay tối nay thôi ông ạ. – Ông Tuệ nhìn ông nội nói. Còn ông nội vẫn đứng nguyên tư thế cũ, đầu khẽ gật gật.
– Phải. Không thể chậm trễ được nữa.
Ông Tuệ giơ tay chém một nhát thật mạnh vào không khí.
– Thế là xong rồi. Bây giờ ta cứ vào uống tiếp đi.
Ông Tuệ nói rồi quay gót đi trước. Ông nội đứng nán lại thêm một lúc nữa rồi cũng bước theo ông Tuệ. Vào đến sân, cả hai ông lại sà vào chiếc chõng tre. Ông Tuệ làm tợp rượu, khà một cái ra vẻ khoái trá, rồi gọi vợ:
– Bà nó ơi, chuẩn bị cơm nước cho anh em tôi sơm sớm một tí, tối nay chúng tôi đi đằng này có chút việc đấy nhé.
Ngay tối hôm ấy, ông nội và ông Tuệ đều mặc bộ đồ màu đen, mặt bịt kín, chân đi giày vải chuyên dùng cho dân nhà võ, đeo kiếm lủng lẳng bên đai lưng trông giống hệt hai cao thủ võ lâm chuẩn bị lên đấu trường. Thật ra, đối với cặp đôi võ công này, đây không phải là lần đầu tiên họ làm những chuyện kinh thiên động địa. Đã rất nhiều lần, họ dạy cho bọn du côn đầu gấu chuyên làm càn những bài học nhớ đời. Thậm chí, khi quân Pháp kéo về chiếm đóng huyện Phú Vân, cả ông nội và ông Tuệ đều còn rất trẻ. Hai ông đã từng nhiều lần hóa trang, đóng giả làm những tay anh chị lang bạt kỳ hồ, phiêu dạt khắp nơi trong huyện tìm đánh cho mấy thằng lính chuyên gạ gẫm, cưỡng ép đàn bà làm những chuyện mất dạy, khiến cho bọn lính Pháp ra đường cạch hẳn. Rồi sau mỗi lần như thế, hai ông lại trở về làng, trở lại nguyên hình là những nông dân cày ruộng rất cần mẫn và mặc nhiên bọn Pháp không thể ngờ vực được…
Con thuyền đưa hai ông nhanh chóng sang bờ bên kia rồi
được giấu kín trong một bụi cỏ. Họ nhanh chóng vượt qua bờ đê, lẩn mình sâu trong “vùng đất trắng”, đi vòng đến con đường sau làng. Con đường sau làng có nhiều hẻm, ngõ ngách nhằng nhịt, đan xen giữa nhà cửa, vườn tược, ao cá, cây cối lại rậm rạp, um tùm, nếu không phải là “ thổ dân” thì khó lòng tìm được lối ra vào.
Ông nội và ông Tuệ nhanh chóng luồn sâu trong một con hẻm, đến gần căn nhà của Tùng. Buổi chiều, sau khi thả diều, Tùng biết thế nào ông bác mình cũng tới nên đã bỏ ngỏ cửa ngõ. Hai người lách qua cánh cổng khép hờ bước tới bên ô cửa sổ, gõ nhẹ lên cánh cửa từng hồi ba tiếng một. Trong nhà không thắp đèn, tối như mực. Tùng vẫn đang ngồi đợi, nghe tiếng gõ cửa biết là bác Hai đã tới, vội chạy ra đón.
– Có phải bác Hai đấy không?
– Ừ, bác đây.
Linh cảm khiến những đôi mắt bắt gặp nhau rất dễ dàng trong đêm tối mịt mùng.
– Thế nào rồi? – Ông nội thì thào.
– Lão Sáng đến sới bạc từ ba hôm nay rồi bác ạ. Nhưng rủi quá, trời không có gió nên cháu không thể thả diều được. Cháu đang nghĩ cách báo tin cho bác thì may quá hôm nay ông trời lại phù hộ.
– Thế thì tốt rồi. Bây giờ ta sẽ đi tới đó. Bác sẽ tìm chỗ phục trong vườn trước cổng nhà chứa bạc. Nếu thằng Sáng cũng có mặt thì cháu vờ ra ngoài hiên bật diêm hút thuốc lào. Còn nếu nó không đến, cháu cứ ở chơi một lát rồi về để chúng nó khỏi nghi ngờ. Nhớ là phải nhanh chóng để bác còn biết chừng.
Ông Tuệ đứng bên cạnh nghe ông bạn nói, vội chen vào:
– Thế ngộ nhỡ nó đến muộn rồi ngồi chơi đến sáng thì sao?
– Không. – Tùng đáp lời ông Tuệ. – Mấy hôm nay lão đến sớm rồi về sớm. Có thể do cái chết của thằng con trai nên lão ấy vẫn còn sợ du kích, không dám về khuya nữa.
– Vậy thì nhanh lên. Cháu cứ đường chính mà đi. Bác và ông Tuệ đi lối sau làng.
Ông nội nói xong, kéo ông Tuệ đi thật nhanh. Hai người tới gần khu nhà chứa bạc, nhẹ nhàng lách mình chui vào một bụi cây sát ngay lối đi để quan sát. Trong nhà chứa bạc được thắp sáng bằng một chiếc đèn măng sông. Ánh sáng xanh lét hắt ra sân qua những ô cửa sổ rõ như ban ngày. Cửa chính khép hờ. Một gã bảo kê đứng bên cạnh, hai tay khoanh trước ngực, lưng tựa vào vách tường. Thấy Tùng đến, hắn đưa tay mở rộng cánh cửa đủ cho một người bước lọt, tay kia làm hiệu cho Tùng đi vào rồi lại khép cánh cửa như cũ. Trong nhà vẫn đang rất ồn ào. Tiếng các con bạc khát nước sát phạt nhau chí chóe. Một con bạc nhìn thấy Tùng bước vào, ngoắc tay làm hiệu.
– Ê Tùng, dám chơi với tao một nhát không?
Tùng đánh mắt nhìn quanh một lượt, bắt gặp lão Sáng ngồi trong chiếu bạc bên phía tay trái. Tùng tảng lờ như không để ý gì đến lão, quay sang con bạc vừa lên tiếng mời, nháy mắt ra hiệu với hắn.
– Sợ đ. gì! Đợi tao làm điếu thuốc lào lấy tý son cái đã. – Tùng cầm chiếc điếu cày bước ra khỏi cửa, đánh diêm thản nhiên rít một hơi dài rồi quay vào. – Nào, chơi thì chơi.
Ông nội với tay, lần tìm bàn tay ông Tuệ bấm nhẹ một cái ra hiệu. Ông Tuệ hiểu ý, cũng bấm lên bàn tay ông nội ý nói đã biết rồi. Hai người ngồi im như hai pho tượng, chờ đợi. Tiếng muỗi vo ve. Chúng muốn sà xuống bàn tay của hai người là chỗ duy nhất có thể kiếm chác được bữa tiệc ngon lành. Thỉnh thoảng, ông nội và ông Tuệ lại phải đưa bàn tay nọ vuốt lên bàn tay kia, xua đuổi không cho lũ muỗi có cơ hội cắm vòi. Trong sới bạc, hầu hết là dân anh chị, sẵn sàng xin “tiết” nhau nếu kẻ nào đó dám xóc óc mình. Tùng vào đó mà không bị kẻ nào bắt nạt vì chàng đã học được ít nhiều võ công từ ông nội, đủ để tự bảo vệ mình. Tiếng chửi thề, văng tục, tiếng cười, tiếng rú, tiếng ca thán vì đỏ đen ầm ĩ.
Ông nội và ông Tuệ ngồi đợi sốt cả ruột. Lão Sáng vẫn cắm chặt mông trên chiếu, chưa chịu nhổ rễ đứng dậy. Ông nội ghé sát tai ông Tuệ, thì thào chỉ vừa đủ để ông Tuệ nghe thấy.
– Sợ nó ngồi đến sáng thì hỏng bét.
– Thì cũng phải chờ thôi chứ biết làm sao được.
Hai ông vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng la hét, làm huyên náo, ầm ĩ cả sới bạc.
– Đồ lừa đảo! Quân ăn cướp! Tao sẽ giết mày! – Tiếng Tùng rít lên.
– Bỏ mẹ, hỏng rồi, thằng Tùng gây lộn rồi. – Ông Tuệ bấm tay ông nội, thì thào.
Ông nội lại bấm tay ông Tuệ làm hiệu im lặng, rồi ghé sát tai ông Tuệ.
– Thằng Tùng cố ý gây lộn đấy.
Ông nội vừa dứt lời thì thấy lão Sáng lập cập bước ra. Lão Sáng đầu đội khăn xếp, mặc áo the, quần trắng, chân đi guốc mộc, tay lão cầm chiếc ba toong bằng trúc, chỗ tay cầm uốn cong có khắc hình đầu rồng. Lão trạc tuổi với ông nội tôi nhưng phong cách hai người khác hẳn nhau. Bình thường, lão là hạng người rất thích ra oai, đi đứng ăn nói vừa khệnh khạng, vừa hách dịch. Nhưng lúc này, nhìn bộ dạng của lão thấy mất hết nhuệ khí. Lão Sáng có nhiều kẻ thù, chính vì thế, lão rất sợ những cuộc ẩu đả nơi đông người. Lão sợ bị oan gia. Biết đâu có kẻ lợi dụng lộn xộn mà cho lão ăn đòn. Tốt nhất là chuồn! Thế nên vừa thấy đánh lộn là lão đã vội vã bỏ về ngay. Tùng thừa biết lão Sáng là hạng người như thế nên đã cố tình gây ra cuộc ẩu đả để đuổi lão ra khỏi sới bạc.

Vừa ra khỏi cửa, lão Sáng cúi xuống tháo đôi guốc, cắp vào nách. Mắt lão bị quáng do ánh đèn măng sông nên bộ dạng càng thêm lập cập. Lão cầm cây ba toong dò dẫm tìm đường như người bị lòa. Đi sau lão là thằng bé người hầu, tay cắp chiếc tráp, thấy chủ dò dẫm tìm đường vội chạy vượt lên, đưa tay kia nắm lấy bàn tay ông chủ.
– Ông để con dắt kẻo ngã ạ.
Thường ngày, thằng bé người hầu mà dám đi ngang hàng với lão thì kiểu gì cũng được nếm vài chiếc ba toong, không vào đầu thì cũng vào người, đau điếng. Nhưng lúc này, lão Sáng lại rất ngọt ngào với thằng hầu.
– Ừ phải. Trời tối quá, mày dắt ông cẩn thận, kẻo ngã đấy. – Lão Sáng nói xong, tiện mồm, chửi. – Tiên sư chúng nó, ông đang vào cầu. Chúng nó mà không phá đám, phen này ông ăn đủ.
Chủ tớ lão Sáng đã ra khỏi cổng ngõ của ngôi nhà chứa bạc, rồi rẽ về phía tay trái để ra con đường chính của làng. Lão chỉ còn cách chỗ ông nội và ông Tuệ đang ngồi chừng mấy sải tay. Hai người bấm nhau, im lặng. Đợi cho chủ tớ lão Sáng đi vượt qua, ông nội ghé sát tai ông Tuệ, khẽ nói:
– Lại lòi ra thằng bé con nữa, rách việc quá. Ông Tuệ nhíu mày, nói thầm vào tai ông bạn:
– Làm thế nào bây giờ? Hay ta cứ theo kế hoạch mà làm?
Ông nội biết ông Tuệ là người nóng tính, lại kém xử lý những tình huống bất ngờ như thế này, có thể sẽ làm hỏng việc hoặc có khi còn gây hại cho thằng bé. Ông nhíu mày, phác nhanh kế hoạch rồi lại ghé sát tai ông Tuệ:
– Đã vậy rồi, ông cứ lo cho vụ thằng Sáng, để thằng bé con đấy, tôi sẽ liệu.
– Được.
– Bắt đầu đi.
Ông nội nói, rồi nắm bàn tay ông Tuệ giật một cái làm hiệu. Cả hai người cùng đứng dậy, bước ra khỏi bụi cây, đi như chạy, chỉ trong nháy mắt đã đuổi kịp chủ tớ lão Sáng. Ông Tuệ đập mạnh bàn tay xuống vai lão Sáng, làm lão giật thót tim.
– Đứng lại.
Lão Sáng còn chưa kịp phản ứng gì thì ông Tuệ đã giơ thẳng cánh tay chặt một nhát ngang gáy. Lão Sáng đổ vật xuống, người mềm nhũn như tàu lá héo. Thằng bé con không kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra, sợ quá, vội quỳ xuống, hai tay chắp lại, miệng lắp bắp nhưng chẳng nói được gì. Ông nội vội giơ ngón tay lên miệng suỵt một tiếng làm hiệu cho thằng bé im lặng.
– Cháu đừng sợ. Các ông không làm gì cháu đâu. Bây giờ, cháu phải đi theo các ông, nghe rõ chưa. Nào. Thật nhanh lên.
Ông nội kéo thằng bé, chạy vào khu vườn trồng sắn để vòng ra con đường sau làng. Ông Tuệ vác Sáng trên vai, bước thật nhanh để đuổi theo ông bạn. Chỉ một lát sau, tất cả đã lẩn sâu trong khu “vùng đất trắng”, rồi tới cánh rừng hoang ở chân đê. Hai người cùng dừng lại quan sát xung quanh, không thấy động tĩnh gì mới nhanh chóng vọt qua bờ đê, xuống thuyền.
Ông Tuệ xuống trước, cái xác không hồn của lão Sáng vẫn buông thõng trên vai. Ông nội dắt thằng bé xuống theo, chỉ chỗ cho nó ngồi.
– Cháu cẩn thận kẻo ngã.
Thằng bé run rẩy ngồi xuống chỗ ông nội chỉ, hai tay bám chặt trên thanh đố ngang của con thuyền. Ông nội cầm cây sào đẩy thật mạnh cho thuyền ra xa bờ, rồi gác sào dọc theo lòng thuyền, hạ chèo, bải người điều khiển cho con thuyền lao vun vút sang bờ bên kia.
Thuyền vừa cập bến, ông nội nhanh chóng gác chèo, chạy lên mũi thuyền, cầm theo chiếc dây làm bằng sợi chão, nhảy lên bờ, ghì chặt thuyền rồi quấn mấy vòng dây chão vào chiếc cọc đóng sẵn, buộc chặt lại. Xong đâu đấy, ông nội quay lại nhìn thằng bé.
– Cháu lên đi.
Thằng bé vẫn chưa hết sợ, chân tay run lẩy bẩy, rón rén từng bước. Ông Tuệ vẫn vác Sáng trên vai, đợi cho thằng bé lên bờ xong, ông mới thong thả bước từng bước nhẹ nhàng như không hề vướng bận gì.
Tất cả cùng leo lên mặt đê. Ông nội dắt thằng bé đi trước. Ông Tuệ thủng thẳng bước theo sau. Vừa vào đến sân, ông nội quay lại nói với ông Tuệ:
– Ông cứ từ từ, để tôi chuẩn bị chỗ cho nó nằm, đừng quẳng mạnh, nó chết mất.
Ông Tuệ cũng định ném lão Sáng xuống một góc ở vườn chuối sau nhà, nghe ông bạn nói thì dừng lại, đứng chờ. Ông nội vội vàng chạy xuống bếp, thổi lửa từ con bùi nhùi để châm lửa cho chiếc đèn dầu rồi mang lên gian buồng bên trái. Gian buồng này khuất hẳn với gian nhà ngang có vợ ông Tuệ, bà nội và chị gái tôi đang say sưa ngủ. Ông nội đặt chiếc đèn vào hốc tường, sau đó, quay ra hiên bưng chiếc chõng tre đặt vào góc buồng. Xong đâu đấy, ông nội quay ra, bảo ông Tuệ:
– Cho nó vào đi.
Ông Tuệ vác lão Sáng vào buồng. Ông nội bước đến, cùng đỡ lão Sáng cho nằm xuống chõng. Lão Sáng nằm sõng thượt, đầu ngoẹo hẳn sang một bên. Ông Tuệ nhìn lão Sáng, buông câu chửi:
– Mẹ con chó! Không nghe lời, ông cho mày trôi sông luôn. Thằng bé quỳ bên cạnh chiếc chõng, đầu cúi xuống, hai tay khoanh trước ngực run lên cầm cập. Ông nội kéo chiếc ghế
tre, ngồi bên cạnh thằng bé.
– Cháu tên gì?
– Dạ, thưa ông, cháu tên Còi ạ. – Thằng bé lập bập trả lời.
– Cháu mấy tuổi?
– Dạ, cháu mười ba ạ.
– Mười ba gì mà bé tẹo thế này?
– Vâng ạ. Có thế nên cả nhà ông chủ mới đặt tên cho cháu là Còi ạ.
– Cháu quê ở đâu?
– Dạ, cháu quê ở Thái Bình ạ.
– Bố mẹ cháu đâu?
– Bố mẹ cháu chết cả rồi ạ.
– Bố mẹ cháu chết từ bao giờ?
– Dạ, bố mẹ cháu chết hồi năm bốn nhăm. Cháu được ông Sáng nhặt về nuôi từ năm lên sáu tuổi ạ. Ông nội nghe thằng bé nói, đồ rằng bố mẹ nó chắc bị chết đói. Dạo ấy, người Thái Bình bị nạn đói khủng khiếp đã lũ lượt kéo nhau đi khắp nơi kiếm ăn, chết ở dọc đường rất nhiều. Ông nội xoa đầu thằng bé, tỏ vẻ thương hại.
– Ông hiểu rồi. Nhưng bây giờ cháu hãy nghe ông nói đây. Các ông sẽ không làm gì cháu đâu, nhưng tạm thời cháu cứ để ông trói lại. Lát nữa ông Sáng tỉnh dậy, thấy cháu cũng bị trói, ông ấy sẽ không nghi ngờ gì cháu, chứ nếu để ông ấy nghĩ khác, về nhà ông ấy sẽ đánh đập, tra khảo cháu đến chết đấy… Sau khi dặn dò thằng bé cẩn thận, ông nội lấy chiếc dây thừng trói cả hai tay hai chân Còi, đặt cạnh chiếc chõng lão
Sáng đang nằm.
– Cháu cứ tạm thế đã nhé.
Ông nội vừa nói, vừa lấy tay vỗ nhẹ vào người thằng bé trấn an, rồi quay sang ông Tuệ phẩy tay ra hiệu bắt đầu hành động.
Ông Tuệ gật đầu, đưa tay lần lần sau gáy lão Sáng, điểm huyệt.
– Xong rồi. Cứ để chủ tớ nó nằm đấy, ta ra ngoài làm chén rượu cái đã.
Hai người ra ngoài rót rượu uống và chớp nhoáng bàn bạc cách xử lý. Chỉ một lát, lão Sáng đã cử động dần rồi từ từ mở mắt. Lão Sáng thấy người đau ê ẩm. Ánh đèn dầu được ông Tuệ khêu to đủ để lão nhận ra mọi thứ xung quanh. Lão thấy lạ hoắc, định chống tay ngồi dậy nhưng không tài nào nhấc được tấm thân nặng trịch, đành buông mình rơi bịch xuống.
– Thằng Còi đâu rồi? Đây là đâu thế này? – Lão vừa rên rỉ, vừa gọi.
– Thưa ông. Con đây ạ. – Còi nghe tiếng ông chủ, vừa giả vờ rên hừ hừ, vừa trả lời.
Lão Sáng nghe tiếng Còi đáp, quay đầu nhìn, thấy thằng hầu của mình bị trói cả hai chân hai tay thì hoảng hồn. Lão quên cả người ngợm đang đau nhừ, bật choàng dậy.
– Sao lại thế này?
Lão Sáng ngơ ngác, còn chưa kịp nhớ lại chuyện gì đã xảy ra thì ông Tuệ đã bước vào. Ông Tuệ vẫn mặc nguyên bộ đồ từ lúc sang sông, chỉ mỗi chiếc khăn bịt mặt là được tháo bỏ. Ông Tuệ dừng lại trước mặt lão Sáng, hai tay khoanh trước ngực từ từ hạ xuống, đặt vào đốc kiếm.
– Có nhận ra tao không?
– Ông Tuệ!
Lão Sáng nhận ra người đứng trước mặt là ông Tuệ bởi dạo Việt Minh chưa về chiếm đóng bên kia sông, ông Tuệ vẫn thường sang chơi với ông bạn là ông nội tôi. Cặp đôi anh tài này, cả một vùng, không mấy ai không biết đến danh tiếng.
Ông Tuệ gật đầu.
– Còn nhận biết được thế là tốt. Mày có biết vì sao chúng tao lại bắt mày sang đây không? – Rồi không cần đợi lão Sáng trả lời, ông Tuệ nói luôn. – Cướp đất, cướp nhà của người lương thiện. Tội mày đáng chết. Hôm nay tao sẽ mày cho về chầu giời cùng với ông bà ông vải và thằng con trai khốn kiếp của mày, nghe chưa.
Ông Tuệ nói xong, bất ngờ thay đổi tư thế rất nhanh, chân phải choãi ra, chân trái hơi khuỵu xuống, đầu gối chống vào lưng lão Sáng đủ cho lão khỏi bị ngã ngửa, một tay ông nắm lấy mớ tóc lòa xòa của lão Sáng giật ngược về phía sau, tay kia rút kiếm đánh xoạt.
– Tao sẽ cắt cổ mày.
Lão Sáng vãi tè, ướt sũng cả đũng quần. Người lão mềm nhũn nhưng hai hàm răng lại cứng đơ, không thể nhấc lên được. Vừa lúc ấy, ông nội xuất hiện. Ông nội vội vàng chạy đến, đỡ lấy tay kiếm của ông Tuệ bằng một động tác dứt khoát.
– Hãy từ từ đã.
Ông Tuệ quay lại nhìn ông bạn. Hai người hiểu ý nhau. Ông Tuệ vẫn nhìn ông bạn chằm chặp bằng ánh mắt đầy vẻ trách móc.
– Ông định tha tội chết cho nó phải không? Nó cướp đất cướp nhà của ông, tội ấy chưa đáng chết hả?
– Ông hãy từ từ đã, ông Sáng đang ở trong tay ta, nếu muốn giết thì lúc nào chẳng giết được. Có một chuyện ông ấy chưa được biết. Ông hãy để tôi nói chuyện với ông ấy, tôi tin chắc khi biết được sự thật câu chuyện, ông ấy sẽ hối hận ngay thôi.
– Ông thì lúc nào cũng thế. Nhân ái với kẻ thù là tự giết mình! Gia đình tan nát cũng từ chỗ chúng nó ra cả mà ông vẫn không tỉnh ngộ. – Ông Tuệ nói như có vẻ trách móc ông bạn rồi buông tay khỏi lão Sáng, vùng vằng bỏ ra ngoài. Ông nội ngồi xuống chõng sát với lão Sáng, đưa tay nắn nắn lên vai lão.
– Đau hả.
Lão Sáng gật đầu, rồi nằm im. Lão rất hiểu con người đang ngồi bên cạnh lão, nổi tiếng nhân nghĩa, hào hiệp, không làm điều gì ác với ai bao giờ nên cũng thấy bớt sợ được phần nào. Ra là vậy! Lão Hai đã đưa cả gia đình chạy trốn sang đây! Bỗng nhiên lão Sáng thấy uất nghẹn. Thật khốn kiếp, từ ngày Việt Minh kéo về, chiếm được làng Hạ, hễ có đứa nào phạm tội đều tìm cách chạy trốn sang đây! Lão cũng không thể ngờ được, đứa con dâu nhà ông Hai nổi tiếng hiền lành, phúc hậu, thế mà lại dám cả gan làm du kích. Chỉ có bọn du kích mới dám làm chuyện động trời như vậy, dám giết chết con trai lão là một sĩ quan nhà binh. Cơ thể lão lúc này giống như một cỗ máy mà tất cả các chi tiết đang vận hành trái chiều với nhau. Từ lúc lão khiếp đảm, vãi cả tiểu ra quần, đến khi gặp ông nội thì lóe lên chút hy vọng được sống nên cái tính ngạo mạn vốn có trong con người lão lại bắt đầu quẫy đuôi. Nhưng dù thế nào thì bây giờ cũng phải cố hết sức điều chỉnh để cái cỗ máy ấy không bùng nổ, có thể sẽ gây bất lợi cho lão. Mặc dù lão biết chắc chắn ông Hai sẽ không bao giờ giết lão. Nhưng còn thằng Tuệ, nếu lão không cẩn thận, nó sẽ cắt cổ lão như chơi chứ không dọa suông. Lão gồng mình. Sự gồng mình có vẻ như quá sức, trào lên khóe mắt, làm lão thấy cay xè. Rồi bỗng lão nấc lên. Lão òa khóc. Lão khóc nức nở. Hình ảnh thằng con trai và cái xác trương phềnh lập lờ trên mặt giếng bắt đầu gõ vào bộ cảm ứng của lão…
– Ông Sáng!
Tiếng ông nội gọi làm lão Sáng giật mình. Lão đang khóc nức nở bỗng im bặt. Lão từ từ xoay người lại, hướng đôi mắt về phía ông nội. Đợi một lát cho lão Sáng trấn tĩnh lại, ông nội nói tiếp:
– Cũng là bất đắc dĩ nên chúng tôi phải mời ông sang đây, mong ông bỏ quá cho.
Lão Sáng vẫn im lặng. Ông nội lại nói tiếp:
– Tôi biết, chắc chắn ông chưa thể nguôi cơn giận đối với cha con tôi được. Nhưng nếu ông nghe câu chuyện tôi sắp kể thì ông sẽ hiểu và thông cảm cho chúng tôi. Con dâu tôi không phải là kẻ giết người. Cha con tôi cũng không phải là kẻ phạm tội mà phải đào tẩu như ông đang nghĩ.
Ông nội vẫn nhẹ nhàng nói. Lúc này, nhìn ông chẳng hề giống dân nhà võ tí nào, mà trái lại, ông rất giống một vị cứu khổ cứu nạn cho kẻ khốn cùng đang cận kề bên miệng hố của tử thần. Ấy thế mà lão Sáng vừa nghe thấy thế, đã lập tức trở lại ngay với thói đời vốn sẵn có trong người lão. Con mắt lão đang u tối như chiếc hũ sành bịt kín bỗng bật tung nắp, trợn ngược lên nhìn chằm chằm vào mặt ông nội. Ánh mắt của lão như muốn lỡm thị ông nội tôi là kẻ cố tình đặt điều để lừa mị lão. “Tang chứng, vật chứng đã rõ ràng. Nếu con dâu ông không phải là kẻ giết người thì tại sao phải tức tốc chạy sang đất của Việt Minh?” Lão Sáng nghĩ và lẩm bẩm trong họng. Những âm thanh vừa phát ra từ cái miệng lão rất nhỏ, chỉ đủ cho hai cái lỗ tai của lão đớp gọn, giấu vào bên trong lớp màng nhĩ của lão. Ông nội vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, theo dõi. Mọi nhất cử nhất động của lão Sáng đều không thể lọt qua được con mắt của ông nội.
Lão Sáng vẫn im lặng. Cái đầu lão ngoẹo hẳn sang bên trái, cái môi dày bự hơi nhếch lên. Ông nội biết đó là cách lão đang muốn bày tỏ thái độ phản ứng, không muốn nghe lời. Bản chất thằng này là vậy! Là người cùng làng, ông nội không còn lạ gì bản tính của lão.
– Ông Sáng, chẳng hay ông có sẵn sàng nghe tôi nói? – Ông nội bắt đầu nghiêm giọng lại. – Biết nghe lời chúng tôi chỉ có lợi hơn cho ông thôi. Nếu ông cố tình không muốn nghe thì tôi cũng đành phải trả lại quyền quyết định số phận của ông cho ông Tuệ vậy.
Ông nội đứng phắt dậy, định quay gót thì lão Sáng cuống cuồng quay đầu lại, miệng rối rít nói:
– Ấy không! Tôi nghe đây. Ông Hai cứ nói đi.
Ông nội biết chỉ cần dọa thế đã quá đủ để lão Sáng lại muốn vãi tiểu ra quần. Ông từ từ ngồi xuống. Vẫn bằng ánh mắt hết sức dịu dàng nhưng rất nghiêm nghị chiếu thẳng vào mặt lão Sáng.
– Giữa tôi với ông là tình làng nghĩa xóm, nếu không muốn cứu ông thì tôi đã để mặc cho ông Tuệ xử ông, liệu cái cổ kia có chịu nổi một nhát kiếm của ông ấy?
Ông nội vừa nói, vừa chỉ vào cổ lão Sáng khiến lão rùng mình. Sắc mặt lão Sáng lại đổi màu xám ngoét y như lúc bị ông Tuệ rút kiếm dọa.
– Vâng, ông Hai nói đi.
Ông nội bắt đầu mang đầu đuôi câu chuyện Sang định giở trò đồi bại với con dâu ông ở miếu Cô Xoan kể cho lão Sáng nghe. Khi ông nội kể xong, lão Sáng bỗng ứa hai hàng nước mắt. Môi lão rung rung như người đang sắp khóc.
– Con trai tôi. Khổ thân nó! Chắc cũng là nghiệp chướng mà nó phải gánh thôi ông Hai ạ. Ông biết đấy, vợ nó cũng trẻ đẹp chứ có đến nỗi nào mà lại đi làm điều dại dột như thế chứ. Tôi cúi đầu tạ tội với ông Hai và xin lỗi chị Cả. Tôi cắn rơm cắn cỏ xin được ông Hai và chị Cả tha tội cho cha con tôi.
Lão Sáng nói xong, bật khóc hu hu như một đứa trẻ… 
Lão Sáng từ từ hé mắt, đôi môi lão giật giật như người bị trúng gió. Hình như lão đã nhận ra người ngồi bên cạnh chính là Đặng Vũ. Nước mắt lão trào ra, chảy thành dòng, ướt sũng cả mớ tóc trên thái dương. Lão Sáng run rẩy, đưa hai tay chắp trước ngực, miệng lập bập, nói bằng hơi thở hổn hển: – Tôi đội ơn ông… đã… cho tôi được sống ạ.
Chương X
VỤ ÁN TỬ ĐƯỢC GIẢI CỨU

Khi được tin đội xử án chính quyền nhân dân chuẩn bị kéo về làng Vân Nhuệ thì tôi đã lên một tuổi.
Cũng đúng vào thời điểm ấy, Ủy ban Kháng chiến huyện đang có đợt kiện toàn lại cơ cấu tổ chức. Trước tiên, cái tên Ủy ban Kháng chiến huyện được đổi thành Ủy ban Hành chính huyện. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đặng Vũ thôi giữ chức chủ tịch để đặc trách công tác Đảng. Trước đó, Đặng Vũ đã đề nghị với Ban Tổ chức cán bộ tỉnh bổ nhiệm bà Hoa thay cho cương vị chủ tịch của mình nhưng không được chấp thuận. Ban Tổ chức cán bộ tỉnh đã bổ nhiệm Sâm cho đúng với lộ trình quy hoạch lãnh đạo. Bà Hoa thôi giữ chức trưởng ban Dân vận để đảm đương cương vị phó chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện thay Sâm. Trưởng ban Dân vận sẽ do Mẫn, một cán bộ từ địa phương mới lên đảm trách. Mẹ vẫn giữ nguyên cương vị nhưng cái tên Hội Phụ nữ cứu quốc được đổi lại là Hội liên hiệp Phụ nữ.
Đặng Vũ liên tiếp nhận được thông tư chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất. Tiếp theo việc giảm tô cho người nghèo là một chính sách mới. Theo đó, những gia đình có diện tích từ năm mẫu ruộng trở lên, thuê nhiều nhân công hoặc có nhiều người ở mướn, đều bị quy kết là địa chủ. Đã bị quy kết là địa chủ thì ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, ao cá, tài sản đều bị tịch thu hết trước khi đưa ra đấu tố trước toàn dân.
Đặng Vũ đi đi lại lại trong phòng làm việc của ông. Vậy là đã rõ ràng. Bao nhiêu điều trăn trở của ông bây giờ đã được sáng tỏ. Nếu căn cứ theo hướng chỉ đạo của Tỉnh ủy, chỉ riêng huyện Phú Vân cũng có tới gần ngàn người bị quy thành phần địa chủ. Gần nửa trong số họ có thể sẽ bị lãnh bản án cao nhất. Đặng Vũ chợt nghĩ tới lão Sáng ở làng Vân Nhuệ. Nếu chiểu theo đúng thông tư của trên gửi về thì ông ấy rất khó thoát khỏi cái án tử hình. Đặng Vũ đã hoạt động ở Phú Vân từ ngày còn trong bóng tối nên ông chẳng lạ gì lão Sáng cả. Thật sự thì ông ấy cũng chẳng đến nỗi nào. Và chính bản thân Đặng Vũ cũng đã hứa với ông ấy sẽ tạo mọi điều kiện để ông ấy được lập công chuộc tội. Vậy nên, Đặng Vũ thấy cần phải giữ đúng lời hứa. Phải có trách nhiệm bảo vệ ông ấy, cũng như bảo vệ tất cả những người đang muốn hoàn lương, giống như ông ấy…
Để thật khách quan, Đặng Vũ cho mở một cuộc họp khẩn cấp. Thành phần tham dự là những cán bộ nòng cốt của Ủy ban Hành chính huyện, gồm có Sâm, khi ấy đang đảm trách cương vị chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện. Bà Hoa, phó chủ tịch. Huyện đội trưởng Quyết. Trưởng ban Dân vận Mẫn, và tất nhiên có cả sự hiện diện của chủ tịch Hội Phụ nữ huyện.
Đặng Vũ nêu quan điểm của mình trước cuộc họp. Chủ trương của ông là cần thống nhất quan điểm trong ban lãnh đạo để có hướng sàng lọc thật kỹ các đối tượng trước khi cung cấp một danh sách “những kẻ mang án tử hình” cho đội xử án chính quyền nhân dân được cấp trên cử về. Trên cơ sở đó, Đặng Vũ chủ trương giảm thiểu tối đa đối với những người bị oan sai, càng nhiều càng tốt. Khi Đặng Vũ còn chưa kịp dứt lời, Sâm đã đứng bật dậy, nét mặt biểu lộ sự phản ứng khá gay gắt.
Thưa đồng chí Bí thư. Cho dù chúng ta không muốn, nhưng theo tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh thì cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới cũng rất cần có sự quyết liệt. Chúng ta không được mất cảnh giác, cần phải loại bỏ tận gốc những tàn dư của chế độ phong kiến và giai cấp áp bức bóc lột. Không để chúng có cơ hội cấu kết với nhau, ngóc đầu dậy, tiếp tục chống phá cách mạng, chống phá hòa bình, cướp đi thành quả của các tầng lớp nhân dân lao động nghèo khổ đã hàng chục năm trời đấu tranh vô cùng gian khổ mới giành lại được.
Tất cả mọi người có mặt đều im lặng. Không khí trở nên rất căng thẳng khi nghe Sâm đưa ra ý kiến của mình. Quyết hết nhìn Đặng Vũ lại nhìn bà Hoa và đồng chí chủ tịch Hội Phụ nữ. Ông cũng muốn nêu ý kiến của mình nghiêng về phía Đặng Vũ nhưng lại e ngại Sâm. Bà Hoa ngồi đối diện với Quyết, thấy vậy, đứng dậy xin phép được phát biểu.
Thưa đồng chí Bí thư, thưa đồng chí Chủ tịch, Đảng ta vốn đầy lòng nhân ái, luôn lấy phương châm giáo dục, đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại. Đối với những thành phần địa chủ nhưng không có nợ máu với nhân dân, lại ít nhiều có đóng góp cho kháng chiến, nếu họ đã thực sự hối cải thì chúng ta cần giáo dục, giúp đỡ họ, cho họ cơ hội được đóng góp, cùng với toàn dân xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và đấu tranh với chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. – Bà Hoa nói liền một mạch rồi dừng lại, đưa mắt nhìn thẳng vào ánh mắt đỏ đọc của Sâm đang ném những tia hằn học về phía mình. Nhưng dường như bà Hoa vẫn không hề có chút nao núng nào. Bà nói tiếp. – Thưa các đồng chí, hằng ngày, hằng giờ, chúng ta đang tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man những người kháng chiến cũ ở miền Nam. Hành động trả thù của chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Giơ-ne. Vậy, không nhẽ chúng ta lại giẫm chân lên vết giày của họ. Bởi vậy, tôi đồng ý với ý kiến của đồng chí Đặng Vũ, và cũng mong đồng chí Sâm mở rộng lòng khoan dung, xem xét lại quyết định của mình.
Bà Hoa nói xong, ngồi xuống, chờ đợi ý kiến phản hồi của mọi người. Mẹ nhìn sang bà Hoa và rất lo lắng. Quyết vẫn ngồi im, mồ hôi vã trên trán, chảy thành dòng xuống má. Những người còn lại hình như cũng đang bị ngậm hột thị, không thấy ai dám hé răng tới nửa lời. Đặng Vũ thấy vậy, đứng lên, đưa mắt nhìn mọi người một lượt, rồi nói:
Nào, mời các đồng chí tiếp tục phát biểu, nêu rõ quan điểm của mình đi chứ. Tôi yêu cầu mọi người cứ thẳng thắn, đây là cuộc họp nội bộ, các đồng chí không lo sẽ bị trù úm. Tôi xin lấy danh dự bảo đảm với các đồng chí về vấn đề này.
Đặng Vũ vừa dứt lời, mẹ từ từ đứng dậy, vẫn là giọng nói dịu dàng vốn dĩ, nhưng rất mạch lạc:
– Tôi ủng hộ ý kiến của đồng chí Đặng Vũ và đồng chí Hoa. Bản án tử hình chỉ nên áp dụng đối với những kẻ đã từng áp bức bóc lột nhân dân thậm tệ, hoặc có nhiều nợ máu với đồng bào. Chúng ta nên tạo cơ hội cho những người còn lại được lập công chuộc tội, để họ góp công góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
Mẹ nói xong, đưa mắt nhìn Quyết. Trong ý nghĩ của mẹ vụt liên tưởng về một con người đã từng xông pha trong lửa đạn rất ngoan cường, để chiến đấu, giải phóng làng Vân Nhuệ. Mà sao lúc này, trong cuộc đấu tranh nội bộ giữa những người đồng chí, Quyết lại thiếu tự tin đến mức như vậy. Trong ánh mắt của mẹ lộ rõ sự thương cảm đối với Quyết. Cùng trong khoảnh khắc ấy, Quyết đã bắt gặp ánh mắt của người nữ đồng chí, mới trước đây không lâu còn vô cùng nhút nhát, tới mức ông đã tưởng không thể trụ nổi trong hàng ngũ của những người kháng chiến. Bỗng nhiên Quyết thấy sượng sùng quá. Từng lời, từng câu nói của người phụ nữ ấy và bà Hoa đã kích động mạnh mẽ đến lòng tự trọng, khiến ông không thể ngồi yên được nữa.
Thưa các đồng chí. – Quyết đứng dậy. – Tôi thiết nghĩ, quê hương của chúng ta từ hàng chục năm trời nay đã đổ không biết bao nhiêu máu xương. Từ trong tận đáy lòng, tôi không bao giờ muốn làng xóm quê hương của chúng ta đổ thêm một giọt máu nào nữa. Với tư cách của người đã chiến thắng, hơn bao giờ hết, chúng ta nên tiếp tục phát huy truyền thống vốn có của một dân tộc đã từng nhiều lần hết lòng độ lượng, khoan dung với kẻ thù. Gần đây nhất, trong suốt thời kỳ kháng chiến chín năm, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng ngàn tù binh Pháp bị bắt đã được chúng ta rộng lòng ân xá, cho trở về quê hương đoàn tụ với gia đình, làm cho cả thế giới đều nức lòng ủng hộ chúng ta. Vậy thì giờ đây, không lẽ gì chúng ta lại không thể rộng lòng khoan dung đối với những kẻ cùng là máu đỏ da vàng, cho dù họ đã từng lầm đường lạc lối, đã từng đứng chung chiến hào với kẻ thù của dân tộc. Đối với họ, nếu chúng ta biết sử dụng, tôi đảm bảo chắc chắn họ sẽ dốc lòng, dốc sức để lập công chuộc tội. Tinh thần nhân đạo của chúng ta sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh, là tấm gương soi sáng để cả thế giới biết rằng, chính phủ của Cụ Hồ là một chính phủ sáng ngời chính nghĩa. Từ đó, sẽ khích lệ cả thế giới đoàn kết, đấu tranh, ủng hộ sự nghiệp cách mạng của chúng ta, buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định, trước mắt phải dừng ngay hành động đàn áp dã man đối với những người kháng chiến cũ ở miền Nam, tiến tới tổng tuyển cử, thống nhất đất nước…
Quyết nói liền một mạch. Và ông vẫn còn đang tiếp tục nói thì bất ngờ Sâm giơ tay đập mạnh xuống bàn. Tiếng đập bàn đánh rầm, làm mọi thứ trên mặt bàn nảy tưng lên, rơi xuống đất tung tóe. Đôi mắt Sâm trắng dã, long lên sòng sọc.
Thôi! Không nói nữa! Sặc mùi phản cách mạng! – Sâm chỉ thẳng vào mặt Quyết quát. Rồi ông ta lại tiếp tục lớn giọng. – Một tư tưởng thỏa hiệp! Không! Còn hơn cả sự thỏa hiệp nữa! Phải nói thẳng ra, đây là sự đầu hàng kẻ thù của giai cấp mới đúng. Trong khi cả miền Bắc đang sôi sục, hằng ngày hằng giờ đấu tranh quyết liệt để trấn áp bọn chúng thì anh lại cam tâm làm kẻ đầu hàng. Tôi nói như vậy có đúng không hở anh Quyết, hở các đồng chí?
Thưa anh. Tôi đang nói thì anh đã cắt lời không cho tôi nói. Ý của tôi là chúng ta sẽ thực hiện từng bước. Sau khi tịch thu ruộng đất của địa chủ, chúng ta cần sàng lọc đối tượng, chỉ loại bỏ những tên cường hào ác bá, có nhiều nợ máu với nhân dân và những kẻ ngoan cố chống phá cách mạng đến cùng. Đối với những kẻ này, chúng ta cần phải thẳng tay trừng trị, không được bỏ sót một tên nào. Bởi vậy, tôi xin nhất trí với phương án đồng chí Bí thư đưa ra. Để tránh tình trạng oan sai đối tượng, tôi đề nghị chúng ta cần tổ chức ngay một cuộc điều tra, lấy ý kiến tham khảo của nhân dân, đặc biệt là những người ở ngay tại các gia đình đối tượng để có được một kết luận thật chính xác, mang lại sự công bằng nhất, khách quan và nhân đạo nhất.
Hừ, tại sao lại phải công bằng, khách quan, rồi lại nhân đạo đối với bọn phản nước hại dân. Nói như anh Quyết thì đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ là sai à? Vậy là rõ ràng rồi nhé, chính anh đang phủ quyết cuộc cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, để mặc cho kẻ thù giai cấp cứ việc nhởn nhơ, chờ đợi cơ hội, rồi sẽ ngấm ngầm cấu kết với nhau, tiếp tục chống phá thành quả cách mạng. – Sâm lại đùng đùng đứng dậy, cắt ngang lời Quyết. Vẫn là đôi mắt trắng dã của Sâm lại vụt chuyển sang màu đỏ đọc. – Phải đấu tranh quyết liệt với tư tưởng hữu huynh, thiếu triệt để cách mạng của những kẻ đang muốn thủ tiêu cuộc cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ…
Cơn uất nghẹn của Sâm bị dồn nén quá mức, đã bật tung. Đặng Vũ thấy tình thế không ổn, nhất là việc Sâm đập bàn đập ghế trước một cuộc họp gồm những cán bộ chủ chốt thì không thể chấp nhận được. Ông đứng dậy, giơ tay ra hiệu cho Sâm dừng lại.
Vấn đề hiện tại là chúng ta đang cần tìm ra hướng đi đúng đắn để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng cho tốt. Trong cuộc họp này, ai cũng có thể đưa ra ý kiến của mình một cách thẳng thắn, dân chủ, để tất cả cùng nhau phân tích, mổ xẻ, tìm ra cái sai, cái đúng, cái lợi, cái hại. Tôi yêu cầu mỗi đồng chí đều phải phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, làm chủ tập thể, biết tôn trọng lẽ phải, không áp đặt một cách máy móc bắt người khác phải tuân thủ theo ý của mình. Về ý kiến của riêng tôi thì sáng kiến của đồng chí Quyết là rất xác đáng. Chúng ta nên tổ chức một tổ công tác, xuống ngay từng nhà đối tượng, trực tiếp tìm hiểu những người ở trong gia đình của các đối tượng ấy. Tiếng nói của những người này là tiếng nói của nhân dân, của những người cùng khổ, sát với thực tế nhất, sẽ là bản án xác đáng, đúng người, đúng tội, không làm cho chúng ta phải hối hận khi có một quyết định sai lầm. Tôi xin lấy ý kiến dân chủ. Nào, yêu cầu mọi người cho biểu quyết.
Tất cả những người có mặt trong cuộc họp đều tán thành với ý kiến của Đặng Vũ và Quyết. Riêng Sâm, sau giây phút ngập ngừng, ông ta cũng giơ tay biểu quyết một cách miễn cưỡng. Đặng Vũ thấy vậy nói luôn:
– Vậy thì ta cứ thế mà làm. Tôi giao cho đồng chí Chủ tịch, đồng chí Phó chủ tịch phối hợp làm cho tốt. Nhưng hai người cần nhớ rằng, trong tổ công tác nhất thiết phải có đầy đủ đại diện của Huyện đội, Hội Phụ nữ, Ban Dân vận, Thanh niên và các cơ quan đoàn thể xã hội khác. – Đặng Vũ nói xong, quay về phía Sâm và bà Hoa. – Anh Sâm, chị Hoa đã nghe rõ chưa?
– Thưa anh, vâng ạ. – Bà Hoa đáp lời ngay.
– Thưa anh, tôi nghe rõ rồi ạ. – Sâm cũng lúng búng phát ra mấy câu từ trong họng.
– Nghe rõ rồi thì cứ vậy mà làm cho tốt, nếu có tội tình gì, tôi chịu. – Đặng Vũ nói xong, tuyên bố kết thúc cuộc họp.
Đặng Vũ đặt tất cả niềm tin vào những gì ông biết được trong suốt thời gian hoạt động ở Phú Vân. Không ít gia đình dự kiến sẽ bị quy thành phần địa chủ ác bá đều được những người ở trong nhà họ xác nhận, họ cũng chẳng đến nỗi nào. Riêng với nhà lão Sáng, tất cả số người ở trong nhà lão đều khẳng định lão là ân nhân cứu mạng của họ. Trong suốt thời gian làng Vân Nhuệ gia nhập tề, lão Sáng chưa từng chỉ điểm cho quân Pháp bắt bớ đàn áp du kích. Cái tội duy nhất của lão là cho thằng con trai sung lính Tây thì đã bị chết rồi. Đặng Vũ lại khẳng định thêm một lần nữa với chính mình, vậy thì nhất định phải cứu lão Sáng, không thể để cái án tử hình oan nghiệt giáng xuống đầu ông ta.
Nhưng Đặng Vũ đã không thể ngờ, ngay sau cuộc họp, Sâm đã nghĩ đến việc phải đi trước Đặng Vũ một bước. Ông ta cử tay chân thân tín đến từng gia đình đối tượng, mớm lời cho những người mà Đặng Vũ cần khai thác. Người được Sâm chọn làm việc này là Mẫn. Mẫn là tay chân thân tín của Sâm được chọn từ cơ sở, được Sâm bổ nhiệm vào ghế trưởng Ban Dân vận thay bà Hoa.
Ráng mà làm cho tốt, chỗ của mi không phải là ở Ban Dân vận đâu. Tao muốn mi phải ngồi vào chỗ của mụ Hoa đang ngồi kia kìa. Mi nghe chửa?
Mẫn nghe Sâm nói, hiểu ý, nên càng hăng hái hơn để lập thành tích với Sâm. Mẫn bí mật tuyển một đội gồm tất cả những thành phần chậm tiến ngoài xã hội, đội lốt cán bộ chính quyền nhân dân cùng Mẫn xuống từng gia đình đối tượng theo danh sách mà Sâm đã cung cấp.
Khi mới bắt đầu triển khai công việc, Mẫn và “tổ công tác” của Mẫn đã bị rất nhiều cá thể được hỏi phản đối, không chịu hợp tác. Nhưng bọn tay chân của Mẫn đã dùng đủ mọi thủ đoạn đe nẹt, dọa sẽ khép họ vào tội chống lại kháng chiến. Mà cái tội chống lại kháng chiến thì ai cũng biết, nếu không bị giết thì cũng sẽ bị đi tù đến mọt gông. Khi Mẫn thấy họ vừa đủ sợ rồi, hắn hứa hẹn sẽ thưởng công cho họ bằng chính nhà ở và tài sản mà chủ của họ đang sở hữu. Phần thưởng nhiều hay ít còn tùy thuộc vào sự tố giác của họ đối với việc buộc tội chủ của họ nữa.
Cuối cùng thì Sâm và Mẫn cũng đạt được thâm ý của mình. Hầu hết những người ở hoặc làm công, phần vì sợ, phần vì hám lợi, đều nghe theo sự xui khiến, phản lại chủ của mình.
Ở làng Vân Nhuệ, không khí đang rất sôi sục. Những gia đình giàu có, nằm trong diện có thể bị quy là địa chủ, phú nông vô cùng hoảng sợ. Ai cũng nghĩ tới việc tẩu tán, cất giấu tài sản. Nhưng khi họ vừa ra khỏi cổng ngõ đã lập tức bị những người của Mẫn đón lõng, khám xét, tịch thu hết. Thế mới biết lão Sáng là người khôn hơn họ cả một cái đầu…
Nhưng cho dù lão Sáng có khôn đến mấy thì cũng chẳng thể cưỡng lại được với số phận. Đã đến lượt những người ở trong nhà lão bị lôi đến “trụ sở” làm việc. Gọi là “trụ sở”, nhưng thực ra chỉ là căn nhà vườn, nằm sâu trong hẻm, mà Ủy ban Hành chính xã mới tịch thu của một gia đình giàu có trong làng đã ra thành phố sinh sống, rồi di tản vào Nam khi miền Bắc mới được hòa bình. Mẫn chọn nơi này làm địa điểm để thực hiện ý đồ của Sâm vì nó kín đáo, rất ít khi có người lai vãng tới. Nhà lão Sáng có khoảng gần ba chục người làm công, lần lượt bị điệu tới. Tất nhiên, tất cả những người đó lần lượt đều bị dính bẫy của Sâm và Mẫn. Đến lượt Còi là người gần sau chót. Còi nhất định không chịu. Còi bảo, dù có bị khép vào tội chết Còi cũng không làm chuyện thất đức như thế. Còi bị đánh đập rất đau đớn nhưng vẫn một mực nói lão Sáng là ân nhân cứu mạng và được lão đối xử rất tử tế. Cuối cùng thì bọn người kia đành chịu thua. Chúng nhốt Còi vào một nơi bí mật, cho đến tận ngày xét xử xong gia đình lão Sáng mới chịu thả tự do cho Còi.
Người cuối cùng bị gọi ra trụ sở là Ngà, cô con dâu độc nhất của lão Sáng. Theo phong tục tập quán của làng Vân Nhuệ thì Ngà là con dâu, chỉ biết sinh con cho nhà lão Sáng nên không không phải chịu trách nhiệm liên đới. Nhưng đối với Sâm và Mẫn thì Ngà lại là nhân vật rất quan trọng, rất nặng ký, có thể quyết định số phận của lão Sáng. Bởi thế, Sâm bảo Mẫn phải trực tiếp làm việc với Ngà, phải tìm đủ mọi cách, kể cả dọa dẫm, cưỡng bức, miễn sao đạt được ý đồ.
Khi Ngà vừa được hai thanh niên đột lốt “cán bộ” dẫn vào, Mẫn đã sửng sốt vì sắc đẹp của Ngà. Nàng có khuôn mặt trái xoan trắng hồng. Đôi mắt sắc như dao cau. Chiếc mũi dài, nhỏ, thẳng tắp, lại thêm đôi môi hình trái tim đỏ mọng, khiến Ngà có một nét đẹp sắc sảo nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Ngà mặc chiếc quần âu, áo sơ mi cổ viền, trễ xuống tận ngực, tất cả đều bó sát lấy người khiến từng đường cong trên cơ thể lồ lộ, đúng cốt cách của những người có bang giao với người ngoại quốc sống ở vùng ven đô tỉnh lẻ thời thuộc Pháp. Cha đẻ của Ngà từng là sĩ quan quân đội Pháp, bị tử trận trong chiến dịch Thu Đông năm 1947. Mẹ Ngà, sau khi đoạn tang chồng đã lấy một viên sĩ quan người Pháp. Đúng vào thời điểm mẹ Ngà lấy chồng, Sang đang là sĩ quan cấp úy, trung đội trưởng một trung đội trong tiểu đoàn do viên sĩ quan, chồng sau của mẹ Ngà phụ trách. Chính ông ta đã đứng ra tác thành cho Ngà và Sang thành vợ thành chồng. Sau sự việc bố đẻ tử trận, rồi lại đến chồng bị chết nên mối thâm thù của Ngà đối với Việt Minh là vô cùng sâu nặng. Bây giờ, thời cuộc đã đổi thay, khiến Ngà đang phải sống trong một tình cảnh chơi vơi, dở khóc dở cười, khiến Ngà trở nên bất cần đời…
Vẻ đẹp của Ngà đã làm Mẫn chếnh choáng như người bị say nắng. Nhưng với bản tính gian manh, ngay lập tức, Mẫn lấy lại phong độ kẻ cả của người có quyền thế đang làm nhiệm vụ. Mẫn trừng mắt, ném cái nhìn uy hiếp về phía Ngà.
– Cô Ngà là con dâu lão Sáng, vợ tên Sang có rất nhiều nợ máu với nhân dân, đúng thế không?
Ngà cũng chẳng phải loại vừa. Cô đáp lại ánh mắt đang cố tạo vẻ của Mẫn bằng nụ cười khẩy và khuôn mặt vênh ngược lên.
– Đúng thì đã làm sao? Ai làm người nấy chịu, can gì mà các người phải bắt con này ra đây…
Ngà đang còn muốn nói gì nữa thì Mẫn đã đập bàn đánh rầm một cái.
– Thị Ngà! Thị có biết sắp chết đến nơi rồi không? Chẳng qua là ta muốn cứu thị, nên mới gọi đến để bày cho các mà gỡ tội. Nếu thị không muốn sống thì ta cứ để mặc cho cán bộ cải cách lôi thị ra xét xử, rồi bắn bỏ. Thị muốn chọn đằng nào?
– Chết thì chết, con này cũng đếch sợ.
– À, ra là thị đang muốn chết. Thế thì ta sẽ cho thị được toại nguyện.
Mẫn nói rồi đứng phắt dậy, đùng đùng bỏ ra ngoài. Y hất hàm ra hiệu cho hai gã thanh niên đứng chờ sẵn ngoài cửa. Một gã có thân hình cao lớn, bên thái dương trái hằn sâu một vết sẹo do bị chém trong lần đi đâm thuê với cánh giang hồ. Gã kia xăm trổ đầy mặt mũi mình mẩy. Hai gã thanh niên bước vào, mắt gườm gườm rồi cùng xông tới trước mặt Ngà. Gã có vết sẹo bên thái dương trẹo mồm, nói:
Mụ nên biết điều một chút! Sống thì khó, chết thì dễ! Cán bộ cũng vì thương mụ nên mới giúp cho mụ một con đường sống. Mụ không biết gì à, ở khắp nơi, người ta đang bắn bỏ những người có thành phần như mụ đầy ra kia kìa. Rồi cũng chỉ nay mai là đến lượt mụ thôi chứ chẳng phải đợi lâu đâu. Họ sẽ lôi mụ ra pháp trường, trói vào cột, đoàng phát là hết đời. Mụ đừng có thách thức cán bộ mà khốn đấy.
Con này cần đếch gì sống nữa. Cha, chồng, thì đã bị các người giết. Mẹ đi biệt xứ. Con này sống được là nhờ cậy gia đình nhà chồng. Bây giờ gia đình nhà chồng cũng tan nát hết. Đời như thế, thử hỏi con này còn cái đếch gì nữa mà tiếc…
Hai gã thanh niên thấy Ngà có vẻ cứng đầu, liền sừng sộ. Một gã tuốt ngược tay áo rồi chộp lấy cổ tay Ngà vặn ngược về phía sau, khóa chặt lại. Cái mồm hắn dẩu lên, kê gần sát bên tai Ngà.
– Con đĩ, đừng có già mồm! Mày muốn để tao dạy cho mày biết thế nào là luật pháp phải không?
Một cái tát đánh đốp làm Ngà xây xẩm mặt mày, ngã văng khỏi ghế. Gã thanh niên còn lại hất hàm, cười khẩy.
Mụ cứ bướng bỉnh nữa đi! Bọn này sẽ dạy cho mụ biết thế nào là “lễ độ” trước khi cho mụ đi theo thằng chồng của mụ.
Gã thanh niên nói xong, định co cẳng thúc mũi giày vào bụng Ngà thì Mẫn lại đột ngột xuất hiện.
– Dừng lại! Ai cho chúng mày làm như vậy. Cút!
Mẫn tỏ vẻ ân hận, vội vàng bước tới, cúi xuống đỡ Ngà dậy.
Tôi thành thật xin lỗi cô Ngà. Tôi nghĩ là vì cô Ngà chưa hiểu ra vấn đề nên muốn dành chút thời gian để cô tĩnh tâm lại, suy nghĩ cho thấu đáo rồi ta cùng nói chuyện. Ai ngờ, mấy thằng khốn đã nhỡ tay làm bậy quá…
Mẫn vừa nói, vừa xuýt xoa trước sự đau đớn của Ngà. Đối với Ngà, cô không còn lạ gì kiểu nịnh bợ của những hạng người như Mẫn nên đã đáp lại bằng một thái độ hết sức thờ ơ lạnh lùng. Mẫn kín đáo liếc nhìn. Khuôn mặt của Ngà càng thờ ơ lạnh lùng bao nhiêu, càng trở nên kiêu sa sắc sảo bấy nhiêu đã hút hết phần hồn của Mẫn. Nhưng vẫn là bản tính gian manh vốn có, Mẫn vẫn tiếp tục chiêu trò bằng thái độ hết sức thương xót cho Ngà.
Tôi biết hoàn cảnh của cô Ngà hiện thời có nhiều đau thương lắm. Nhưng thời thế đã vậy rồi, biết làm sao được. Đời người có số có vận cả. Cho dù cô Ngà không muốn sống nữa nhưng cô vẫn cần phải sống. Cô cần phải sống là để cứu mấy đứa nhỏ, con của cô đó. Tôi thử hỏi, nếu mẹ của chúng cũng chết nốt thì chúng sẽ ở với ai, sống như thế nào?
Ngà nghe Mẫn nói về mấy đứa con thì bỗng chùng hẳn lại. Hắn nói đúng. Cho dù mình không muốn sống nhưng vẫn phải sống. Mình không còn thương bản thân mình nhưng vẫn phải thương lũ con nhỏ của mình. Thời thế đã đổi thay, voi bị đày xuống làm chuột cống rồi. Cha của chúng đã chết. Bây giờ đến lượt ông nội chúng sắp bị giết. Nếu mình cũng đi theo hai người ấy, nhà cửa lại bị tịch thu hết, lũ con mình còn biết chui rúc vào đâu. Ngà chợt nghĩ đến hũ vàng ông bố chồng và mình đã đem đi chôn dạo mấy tháng trước. Chính ông đã biết trước thời thế rồi sẽ đến lúc như thế này, đã gửi trọn niềm tin cho bản thân mình. Nếu mình không làm tròn được bổn phận thì chính mình sẽ có tội với ông, có tội với lũ trẻ và có tội với cả cha của chúng nữa.
Ngà nghĩ tới cảnh những đứa con của mình không cha, không mẹ, không nhà không cửa, dắt nhau đi lang thang, cầu bơ cầu bất, chui rúc xó xỉnh gầm cầu cống rãnh mà bỗng thấy lòng đau như xé. Đúng là mình cần phải sống. Rất cần phải sống! Không thể để cho các con của mình rơi vào tình cảnh như thế được. Cho dù nhà cửa, ruộng vườn sẽ bị tịch thu, nhưng đến lúc yên ổn, mình sẽ lấy số vàng đó và đưa các con đi thật xa. Có thể sẽ đưa chúng về quê ngoại. Quê ngoại của chúng, cả làng, cả xã cùng đi theo đạo Thiên chúa. Ở đó, Chúa sẽ che chở cho mẹ con mình, sẽ là chỗ an toàn nhất cho mẹ con mình nương náu.
Ngà suy nghĩ một hồi rồi từ từ quay lại nhìn thẳng vào mặt người đang ngồi đối diện với mình. Lại một cái nhếch mép cười khẩy ném vào mặt hắn.
– Vậy, ông cần gì ở tôi?
Mẫn thấy Ngà đã có vẻ xuống nước, vội hạ giọng.
– Thứ nhất, mấy hôm nữa, đội công tác của huyện sẽ về lấy lời khai của những người trong gia đình cô về bản thân ông Sáng. Cô phải làm ra vẻ đối lập với ông ấy, làm như mình cũng là người bị ức hiếp chẳng khác gì những người ở trong nhà ông ta. Thậm chí, cô cứ khai là từ ngày chồng mất, cô đã bị ông ta cưỡng bức làm chuyện dâm ô. Cô càng tố cáo ông ấy có nhiều tội ác đối với cô bao nhiêu thì càng có lợi cho cô bấy nhiêu. Cô sẽ được đội xử án chính quyền nhân dân cho hưởng đặc ân, sẽ được ở lại chính ngôi nhà đó để sống và nuôi con. Ngược lại, nếu cô để đội công tác hiểu rằng cô cùng một giuộc với ông bố chồng, cùng tiếp tay cho ông ấy hà hiếp bóc lột người lao động thì tội nặng lắm. Đến lúc ấy, sẽ chẳng có ai cứu nổi cô nữa đâu. Cô hiểu ý tôi nói chứ?
Ngà vừa nghe Mẫn nói đến thế, giãy nảy lên.
– Nhưng tôi không thể làm như thế được. Ông Sáng là bố chồng của tôi. Ông thương mẹ con tôi lắm. Tôi không phải là hạng người khốn nạn như các người nghĩ đâu, đừng hòng bắt tôi làm những điều thất đức như thế!
Đằng nào thì ông ta cũng phải chết. Nếu cô đứng ra bảo vệ cho ông ấy mà phải chết cùng thì phỏng có ích lợi gì? Cuối cùng là chỉ khổ cho lũ con nhỏ của cô thôi. Tôi tin là, khi xuống âm phủ, ông Sáng sẽ tường tỏ tình cảnh của cô phải làm như vậy chỉ vì lũ trẻ, chắc chắn ông ấy sẽ đại xá cho cô thôi. Tôi biết ông Sáng cũng thương các cháu của ông ấy lắm. Cô hãy nghe tôi, hãy làm như vậy để cứu lấy bản thân cô, cứu lấy lũ trẻ.
Tôi không thể trả lời ông ngay lúc này được. Tôi xin ông hãy cho tôi suy nghĩ thêm đã. Còn điều kiện thứ hai?
Mẫn đứng dậy, bước ra cài then cửa rồi quay lại gần Ngà, đưa tay chụp lấy bàn tay trắng như ngọc của Ngà.
Tôi muốn…
Mẫn nói rồi ôm chầm lấy Ngà, ghì thật chặt. Ngà muốn đẩy hắn ra nhưng hai cánh tay hắn cứng như thép càng siết chặt hơn làm Ngà bất lực. Ngà muốn kêu lên nhưng miệng cô đã bị Mẫn khóa cứng lại bằng cái miệng của hắn đang ngoạm gọn đôi môi cô. Ngà từ từ buông xuôi. Cả thân thể Ngà như bị một luồng điện chạy rần rật khiến cô không còn làm chủ được bản thân mình nữa. Nàng đành để mặc cho bàn tay của Mẫn tự do lộng hành trên khắp thân thể của mình. Mẫn lập cập, run rẩy, bế thốc Ngà vào gian trong, đặt trên chiếc giường trước đây chủ nhà đã chuẩn bị sẵn để thỉnh thoảng đưa bồ nhí đến.
Chỉ lát sau, từ trong gian phòng đã bắt đầu hắt ra tiếng rên rỉ, rồi tiếng thở hổn hển, gấp gáp của hai người khiến cả ngôi nhà vườn bỗng chốc chòng chành, chao đảo rồi quay tít…
Khi đội công tác do Đặng Vũ quyết định thành lập trong cuộc họp kín giữa các lãnh đạo chủ chốt trở về báo cáo, ông biết ngay là mình đã bị chậm một bước. Linh cảm cho Đặng Vũ biết rất rõ kẻ đã làm việc này là ai. Ông cho gọi Quyết, bà Hoa và mẹ tới để bàn cách cứu vãn tình thế.
– Các đồng chí có biết vì sao mọi việc lại bị đảo ngược như thế này không?
Cả bà Hoa, Quyết và mẹ đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai biết lý do vì sao thì Đặng Vũ đã tiếp lời:
– Cũng là do tôi quá tin tưởng vào một triết lý sống đơn thuần, cái thiện ắt phải thắng cái ác, cái nhân nghĩa ắt phải thắng bạo tàn. Chính bởi vậy, tôi đã để lỡ một nước trong ván cờ này. Ngày mai đội xử án sẽ về. Bản danh sách do Sâm tổng kết từ ý kiến của đội công tác sẽ được trao cho họ. Trên cơ sở đó, họ sẽ bắt đầu lần lượt đến từng làng, từng xã, điệu cổ từng người ra để xét xử.
Đặng Vũ đưa đôi mắt buồn rầu lần lượt nhìn Quyết, bà Hoa và mẹ.
– Các đồng chí thử xem có cách gì cứu họ được không?
Nhưng cả ba người vẫn im lặng. Mẹ và bà Hoa hết nhìn nhau lại nhìn Đặng Vũ và Quyết. Quyết cũng chẳng hơn gì bà Hoa và mẹ. Ông ngồi im, có vẻ đang cân não về một điều gì, rất căng thẳng. Sau một hồi, cả ba đều lắc đầu trả lời không thể tìm ra được phương kế nào. Về phần Đặng Vũ, tuy hỏi vậy nhưng ông cũng thừa biết, trong tình trạng hiện thời, nếu cố tình thay đổi nước cờ này, có thể sẽ làm cho tình hình càng trở nên phức tạp hơn. Đặng Vũ mím chặt môi, tự truy xét với chính bản thân mình. Trong thâm tâm, Đặng Vũ tự gán cho mình là người phải chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này. Quyết buông hai tay, nhìn Đặng Vũ với ánh mắt bất lực.
Đối với ông, Đặng Vũ luôn là người mà ông hết mực kính trọng, là người lãnh đạo tài ba xuyên suốt thời kỳ huyện Phú Vân còn chìm trong bóng tối và chín năm kháng chiến lâu dài. Mặc dù Đặng Vũ không nói rõ kẻ nào đã chủ mưu trong vụ này, nhưng Quyết cũng dễ dàng đoán biết được kẻ đó là ai. Đặng Vũ nói là ông đã bị thua một nước trong ván cờ này. Không! Quyết khẳng định, Đặng Vũ không hề là kẻ chiến bại.
Ông vẫn là người chỉ huy có trí tuệ tuyệt vời. Đó chẳng qua chỉ là một khoảnh khắc ông đã để lòng tin bị đánh cắp một cách trâng tráo, nên mọi giá trị nhân văn nhất thời đã bị đảo lộn bởi kẻ khoác chiếc áo của người cán bộ cách mạng mà thôi…
– Tôi có ý kiến thế này mọi người xem có được không? – Quyết nói.
– Cậu cứ nói đi.
Ngày mai đội xử án sẽ về đây trước khi xuống từng địa phương. Chúng ta thử tìm hiểu tâm lý của họ. Nếu họ cũng có thiện ý tốt thì chúng ta sẽ đặt vấn đề thẳng thắn để họ nương tay hơn một chút.
Trong tình hình hiện tại, cậu làm thế có khác gì lấy đá tự đập vào chân mình để trở thành một thằng què. – Đặng Vũ lắc đầu, cười gượng. – Những người được cử đi học tập để thực thi chính sách cải cách ruộng đất đều là những người được tuyển chọn rất kỹ từ những thành phần bần cố nông. Họ căm thù giai cấp địa chủ đến mức khắc cốt ghi xương. Đối với họ, địa chủ là loài sâu mọt, là những con đỉa đã hút máu họ đến kiệt cùng, làm gì có chuyện họ sẽ nương tay. Ngay việc chúng ta đưa ra cách xử lý riêng như đã bàn bạc hôm vừa qua là một cách làm rất mạo hiểm. Nhưng vì lương tâm mà chúng ta dám xé rào. Nếu vấn đề này để lộ ra ngoài, lập tức chúng ta sẽ bị quy chụp, bị coi là người chống lại đường lối của Đảng và Chính phủ, có thể đưa chúng ta đến chỗ rất bất lợi.
Quyết nghe Đặng Vũ nói, đưa hai tay lên đầu, luồn vào mớ tóc rối bù, nắm chặt lại. Ông đang muốn bới tung trí óc xem có thể tìm được cách gì hay hơn không? Nhưng bất lực, ông đành buông xuôi hai bàn tay rồi ngồi bật dậy, lưng ngã trên thành ghế, đưa mắt nhìn bà Hoa có ý muốn hỏi xem bà có cách gì để cứu vãn tình hình không? Bà Hoa cũng đưa mắt đáp lại cái nhìn của Quyết rồi quay sang Đặng Vũ.
– Em nghĩ, để làm một việc có lợi, đúng với lương tâm và đạo lý, anh nên gặp ông Sâm, nói rõ để ông ấy hiểu mà thay đổi quan điểm. Cũng cần phải nói thẳng ra rằng, chính ông ấy đã chủ mưu làm phức tạp thêm tình hình và yêu cầu ông ấy rút kinh nghiệm…
– Muộn rồi. Việc không chỉ đơn giản thế đâu. Chúng ta không thể đấu tranh với cậu ta trong thời điểm này đâu. Cậu ta đang say sưa lập thành tích, đang muốn chứng tỏ là người có năng lực tốt trong cương vị mới. Tôi xin nhắc lại, chính chúng ta đang làm một việc tày đình mà chỉ có những người như chúng ta mới dám làm thôi. Nếu việc này bị lộ ra thì sẽ là đại họa cho tất cả chúng ta đấy, các bạn hiểu chứ?
– Thưa các anh các chị! Chị Hoa nói đúng đấy ạ. – Từ đầu cuộc họp đến giờ, mẹ vẫn chỉ lắng nghe mọi người nói, bấy giờ mới xin phép được phát biểu. – Việc này chính là do Sâm chủ mưu. Em sợ ông ta chưa dừng lại ở đây. Sắp tới, sẽ còn rất nhiều hệ lụy từ phía ông ta gây ra cho những người không đồng nhất quan điểm. Chúng ta nên bàn cách phòng ngừa ngay từ bây giờ khi còn chưa muộn.
– Đúng vậy đấy anh ạ. – Cả bà Hoa và Quyết đều quay lại nhìn Đặng Vũ nói.
– Tớ biết rồi. Nhưng các cậu cứ yên tâm, nếu có vấn đề gì tớ sẽ chịu tất, không liên quan gì tới mọi người đâu.
Đặng Vũ quả quyết nói. Ông thấy cũng cần phải trấn an và động viên mọi người. Trong thâm tâm ông, kể từ khi khởi xướng việc này, ông đã xác định những tình huống xấu nhất có thể sẽ xảy ra và sẽ mang lại cho ông một kết cục rất tồi.
– Không thể như thế được. Nếu anh Đặng Vũ có vấn đề gì thì huyện Phú Vân của chúng ta sẽ ra sao đây? Để một người như ông Sâm lên nắm quyền là một đại họa không chỉ với chúng ta đâu, mà sẽ là đại họa cho tất cả nhân dân trong huyện Phú Vân nữa đấy. Chúng ta cần phải làm một việc gì thật hữu hiệu để ngăn ngừa Sâm gây hậu quả xấu cho anh Vũ, cho chúng ta. – Bà Hoa nói.
– Đúng là như thế. Có thể ngay bây giờ chưa thể tìm ra được cách gì ngăn chặn Sâm hành động, nhưng chúng ta sẽ cố gắng không để Sâm tiếp tục lộng hành như thế được. – Quyết tiếp lời bà Hoa.
Đặng Vũ nghe mọi người sôi sục bàn về vấn đề ngăn chặn Sâm, không để ông ta làm những việc có thể gây hậu quả tiêu cực cho mình và những người thân xung quanh. Ông giơ tay về phía mọi người, miệng cười gượng gạo.
Các bạn đang bàn bạc theo phương hướng không đúng với chủ đề rồi. Tôi rất hiểu Sâm là ai, nhưng đó là việc không phải ngay bây giờ chúng ta cần bàn bạc. Công việc trước mắt của chúng ta là phải tìm cách cứu lấy những người Sâm đang muốn lôi ra bắn bỏ. Tôi khẳng định thêm một lần nữa, họ là những con người nếu được sống, rất có thể họ sẽ cải tạo để trở thành người tốt, hoàn toàn không đáng phải chết oan nghiệt như vậy. Nào, bây giờ chúng ta hãy quay lại chủ đề chính, sẽ không còn nhiều thời gian nữa đâu…
Đặng Vũ thấy mọi người vẫn im lặng, ông lại tiếp tục lên tiếng:
– Mỗi chúng ta hãy cố gắng tìm xem có giải pháp nào thì báo cho tôi biết. Còn bây giờ, cô Hoa, với cương vị phó bí thư Huyện ủy chỉ đạo cho Đoàn Thanh niên làm tốt công tác cổ động, chào mừng đội xử án chính quyền nhân dân về địa phương ta. Bên phụ nữ cần động viên tư tưởng cho bà con được rõ và yên tâm trong tình hình mới. Cuối cùng là đồng chí Quyết, cần phải sẵn sàng hỗ trợ cho đội xử án hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ, mọi người có thể trở về vị trí công tác của mình và sẵn sàng đối mặt với tình hình mới.
Đã qua hơn một tháng đội xử án về huyện Phú Vân, rồi xuống từng địa phương thực hiện chủ trương chính sách về cải cách ruộng đất của chính phủ. Một không khí căng thẳng tột cùng bao trùm lên từng làng, từng xã trong huyện. Ở đâu cũng thấy tiếng xì xào bàn tán khi mỗi buổi sớm, người ta lại nghe tiếng súng nổ từ đâu đó vọng lại. Máu của những kẻ xấu số đang nằm dưới chín tầng địa ngục hòa lẫn mùi khói súng, vừa tanh tưởi, vừa cay nồng, lảng bảng khắp đây đó…
Đặng Vũ vội vàng tới văn phòng Hội Phụ nữ báo tin cho mẹ biết đội xử án đã về làng Vân Nhuệ và lão Sáng bị khép vào tội chết. Đặng Vũ vốn là người luôn điềm tĩnh trước mọi tình huống, nhưng lần này chính ông đã phải vội vàng hấp tấp trước một hung tin như vậy.
– Người ta muốn giết ai mà chẳng được. Đến cả đồng chí, đồng đội, một thời đồng cam cộng khổ, cùng chiến đấu chung một chiến hào, nếu bây giờ không cùng chí hướng với họ cũng còn khổ nữa là…
Phải mất một lát, mẹ mới bật ra được vài lời, nói lên những suy nghĩ sặc mùi bất mãn của mình. Đặng Vũ gật đầu. Cái gật đầu của người hùng một thời đã tự xác nhận sự bất lực của chính mình. Ông đứng dậy, lặng lẽ bước ra khỏi văn phòng của chủ tịch Hội Phụ nữ huyện.
Vậy là không thể làm gì để cứu được lão Sáng thoát khỏi nanh vuốt của tử thần. Đêm hôm ấy, Đặng Vũ trằn trọc, ngủ không được thành giấc. Bắt đầu từ lúc gà gáy thứ nhất, ông đã dậy, mở toang cửa sổ, pha ấm trà ngồi chờ tiếng súng nổ kết liễu một sinh mạng mà ông đã từng biểu dương và hứa hẹn sẽ tạo cho cơ hội để làm lại cuộc đời. Ông nghĩ tới Sâm. Thật khốn kiếp! Thằng vô lại ấy đúng là một tên ác thú. Ông rất ân hận và nhớ lại khoảnh khắc đầu tiên gặp gỡ hắn, từng bước dìu dắt, đào tạo và nâng đỡ hắn, để bây giờ, hắn đi một nước cờ phản tướng, giáng vào ông một đòn chí tử.
Đặng Vũ nhấp một tợp trà, nhắm mắt, cố đẩy cái vị đắng cho trôi qua cổ họng rồi ngã lưng vào thành ghế. Ông liếc mắt nhìn chiếc đồng hồ cổ do viên quan huyện sắm vẫn treo nguyên chỗ cũ. Những chiếc kim vẫn đang chậm chạp trôi. Mới chưa tới bốn giờ sáng. Thông thường, mọi cuộc xử bắn đều được thực hiện vào lúc tờ mờ sáng. Đặng Vũ bỗng thấy lòng nhoi nhói đau và dấy lên một tình thương vô hạn đối với con người khốn khổ này. Lão Sáng hoàn toàn không đáng phải chết. Ông ta rất có thể cải tạo để trở thành một con người có ích cho xã hội mới. Đặng Vũ lại một lần nữa khẳng định. Vậy mà Sâm đã bắt lão phải chết…
Đang lúc Đặng Vũ mải suy nghĩ thì người công vụ vội vàng chạy đến trình với ông một phong thư có đóng dấu: HỎA TỐC – TỐI MẬT. Đặng Vũ vội mở ra xem. Ông giật mình. Nội dung công văn nói về một số vấn đề mới trong chính sách cải cách ruộng đất của Chính phủ. Theo đó, hoãn thi hành tất cả các bản án tử hình còn chưa kịp thi hành. Cho tới lúc này, ông còn chưa nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy là bản án tử hình đối với lão Sáng vẫn chưa thi hành. Nếu thật nhanh vẫn có thể cứu sống được lão. Ông vội vàng nhét tờ công văn vào túi ngực. Không kịp thay cả bộ đồ ngủ vẫn đang mặc trên người, Đặng Vũ hộc tốc chạy xuống phòng ngủ của Quyết. Ông nói thật nhanh về tinh thần công văn vừa nhận được rồi bảo Quyết khẩn cấp lấy xe ô tô để xuống làng Vân Nhuệ ngay. Ông cũng không quên nhắc Quyết điều thêm một đội vũ trang đề phòng tình huống xấu. Nói với Quyết xong, Đặng Vũ lại hộc tốc chạy về chuồng ngựa. Sở dĩ ông muốn dùng ngựa trong lúc này bởi ông muốn phi thẳng xuống trường bắn sẽ thuận tiện hơn xe hơi. Đặng Vũ nhảy lên lưng ngựa, phi thẳng tới khu tập thể gia đình cơ quan rồi dừng lại trước cửa phòng ngủ của chủ tịch Hội Phụ nữ huyện.
Đặng Vũ cuống cuồng gọi. Ông muốn có người nữ đồng chí này đi cùng bởi cô ấy là người biết được quãng đường gần nhất để về làng Phú Vân và tới trường bắn, sẽ rút ngắn được thời gian đang tính từng giây. Mẹ cũng vừa tỉnh giấc, đang chuẩn bị thức ăn cho chị em tôi để kịp giờ giấc tới cơ quan làm việc. Mẹ nghe Đặng Vũ nói, chỉ kịp gọi với sang nhà hàng xóm nhờ giúp hộ. Đặng Vũ giúp mẹ tôi trèo lên lưng ngựa rồi cũng nhảy phắt lên ngồi phía trước. Xe ô tô chở Quyết cùng đội vũ trang ngồi chen chúc nhau cũng vừa lao tới. Đặng Vũ nhìn đồng hồ đeo tay, chỉ còn ít phút nữa là tới giờ hành quyết lão Sáng. Ông giục tài xế đạp ga hết cỡ. Đặng Vũ và mẹ nằm rạp trên lưng ngựa. Tóc mẹ còn chưa kịp chải, xõa trên lưng, rối bù. Ông kéo dây cương, vung roi, thúc ngựa phi nước đại chạy theo chiếc xe ô tô đang mở hết tốc độ hướng về làng Vân Nhuệ…
Buổi chiều hôm qua, lão Sáng bị mấy dân quân trói giật cánh khuỷu hai tay rồi dẫn giải đến sân trụ sở để phiên tòa lưu động xét xử với tội danh hà hiếp, bóc lột nhân dân làng Vân Nhuệ. Lão Sáng quỳ xuống. Trước mặt lão Sáng là chiếc bàn của hội đồng xét xử gồm năm người. Sau lưng lão Sáng là dân chúng làng Vân Nhuệ. Ngồi lẫn trong đám dân chúng của làng Vân Nhuệ có đầy đủ những người ở của gia đình lão Sáng, chỉ thiếu một người duy nhất, đó là Còi. Còi vẫn bị giam giữ từ hôm Sâm bí mật tổ chức đội khảo sát về mớm cung, bắt Còi tố cáo lão Sáng, nhưng Còi một mực không chịu.
Lão Sáng còng gập lưng, đầu cúi gục gần sát mặt đất khiến mái tóc lão rũ xuống, che gần kín khuôn mặt tái nhợt. Viên đội trưởng phiên tòa hắng giọng, ném cái nhìn lạnh ngắt về phía lão Sáng.
– Tên Hoàng Văn Sáng.
Lão Sáng vẫn cúi gập người nguyên tư thế cũ. Chẳng biết do lão không nghe thấy hay vì quá sợ mà vẫn không thấy lão đả động gì tới tiếng gọi của viên đội trưởng. Viên đội trưởng thấy vậy, nổi nóng, đập tay xuống mặt bàn, quát lớn:
– Tên Hoàng Văn Sáng có nghe thấy gì không?
Tiếng đập bàn đánh rầm làm lão Sáng giật nảy mình. Bộ mặt thê thảm của lão ngước lên, nhìn về phía bàn chủ tọa, miệng khẽ cất tiếng rên rỉ:
– Thưa ông, có thân tôi đây ạ.
– Tên Sáng có biết tội ác của mình không? Hãy dỏng tai lên mà nghe đây.
Đội trưởng phiên tòa mặt sát khí đằng đằng cầm tờ giấy để ngang tầm mắt, bắt đầu đọc. Bản luận tội chỉ vẻn vẹn vài dòng chữ ghi tóm tắt trong khuôn viên nhà lão Sáng gồm bao nhiêu nóc nhà. Có bao nhiêu ao, bao nhiêu vườn, dài, rộng, ruộng đất có mấy chục mẫu, bao nhiêu con trâu và cuối cùng là bao nhiêu nhân công làm thuê trong nhà lão, cùng những lời cáo buộc lão Sáng đã hà hiếp bóc lột dã man những người đã làm giàu cho lão…
Đội trưởng phiên tòa đọc xong, tạt cái nhìn có lửa đang cháy phừng phừng vào mặt lão Sáng, quát lớn:
– Tên Sáng đã nghe rõ chưa?
Lại vẫn cái giọng như tiếng rên của lão Sáng cất lên:
– Thưa ông, tôi đã nghe rõ rồi ạ.
– Tên Sáng đã nghe rõ rồi hử, vậy đã nhận ra tội ác của mình có đáng chết không?
– Thưa ông xem xét lại cho, tôi có hà hiếp bóc lột ai đâu ạ.
Lại một tiếng đập bàn đánh rầm nữa khiến lão Sáng lại giật nảy mình. Viên đội trưởng chồm lên, chỉ thẳng vào mặt lão Sáng.
– Nhân chứng, vật chứng rõ rành rành ra đây mà vẫn nỏ mồm cãi. Đúng là bản chất của những tên địa chủ ác bá, bán dân hại nước. Bà con đâu! Ai đã từng bị tên Sáng hà hiếp bóc lột hãy lên tiếng làm chứng để tên Sáng hết đường chối cãi.
Tất cả vẫn im lặng. Không một ai đứng dậy tiếp lời viên đội trưởng. Ông ta có vẻ sốt ruột, lên tiếng giục:
– Nào, bà con ta hãy lên tiếng đi chứ. Bao nhiêu năm bị hà hiếp bóc lột đến tận xương tủy, bây giờ chúng ta đã làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình rồi, không còn sợ gì bọn chúng quay lại trả thù nữa đâu. Bà con hãy lên tiếng tố cáo tội ác của bọn sâu mọt này đi.
Mẫn nghe viên đội trưởng phiên tòa nói, đứng dậy, bước tới chỗ đám người nhà của lão Sáng đang ngồi phía bên phải, hất ngược hai bàn tay ra hiệu cho mọi người, miệng khẽ rít lên:
– Bà con muốn có nhà để ở, muốn có thóc gạo để ăn thì phải biết mở cái miệng ra chứ. – Mẫn vừa nói, vừa lấy cùi chỏ thúc vào mạng sườn một người đàn ông đứng bên cạnh, ra hiệu cho người này đứng lên. Nhưng rồi Mẫn thấy người này có vẻ như không chịu phục tùng theo ý của mình. Mẫn ức quá, cái mồm của hắn dẩu lên, kề sát tai anh ta nói tiếp. – Mày không nói, tao khép mày vào tội đồng lõa với tên Sáng, cho dân quân bắt mày ngay bây giờ để cùng chịu tội chết với tên Sáng.
Người đàn ông nghe Mẫn nói sợ quá, lưỡi líu lại.
– Tôi xin ông đừng bắt, để tôi nói ạ.
– Vậy thì đứng dậy nói ngay đi.
Người này chống hai tay vào đầu gối, từ từ đứng dậy.
– Thưa quan tòa, tôi xin nói ạ.
Viên đội trưởng phiên tòa nghe người đàn ông gọi mình là quan tòa, vội xua tay, cải chính.
– Không được gọi là quan tòa. Quan tòa là cách gọi của chế độ cũ. Chúng tôi là cán bộ kháng chiến được cử về giúp bà con trấn áp bọn phản động. Ông cứ gọi chúng tôi là đồng chí, hay là cán bộ cũng được. Nào, bây giờ ông nói đi.
Người đàn ông vẫn gượng gạo, nói tiếp:
– Thưa cán bộ, đúng là ông Sáng hà hiếp bóc lột chúng tôi ghê lắm ạ…
Người đàn ông này vừa dứt lời đã ngồi thụp xuống, ôm mặt khóc nức nở. Mẫn thấy vậy, nhìn lên bàn hội đồng xét xử đỡ lời:
– Thưa các đồng chí, người nông dân này đã bị tên Sáng hà hiếp bóc lột, uất nghẹn quá nên bây giờ không thể nói tiếp được nữa đấy ạ.
Viên đội trưởng phiên tòa nghe Mẫn nói, giơ tay ra hiệu dừng lại.
– Thôi được rồi. Tiếp đến người khác, ai đã từng bị tên Sáng hà hiếp bóc lột thì tiếp tục đứng lên tố cáo. Tố cáo tội ác của bọn địa chủ chính là thành tích và quyền lợi của mỗi người. Bà con đừng bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này. Chúng ta cần phải đoàn kết, kiên quyết trừng trị, không để bọn địa chủ cường hào ác bá có cơ hội cấu kết với những phần tử phản động khác, ngóc đầu dậy…
Mẫn vẫn tiếp tục chiêu trò của mình. Thêm một người thứ hai đứng lên tố cáo lão Sáng. Rồi lại thêm người thứ ba, người thứ tư, thứ năm. Đến người thứ tám, Mẫn thấy số lượng những người ở trong nhà lão Sáng, hay nói theo cách của Sâm và Mẫn thì đó là lực lượng quần chúng nhân dân tố cáo lão Sáng đã tạm ổn, chỉ cần thêm Ngà nữa, nếu ả chịu tố cáo lão Sáng là có thể khép lão vào tội chết được rồi. Mẫn bước tới bên Ngà, đưa mắt ra hiệu rồi nói nhỏ với thị hãy nhớ lời giao ước.
Cô em đứng dậy nói đi chứ. Đây là cơ hội để cứu cô em thoát khỏi án tử hình đấy. Tôi phải nói mãi người ta mới không xếp cô em cùng chung án tử với ông bố chồng. Nếu bây giờ cô em không đứng dậy tố cáo tên Sáng, cánh du kích đứng kia sẽ đến lôi cổ cô em lên ngay tức khắc.
Ông không cần phải đe dọa tôi.
Ngà đáp lời, rồi đứng vụt dậy, chỉ mặt lão Sáng.
Thưa cán bộ, sau khi chồng tôi chết, ông Sáng đã bắt tôi ngủ với ông ấy đấy ạ.
Ngà cũng chỉ nói được đến thế bỗng thấy họng cứng lại, không thể nói tiếp được nữa. Bỗng thị ôm mặt khóc nức nở. Cả từng ấy con người đang im phăng phắc bỗng nhốn nháo. Rất đông người đã xô lại, xúm quanh lão Sáng chỉ mặt nguyền rủa. Ông nội nghe đứa con dâu lão Sáng tố cáo đã bị bố chồng cưỡng hiếp thì không thể chịu đựng thêm được nữa. Ông đứng bật dậy, bước tới đám đông đang xúm quanh lão Sáng, quát lớn:
Mọi người đừng vội nghe lời buộc tội không có chứng cứ. Tôi tin là ông Sáng chẳng đến mức hư hỏng, làm điều thất đức đến như vậy đâu, đừng té nước theo mưa, đừng làm khổ người ta thêm nữa…
Mấy người ngồi trên bàn hội đồng xử án nghe ông nội nói, nhớn nhác nhìn nhau. Viên đội trưởng quay về phía Mẫn, vẫy tay. Mẫn vội vàng chạy tới. Viên đội trưởng ghé tai Mẫn thì thào:
Lão già kia là ai thế hở đồng chí?
Thưa đồng chí, ông ấy là người làng này. Gia đình ông ấy có công rất lớn với cách mạng. Bản thân ông ta cũng có công
giết chết tên đồn trưởng Tây đóng ở đồn làng Vân Nhuệ. Ông ta có con trai và con dâu đều đi theo kháng chiến. Nghe đâu, tay con trai làm chức gì to lắm, ở cấp đại đoàn, là bạn rất thân với Đặng Vũ. Cô con dâu ông ấy cũng đang làm chủ tịch Hội Phụ nữ huyện đấy ạ.
Viên đội trưởng phiên tòa vằn mắt, hướng về phía ông nội, gằn giọng:
Gia đình kháng chiến mà không chịu giác ngộ, lại đi bênh vực cho bọn phản động, bán nước hại dân là sao? Cứ để ông ta tự do lộng hành như thế hở đồng chí Mẫn?
Mẫn vẫn khúm núm, nói vừa đủ để mấy người trong hội đồng xét xử nghe.
Thưa đồng chí, ông ta là người rất có uy với nhân dân làng Vân Nhuệ. Hơn nữa, ông ta lại là người võ nghệ cao cường, trọng nghĩa khí, trọng lễ tiết lắm, không dễ làm việc hàm hồ với ông ta được đâu ạ.
Viên đội trưởng nghe nói, hẩy tay với Mẫn.
Anh muốn làm thế nào thì làm, đừng để cái cảnh ngang tai trái mắt thế kia trước mặt chúng tôi nữa.
Vâng ạ. Vâng ạ. – Mẫn liến thoắng nói, rồi vội vàng chạy tới bên ông nội, xoa hai tay vào nhau.
– Con chào ông. Con có việc muốn nhờ vả ông ạ.
Ông nội quay lại, nhìn thấy Mẫn, mắt ông bỗng vằn lên:
– Anh cần tôi có việc gì, nói mau đi.
– Dạ thưa ông, việc này quan trọng lắm, nói ở đây không tiện, con mời ông ra ngoài kia con sẽ thưa chuyện với ông ạ.
– Được. Đi thì đi. Để tôi xem anh sẽ nói với tôi những gì nào.
Mẫn thấy ông nội đã chịu thì cả mừng, đưa hai tay nắm lấy bàn tay ông nội, miệng liến thoắng vâng dạ. Hai người ra một chỗ khuất. Mẫn lấy giọng khẩn khoản nói với ông nội:
– Thưa ông, lão Sáng là người đáng tội chết. Con xin ông đừng can thiệp vào công việc của hội đồng xét xử. Các anh ấy nhờ con chuyển lời tới ông, xin ông có ý kiến ủng hộ để các anh ấy hoàn thành nhiệm vụ ạ.
– Làm gì thì cũng phải giữ lấy cái đạo đức, đừng ép người ta đến chỗ chết mà mang tội đấy. Tôi hỏi thật, có phải anh đang đi làm cái việc ép từng người tố cáo ông Sáng không? Anh không qua được mắt tôi đâu. Anh làm như thế mà không sợ vợ con anh sẽ phải gánh tội à?
– Nhưng thưa ông, đây là chỉ thị của cấp trên, con cũng chỉ là người thi hành thôi ạ.
Ông nội nghe Mẫn nói, thấy sôi sục trong lòng. Ông bặm môi, tay nắm lấy ngực áo Mẫn, chân giậm xuống đất.
– Cấp trên nào? Ai đã ra lệnh cho anh?
Trong khi ông nội và Mẫn đang đưa đẩy nhau từng lời thì viên đội trưởng đã chớp cơ hội đứng dậy tuyên bố với tất cả những người có mặt.
Thưa bà con, tên Hoàng Văn Sáng là một địa chủ đã ỷ thế, ra sức hà hiếp bóc lột nhân dân ta trong suốt thời kỳ giặc Pháp chiếm đóng làng Vân Nhuệ. Hơn thế nữa, tên Sáng còn giở trò thú tính, hãm hiếp cả con dâu. Tội ác này của tên Sáng, trời không dung, đất không tha. Tôi thay mặt hội đồng xét xử, tuyên bố tử hình tên Hoàng Văn Sáng. Án tử hình sẽ được thi hành ngay trong buổi sáng sớm ngày mai. Đội thi hành án có trách nhiệm quản thúc tên Hoàng Văn Sáng ngay tức khắc để việc thi hành án được bảo đảm. Giải tán!
Cả năm người trong hội đồng xét xử cùng đứng dậy. Mấy người trong đội thi hành án xông tới, lôi lão Sáng nhốt vào gian nhà kho trước đây đã tịch thu của một địa chủ trong làng và canh giữ rất cẩn thận. Tất cả mọi người dự phiên tòa xét xử lão Sáng cũng đứng dậy theo, tiếng xì xào, bàn tán về vụ xử án mãi không ngớt…
Mới độ bốn giờ sáng ngày hôm sau, những người trong đội thi hành án đã có mặt đầy đủ. Cửa nhà kho được mở. Lão Sáng nằm còng queo trên sàn nhà, mặt mũi bơ phờ phủ đầy sắc khí của tử thần. Lão không còn đủ sức để bước đi nữa nên hội đồng thi hành án phải cử hai du kích mang võng đến, khiêng lão tới pháp trường.
Địa điểm xử bắn lão Sáng chính là trường bắn cũ của quân đội Pháp thời chiếm đóng làng Vân Nhuệ, nằm cách miếu Cô Xoan chỉ một đoạn đường không xa lắm. Nơi này đã từng có rất nhiều cán bộ của Đảng Cộng sản bị quân đội Pháp xử bắn trong suốt thời kỳ hoạt động bí mật và hồi chín năm kháng chiến.
Lão Sáng bị trói vào cột. Người lão mềm nhũn, đầu ngoẹo hẳn sang một bên, y như người đã chết. Phải vất vả lắm đội thi hành án mới trói ghì được tấm thân lão để khỏi bị đổ vật xuống. Khi mọi thủ tục đã được tiến hành xong, đội thi hành án đang chuẩn bị súng ống thực thi nhiệm vụ thì lại có một chuyện vô cùng lạ nữa xảy ra trong khu vực miếu Cô Xoan và nơi thi hành án tử hình lão Sáng. Một cơn mưa đá rất lớn đổ xuống ầm ầm như núi lở. Những hòn đá to bằng quả trứng,
bằng nắm tay thi nhau ném xuống. Đất, bùn, nước, bắn tung tóe. Hầu hết các thành viên trong đội thi hành án đều bị đá ném trúng đầu, trúng mặt, máu me chảy be bét. Họ vội vàng vứt cả súng ống, đưa hai tay lên, ôm lấy đầu, miệng kêu la ầm ĩ rồi bỏ chạy vào miếu Cô Xoan trú ẩn. Trận mưa đá kéo dài không ngớt. Trong khi những đội viên thi hành án đang trú ẩn trong miếu Cô Xoan thì chiếc xe hơi chở Quyết và những người lính đi giải cứu lão Sáng cùng con ngựa của Đặng Vũ vẫn đang lao vun vút trên con đường dẫn về làng Vân Nhuệ.
– Đồng chí ôm chặt lấy người tôi, đừng để ngã. Thần chết đang kề lưỡi hái vào cổ lão Sáng rồi.
Đặng Vũ nói như hét lên. Lòng dạ ông sôi sục. Vẫn chưa có tiếng súng nổ có nghĩa là họ vẫn chưa bắn, vẫn có cơ hội cứu được lão Sáng thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Hai gót chân Đặng Vũ liên tục thúc thật mạnh vào bụng con ngựa. Chiếc ô tô và con ngựa thi nhau cướp từng mét đường. Quyết cũng luôn miệng giục tài xế đạp ga thật mạnh đến mức có thể nhất. Mẹ chưa cưỡi ngựa bao giờ, nhưng do tinh thần quyết tâm giành lại sự sống cho lão Sáng nên cũng hết sức kiên cường. Khi con ngựa đã lao tới đoạn đường miếu Cô Xoan, mẹ chỉ tay về phía ngôi miếu, nói như gào lên:
Miếu Cô Xoan kia rồi, trường bắn cũng ở gần ngay đấy thôi. Khi nhóm người đi giải cứu lão Sáng chỉ còn cách miếu Cô Xoan và trường bắn khoảng vài chục mét thì trận mưa đá cũng vừa tạnh. Bầu trời buổi sớm trở lại yên tĩnh một cách lạ thường. Cả Đặng Vũ và mẹ đều nhìn thấy lão Sáng bị trói vào cột. Nhưng thật lạ, sao lại không thấy một bóng người nào? Cũng đúng lúc ấy, những người trong đội thi hành án đang bảo nhau chuẩn bị tiếp tục công việc của họ. Cả mẹ và Đặng Vũ đều nhìn thấy những bóng người nhốn nháo bước ra từ miếu Cô Xoan.
Hình như đội thi hành án kìa. Nhưng tại sao họ lại vào miếu Cô Xoan?
Đặng Vũ không trả lời, mà chỉ gật đầu thay cho lời đáp lại. Thì ra trận mưa đá lớn như thế nhưng cũng chỉ xảy ra vẻn vẹn xung quanh khu vực thi hành án và miếu cô Xoan nên tất cả đội giải cứu đều không hay biết gì. Con ngựa chiến chở Đặng Vũ và người phụ nữ ngồi sau lưng đã đến rất gần, Đặng Vũ vừa giơ tay làm hiệu, vừa nói như gào lên để tất cả những người kia cùng nghe thấy.
– Yêu cầu các đồng chí dừng thi hành án ngay tức khắc.
Đặng Vũ không muốn cho ngựa phi thẳng vào chốn linh thiêng, ông thả dây cương cho ngựa dừng lại rồi nhảy phắt xuống. Mẹ cũng nhảy xuống theo. Đặng Vũ tức tốc chạy thẳng đến nơi mấy người trong đội thi hành án đang chuẩn bị tiếp tục công việc. Chiếc ô tô chở Quyết cùng đội vệ binh cũng vừa đỗ xịch ngay bên cạnh. Tất cả nhanh chóng nhảy ra khỏi xe, lao theo Đặng Vũ. Khu vực miếu Cô Xoan bỗng trở nên nhốn nháo một cách dị thường. Đặng Vũ và đội giải cứu lão Sáng nhìn các thành viên trong đội thi hành án, thấy ai cũng bị máu me bê bết trên đầu, trên mặt, có người mồm miệng còn sưng vếu, đỏ mọng như quả nhót thì rất lấy làm lạ. Ông hỏi chuyện, mới biết ở hiện trường vừa xảy ra một sự kiện lạ lùng như vậy. Đặng Vũ là người không mấy tin về những chuyện thần thánh, ma quỷ, nhưng cũng hết sức ngạc nhiên. Ông quay sang nhìn Quyết và người phụ nữ ngồi cùng ông trên lưng ngựa hồi nãy với ánh mắt rất lạ lùng.
Ông Sáng được cứu sống là đúng ý của trời. Vậy là chúng ta đã làm một việc do ông trời sai bảo rồi đó.
Mẹ vụt nghĩ tới câu chuyện dạo trước và cái chết của Sang, con trai lão Sáng. Cô Xoan thiêng quá! Xung quanh khu vực miếu Cô Xoan, kẻ ác sẽ bị trừng trị đích đáng. Ví như Sang, một sĩ quan quân đội Pháp vốn rất khát máu trong cuộc đối đầu với Việt Minh, lại định giở trò đồi bại ngay giữa thanh thiên bạch nhật đã tự ngã xuống giếng mà chết. Còn như lão Sáng, cha đẻ của Sang bị oan nghiệt thì không ai có thể bức hại được. Mẹ đưa hai tay chắp trước ngực, mắt ngước nhìn vào miếu Cô Xoan rồi lại nhìn Đặng Vũ như muốn nói với ông về những điều mình đang suy nghĩ. Đặng Vũ hiểu ý, gật đầu. Sau đó, ông lấy tờ công văn hỏa tốc đọc cho tất cả mọi người trong đội thi hành án cùng nghe.
– Các đồng chí đã hiểu cả rồi chứ?
– Thưa đồng chí Bí thư, vâng ạ.
– Tốt!
Đặng Vũ gật đầu rồi ra lệnh cho các chiến sĩ trong đội vệ binh của ông ra hiện trường cởi trói cho lão Sáng. Đặng Vũ và tất cả những người có mặt cũng đi theo. Khi vòng dây cuối cùng quấn quanh người lão Sáng được tháo ra, cả tấm thân lão Sáng đổ vật xuống. Đặng Vũ nhìn lão Sáng, trong lòng lại nhói lên một nỗi đau khôn cùng. Ông ngồi xuống, một tay đặt lên người lão Sáng, vừa lay vừa gọi:
Ông Sáng. Ông Sáng ơi, tỉnh dậy đi nào. Chúng tôi đến cứu ông đây. Ông sẽ không bị xử bắn nữa đâu. Ông được tha rồi. Nào. Tỉnh dậy đi ông Sáng…
Lão Sáng từ từ hé mắt, đôi môi lão giật giật như người bị trúng gió. Hình như lão đã nhận ra người ngồi bên cạnh chính là Đặng Vũ. Nước mắt lão trào ra, chảy thành dòng, ướt sũng cả mớ tóc trên thái dương. Lão Sáng run rẩy, đưa hai tay chắp trước ngực, miệng lập bập, nói bằng hơi thở hổn hển:
– Tôi đội ơn ông… đã… cho tôi được sống ạ.
Đặng Vũ ra lệnh đỡ lão Sáng dậy và dìu lão vào gò đất cạnh miếu Cô Xoan ngồi nghỉ. Lúc bấy giờ, ông mới có thời giờ để bắt tay ân cần những người trong đội thi hành án và nói cho họ biết rõ hơn về chính sách sửa sai của Đảng và Chính phủ vừa được ban hành…
7/11/2022
Thế Đức
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một buổi tối ám ảnh ở Boston

Một buổi tối ám ảnh ở Boston Một trong những bài thơ nổi tiếng của ông là bài Chơi bóng rổ với Việt cộng. Bài thơ này viết tặng nhà văn Ng...