Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

Hương hoa dân Việt 1

Hương hoa dân Việt 1

TỤC NGỮ, CA DAO NƠI TÂM TÌNH NGƯỜI VIỆT
Ai cũng thường mơ ước hay cố gắng thực hiện để đạt được những gì mình thích, hoặc muốn vì chưa có mặc dầu chưa biết chắc điều mơ ước có đem lại lợi ích hay không, ngược lại, coi thường những gì mình có và đang được thụ hưởng. Chẳng hạn, dùng chiếc xe cũ, chúng ta muốn có chiếc xe mới, tiện nghi hơn, đẹp hơn và coi bộ oai hơn... nên đâu để ý hoặc nhận ra chiếc xe cũ đã và đang giúp chúng ta rất nhiều về phương tiện di chuyển. Chiếc xe của tôi đã bước vào tuổi "lão thành," sơn tróc nham nhở, kiếng trước rạn nứt hai đường ngoằn ngoèo; mỗi khi đóng cửa xe, tôi lại có cơ hội tập thể thao cho đôi cánh tay. Nhưng khi chở gỗ sửa nhà trên mui, ý nghĩ so sánh giữa công dụng xe cũ và mới chợt đến bởi nếu nó là chiếc xe mới có lẽ không bao giờ tôi dám chở trên mui như thế mà lại phải tốn tiền mướn chở. Thực tế hơn, có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến giá trị của không khí trong cuộc sống, coi sự thở hít khí trời là chuyện bình thường, không có chi đáng nói. Đôi khi nghẹt mũi cũng chỉ lo giải quyết sao cho mũi thông chứ ít người đặt vấn đề giả sử không có không khí. Có phải sự thở hít không khí là một sự tự nhiên của mọi sinh vật nên vì thế hiếm ai để ý đến?
Cũng vậy, là người Việt Nam, được nuôi dưỡng trong gia đình Việt, lớn lên trong ý thức người Việt, được hun đúc, dạy dỗ từ nơi gia đình, xã hội, môi trường sống với tâm tình Việt nên có thể chúng ta không để ý đến giá trị của mình. Thử đặt câu hỏi, giá trị của gia đình Việt Nam gồm có những điểm nào và ảnh hưởng thế nào đối với cuộc đời của một người Việt? Dù cố gắng cách mấy, tôi cảm thấy, chúng ta chỉ có thể nghĩ tới được vài phần trăm là cùng.
Có điều hay mà không biết thì làm sao biết được điều dở của mình? Không biết điều hay của mình làm sao nhận định được điều hay của người khác để học theo. Viết về Hương Hoa Dân Việt, tôi muốn dùng Tục Ngữ, Ca Dao để nêu lên những điểm cao đẹp sẵn có nơi văn hóa dân Việt cùng với hệ thống gia đình mà chúng ta đang thừa hưởng và bảo vệ hầu mong truyền thống tốt lành này được nhận ra rõ hơn đồng thời nâng cao niềm hãnh diện về giá trị dân tộc; giá trị đang chất chứa trong từng lớp xương, từng thớ thịt nơi mỗi người mang dòng máu đỏ da vàng dân Việt.
Cắp sách đến trường lúc còn nhỏ, không ai có thể quên những tấm bảng bìa cứng xinh xắn dán nơi lớp học. Đại khái những bảng hiệu này được ghi lên những câu Tục Ngữ, Ca Dao về luân lý; chẳng hạn: TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN; KHÔNG THÀY ĐỐ MÀY LÀM NÊN; UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN, v.v... Những bảng cách ngôn luân lý ghi lại những châm ngôn cao đẹp về giá trị đặc tính người Việt với mục đích giúp cho học sinh ghi nhớ nằm lòng tâm tình luân lý sống mà một người Việt Nam "đúng nghĩa" nên noi theo và thực hiện trong cuộc đời của mình. Đây chính là một phần văn hóa tinh thần mọi người thường nói đến nhưng ít khi để ý vì đã quá quen thuộc nằm lòng và bởi hay lộn nghĩa chữ văn hóa và văn minh. Văn hóa bao gồm văn minh. Văn hóa là lối sống biểu hiệu tâm tư luân lý. Văn hóa bao gồm phong tục tập quán, ngôn ngữ và những sản phẩm cao đẹp của cuộc sống luân lý nơi con người. Cuộc sống con người được uốn nắn bởi văn hóa dầu văn hóa do chính cuộc sống nội tâm và thực tại tạo thành.
Những dân tộc Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, tư tưởng và cuộc sống đi đôi với nhau. Mình trọng cuộc sống minh chứng quan niệm, chiều hướng, tư tưởng chứ không tách rời tư tưởng khỏi cuộc sống như Tây Âu. Điều này được nhận thấy rõ ràng nơi chính cuộc sống thường ngày. Chúng ta không cần giấy tờ, chỉ một lời nói đơn sơ, người khác có thể tin mình hay không tùy thuộc vào xưa nay mình đã sống thế nào. Do đó, người Việt không có sách dạy sống mà chỉ có Tục Ngữ, Ca Dao. Chẳng hạn: "Có đi có lại mới toại lòng nhau," "Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo," hay "Gắp lửa bỏ bàn tay," hoặc "Một câu nhịn bằng chín câu lành." v.v... Những sách mệnh danh "học làm người" sau này, xét ra mang đặc tính quá hạn hẹp nếu không muốn nói là đã coi con người như những bộ máy rập khuôn các công thức theo lối nhìn, quan niệm một chiều. Tâm tình con người đâu phải như những bộ máy được chế sẵn theo một khuôn mẫu thì làm sao có thể rập vào những công thức như một cộng với một là hai của Đắc Nhân Tâm, của Làm Thế Nào Để Trở Thành Người Đàn Bà Tuyệt Vời, v.v... Cuộc sống không phải chỉ có những mẫu mực đúng và sai đối nghịch như trắng với đen, mà thường thì trong cái đúng bao hàm cái không hợp lý. Nguyên nhân của một sự việc đem đến sự sai lầm lại cũng chứa đựng những yếu tố đúng. Sự sai lầm có thể là kết quả của sự thiếu hòa hợp của các phần tử, yếu tố mà thôi. Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết, những sự việc chúng ta phải đương đầu giải quyết, cũng như cách đối xử giữa người với người chẳng hoàn toàn trắng mà cũng không hoàn toàn đen; chúng nửa nọ, nửa kia, hoặc già bên này, non bên kia. Như thế, một cộng với một đối với cuộc sống có thể không phải là hai mà là ba hay bốn hoặc hơn kém. Lấy một thí dụ điển hình về giáo dục con cái. Cha mẹ tùy từng lúc, tùy nơi chốn hay môi trường mà nghiêm ngặt hay khoan hòa đối với con cái chứ không phải lúc nào cũng khó khăn, hùng hổ như quân hằn quân thù hoặc ngược lại lúc nào cũng nhẹ nhàng dễ chịu làm lơ cho con cái hư đi. Cha mẹ nào không thương con; thế tại sao phải sửa phạt? Không có lý thuyết nào coi bộ nghịch lý, nghịch tình như câu: "Thuốc đắng đã tật" hay "Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi." Thế tại sao những câu coi bộ bất thường này lại là mẫu mực bất hủ cho giáo dục gia đình Việt Nam. Không một người ngoại quốc nào có thể am hiểu được giá trị của câu tục ngữ nghịch thường này vì họ không là người Việt, không mang dòng máu và không được hấp thụ văn hóa Việt. Câu nói tuy nghịch thường nhưng bao hàm súc tích những chân lý giáo dục cho bất cứ dân tộc nào. Hơn nữa, lối sống, tư cách con người có thể phần nào so sánh với nghệ thuật trang điểm hay ăn mặc..., đâu phải bất cứ ai nếu khoác lên chiếc áo màu vàng rực rỡ của Đắc Nhân Tâm hay hở nách của Làm Thế Nào Để Trở Thành Người Đàn Bà Tuyệt Vời đều trở nên duyên dáng hấp dẫn...! Chúng chỉ là những đồ trang sức cần phải được lựa chọn cho tùy người, tùy trường hợp để phù hợp với cuộc đời sống động.
Từ kinh nghiệm sống; chúng ta suy ra triết lý sống, và triết lý sống lại hội nhập rồi ảnh hưởng chính cuộc sống thường ngày và những thế hệ tiếp nối. Sản phẩm của triết lý thực dụng này nơi dân tộc Việt Nam là Tục Ngữ, Ca Dao, Phong Dao... Chúng ta biết nằm lòng khá nhiều Tục Ngữ, Ca Dao. Nói đúng hơn, những câu nói thường tình hằng ngày, chúng ta đang lặp lại Tục Ngữ, Ca Dao mà không để ý. Như thế, dùng Tục Ngữ, Ca Dao để minh chứng giá trị người Việt không có gì hợp tình và hợp lý hơn.
Minh Hương trong cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội dùng Tục Ngữ, Ca Dao với mục đích "tìm về nguồn cội" (tr. 9) "Giới thiệu... cái độc đáo, cái cao đẹp, cái thâm thúy và cả muôn vàn kinh nghiệm xác thực quí báu chứa đựng trong những bài thơ nhỏ một bộ phận của nền văn chương truyền miệng" (tr. 7). Minh Hương cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao, nền thi ca truyền miệng đã có từ thời lập quốc: "Như chúng ta đã biết, văn chương truyền khẩu đã xuất hiện rất sớm, vào cái thuở bình minh của dân tộc mới thành hình..." (tr. 8). Tác giả cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội đưa ra nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao là một phần văn chương bình dân (tr. 9) hay văn chương đại chúng (tr. 8) "do tập thể sáng tác, bổ xung, sửa chữa và phổ biến liên tục." Nền văn chương này "đã góp phần đánh ngã được chánh sách đồng hóa thâm độc của người ngoài và đã kiên quyết bảo tồn được nền văn hóa dân tộc" (tr. 9). Mặc dầu tên gọi "văn chương dân gian," tác giả nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao "là bộ bách khoa bình dân truyền miệng. Trong khi góp nhặt, phân tích, xếp loại và tìm hiểu những câu thơ truyền miệng ấy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy nền Văn chương dân gian đã đề cập gần đủ các ngành, các khoa: Y Dược, Sinh lý, Canh nông, Nghề nghiệp, Thiên văn, Vạn vật, Kinh tế, Di truyền, Tâm lý, Phân tâm v.v..." Theo Minh Hương, Tục Ngữ, Ca Dao phát xuất từ giới bình dân: "Người bình dân thường gần gũi với thiên nhiên, tháo vát với công việc lao động hằng ngày, không bị tiêm nhiễm sâu sắc một giáo lý, một tư tưởng nào trong sách vở nên họ rất đổi thực tế trong tư tưởng và trong cả hành động nữa. Sống thì đơn sơ, nói năng thì bình dị nên văn chương đối với họ cũng phải 'Văn hay chẳng lọ đặt dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay.' Thật thế, họ có thì giờ đâu mà 'con cà, con kê, con dê, con ngỗng' họ chỉ 'ăn một đọi, nói một lời.' Nói như thế, văn của họ đâu có phải cộc cằn, lúng túng, trái lại họ rất sành sỏi trong việc lựa chọn chi tiết thích thú để lôi cuốn người nghe. Nhiều khi họ lại táo bạo dùng nhiều hình thức mỹ từ để câu thơ trôi chảy một cách duyên dáng ý nhị hơn" (tr. 253).
Bảo Vân quan niệm Tục Ngữ, Ca Dao có trước thời kỳ Trung Hoa đô hộ và do những người bình dân diễn tả tư tưởng, tâm tình bằng những câu văn truyền miệng: "Riêng về mặt Văn học, Tổ tiên chúng ta đã học chữ Nho, viết chữ Nho, hấp thụ tư tưởng và học thuật của bọn người thống trị. Mãi tới đầu Thế kỷ thứ 13 (đời nhà Trần) mới có một số Nho sỹ Việt Nam, mô phỏng theo văn thơ chữ Hán mà sáng tác ra một số thi ca bằng chữ Nôm. Tuy vậy trước đó, những người bình dân đã đem tư tưởng, tâm tình của mình ra mà diễn tả bằng những câu văn vần rồi truyền miệng đi với nhau. Đó chính là hình thức đầu tiên của Tục Ngữ và Ca Dao. Trải qua năm, tháng, các câu đó được thêm bớt, sửa chữa, gọt giũa để rồi tới ngày nay, chúng ta đã có một kho tàng vô cùng quý giá trong nền Văn học Bình dân..." (Tục Ngữ Ca Dao và Dân Ca; tr. 3).
Nơi phần "Nhận Xét Chung về Ca Dao," Đào Vân Hội cũng cho rằng Ca Dao là sản phẩm của dân quê: "Ca dao tức là những câu hát thông thường của dân gian, là sản phẩm chung của dân tộc, truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ kia, là tiếng nói của tâm hồn nam nữ ở những nơi đồng lúa, rừng rú, núi đồi" (Phong Tục Miền Nam qua Mấy Vần Ca Dao; tr. 7). Nguyễn Tấn Long và Phan Canh có đồng quan điểm về văn học bình dân như tiếng nói phản ảnh của giới bình dân: "Trái ngược với văn học bác học, nền văn học bình dân phản ảnh tâm tư đại đa số quần chúng nghèo khổ, dốt nát, tiếng nói của họ là tiếng nói chung của lớp người cùng sống trong một hoàn cảnh, mà cũng là tiếng nói chân thành nhất của mỗi dân tộc trong sinh hoạt xã hội" (Thi Ca Bình Dân Việt Nam; tập 1; tr. 12).
Nguyễn Hữu Nghĩa, Diệu Tần, Minh Đạo, và Triều Khê trong những bài viết nơi Nguyệt San Làng Văn số 102 tháng 2 năm 1993; Toronto, Canada có những quan điểm hơi khác về Tục Ngữ, Ca Dao. Theo Nguyễn Hữu Nghĩa, "...bên cạnh đó, văn chương truyền khẩu lại rất phong phú, và là phương tiện phổ biến một phần các sáng tác của nhà nho..." (Làng Văn; số 102; "Sơ Thảo về Tục Ngữ, Ca Dao;" tr. 12). Diệu Tần cho rằng: "Không như văn chương bác học, văn thi sĩ thường chọn câu lựa chữ đẽo gọt lời ý rất chau chuốt; văn chương bình dân đơn giản, mộc mạc nhưng không thô tục." (Làng Văn; số 102; tr. 41). Nơi phần cuối bài viết khi đưa lên "cái khôn, cái nghịch ngợm dí dỏm của phái nam," Diệu Tần viết tiếp: "Tuy là tưởng tượng nhưng anh nông dân đã khéo dùng ngoa ngữ để biểu lộ tình thương yêu..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Những Chữ Tài Tình Trong Ca Dao;" tr. 43). Có thể nói Diệu Tần cũng đồng ý kiến Ca Dao phát xuất từ giới bình dân mặc dầu quan niệm "Ca dao là thơ là nhạc của đại chúng được gạn lọc qua nhiều văn thi nhạc sĩ khuyết danh" (tr. 41). So sánh một số câu Tục Ngữ, Phong Dao được phổ biến nơi miền Nam và miền Bắc Việt Nam, Minh Đạo xác quyết văn chương bình dân do người bình dân sáng tác: "Người bình dân miền Nam dùng nhiều câu, nhiều tiếng gốc Hán hơn người bình dân miền Bắc..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Vai Trò của các Tiếng, các Câu Gốc Hán trong Văn Chương Bình Dân VN;" tr. 45). Minh Đạo đưa ra nhận xét văn chương bình dân là thành lũy ngăn chận văn hóa Hán cho nên ngày nay chúng ta có ngôn ngữ Việt mà không phải học tiếng Tàu: "Trong gần 1000 năm đô hộ người Việt, văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng rất sâu đậm nơi triều đình và các tầng lớp sĩ phu, nhưng lại không thấm nổi xuống tầng lớp quần chúng. Cuối cùng người Trung Hoa bại cả về quân sự lẫn văn hóa. Nhờ thế ngày nay chúng ta mới có ngôn ngữ văn tự mà nói, mà viết, không cần phải học tiếng Tàu." (tr. 47-48). Trong khi Triều Khê lại quan niệm hơi khác qua bài viết "Cụ-Thể-Hóa và Kịch-Tính Trong Ca-Dao": "Trái với văn chương bác học, văn chương quần chúng là ca dao, không đủ từ ngữ trừu tượng để diễn tả ý tình, cho nên các tác giả khuyết danh của ca dao đã lấy những gì tả thực, có đủ kích thước ba chiều, để đưa vào những câu thơ bình dị." (Làng Văn; số 102; tr. 48). Tuy thế, qua bài viết, Triều Khê cho rằng hai đặc tính cụ thể hóa và kịch tính của Ca Dao có thể đã là nguồn phát xuất cho các bộ môn khác: "Thế mới biết, người Việt chẳng những đã giàu hồn thơ, mà ca-dao còn có kịch tính. Có lẽ chính vì hai đặc-tính này mà sau ca-dao, các bộ môn ca nhạc kịch bình dân như tuồng, chèo, hát bộ, cải-lương,... đã phát-triển mạnh và phổ-biến rất nhanh" (tr. 51).
Xét về nguồn gốc Tục Ngữ, Ca Dao, không ai có thể xác quyết rõ ràng từ đâu ra. Nói rằng từ giới dân quê "chân lấm tay bùn" nơi miền đồng ruộng hay nương rẫy có cuộc sống nghèo nàn, suốt ngày vất vả vật lộn với miếng cơm manh áo và không bao giờ có cơ hội đặt chân tới lớp học, chỉ qua lời nói đối đáp tự nhiên nẩy sinh từ tâm hồn chất phác mộc mạc khi đối diện với cảnh vật thiên nhiên mà phát sinh ra được những câu nói có vần điệu, mang ý nghĩa sâu sắc là một điều phản tự nhiên, không hợp lý luận, suy nghĩ. Hơn nữa, chữ "dân gian" hay "bình dân" được dùng ghép chung với hai tiếng "văn học" không thể được hiểu theo nghĩa chỉ riêng cho lớp người quê mùa mộc mạc mà bao gồm tất cả dân chúng từ giới dân quê chất phác tới những thành phần học thức khoa bảng bởi chữ "văn học" tự nó đã mang ý nghĩa nhận thức văn chương. Thử xét hai câu tiếng lóng "Bỏ đi Tám" và "Cho cái búa" được dùng rất thịnh hành vào đầu thập niên bẩy mươi của thế kỷ hai mươi, mang cả một giai thoại xuất xứ nhưng đã không được xếp vào văn chương bình dân do tính chất thiếu phổ quát của chúng. "Bỏ đi Tám" bắt nguồn từ chương trình truyền thanh mang ý nghĩa "chuyện không ra gì chẳng nên để ý tới." "Cho cái búa" nẩy sinh từ nhóm lính gác đánh phé (xì tố) bắt đầu từ lối nói diễn tả hơn kém con tẩy: "thua tí li tây (già), tí li đầm (đĩ)" trong trường hợp hai người chơi bài có hai đôi giống nhau (chẳng hạn hai đôi xì) trên mặt bài được lật ngửa. Với tính chất lỳ lợm của những tay thua bạc lúc cùng, cho dù hơn tí li tây hay tí li đầm thì cũng thua "tí li vồ" (chộp tiền rồi chạy). Vồ (danh từ) là dụng cụ dùng để đập chân cột bằng gỗ có cán cho dễ cầm. Vồ và chộp (động từ) dùng trong câu nói có nghĩa tương đồng chỉ hành động trong khi cái vồ và cái búa là hai vật có cùng công dụng để đập. Lối diễn tả "Cho cái vồ" hay "Cho cái búa" nơi kiểu nói thông thường mang ý nghĩa không đồng ý tùy theo từng trường hợp... Đã được xử dụng một cách quảng bá nơi dân gian miền Nam Việt Nam thời đó nhưng vì không mang đặc tính phổ quát của câu nói nên "Cho cái búa," "Bỏ đi Tám" bị chìm vào lãng quên, không thể so sánh với những câu mộc mạc chẳng hạn: "Ăn như hổ," "Mèo cậy chó xơi," "Râu ông cắm cằm bà," hay "Ao sâu tốt cá" v.v... Đặt vấn đề như thế, những câu Tục Ngữ, Ca Dao có thể có xuất xứ đặc biệt nào đó để được truyền tụng rộng rãi nhưng những giai thoại xuất xứ này không được ghi chép lại. Tục Ngữ, Ca Dao có thể là những câu nói gọn gàng thuận vần luật thi phú, trích từ truyện hay văn thơ. Chẳng hạn câu: "Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng" được cho rằng phát xuất từ truyện ngụ ngôn "Chó Đá Vẫy Đuôi," hoặc câu "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" là câu trong Đoạn Trường Tân Thanh. Những câu này được dân gian dùng nhiều, diễn tả ngắn gọn nhưng hàm chứa khá đầy đủ ý nghĩa đồng thời đó cũng là một điều đúng phổ quát. Hơn nữa, có thể so sánh Tục Ngữ, Ca Dao với lối nói điển tích; điển tích nhắc lại ý câu truyện áp dụng trong trường hợp nói đến tương đương với ý nghĩa ám chỉ chất chứa nơi câu truyện; Tục Ngữ, Ca Dao nói lên điều chung ai cũng có thể nhận thấy.
Xét về nguồn gốc Tục Ngữ, Ca Dao lại cần đặt vấn đề tại sao câu nói được quảng bá rộng rãi trong dân gian. Một điều nào đó muốn cho nhiều người biết tới đòi hỏi không những vị thế nguồn gốc phổ biến mà môi trường phổ biến đóng vai trò quan trọng không kém. Nếu câu nói phát xuất từ trường hợp đối đáp giữa hai người, làm sao kẻ khác có thể nhận ra và ai để ý rồi đem phổ biến? Do đó, một điều chắc chắn, Tục Ngữ, Ca Dao thoạt đầu được phổ biến bắt nguồn từ những vị thế có tầm ảnh hưởng đại chúng. Đồng thời điều kiện cho một câu nói được dân gian hấp thụ rồi đem ra xử dụng cần có đặc tính phổ quát ai cũng có thể nhận ra giá trị qua kinh nghiệm sống. Bao nhiêu vần thơ ý nhị, bao nhiêu bài hát xuất sắc chỉ được nhận ra sau cả một thời gian dài trước khi được đem lên báo chí hay những chương trình văn nghệ hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng... Một bác nông dân có ý nghĩ tuyệt vời muốn đem ra phổ biến phỏng đã được ai để ý? Rồi cơ hội nào cho bác phổ biến tư tưởng mình? Kiến thức phổ quát đâu cho bác có tư tưởng phù hợp đại chúng để xếp thành câu nói cho có vần điệu dễ nghe, dễ nhớ...?
Tục Ngữ, Ca Dao thường dùng ngôn từ đơn giản mộc mạc diễn tả những hình ảnh ai cũng có thể nhìn thấy nơi miền thôn quê để đưa lên tiếng nói tâm tình của dân Việt nên đã bị cho rằng đó là sản phẩm của giới bình dân. Trái lại, đọc những câu Tục Ngữ, những vần Ca Dao, dẫu được dùng bối cảnh và sự việc xảy ra chốn dân quê, những câu này vẫn hàm chứa sắc thái luân lý sâu đậm có thể nói đó là túi khôn vô tận của một dân tộc; bởi vậy chẳng lạ gì Tục Ngữ, Ca Dao đã được nâng lên hàng "Kinh Việt Nam." Xét như thế, Tục Ngữ, Ca Dao dưới hình thức thơ văn hoặc vè v.v... phải là sản phẩm của giới thức giả, tức cảnh sinh tình trong nhận thức luân lý. Thử hỏi làm sao giới bình dân không học hành có cơ hội nói lên được cảm nhận "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần"? Dẫu tin vào Trời, dẫu kinh nghiệm "Số khó làm chẳng nên giầu," nhưng dựa vào đâu làm gốc gác cho câu nói hoàn chỉnh gọn gàng đến độ dù thêm vô bất cứ chữ nào cũng thừa hoặc bỏ bớt chỉ dấu phẩy đã là một sự thiếu sót không thể chấp nhận. Hơn nữa, xét tính chất câu tục ngữ "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần," giới bình dân sao có thể đặt vấn đề ăn cỗ có phần nơi hệ thống làng xã ngày xưa. Mới chỉ thoáng qua nhận xét đơn giản này đã có thể nói Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của ý thức luân lý cao độ được phát xuất từ tâm hồn văn chương thi phú lồng trong bối cảnh sống dân quê giúp cho người bình dân dễ nhớ để truyền đạt... hay nói cách khác, một thứ văn chương truyền khẩu, một loại kinh đi sâu tận lòng dân tộc... nói lên tâm tình, luân lý, triết lý sống, cách xử thế mà dân Việt nên theo cũng như trình bày thực trạng tâm lý con người và cuộc sống.
Được gọi là văn chương bình dân bởi dùng bối cảnh miền dân quê, Tục Ngữ, Ca Dao không mang tính chất bình dân chút nào; có chăng cách dùng chữ chính xác lại phù hợp với luật bằng trắc của thơ khiến cho vần điệu đối ứng hòa hợp đồng thời hàm chứa nhận thức sâu xa nên có thể dùng trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn câu ca dao: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn." Hai chữ "bầu" và "bí" mang tính cách đại diện phổ quát cho nhiều phe phái đối nghịch. Tiếng "ơi" nhân cách hóa giới "bầu, bí," và nếu không có tầm nhìn bao quát dựa trên lòng nhân hậu, thương yêu pha đặc nét gần gũi nhưng xót xa vì thực trạng xã hội sao có thể đặt vào miệng tiếng "ơi" sinh động hóa, than thở, nhưng nhẹ nhàng trìu mến này? Hơn nữa, đối với giới bình dân trong một cơ cấu xã hội được đặt dưới quan niệm sống hòa hợp theo thứ tự lớp lang của "Tam Cương, Ngũ Thường và Tam Tòng, Tứ Đức," lối đối xử, sinh hoạt được khuôn mẫu hóa theo những tập tục xã hội cũng như giáo điều luân lý, con dân chỉ có thể nghĩ tới những gì phải theo, những lệ phải giữ do đó bị ảnh hưởng nơi cách phát biểu. Câu ca dao, "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" không đượm dù chỉ phảng phất tính chất giáo điều phải theo mà ngược lại nói lên sự đề nghị gợi ý. Lẽ tất nhiên, xét theo tâm lý chung, không ai muốn "bị" hoặc "phải" làm theo một điều gì, hay trong trường hợp chẳng đặng đừng phải theo một khuôn mẫu nào đó thì cũng chỉ là miễn cưỡng. Câu ca dao thoạt nghe mang tính chất mơ màng của lẽ "nên" lại bao dung không bắt buộc để người nghe tự hướng lòng chấp nhận. Bình thường trong khuôn mẫu luân lý, hai chữ "thương lấy" hay được dùng theo lối bình dân "phải thương" hoặc là "nên thương." Thoạt nghe "Bầu ơi thương lấy bí cùng" ai không cảm thấy câu nói đơn sơ có giọng điệu a á phát xuất tự lối nói dân quê như "Ông phải, ông nên mua lấy, giành lấy, đòi lấy..." Đàng này động từ "thương lấy" được đi liền theo lời mời gọi "bầu ơi" mang tính chất thôi thúc đánh động tâm hồn chứ không bó buộc, bắt làm theo khiến người nghe có khuynh hướng chiều theo mà không có ý nghĩ phản kháng vô tình thường có nơi lối nói bình dân luôn luôn kèm theo tiếng "phải" hoặc để ý cho lịch sự hơn thì tiếng "nên" hay "cần".
Như thế, dẫu câu lục bát "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" tuy dùng những chữ bình dị, được phát sinh từ cảm ứng tức cảnh nơi một giàn bầu bí cùng leo nhưng mang đầy hùng khí của một sĩ phu tâm can nặng nợ với tình tự quê hương. Bình thường, khi nói đến hai tiếng quê hương, người ta chỉ có thể nghĩ tới nơi "chôn nhau cắt rốn" được gọi là làng, xã, hay cùng lắm là miền, vùng mình ở. Đàng này, tác giả câu ca dao đã có cái nhìn vượt hẳn quan niệm bình thường mà đồng hóa chiếc giàn với một quốc gia trong đó bầu và bí tượng trưng cho những nhóm đối nghịch tranh giành để rồi từ đó vô tình hay hữu ý mang ẩn ý thêm nghĩa xây dựng nơi động tự "thương" cho đất nước được ám chỉ bởi chiếc giàn. Giới nào có thể nhìn chiếc giàn bầu, giàn bí liên tưởng tới giải sơn hà? Giới nào mới có thể cảm nhận được niềm đau tranh giành của các phe phái trong một quốc gia...?
Thử xét thêm câu: "Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa." Mới thoạt nghe, câu lục bát có vẻ rất tầm thường và hiển nhiên theo kinh nghiệm sống hằng ngày. Nhưng nếu đặt vấn đề tại sao lại đưa lên sự nhận định khác biệt về một con ba ba qua những tên gọi không giống nhau, câu ca dao mang ý nghĩa rộng lớn hơn. Sống trong vùng gần đầu ngòi, người dân tất nhiên rất quen thuộc với những lời nói thường dùng hoặc tên các con vật, cây cỏ, địa danh hay tiếng lóng; như vậy con ba ba và con rùa chẳng có gì lạ lùng đối với dân chúng có cuộc sống nghèo nàn phải mò cua bắt ốc kiếm thêm thực phẩm phụ thuộc làm đồ ăn với cơm gạo. Hỏi thử bất cứ người bình dân nào sống nơi miệt đồng ruộng, họ sẽ nói cho biết nếu con ba ba đã cắn thì dù có sấm sét nổi lên cũng không nhả hoặc muốn "thịt" ba ba phải làm sao, nấu ba ba cần những gì, ăn được những phần nào, hay mu con rùa khác mu con ba ba thế nào. Như thế, nơi miền quê, nếu có con ba ba ở đầu ngòi chưa chắc đã có tiếng đồn cho người khác biết mà ngược lại chỉ có tiếng đồn ai đã bắt được con ba ba ấy về làm thịt.
Vậy tại sao lại đặt vấn đề "kẻ gọi con trạnh, người la con rùa?" Và dù cho nó là con ba ba hay là con gì đi nữa thì có chi đáng nói. Thế nên câu ca dao nhấn mạnh nơi phần tám chữ kẻ nói là con này và người tuyên bố con kia, tỏ ra mình biết nhưng biết trật bởi nó chẳng phải là con trạnh cũng không phải là con rùa. Tất nhiên, điều ám chỉ của câu ca dao "Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa" không được dùng cho giới dân quê mộc mạc mà mang tính chất diễu cợt nhạo cười những người cổ võ cho điều mình không biết... Xét về lối dùng chữ, hai cặp "kẻ gọi, người la," không mang tính chất bình dân của người miệt vườn tược, đồng ruộng chút nào. "Kẻ gọi" và "người la" mang cùng một ý nghĩa nhưng đối nhau chỉnh vận như hai thành phần chẳng đội trời chung, không phải là lối nói thông thường lại ngược cách phát biểu của người dân quê. Câu ca dao lục bát được bậc thức giả dùng bối cảnh nơi miền quê để diễu cợt về điều chướng tai gai mắt nơi những người miệng hô hào, tuyên bố một cách đao to búa lớn, hay lạm dụng chuyện gì với mưu đồ thầm kín nào đó. Thế mới biết, người xưa nói vậy, nhưng mang ý tứ bao hàm chưa chắc đã vậy... Cách dùng chữ đơn sơ ghép ý nhẹ nhàng lại thâm thúy đi sâu vào tâm lý con người mọi thời mọi nơi phải là sản phẩm từ những bộ óc tuyệt vời của giới sĩ phu thức thời lăn lóc kinh nghiệm đời.
Xét về đặc tính của thơ văn hay giảng thuyết, chỉ những người thực sự am tường một vấn đề nào đó mới có thể diễn tả bằng những lời nói đơn giản, bình dị ai cũng có thể hiểu được. Người nào càng dùng những lời đao to búa lớn hoặc sáo ngữ bao nhiêu càng không hiểu rõ điều mình nói bấy nhiêu. Hơn nữa, sự cảm nhận trạng thái luân lý hay tư tưởng qua dữ kiện thực tại được phát xuất từ tâm hồn chứ không do mức độ thăng hoa hoặc uốn nắn dữ kiện. Đưa lên hình ảnh tự nhiên một cách đơn sơ "Tung tăng như cá trong lờ" ai cũng có thể nhận thấy để rồi nói lên nhận thức về hoàn cảnh nào đó nơi cuộc đời "Trong không ra được ngoài ngờ rằng vui" không thể được cho là đơn sơ, chất phác, mộc mạc, đơn giản, bình dân, bình dị, v.v... Dùng dữ kiện đơn sơ nói lên qua lời mộc mạc, bình dị để diễn giải nhận thức luân lý, tâm lý... cuộc đời như thế mới thực sự chứng tỏ tài năng văn chương tuyệt vời của hàng thức giả. Không dễ gì hiểu nổi hai chữ "bình dân" hoặc "dân gian."
ĐỨC ĐỘ NỀN TẢNG GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Bình thường, chúng ta chỉ cảm thấy mình mang một giá trị nhưng khi hỏi rằng giá trị đó thế nào thật khó mà trả lời. Giá trị của một người không lệ thuộc vào cái nhà hay những đồ vật người ấy có; do đó, không ai có thể nói tôi có giá trị bởi tôi có cái nhà to hoặc chiếc xe đẹp. Giá trị con người cũng không tùy thuộc vào bằng cấp hay địa vị vì đã biết bao người có bằng cấp cao, địa vị quan trọng trong một thời và có thể ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống chúng ta thời đó mà vẫn bị khinh rẻ. Giá trị của mình cũng không tùy thuộc vào tiền tài nên dù người nào đó có tiền cách mấy mà sống không ra gì thì cũng bị mọi người khinh chê. Như vậy, giá trị của mình do lối sống và cách cư xử mà ra. Chính lối sống chứng tỏ mình là người thế nào và nói lên giá trị của mình. Dù một người nghèo cách mấy mà sống có tư cách, đức độ, đều được mọi người kính nể. Tôi nói kính nể chứ không phải trọng vọng vì sự trọng vọng chỉ có tính cách bên ngoài; còn sự kính nể phát xuất từ nơi tâm hồn con người; giá trị này được gọi là lối sống đức độ.
Đức độ là gì qua Tục Ngữ, Ca Dao? Nó được thể hiện thế nào trong đời sống và sự ảnh hưởng của đức độ tới con người theo quan niệm của ông cha chúng ta ra sao?
Người xưa không định nghĩa những đức tính của một người thế nào mà chỉ nói cách sống của người đó nên ra sao. Đức độ bao gồm tất cả những đức hạnh mà một người nên theo. Người đức độ là người tuân giữ đạo trời: "Dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng." Đạo trời là tiếng chung mà tất cả những lối sống tốt lành đều phát xuất từ đó. Đạo trời bao gồm Khổng, Lão, Phật, thờ kính ông bà... Đức độ còn được dùng như chữ nết. Chúng ta thường áp dụng chữ nết cho đàn bà, nhưng thật ra ai cũng cần có nết: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người," hay "Cái nết đánh chết cái đẹp." Đức độ trong Ca Dao tương tự như "Tâm" trong Kiều "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài," hoặc trong tướng học: "Tướng tự tâm sinh." Trong tướng học, đức độ của một người còn cải đổi số phận không may của họ: "Đức năng thắng số." Vì thế, không lạ gì câu tướng học này được ghép vào hàng tục ngữ. Con người đức độ lấy lòng nhân đặt lên hàng đầu. Giúp đỡ những kẻ khốn cùng, biết thương xót người đau khổ. Có thể nói, đức độ tương tự với "Bác Ái" và "Thương Xót" trong Công Giáo, "Nhân" trong Khổng, và "Bi" trong Phật học: "Thí một chén nước, phước chất bằng non."
Người đức độ coi trọng tha nhân, lấy việc giúp đỡ, "làm phúc" cho người khác vượt hẳn lên các việc công ích. Không có gì có thể so sánh được với lòng nhân và dù cho bất cứ những việc công ích lớn lao nào chăng nữa cũng thua sự giúp đỡ những người khốn cùng, cần nhờ vả đến mình hoặc không nhờ vả đến mình. Một người biết thương xót kẻ thế cô mà yên ủi giúp đỡ, biết chia sẻ với kẻ bần hàn hơn mình, hoặc khi gặp ai hoạn nạn, tai bay vạ gió, cố gắng hết sức để tìm mọi cách trợ giúp thì công đức này dầu không ai biết cũng có giá trị không sao so sánh: "Dẫu xây chín bực phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người."
Trong cuộc sống, người thì khó nghèo về vật chất, lại cũng có người nghèo nàn về tinh thần. Ngày xưa trong những câu chúc, ông bà ta hay dùng chữ phú quí. Phú quí mang ý nghĩa giầu có và đức độ. Câu chúc này bao hàm một giá trị luân lý ít ai để ý tới. Thực ra, hai chữ phú quí đi đôi với nhau ẩn chứa giá trị đạo đức và sự tin tưởng kết quả của cuộc sống đạo đức thể hiện đức độ. Nếu người nào có cuộc sống đức độ, trời sẽ ban cho giầu có. Nói cách khác, sự giầu có là phần thưởng cho người đức độ. Dần dần cuộc sống thay đổi, con người đua đòi chạy theo giá trị vật chất; quan niệm của con người cũng đổi theo ảnh hưởng cuộc sống và chúng ta thấy ngày nay, đã phú chưa hẳn là quí hoặc ngược lại. Như vậy người không quí mà giầu có vật chất thì lại nghèo nàn về tinh thần, chỉ biết đến mình và lạm dụng người khác; "Của người bồ tát, của mình lạt buộc." Người đức độ biết thương xót người cơ hàn bao nhiêu thì cũng thương xót người nghèo nàn về tinh thần bấy nhiêu. Do đó, người đức độ cần có thêm đức nhẫn nhịn vì "Một sự nhịn, chín sự lành." Chính bởi sống đức độ không phải dễ dàng nên được gọi là quí do đó có câu: "Người ta ba thứ người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng." Đức nhẫn nhịn nơi con người đức độ không mang nghĩa chờ thời để trả thù mà bao gồm khoan dong, tha thứ. Bởi vậy, người đức độ còn được gọi là trượng phu: "Đấng trượng phu đừng thù mới đáng," hoặc anh hùng, "Đấng anh hùng đừng oán mới hay." Theo nghĩa này, người đức độ còn được gọi là người hiền; "Người hiền khác thể chi lan, gần hơi cho lắm lại càng thơm lây."
Quí cụ học Nho ngày xưa thường hay dùng tiếng "Người Quân Tử" để chỉ người đức độ. Thắng không kiêu, bại không nản; không ba hoa, không hàm hồ; "Người quân tử đắc chí rung đùi, kẻ tiểu nhân đắc chí gẩy đàn môi." Gặp những lúc "Cái khó bó cái khôn," người đức độ biết chấp nhận cuộc đời, không than trời cũng chẳng trách người vì dẫu sao, "Nhân vô thập toàn." Chính vì thế, người đức độ luôn luôn lấy câu: "Trách người một, trách ta mười" làm phương châm. Chẳng lạ gì bởi chính lối đối xử của người khác đối với mình có thể là sự phản ảnh của sự đối xử lầm lỗi của mình đối với họ trước. Hơn nữa, "Việc người thì sáng, việc mình thì tối." Nhận thấy điều lầm lỗi của kẻ khác thì dễ, còn xét điều sai quấy của mình thì khó. Lại cũng có lẽ khác, vì mình đã có kinh nghiệm lầm lỗi trước nên mới nhìn thấy sự không hay của người khác chăng. Người đức độ không trách người mà xét mình, khoan dung và thứ tha; người đức độ khó với mình nhưng dễ với người khác.
Qua những kinh nghiệm cuộc đời, ông cha ta nhận ra ảnh hưởng của cuộc sống đức độ bao trùm cuộc sống con người. Người sống đức độ, hiền lành thì được chúc phúc: "Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho." Trời dành phúc cho tức là nói về số phận của con người; số phận này tùy thuộc cuộc sống đức độ của họ. Ngay cả về vật chất, người đức độ cũng được khấm khá: "Thiên cao đã có thánh tri, người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ." Dù cho có gặp tai bay vạ gió, đức độ của một người cũng trở thành lá bài che chở tai ách: "Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành;" hoặc, "Ở hiền thì lại gặp lành, ở ác gặp dữ tan tành ra tro." Đức độ bao gồm nhẫn nhục, người đức độ được trời ban cho sống lâu: "Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được thì càng sống lâu." Lòng nhân của người Đức độ còn bao gồm chữ nhẫn.
Đức độ của một người không những có ảnh hưởng ngay lành đến chính cuộc đời họ mà còn ảnh hưởng tới con cái: "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Ngày xưa cũng như thời nay mọi người tin rằng cuộc đời mình được thừa hưởng đức độ của cha mẹ mình. Địa vị mình có trong xã hội không phải chỉ do chính khả năng, đức độ của mình mà thôi, mà còn do công lao tích đức của ông bà cha mẹ mình ảnh hưởng tới: "Ông cha kiếp trước khéo tu, nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang." Bởi thế, một người muốn cho con cháu mình sau này làm ăn nên, phải lo sống đức độ: "Người trồng cây hạnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau." Trong cuộc sống, ai cũng trọng người nhân nghĩa. Nhưng nếu muốn trở thành người nhân nghĩa, phải trau dồi đức độ trước hết vì không có đức độ sao có được nhân nghĩa; "Có tiên thì hậu mới hay, có trồng cây đức mới dầy nền nhân."
Sống đức độ là sống theo đạo trời. Sống theo đạo trời là biết sự trời. Biết sự Trời hoặc sống đức độ không thể nào nghèo khổ để rồi lúc "bần cùng sinh đạo tặc". Cho nên người sống đức độ không sợ nghèo khổ: "Biết sự trời, mười đời chẳng khó." Chính vì cuộc sống đức độ bao hàm nhân nghĩa nên "Cây ngay chẳng sợ chết đứng." Người đức độ sống không những cho mình bây giờ, cho con cái cháu chắt mình mai sau.
NHÂN NGHĨA
Nhân nghĩa là tâm tính của con người đức độ. Người nhân nghĩa sống có lòng nhân đồng thời có nghĩa với người khác "Từ rày khuyên kẻ có con, lựa người nhân nghĩa gả còn nhờ sau." Người có lòng nhân chưa chắc sống đã có nghĩa, và người sống có nghĩa chưa chắc đã có lòng nhân. Lòng nhân thường được hiểu là "Lòng thương người, thương vật, có tánh tốt đối với người và vật" (Lê văn Đức; Việt Nam Tự Điển, Quyển Hạ; Khai Trí; tr. 1082). Nghĩa là "Lối xử sự phải đường, hào hiệp" (Lê văn Đức, tr. 1060). Nếu nhân nghĩa tách riêng, chúng là hai "thường" trong ngũ thường theo luân lý Á Đông: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chữ nhân mang ý nghĩa lòng thương tổng quát tới mọi người; chữ nghĩa tùy theo môi trường, hoàn cảnh được hiểu sao cho phù hợp chẳng hạn: chánh nghĩa, đạo nghĩa, hiếu nghĩa, tín nghĩa, tình nghĩa, tiết nghĩa, trung nghĩa, nghĩa cha con, nghĩa vợ chồng, thầy trò...
Nhân nghĩa là căn bản tạo thành thái độ, cách đối xử giữa người với người. Hơn nữa, chính thái độ và cách sống nói lên phẩm giá con người; do đó một người được mến chuộng hay không tùy thuộc vào nhân nghĩa. Người nhân nghĩa luôn cho rằng "Ơn ai một chút khó quên, phiền ai một chút để bên dạ này." Không vồn vã hình thức mà điềm đạm mặn mà: "Càng thắm thì càng mau phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu." Nhân nghĩa đã tạo không bao giờ mất "Đường mòn, nhân nghĩa không mòn;" có mất chăng bởi chính tự mình làm mất do sự thay dạ đổi lòng ảnh hưởng đến nhân cách và thái độ. Sự khôn ngoan Á Đông trong Tam Tự Kinh theo Khổng học cho rằng con người được sinh ra với tâm tình hướng thiện "Nhân chi sơ, tính bản thiện," nên dù cho có ai chẳng ra gì đến cách mấy thì tự đáy tâm hồn đã được trời phú cho lòng nhân: "Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Nét đẹp tâm hồn này nếu được bồi dưỡng sẽ phát triển và tạo cho con người có "đức nhân."
Người có lòng nhân nhận biết "Làm phúc như làm giàu." Do đó họ biết "Lá lành đùm lá rách;" đồng thời vì hiểu "Nhân tâm tùy ý thích," và "Nhân vô thập toàn," nên thông cảm được với người khác tùy theo hoàn cảnh, vị thế của họ bởi "Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già." Thế nên đôi khi dưới con mắt người thường, người có lòng nhân được nhận ra như "Hiền quá hoá ngu." Tuy nhiên, "Hoa thơm ai chẳng muốn đeo, người khôn ai chẳng nâng niu bên mình," người nhân nghĩa được mọi người kính trọng, nể vì và thương mến bởi "Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho."
Người nhân nghĩa biết "Trọng nghĩa khinh tài;" lấy việc nghĩa làm nặng và coi tài lợi là nhẹ vì nhận ra "Người là vàng, của là ngãi;" nên tôn trọng các bậc thày dạy "Một chữ nên thày, một ngày nên nghĩa;" do đó nhận thức giá trị lòng tốt của người khác: "Một đêm nằm, một năm ở." Vì "Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy," người nhân nghĩa "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng." Cho nên tâm hồn họ, "Trăm năm lòng nhớ dạ ghi, dù ai đen bạc đổi chì mặc ai." Dĩ nhiên cuộc đời "Sông có khúc, người ta có lúc," người nhân nghĩa sống "Ở cho có nghĩa có nhân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa;" cho nên họ nhún nhường, biết nể nang người khác: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba." Trong đời một người, không ai có công lao với mình bằng cha mẹ do đó hiếu đễ đối với một số người đã trở thành đạo tu. Người nhân nghĩa trước hết hiếu thảo với cha mẹ vì "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu." Do đó, chẳng có lạ gì, bất cứ lối giáo dục nào cũng lấy nhân nghĩa đặt lên hàng đầu vì người không có nhân nghĩa thì dù tài giỏi cách mấy cũng chỉ trở thành băng hoại không những cho gia đình mà cả xã hội. Chính vì thế người nhân nghĩa lại càng được đề cao và tôn trọng.
Dĩ nhiên, cuộc đời thay đổi và do đó con người bị ảnh hưởng cũng đổi thay, "Ai ơi phải nghĩ trước sau, đất liền cũng lở huống cầu bắc ngang," và dù muốn dù không, chẳng ai có được cuộc sống hoàn toàn theo ý mình, "Người có lúc vinh cũng có lúc nhục, nước có lúc đục cũng có lúc trong;" mà bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh và nơi mình sống: "Măng cua nấu cá ngạnh nguồn, sự đời đắp đổi khi buồn khi vui." Hơn nữa, thế gian thường hay phũ phàng đôi khi đến độ nghịch ngạo: "Nước giữa dòng chê trong chê đục, vũng trâu đầm hì hục khen ngon," và thế thái nhân tình còn bị ảnh hưởng bởi những tham vọng con người hoặc bị chi phối bởi lợi danh: "Đồng tiền không phấn không hồ, mà sao khéo điểm khéo tô mặt người." Cảnh phũ phàng gây nên bởi thói đời đen bạc luôn luôn là bài học cho mọi người sống sao cho có nhân nghĩa: "Nên ra trên kính dưới nhường, chẳng nên đạp hất bên đường mà đi." Tuy nhiên, người nhân nghĩa không phải chỉ tử tế với người tử tế mà khoan dong, độ lượng với mọi người vì "Lên non mới biết non cao, lội sông mới biết sông nào cạn sâu." Mặc dầu không ai có thể sống vừa lòng hết mọi người "Đố ai lặn xuống vực sâu, mà đo miệng cá uốn câu cho vừa" hoặc "Lòng sông lòng biển dễ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người," hay "Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng." Người nhân nghĩa tuy sống tự tại trên dư luận nhưng đồng thời lại để ý dư luận vì "Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bịt miệng người thế gian," hay "Lấp sông lấp biển ai lấp được miệng người." Dư luận có thể "Đổi trắng thay đen" hoặc "Giết người không dao," và thường thì "Dậu đổ bìm leo," nên người nhân nghĩa lại càng nên tránh bị rơi vào cảnh "Ăn sóng nói gió" để bảo tồn tâm đức và kiên trì với thiện tâm.
Người nhân nghĩa không chấp nhận "Giàu làm chị, khó lụy làm em," mà khinh chê cảnh "Giây máu ăn phần," hoặc "Đục nước béo cò," và tránh cận thân với loại "Được chim bẻ ná, được cá quên nơm," nhưng có lỡ dại thì "Một lần nói dối, sám hối bảy ngày" chứ đừng nói đến chuyện "Ăn cây táo mà rào cây sung." Thực tế chứng minh, dân Việt đau khổ cũng chỉ vì những kẻ khi gặp thời, có quyền hành, tâm dạ thay đổi đến độ đốn mạt để rồi "Nối giáo cho giặc." Tuy nhiên, mặc dầu "Ở đời ai có dại gì, khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông," người nhân nghĩa trong trường hợp "Rút dây động rừng" vẫn tâm niệm "Tốt danh hơn lành áo" và đồng thời nhận biết "Màn hoa lại phải chiếu hoa, bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son;" hoặc "Sao cho sau trước một bề mới nên." Vì thế họ chỉ lo "Ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai" bởi "Cây cao chẳng quản gió rung, đê cao chẳng quản nước sông tràn vào." Sống nhân nghĩa giữa cuộc đời đổi thay đen bạc; một tâm tính kiên trì, nhận thức giá trị lối sống của mình chưa đủ mà cần định lực soi dẫn đường hướng tâm tư, "Ta đây như cây giữa rừng; ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời."
Cho nên, có những điều người thường quen thói tánh mà người nhân nghĩa không thể chấp nhận. Người nhân nghĩa không tán tận lương tâm "Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng," không "Lấy tiền làm láo," không "Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm," không coi "Của trọng hơn người," hoặc "Người dưng có của thì đãi người dưng, anh em vô ngãi thì đừng anh em," không "Hay khen, hèn chê" mà luôn khuyến khích người khác sống sao cho tốt lành hơn. Chính vì nhận thức được lối sống, sự đối xử chứng minh tâm hồn và giá trị con người mình "Trăm nhát cuốc giật cả vào lòng," người nhân nghĩa biết kính trên nhường dưới bởi: "Vàng thì thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời." Tuy nhiên sống trong sự đời tráo trở, người nhân nghĩa nhiều khi cần thêm năng lực để biết kiềm chế lòng mình "Vàng tâm xuống nước vẫn tươi, anh hùng gặp nạn vẫn cười như không." Bởi kinh nghiệm như thế, họ không "Suy bụng ta ra bụng người" mà kiếm tìm nguyên nhân những chuyện xảy đến liên hệ tới những người khác. Cuộc đời càng ngày càng phức tạp, đôi khi "Con sâu bỏ rầu nồi canh" cũng không thể được chấp nhận bởi "Ai làm người nấy chịu." Thiên hạ thiếu gì kẻ "Mượn đầu heo nấu cháo," lạm dụng người khác để kiếm danh lợi cho chính mình. Với lòng nhân biết thông cảm với người khác tùy trường hợp hay hoàn cảnh, người nhân nghĩa đôi khi lại bị "Ách giữa đàng mang vào cổ" để giúp người hàm oan. Thế nên không thể có phương châm "Ngu si hưởng thái bình" đối với người nghĩa mà biết "Sợ người nói phải, hãi người cho ăn." Dĩ nhiên, "người làm sao chiêm bao làm vậy," người nhân nghĩa nhìn người khác với lòng nhân và đối xử với họ trong cái nghĩa chứ không "Người một quan khinh kẻ chín tiền" theo thói thường.
Ông cha ta có câu "Ở hiền gặp lành." Tự tâm hồn người nhân nghĩa đã được an bình với tâm đức nhân hậu; sống cho có nghĩa tất nhiên được nhiều người mến thương; do đó cuộc đời cũng được an lành sung túc "Kẻ có nhân mười phần chẳng khó." Hơn nữa cây ngọt có bao giờ sinh trái đắng, sống nhân nghĩa còn để lại phúc đức cho con cháu: "Đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ." Theo số học, "Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt," cuộc đời một người từ nhỏ tới 25 tuổi, sống nhờ đức cha mẹ, và từ 25 tuổi trở đi, sống bởi đức do chính mình tạo nên. Cứ xem cách xử của những người chung quanh thế nào đối với mình, sẽ biết mình có sống nhân nghĩa hay không vì kết quả của sống nhân nghĩa bao trùm cuộc đời một người "Đã mang lấy kiếp thân tằm, không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ." Người sống nhân nghĩa vương tơ thương mến.
DANH DỰ CON NGƯỜI
Đành rằng "Hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra ở trần ai cũng như ai," nhưng người ta cũng có người ốm, người mập; kẻ thì như cây tăm, người lại "Hùm ăn bẩy ngày không hết thịt." Do đó, may ra chỉ có được một điểm chung "ở trần" nghĩa là "ai cũng như ai" nơi điểm trong da là thịt hay ngoài thịt là da chứ không thể nào ai cũng như ai theo nghĩa rộng hơn. Chả thế mà có câu "Người ta dăm bẩy người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng." Ngày xưa, tiền hay quan tiền giá trị rất cao so với đồng, "Một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi..." Giá trị con người chênh lệch khác nhau bởi "Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi." Hai chữ "anh hùng" chỉ về danh dự của một người vì "Hữu xạ tự nhiên hương." Danh dự là hương hoa cuộc sống, "Chữ rằng hổ tử lưu bì, làm người phải để danh gì hậu lai," là danh tiếng cá nhân, "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng;" là tiếng thơm người khác nhận thấy hoặc suy tụng mình, "Người ta hữu tử hữu sanh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm." Danh dự được tạo nên bởi "Sống lo xứng phận" sao cho "Người chết nết còn." Chính vì tiếng thơm, cái nết xứng đáng được ca tụng nên được người khác nhắc nhở tới mãi mãi về sau "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ." Tuy nhiên, danh dự không phải là danh lợi. Chữ lợi mang theo nghĩa xấu, có tính chất giả tạo làm hại con người, "Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong chui vào;" hoặc "Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa." Chữ "tao" được than lên một cách cay cú, tầm thường đáng bị coi khinh. Danh dự khuyến khích con người sống cao thượng hơn, ý thức hơn và hoàn hảo hơn, "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người;" trong khi danh lợi lại là trường lừa bịp những ai chỉ muốn có tiếng tăm hão huyền: "Cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô."
Xét ra, "Ở trần ai cũng như ai," người nào cũng là người nên sự khác biệt về sự tôn trọng của những người chung quanh đối với cá nhân nói lên giá trị và danh dự khác nhau nơi từng người. Sự khác biệt này tùy thuộc sự tạo dựng danh dự cho chính mình. Lẽ đương nhiên, tạo dựng danh dự không phải dễ; đó là lý do tại sao người có danh dự được mọi người kính nể. Sự tạo dựng danh dự là chính lối sống sao cho vượt hẳn khỏi sự tầm thường của kiếp người: "Làm trai quyết chí tu thân, công danh chớ vội nợ nần chớ lo, khi nên trời cũng giúp cho; làm trai năm liệu bảy lo mới hào. Trời sinh trời chẳng phụ nào; phong vân gặp hội anh hào ra tay. Trí khôn rắp để dạ này; có công mài sắt có ngày nên kim." Hơn nữa, cứ sự thường tình, con người được sinh ra với hai bàn tay trắng; ra đời lập nghiệp, tạo dựng ý chí cũng vào thời trắng tay; thế cho nên tạo dựng danh dự lại càng khó bởi nếu đã có chốn nương tựa, "Sẵn cỗ ngồi vào" thì có chi đáng nói mà "Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan."
Tạo dựng danh dự bao gồm nhiều chi tiết nên theo và cũng lắm điều cấm kỵ không được phạm tới. Trước hết, muốn có danh dự, một người cần hiểu đạo xử thế: "Đòng đong chơi đạo đòng đong, trẻ vui đạo trẻ già rong đạo già." "Đàn ông như con dao pha," thái thịt cũng được mà chặt xương cũng được; tập luyện sao cho lúc cần cương thì cương, khi cần nhu thì nhu, biết "Kính trên nhường dưới," biết "Kim chỉ phải có đầu" chứ không phải coi mọi người như "Cá mè một lứa." Trọng người chưa đủ mà còn luôn luôn cần học hỏi để thăng tiến cuộc đời "Ông bảy mươi học ông bảy mươi mốt;" hơn nữa, không phải chỉ những người lớn tuổi hơn mình mới học nơi họ mà bất cứ những gì người khác hơn mình cũng cần học thêm bởi "Ra đàng lắm kẻ còn giòn hơn ta." Khả năng cầu tiến không biết thế nào cho đủ cũng như sự học, chẳng biết bao nhiêu cho vừa. Tuy nhiên, muốn nhìn được điều hay lẽ phải nơi người khác để học hỏi trau dồi cho chính mình lại cần một điều kiện tối ư quan trọng: đó là dám chấp nhận thực sự mình là người thế nào. Điều này nói lên cần biết mình, biết người do đó "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe;" ngược hẳn với thói thường vì ai cũng đều cảm thấy mình là đúng, ít để ý nghe người khác, hoặc bởi sự thiếu sót kinh nghiệm, chưa kịp suy nghĩ chín chắn điều người khác nói mình đã vội cho là không hợp. Đôi khi theo tâm lý bình thường, có những người mặc dầu chỉ mới gặp lần đầu, tự nhiên mình không thích, không có dù một chút cảm tình, hoặc đối với người khác vì nghe những điều không ra gì về họ, mình không ưa hoặc không cần để ý xem họ thực sự như thế nào. Người có danh dự là người tìm hiểu và nhận chân giá trị kẻ khác không tùy thuộc lời đàm tiếu mình nghe được về họ. Hay, công nhận rằng hay; dở, tránh không bước theo vết xe đổ chứ không phải "Chẳng ưa thì dưa có dòi" hoặc "Không ưa đổ thừa cho xấu." Không coi thường những người bề ngoài kém mình "Chớ thấy áo rách mà cười" vì "Những giống gà nòi lông nó lơ thơ." Nhận biết điều hay lẽ phải và ý thức được trong cuộc sống, "Muốn ăn hét phải đào giun," đồng thời chính những khó khăn trong cuộc sống lại là môi trường đào luyện tâm hồn mình thanh cao hơn, ý chí kiên trì hơn, lý trí sáng suốt hơn, danh dự vững bền hơn "Lửa thử vàng, gian nan thử đức." Dầu người có danh dự không những sẵn sàng nhận lỗi khi mình sơ sót, lại còn sống sao cho đứng đắn ngay thẳng, có trước có sau, tránh khỏi những kinh nghiệm mắc mỏ tàn hại cuộc đời: "Ăn cơm mắm ngắm về sau, ăn cơm rau nhớ sau nhớ trước." Chính vì vậy tâm hồn được thanh thản, không ganh đua mà biết chấp nhận cuộc đời: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba." Dĩ nhiên sống sao cho hợp thời hợp cảnh "Đi nước Lào, ăn mắm ngóe" tránh bon chen làm tiêu hao giá trị, nhưng không phải người khác làm những điều chẳng ra gì mà mình nhắm mắt làm theo. Người có danh dự dù chỉ làm bạn, cũng không bạn bè với những người xằng bậy. Tuy nhiên, biết dung hòa để tránh thái quá cũng như biết tiến thoái để tránh bất cập "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy;" không kênh kiệu mà hòa hợp - hòa hợp chứ không hòa đồng.
Tạo danh dự đã khó, bảo vệ danh dự lại càng gian nan hơn vì "Khôn ba năm dại một giờ," hoặc "Cái sẩy nẩy cái ung." Bảo vệ danh dự đòi hỏi một người tuân giữ những điều cấm kỵ một cách tuyệt đối, nếu có thể nói, bởi "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng." Hơn nữa, những điều không nên thường hấp dẫn con người hơn những điều hướng thượng do bản tính tự nhiên yếu hèn nơi bất cứ ai. Bảo vệ danh dự không phải là "Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy điệm" mà cần chân thành nhận thực con người mình thế nào; điều gì hay, điều gì dở nơi chính mình để thăng tiến hay sửa đổi. Sống sao cho tốt lành hơn vì càng tốt lành, danh dự càng cao; cũng như "Ao sâu tốt cá." Khi có những chuyện không hay xảy đến, người có danh dự tự kiểm điểm chính mình và biết mở rộng tâm hồn đặt vấn đề "Trách người một trách ta mười, bởi ta tệ trước nên người bạc sau."
Điều hiển nhiên, cuộc đời đôi lúc "Khôn như tiên, không tiền cũng dại;" tuy nhiên, "Khi nắng còn có khi mưa." Người trọng danh dự thà "Làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em;" vì họ quan niệm chỉ có "Gà què ăn quẩn cối xay." Họ chấp nhận "Chết trong hơn sống đục," và khi "Cái khó bó cái khôn," họ ý thức thân phận mình để rèn luyện kiên nhẫn, ý chí chứ không "Chó cùng bứt dậu," hoặc "Đói ăn vụng túng làm liều," mà "Đói cho sạch, rách cho thơm." Người trọng danh dự không bao giờ đối xử với kẻ khác "Chú khi ni, mi khi khác," nhưng lại nhận thức được "Măng mọc có lứa, người ta có thời." Hơn nữa, "Thời buổi nào, kỷ cương ấy," và họ hàng anh em thì "Vị tình vị nghĩa không ai vị đĩa xôi đầy;" gặp những khi chẳng đặng đừng họ "vuốt mặt" biết "nể mũi." Dĩ nhiên, người đời thường "Hay khen, hèn chê." Người có danh dự cần để ý dư luận mặc dầu dư luận nhiều khi bất công "Khôn ngoan thì bảo rằng ngoa, vụng dại thì bảo người ta rằng đần." Mọi người đều biết không ai có thể "Đo miệng cá uốn câu," cũng như không ai có thế làm vừa lòng hết mọi người vì người mà không ai thấy có nhược điểm, không ai có thể chê, lại coi chừng là tên đại bịp bởi đã là người, lầm lỗi là chuyện thường tình. Tuy thế, người trọng danh dự luôn luôn cho rằng "Tay đâu mà bịt miệng người thế gian," nhưng vẫn không coi thường dư luận bởi "Thấp cao mới biết tuổi vàng, gặp cơn lửa đỏ màu càng thắm tươi." Dư luận vừa là lò đào tạo danh dự lại cũng là nơi phá nát tiếng tăm một người vì đôi khi chỉ vô ý: "Sa chân bước xuống ruộng dưa, Dẫu ngay cho chết cũng ngờ rằng gian."
Mặc dầu "Tốt danh hơn lành áo" nhưng danh dự phải được đào tạo bởi chính cuộc sống mình chứ không phải "Bán gia tài mua danh diện," để rồi "Được tiếng khen, ho hen chẳng còn," hoặc vì "Con gà tức nhau tiếng gáy," hay "Có ăn có chọi mới gọi là trâu." Người có danh dự không "Đứng núi này trông núi nọ," không "Thấy sang bắt quàng làm họ" vì "Hèn mà làm bạn với sang, chỗ ngồi chỗ đứng có ngang bao giờ," không "Ra luồn vào cúi" hoặc "Bới lông tìm vết" bất cứ ai; không xét người một cách hời hợt vì có thể "Áo dài chớ tưởng là sang, bởi không áo ngắn phải mang áo dài," không "Được thể dễ nói khoác" hoặc "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng," không "Huýt chó bụi rậm" mà cũng không "Đòn xóc xọc hai đầu" hoặc "Đâm bị thóc, thọc bị gạo." Mình phải là chính mình chứ không phải "Ai nói làm sao, bào hao làm vậy."
Lẽ đương nhiên, "Ai đội mũ lệch thì xấu mặt người ấy," mà ảnh hưởng tăm tiếng của một người không phải chỉ vỏn vẹn nơi cá nhân và cuộc đời họ mà chính cuộc sống còn có sự liên đới nên danh dự của một người ảnh hưởng tới gia đình và họ hàng nữa, bởi trước tiên, gia đình là môi trường giáo dục căn bản về đức hạnh một người. Cứ xem con người đó ra sao có thể biết được giáo dục gia đình họ thế nào vì "Cha nào con nấy." Hơn nữa, mỗi người Việt có bổn phận xây dựng và bảo vệ danh dự gia đình họ hàng mình; chẳng thế mà có câu "Xem quả biết cây." Làm sao có thể cây đắng sinh trái ngọt vì "Nòi nào giống ấy." Do đó gặp trường hợp "Con sâu làm rầu nồi canh," thì người sống không ra gì trước tiên mất hết anh em họ hàng, lần lần đến bạn bè, rồi người thân quen, làng nước. Người sống tệ hại sẽ bị "Anh em khinh trước, làng nước khinh sau."
Tóm lại, danh dự ảnh hưởng toàn bộ cuộc sống của con người.
SỐNG LIÊN ĐỚI
Nói đến cuộc sống, không thể nào không nói đến sự liên hệ với những người chung quanh vì không ai có thể sống một mình riêng biệt. Không ai có thể tự tạo tất cả những như cầu cần thiết cho chính mình mà người việc nọ, kẻ việc kia. Bởi thế, sự liên đới giữa con người với con người có thể nói gắn liền với chính cuộc sống. Tuy nhiên, mỗi người có riêng lối sống, cách ăn nói, và liên hệ cũng như kinh nghiệm khác nhau; Tục Ngữ, Ca Dao nói lên sống thế nào chứ không phải "làm điều gì" đối với những người chung quanh, với anh em họ hàng thân thuộc... với lối sống cận nhân tình trong sự liên hệ của người Việt.
Nếu nói về bản chất của sự liên hệ, có những mối liên hệ tự nhiên như những người trong cùng một giòng tộc với nhau. Sự liên hệ này không phải tự mình muốn mà được hoặc mình không muốn là không có mà vì huyết thống, "Bà con vì tổ vì tiên không phải vì tiền vì gạo." Người Việt Nam rất trọng tình thân anh em giòng tộc vì tính chất thiêng liêng họ máu hoặc liên hệ họ máu. Hơn nữa, sự thân thiết họ hàng được coi là gần hay xa còn tùy lối đối xử liên hệ giữa anh em họ hàng với nhau. Tựu trung, sự liên hệ giữa anh em giòng họ là hơn hết: "Máu loãng còn hơn nước lã." Thế nên, dù có những chuyện xích mích, đụng độ đến đâu chăng nữa, người Việt Nam "Cắt dây bầu dây bí, chẳng ai cắt dây chị dây em." Tuy nhiên, vì hoàn cảnh khác nhau, cuộc sống không cho phép anh em họ hàng sống quần tụ như những nơi vùng quê, ruộng rẫy mà vì khả năng đòi hỏi hay sở thích hoặc tính chất mỗi người hợp với những kế sinh nhai khác nhau, họ phải kiếm nơi cư ngụ tách rời khỏi những người thân bằng quyến thuộc.
Mặc dù sống một mình biệt lập giữa những người khác, với tính chất thích sống cộng đồng, hợp quần, trước lạ sau quen, người Việt vẫn dễ hội nhập vào xã hội mới quanh mình. Để nói lên sự cần thiết của đặc tính sống liên đới, chúng ta có câu "Bán anh em xa mua láng giềng gần." Qua sự liên hệ trong cuộc sống, láng giềng cần thiết và có thể thân mật với một gia đình như anh em họ hàng tùy lối đối xử giữa con người với nhau.
Sự liên đới của một người không phải chỉ tùy thuộc dòng máu, nơi ở mà còn tùy thuộc chính tính chất, nghề nghiệp của mình. Vì mình thế nào thì mình sẽ có bạn bè thế ấy; "Đi buôn có bạn, đi bán có phường." Ngoài giòng tộc, láng giềng, tất cả các sự liên hệ khác do nghề nghiệp hoặc sở thích hay cùng chung bối cảnh đều được coi chung là bạn bè. Về sự liên hệ giữa bạn bè, Ca Dao nói: "Bạn bè là nghĩa tương tri, sao cho sau trước một bề mới nên."
Người Việt Nam qua cung cách đối xử trong sự liên hệ lấy "Dĩ hòa vi quí" làm châm ngôn, nhưng lại rất khinh những kẻ coi mọi người như "Cá mè một lứa," không biết tôn ti trật tự. Sống hòa thuận, chung tình thân ái với giống nòi, "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng," người Việt không những dễ góp niềm vui với cộng đồng mà còn chia sẻ nỗi buồn hoặc khó khăn với thân thuộc: "Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ." Chính tình thân ái này tạo nên lẽ công bằng cho cung cách giao tế: "Có đi có lại mới toại lòng nhau," hoặc "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại," hay "Ông có cái giò, bà thò chai rượu." Đôi khi vì hoàn cảnh, lý do nào đó gây khó khăn trong cung cách giao tế qua lại công bằng do đó cần sự cố gắng chịu đựng hay đóng góp, người Việt sẵn sàng chấp nhận theo lẽ "Nay người mai ta" và được khuyến khích bởi "Có ăn có chọi mới gọi là trâu." Sống chung với người, chung hưởng điều tốt lành nơi người khác thì cũng cần hy sinh xả kỷ đôi khi. Tuy nhiên, không phải bất cứ việc gì thấy nên hoặc đúng là đã vội làm không cần để ý đến người khác theo kiểu "Ngựa non háu đá;" mà cần phải biết "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng." Cuộc sống mình ảnh hưởng và bị ảnh hưởng, lệ thuộc vào tập thể, bởi thế nên hòa đồng với những người chung quanh, với nếp sống cũng như luân lý cộng đồng. Do đó, tùy cung cách đối xử giữa người này với người kia hoặc với tập thể mà người khác có thể nhận biết một phần nào tâm tình của một người, "Yêu nhau thời ném bã trầu, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra," hoặc "Yêu nhau cau bẩy bổ ba, ghét nhau cau bẩy bổ ra làm mười."
Tục Ngữ, Ca Dao mang nặng tính chất luân lý nên thường nói về tâm lý. Dùng tâm lý mà mọi người có thể kinh nghiệm để gieo vãi luân lý đó là đặc tính của Tục Ngữ, Ca Dao hầu mong cải thiện điều không nên và khuyến khích con người sao cho có lối sống cận nhân tình hơn chẳng hạn: "Chửa đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người mặt vàng như nghệ." Chữ đánh mang nghĩa đối xử của một người vì dầu thắng hay thua trong cuộc tranh chấp, ai cũng đều thấy mình bị tổn thương. Do đó đôi khi có những câu tục ngữ có vẻ cay cú đồng thời nhắc nhở con người nhận chân giá trị mình thay vì nhập cuộc tranh chấp hơn thua, "Tránh voi không hổ mặt người," hoặc "Tránh voi chẳng xấu mặt nào." Voi dầu to xác nhưng chỉ là thứ con vật. Đã là người mang giá trị con người với sự không ngoan và lý trí, không ai đánh đô vật với voi mà chỉ huấn luyện voi.
Trong cuộc sống, qua mối liên hệ và cung cách đối xử, mọi người kinh nghiệm không ai giống ai. Hơn nữa, có người nọ lại cũng có người kia; cuộc đời lẫn lộn người tốt kẻ xấu sống chung. Đồng thời những va chạm xảy ra đều có nguyên nhân, không gì tự trời rơi xuống "Bụt trên tòa gà nào mổ mắt." Bởi vậy "Hễ muốn ra con người tử tế, phải dễ dàng chớ để ai hờn. Làm ơn ắt hẳn nên ơn, trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ." Dĩ nhiên, "Trồng cây mận ăn trái mận, trồng cây sung ăn trái sung." Những ai "Gieo gió sẽ gặt bão." Cách đối xử giữa người với người cho thêm kinh nghiệm "Dễ người, người dễ ta." Và kinh nghiệm sống này còn đi xa hơn trong sự liên hệ giữa người với người, "Đánh chó ngó chủ," hoặc "Vị thần mà nể cây đa, cả như cây táo chém cha đời nào," hay "Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần thần cậy cây đa." Sự khôn ngoan có tính cách luân lý trong Ca Dao, Tục Ngữ thoạt mới nghe có vẻ chỉ khuyến khích con người chấp nhận thua thiệt, nhưng nếu dành một chút suy tư đặt vấn đề tại sao có những lời khuyến khích này, người ta sẽ nhận ra chân giá trị của "Dĩ hòa vi quí" nơi tâm tình cận nhân tình người Việt: "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy." "Ở cho phải phải phân phân" không có đâu là biên giới, không cách nào có thể diễn tả đúng hơn tấm lòng cận nhân tình bằng câu này vì mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp liên hệ, cách đối xử đều không giống nhau; không thể có một mẫu mực cứng ngắc nào. Sống sao cho hòa hợp, sao cho có người nọ, người kia vì "Dại bầy hơn khôn lỏi" hoặc "Xấu đều hơn tốt lỏi."
ĂN NÓI
Trong sự liên hệ, cách đối xử đã quan trọng, lời ăn tiếng nói đồng thời cũng quan trọng không kém. "Ở sao cho đẹp lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê..." đã khó dầu có thời gian suy tính, đắn đo. Cách ăn nói, dù "Chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm hãy nói" cũng không thể nào không có sơ xuất. Nguyên nhân của sự sơ xuất có thể bởi mực độ suy nghĩ khác nhau giữa kẻ nói và người nghe, hoặc do tâm tình khác biệt được tạo nên từ kinh nghiệm cá nhân không giống nhau hay từ tính tình từng người; kẻ bộc trực, ngay thẳng, và đơn giản; người ưa suy nghĩ xa xôi, dây mơ rễ má. Kiểu cách ăn nói lại còn tùy thuộc ảnh hưởng địa phương, và tâm tính người từng miền. Cho dù có nhiều yếu tố khác biệt khiến phản ứng của một người ảnh hưởng tới lời nói hoặc cách nói, tựu trung đa số đều dựa trên một nguồn gốc "Suy bụng ta ra bụng người." Lẽ đương nhiên, chỉ những tên ăn trộm mới có thể nghĩ như kẻ ăn trộm; sự nhận thức và phản ứng của một người tùy thuộc kinh nghiệm sẵn có. Những kinh nghiệm này có thể do những trường hợp tương tự xảy ra trong những môi trường khác biệt mà cá nhân trải qua. Nhờ sự liên hệ với nhiều người, dầu khác môi trường, đa số dân chúng có được những nhận biết tương tự cộng thêm với ý thức, so sánh tâm lý, nên có một phần nào suy diễn chung; sự nhận thức này tạm gọi ý thức tâm lý cộng đồng, môi trường sinh hoạt chung trong liên hệ của một tập thể. Do đó, "không có lửa sao có khói," hoặc "Thế gian chẳng ít thời nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai" trở thành châm ngôn cho một người để ý đến lối sống cũng như cách ăn nói của mình sao cho tránh khỏi những tiếng tăm bất lợi về danh dự cá nhân, gia đình cũng như tập thể.
Dĩ nhiên, đã là người, ai không lỗi lầm, phương chi lỡ miệng. Chấp nhận lỗi lầm, thiếu sót nơi mình với ý hướng sửa sai, sống vươn lên tốt hơn, đó là bước đầu tiên đi vào con đường thiện hảo. Tuy nhiên, dầu một người chấp nhận mình lầm lỗi, nhận thức sự lầm lỗi của mình để vươn lên vẫn cảm thấy đau lòng khi vấp phải lỗi lầm. Tục ngữ khuyến khích tinh thần hướng thiện qua câu: "Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng." Hơn nữa, lời thật mất lòng kẻ nghe thì ít mà làm đau khổ người nói nhiều hơn. Không ai muốn gây thêm mích lòng nên nếu nói thật điều sai lầm của người khác không những đôi khi mà đa số trường hợp người nghe sẽ không được hài lòng. Có ai biết đâu lòng chân thành, tốt lành đã tự phải trả giá cho chính nó khi người nghe phiền lòng vì sự thật trái ngược này. Bởi thế, cách ăn nói đã quan trọng lại càng trở nên quan trọng vì "Khen người thì tốt, dột người thì xấu." Theo tâm lý bình thường, không ai muốn nghe điều xấu của mình mà chỉ thích được khen. Người chân thành muốn giúp kẻ khác lại cần "Nhời nói chẳng mất tiền mua, liệu nhời mà nói cho vừa lòng nhau," hoặc "Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời." Chữ "nặng lời" thường được hiểu theo phía người nói. Tuy nhiên, dù cố gắng cách nào chăng nữa và bởi vì "Lời thật mất lòng," người nghe, tâm lý chung, dẫu cho những lời phê bình có nhẹ nhàng cách mấy, đều cảm thấy nặng lời. Điều này lại càng nói lên không ai muốn nghe kẻ khác phê bình mình. Do đó, nếu muốn giúp người khác, về phương diện ăn nói, Ca Dao đề nghị: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe."
Trong sự liên hệ với người khác, không ít thì nhiều, chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau. Có thể hiểu một phần nào đặc tính của một người khi hiểu bạn bè của người đó thuộc giới nào. "Chọn bạn mà chơi" vì "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã;" bạn bè liên hệ đóng một vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng không những tâm tính một người mà còn ảnh hưởng cách đối xử, ăn nói người đó, "Chim khôn tránh bẫy tránh dò, người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn." Người khôn chỉ tránh kẻ hồ đồ chứ không phê bình, "Nước trong khe suối chảy ra, mình chê ta đục mình đà trong chưa;" vì dẫu sao, ai là người không lầm lỗi. Chê người khác lầm lỗi có thể rằng mình thấy mình lầm lỗi nhiều hơn nên chê kẻ khác để hy vọng được nghĩ mình tốt lành hơn. Hơn nữa, không những Tục Ngữ, Ca Dao khuyến khích không nên chê kẻ khác mà còn không nên nói cạnh khóe, bóng gió, xa gần vì như thế cũng chỉ là một lối ghen tương, không xứng đáng với một tâm hồn chân thật, "Sấm bên đông động bên tây, tuy rằng nói đấy nhưng đây động lòng." Tục Ngữ, Ca Dao khuyến khích con người sống vị tha, nhân ái... sao cho thăng tiến không ngừng tới sự toàn hảo, do đó chú trọng đến phẩm giá đích thực con người chứ không đánh giá những vấn đề ngoại tại, "Cậy tài cậy khéo khoe khôn, Đừng có cậy của đa ngôn quá lời; của thì mặc của ai ơi, Đừng có cậy của coi người như rơm." Bởi thế, giá trị đích thực của con người là lòng chân thành ngay thẳng chứ không phải "Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm," và lẽ đương nhiên không ai trong chúng ta muốn có liên hệ hoặc làm bạn bè với những người như thế bởi "Sông sâu còn có người dò, Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng."
Về cách ăn nói, Tục Ngữ, Ca Dao cũng không nói lên phải ăn nói cách nào, kiểu nào hoặc văn chương hay bình dân ra sao. Tục Ngữ, Ca Dao nhấn mạnh về tâm tình hoặc ý nghĩa của câu nói chứ không đặt nặng ăn nói theo hình thức nào. "Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời" có thể được coi làm tiêu chuẩn cho cách ăn nói. "Điều đau" không thể nào bắt nguồn từ những tâm hồn chân thành mà chỉ có thể xảy ra nơi cá tính hay chỉ trích, xoi mói hoặc "Bới lông tìm vết." Người thích chỉ trích thay vì mở rộng tâm hồn để nhìn nhận điều hay, vẻ đẹp nơi người khác lại tìm cách bới móc hoặc kiếm cách đè bẹp bất cứ ai không vừa ý họ hoặc chủ đích muốn được để ý. Tuy nhiên điều đau còn mang thêm nghĩa những kinh nghiệm mắc mỏ, đớn đau trong cuộc đời một người. Trên bình diện luân lý, câu "Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời" có thể tạm hiểu mang ý nghĩa nhắc nhở nên ăn nói với lòng chân thành thay vì khích bác gây thù oán.
Hai chữ "ăn nói" chỉ được hiểu theo nghĩa "nói" chứ thường không dính dáng gì đến ăn. Riêng nói về "ăn," người xưa chỉ để lại một đôi câu đại khái cho rằng ăn là vấn đề không quan trọng (mặc dầu ai cũng cần ăn) nhưng nói mới lại là quan trọng. Lời chào mời ăn quan trọng hơn đồ ăn, "Tiếng chào cao hơn mâm cỗ;" (có thể câu này khuyến khích nên thanh lịch) vấn đề ăn đôi khi lại không được mang ý tốt (dầu ăn là sự tốt lành) "Ăn lấy thơm lấy tho chứ không ai ăn lấy no lấy béo," hoặc "Ăn lấy vị, không ai lấy bị mà đong." Thật ra, đôi khi ăn còn bị coi thường, "Ăn no vác nặng." Qua lối nhìn về vấn đề ăn nói, ông cha ta coi trọng phần tâm tư, tính tình, thái độ hơn vấn đề ăn uống. Bởi thế, cách "ăn nói" của một người chỉ được đề cập đến "nói" chứ không đặt vấn đề ăn vì "Miếng ăn quá khẩu thành tàn."
Dù đặt nặng vấn đề nói và ai cũng thích nói vì ai cũng muốn được người khác nghe, chú ý đến mình, nhưng Ca Dao lại đề nghị ít nói, "Rượu nhạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm cũng hay ra nhàm." Chính vì đa số ai cũng thích nói và đã hay nói thì hay lỗi, "Ông thánh còn có khi lầm, huống hồ là lão tám lăm tuổi đầu;" nên đôi khi thích nói không ra gì về truyện người "Truyện mình giấu đầu giấu đuôi, bới truyện của người vạch lá tìm sâu." Do đó ca dao đề nghị: "Nói người chẳng gẫm đến thân, thử sờ lên gáy xem gần hay xa."
Cuộc đời, có người nọ lại cũng có kẻ kia. Tâm tính cũng thế, có người khôn ngoan ăn nói đắn đo hòa nhã, rào trước đón sau, lại có kẻ "Chó dại có mùa, người dại quanh năm." Đành rằng ai cũng muốn trở nên khôn ngoan, nhưng không phải cứ muốn là đã được. Dầu người ta có thể sửa đổi hoặc tự đào luyện chính mình, cá tính bẩm sinh của một người ảnh hưởng nặng nề đến thái độ và lời ăn tiếng nói người đó. Hơn nữa, sự tu sửa chính mình để trở nên tốt lành còn bị ảnh hưởng bởi dư luận, "Chim khôn chết mệt vì mồi, người khôn chết mệt vì lời nhỏ to;" vì "Bách nhân bách khẩu" hoặc "Chín người mười ý," hay "Mai mưa, trưa nắng chiều nồm, trời còn luân chuyển huống mồm thế gian." Mặc dầu "Lấp sông lấp giếng, ai lấp được miệng người," Ca Dao đề nghị: "Mặc ai nói ngả nói nghiêng, thì ta vẫn vững như kiềng ba chân." Lẽ thường, "Đường ta ta cứ đi" bởi không ai có thể giúp mình nếu chính mình không bắt đầu trước. Dư luận không thưởng mà cũng không phạt, nó có thể là đài danh vọng và cũng có thể là một sự tàn phá đến một người tùy thuộc quan niệm cũng như tâm tình người đó thế nào đối với cuộc đời mình và với dư luận. Vẫn biết rằng không ai có thể sửa được tất cả những điều sai lầm hoặc thói quen không tốt của mình; tuy nhiên, cũng không ai có thể tập tành sao cho đúng ý tất cả những lời phê bình đề nghị của những người chung quanh. Bởi thế, sự sửa đổi chính mình cho tốt lành hơn được gọi là theo đạo trời hay học đạo lành, "Mặc ai chác lợi mua danh, miễn ta học đặng đạo lành thì thôi."
Ai cũng biết "Cả giận mất khôn" và tránh kiểu nói "Cạn tàu ráo máng;" đồng thời mọi người chấp nhận "Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối." Như thế, chẳng phải chỉ người xưa coi trọng, đề cao tấm lòng chân thật mà mọi người mọi thời đều thấy sự thật thà ngay thẳng là điều tốt lành nên có. Điều này cũng hợp với ăn nói, có sao nói vậy được tôn trọng; còn nói khoác lác, khoe khoang đều bị coi rẻ "Có đỏ mà chẳng có thơm, như hoa dâm bụt nên cơm cháo gì," và Ca Dao khuyên, "Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay." Đó cũng là lý do tại sao những người ăn nói khoác lác "Mười voi không được bát nước xáo" không được ai trọng vọng, tin cậy. Cho nên, "Nói chín thì nên làm mười, nói mười làm chín kẻ cười người chê." Hơn nữa, để tránh những chuyện "Tri hành bất nhất," Ca Dao đề nghị: "Người khôn đón trước rào sau, để cho người dại biết đâu mà mò," hoặc "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa đi đến biển đã dò nông sâu," hay "Làm người suy kỹ tính xa, cho tường gốc ngọn cho ra vắn dài."
Vì "Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta;" thế nên "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn;" hơn nữa, sự liên hệ tạo cho một người thêm vây cánh lỡ khi hữu chuyện còn có người nọ người kia. Mặc dầu sự liên đới bao gồm nhiều khía cạnh, nếu cứ nói theo lý thuyết, ít ai nghĩ được mình có thể thực hành những sự khôn ngoan ông cha ta để lại qua Tục Ngữ, Ca Dao. Tuy nhiên, nếu dùng đôi phút để nhìn lại cách thức đối xử với những người chung quanh, chính mình đang thực hiện những sự khôn ngoan này mà mình không để ý. Ngay trong nghề nghiệp, buôn bán, nhờ có sự liên hệ bạn bè thân quen, công việc dễ xuôi chảy hơn và có thể thực hiện lớn lao hơn dự tính. Do đó cũng có thể nói lối sống liên đới là một lối sống hợp quần đặt nền móng trên tình tương thân tương trợ.
Nhờ sự liên đới với những người khác, con người mới có thể cảm nhận được "Thức đêm mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Ngoài ra, có liên đới là có ảnh hưởng vì "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén," hoặc "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng." Sự liên đới giúp mình học được phần nào những điều hay lẽ phải của những người mình liên hệ với. Tuy nhiên, việc gì cũng có giá trị tương đối bởi "Áo năng may năng mới, người năng tới năng quen." Đồng thời lại cũng có câu "Năng mưa thì tốt lúa đường, năng đi năng lại xem thường xem khinh." Lối sống cận nhân tình trong sự liên đới thực mà hư, hư mà thực; đòi hỏi sự không "thái quá" mà cũng chẳng "bất cập" là thế.
XỬ THẾ
Do nhận ra sắc thái đặc thù về luân lý cũng như phổ quát ứng dụng nơi Tục Ngữ, Ca Dao, một vấn đề được đặt ra: Tiền nhân dân Việt đã nhận xét tâm lý cuộc đời và có quan niệm xử thế ra sao cũng như điều nên và cần biết của một người trong cuộc sống theo chiều hướng vươn lên để làm đẹp cuộc đời chẳng những riêng cho cá nhân mà còn sinh phần lợi ích thiết thực tới những người chung quanh; nói cách khác, góp tay xây dựng xã hội Việt Nam mỗi ngày một hoàn mỹ hơn. Tuy nhiên, muốn có một cái nhìn trung thực thế nào là nên và không nên trong cách xử thế đòi hỏi sự nhận biết điều kiện sống hay là thực trạng cuộc đời mà con người phải đối diện cũng như quan niệm, chiều hướng phổ quát về nhận xét hoặc phản ứng của con người về cuộc đời. Chắc hẳn rằng không ai có thể nói lên rõ ràng và bao quát về cuộc đời như thế nào bởi cuộc đời gồm nhiều cá nhân "Người ta năm bảy người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng;" cũng là những con người sống trong một xã hội nhưng không ai giống ai và không điều kiện sinh hoạt, môi trường nào có thể tạo nên cho những con người khác biệt phản ứng giống nhau "Đòng đong theo đạo đòng đòng, trẻ vui đạo trẻ già dong đạo già." Hơn nữa, mặc dầu ai cũng được ban cho sự sống nhưng xét ngay như bản chất tâm lý và điều kiện cơ thể đã là những nguyên nhân tạo nhiều phản ứng khác biệt trong cách sống hoặc xử thế. Bởi vậy, không thể nào có được một khuôn mẫu cố định, cứng ngắc để mọi người rập theo. Mặc dầu, qua cơ cấu xã hội người Việt, chúng ta thấy có những khuôn mẫu luân lý: Tam Cương, Ngũ Thường; Tam Tòng, Tứ Đức; Đạo Hiếu; hay những luật lệ thành văn hoặc bất thành văn đã bao nhiêu đời giúp mang lại trật tự và nề nếp luân lý cũng như đạo đức con người, nhưng chắc chắn rằng cũng không thiếu chi con dân Việt đã bị những khuôn mẫu đó được áp dụng trong hoàn cảnh khác biệt gò ép họ phải ngậm đắng nuốt cay chịu trận cả một cuộc đời khổ ải "Ngậm bồ hòn làm ngọt" không đường đào thoát bởi điều đúng và lý tưởng cho đa số chưa chắc đã là điều tốt cho một người trong hoàn cảnh và điều kiện bản thân cũng như tâm lý khác biệt. Không nói gì chuyện xa vời, ngay như vấn đề ăn uống, đối với nhiều người, không có ớt thì mùi vị đồ ăn mất ngon, trái lại người khác chẳng may vô tình ăn phải ớt lại cảm thấy cay như xé cổ họng, hoặc âm nhạc rất phổ thông và được hầu như mọi người ưa thích; trái lại có những người thà đi cuốc đất còn hơn ngồi đó thưởng thức một bản nhạc... Xét rộng thêm chút nữa, ngay như đối với một thú tiêu khiển, biết bao nhiêu người có những phản ứng và tâm trạng khác nhau.
Qua tư tưởng Tây Âu, con người cũng có nhiều quan niệm khác nhau về cuộc đời bởi tùy thuộc những điều kiện và lối nhìn khác nhau. Có ai đã không nhận thấy "Khi bàn soạn hoặc đọc trong sách vở thì cuộc sống là một sự tuyệt vời nhưng khi phải đối diện với thì nó lại là điều khổ ải?" (Jean Anouilh, 1939). Ernest Renan cay đắng hơn trong những nỗi thất bại: "Tôi thử hỏi bạn, cuộc đời con người là gì? Phỏng nó không phải là niềm hạnh phúc què quặt, đầy nỗi lo lắng ưu tư vô vọng, một sự lừa dối lạ lùng của một ngày mai tươi sáng hơn ư?" (1880). Chính vì khao khát những ước vọng không bao giờ có thể đạt tới đã là khởi điểm cho ưu uất tâm tư; từ đó con người đổ lỗi cho cuộc đời: "Bạn có thể nhận ra rằng cuộc sống tự nó là một lỗi lầm lớn lao nhất trong đó chính sự sống là chủ động của những đau khổ không?" (Ugo Betti, 1953). Như một lẽ thường, ít ai nhận ra niềm hạnh phúc mình đang nắm giữ nhưng lại cứ cố gắng chạy theo những gì ngoài tầm tay với thế nên "Cuộc sống là một sự dính liền những góc cạnh rộng lớn thôi thúc bởi những nỗi thống khổ," (Ugo Betti). Bởi vậy, chẳng lạ gì, những tham vọng không đạt được đã bị gán ép vào cuộc đời thay vì tự đặt vấn đề về chính mình để tìm phương liệu chữa trị hoặc thăng tiến, "Cuộc đời là viên thuốc đắng không ai có thể nuốt trôi nếu không được bọc đường," (Samuel Johnson, 1786). Với những cái nhìn yếm thế này, cho dù bất cứ ai dám tự đối diện với lòng mình thì giá trị của cuộc đời xét theo phương diện xây dựng cho con người cũng chẳng có gì đáng nói: "Cuộc sống được coi như một món đồ chơi làm bằng thủy tinh giá trị khó thể đo lường nhưng trong thực tế lại rất rẻ tiền," (Pietro Aretino, 1537). Và đương nhiên được coi như món nợ đeo đẳng phải trả cho kiếp làm người: "Cuộc đời giống như một củ hành tây mà con người vừa bóc vừa chảy nước mắt," (Cách ngôn Pháp), hay là nỗi thống khổ không phương chạy trốn hoặc vứt bỏ: "Cuộc sống là con bệnh bất trị," (Abraham Cowley, 1656).
Tuy nhiên, dẫu cho yếm thế tới độ nào chăng nữa, "Con người vẫn khư khư bám lấy cuộc sống dù phải trả giá mắc mỏ để chống trả với số phận hẩm hiu," (Aristotle, thế kỷ 4 B.C.) để rồi khi nhận ra thực trạng yếm thế không đem lợi ích gì cho cuộc sống, họ mới đặt vấn đề về cuộc đời và thái độ hoặc chiều hướng của con người đối với cuộc đời: "Chỉ có ba vấn đề đáng nói về con người: sinh, sống, và chết. Người ta không tự biết gì về ngày sinh, đau khổ về sự chết, và không để ý đến sự sống của mình," (La Bruyère, 1688). Cách ngôn Pháp đưa lên điểm thiếu sót của đa số chúng ta: "Con người ta đã sống cả nửa cuộc đời trước khi biết đời là gì." Hơn nữa, vì không nhận thức được giá trị cũng như thực trạng của cuộc sống chúng ta đã nhắm mắt theo những điều mơ tưởng một cách vô căn cứ: "Cuộc sống là sự ngoắc ngoéo nơi đó chúng ta chọn sự sai lầm trước khi thực hành," (Cyril Connollly, 1945). Dĩ nhiên, khi nhận ra sự sống hoặc giá trị của sự sống thì đã đang sống do đó ai cũng gặp cảnh trái ngang không ngờ: "Cuộc sống là một nghệ thuật chúng ta bị đòi hỏi thực hiện mà sự không được chuẩn bị, không được dẫn dắt, đầy sai lầm và thiếu sót đã là hành trang cho buổi ban đầu," (Lewis Mumford, 1951). Tuy nhiên, cho dù có lầm lỗi, thiếu sót, hoặc phải mang những khổ ải, ai cũng nhận ra ít nhất giá trị của sự sống bởi: "Đối với những người còn sống thì còn hy vọng vì một con chó sống vẫn hơn một con sư tử chết," (Giảng viên, 9:4) bởi "Cuộc đời này tùy thuộc người sống chứ không phải kẻ chết," (Thomas Jefferson, 1813). Hơn nữa, ước muốn sinh tồn cũng như cầu sống nơi con người thuộc về bản năng chứ không phải là sản phẩm của lý trí; bởi vậy cho dù ở trình độ kiến thức nào và hoàn cảnh nào, ai ai cũng muốn được sống: "Sống cũng như yêu, mọi lý lẽ đều chống nghịch lại nhưng tất cả bản năng lại hùa theo," (Samuel Butler, 1912).
Nhận ra giá trị của sự sống, con người mới tìm kiếm phương cách để sao cho cuộc đời có ý nghĩa hơn bởi bình thường "Chúng ta mới sinh ra đã cất tiếng khóc, sống càm ràm không hài lòng với thực tại, và chết một cách tiếc nuối," (Thomas Fuller, 1732). Kiếm tìm điều gì tức là chưa có điều đó; thế nên, "Một điều hiển nhiên là nếu chúng ta không biết cách sống nên đã mơ mộng sống, cũng như không có hạnh phúc chúng ta mơ mộng được hạnh phúc," (Pascal, 1670). Chân thành nhìn lại thái độ cũng như mức độ xử dụng cuộc đời để rồi đem so sánh ước mơ với thành quả chuỗi ngày đã sống, J. M. Barrie đưa ra nhận định: "Cuộc sống con người là một thiên nhật ký trong đó bao gồm những câu chuyện thực tiễn mà ít khi chủ nhân dám so sánh thành quả của mình đạt được với điều mình mơ ước thực hiện," (1891). Hơn nữa, sao có thể nhận ra ánh sáng nếu không có bóng tối hoặc hạnh phúc nào có thể thỏa mãn được tâm hồn không bao giờ kinh nghiệm đau khổ. Cũng thế đối với sự nhận thức cuộc đời, người hiểu được giá trị cuộc đời cần kinh nghiệm thực tiễn bao gồm nhiều giá trị cho dù giá trị nào đó đòi hỏi điều kiện trải qua những đau thương: "Có câu nói cho rằng không ai nhận thức thực sự đời là thế nào cho tới khi họ biết thế nào là nghèo khổ, yêu thương, và chiến tranh," (O. Henry, 1908). Xét như thế, "sự không được chuẩn bị để sống thì đã sống" lại trở thành cơ hội tuyệt vời nhất rèn luyện con người lần hồi tìm ra chiều hướng cuộc đời: "Phương cách tốt nhất để chuẩn bị cho cuộc sống là hãy bắt đầu sống," (Elbert Hubbard, 1927). Không kinh nghiệm, không sở trường mà "tay vo" bước vào cuộc đời chắc chắn sẽ bị vùi dập lăn lóc, đắng cay chua xót nhiều hơn sướng vui hạnh phúc. Có lẽ đó là lý do tại sao hạnh phúc lại quí giá, và sự kiến tạo cuộc đời hạnh phúc được nâng lên hàng nghệ thuật. Tuy nhiên, hạnh phúc chỉ là những phút giây ngắn ngủi khó kiếm; bởi thế, cuộc sống hạnh phúc đòi hỏi cố gắng cũng như nghệ thuật hay phương pháp bảo vệ và xây đắp những niềm vui nhỏ bé: "Nghệ thuật sống là làm thế nào để biết kiếm tìm một chút niềm vui và ráng kéo dài niềm vui ấy," (William Hazlitt, 1817). Ngược lại, kinh nghiệm cho thấy, niềm vui nào cũng chóng qua, trận cười nào cũng đều được nối tiếp bằng những mảng buồn tênh vô nghĩa khi ý thức giá trị cuộc sống trở về dày vò tâm não: chẳng lẽ mình được sinh ra, sống cho qua rồi chết để đi vào quên lãng hư vô? Phải còn một cái gì! Ai cũng muốn trở thành một "cái gì" và đó là giá trị của cuộc sống đời mình. Tất nhiên, mơ ước có một điều gì cần công sức thực hiện và một đường hướng để theo cũng như mục đích đạt tới; thế nên: "Cuộc đời một người chỉ có giá trị khi có một lý tưởng," (Hegel, 1820). Lý tưởng hay mục đích của đời người là điều cần thiết mà năng lực để thực hiện hành trình đạt tới lý tưởng lại càng cần thiết hơn; nếu không, trèo cây đến lúc gần được hái trái đã hết sức thì còn tệ hơn đừng trèo. Muốn cuộc đời có giá trị, cần có lý tưởng để theo đuổi; muốn bền bỉ theo đuổi, cần ý chí và can trường. Như vậy, không phải cuộc đời làm nên giá trị con người mà con người làm nên giá trị cuộc đời mình tùy thuộc năng lực và ý chí nơi chính bản thân: "Tôi xét sự sống chỉ qua một vấn đề: sức mạnh tâm hồn của một người," (Robert Browning, 1855). Tất nhiên, cũng có những người không bao giờ đi tới đích có thể vì đã không tự lượng sức mình hoặc ước mơ quá tầm với. Ngược lại, mục đích có thể đạt tới dễ dàng sao có thể gọi là lý tưởng; bởi vậy, "Cuộc đời là cả một sự cố gắng liên tục để trở thành điều mình muốn và thực hiện những gì mình không thể tiến tới," (William Hazlitt, 1820). Dù sao chăng nữa, đạt thành hay thất bại, sự cố gắng liên tục theo đuổi niềm ước mơ vẫn có giá trị riêng của nó bởi chính sự cố gắng này giúp con người "Chẳng thành thân cũng thành nhân;" nó tạo cho bản thân năng lực tâm hồn cầu tiến: "Nói rằng sống tức là nói rằng chúng ta tự tìm kiếm cho mình những cơ hội để vươn lên," (José Ortega Y Gasset, 1930).
Tiền nhân dân Việt không nhìn cuộc đời để đóng khung và đưa ra lời quyết đoán tổng quát bởi đặc tính đa dạng tùy theo trường hợp và hoàn cảnh cũng như cơ cấu phức tạp của đời sống được gom góp lại bởi những con người khác biệt, mà trái lại, hòa mình trong cuộc sống để nói lên những thực trạng qua kinh nghiệm sống tùy theo hoàn cảnh riêng biệt. Lẽ tất nhiên, cuộc đời được tạo thành do tổng hợp những cá nhân có liên hệ, chung đụng bao gồm nhiều thành phần và cá tính khác nhau từ thánh thiện tốt lành đến xấu xa bỉ ổi. Cuộc đời không thể nào chỉ được xét theo chiều hướng, lối nhìn cố định một chiều theo mẫu mực nào đó hoặc cắt xén hay thêm thắt cho hợp với lý luận dẫn tới bất cứ một lý thuyết nào. Cuộc đời cần được nhận định và trình bày một cách trung thực để rồi từ đó đề nghị phương thức thăng tiến.
Phật gia tin rằng, "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí;" nếu đã là phúc thì tất nhiên không phải là họa; ngược lại, phúc đến không biết giữ thì mất; còn nếu đã là họa thì không phương tránh khỏi. Kinh nghiệm người xưa cho thấy: "Sông có khúc, đời người có lúc," cuộc đời một người có thời vinh cũng có lúc nhục; khi lên voi cũng có cơ bị xuống chó chứ không phải kẻ được sinh ra trong số mạng bọc điều luôn luôn được sung sướng, may mắn; trái lại kẻ chẳng may suốt đời mang kiếp trầm luân khổ ải. Có được nghe chăng, hầu hết từ hèn đến sang hoặc phú quí tới nghèo khổ, ai ai cũng chỉ thấy điều chẳng hài lòng luôn luôn ở trước mặt còn những gì sung sướng đã vội qua mau. Âu đó cũng là tính chất chung nơi loài người bởi ít ai để ý đến tính cách sinh động của cuộc sống. Bình tâm nhận xét, ai cũng nhận thức hoặc kinh nghiệm "Hay làm thì giầu, có chí thì nên;" tuy nhiên, cũng không thiếu gì trường hợp "Bôn ba chẳng qua thời vận." Tính cách sinh động của cuộc sống nhiều khi khiến con người nản chí, tiêu tan nghị lực muốn đành chấp nhận phận số chẳng may, nhưng đồng thời vẫn còn niềm hy vọng làm động lực chịu đựng qua cảnh gian nan bởi "Nước dưới sông hết trong còn phải đục, vận người đời hết lúc nhục phải vinh;" đâu phải luôn luôn "Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa;" vì "Một khi trời nổi can qua, con vua thất thế lại ra ở chùa." Mặc dầu thời gian hiện hữu của đời người thật là ngắn ngủi "Đời người chẳng khác gì hoa, sớm còn tối mất, nở ra rồi tàn;" nào mấy ai chưa hề nhận thấy khi: "Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông." Cuộc đời là thực trạng luôn luôn biến đổi, sinh động; đã có sinh phải có tử và từ thời sinh đến lúc tử, những thay đổi kế nhau chuyển tiếp không ngưng nghỉ như thời gian không bao giờ trở lại hai lần bởi dù cho sự việc xảy ra giống hoàn cảnh cũ thì cũng đã bị pha trộn những yếu tố mới cũng như điều kiện thực trạng không giống nhau, "Dưới đời ai rẻ bằng bèo, chờ khi nước lụt bèo trèo lên sen. Dưới đời ai tốt bằng sen, quan yêu dân chuộng dã bèn cũng hư."
Thế nên nào ai lạ gì, sống là gặp nhiều thử thách bởi nếu không có những thử thách làm chi có người được gọi là anh hùng hào kiệt, đâu ai bị liệt vào phường giá áo túi cơm, "Nếu đường đời cứ bằng phẳng mãi, anh hùng hào kiệt có hơn ai!" Hoặc qua những cơn phong ba bão táp, phải đối diện với thăng trầm cuộc sống người ta mới rõ: "Thui ra mới biết béo gầy, đến khi cả gió biết cây cứng mềm;" hay "Gió lung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa hừng mới rõ thực vàng thau." Có câu nói: "Sống là tranh đấu" bởi thực ra, cuộc đời này không gì tự nhiên mà có nên con người phải tranh đấu với thiên nhiên để bảo tồn sự sống còn. Tranh đấu với chính mình thắng vượt những thái độ ươn hèn và sống vươn lên, tranh đấu với những phong ba cuộc đời khi lên voi lúc xuống chó rèn luyện con người, "Cây cao thì gió càng lay, càng cao danh vọng càng dày gian truân;" tranh đấu với bản chất lười lĩnh hầu kiến tạo mức sống khá hơn: "Vất vả mới có thanh nhàn, không dưng ai dễ cầm tàn che cho" bởi thật ra, "Mưu toan thì dễ, sự thành thì không dễ làm nên." Ai không cố gắng bon chen với cuộc đời, dĩ nhiên, tự chấp nhận thua thiệt: "Trâu chậm uống nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ héo." Mặc dầu cũng có những trường hợp may mắn "Chó ngáp phải thịt quay, mèo mù vớ cá rán" hoặc "Thánh nhân đãi kẻ khù khờ," hay "Lù khù có ông Cù độ mạng;" bình thường, dù lười lĩnh đến đâu chăng nữa, "Đói thì đầu gối hay bò, cái chân hay chạy cái giò hay đi." Bởi sự tranh đấu trong cuộc đời không đâu là bến bờ vì có nhiều động lực tùy theo chiều hướng và mục đích cá nhân hoặc những ước mơ hướng thượng hay lòng tham vô đáy của con người nên cuộc đời thường bị coi là ngắn ngủi; ai mà không cảm thấy thế, "Đời người chỉ một gang tay, ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang." Ngược lại, có những trường hợp tréo cẳng ngỗng nơi vị thế kẻ vô liêm xỉ bị mọi người coi khinh, người xưa mai mỉa: "Đắc thời đắc thế thì khôn, sa cơ rồng cũng như giun khác nào."
Con người với bản năng sinh tồn tranh đấu giành sự sống do đó khi đối diện với thực tại sinh động của cuộc đời đã tạo nên thực trạng sống. Hơn nữa, kiếp làm người nào phải chỉ cần sao cho đủ cơm ăn áo mặc là chấp nhận sống yên phận, con người còn mang thêm một nhu cầu thiết yếu tinh thần. Có câu nói: "Khi loài thú ăn no, chúng lo đi ngủ; còn con người, trái lại, khi đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ suy nghĩ." Chính nhu cầu này đã đưa đến những kết quả thay đổi lớn lao nơi cuộc đời và biến điều kiện sống cũng như sự liên hệ của con người trở thành môi trường phức tạp.
Chẳng những cuộc đời hàm chứa tính cách sinh động tạo thành môi trường tranh sống trong đó con người tạo dựng cuộc sống của mình tùy theo cá tính, ý chí, và ước mơ hay mục đích riêng tư, thêm vào đó, con người thì "Phong lưu mỗi người một cách, lịch sự mỗi người một kiểu," không ai giống ai nên khó có bất cứ khuôn mẫu nào phù hợp cho tất cả. Bởi lý do xã hội được tạo thành do những thành phần cá nhân khác nhau, những gì được coi là đặc tính chung của xã hội chỉ có thể nói lên phần nhỏ nào của tập thể chứ không phải mọi người đều mang những đặc tính thực trạng này. Xét về xã hội, Tục Ngữ, Ca Dao trình bày thực trạng tâm lý thường xảy ra trong cuộc đời do đó nhiều câu có vẻ bươi móc những điều không nên hoặc đáng chừa sửa cũng như có những câu mang tính chất khuyên răn người ta nên sống theo. Về mặt luân lý, sự tranh đấu giành sống của con người có thể so sánh với sự ngụp lặn giữa dòng nước để rồi hoặc là xuôi theo bản ngã yếu hèn cho qua kiếp nhân sinh, hoặc bơi ngược lại những ham muốn tầm thường kiến tạo giá trị đáng sống. Kinh nghiệm cho thấy, "Anh hùng đa nạn;" ý thức và cố gắng sống sao cho tốt lành hơn tất nhiên không những phải chiến đấu với bản ngã tầm thường nơi chính mình mà còn phải chống trả những chấp nhận quen sống thấp hèn đầy quyến rũ của cuộc đời. Người dám và quyết chí sống vươn lên mang vai trò thức tỉnh để nhận định những giá trị luân lý và sống theo; mà những giá trị này thường đòi hỏi cố gắng sống ngược lại những giá trị giả dối do cái nhìn thiên lệch được thúc đẩy bởi lòng ham muốn bình thường như danh vọng, lợi lộc tạo nên luôn luôn vây bọc, ảnh hưởng khiến con người lấy đó làm sự thường tình.
Nhìn vào thực trạng cuộc đời, ngay như hình dáng, cách ăn mặc bên ngoài thường gây ấn tượng sai lầm cho người khác buổi ban đầu mới gặp vì "Quen dái dạ, lạ dái áo." Điều này là kết quả của cái nhìn thiên lệch, vội vã nơi con người. Không những thế, tính cách "Giàu trọng, khó khinh" kèm theo tình cảm nhất thời ảnh hưởng không ít tới thái độ giao tế cũng như lối cư xử của một người: "Thương nhau nước đục nói trong, ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ" vì thói thường, "Yêu ai thì bốc lên trời, ghét ai thì dìm xuống đất." Cái nhìn thiên lệch còn bị ảnh hưởng do thói quen "Suy bụng ta ra bụng người" hoặc "Có tật giật mình, có tình kinh trong bụng." Lẽ tất nhiên, không những lòng dạ thế nào thì mình sẽ nghĩ cho người khác như vậy: "Tôm tép thì nhảy lên bờ, bụng mình có thế mới ngờ cho ta;" mà nhiều khi chỉ vì muốn che lấp sự chẳng nên tự bản thân, con người kiếm cách vạch lá tìm sâu, bới móc kẻ khác mong lấp liếm điều thấp hèn nơi chính mình: "Lươn ngắn lại chê trạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm."
Chính vì "Cây vạy ghét mực tàu ngay" đã sinh ra nhiều dư luận hoặc cái nhìn đố kỵ làm nản lòng những người có ý chí muốn sống vươn lên: "Tiểu nhân quen thói phô bày, những điều xấu của kẻ này người kia." Thật ra, sự việc, hành động tự nó không xấu không tốt; xấu hay tốt tùy theo trường hợp và ý định của chủ thể. Tuy nhiên, thói đời đâu cần biết đến lý do hay nguyên nhân phát sinh hành động mà những lời phê phán lại tùy thuộc kẻ mang tình ý thầm kín: "Kẻ có tình ngồi rình trong bụi, kẻ vô tình lủi thủi mà đi." Kinh nghiệm sống cho thấy, một khi đã cố tình để xoi mói một người thì dù cho người đó có tốt lành đến mấy chăng nữa cũng bị cái nhìn thiên lệch lên án một cách sai lầm hoặc bất công. Hơn nữa, thế gian đâu thiếu kẻ "Càng làm đĩ càng già mồm" trong khi lại lắm người tò mò đồn thổi "Bưng miệng vò miệng lọ, ai bưng được miệng thiên hạ." Tuy nhiên, dẫu biết rằng "Mai mưa, trưa nắng, chiều nồm, trời còn thay đổi huống mồm thế gian," nhưng phỏng những ai điềm đạm đủ để khỏi bị dư luận thiên kiến, bất công này ảnh hưởng làm nhụt nhuệ khí?
Người xưa dùng hai chữ "thói đời" nghĩ cũng cay. Ngoài ảnh hưởng nản lòng do những dư luận bất công, sản phẩm của ý đồ hèn kém, con người còn phải đối diện với thực trạng phũ phàng "Cá lớn nuốt cá bé," mạnh được yếu thua "Mèo tha miếng thịt thì đòi, kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng," hay bợ trên đạp dưới, nhiều khi trơ tráo đến độ "Càng quen càng rèn cho đau," hoặc tham bôi "Con gà béo bán bên ngô, con gà khô bán láng giềng." Thói đời đâu ai lạ gì nào "Phú bất nhân, bần bất nghĩa;" nào "Chức thấp dèm xiểm quyền cao, kẻ nghèo đố kỵ, người giàu kiêu căng;" nào bon chen kiếm lợi lộc: "Khó khăn thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em," và "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai;" hoặc vụ lợi "Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly," hay "Lúc làm thì chẳng thấy ai, lúc ăn ông xã ông cai đầy nhà." Có chăng: "Thế gian giúp miệng lao xao, ai cho đồng nào mà đỡ khó khăn." Tệ hơn nữa, "Lúc suy hiệp sức chung lo, đến khi thạnh đạt so đo tranh dành;" rồi hô lên: "Vô tiểu nhân bất thành quân tử."
Gẫm cho cùng, cuộc đời đâu thiếu những kẻ "Được thể dễ nói khoác," mà thật ra có chăng chỉ "Hẳn hoi lỗ miệng" vì "Lòng người ví tựa biển sâu, chỉ trong gang tấc biết đâu mà lường." Nôm na hơn, "Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò." Chính vì thực trạng rắc rối khó nhận định đâu là ngay đâu là gian cho nên dù muốn sống sao cho phải chăng cũng là một vấn đề nan giải. Ngược lại nhiều khi không dám sống thật mà đành chấp nhận giả hình: "Đói lòng ăn trái khổ qua, nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười;" bởi chưng sự thật nhiều khi chẳng những mất lòng mà dám sống thật lại gặp cảnh rầy rà phiền phức: "Cây muốn lặng gió chẳng muốn ngừng;" đến nỗi không thiếu gì người chỉ còn biết chấp nhận trong than van: "Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ;" mà nào đã chắc gì được yên bởi ách oái oăm sống sượng tham, sân, si của thói đời muốn biến mình thành nấc thang cho kẻ khác bước lên đài danh vọng: "Tượng chết vì ngà, điểu chết vì lông." Do đó, có lẽ những ẩn sĩ thời xưa đã có lý khi khoác lên mình chiếc áo an phận tìm chốn thâm sơn vui cùng cây cỏ, chấp nhận xa lánh chốn thế tục bon chen cho khỏi bị phiền hà bởi thói đời đua đòi đố kỵ "Mồ cha cái áo rách này, mất chúng mất bạn vì mày áo ơi." Từ những lý do ấy, không lạ gì, người thức thời nhiều khi có quan niệm và thái độ ngược hẳn những gì được coi là nên của lẽ bình thường, "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người tới chốn lao xao;" bởi cũng chẳng lạ gì thói đời: "Nghèo hèn giữa chợ không ai đến, phú quí sơn lâm lắm kẻ tìm."
Dĩ nhiên sống là có sự liên hệ; mà đã có sự liên hệ tất nhiên phải đối diện với thực trạng cuộc đời, đối diện với cái nhìn thiên lệch, những quan niệm giá trị sai lầm, những lạm dụng, mưu đồ che dấu tham sân si, những thực trạng đau lòng cá lớn nuốt cá bé, mạnh được yếu thua, những ham danh vụ lợi đưa đến gian xảo lừa lọc. Chẳng những xã hội ngoại tại rắc rối chèn ép, thúc đẩy nhử con người chìm sâu trong bể dâu khó bề chống trả, thực trạng nội tâm đầy mâu thuẫn cũng không kém phần dập vùi kiếp nhân sinh. Thử hỏi ai có thể hài lòng với chính mình hoặc ai khi đối diện với bản ngã đã không một lần ăn năn và nhận ra mình tự mâu thuẫn: "Trách thân chẳng dám giận trời, trách thân lắm lắm giận trời bao nhiêu;" điều mình nhận ra chẳng nên lại tự nhào vô gắng sức tranh dành, "Ai xui ai khiến trong lòng, mau chân nhạy miệng mắc vòng thế gian;" còn điều mình thấy nên thực hiện thì lần lữa ngại ngùng để rồi cho vào quên lãng nhiều khi gây ra lắm nỗi bi ai: "Ngồi buồn trách lẫn Ông Xanh, khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười." Ai không cho rằng chạy theo danh lợi cho lắm cuối cùng cũng chỉ: "Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem bóc trần ai cũng như ai;" thế tại sao "Kẻ hòng ra khỏi người mong chui vào" cái vòng danh lợi. Còn những yếu hèn chẳng ra gì phỏng ai chưa một lần cảm thấy: "Bực mình chẳng muốn nói ra, muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời!" Chẳng những thế, đến Trời cũng không thể chiều vừa lòng con người: "Đói thì nặng mặt sa mày, no thời tức bụng trời hay chăng trời!" Nào ai có thể theo kịp sự thay đổi tâm tính ý thích của mình: "Khi vui thì muốn sống dai, khi buồn lại muốn thác mai cho rồi." Hoặc "Chửa được thì hứng bằng rá, đã được thì đá bằng chân." Thế nên con người luôn luôn bị đối diện với điều mình không muốn: "Ghét của nào trời trao của đó," và cũng có thể cầu được ước thấy mà chính điều mơ ước lại là điều bất lợi cho mình: "Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa." Lẽ đương nhiên, "Ai chẳng muốn đẹp, muốn giòn, muốn đi tháo dạ cho mòn lỗ trôn?" Nhưng nào lạ gì "Cực lạc" thì "sinh ai" cho nên con người không bao giờ có thể hài lòng với chính mình: "Sự đời lắm chuyện lăng nhăng, trăm năm để nỗi bất bằng cho ai." Bởi vậy, không nhận thức được thực trạng cuộc đời mà luôn luôn "Kén cá chọn canh" thì chỉ "Chê tôm lại phải ăn tôm, chê rau muống héo lại ôm dưa già." Do đó không lạ gì đã có ước mơ: "Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo." Thật ra, ai nhận thức được điều nên hay không nên tùy theo điều kiện hoàn cảnh mới có thể nhận ra niềm vui của cuộc sống trong sự liên đới với tha nhân cũng như giá trị bản thân: "Cá không ăn câu nói rằng con cá dại, vác cần câu về nghĩ lại con cá khôn."
Xét như thế, nào đâu phải chỉ cuộc đời biến động thay đổi khó lường; cá nhân, khi dám chân thành nhận thực bản thân, lại càng thấy mình cũng khó tự hiểu nổi bởi cuộc sống mang tính chất động và chỉ ngừng lại khi con người về cõi chết. Thế nên, con người cần sửa đổi để được lớn lên trong hành trình tiến tới chân thiện mỹ từ thế hệ này trải qua thế hệ khác. Nguyên tắc xử thế chỉ giúp con người một phần nào quy luật căn bản làm nồng cốt hoặc những nấc thang trong tiến tình sống vươn lên. Bởi đó, điều kiện tiên quyết vẫn tùy thuộc tâm tính con người, hoặc mở rộng chấp nhận thực trạng xã hội kiếm tìm cho mình đường hướng đi tới, hay tự dồn mình vào con đường bất mãn nhìn đời qua cặp kính tối đen của những hố thẳm không mảy may hy vọng có mầm sống tiêu pha tháng ngày một cách vô ích, hoặc tự định giá trị sai lầm về chính mình cũng như cuộc sống để rồi đi lạc vào ngõ chẳng nên, hủy hoại hồng ân đã được làm người.
Kinh nghiệm sống cho thấy, sẽ không hy vọng có được niềm vui ngoài sự liên hệ giữa con người với con người do đó cần sự liên hệ. Tuy nhiên, một thực trạng không thể chối cãi đó là hầu hết sự liên hệ giữa con người đều bắt đầu và được tiếp tục dưới hình thức lạm dụng dẫu về tinh thần hay vật chất và chấm dứt khi thấy người khác đã chẳng còn đem lại lợi lộc gì cho mình, "Thế gian chuộng của chuộng công, nào ai có chuộng người không bao giờ." Bởi đó, sự liên kết hòa hợp giữa hai người trong việc xử thế chỉ có thể xảy ra nơi ý nghĩ vì "Khôn ngoan kiếm ăn người, mạt đời kiếm ăn quanh;" những lạm dụng vật chất hay tiếng tăm, vị thế đều bị coi rẻ bởi tự mình làm mất thể diện "Thua năm quan không tiếc, điếm mắc điếm mới rầu" và mất vị thế bình đẳng trong giao tế: "Nhà giàu yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ vào ra nịnh thần;" hoặc "Người đời ai có dại chi, khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông;" khi đã phải "tùy khúc sông" tức tự mình đã chấp nhận phần thua thiệt do nỗi khó khăn không tránh thoát. Hơn nữa, bởi con người thay đổi nên chỉ có thể có sự liên hệ hòa hợp khi "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" cho nên ý nghĩ và sự liên hệ giữa con người với con người không có chi là bền vững, có chăng chỉ là phiếm diện, nay còn mai mất tùy theo quan niệm và tâm tình của đôi bên. Ngược lại, điều phũ phàng của sự liên hệ như một cá tính tâm lý không thể chối bỏ là nếu thực sự hiểu một người tức là vừa cảm mến và vừa coi thường người đó nếu không muốn nói là coi khinh, "Năng mưa thì tốt lúa đường, năng đi năng lại xem thường xem khinh." Nói cách khác, khi mình mới biết một người nào, mình chỉ có thể thấy được nét phiếm diện nhưng càng có sự liên hệ lâu dài bao nhiêu, mặt trái thật sự của người đó theo thời gian và tình thân biểu lộ trong khi ai không hoan hỉ chung hưởng những điều tốt trái lại nào ai muốn chấp nhận sự chẳng ra gì của người khác. Bởi đó, bài học đầu tiên về xử thế là hãy để người khác an hưởng niềm vui của họ và nếu có thể, giúp họ trong môi trường đó chứ đừng bắt hay ước muốn họ phải theo kiểu cách của mình vì thật ra "Ai làm người nấy chịu." Cho nên, do những sự khác biệt giữa con người và con người, thực tình mà nói, nếu không giả hình, chúng ta cần đối xử với mỗi người một cách khác nhau.
Lấy gì làm quy luật cho con người giao tiếp với sự biến động của cuộc đời trong khi con người cũng thay đổi, lúc thế này lúc thế khác tùy thuộc tình cảm, hoàn cảnh, tâm lý? Nếu chỉ cuộc đời thay đổi, con người không đổi hoặc con người thay đổi và hoàn cảnh cuộc đời bất biến thì may ra những quy luật được tạo thành dựa trên thành phần chuyên nhất hy vọng có thể áp dụng được. Đối diện với thực trạng này, người xưa sâu sắc: "Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên;" hay đơn giản hơn trong câu nói nhưng mang ý tứ khó hiểu: "Đình đám người, mẹ con ta." Đại khái cả hai câu khuyên nhủ: "Người đời phải xét thiệt hơn, đừng nghe tiếng sáo tiếng đờn mà sai." Tuy thế, mới nghe tưởng là dễ mà bắt tay thực hiện không dễ chi bởi sống thế nào để có thể hòa hợp hai trường hợp đối nghịch: "Áo năng may năng mới, người năng tới năng thương;" và "Càng thắm lại càng mau phai, thoang thoảng hoa nhài càng được thơm lâu"? Chính những yếu tố biến động gây ảnh hưởng nhiều khi khó thể hòa giải; do đó Tục Ngữ, Ca Dao được người xưa dùng để dạy con người về phương diện tu thân làm nền tảng cho cách xử thế. Như vậy, Tục Ngữ, Ca Dao về xử thế là phương cách tu thân trong liên hệ xã hội.
Xét đặc tính chung của các động vật hiện hữu trên mặt đất, chỉ con người mới có được mục đích tự mình nhắm tới cho cuộc đời ngoài bản năng sẵn có như sinh tồn, mưu sống... Trần Tuấn Khải cũng đã nêu lên đặc điểm này của con người khi khuyến khích lòng yêu nước: "Loài súc vật chỉ được no béo lấy thân là ngoe nguẩy đắc chí với nhau, còn thiết đâu đến nghĩa vụ với non sông. Vậy làm người phải nên khác loài súc vật." (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến; Quyển Hạ; soạn giả Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng; tr. 14; Xuân Thu xuất bản.) Dĩ nhiên, mỗi người có đường hướng riêng để đạt điểm tới mình chọn; đó là lý tưởng theo ý mình; không có lý tưởng, con người cảm thấy cô đơn nên kiếm tìm, chạy theo những niềm vui nhất thời bên ngoài. Muốn đạt tới lý tưởng đòi hỏi một ý chí kiên quyết "Chặt mà không đứt không rời, người như dòng nước ấy người trượng phu." Cổ nhân khuyên: "Ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai." Chẳng may khi phải đối diện với phong ba cuộc đời, con người nên giữ vững lập trường: "Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo," hoặc "Chớ thấy sóng cả mà lo, sóng cả mặc sóng chèo cho có chừng." Cuộc sống con người không những có ảnh hưởng liên đới tới những người khác và vì không phải chết là hết như các loài sinh thú; kết quả cuộc sống của một người còn ảnh hưởng tới thế hệ hậu sinh mai sau: "Chữ rằng hổ tử lưu bì, làm người phải để danh gì hậu lai." Hoặc "Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ." "Danh gì" là danh dự thực sự một người tạo nên, là "tiếng thơm" nơi Ca Dao: "Người đời hữu tử hữu sinh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm." Một con vật như con trâu chết đi bộ da còn hữu dụng; cuộc đời con người nên góp phần hữu ích cho cuộc đời sau này: "Trâu chết để da; người ta chết để tiếng." Có lý tưởng để tiến tới định hướng cho cuộc đời vẫn chưa đủ; con người cần những điều kiện đạt tới, nói cách khác, đó là lối sống phù hợp với sự liên hệ giữa người và người, cá nhân với cuộc đời. Lối sống này tạm gọi là đạo xử thế hay đạo bình thường. Gọi là "Đạo Bình Thường" vì ai cũng có thể thực hiện được và áp dụng trong đời sống.
ĐẠO BÌNH THƯỜNG
Người xưa có câu, "Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan," không phải là không có lý. Xét về phương diện nhận thức để thăng tiến cuộc đời, con người chỉ cần một yếu tố tiên quyết đó là sự mở rộng tâm hồn để nhận biết mình, dùng sự nhận thức này làm căn bản tu thân, và chọn đường hướng đạt tới lý tưởng đã chọn. Người xưa đã sống; chúng ta đang thực hành một phần nào đó những nguyên tắc này nhưng không để ý do đó được gọi là Đạo Bình Thường. Đạo Bình Thường không đòi hỏi con người phải cắt bỏ căn tính của mình để trốn tránh cuộc đời nhưng trái lại, càng nhận ra bản chất con người của mình bao nhiêu, mình càng có thể thông cảm với người khác bấy nhiêu để nhập thế, hòa mình với đời, với người trong hành trình thâu tóm mục đích. Đạo Bình Thường không tìm cách xóa bỏ hoặc chạy trốn những thử thách cuộc đời với hy vọng có cuộc sống dễ thở, thoải mái hơn mà đối diện với tất cả những biến chuyển để rồi nhận định giá trị đồng thời chấp nhận hay không cho phép những rắc rối cuộc đời ảnh hưởng tới mình. Như vậy Đạo Bình Thường không đòi hỏi diệt dục bởi con người quí nhất là sự tự do, nếu đã không có tham sân si làm sao có dục; không có dục đâu cần tự do chọn lựa; vả lại, muốn diệt dục thì đã dục; mà không có dục lại giống như loài gỗ đá vô tri vô giác, bị đòn không biết đau, gặp nỗi thống khổ không thương cảm. Kinh nghiệm sống cho thấy, chỉ khi nào ăn không biết ngon, nhìn cảnh đẹp không dậy được niềm cảm ứng, không nhận ra giá trị cuộc đời mới có thể hết dục, tức là đã chết. Cũng thế, Đạo Bình Thường không cần điều kiện vô vi mà lại cần mục đích cuộc đời làm bạn đồng hành giúp năng lực sống. Thử xét, một người sống không có mục đích, không ham muốn bất cứ gì thì cũng chỉ như "người Kitô hữu" của Lin Yutang trong cuốn The Importance of Living; (1951) Nguyễn Hiến Lê dịch: Một Quan Niệm Sống Đẹp; đại ý: người không biết thưởng thức vẻ bao la, hùng vĩ, và muôn dạng của thiên nhiên, sự thay đổi của thời tiết đem lại cảnh sắc đẹp đẽ thơ mộng thì có được thưởng tới chốn tuyệt đỉnh thiên đàng cũng cảm thấy chán ngắt bởi giỏi lắm thì thiên đàng chỉ có một mùa, không chi thay đổi. Dĩ nhiên, mục đích của một người có thể là tốt, có thể là xấu. Xét về giá trị làm đẹp cuộc đời, một người sống sao hữu ích cho nhân quần xã hội, hai chữ "mục đích" ở đây được giới hạn trong ý nghĩa sống vươn lên với những tâm tình hướng thượng. Từ chủ đích này, Đạo Bình Thường trước tiên cần tự nhận biết bản chất thực sự con người.
Ai không nhận ra: "Ăn mày là ai, ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày." Con người là chốn hội tụ của tất cả những biến động, thay đổi, thánh thiện tốt lành cũng như tội lỗi xấu xa, những ý hướng cao vời hoặc tâm tình yếu hèn nhơ bẩn; có thể nói, một người vừa là một vị thánh cũng vừa là một con người ươn hèn, đê tiện sống chung trong một thân xác nếu dám chân thành nhìn ngay thẳng tận đáy lòng mình. Nhưng ít nhất con người có khả năng nhận ra những điều đó đồng thời có tự do, một đặc ân của Thượng Đế ban cho mà chính Ngài cũng tôn trọng, để chọn lựa, quyết định mình sẽ trở nên như thế nào tùy thuộc ý muốn của mình. Khả năng nhận định và sự tự do chọn lựa này chẳng những phân định ranh giới giữa con người và các loài cầm thú mà còn giúp con người nhận ra giá trị cuộc sống, hồng ân sự sống, đồng thời tạo dựng giá trị riêng cho cuộc đời mình. Thế nên "Ngọn đèn được tỏ trước khêu bởi mình;" những quyết định, sự thăng tiến cũng như lối sống ảnh hưởng mình trước tiên theo sự thực hành mình chọn.
Ngoài ra, con người còn bao gồm những tính chất lẩm cẩm lỉnh kỉnh đối nghịch nhiều khi gây nên hành động tương phản với chính bản thân hoặc quan niệm hay lý tưởng đang theo đuổi. Chẳng hạn, ai không nhận thức được nóng giận mang nhiều điều thiệt hại; thế nhưng ai đã không một lần: "Ngờ đâu quá giận mất khôn, khi vui đã vậy khi buồn làm sao." Ai chưa bao giờ muốn được người khác để ý đôi khi đến nỗi trở thành "Người vụng đan thúng giữa đường;" hoặc dù cho ở vị thế nào, ai chẳng có lúc nhận ra mình bị ở trong vị thế dở khóc dở cười: "Lỡ quan lỡ lính lỡ làng, lỡ bề dân giả lỡ hàng công danh." Những tính chất lẩm cẩm đối nghịch ấy đôi khi còn trở nên quá tệ có thể so sánh với trường hợp "Bán ruộng nhà kiện ruộng chùa"... hoặc có thể chân thành mà nói như Phaolô tự thú trong Kinh Thánh: "Vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi khinh ghét;" (Kinh Thánh; Roma 7: 15b). Hơn nữa, thử hỏi ai không có tật xấu nào đó dù nhỏ mọn đến đâu và cảm thấy tự xấu hổ vì biết bao năm tháng ngày giờ cố chừa sửa nhưng chứng nào vẫn tật nấy, vô phương trị liệu?
Mở rộng tâm hồn để nhìn lại xem thực sự mình như thế nào, những điều tốt lành, những cá tính chẳng nên có ra sao, ai cũng có thể thực hiện được. Từ khởi điểm nhận biết bản thân và kinh nghiệm về những lẩm cẩm vô phương cứu chữa nơi kiếp nhân sinh dẫn đến sự chấp nhận chính mình và tìm cách vươn lên, cổ nhân nhẹ nhàng: "Ai ơi chớ vội cười nhau, ngắm mình cho tỏ trước sau hãy cười." Qua kinh nghiệm "ngắm mình cho tỏ trước sau" một điều hiển nhiên được nhận thức đó là sự đối xử, thái độ của người khác đối với mình có thể là phản ảnh chính thái độ của mình. Người khác là chiếc gương mà mình đang soi; nếu nhìn thấy những điều tốt lành nơi kẻ khác, mình là người tốt, và nếu chỉ nhìn thấy những điều không nên không phải nơi họ, mình có thể là kẻ chẳng ra gì. Bởi vậy, nào có lạ chi, "Ai ơi xin chớ cười nhau, cười người hôm trước, hôm sau người cười." Thế nên, có thể rằng "Trách người một trách ta mười, bởi ta bạc trước cho người tệ sau."
Ai cũng chỉ là người nên mang những tính chất căn bản người giống nhau: khó hài lòng với thực tại "Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, trần có vui sao chẳng cười khì" (Nguyễn Công Trứ). Mặc dầu không ai giống ai tùy theo hoàn cảnh, vị thế, nhưng tựu trung, tính chất người luôn luôn gặp lỗi lầm và khó chừa sửa là chuyện bình thường vẫn đeo theo: "Thay quần thay áo thay hơi, thay dáng, thay dấp, nhưng người khôn thay." Thế nên sự khác biệt đáng phục nhất nơi con người là do sự nhận biết mình, chấp nhận, tha thứ cho chính mình, và cố gắng sống vươn lên hay không. Tâm tính, thái độ, lối sống một người tùy thuộc rất nhiều vào sự nhận thức này. Dĩ nhiên, nhận thức được mình thế nào là bước căn bản; phương cách nào nên theo để tạo giá trị cuộc đời đạt tới lý tưởng mình mong ước giữ vai trò quan trọng không kém cặp đường rầy dẫn những toa tàu qua các trạm. Tuy nhiên, bởi khó ai có thể hài lòng với chính mình nên dẫu thế nào chăng nữa, cũng không thể nào có được một đường hướng tuyệt vời cho mọi cá nhân khác biệt noi theo. Vấn đề còn lại tùy thuộc sự nhận thức bản chất từng người.
Kinh nghiệm sống cho thấy, "Có bột mới gột nên hồ;" nên lý tưởng, chí hướng là căn bản điều khiển tất cả hành vi và lẽ sống một người. Lý tưởng, chí hướng lại được tạo thành bởi những nhận thức từ thực tại cuộc sống có thể do những bất công dấy động tâm hồn hướng thượng tìm cách nâng cao cuộc đời, hoặc những gương sáng nơi người đồng thời hay do tiền nhân để lại. Cũng thế, trải qua bao thời gian, những châm ngôn luân lý sống, lời hay ý đẹp được khuôn đúc do kinh nghiệm thực tiễn nơi cuộc đời là gia tài nhân bản người xưa để lại đáng cho hậu thế noi theo: "Muốn may thì phải có kim, muốn hay thì ắt phải tìm người xưa." Những khuôn vàng thước ngọc khuyến khích con người sống đức độ, nhân nghĩa, cần mẫn, khó nghèo v.v... không thể bỏ qua nếu một người thực sự mang ước vọng làm đẹp cuộc đời chẳng những cho mình mà còn cho người khác. Những khuôn thước luân lý này là mẫu mực tu thân, là đường lối cho một người giữ đạo làm người để từ đó nhận thức bản chất con người rồi mới đặt vấn đề xử thế bởi một trong những đặc tính của xử thế là tạo đức cho mình. Hơn nữa, xử thế còn đòi điều kiện suy tính thiệt hơn chứ không phản ứng vội vàng, nghĩ đến mục đích và giá trị cuộc đời chứ không thỏa mãn sự bất mãn nhỏ nhoi để rồi "Giận con rận đốt cái áo."
Không phải cứ đặt mục đích và cố gắng đạt tới là có thể thành công mà cần biết giới hạn mục đích cũng như tiến trình phải theo tùy thuộc năng lực, khả năng và điều kiện mình có thể thực hiện. Đã biết bao người cố gắng theo đuổi những mơ ước viễn vông đến nỗi tiêu hao ngày tháng cho thành quả mộng tưởng, "Đố ai lượm đá quăng trời, đan gầu tát biển, ghẹo người trong tranh." Dĩ nhiên, muốn thành công cần bền chí, kiên gan, "Làm thì làm cho trót, gọt thì gọt cho trơn," hoặc "Ai ơi đã quyết thì hành, đã đan thì lặn tròn vành mới thôi," với tâm tình nhẫn nại chăm chuyên "Ở như cây quế giữa rừng, cay không ai biết, ngọt đừng ai hay;" không khoe khoang khinh bạc: "Thổ công vườn hoang chê vua bếp lọ dầu;" bởi "Kém đạo đức ngôi cao là họa, thiếu trí khôn việc cả khó thành." Lẽ đương nhiên, "hữu xạ tự nhiên hương;" người kiên trì trước sau rồi cũng đạt điều ước vọng: "Thử đem ngọc tốt ngâm bùn, ngọc kia cũng vẫn trắng trong không mờ." Đàng khác, sự kiên trì nhẫn nại còn đòi hỏi một nhận thức đặc biệt về giá trị của sự phê bình hay ý kiến nơi người khác. "Được người thân ái phê bình, là ân sư đấy giúp mình sửa sai;" tuy nhiên, không thiếu gì lời ra bàn vô theo nhiều ý đồ khác nhau về một vấn đề... Thật ra, dù cho lời phê phán có sai thì ít nhất người nghe cũng có thêm câu trả lời theo khía cạnh mới, chẳng có chi thiệt hại bởi: "Người mà sợ tiếng phê bình, sao thấy khuyết điểm để mình sửa sai." Như vậy, càng kiên trì lại càng cần: "Làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ phải dò nông sâu." Thế nên: "Hơi đâu mà giận người dưng, bắt sao được cánh chim rừng nó bay;" và có nên chăng: "Điều lành thì nhớ, điều dở thì quên."
Tóm lại, nhận biết và chấp nhận con người thực sự của mình, học hỏi nơi người xưa những kinh nghiệm sống hợp nhân bản và chọn một đường hướng sống vươn lên trong liên hệ xã hội sao cho "Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa;" đó là lối sống bình thường ai cũng có thể thực hiện. Nói cách khác, Đạo Bình Thường là lối sống hợp thời hợp cảnh "Đất có chỗ bồi chỗ lở, ngựa có con dở con hay; coi thì mà ở, chọn theo cỡ mà xài;" đồng thời chu toàn sứ mạng làm người hữu ích cho nhân quần xã hội không những khi sống mà còn để lại tiếng thơm cho hậu thế mai sau: "Người đời hữu tử hữu sanh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm."
NỮ GIỚI
Viết về sự khác biệt giữa hai quan niệm Đông và Tây khi bàn tới ấn tượng của người Việt đang sống ở Tây Phương thấy sự tự do của người phụ nữ nơi đây ít lệ thuộc vào uy quyền người chồng cũng như luật pháp Hoa Kỳ dành rất nhiều quyền cho phụ nữ và trẻ em... và chồng không có toàn quyền đối với vợ..., linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, S. J. cho rằng "Những phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam bắt nguồn từ Nho Giáo... Lòng hiếu thảo với cha mẹ phải được coi trọng hơn tình yêu vợ chồng... Chính vì vậy mà người vợ bị hy sinh vì địa vị của người mẹ chồng trong gia đình" (Việt Nam Quê Hương Tôi; trang 82). Trong khi đối với Tây Phương, "Xã hội không có giai cấp và đặt nền tảng trên sự bình đẳng. Mọi người đều có một giá trị như nhau, đều bình quyền với nhau bởi vì mọi người đều là con của Thượng Đế" (trang 82-83).
Chính vì quan niệm bình đẳng giữa hai phái, người Tây Phương có luật cấm không được đánh phái nữ. Thực tế mà nói, 60 phần trăm đàn ông Tây Phương vẫn còn đôi khi đánh vợ dẫu luật pháp nghiêm cấm đến nỗi bất cứ vì lý do gì mà thượng cẳng chân hạ cẳng tay với phái nữ, dân râu mày đều bị coi là trái; lý do: đàn bà không đủ năng lực bảo vệ chính mình. Đây chỉ là trên luật pháp theo cái nhìn chung. Thực ra, đâu thiếu gì người đàn bà khỏe hơn đàn ông, hoặc chấp nhận bị đòn, mà nhiều khi còn ngược lại... để rồi cảnh gà mái đá gà cồ chẳng phải là hiếm hoi trong cuộc đời.
Xã hội và tâm não Tây Phương được dựa trên Kinh Thánh: "Thiên Chúa tạo dựng nên người đàn ông để cai quản mọi tạo vật Ngài đã tác thành. Và Ngài đã lấy xương sườn cụt của người đàn ông tạo nên người đàn bà" (K.N. 2: 22-23). Theo các nhà thần học xét về giá trị tương quan của phái nam và phái nữ, câu Kinh Thánh này nói lên sự bình đẳng và giá trị kết hợp của hôn nhân, vợ chồng trở nên một, không ai hơn ai, người nọ bổ túc cho người kia và cùng nhau xây dựng cuộc sống chung... Hai người đã trở nên một thì không còn gì được coi là của riêng chồng hay riêng vợ mà chính ngay cả thân xác, theo thần học hôn nhân Công Giáo, người này có quyền trên thân xác người kia... Ngoại trừ những trường hợp bất thường thiếu sự hòa hợp hay có những lý do riêng không thể được chấp nhận.
Người đàn bà được nhìn theo giá trị bình đẳng tất nhiên bao gồm bình quyền; do đó người Tây Phương dễ nói lên những đặc tính đáng ca tụng hoặc nhận xét vô tư nơi đối tượng khác giống hơn. Dĩ nhiên, dẫu cho tới ngày nay, nhân loại sắp bước vào thế kỷ 21, đàn ông vẫn còn đang là phái tính dẫn đầu xã hội. Có những bộ lạc theo chế độ mẫu hệ; người đàn bà làm chủ gia đình; của ngoài đồng thuộc về người chồng nhưng khi đã đem về tới nhà thì đương nhiên trở thành của vợ... Con cái theo họ mẹ và chỉ đàn bà mới được chấp nhận làm tộc trưởng (Tôi không nhớ rõ bộ lạc nào thuộc về người Thượng tại Việt Nam, hoặc là Cà Răng Căng Tai, hoặc là Thái trắng); tuy nhiên, chế độ mẫu hệ này không được phổ biến.
Người Tây Phương có nhiều câu nói, nhận xét về phái nữ qua thơ văn, truyện, kịch, khó có thể biết được cho hết. Trong giới hạn nhỏ nhoi, tôi tạm ghi lại một vài lối nhìn, nhận xét... không thể được gọi là mẫu mực, mà chủ đích chỉ để dẫn chứng cho cái nhìn về nữ giới của Tây Phương.
L. F. Cervantes cho rằng "Vai trò căn bản của phụ nữ nơi bất cứ xã hội nào là để thiện toàn chính mình về những phương diện thể lý, tình cảm, tâm não, luân lý và đạo đức cũng như tôn giáo. Nữ giới được mời gọi cùng với nam giới phát triển nhân tính con người tiến tới sự hoàn thiện nhất. Từ sự khác phái tính với nam giới, phụ nữ có những đặc tính và tài năng khác biệt hòa hợp với phái nam, và vì thế vai trò của nữ giới trong xã hội, một cách lý tưởng, bao gồm tính chất sinh động của mọi tài năng để phát triển xã hội tới mức tối đa. Tuy nhiên, khi nói về nữ giới, nhiều vấn đề cần được để ý tới như môi trường xã hội nào được đề cập, người phụ nữ đó ở trong giai cấp nào vì vai trò của họ thay đổi tùy theo tuổi tác, giáo dục, giàu nghèo, độc thân hay trong cuộc sống đôi bạn, có con hay không và nhiều hay ít con, chồng ở nhà hay đi vắng; đồng thời người phụ nữ đi làm hay chỉ chăm sóc nhà cửa, gia đình. Nếu xét về vấn đề xã hội thì lại cần được nói đến loại xã hội nào, thành phố hay thôn quê, trong môi trường nông nghiệp hay kỹ nghệ, số dân đông hoặc ít, nơi thời bình hay thời chiến và có bị ảnh hưởng những xáo trộn, nề nếp của hệ thống gia đình hay không. Xét thế, còn nhiều nguyên nhân và lý do ảnh hưởng tới vai trò một người phụ nữ trong xã hội." (New Catholic Encyclopedia; Vol. 14 Jack Heraty & Associates, Inc. Palatine Ill. U. S. A.; 1981)
Qua tư tưởng của nhà văn nhà báo, lối nhìn phát xuất tự nhiên hơn tùy theo kinh nghiệm cá nhân, để ca tụng hoặc châm biếm. Với lối phát biểu của họ, bất xét người phụ nữ được khuôn mẫu, giáo dục ra sao, cái nhìn ít lý luận đầy cảm nhận này nói lên tính chất đa dạng của phụ nữ. Lẽ đương nhiên không ai có thể tự hào là người có thể biết hết về phụ nữ qua kinh nghiệm sống riêng của mình.
Đã là người, ai cũng có những tính nết hay và dở, do đó cái nhìn của người khác về mình đều có những điểm đúng hoặc khó lọt tai. Đối với kinh nghiệm về phụ nữ cũng thế, những câu nói, cảm nghĩ, hay tư tưởng của mỗi người nói lên một khía cạnh nào đó tùy theo kinh nghiệm của chính họ với một số phụ nữ nào đó. 426 năm trước kỷ nguyên, Euripides trong Andromache viết: "Đối với đàn bà, yêu thương là tất cả." Tâm lý bình thường, câu "Yêu nên tốt, ghét nên xấu" có lẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của nữ giới chăng vì phụ nữ phản ứng theo tình cảm nhiều hơn lý trí nên khi yêu thương ai, dù điều chẳng ra gì của người đó cũng trở thành dễ mến. Jacques Deval nói lên nhận xét này trong mục tổng kết tin tức ngày 10 tháng 5, 1954: "Đàn bà không bao giờ dùng trí thông minh của họ ngoại trừ khi họ tính toán sự chi tiêu." W. Sornerset Maugham (1921) nói lên lòng độ lượng của nữ giới: "Người đàn bà sẽ luôn luôn hy sinh nếu bạn tạo cho nàng cơ hội. Đó là cách thức bày tỏ được ưa chuộng bởi lòng khoan dung độ lượng của họ." Trong khía cạnh tình yêu, "Người đàn bà có thể trở nên bất cứ gì mà người yêu của họ muốn nàng trở thành" (Tommy and Grizel; J. M. Barrie; 1813). Hơn nữa, "Tính chất sinh động biến đổi qua nhiều trạng thái khác nhau là một trong những đức tính của người đàn bà; nó giúp nàng luôn luôn tươi mát và gây cảm giác mới mẻ tránh cho người đàn ông có ham muốn đa thê. Thế nên, khi một người đàn ông có được một người vợ hiền (good), chắc chắn rằng họ sẽ có được tất cả" (The Glory of Grey; G. K. Chesterton; 1910). Xét như thế, "Cả cuộc đời của người đàn bà trở thành diễn tiến của sự quyến rũ lôi cuốn" (The Broken Heart; Washington Irving; 1819) Và để có được sự lôi cuốn, "Đàn bà giống như những giấc mơ, họ không bao giờ giống như những điều bạn ước muốn" (Each in His Own Way; Luigi Piradello; 1924). Một điều khác biệt với đàn ông là "Đàn bà thường suy tính về thành quả trong sự yêu thương nên ít khi họ cảm thấy mích lòng" (Lacon; Charles Caleb; 1825). Nên lắm lúc bạn cảm thấy ngỡ ngàng về phản ứng êm dịu của họ trong khi lại ăn năn bởi thái độ nóng sốt quá đáng của mình. Lawrence Durerell (1957) cho rằng "Đối xử với đàn bà, chỉ có 3 vấn đề được đặt ra, hoặc là bạn yêu nàng, hoặc là bạn chịu khổ vì nàng, hay bạn biến nàng thành văn chương." Sức mạnh của đàn ông được biểu lộ qua ý chí, lòng kiên quyết nhưng ngược lại, "Sức mạnh của nữ giới được biểu lộ khi nàng võ trang bằng những sự yếu ớt của mình" (Letter to Voltaire; Marquise du Deffand; 1759).
Lẽ đương nhiên, đã là người làm sao tránh được những điểm khiếm khuyết. Một người cho dầu tốt lành mấy đi chẳng nữa thế nào cũng có những điều chính họ không thích, không muốn ngay nơi bản thân. Hơn nữa, bình thường mà xét, bản tính con người thì mỏng dòn do đó dễ dàng bị sai lầm, hoặc mang một số tính xấu nào đó được coi như cố tật. Phái nữ dưới con mắt người Tây Phương dầu được coi là ưu tiên nhưng không phải vì thế mà không bị đem ra mổ xẻ thẳng thắn. Như một đặc tính chung, phái nữ đa số ít dùng lý luận mà bị ảnh hưởng phần nhiều bởi cảm tình, cảm giác nhất thời. Emile Gaboriau trong cuốn Monsieur Lecoq (1869) đã viết: "Phái nữ diễu cợt với thực tại. Chỉ cho họ mặt trời và nói cho họ biết bây giờ là ban ngày; ngay lập tức, họ nhắm mắt lại và nói không phải, bây giờ là ban đêm." Chính vì ít khi dùng đến lý luận, nói theo William Hazlitt (1823) "Không bao giờ dùng đến lý luận," nên ít khi họ thấy họ sai lầm. Đặc tính đứng núi này trông núi kia cao rất mạnh mẽ nơi người đàn bà nên rất khó cho họ cảm thấy hài lòng với thực tại. Bởi vậy họ nhìn thấy nhiều sự sai lầm nơi chính gia đình của họ và cứ tưởng các gia đình khác hạnh phúc hơn, "Đối với các bà, còn gì lầm lỗi hơn ngoài gia đình của họ" (Andromache; Euripides). Một cố tật của phụ nữ là chỉ thích nhìn nếu không nói là bới móc những điều thiếu sót nhỏ mọn không đáng để ý trong khi chẳng đếm xỉa gì đến những việc lớn lao hơn bạn làm cho nàng; "Đàn bà không bao giờ thấy điều bạn làm cho họ; họ chỉ thấy những gì bạn không làm" (La Paix Chez Soi; Georges Courteline; 1903). Ngoài ra, "Tất cả phụ nữ còn độc thân đều tốt lành nhưng sẽ trở thành những người tệ hại khi đã là vợ" (Ngạn ngữ Anh). Bởi tham vọng của phụ nữ leo thang cấp lũy tiến: "Thoạt tiên, nàng không ước ao gì ngoài một người bạn đời nhưng vừa ngay khi có chồng, nàng nước muốn tất cả mọi sự trên thế gian" (Country Town Saying; Edgar Watson Howe; 1911). Beautmont và Fletcher có cùng đồng quan điểm trong cuốn The Scornful Lady (1614): "Làm gì có luyện ngục, chỉ có sự khổ ải phát sinh từ đàn bà mà ra." Có lẽ Émile Gaboriau còn cay đắng hơn về kinh nghiệm liên hệ với đàn bà: "Phụ nữ không bao giờ thú nhận, ngay cả khi họ hoàn toàn biết rõ chính họ lầm lỗi. Họ có bao giờ chân thành đâu" (Monsieu Lecoq; 1869). W. S. Gilbeart thậm chí ngậm ngùi hơn: "Trong tất cả những sự đau đớn khổ ải giáng họa trên kiếp người đều có dính líu tới đàn bà" (Fallen Fairies; 1909). Có phải đó là kết quả của sự tham vọng nơi nữ giới chăng như O'Henry bày tỏ: "Điều mà nữ giới muốn là điều mà bạn không có. Nàng càng muốn hơn những gì hiếm hoi." Có lẽ chính vì vậy không lạ gì nữ giới thích đeo kim cương hột xoàn. Vật chất đã thế, những chuyện chẳng ra gì lại là niềm vui của họ: "Hình như phụ nữ cảm thấy vui sướng nói xấu (sick talk) người khác" (The Phoenician Women; Euripides; 411 B. C.). Nói hành nói tỏi thành quen nên đa nghi lời người khác là chuyện bình thường nơi nữ giới. Tuy nhiên điều ngược hẳn với tính chất đa nghi bắt nguồn từ tật xấu rỗi miệng lại là thích người khác khen mình: "Phụ nữ nghi ngờ tất cả những gì bạn nói ngoại trừ những lời bạn khen họ" (The Note Book; Elbert Hubbard). Bởi thích được khen nên phụ nữ rất ít khi khen người khác đẹp, do đó "Nếu một phụ nữ đẹp chấp nhận rằng người đàn bà khác đẹp, chúng ta có thể kết luận người đàn bà đó phải đẹp gấp mấy nàng" (La Bruyère, Characters; Henri Van Laun; 1688). Nhìn vào những điều "chẳng nên" bình thường nơi nữ giới, có lẽ không ai ngỡ ngàng với câu nói quá đáng của Nietzsche "Lầm lỗi thứ nhì của Thượng Đế là đã tạo dựng đàn bà" (The Antichrist; 1888). Không hiểu quí vị râu mày nghĩ gì về sự lầm lỗi này của Tạo Hóa! Có điều, 200 năm trước kỷ nguyên, Plautus đã hô ầm lên rằng: "Này bạn, không thể nào kiếm được người đàn bà tuyệt hảo đâu; có chăng chỉ là vấn đề so sánh giữa những sự khùng điên" (The Pot of God). Âu đó cũng là một câu an ủi lỡ khi có sự phiền hà.
Xét thế, nếu chỉ nhìn vào những điểm tốt lành, nét dịu dàng, lòng khoan dung độ lượng trong sự bày tỏ chân thành theo quan điểm Tây Phương thì các ông chồng đúng là đang sống nơi thiên đàng hạ giới. Ngược lại, chỉ đếm xỉa tới những điều không nên không phải được trắng trợn nói ra, các ông chồng mới thật là đáng thương làm sao, hỡi các đấng mày râu!
NỮ GIỚI VIỆT NAM
Nói về hôn lễ, Toan Ánh cho rằng hôn lễ người Việt theo qui thức của Trung Quốc với đôi sự thay đổi những lễ nghi do Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Châu truyền sang Việt Nam đầu tiên. (Phong Tục Việt Nam Từ Bản Thân Đến Gia Đình; Toan Ánh; 1969; tr. 336). Có lẽ vì ảnh hưởng của Trung Quốc nên câu Ca Dao về Cù Lao Chín Chữ (Cửu Tự Cù Lao) bao gồm chín chữ Hán chỉ về công đức của cha mẹ:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù Lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Cù Lao Chín Chữ gồm có: "Sinh (sanh, đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú mớm), trưởng (nuôi cho lớn), dục (nuôi dạy, giáo dục), cố (trông nom), phục (xem tính mà dạy bảo), phúc (gìn giữ);" (Việt Nam Tự Điển, Quyển Thượng; Lê Văn Đức; Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn; 1970; Phần II Phụ Lục Tục Ngữ, Thành Ngữ, Điển Tích. Tr. 82.)
Xét theo công ơn của cha mẹ đối với con cái và bổn phận của con cái đối với cha mẹ thì con nào cũng như con nào. Con nào cũng cần lấy sự báo hiếu, đền ơn công đức cha mẹ làm đầu, vì con nào cũng được cha mẹ nuôi nấng dưỡng dục đầy đủ với Cù Lao Chín Chữ. Tuy nhiên, điều khác biệt từ quan niệm của con người làm nảy sinh lắm ý hơn kém. Ngày xưa các cụ nhà ta không chấp nhận quan đàn bà nên có lẽ vì thế mà thân phận nữ giới Việt Nam không được coi trọng chăng. Phận nữ nhi được xác định: "Con gái ngoại tộc, đánh tốc đuổi đi." Con gái ngày xưa không được cho đi học bởi đã có ý nghĩ sai lầm cho rằng con gái biết chữ chỉ để viết thư cho trai. Nói như thế cũng chỉ là đại khái vì ngày xưa đâu thiếu gì đàn bà biết chữ Nôm chẳng hạn Thị Lộ bán chiếu sau làm vợ Nguyễn Trãi; Đoàn thị Điểm soạn Truyền Kỳ Tân Phả và dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn ra chữ nôm.
Nhìn vào cuộc đời nữ giới Việt Nam từ nhỏ tới trưởng thành, lập gia đình... đến tuổi già qua Tục Ngữ, Ca Dao, thân phận họ bồng bềnh với hy sinh và thua thiệt. Nữ giới bị coi là phụ thuộc: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử." Theo quan niệm ngày xưa, phụ nữ may ra có được chút uy quyền vào thời làm mẹ chồng thì lại trái ngược hẳn với thân phận đã bị lệ thuộc của mình trước đây mà trở nên khắt khe tới độ độc ác với nàng dâu. Có lẽ chính vì quan niệm nam tôn nữ ti đã tạo nên những bà mẹ chồng khắc nghiệt bởi mình đã không được đối xử xứng đáng với quyền làm một con người do luôn luôn bị lệ thuộc nên khi có cơ hội, tiềm thức khao khát bày tỏ uy quyền đã bị lạm dụng đến độ tàn ác với con dâu hoặc do kinh nghiệm mình đã bị đàn áp khốn khổ nên cũng muốn kẻ khác chịu đày ải như mình. Nói như thế không phải chỉ các bà mẹ chồng mới có những người tàn ác với con dâu; có nhiều bố chồng còn quá cả mẹ chồng bởi quan niệm "Con dâu đích thực mẹ cha mua về." Đối với cuộc sống cả đời không bước ra khỏi cổng làng thì chữ "mua" đã trở thành án nặng nề cho thân phận phụ nữ, nhất là vô phúc gặp trường hợp đôi bên cha mẹ có điều gì kình chống nhau hay tham vọng hốt của hồi môn không thành.
Ngay từ khi mới lọt lòng, nữ giới đã bị coi "Nữ sanh ngoại tộc." Câu nói thoạt nghe đơn giản nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời một người. Bởi đã bị coi là "ngoại" thì sao cho có được sự đối đãi đồng đều như những thành viên khác trong gia đình mà vì "Con gái là con người ta" nên người xưa còn không dạy nghề cho con gái đối với những nghề nghiệp cần nhiều kinh nghiệm lưu truyền.
Nhìn phiếm diện bên ngoài, nữ giới từ thuở còn nhỏ đã mang vẻ yểu điệu ngược hẳn với nam giới. Con gái nhẹ nhàng, đầy vẻ yếu kém hơn con trai; ngay những trò chơi hồi nhỏ, chơi làm bếp, ru em, bế em, bán hàng v.v... cũng ngược hẳn với những trò chơi đầy sinh động ồn ào của trẻ khác phái... Lớn dần thì lại được dạy dỗ theo nề nếp tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh và rồi ảnh hưởng khuôn mẫu quan niệm Tam Tòng.
Tứ đức đối với người đàn bà cũng khác với tứ đức của người đàn ông. Đối với nam giới, hiếu, đễ, trung, tín: hết lòng thờ cha kính mẹ; yêu mến và binh vực anh chị em; hết lòng với vua với nước; giữ lời hứa. Đàng khác, công, dung, ngôn, hạnh của nữ giới nếu nhìn theo khía cạnh xã hội, phần nào đó bị gò bó trong một khuôn mẫu nhỏ hẹp. "Việc nhà phải khéo léo, mặt mày nghiêm chỉnh, ăn nói khôn ngoan lễ phép, nết na đằm thắm" (Việt Nam Tự Điển; Lê văn Đức; Quyển Hậu; tr. 1475); "Phận gái tứ đức vẹn tuyền, công, dung, ngôn, hạnh giữ gìn chớ sai" nhiều khi ảnh hưởng khiến con người không dám sống thật thà, chân thành và cởi mở. Phỏng rằng khi cơn giận vì lý do nào đó bùng lên mà cố gắng giữ cho được đằm thắm thì phải là bậc đại thánh hoặc người không dám sống thật. Tuy nhiên, nếu không nhìn về khía cạnh gò bó nơi tứ đức của nữ giới mà chỉ xét theo tầm mức ảnh hưởng tốt lành thì công đức của tứ đức không phải là nhỏ; ngược lại chính sự ảnh hưởng này đã ngăn cản phụ nữ Việt Nam thi thố tài năng để chung tay kiến tạo xã hội thăng tiến hơn trong tinh thần bình đẳng. Con người, dù bất cứ là ai, phải được coi trọng hơn mọi sự phụ thuộc.
Đồng thời quan niệm Tam Tòng cũng chắn tầm hướng vươn lên nơi nữ giới. "Tại gia tòng phụ" để rồi công việc làm ăn, khuôn mẫu gia đình, con cái, đặc biệt con gái chỉ biết cắm đầu cắm cổ làm theo cho dù nhận ra những điều không nên hoặc có thêm sáng kiến cũng không có cơ hội hay không được chấp nhận đóng góp vào để cải tiến nếp sống gia đình... "Xuất giá tòng phu" nhiều khi làm hư hại người chồng. Chữ tòng không chỉ có nghĩa chồng đi đâu vợ theo đó; mà dù mang nghĩa vợ đi theo chồng cũng chỉ có tính cách một chiều. Chữ tòng, theo Lê văn Đức, có nghĩa "nương theo chồng" (Việt Nam Tự Điển Quyển Hạ; tr. 1429). Quan niệm nương theo chồng, lệ thuộc vào chồng làm người vợ phần nào ỷ lại, ít dụng suy tính bởi đã có người lo lắng hết mọi sự. Chẳng may những chuyện bất thường xảy đến cần sự tính toán, quyết định, một người vì không quen tính toán chỉ giải quyết sự việc theo toan tính nhỏ mọn nhất thời mà thiếu hẳn nhận xét sâu rộng có thể ảnh hưởng trong tương lai do quyết định giải quyết sự việc theo nhu cầu hiện tại. Chẳng những thế, chữ tòng một phần nào còn làm hạ giá nữ giới. Toan Ánh viết: "Nền luân lý cổ truyền Á Đông trọng nam khinh nữ và bắt đàn bà phải tùy thuộc đàn ông... Lại nữa, đàn ông có quyền bỏ vợ, đàn bà không có quyền bỏ chồng. Luật lệ đặt ra thất xuất để bó buộc người đàn bà, nghĩa là đặt ra bảy tội theo đó chồng có thể bỏ được vợ..." (Phong Tục Việt Nam; tr. 286).
Phan Kế Bính cũng nói lên điều tương tự trong cuốn Việt Nam Phong Tục: "Chỉ người đàn ông được tự do, nghĩa là muốn chơi bời gì thì chơi, muốn đi lại đâu thì đi lại, người vợ không có quyền ngăn cấm được, mà vợ hơi có điều gì trái gia pháp thì chồng có thể chửi được. Chồng có thể lấy năm, bảy vợ, mà vợ chỉ được phép lấy một chồng" (Sống Mới; 1983 tr. 75). Thật khó thể hiểu tại sao có được quan niệm "tòng phu" như thế; có thể rằng nó được sinh ra bởi thiếu sự hợp tác, nói lên tiếng nói của phụ nữ từ bao lâu nay. Hơn nữa, một trong tam tòng là "Phu tử tòng tử" càng nói lên thân phận một đời lệ thuộc của nữ giới, "Tam tòng tứ đức hãy còn ghi, bé nương cha mẹ, già thì theo con." Đa số những câu Ca Dao nói về nữ giới đều khuyên dạy phận gái giữ tam tòng tứ đức; phỏng rằng Ca Dao được đặt ra cũng do nam giới? "Thông kinh sử ấy phần nam tử, giữ nết na là phận nữ nhi, sống sao trọn chữ xướng tùy, sau này em khỏi lỗi nghì với mẹ cha." Có lẽ không nên quá khắt khe với quan niệm độc quyền của nam giới khi truyền tụng lại những quan niệm gò bó trói buộc làm hại đến muôn ngàn cuộc đời của nữ giới trong điều kiện quan niệm lệ thuộc đã ăn sâu tận tâm khảm bởi nữ giới không chịu lên tiếng nói và không dám tranh đấu cho quyền làm người của mình; vả lại có thể tại phần nào ỷ y, tránh trách nhiệm vì cứ nhắm mắt sống theo thì may ra sẽ có cuộc đời êm ả không sóng gió, tránh được những gánh nặng chia bổn phận tương đồng nơi gia đình và xã hội.
Phụ nữ thường được cho là chân yếu tay mềm và lắm khi lại cố gắng tỏ ra vẻ yểu điệu thục nữ càng tạo cơ hội cho quan niệm lệ thuộc ảnh hưởng thêm. Bởi thế, người con gái nên lo tập luyện tính tình khi chẳng may trời bắt tội không có nhan sắc mặn mà bằng những người cùng lứa đương thời để được: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người." Người con gái lại còn được dạy dỗ, chuẩn bị để làm vợ, tòng phu: "Con ơi mẹ bảo đây nầy, học buôn học bán cho tày người ta; con đừng học thói chua ngoa, họ hàng ghét bỏ người ta chê cười; dù no dù đói cho tươi, khoan ăn bớt ngủ liệu bài lo toan; phòng khi đóng góp việc làng, đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng; trước là đắc nghĩa cùng chồng, sau là họ mạc cũng không chê cười. Con ơi nhớ bấy nhiêu lời." Nữ giới được chuẩn bị như thế nhưng nào đâu đã đủ, nào còn tiết nghĩa, nào còn phu xướng, phụ tùy: "Chữ rằng phu xướng phụ tòng, làm thân con gái có chồng phải theo;" theo một cách tối mặt thế mà có lên tiếng nói đã bị chê trách: "Đàn bà chân yếu tay mềm, làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm." Có phải phụ nữ "làm ăn chẳng được" hay tại không dám làm?
Ngày xưa dân Việt có tục tảo hôn, con gái mới mười mấy tuổi đầu đã được cha mẹ gả bán. Không hiểu chữ "bán" đi theo chữ "gả" từ đâu ra, có lẽ từ lối nói quen dùng. Theo Lê văn Đức, "gả bán" mang nghĩa gả chồng cho con mà đòi lễ cưới nhiều: "Tiếc thay da trắng tóc dài, bác mẹ gả bán cho người đần ngu" (Việt Nam Tự Điển; tr. 514). Thiển nghĩ nên dùng tiếng "dựng vợ gả chồng" hợp lý hơn theo quan niệm thời xưa. Nếu chỉ nhắm về sắc thì nữ giới chỉ có một thời và qua thời đó tất nhiên "Xuân bất tái lai." Thực ra, cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn cho con mau thành gia thất có cháu nội cháu ngoại thêm vui cửa vui nhà, "Trồng rau cũng muốn rau xanh, có con cũng muốn mau thành thất gia."
Đối với nữ giới, tuổi cập kê mang nhiều sắc thái mơ mộng, thương thương nhớ nhớ kèm theo bản năng tự nhiên ước muốn cuộc sống đôi bạn có lẽ bởi tính chất thiên bẩm của họ được sinh ra để làm vợ và làm mẹ. Ca Dao diễn tả tâm lý thiếu nữ qua cái nhìn thực tế thấy sao nói lên vậy hoặc dùng hình ảnh thiên nhiên để ví von. Khi mới lớn, ai không muốn người khác biết đến mình để khoe sắc khoe hương, khoe tài, khoe nết, khoe sự giỏi giang hoặc để thỏa phần nào lòng mông lung mơ ước lứa đôi. Muốn thế, chốn đô hội là nơi có nhiều người cho các nàng đua chen trình diễn: "Gái chưa chồng trông mong đi chợ." Dĩ nhiên, với tâm trạng "Con gái ngoại tộc," khi mơ ước một chốn dung thân, nàng nào lại không mang tâm trạng "Tròng trành như nón không quai, như thuyền không lái như ai không chồng." Dù nhan sắc chim sa cá lặn hay chẳng may Trời bắt tội phần nào thua sút chị em, bị sống nơi bối cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó hoặc giữa nền luân lý răn dạy nữ giới chỉ nên ở trong thế thụ động, phận gái đều cảm thấy: "Thân em như thể trái chanh, lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước mơ." Mộng cao bao nhiêu, con người lại sợ nghịch cảnh bấy nhiêu; hơn nữa, sống dưới quan niệm tòng phu, lỡ gặp người chồng chẳng ra gì cả là một đời ngoi ngóp: "Thân em như hạt mưa sa, hạt sa bãi cát hạt sa vũng lầy;" ấy là đương thời xuân sắc. Muộn hơn chút nữa một đôi năm, khi mà các bạn đồng trang lứa đã tay bế tay bồng mà mình chưa gặp người xứng đôi vừa lứa hay bởi có mộng cao hơn mà chưa gặp người vừa ý, cám cảnh tương lai với thân phận mơ hồ, giới má hồng sao thoát ưu tư: "Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai." Bởi đời con gái chỉ một thời thế nên tâm trạng nữ giới phần nào bị thúc đẩy muốn có đôi bạn sớm vì e "Gái ba mươi tuổi đã toan về già" nên: "Thân em như chiếc đò đưa, khách qua phải đón kẻo trưa lỡ làng." Hoặc: "Liệu cơm mà gắp mắm ra, liệu cửa liệu nhà mà lấy chồng đi; kẻo mai kia mốt lỡ thì, cao thì không tới thấp thì không thông."
Quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" đã bao nhiêu đời ảnh hưởng nữ giới Việt Nam. Con gái lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng, cha mẹ là người chọn và quyết định nơi chốn cho con. Sở dĩ cha mẹ lo chọn vì ảnh hưởng tư tưởng luân lý "nam nữ hữu biệt," nên trai gái không có cơ hội gặp gỡ tìm hiểu nhau. Hơn nữa, một phần nào cũng vì quan niệm môn đăng hộ đối và lòng lo lắng cho con cái, nghĩ rằng điều gì có thể tốt theo suy luận của mình cũng tốt cho con nên dùng quyền riêng mà xếp đặt do đó phận nữ nhi tùy nơi cha mẹ: "Phụ mẫu sở sinh để cho phụ mẫu sở định; công việc vợ chồng phải chờ lịnh mẹ cha." Và nếu có nhiều người nhòm ngó khó cân phân, cha mẹ cũng là người chọn lựa tối hậu: "Kiếm nơi nước vận cặm sào, chừng cha với mẹ định nơi nào em sẽ hay." Bởi thế, chẳng may cha mẹ quyết định gả cho người mình không thương thì "Lỡ rồi ăn miếng trầu anh, đêm ngày lo sợ mặt xanh như chàm."
Tâm lý chung, chị em gái muốn có người chồng để nương tựa; không ai muốn lấy chồng về làm con ở hoặc gánh nặng. Chính vì thân phận người nữ lệ thuộc vào cuộc đời người chồng do đó họ muốn có người chồng khôn. Thực tế, không phải cứ kiếm mà được người chồng khôn; có chăng chỉ như may rủi; nói cách khác, âu cũng là phận số: "Chữ rằng họa phúc vô môn, tìm giàu thì dễ tìm khôn khó tìm." Giàu ở đây có lẽ là sự giàu có của gia đình người thanh niên vì "Cha mẹ giàu con có, cha mẹ khó con không;" do đó dù gia đình chàng giàu, chưa chắc lấy chàng mình về sau đã giàu... Thế nên, không có chồng cũng phiền mà chọn chồng cả là vấn đề khúc mắc do kinh nghiệm thực tế cho thấy con người thì thay đổi đâu ai biết sau sẽ ra sao. Hơn nữa "Lấy chồng xem giống" chưa chắc đã là một quy luật bảo đảm vì đã biết bao nhiêu con ông cháu cha có những cuộc đời chẳng ra gì về sau, phỏng làm sao có được sự chắc chắn hoàn toàn theo ý mình muốn; hơn nữa, con người thì luôn luôn thay đổi.
Người con gái khi còn thời, còn lắm kẻ nhòm người ngó, còn có quyền chọn lựa dẫu hôn nhân do quyết định của mẹ cha. Chẳng may thời đã qua, thật là điều ngậm ngùi cho tình cảnh cô đơn bóng chiếc: "Còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa một mình." Tình cảnh lỡ thì của phận gái đối với tâm tư người phụ nữ ngày xưa khác hẳn với ngày nay. Thời bây giờ, quan niệm con người về cuộc sống độc thân cởi mở hơn vì độc thân cũng là một lối sống do cá nhân chọn lựa và khi đã chọn lối sống độc thân, cảnh gia đình đầm ấm của những người chung quanh ít ảnh hưởng đến tâm tư hơn là người lỡ thì. Chẳng những nỗi lo lắng muộn màng đã làm khổ ải người lỡ thì mà ngay đến miệng đời cũng không buông tha lại còn chọc chạch nói cạnh nói khóe đôi khi đến độ sỗ sàng: "Thối tai hôi nách rình rình, không ai hỏi đến cậy mình chính chuyên." Nào ai dám khua môi múa mỏ mà nói cậy nọ cậy kia bởi phận số của con người đâu phải cứ muốn gì là được vậy, "Em đẹp cha mẹ em lo, đêm nằm lắm kẻ rình mò ước ao; em xấu như tổ ong bào, đêm nằm mở cửa chẳng ai vào làm chi." Có ai lỡ sinh nhằm ngôi sao xấu thủ vị mới hiểu nỗi lòng cho kẻ chẳng may không có nhan sắc hoặc số phận lận đận hẩm hiu: "Thôi thôi tắt đuốc đi thầm, còn duyên đâu nữa buôn tầm bán hương." Dù có muốn "Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng" thì đâu có ai hỏi mà vơ; nói chi đến cảnh kén những trai tơ. Bao nhiêu lần mơ ước mà nào đâu có được, biết bao phen háo hức lòng mà vẫn bơ vơ: "Buồn chẳng muốn nói, gọi chẳng muốn thưa, tính chuyện lấy chồng tỉnh như con sáo." Hơn nữa, "Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta o" những nơi nào; còn phận mình suốt đời "Tròng trành như nón không quai." Tủi thay cũng thân phận má hồng...! Với quan niệm xa xưa, ai ai cũng nên có vợ có chồng nhất là sống trong một xã hội mà gia đình chính là nơi đùm bọc và bảo vệ con người khi đến tuổi già. Có gia đình, sinh con cái, sau này về già có người giúp đỡ. Không có gia đình, khi tuổi trời đã cao lấy nơi đâu nương tựa. Đã nhìn thấy những hoàn cảnh ấy nơi xã hội, người lỡ thì đêm ngày bị nỗi lo lắng cho tương lai; nhìn gia đình người khác đầm ấm mà xót xa cho thân phận, ngay đến những cảnh thường tình cũng ảnh hưởng nỗi âu sầu riêng tư: "Gà kia sao mày vội gáy dòn, làm tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con."
Dần về sau, cuộc đời thay đổi khiến cho lối sống thay đổi; do sự ảnh hưởng đó, tâm tình và quan niệm con người cũng đổi thay theo. Hơn nữa, vào những thời kỳ chiến tranh, trai thiếu gái thừa, quan niệm môn đăng hộ đối về hôn nhân cũng dần dần nhạt phai chuyển mình thành xứng đôi vừa lứa, "Đời xưa kén những con giòng, đời nay ấm cật no lòng thì thôi." Chị em nữ giới ai may mắn, cuộc đời thay đổi chóng vánh: "Đàn ông quan tắt thì chày; đàn bàn quan tắt một ngày nên quan." Quan niệm "Nam nữ thọ thọ bất thân" không còn được coi là giáo điều mà giới trẻ do ảnh hưởng Tây Phương đem đến đã có cơ hội tìm hiểu nhau trước khi quyết định ăn đời ở kiếp chứ không như ngày xưa "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy." Tuy nhiên, dẫu cho ảnh hưởng Tây Phương đến mấy thì phận gái, "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng" vẫn là điều được coi trọng. Thế nên, chẳng may chị em nào lỡ "Khôn ba năm dại một giờ" bởi "Nghe quân tử nói òn, mà rồi có lúc ẵm con một mình" thì cả là một sự tai tiếng lớn cho gia đình; chẳng những thế mà nhiều khi còn lây tới cả họ hàng, láng giềng: "Con sâu làm rầu nồi canh, một người làm đĩ xấu danh cả nhà." Mặc dầu "Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi" nhưng tiếng đời bao giờ mà chẳng quá sự thật: "Ở đây có đứa lấy trai, cho nên Trời hạn nắng hoài không mưa." Nào ai dám lấy chồng người khác mà phải nói lấy trai! Tình cảnh của những chị em đi trật đàng lễ giáo đều bị mọi người đàm tiếu.
Tục Ngữ có câu: "Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu." Ngày xưa, làm thân con gái cho dù có thương thầm ai cách mấy cũng không bao giờ dám tỏ tình và chỉ có gia đình người trai mới có quyền ngấp nghé. Phận gái phải đợi đàng nhà trai tới dạm hỏi thế nên "trong nhờ, đục chịu;" may mắn có nhiều người ngấp nghé thì có chút quyền chọn lựa; chẳng may không ai ngó nhòm tới chỉ còn cách "Đứng cửa hóng gió nồm nam" vì "Trâu tìm cọc, cọc chẳng tìm trâu." Theo quan niệm thủ tiết, phụ nữ chỉ lập gia đình một lần và dù cho chồng chẳng may bị mất sớm, người vợ ở vậy nuôi con, thờ chồng, "Chuông treo trước cửa nhà chùa, làm thân con gái bán mua một lần." Vì chỉ có một lần, do đó, đối với người nữ, sống chết cũng gắn bó với hôn nhân. Sự ràng buộc không thể dứt khỏi của nữ giới với hôn nhân đã được coi như phận số cả đời. Được người chồng tử tế, gia đình là hạnh phúc cho người phụ nữ; chẳng may gặp kẻ không ra gì, gia đình trở thành muôn đời tù tội đối với thân phận đàn bà.
Phụ nữ Việt Nam khi đã có chồng, mọi liên hệ, giao tế ngày trước đều được coi như bị cắt đứt. Từ đây, nàng thuộc về một gia tộc mới; đối với cha mẹ đẻ, nàng kể như không còn bổn phận mà mang trách nhiệm hiếu đễ về phần họ hàng cha mẹ nhà chồng đến độ có thể nói thay cho chồng, "Làm gái giữ đạo tam cang, có chồng phải gánh giang san nhà chồng." Sự liên hệ với gia đình ruột thịt của mình đã như không được đếm xỉa tới phương chi thân bằng quyến thuộc hoặc những mảnh vụn tình xưa nếu có: "Con thỏ núp bóng trăng sơn băng thủy kiệt, em có chồng rồi ngãi biệt tình ly." Bởi người đàn bà có chồng lệ thuộc vào chồng nên cần sống sao cho đẹp lòng chồng dù cách ăn nói hay may mặc, hình dáng... tất cả nên vì chồng: "Gái thì giữ việc trong nhà, khi vào canh cửi khi ra thêu thùa; với người ăn nói dạ thưa, với chồng cư xử sớm trưa dịu hiền." Nếu được chồng thương, nàng được tất cả: "Chồng thương tóc những mau dài, cái duyên vẫn đẹp cái tài vẫn nên." Nhìn theo khía cạnh khác, câu này mang thêm ý nghĩa căn dặn người vợ nên như thế nào để được chồng thương.
Đứng về khía cạnh sống và giá trị làm người, cuộc đời người đàn bà khi đã có chồng tùy thuộc vào người chồng, nhưng không phải vì thế mà mọi người vợ là tôi tớ hoặc nô lệ của chồng. Vị thế người đàn bà ảnh hưởng không những người chồng mà toàn bộ cả gia đình con cái, nhiều khi tới đại gia đình: "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng." Sự ảnh hưởng của người vợ đối với người chồng dầu ít khi được nói lên hoặc để ý đến nhưng không phải là không có mà đôi khi còn lớn lao hơn điều mọi người có thể nghĩ tới trong cách đối xử, liên hệ vì "Giàu về bạn, sang về vợ." Bạn bè, họ hàng thân quen nể phục người chồng thế nào tùy thuộc cung cách của người vợ. Có thể vì quan niệm "Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về" khiến mọi người có ý nghĩ rằng người vợ hiền ngoan, tử tế là do ảnh hưởng của người chồng chăng nên có câu "Chồng sang vì bởi vợ ngoan." Kinh nghiệm sống cho thấy: "Vợ ngoan làm quan cho chồng." Ai có được người vợ hiền ngoan, tử tế, chính cách cư xử của người vợ mà bạn bè, họ hàng thân thuộc trọng nể gia đình mình. Xét thêm về sự ảnh hưởng của người vợ trong vai trò làm mẹ đối với con cái trong hệ thống gia đình Việt Nam, không ai chối cãi được sự ảnh hưởng này khuôn mẫu hóa và kiến tạo nề nếp cũng như tâm tính những người con sau này. Chẳng hạn, không nói chi đến những vấn đề to tát, ngay giọng nói, kiểu nói và cung cách sống, con cái rập khuôn lối nói năng, cá tính của người mẹ. Tuy nhiên, trong những gia đình nào mà chồng chúa vợ tôi, con cái cũng một phần nào bị ảnh hưởng mặc cảm nô lệ thiếu tự tin vào khả năng hay trí phán đoán của mình không những khi còn nhỏ sống nơi gia đình mà còn về sau bởi tất cả mệnh lệnh được ban ra từ người cha, người chồng trong khi người mẹ và các con chỉ có bổn phận rập theo thi hành thay vì cần suy xét cân nhắc... lâu ngày thành quen và tạo nên cá tính.
Dẫu có câu nói "Khôn ngoan cũng thể đàn bà, tuy rằng vụng dại cũng là đàn ông," nhưng theo kinh nghiệm thực tế không lấy gì có thể minh chứng là đúng vì ai không biết "Mũi dại thì lái chịu đòn." Đâu thiếu gì gia đình một tay người vợ làm nên và chồng chỉ như ông hoàng an hưởng. Nếu để ý, có những thực trạng gia đình chồng thì cờ bạc, rượu chè trong khi người vợ phải lo lắng làm lụng, bóp chắt đầu tắt mặt tối chẳng những nuôi con mà còn lo trả nợ cho sự hoang đàng của chồng. Không thế làm sao có câu: "Chồng con là cái nợ nần, thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm," hoặc "Bán trầu ăn những chủm cau, chồng con có biết cơ màu này chăng!"
Bình thường, "Gái có chồng như rồng có vây." Vợ chồng, người việc này, kẻ việc kia chung tay góp sức xây dựng gia đình thì đó là cơ hội cho người đàn bà phát triển khả năng cũng như tài khéo đến độ cao nhất có thể. Đàn bà với bản tính tỉ mỉ, hy sinh, lại thích hy sinh cho người mình thương như một bản tính đặc biệt của người vợ và người mẹ, đã là nguồn yêu thương cho chồng con. Một tay người vợ lo lắng cho con cái, châm chế chi tiêu trong gia đình, hiếu thuận với bố mẹ chồng cũng như hòa nhã với anh em họ hàng để người chồng an tâm lo lắng làm ăn kiếm sự sinh sống cho gia đình. Thực ra, nói như thế chỉ mới đúng được một khía cạnh của vai trò người vợ và người mẹ nơi phụ nữ Việt Nam bởi sự làm ăn của người chồng cần rất nhiều sự bàn hỏi nơi người vợ đồng thời cũng cần được phụ giúp trong sự tính toán chi dụng để dành vốn liếng. Đàn ông đa số bản tính phóng khoáng đôi khi đến độ "Bóc ngắn cắn dài" không để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt nếu không có sự hỗ trợ chăm sóc tỉ mỉ của vợ về công việc làm ăn hoặc chi dụng, chẳng mấy hồi "Của trong nhà thành của ngoài đồng." Bởi đó, chẳng lạ gì "Của chồng công vợ."
Tuy nhiên, bình thường, "Thế gian được vợ mất chồng" hoặc ngược lại, và hơn nữa, cứ "Ghét của nào Trời trao của ấy." Kinh nghiệm sống cho thấy, "Đố ai bắt kiến nhổ lông, ra mưa không ướt thì ở vừa lòng nhau." Sống với nhau càng lâu, người này càng nhận ra nhiều lỗi lầm của người kia. Những lỗi lầm dù bình thường hay vô ý nhưng sự ảnh đối với người thân thiết nhất như vợ chồng thì lại trở thành lớn lao. Hơn nữa, tâm lý chung, người này cứ cho rằng người kia vì sống chung với mình lâu dài như thế có thể hiểu hết mình nghĩ thế nào, ưa gì hoặc không thích gì. Bởi vậy khi những chuyện bình thường vô tình làm mất lòng xảy ra sẽ được nghĩ là cố ý do đó càng làm đau lòng nhau hơn. Có thể đó cũng là nguyên nhân sinh ra câu nói: "Thương nhau lắm, cắn nhau đau." Đâu có tình nghĩa nào gắn bó và tha thiết hơn tình nghĩa vợ chồng; vả lại, là con người, những điều tốt lành người khác thực hiện cho mình thì dễ quên mà những gì làm phiền lòng thường lại cứ hằn sâu mỗi ngày một chồng chất. Nhìn theo khía cạnh tâm lý, người Việt qua cuộc đời khổ cực, vất vả trong việc mưu sinh làm ăn lâu ngày thành quen, tự tạo cho mình khả năng và tính chất chịu đựng dai dẳng. Hầu hết người Việt là người tình cảm nên thường chịu đựng và nhịn nhục thay vì những gì không vừa lòng là nói thẳng ra như người Tây phương. Vì thế, trong cuộc sống hôn nhân, sự nín nhịn, chịu đựng những điều vô ý bình thường của người bạn đời chồng chất từ năm tháng này qua năm tháng khác mà không được nói ra hoặc không được để ý, lâu dần trở thành mối nguy hại không những cho tâm tính con người mà còn khiến cho tình nghĩa vợ chồng phần nào bị giảm bớt.
Bởi cá tính đàn ông phóng khoáng nên dễ quên trong khi đàn bà tỉ mỉ, người vợ lại càng ghi nhớ những điều phiền hà để rồi sự chịu đựng càng ngày càng gia tăng. Thế nên, người chồng thường bị các bà nhìn thấy nhiều điều chẳng ra gì hơn những việc tốt lành các ông đã thực hiện. Thử hỏi, được bao nhiêu người vợ không than: "Gái khôn lấy phải anh chồng dại, cũng như hoa lài cặm bãi cứt trâu?" hoặc "Gái có chồng như gông mang cổ" không phải chỉ nói về sự bó buộc, cực khổ của thân phận phụ nữ trong đấng bậc gia đình mà có thể phần nào biểu hiệu cảnh huống tâm tư phải chịu đựng những điều phiền hà ray rứt.
Có được người chồng biết thương vợ, thương con, lo lắng cho gia đình thì đó cả là một thiên đàng hạ giới đối với người vợ. Chẳng may trong huống cảnh ông không ghê bà cũng chẳng gớm để sinh ra những chuyện thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì đó lại càng phiền não, đau lòng cho người phụ nữ. Dĩ nhiên, cuộc đời có người nọ, kẻ kia; gặp những đức ông chồng ù lì không biết lo lắng, người vợ đành phải gồng mình gánh chịu đối chọi với cuộc đời cho sự sinh sống gia đình; Thế nên, "Tưởng rằng củi mục dễ đun, ai ngờ củi mục khói um cả nhà." Nếu có hỏi nữ giới ưa thích những gì nơi nam giới, chị em bạn gái ai không muốn có những anh bồ hào hoa phong nhã, nhưng đụng đến chuyện lập gia đình, chị em bạn gái ai lại không muốn có người chồng chân chỉ hạt bột. Ước mơ và sự tính toán có lẽ thường đối nghịch lẫn nhau nơi nữ giới. Qua kinh nghiệm về đường chồng con, các bà đều biết niềm khổ ải: "Thứ nhất chồng cờ bạc trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn." Gặp phải đức ông chồng "rựa cùn," người phụ nữ mang thêm tâm trạng thua kém bạn bè: "Một là em lấy chồng quan, hai là chồng lính ba là chồng dân; nhưng em không chịu lấy chồng đần, về cha mẹ mắng ra đàng chúng bạn khinh."
Được nuôi dưỡng trong khuôn mẫu xã hội với châm ngôn luân lý tam tòng, tứ đức, người phụ nữ Việt Nam dù muốn dù không đã bị trói buộc cả đời với người chồng và được coi như định mệnh đã an bài dù cho có thế nào chăng nữa. Tuy nhiên, quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp" một phần nào ảnh hưởng và khơi nguồn cho đàn ông "Giàu đổi bạn, sang đổi vợ." Chính vì quan niệm "Gái chính chuyên một chồng," người vợ, ai không thế, cố gắng giữ chồng của mình không muốn để lọt vào tay kẻ khác do đó sinh ra ghen: "Ớt chi là ớt chẳng cay, gái chi là gái chẳng hay ghen chồng; ớt chi là ớt chẳng nồng, gái chi là gái có chồng không ghen." Tuy nhiên, khi người chồng chung chạ với người đàn bà khác, người vợ, như một đặc tính chung của phụ nữ, chồng mình không đả động đến mà tất cả nỗi ghen tức đổ dồn vào tình địch thay vì cắn xé chồng: "Mồ cha con đĩ bên sông, cơm trắng rượu nồng mày rủ chồng tao. Chồng tao tao quí tao cưng, mày hun mày hít chẳng còn chút hơi." Đã biết người ta cơm trắng rượu nồng mà mình không cố gắng cho hơn lại còn đem ra phân bì! Âu đó cũng có thể là chuyện thường tình của con người bởi "Thương nhau trái ấu cũng tròn, bồ hòn cũng ngọt;" vì đã chắc gì "con đĩ bên sông" rủ chồng mình mà có thể chồng mình lăn xả vào nó, đem tiền bạc, mồ hôi nước mắt của mình dâng cho nó!
Lập gia đình đối với nữ giới Việt ngày xưa đâu phải chỉ hai vợ chồng sống sao cho thuận hòa, lo làm ăn gầy dựng tổ ấm mà lấy chồng là lấy cả họ và nhiều khi còn làm dâu cả họ đặc biệt là bố mẹ chồng. Chẳng những thế, lối sống và thái độ của con dâu, một khía cạnh nào đó được coi như phần nào đại diện cho thân thế gia tộc nhà mình đối với họ hàng nhà chồng. Hoàn cảnh phận gái làm dâu có thể nói giống như tâm điểm cho mọi mũi tên nhắm tới. Thử xét một người đang sống quen theo lề lối riêng tư phải hội nhập vào một gia đình hoàn toàn khác biệt từ kiểu cách ăn nói, đi đứng, tâm tính cũng như sinh hoạt thường ngày... sao có thể một sớm một chiều có được những thói quen mới cho phù hợp hoàn cảnh khác lạ. Hơn nữa, những gánh nặng nàng dâu phải chịu, những cảnh vì thương chồng hoặc vì lấy chồng nàng dâu đã chấp nhận đối diện và lãnh nhận bao nhiêu khó khăn khổ ải do quan niệm xưa dưới sự đàn áp ép buộc của cha mẹ chồng, lời ong tiếng ve nhức nhối từ mấy cô em chồng hoặc họ hàng nhà chồng... phỏng đó có phải là sự trả nợ cho quan niệm "mua về." Mua con dâu về làm việc thay vì thuê con ở hoặc còn những cảnh "Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng!"
Mặc dầu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn giòng;" tuy nhiên, tâm tính con người đâu có thể nhận ra được một cách đúng đắn theo hình dáng phiếm diện bên ngoài. Khi còn con gái, nhất là ở lứa tuổi cập kê, nàng nào chẳng đẹp, chẳng thơm; nàng nào không cố gắng tỏ ra thùy mị dễ thương, dễ mến. Hơn nữa, ai thoát được cảnh đánh giá trị con người theo vẻ bề ngoài... thế nên, xét về mặt trang điểm và diễn xuất, các nàng có lẽ có tính chất kịch sĩ khá cao. Về phương diện "Mua gái chọn giòng," quan điểm này chưa chắc đã là nguyên tắc luôn luôn đúng vì "Cha mẹ sinh người, Trời sinh tính." Tâm tính con người không phải chỉ được khuôn mẫu hóa từ gia đình mà còn bị ảnh hưởng từ xã hội và môi trường sống cũng như điều kiện cơ thể v.v... Xưa nay, có ai sống rập khuôn với mẫu mực gia đình mình đã lớn lên từ tấm bé? Hơn nữa, lối sống của một người cũng tùy thuộc hoàn cảnh. Một người dầu được sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, gia giáo, nhưng sau này phải đối diện với thực tại đảo điên, tư cách và lối sống tất nhiên sẽ chuyển đổi sao cho phù hợp để bảo vệ chính mình. Người con gái về làm dâu một gia đình có kiểu cách sống khác lạ với lối sống cũ tất nhiên gặp lắm cảnh ngỡ ngàng, khó xử. "Nhập gia tùy tục," ai không biết thế; tuy nhiên, có những tục mới nơi gia đình chồng chẳng may trái ngược hẳn với quan niệm sống sẵn có nơi nàng dâu, phỏng bao lâu mới có thể tùy? Thêm vào đó nào ai biết được ý cha mẹ chồng ngấm ngầm muốn gì mà chiều theo. Thật ra, dù có biết hết cha mẹ chồng muốn gì chưa chắc con dâu đã có thể làm cho họ hài lòng vì tham vọng con người thì vô bờ bến. Chẳng những thế, thường thì những gì mình không thể thực hiện được lại muốn người khác phải hoàn thành! Như vậy, cho đến muôn đời với quan niệm ngày xưa, nàng dâu sẽ chẳng bao giờ có thể làm hài lòng dù một phần nhỏ của cái tham vọng vô bờ, con đẻ của quan niệm mua con dâu nơi bố mẹ chồng.
Đứng về phương diện khác, thân phận con dâu chẳng khác chi một người mới tới xứ lạ, "Đến đây đất nước lạ lùng, con chim kêu phải sợ con cá lùng phải kiêng." Một người bình thường tới xứ lạ, sống được thì ở, không sống được thì đi; ưng thì tham gia, hội nhập, chẳng ưng sống tách biệt không ai dám đụng đến mà "Con chim kêu phải sợ, con cá lùng phải kiêng" thì nàng con dâu phải chịu những cảnh khó xử đến như thế nào? Mang tiếng rằng lấy chồng nhưng thường lại trở thành người ở để "Bưng trầu hầu nước" có khi còn bị đối xử tệ bạc gấp mấy lần con ăn đầy tớ. Thử hỏi bao nhiêu nàng con dâu được bố mẹ chồng may sắm như ý mình muốn? hay giỏi lắm được hai bộ để lấy tiếng may sắm... Thế mà "Chó béo đẹp mặt chủ nhà, con dâu rách rưới bà gia thẹn thuồng."
Ai sống trên đời mà có thể làm đẹp lòng hết mọi người? Nàng dâu nào có thể làm vừa lòng bố mẹ chồng luôn kiếm chuyện bới móc, vạch lá tìm sâu. Trên đời này được mấy bố mẹ chồng nói lên được những điểm của con dâu hay hơn con gái mình! Do đó cũng chẳng lạ gì những cảnh: "Thương chồng phải khóc mụ gia, nghĩ tôi với mụ có bà con chi." Có thể câu ca dao này là điều nhắc nhở cho các bà mẹ chồng tương lai. Bố mẹ chồng nào đã hết, còn những "bà cô bên chồng;" tệ hại hơn nhất là chẳng may nàng dâu gặp phải những bà cô trời bắt tội không được mặn mà cho lắm...!
Phụ nữ Việt Nam ngày xưa, có thể nói, phần đông là mẹ chồng cay nghiệt bao nhiêu, là nàng dâu oan ức, khổ ải bao nhiêu, là người vợ chân tình, tha thiết và phục tòng chồng bao nhiêu thì lại cũng là người mẹ cao vời bấy nhiêu. Cuộc đời một người phụ nữ Việt Nam chan chứa đầy đủ đắng cay ngọt bùi, hà khắc, dễ thương, dịu ngọt, âu yếm... Họ có thể ví như biển hồ lai láng, "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào" đối với con cái, nhưng cũng vùng biển đó khi nổi sóng đã nhận chìm biết bao tàu bè. Với nguồn nước chan chứa êm đềm phẳng lặng ngày nao cũng đã có lần tràn vô những mảnh đất hiền hoà cuốn trôi nhà cửa súc vật và ngay cả con người... trong cương vị mẹ chồng... Trái ngược với vai trò mẹ chồng hà khắc cay nghiệt với nàng dâu, tâm tình bao la của vai trò người mẹ không ngôn ngữ nào có thể diễn tả, chia sẻ cho thấu. Những tính chất độc ác được tạo nên do quan niệm sai lầm nơi xã hội và lối nhìn cổ xưa nơi một bà mẹ chồng còn có thể kể, nhưng lòng của bà mẹ Việt Nam chẳng ai có thể đo. Với lối nhìn này, hình như người phụ nữ Việt Nam là nơi trộn lẫn của các thái cực nơi những vai trò: làm dâu, làm vợ, làm mẹ, và làm mẹ chồng.
Thử tưởng tượng hình ảnh một nàng dâu bụng cao vượt mặt, nói cách khác "bụng mang dạ chửa" lại gặp hoàn cảnh bố mẹ chồng ác nghiệt, sau khi nấu nướng, mồ hôi cái mồ hôi con đổ ra bởi thời tiết nóng nực cộng thêm sức nóng cũng như khói bụi mịt mù do đun bếp bằng rơm rạ mà đến bữa cơm còn phải lo quạt cho bố mẹ chồng ăn trước... Thử tưởng tượng lồng trong hoàn cảnh đó, nàng dâu phải thức đêm bóp chân tay cho bố mẹ chồng rồi sáng sáng, dẫu đã bị mệt mỏi vì thai nghén mà vẫn còn phải bưng nước nóng cho các ngài rửa mặt v.v... trong khi người chồng, vì quan niệm hiếu dễ ngày ấy đành chấp nhận cho qua không dám hé răng bởi có nói thế nào chăng nữa cũng bị luân lý kết án bất hiếu... hoặc ngu si đến độ sợ những điều không đáng sợ hay không biết nhận định lẽ phải trái thế nào. Ở chung với bố mẹ chồng "để làm dâu," mọi sự chi chế nơi mẹ chồng... Nàng dâu phải chịu cảnh thua thiệt... Ngay cả đến con mình đôi khi không được coi là thuộc về mình mà thuộc về gia đình nhà chồng bởi nàng dâu chỉ là thứ máy đẻ, "mang nặng đẻ đau" cháu ông bà. Tới thời khai hoa nở nhụy, nếu mẹ tròn con vuông mà lại là con trai thì ông bà hí ha hí hửng; nàng dâu được đối xử dễ thở hơn chút bởi nhờ lộc của con trai. Chẳng may con sinh ra bị èo uột do ảnh hưởng bởi nếp sống làm dâu thì trăm tội cũng về nàng vì "Phúc đức tại mẫu" mặc dầu đàng khác nàng chỉ được coi như công cụ để sinh con... Có lẽ ngày xưa, trong cuộc đời làm vợ, ngày hạnh phúc nhất của người phụ nữ Việt Nam là ngày đôi vợ chồng được chấp thuận cho "ra riêng."
Nơi xã hội nông nghiệp sơ khai nghèo khổ, các bà mẹ thường "chân lấm tay bùn," "mò cua bắt ốc" hoặc may mắn cũng phải buôn bán tảo tần phụ giúp chồng nuôi sống gia đình. Dĩ nhiên, trong hoàn cảnh nghèo, các bà mẹ thường phải "Thắt lưng buộc bụng" xoay xở chiều nọ cách kia mới mong đủ chi chế qua ngày. Rồi con càng đông, mức chi dụng càng tăng, người mẹ càng phải tảo tần... Tuy nhiên, dù cùng làm lụng với chồng nơi nương ngô, rẫy khoai, hay ruộng lúa mà sự quán xuyến nhà cửa vẫn luôn phải sao cho ngăn nắp, gọn gàng, nào lo cơm nước cho gia đình, nào tã lót, giặt giũ cho chồng cho con v.v... tất cả đều một tay người mẹ. Người chồng lo làm những công việc nặng; ngược lại, nếu so sánh những công việc nặng và những công việc được mệnh danh là nhẹ, thời gian và sự làm việc của người vợ nhiều hơn người chồng. Sự làm lụng đã thế, về đường con cái, đụng một chút là "con dại cái mang" hoặc "con hư tại mẹ"...
Nơi gia đình con cái hòa thuận êm ấm thì không sao, chẳng may gặp phải đứa con hư không biết nghe theo sự chỉ bảo của cha mẹ thì trăm tội cũng đổ đầu người mẹ mượn cớ "Cây lành sanh trái ngọt." Chẳng những thế, Ca Dao không hiểu sao đã có câu: "Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là oan báo." Ngược lại, những công lao của người vợ được đem ra kể chẳng bao nhiêu, lời than tiếng trách nhiều khi chỉ làm nản lòng, nhụt đức hy sinh: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột thứ ba nợ đòi." Có được những lời khen tặng biết ơn vợ thì cũng phải mãi sau này trong văn chương; chẳng hạn: "Quanh năm buôn bán ở ven sông, nuôi đủ năm con với một chồng," (Trần Tế Xương).
Qua bao thế hệ, phụ nữ Việt Nam vẫn âm thầm chấp nhận làm gương nhẫn nhục để gầy dựng cho con cháu có được ngày nay. Cho dù có những "Con sâu làm rầu nồi canh" thì vẫn có thể nói mỗi người phụ nữ Việt đã mang sẵn nơi mình dòng máu anh hùng của nữ giới.
CƠ CẤU GIA ĐÌNH
Xã hội Việt Nam đặt nền tảng trên gia đình. Có thể nói gia đình là một xã hội nhỏ trong đó người cha đứng đầu. Dầu được coi như mọi quyền hành nằm trong tay người cha, vai trò người mẹ nắm hầu hết phần quan trọng, điều hành của gia đình. Con cái là những phần tử của xã hội căn bản này và được giáo dục bởi cha mẹ. Xét theo nghĩa bình thường, gia đình chỉ bao gồm cha mẹ và con cái. Trên thực tế, người Việt Nam nhìn nhận một gia đình trong sự liên hệ với đại gia đình gồm có ông bà cha mẹ, anh em họ hàng. Bởi xã hội Việt Nam còn có một nền luân lý cộng đồng nên giá trị của gia đình nhỏ này lại bị lệ thuộc vào tiếng tăm, sự liên đới của đại gia đình với xã hội. Đó cũng là lý do tại sao ông bà ta có câu "Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống."
Xét như thế, gia đình Việt Nam bao gồm ông bà, cha mẹ, cô, chú, bác, và con cái. Trên cha mẹ là ông bà, ngang vai cha mẹ là cô, chú, bác, rồi mới tới con cháu trong họ máu. Hơn nữa, dầu anh em họ máu được coi trọng hơn hết trong sự liên hệ gia đình, người Việt Nam còn đặt nặng tình liên đới. Đôi khi anh em dầu đã xa mà sự liên hệ thân thiết lại được coi không khác gì anh em ruột thịt. Do đó, nếu nhìn vào cơ cấu gia đình Việt Nam xét trong phương diện giáo dục, cũng nên đặt thêm vấn đề về sự liên đới vì con cái trong gia đình sẽ chịu ảnh hưởng bởi những người thường xuyên có liên hệ. Gia đình Việt Nam không những giúp đỡ, xây dựng cho con cái mà còn mang nặng tính chất giáo dục. Gia đình dạy cho con người nhận biết sống cho có thứ tự lớp lang, xứng bậc của mình đối với đại gia đình; đồng thời qua nề nếp giáo dục sống liên hệ với anh em họ hàng, gia đình đã đào tạo cho xã hội những thành viên tốt sau này trong lối sống tương quan với những người khác.
Người Việt dầu một phần nào ảnh hưởng quan niệm Khổng học về Tam Cương (đạo vua - tôi, cha - con, chồng - vợ) nhưng bản tính rất dân chủ, sống hòa hợp theo thứ bậc chứ không chấp nhận làm nô lệ hay phân chia giai cấp. Chẳng hạn sự đối xử giữa vợ chồng trong gia đình, người chồng coi trọng vợ mình chứ không đối xử với vợ như con hầu đầy tớ để rồi bị lệ thuộc vào những kiểu cách phục dịch như người Nhật hay người Tàu ngày xưa. Trên thực tế, người đàn bà Việt Nam ảnh hưởng toàn bộ gia đình từ giáo dục con cái, điều hành sinh hoạt gia đình, đến ngay cả việc thay chồng đối xử với cha mẹ chồng cũng như anh em họ hàng; có lẽ vì ảnh hưởng lớn lao của người đàn bà nên có câu: "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng."
Chính vì vấn đề giáo dục trong gia đình được coi trọng do đó cứ nhìn vào kiểu cách sinh sống của một gia đình, người ta có thể đánh giá phần nào cá nhân của gia đình đó. Không lạ gì, "Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh." Bởi vậy, "Mạch trong nước chảy ra trong, thế nào đi nữa con dòng cũng hơn." Một gia đình tốt lành sẽ đào tạo nên những người con ngoan hiền biết điều. "Xem cây biết quả" là sự thường mặc dầu đôi khi "Cây ngọt sinh trái đắng." Trong trường hợp này, ông cha ta lại xét về đức độ bởi cũng có câu ngược lại: "Nhìn quả biết cây." Lẽ tất nhiên nếu không có sự giáo dục căn bản của gia đình, "Cây ngọt" sẽ "sinh trái đắng" do ảnh hưởng xã hội vì thói thường điều xấu không cần phải học hỏi cũng có thể thực hành được và trái lại người được giáo dục kỹ lưỡng nơi gia đình, không dễ gì dám làm những điều không nên không phải có hại cho danh dự của mình và gia tộc.
Cha mẹ giáo dục con cái không những bằng lẽ phải trái khôn ngoan mà còn bằng chính cuộc sống của mình qua việc đối xử trong gia đình giữa vợ chồng, với các con cũng như tư cách, lời ăn tiếng nói đối với ông bà, anh em họ hàng thân thuộc và hàng xóm láng giềng. Xét theo đời sống lứa đôi, vợ chồng là sự ăn đời ở kiếp, tôn trọng lẫn nhau, hòa thuận và yêu thương mới có thể giúp cho con cái noi gương trở thành người tốt lành. "Cha nào con nấy" là lẽ bình thường vì khi còn nhỏ, con cái như tờ giấy trắng, học đòi theo cha mẹ. Dĩ nhiên, nếu cha mẹ không hòa thuận, con cái chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và nghi ngờ hết mọi người chung quanh. Người Mỹ cũng có quan niệm này trong vấn đề giáo dục nơi học đường: Nếu đứa trẻ sống trong môi trường chỉ trích, sẽ học đòi lên án người khác. Nếu đứa trẻ sống dưới hận thù, sẽ học đòi chống đối. Nếu sống dưới sự nhạo báng, trẻ sẽ hay bị xấu hổ... Vì thế vợ chồng thuận hòa, yêu thương sẽ là gương sáng cho con cái; "Vợ chồng là nghĩa tào khang, chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui; sinh con mới ra thân người, làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no." Kinh nghiệm cho thấy, gia đình nào không hòa thuận, dù cho cố gắng làm ăn cách mấy thì cũng sụp đổ bởi ông đi đàng ông, bà theo đàng bà, ai cũng chỉ lo thủ cho riêng mình sao còn xây dựng mà không tan cửa nát nhà.
Người Việt còn có quan niệm xứng đôi vừa lứa trong việc hôn nhân. Quan niệm xứng đôi vừa lứa khác hẳn môn đăng hộ đối. Môn đăng hộ đối tùy thuộc vị thế hai gia đình mà không cần biết gì đến con người. Thực tế cho thấy, chỉ con nhà giàu mới dễ bị hư hỏng và chưa chắc giàu đã quí mặc dầu "Giàu sang có số, ăn cỗ có phần," mà có thể là giàu nổi, giàu bởi tham lam, hoặc lừa lọc thì những loại giàu này không thể sang và chẳng bền. Do đó môn đăng hộ đối chỉ làm khổ con người. Trái lại quan niệm xứng đôi vừa lứa giúp con người dễ sống hòa hợp trong hôn nhân đưa tới sự thuận vợ thuận chồng hơn. "Thờ cha kính mẹ đã đành, theo đôi theo lứa mới thành thất gia."
Mặc dầu người Việt Nam mang tính chất dân chủ nhưng không vì thế mà sinh ra tự do quá trớn hoặc lạm dụng tự do như bên Tây Phương. Nền luân lý cộng đồng mạnh mẽ ảnh hưởng và làm khuôn mẫu cho cuộc sống một người trong sự liên đới với anh em họ hàng cũng như với người ngoài nơi xã hội. Vai trò của một người vì thế thay đổi tùy theo nơi chốn cũng như sự liên hệ của người ấy tùy theo hoàn cảnh. Chẳng hạn, trong gia đình là một người con, ra xã hội lại là quan huyện. Ông quan huyện không thể đối xử với cha mình nơi gia tộc theo vị thế của quan huyện mà là vị thế của một người con đối với một người cha. Câu "Chợ có lề quê có thói" vì vậy cũng một phần nào nói lên tư cách một người phải đối xử thế nào tùy theo sự liên hệ và vai trò của mình trong mối tương quan nơi dòng họ hay ngoài xã hội.
Trong gia đình cũng thế, vai trò nào bổn phận nấy tùy theo thứ tự lớp lang của gia đình. Vợ chồng con cái sống thuận hòa trong trách nhiệm, bổn phận và vị thế của từng người vì: "Một nhà hai chủ không hòa, hai vua một nước ắt là không yên." Hơn nữa "Rắn phải có đầu" chứ không thể đuôi bằng đầu. Nề nếp, thứ tự trong gia đình góp phần vào sự an vui của mọi người. Đối với đại gia đình cũng vậy, bậc nào thì nên sống đúng với bậc ấy: "Kình nghê vui thú kình nghê, tép tôm thì lại vui bề tép tôm." Ngay như ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ rõ thứ bậc và vị thế của một người trong giòng tộc đối với người khác; không như Tàu, ai cũng "nị", hoặc Mỹ, Anh, ai cũng "you". Chính lối sống trong khuôn phép thứ bậc và tâm tình được phát biểu qua ngôn ngữ. Thêm vào đó, ngôn ngữ nhắc nhở, chỉ rõ thứ bậc của một người trong sự liên hệ với đại gia đình. Câu "Giấy rách giữ lấy lề," xét theo trường hợp này nói về nguyên tắc cư xử cho mọi người đối với gia tộc. Dù cho người đó có đến thế nào chăng nữa nơi xã hội, đối với gia tộc và gia đình, vị thế phải được giữ cho đúng tôn ty trật tự của mình.
Nhìn qua sự liên đới thứ bậc trong gia đình và gia tộc như thế, người nào càng có vị thế cao nơi gia đình, càng nên lo sống xứng phận hơn: "Người trên ở chẳng kỷ cương, khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa." Hoặc "Người trên ở chẳng xứng ngôi, để cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào." Ý thức sống sao cho xứng phận còn bị ràng buộc bởi danh dự gia đình. Bởi nhận thức danh dự ảnh hưởng liên đới đến dòng tộc, người Việt mang thêm bổn phận bảo vệ danh dự không những của gia đình mình mà còn của cả dòng tộc. "Một người làm nên cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ."
Nói rằng gia đình là căn bản giáo dục của xã hội không sai chút nào. Kinh nghiệm ấu thơ của một người khuôn đúc thái độ cho cả cuộc đời họ. Hơn nữa, gia đình tạo cho một người những kinh nghiệm căn bản làm vốn liếng cho tương lai. Từ kinh nghiệm căn bản này, những kinh nghiệm sống theo hoàn cảnh dần dần bồi đắp để tạo thành thái độ con người. Vì thế không lạ gì, bình thường những gia đình thiếu nề nếp giáo dục sẽ có những người con hư hỏng mặc dầu đôi khi "Cha mẹ cú đẻ con tiên."
DANH DỰ VÀ VAI TRÒ GIA ĐÌNH
Không những sự giáo dục gia đình giúp con người sống cho hòa hợp, thứ tự lớp lang, đào tạo những thành viên tốt cho xã hội sau này mà còn mang lại ảnh hưởng lớn lao đến danh dự gia đình. Đối với cá nhân, "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng;" lối sống, cách cư xử, tâm tình của một người được khuôn mẫu hóa từ chính cuộc sống và sự giáo dục của gia đình; vì thế nhờ sự bảo vệ danh dự gia đình giúp con người sống biết điều, tốt lành hơn bởi "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài."
Danh dự là điều tối quan trọng không thua gì mạng sống của một người trong vai trò tương quan nơi mối liên hệ của mình đối với những người khác. Đó cũng là lý do đôi khi người nào bị ai làm tổn thương đến danh dự sẽ cảm thấy đau khổ hơn gặp tai ương hoạn nạn và có thể trở thành mối thâm thù cả đời. Tất nhiên, danh dự một người được tạo dựng và tùy thuộc cách sống, lối đối xử của mình nhưng lại bắt nguồn do sự giáo dục và lối sống, sự cư xử trong gia đình đóng góp, dạy dỗ và sửa đổi từng lời ăn tiếng nói, kiểu cách, thái độ và ngay cả tâm tình ngày này qua ngày khác từ thuở còn thơ.
Đối với người Việt, danh dự gia đình có vai trò quan trọng không kém danh dự cá nhân mà còn có thể hơn và đôi khi cá nhân chấp nhận đặt danh dự mình xuống hàng thứ yếu để bảo vệ danh dự gia đình hay gia tộc. Điều hiển nhiên, "Đất có lề, quê có thói," thì gia đình cũng thế; gia đình kiến tạo những người con, những thành viên của xã hội sau này có cá tính riêng tùy theo phong cách của gia đình vì chẳng lạ gì, "Rau nào sâu ấy."
Bởi vậy, sự hãnh diện của một người không những tùy thuộc vào danh dự của người đó mà còn tùy thuộc tiếng tăm, danh dự gia đình, giòng tộc của mình nữa. Khi nhắc đến tiểu sử những vị anh hùng hay những người nổi tiếng có vai trò quan trọng trong xã hội, sử gia thường nhắc nhở đến nguồn gốc, họ hàng giòng tộc của người đó. Đọc lịch sử người xưa, ai cũng nhận thấy danh dự gia đình đã ảnh hưởng suốt đời của một người dầu đôi khi phải chấp nhận sống trong hoàn cảnh khó khăn để bảo vệ tiếng tăm cho gia đình hay giòng họ, có khi tuân theo câu "Đói cho sạch, rách cho thơm" đến mức quá độ. Chẳng hạn, con cái giòng tộc nhà giáo không dám làm một số nghề được coi là không xứng đáng với danh dự họ hàng nhà mình...
Chính vì danh dự gia đình được coi trọng và được bảo vệ, cá nhân chấp nhận tự cải thiện hay khuôn mẫu hóa chính mình sao cho xứng đáng với danh tiếng gia đình hay giòng tộc. Như thế, danh dự gia đình một cách nào đó trở thành một trong những yếu tố căn bản giáo dục cá nhân sao cho sống xứng đáng hơn trong sự liên hệ với người khác, với làng nước và xã hội. Ngược lại, danh dự gia đình cũng phần nào bảo vệ hoặc giúp cho cá nhân tránh khỏi những trường hợp tai bay vạ gió bởi dầu sao, "Đánh chó, ngó chủ." Bảo vệ danh dự gia đình đối với người Việt là nhiệm vụ bảo vệ danh dự cho cha mẹ, ông bà, giòng tộc. Con cái sống không nên không phải mang tiếng xấu không những cho chính mình mà còn cho cha mẹ và anh em họ hàng trong giòng tộc. Đem lại tiếng tăm không tốt cho cha mẹ là bất hiếu, là ngỗ nghịch, trái đạo làm người.
Theo sự nhận xét của linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, S. J., những phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam bắt nguồn từ Nho giáo, và xã hội được đặt trên nền móng những mối tương quan vua tôi, cha mẹ và con cái, vợ chồng, và giữa anh chị em. Tương quan giữa cha mẹ và con cái là nền móng chi phối các mối tương quan khác. Con cái bắt buộc phải yêu kính cha mẹ và sự yêu kính này chẳng những bao hàm lòng kính trọng mà còn ở sự phục tùng cha mẹ đến suốt đời. Đó cũng là nền tảng luân lý chi phối toàn diện xã hội; nền tảng này được khuyến khích và cổ võ đến độ trở thành giáo điều, "một chân lý không thể thay đổi của trời..., một sự công chính không thể suy sụp của đất, và là một nhiệm vụ phải tuân theo của mọi người" theo Khổng Tử. (Việt Nam Quê Hương Tôi; Dominici Đỗ Minh Trí, S. J., Manila, Phi Luật Tân 1987).
Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói đến sự ảnh hưởng liên hệ giữa cá nhân và gia đình chẳng hạn: "Làm xui một nhà làm ra cả họ," hoặc "Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống," chứ không nói đến vai trò và sự liên hệ của gia đình đối với làng nước, xã hội. Đã là dân Việt, mọi người đều nhận thấy vai trò và sự đóng góp quan trọng của gia đình đối với xã hội; sự liên quan này có tính chất nhận thức qua sự bảo vệ danh dự chứ không được viết thành văn. Gia đình được coi là nguồn gốc căn bản của xã hội, nói cách khác, xã hội là một đại gia đình bao gồm các thành phần căn bản nhỏ hơn là gia đình. Xã hội việt Nam lại ít khi đặt vấn đề về giáo dục quần chúng mà thúc đẩy và khuyến khích nền giáo dục gia đình. Do đó, có thể nói vai trò của gia đình là căn bản đào tạo những thành viên cho xã hội. Gia đình có nề nếp thế nào, xã hội sẽ có khuôn mẫu tùy thuộc vào những đặc tính chung của các nề nếp gia đình. Hơn nữa, sự liên hệ của cha mẹ (đại diện cho gia đình) ảnh hưởng, hay có thể nói là chính sự liên hệ của gia đình đối với xã hội. "Con vua thì lại làm vua, con chú sãi chùa thì quét lá đa," và ngược lại, "Phải khi trời đất can qua, con vua lại quét lá đa nhà chùa." Gia đình, thứ bậc xã hội thay đổi, con người thay đổi theo.
Tóm lại, đối với dân Việt, gia đình là căn bản và cũng là thế đứng cho một người, và giá trị một người gắn liền với danh dự gia đình, giòng tộc.
TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG
Tình nghĩa vợ chồng được đặt trên nền tảng bản năng di truyền sự sống tự nhiên của con người nơi sự hòa hợp đời sống giữa hai phái nam và nữ. Tự bản chất, phái nam cần phái nữ và ngược lại để bổ túc và giúp đỡ đồng thời khuyến khích nhau sống vươn lên xây dựng cuộc đời, phát triển khả năng, sinh thành và nuôi dưỡng cũng như gầy dựng cho con cái. Sự kết hợp này do bản tính tự nhiên do đó là một nhu cầu; đồng thời nó cũng được bổ túc do các bản năng khác chẳng hạn đặc tính muốn yêu và muốn được yêu; sự nhung nhớ, bản chất hy sinh cho người phối ngẫu. Thêm vào đó, sự kết hợp xác thân liên kết hai người trở thành một: "Kim đâm vô thịt thì đau, thịt đâm vô thịt nhớ nhau suốt đời." Tình nghĩa vợ chồng là một sự gắn bó thể xác và tâm hồn dù cho tình cha mẹ cũng không bằng: "Chữ xuất giá tòng phu phải lẽ, gái có chồng bỏ mẹ quạnh hiu. Bớ anh ơi, em nhớ khi thơ bé nâng niu, ngày nay xuất giá bỏ liều mẹ cha." Tình vợ chồng bộc phát tự nhiên nơi con người chứ không bị lệ thuộc bởi bất cứ lề luật nào mà mang tính chất tự nguyện: "Mẹ cha bú mớm nâng niu, tội Trời thì chịu không yêu bằng chồng." Những gì thuộc bản năng tự nhiên của con người tất nhiên không có quy luật nào có thể ngăn cấm. Tình chồng vợ phát xuất do bản năng tự nhiên con người: "Chàng về thiếp nhớ đăm đăm, giường trên chiếu dưới ai nằm đêm nay?" Bởi "Thương ai ví bằng thương con, nhớ ai ví thể gái son nhớ chồng." Đồng thời theo lẽ tự nhiên cũng được mọi người chấp nhận: "Đi đâu có anh có tôi, người ta mới biết là đôi vợ chồng." Sự gắn bó này được tạo thành từ đặc tính cần thiết sự hiện diện của người này đối với người kia, một điều kiện không thể thiếu nơi tình yêu đôi lứa tạo nên mối ràng buộc: "Đi đâu cho thiếp xin can, ở nhà với thiếp thân tàn cũng vui." Hoặc: "Sông sâu sóng cả em ơi, chờ cho sóng lặng buồm xuôi ta cùng. Đã trót đa mang vào kiếp bềnh bồng, xuống ghềnh lên thác một lòng yêu nhau."
Nhận ra những tính chất tự nhiên không thể thiếu tạo nên sự kết hợp cuộc đời đôi lứa, con người thấy cần phải cổ võ sự bền vững và bảo vệ để chống lại sự xâm nhập của những căn nguyên nguy hại làm tan vỡ mối liên kết lứa đôi nên tìm hiểu và nói lên những tính chất tốt lành của sự kết hợp này gọi là đạo vợ chồng. Đạo vợ chồng là sự thực hiện cũng như kết quả ý thức về sự ràng buộc, gắn bó, nghĩa vụ của hai người nam nữ trong liên hệ hôn nhân: "Xét ra trong đạo vợ chồng, cùng nhau nương cậy đề phòng nắng mưa." Đạo vợ chồng đặt nặng tính chất "nghĩa" nơi cuộc sống đôi lứa: "Cầu mô cao bằng cầu danh vọng, nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con. Ví dầu nước chảy đá mòn, xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương." Tình tự nhiên hòa hợp với nghĩa vợ chồng đã là động lực cho một người xả thân, hy sinh chính mình cho người bạn đời và gia đình: "Thương chồng nên phải gắng công, nào ai xương sắt dạ đồng chi đây;" hoặc nhiều khi chấp nhận trả giá mắc mỏ vì lầm lỗi của người bạn đời: "Anh đi ghe rổi chín chèo, bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo. Nợ treo mặc kệ nợ treo, em bán bánh bèo trả nợ cho anh." Chẳng những thế, chính tình nghĩa này đã trở thành năng lực cho người vợ bền bỉ hy sinh vì chồng: "Một ngày ba bận trèo đèo, vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng?" hay "Một ngày mấy lượt trèo non, lấy gì làm đẹp làm dòn hỡi anh!" hoặc thay thế chồng chu toàn nhiệm vụ báo hiếu cũng như chăm sóc con cái: "Anh đi em ở lại nhà, hai vai gánh vác mẹ già con thơ. Lầm than bao quản nắng mưa, anh đi, anh liệu chen đua với đời." Năng lực tình nghĩa còn giúp cho người đàn bà chân yếu tay mềm cáng đáng mọi sự chẳng những cho mình mà còn cho cả chồng con: "Một mình lo tảo lo tần, lo phần sưu thuế, lo phần chồng con." Do đó chẳng lạ gì tình nghĩa được gọi đi đôi với nhau.
Tình nghĩa gắn bó hai người trong mọi hoàn cảnh: "Có chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo," không phân biệt của cải riêng tư mà tất cả thuộc chung hai người: "Của người thì đứng mà trông, của chồng thì cất lấy hòng mà ăn." Nói như thế hơi quá đáng vì thiếu để ý đến công sức và sự đóng góp của người vợ. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, chẳng gì được gọi là "của riêng chồng" và cũng chẳng gì được gọi là "của riêng vợ" nhưng "Của chồng công vợ."
Trong cuộc sống vợ chồng, tình cảm lứa đôi là căn bản cho sự đối xử giữa hai người đồng thời tình cảm này ảnh hưởng chẳng những nếp sống mà còn sự cảm nhận của con người đối với cuộc đời chung quanh. Tình là tất cả; tình biến đổi mọi sự: "Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon." Tình nghĩa vợ chồng kiến tạo nơi tâm hồn mỗi người ý thức chấp nhận lẫn nhau cũng như chấp nhận hoàn cảnh xảy đến cho cả hai: "Theo nhau cho trọn đạo Trời, dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm;" để luôn có nhau: "Đôi ta như rắn điu điu, nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau. Đôi ta như thể con tằm, cùng ăn một lá, cùng nằm mộng nong. Đôi ta như thể con ong, con quấn con quít, con trong con ngoài;" không so sánh đua đòi ước ao: "Chồng ta áo rách ta thương, chồng người điểm phấn tô hương mặc người;" mà tất cả đều vì người phối ngẫu: "Nương song luống ngẩn ngơ lòng, vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai" (Chinh Phụ Ngâm). Hơn nữa, chính tình nghĩa vợ chồng đem lại hạnh phúc thực sự cho người phối ngẫu: "Vì chưng ăn miếng trầu anh, cho nên má đỏ tóc xanh đến giờ."
Tình nghĩa vợ chồng đồng thời cũng tạo nên nỗi đau lòng, tăng thêm niềm nhớ mỗi khi có chuyện ngăn sông cách trở đôi lứa: "Bước xuống tàu, ruột bào gan thắt, Trời hỡi Trời, chồng Bắc vợ Nam." Khi có chuyện cần phải cách xa dăm hôm đôi tháng làm sao diễn tả được sự lo lắng chuẩn bị cho người phối ngẫu: "Chàng ơi trẩy sớm hay trưa, để em gánh gạo tiễn đưa hành trình." Chẳng những thế, người ra đi chưa bắt đầu cất bước thì người ở lại đã cảm thấy ưu tư lo lắng về những ngày của chồng sống nơi đất đến: "Cậu đi ba tháng cậu về, rừng thiêng nước độc chớ hề ở lâu." Và lẽ tất nhiên, tình nghĩa nặng nề bao nhiêu thì mối gắn bó chăm sóc càng được để ý bấy nhiêu: "Chim kêu vượn hú non đoài, không ai lo lắng trong ngoài cho anh." Kẻ ra đi có mục đích, công việc làm bạn, đàng này người ở lại đợi chờ ngẩn ngơ với mảnh lòng nhung nhớ: "Anh đi em một ngó chừng, ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng sâu."
Tuy nhiên, không ai lạ gì câu: "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu giữ mình." Trung với vua, với tổ quốc; hiếu thảo và phụng thờ cha mẹ đó là bổn phận của người làm trai. Xét như thế, người đàn ông Việt Nam đương nhiên bị quan niệm trung, hiếu choán hết phần tình cảm riêng tư dành cho vợ con. Tục Ngữ, Ca Dao ít đề cập đến tình cảm của người đàn ông đối với vợ hoặc phải đối xử thế nào trong cuộc sống vợ chồng hay bổn phận với gia đình, vợ con mà chỉ nói về bổn phận người đàn bà với chồng, phải chiều chuộng hoặc chấp nhận hoàn cảnh ngay cả khi chẳng may gặp người chồng không ra gì... Quan niệm về bổn phận và trách nhiệm được định hướng chỉ một chiều: Con cái đối với cha mẹ, vợ đối với chồng, người đàn ông trong bổn phận tôi tớ đối với vua được coi như trung thành với đất nước.
Có lẽ xã hội Việt Nam thời xưa quá trọng nam khinh nữ "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," hoặc vì cơ cấu xã hội do người đàn ông làm chủ; chỉ người đàn ông mới có thế đứng trong xã hội; đồng thời cũng người đàn ông chịu trách nhiệm đối với xã hội nên thân phận đàn bà không được đếm xỉa tới hay ít được nói tới mà chỉ được coi như phụ thuộc vào người đàn ông. Trong gia đình, đàn bà là nội tướng nhưng mọi quyết định đều do người đàn ông nên vai trò người đàn bà, dầu phải gánh chịu mọi việc, nuôi nấng dạy dỗ con cái, phục dịch chồng, phục dịch cha mẹ chồng mà vẫn bị lệ thuộc người đàn ông. Hơn nữa, vì căn bản sinh sống của người Việt dựa trên nông nghiệp cần nhiều nhân lực vì vậy có thể nói đôi khi người đàn bà chỉ được coi như chiếc máy đẻ con cho người đàn ông do đó bị coi thường chăng. Thậm chí người đàn bà nào mà không sinh được con trai để nối dõi tông đường còn bị coi là thất sủng, phải cưới vợ bé cho chồng để sinh con thế mình. Người tuyệt tự bị chế diễu, đôi khi bị coi chẳng ra gì: "Cây khô không lộc, người độc không con." Khổ nỗi ngày xưa có lẽ ít người để ý lý do tại sao vợ chồng chung sống không có con; có thể là nơi cơ thể người đàn bà, cũng có thể do người đàn ông, hoặc vì tính chất cơ thể của hai người xung khắc nên không thể có con. Thế mà thường thì lý do không con lại chỉ đổ về người đàn bà: "Có chồng mà chẳng có con, khác gì hoa nở trên non một mình." Hơn nữa vì không con nối dõi bị coi như mang tội bất hiếu; bởi thế người đàn bà không con lại càng bị mang mặc cảm nhiều hơn. Thử hỏi ai trong chúng ta không biết câu: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng." Quan niệm này nói lên vai trò quá lố trong quan niệm hôn nhân của người đàn ông; đồng thời cũng không nhìn nhận giá trị của người phụ nữ trong cuộc sống hôn nhân và như vậy phụ nữ chỉ được coi như món đồ hoàn toàn lệ thuộc không có quyền nhận định về chính vị thế của mình. Thêm nữa, bởi xã hội do người đàn ông làm chủ, cai quản nên phần nào nếu không muốn nói là đa số những gì đàn ông ham muốn đều được cổ võ chẳng hạn như cổ tục đa thê. Mặc dầu "Sông bao nhiêu nước cho vừa, trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng" nói lên tâm lý tham lam chung của đàn ông nhưng chấp nhận "Trai năm thê bảy thiếp" lại cổ võ cho sự thiếu chung thủy của người chồng đối với vợ. Sự cổ võ này còn được lan rộng để đến nỗi được coi như điều nên theo của phái nữ: "Chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười chúm chím thưa anh giận gì. Thưa anh, anh giận em chi, muốn lấy vợ bé em thì lấy cho." Thật không còn gì đau lòng hơn dù chỉ phải nói lên điều mà không ai muốn: chấp nhận sự chia sẻ tình chăn gối của người phối ngẫu với người khác; thế mà lại được diễn tả với thái độ miệng cười chúm chím! Hoặc hơn thế nữa, đối với cuộc sống bình thường, đàn ông có vợ nhỏ hoặc đi ngang về tắt thì không sao nhưng đàn bà đi ngang thì lại bị trốc đầu bôi vôi, đóng trăng buông sông. Tất nhiên, dù cổ tục đa thê có được cổ võ đến đâu chăng nữa thì vẫn có những phụ nữ không thể chấp nhận chia sẻ tình nghĩa gối chăn cho người khác. Nhưng trong một xã hội, có thể nói mọi người chấp nhận như thế, phụ nữ dù muốn dù không cũng bị chấp nhận mặc dầu với nỗi lòng đau khổ cam chịu nên đã có những câu ca thán: "Ai bày cái lệ đa thê, để cho phụ nữ nhiều bề khổ đau." hoặc "Anh đừng mê bông quế mà bỏ bông lài; mai sau bông quế rụng, bông làm thơm lâu." Sự cam chịu này đa số trở thành lời bi ai "Chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng." Hoặc bực bội hơn nữa: "Dù chàng năm thiếp bảy thê, cũng không tránh khỏi gái sề này đâu."
Xét về tình nghĩa vợ chồng một cách tương đồng, Tục Ngữ, Ca Dao nói tới rất ít; có thể vì ai cũng biết nên không được đề cập tới, hoặc vì tính chất luân lý chỉ nói lên những điều nên được củng cố mà không phô bày thực trạng chẳng ra gì chăng, hay vì khó nói do đó hiếm người nói tới. Nhìn theo khía cạnh triết lý, dân Việt không có lý thuyết triết lý mà sống triết lý do đó có thể tình nghĩa vợ chồng được lồng trong lối sống chu toàn nhiệm vụ cho xứng với vị thế của mình nơi gia đình và xã hội. Như vậy, tình cảm bị đặt nơi hàng thứ yếu sau hiếu, trung: "Mình về ta chẳng cho về, ta nắm lấy áo ta đề câu thơ. Câu thơ ba chữ rành rành: chữ trung chữ hiếu chữ tình là ba. Chữ trung thì để phần cha, chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình." Có lẽ "Chữ trung thì để phần cha" được viết cho vần với câu thơ chứ không ai gọi trung đối với cha mẹ mà là hiếu thảo với cha mẹ. Chữ trung thường được dùng trong "đạo vua tôi" hoặc "trung quân ái quốc." Đồng thời quan niệm trung hiếu được người xưa đặt rất nặng: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu." Quan niệm trung quân còn được gọi đạo quân thần và được coi như chân lý bất di dịch của người xưa theo Khổng học bởi vua được coi như con trời, được sai xuống để cai trị muôn dân. Có lẽ với chủ đích bảo vệ ngai vàng nên quan niệm Trung Quân được cổ võ đến độ quá đáng làm giảm bớt giá trị tình nghĩa vợ chồng.
Tục Ngữ, Ca dao mang nặng tính chất luân lý nên nói về những điều vợ chồng nên theo cho đẹp tình đẹp nghĩa đồng thời giúp xây dựng cuộc sống gia đình: "Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn." Lẽ đương nhiên, đã là người ai cũng mang tham, sân, si thế nên khi đã thành gia thất, ông cha ta răn dạy: "Vợ chồng là nghĩa già đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn." Xét theo cơ cấu gia đình Việt Nam, người đàn ông lo làm lụng kiếm kế sinh sống cho gia đình trong khi người đàn bà quán xuyến tất cả những công việc chăm sóc con cái, nội trợ cũng như hiếu đễ đối với đôi bên cha mẹ. Qua kinh nghiệm sống, cho dù đàn ông có kiếm được nhiều tiền mấy đi chăng nữa, với tính chất thiếu tỉ mỉ lo lắng của người đàn bà, tiền bạc có chất như núi mà không biết giữ cũng chẳng còn gì để bảo vệ cuộc sống sau này; vì vậy Ca Dao, Tục Ngữ ví "Chồng như giỏ, vợ như hom." Thế nên vợ chồng cần sự tin tưởng lẫn nhau vì nếu không có sự tin tưởng nơi người phối ngẫu, "Vợ chồng chẳng trọn niềm tin, sẽ giảm hạnh phúc, lợt tình yêu thương." Mặc dầu: "Thế gian được vợ mất chồng, có phải như rồng mà được cả đôi." Bởi thế khi có chuyện không hay xảy đến, nhịn nhục là điều cần thiết cho sự êm ấm gia đình: "Chồng giận thì vợ bớt lời, chồng giận vợ giận thì giùi nó quăng."
Càng sống lâu, người ta càng nhận thấy: "Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Chữ nhân nghĩa mang ý chung chỉ lòng thành của con người với con người. Đối với cuộc sống lứa đôi chữ nhân là tình nghĩa vợ chồng. Nói đến tình nghĩa vợ chồng, Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói về nghĩa của người vợ đối với chồng chứ không nói về nghĩa của chồng đối vợ. Không ai lạ gì: "Con nuôi cha không bằng bà chăm ông." Bà chăm sóc cho ông thì không ai có thể so sánh. Người phụ nữ Việt Nam được nuôi dưỡng nơi nền luân lý giáo điều một chiều; nào Tam Tòng, Tứ Đức, nào Đạo Phu Phụ: "Đạo phu phụ tương kính như tân." (Khổng Tử), nào Ngũ Thường, nào lý thuyết Tiết Hạnh, nào "Gái chính chuyên một chồng;" nên tình người vợ đối với người chồng đậm đà tha thiết ngược hẳn tình chồng đối với vợ bởi: "Đàn ông năm bảy lá gan, lá dành cho vợ lá toan cùng người." Tuy nhiên, đối với phụ nữ: "Trăm năm giữ vẹn chữ tòng; sống sao thác vậy một chồng mà thôi." Do đó nào lạ gì nếu người phụ nữ không may xe duyên kết tóc phải người chồng chẳng ra gì thật cả là một đời khổ ải: "Chị em ơi, người ta trông thấy mặt chồng thì mừng; sao tôi trông thấy mặt chồng thì lại như gừng, như vôi." Hoặc bẽ bàng hơn: "Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn ở với người ngu nặng mình."
Đàn ông có thương vợ thì cũng chỉ một phần nào tỏ nỗi lòng nhớ nhung: "Anh đi anh nhớ noi Côi, nhớ sông Vị Thủy nhớ người tình chung. Quản bao non nước ngại ngùng, lấy ai san sẻ gánh gồng đàng xa." San sẻ chỉ là chia bớt phần nào sự khổ cực, hoặc vì yêu thương nên thăng hoa người mình thương cũng chỉ là sự thường "Lỗ mũi em tám gánh lông, chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho...;" trong khi tình người vợ đối với chồng thật là tha thiết. Người vợ chẳng những yêu thương chồng mà còn chấp nhận và hy sinh quá điều nên làm: "Đốt than nướng cá cho vàng, đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi. Phòng khi có khách đến chơi, cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chàng." Tình của người vợ đối với chồng là một sự lệ thuộc, một chấp nhận hy sinh chính bản thân mình: "Thương chồng nên phải lầm than, xưa nay ai bắt việc quan đàn bà." Hoặc "Vì chàng thiếp phải bắt cua, những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng. Vì chàng thiếp phải long đong, những như thân thiếp cũng xong một bề."
Tình đã khó dứt, nghĩa lại càng khó hơn; thế nên khi lập gia đình, người phụ nữ cũng phải đắn đo mặc dầu ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đó: "Chẳng ham nhà ngói ba tòa, ham vì biết được mẹ cha hiền lành;" bởi cha mẹ hiền lành sẽ dạy dỗ, đào tạo nên những người con có nghĩa. Hơn nữa, tâm tình của con người được khuôn đúc từ cuộc sống luân lý cộng thêm tính chất hy sinh đồng thời được phụ họa do bản tính đặc biệt của phụ nữ: yêu thương là tất cả, nghĩa của người vợ đối với chồng bao quát cả cuộc sống được lồng trong vị thế nhiệm vụ: "Sách có chữ rằng phu xướng phụ tòng, làm thân con gái lấy chồng xuất gia. Lấy em về thờ kính mẹ cha, thờ cha kính mẹ ấy là người ngoan." Như vậy, nào lạ gì người Việt mình nói tình nghĩa vợ chồng chứ không nói tình nghĩa chồng vợ!
CON CÁI
Người Việt có câu: "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông." Thật khó diễn tả cho hết ý nghĩa của lối chơi chữ nơi câu này. Nào thiếu gì người không có con vẫn được gọi là cha và cũng lắm người chẳng có cháu vẫn được gọi là ông nếu xét theo nghĩa đen trong liên hệ huyết thống giòng tộc. Xét theo nghĩa bóng, danh phận một người được nhìn nhận tùy theo khả năng, chức vụ lại càng khó định mức trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn quan niệm chính danh áp dụng cho chữ "học thức." Lấy mẫu mực giới hạn nào để xác định một người là học thức hay không. Cuộc đời không thiếu chi người tay trắng làm nên! Bao nhiêu người dù ngay cả tên mình không biết ký, nói theo kiểu bình dân, "Nửa chữ nhất không biết" thế mà lối suy nghĩ, tính toán công việc làm ăn hơn hẳn một số người có bằng cấp nọ kia. Cái ngược đời khó thể hiểu là họ không có cơ hội đến nhà trường để học cũng không được học riêng tại nhà khi còn nhỏ (bởi nửa chữ nhất không biết) vì sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó thế mà đôi khi giầu có hơn một số người được ăn học. Dĩ nhiên, sinh con ra, tính theo huyết thống, có người gọi mình là bố; và đồng thời nếu là cháu thì sẽ gọi bố của bố mình là ông. Không có con, lẽ tất nhiên không có ai gọi mình là cha theo đúng nghĩa huyết thống của tiếng cha và đã không có cháu, có ai gọi là ông cũng chỉ là ông ấy. Một điều hiển nhiên, từ xưa tới nay, nơi tâm tình người Việt, những người trong bậc đôi bạn, ai cũng muốn có con cái.
Đối với cha mẹ, con cái có một vị thế quan trọng có thể nói bậc nhất nơi gia đình chẳng những vì con cái là kết quả tình yêu thương đôi lứa mà còn là mối dây bảo vệ và nối kết tình nghĩa vợ chồng cũng như niềm vui và mục đích của cuộc sống hôn nhân. Tự bản chất, con người được sinh ra với bản năng và khuynh hướng sinh tồn. Không có hình ảnh nào đẹp hơn cảnh người mẹ bồng con hoặc ông cụ già dắt tay cháu nhỏ đi dạo trong cảnh chiều hôm. Con cái nối tiếp sự sống của cha mẹ được đúc kết bởi tình yêu thương đôi lứa ngoại trừ một số trường hợp ngoài ý muốn. Ai lập gia đình mà không muốn có con; ai dựng vợ gả chồng cho con cái mà không trông mong có cháu... Thế nên cũng lắm người âu sầu vì con cái muộn vợ muộn chồng hoặc lo âu vì cưới lâu mà không sinh nở.
Đối với cuộc sống vợ chồng, con cái đóng vai trò hòa giải khá nhiều những bất bình khó thể mang, là mối xoa dịu nỗi cực khổ vất vả bon chen kiếm miếng cơm manh áo. Công việc làm của một người dù nặng nhọc đến đâu cũng đã có mục đích để chịu đựng: làm lụng đem lại cuộc sống thoải mái hơn cho con cái, không những cho con ăn no mặc ấm mà còn ngang bằng chúng bạn.
Do lòng thương con vô bờ bến, không của cải, vật dụng nào có thể so sánh hoặc có thể làm cha mẹ chú ý hơn. Cha mẹ hy sinh tất cả vì con, "Lập thân mới biết khổ thân, nuôi con mới biết công ơn sanh thành," hoặc "Chim trời ai dễ đếm lông, nuôi con ai dễ kể công tháng ngày," hay "Thương ai bằng mẹ thương con..." Nhìn vào thực tế, nhiều cảnh coi bộ trớ trêu: Cha mẹ không dám ăn diện trong khi con cái lại được sắm sửa tươm tất. Chính vì con cái được coi là quý trọng hơn bất cứ gì nơi gia đình, có người đã nói lên: "Một con một của ai từ." Con cái cũng như sự sống được cho là phước lộc trời ban: "Không con tội chết."
Lẽ đương nhiên, "Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng," nhưng quan niệm về con cái theo người Việt cũng có phần nào khác biệt giữa con trai và con gái, con thứ và con trưởng. Vì theo chế độ phụ hệ, con trai được ưa chuộng hơn con gái thế nên chẳng lạ gì "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô." Con trai mang tên dòng họ; con gái sau này phải mang họ nhà chồng, không còn gì lưu vết; bởi vậy không lạ chi con gái bị viết "vô". Niềm tin tưởng tên dòng họ mình còn được lưu truyền nên con trai đầu tiên được sinh ra, cha mẹ, nhất là đàng nội vui mừng: "Thứ nhất đẻ con trai, thư hai đỗ ông nghè." Không có con trai bị coi là tuyệt tự; có lẽ quan niệm này hơi quá; chẳng qua con trai mang tên dòng họ vì quan niệm phụ hệ mà thôi; thực ra đối với quan niệm mẫu hệ, con gái lại được coi trọng hơn. Con trai trưởng là người sau này giữ hương hỏa của gia đình và khi người cha qua đời thì cũng chính con trai trưởng giữ vai trò phân định trong gia đình. Anh cả có bổn phận lo bề gia thất cho các em khi cha đã khuất núi mặc dầu hãy còn mẹ. Những việc có sự chung đụng, liên hệ với bà con thân thuộc, người anh cả đại diện cho cha đứng ra gánh vác; đồng thời giỗ tết hàng năm, các em phải đến nhà anh cả lo việc hương đèn cúng bái như khi bố mình còn sống.
Tuy nhiên, làm thân con trai trong gia đình đôi khi cũng bị du vào những trường hợp khó xử. Hơn nữa, người ta sinh ra có ai được hỏi ý kiến trước muốn có tài năng về phương diện nào bao giờ. Thường thì mãi sau này mới biết mình khéo chuyện chi, dở về gì; thế mà "Làm anh ăn trước bước đầu, vẽ vời em út ngõ hầu thay cha." Hoặc "Làm trai bách nghệ cho tinh, đến khi túng mình rở bách nghệ ra." Dẫu là những câu khuyến khích thăng tiến bản thân, đôi trường hợp gặp người chậm trí thì lại trở thành những lời mỉa mai một cách oan uổng. Hơn nữa, nơi xã hội, người con trai được trọng vọng bao nhiêu thì cũng mang nhiều trọng trách bấy nhiêu: "Đã sinh ra kiếp đàn ông, đèo cao núi thẳm sông cùng quản chi."
Con gái, mặc dầu giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống gia đình nhất là ở vai trò làm vợ và làm mẹ sau này. Nhưng vì xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng quan niệm Tam Tòng nên người đàn bà bị coi là thứ yếu. "Con gái là con người ta" bởi lấy chồng bị đổi tên theo họ nhà chồng từ khi lập gia đình. Thật ra với quan niệm trọng nam khinh nữ, nhiều khi phái yếu mang nhiều thua lỗ, thiệt thòi dẫu có khả năng hơn người về nhiều phương diện vì không được trọng dụng.
Dẫu có những gia đình làm ăn nên nhờ con gái, quan niệm chung thì vẫn "Con gái đái lở đầu hè." Vừa mới lớn có thể nhờ cậy được công kia việc nọ thì đã có nơi nhòm ngó, đánh tiếng... Thế nên con gái "Sống quê cha, ma quê chồng." Khi đã lập gia đình, người phụ nữ Việt Nam hoàn toàn không tùy thuộc vào gia đình cha mẹ mình mà được coi như tách biệt hẳn: "Tay mang khăn gói qua sông, mẹ kêu mặc mẹ thương chồng phải theo." Có lẽ chính vì thế người ta chỉ chê trách trai nghe vợ chứ không ai bình phẩm gái nghe chồng. Khi xưa, quan niệm "Con gái là con người ta" ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi dù nhà chồng tàn ác với con mình thì cũng đành cắn răng chấp nhận. Quả thật, không thể hiểu được tại sao dân mình lại chịu đựng nỗi bất công một cách ghê gớm đến thế. Phỏng có phải bởi sự thiếu hiểu biết hay vì quan niệm một cách sai lầm làm cho con người lãnh hậu quả đau khổ như vậy chăng!
Tuy nhiên, lại cũng có người quan niệm "Gái mà chi, trai mà chi! Sinh ra có ngãi có nghì là hơn." Muốn cho có ngãi có nghì lại tùy thuộc vấn đề giáo dục gia đình mặc dầu "Cha mẹ sinh người trời sinh tính." Tính nết mỗi người tùy thuộc tự bản chất được sinh ra chứ chưa chắc "Nhân chi sơ, tính bản thiện" (Tam Tự Kinh). Thêm vào đó giáo dục gia đình ảnh hưởng và khuôn mẫu phần nào tư cách một người... Bình thường, "Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai chẳng vun trồng cho con." Thế mà vẫn có những người "Con ông Sấm, cháu bà Sét." Đó cũng có thể là một trong những lý do tại sao người Việt mình đặt nặng vấn đề giáo dục gia đình: "Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy tiền." Ở đấng bậc cha mẹ, có những cảnh khó ai có thể cảm thông khi gặp trường hợp "Có con phải khổ vì con." Khổ về vật chất, cuộc sống còn có thể dễ dàng vượt qua bởi ý thức chấp nhận thân phận hay số mạng; đàng này chẳng may gặp trường hợp "Con dại cái mang" thì không những "Đẻ con khôn mát như nước, sinh con dại rát như hơ" mà người đời chẳng hiểu cho đấy là đâu lại còn chêm nếm: "Trồng cây chua ăn quả chua; trồng cây ngọt ăn quả ngọt."
Ông cha ta tin rằng "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Tuy nhiên, không phải những người chẳng ra gì đều có cha mẹ không hiền lành. Bởi tính nết con người tự bẩm sinh và giáo dục dẫu có ảnh hưởng lớn đến tâm tính con người thì cũng chỉ đúng cho đại đa số. Những trường hợp ngoại hạng "Cây ngọt sinh trái đắng" không phải là không có trên cõi đời này. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, những bậc cha mẹ chẳng may cuộc đời run rủi rơi vào hoàn cảnh có con cái thuộc loại "Con ông Sấm cháu bà Sét," sẽ bị cả đời phiền não. Cha mẹ nào không muốn cho con hay, con giỏi, và ai không cảm thấy "Con khôn nở mặt cha mẹ;" đồng thời có dạy con mới thấy "Con tài lo láo con kiêu, con ngu thì lại lo sao kịp người;" thế mà gặp cảnh "Con cưỡng cha mẹ" chẳng lẽ mang ra mà chém! Vì vậy, chẳng lạ gì, đôi khi "Có con tội sống, không con tội chết" cũng làm cha mẹ tan nát lòng.
Con dâu và con rể được coi nặng nhẹ khác nhau. Con dâu được coi như người trong nhà, lại có khi nắm hết cả quyền hành trong họ nếu là dâu trưởng tộc. Cứ theo câu "Con gái là con người ta, con dâu chính thực mẹ cha mua về" thì địa vị người con gái trong gia đình ruột thịt bị coi nhẹ bao nhiêu, ngược lại, vai trò con dâu có vẻ lấn át nơi gia đình chồng bấy nhiêu. Chữ "mua" có lẽ nên đổi thành chữ "cưới" mới đúng vì không ai mua vợ mà chỉ mua nàng hầu như thói lệ xa xưa. Hơn nữa người ta chỉ mua đồ vật để rồi xử dụng tùy ý... Dùng chữ mua theo quen miệng đôi khi sinh hiểu lầm mặc dầu vần dễ đọc hơn chữ cưới.
Tâm lý bình thường, một người con trai, được mẹ thương hơn con gái trong khi con gái được bố cưng hơn, và các chị em gái quí mến thân thiết đối với người con trai. Khi có vợ, tình cảm lứa đôi khiến chàng quấn quýt với vợ hơn mẹ và chị em gái đưa đến mặc cảm "Dâu vô nhà, mụ già ra ngõ," và nhiều khi những chuyện nhỏ nhoi cũng gây khó dễ cho nàng dâu. Nhưng lại cũng có những trường hợp nàng dâu khôn ngoan biết ăn ở thì lại "Dâu hiền nên gái," hoặc ít ra "Dâu như con".
"Rể là khách" cũng chẳng lạ gì vì dù sao con gái mình tùy thuộc chàng. Câu nặng câu nhẹ đụng tới "ông con rể," tất nhiên con gái mình bị thiệt... âu đấy cũng là lối đối xử trả vay; quýt làm cam chịu. Gặp trường hợp chẳng may, con rể rơi vào thế phải ở nhà bố mẹ vợ thì lại "như chó rúc gầm chạn," nên "Há miệng mắc quai," khó ăn khó nói với mọi người chẳng những thuộc gia đình đàng vợ mà còn với xóm giềng làng nước. Thế mới hay vận số đôi khi cũng làm phiền đến chí khí con người.
HIẾU ĐỄ
Việt Nam Tự Điển do Lê văn Đức biên soạn định nghĩa hiếu đễ là "Thảo thuận, tức hiếu thảo với cha mẹ và thuận hòa với anh em." Ông cho rằng hiếu đễ và hiếu thuận đồng nghĩa với nhau. Hiếu đễ bao gồm hiếu và đễ. Cũng theo Lê văn Đức, hiếu là "thảo, hết lòng với cha mẹ" (P. 611 Quyển thượng). Đễ là "thuận thảo, nhường nhịn; nhường anh, nhường chị lại nhường người trên" (trang 440). Ca Dao cũng có câu: "Trong nhà hiếu với mẹ cha, kính nhường người lớn khi ra bên ngoài." Xét về hiếu đễ thường chỉ được chú trọng tới hiếu thảo bởi người hiếu thảo mới có thể có được thuận thảo với anh em họ hàng.
Dĩ nhiên không ai tự lỗ nẻ nơi lòng đất chui lên, "Con có cha, mẹ đẻ; không ai ở lỗ nẻ mà lên;" dù con gà con vịt mới nở đã có thể tự ăn ngay không cần bú mớm nhưng cũng cần sự giúp đỡ dẫn dắt trong những ngày trứng nước mới ra khỏi vỏ. Càng những động vật khôn ngoan lại càng cần sự ấp ủ chăm sóc trong thời gian mới được sinh ra chẳng hạn như mèo, chó, trâu, bò, khỉ, vượn. Con người, sinh vật đứng hàng đầu, sự khôn ngoan vượt hẳn tất cả các loài động vật nên cần được nuôi dưỡng và giáo dục và chăm sóc nhiều hơn.
Chính vì có lý trí để suy tư nhận ra điều phải trái, nên hay không nên hoặc ghi nhớ công ơn những người đã giúp, đào tạo cho mình, hiếu thảo được đặt lên hàng đầu trong bổn phận làm người bởi: "Có cha mẹ mới có ta, làm nên nhờ có mẹ cha vun bồi." Ngoại trừ những trường hợp bất thường chẳng may xảy đến cho một số người, ai không nhận ra công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ! "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con." Đạo con là nghĩa vụ, lối đối xử của con cái đối với cha mẹ, là đạo hiếu: "Ơn cha nghĩa mẹ nặng trìu, ra công báo đáp ít nhiều phận con." Hoặc còn được gọi là sự thờ phụng song thân, "Nuôi con khó nhọc đến giờ, trưởng thành con phải biết thờ song thân." Chữ thờ phụng được hiểu lúc sống biết hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, lo bảo vệ danh dự gia đình, khi chết lo cúng giỗ, biết ơn và học theo những đức tính tốt lành và làm gương cho con cháu mình.
Những ai sống trong bậc vợ chồng nhận thấy rõ: "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ." Lúc còn ấu thơ, lỡ khi con gặp trái gió trở trời ốm đau bệnh hoạn, cha mẹ đứng ngồi không yên, ngày lo đàng ngày, đêm lo đàng đêm từng miếng ăn giấc ngủ của con, "Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh chầy thức đủ về năm." Thế nên để nói cho những người chưa có cơ hội cảm nghiệm lòng thương của cha mẹ đối với con cái, người xưa đưa ra câu ví: "Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ." Câu nói "Công ơn cha mẹ bằng trời bằng bể" không ngoa chút nào bởi dù cho có trời sập ở đâu, biển động chốn nào cũng không ảnh hưởng đến cha mẹ bằng chuyện nhỏ nhặt liên hệ đến con cái. Vì vậy: "Ơn cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang."
Mang nặng đẻ đau đã to tát, nuôi nấng chăm nom từ tấm bé cho tới lúc lớn khôn không phải là công lao của một ngày một buổi mà từ năm này qua năm khác. Rồi sao cho con mình cũng được như con người không bị thua sút từ manh quần tấm áo đến học hành chữ nghĩa. Chẳng những thế, lo lắng giáo dục sao cho con nên người lại là cả vấn đề lao tâm khổ não. Dĩ nhiên: "Cha nào con nấy" là chuyện thường, nhưng ai không muốn sao cho "Con hơn cha" để cho "nhà có phúc." Hơn nữa, cha mẹ nào tránh thoát "Con dại cái mang" bởi đâu ai lòng dạ nào nỡ "Đem con bỏ chợ." Sinh con ra thì nào "Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa;" lúc "Con biết lẫy thì bố biết bò;" khi "Con lên ba, mới ra lòng mẹ;" lại còn "Con lên ba, cả nhà học nói." Chưa hết, trong cuộc đời bon chen biết bao nhiêu phen cha mẹ đã không dám sống buông thả theo ý thích cũng vì con cái bởi lối sống của cha mẹ, đức độ của bậc làm mẹ làm cha ảnh hưởng tương lai con cái: "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước." Có lẽ vì thế, muốn giáo dục cho con cái nên người, đấng bậc làm cha mẹ lại cần tự bó buộc chính mình trước. Đôi khi "Cha mẹ giầu con có, cha mẹ khó con không" cũng trở thành nỗi thống khổ cho những cha mẹ chẳng may trời bắt tội gặp phần số nghèo nàn vì đâu ai muốn thấy cảnh "Con người mặt hoa da phấn; con mình mặt cú da lươn." Và rồi nuôi nấng, dưỡng dục con cái tới lúc trưởng thành nào đâu đã xong, khi chúng chưa thành gia thất cha mẹ vẫn chưa hết mối lo: "Gái chậm chồng, mẹ cha khắc khoải." Thế nên cũng chẳng lạ gì: "Lắm con nhiều nợ..." Lại còn nhiều khi chính vì quá thương con nên sinh ra: "Bênh con lon xon mắng người."
Trên đời, ai cũng muốn cho con hay, con giỏi, và ai cũng muốn bồi đắp cho con cái nên việc dạy dỗ được cha mẹ tận dụng hết khả năng của mình. Bởi thế, "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư." Có cha mẹ nào dạy con làm điều xấu bao giờ; mà ngược lại muốn vun trồng cho con, dạy bảo, huấn luyện cho con đường ngay lẽ phải. Hơn nữa, đường ngay nào không khó kiến tạo; lẽ phải nào không cần cố gắng thực hiện; mà thường thì con cái ít khi nhận thức được chính vì lòng thương mà cha mẹ phải khó khăn đôi khi đến độ cứng rắn tập tành cho con những thói quen, lối sống tốt lành. Nhiều trường hợp con cái không nhận ra điều này đến khi cha mẹ khuất bóng mới biết: "Còn cha gót đỏ như son, một mai cha thác gót con chôn bùn." Vì thế, Ca Dao cũng có câu: "Bạc bảy đâu sánh vàng mười, mồ côi đâu sánh cùng người có cha." Một điều thật hiển nhiên: nước mắt chỉ chảy xuôi, và thực tế chứng minh: "Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi được một mẹ."
Bởi nhận thức được lòng thương và công lao vô bờ bến khó lòng đáp trả ấy, con cái cần đặt sự phụng dưỡng cha mẹ lên hàng đầu: "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ ấy là chân tu." Hoặc "Vô chùa thấy phật muốn tu, về nhà thấy mẹ công phu chưa đành." Có thể đó cũng là lý do tại sao có câu: "Thứ nhứt là tu tại gia, thứ nhì tại chợ, thứ ba tại chùa;" tu tại gia để phụng dưỡng cha mẹ. Vì vậy, làm con cần biết hiếu thảo bằng cách tối sớm chăm sóc cha mẹ: "Mẹ già ở tấm lều tranh, sớm thăm tối viếng mới đành dạ con."
Hiếu thảo với cha mẹ là biết làm hài lòng các ngài không những bằng cách đối xử mà ngay cả bằng sự biết vâng lời trong những điều ngay lẽ phải nên thực hiện trong cuộc sống: "Mẹ cha là biển là trời, làm sao con dám cãi lời mẹ cha." Biết hy sinh, quên bản thân mình để lo cho cha mẹ: "Đói lòng ăn đọt chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng," hay "Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi, gạo giã cho trắng mà nuôi mẹ già." Những việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ đã đành mà cả những chuyện nhỏ cũng cần được để ý: "Cau non khéo bửa cũng dầy, trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm."
Hiếu thảo tạo cho cuộc sống con người có giá trị đáng hãnh diện là người hoàn toàn: "Nhà em có vại cà đồng, có ao rau muống có đầy chĩnh tương. Dù không mỹ vị cao lương, trên thờ cha mẹ dưới nhường anh em." Sự hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ đáng được mọi người ca tụng: "Em thời đi cấy ruộng bông, anh đi cắt lúa để chung một nhà. Đem về phụng dưỡng mẹ cha, muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền." Và có thể được coi là đặc tính cần thiết xứng đáng trong lãnh vực hôn nhân: "Em về anh gửi buồng cau, buồng trước kính mẹ buồng sau kính thày." Hiếu thảo nhiều khi ảnh hưởng đến hôn nhân: "Con cá đối nằm trong cối đá, chim đa đa đậu nhánh đa đa. Chồng gần bậu không lấy bậu lấy chồng xa, mai sau cha yếu mẹ già, chén cơm bát nước bộ kỷ trà ai bưng." Nói cho cùng, hiếu thảo là điều nên ghi nhớ nằm lòng của một người: "Bao giờ cá lý hóa long, đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa."
Khi cha mẹ còn sanh tiền, sự năng thăm hỏi, giúp đỡ sẽ làm hài lòng các ngài, "Năng mưa thì giếng năng đầy, năng đi năng lại, mẹ thầy năng thương." Chẳng những thế, người hiếu thảo còn ước mong cho cha mẹ sống lâu để phụng dưỡng, đền đáp công ơn: "Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con." Nếu chẳng may cuộc đời run rủi phải sống xa cha mẹ, lòng tưởng nhớ ray rứt khôn nguôi: "Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ, nghĩ đến chừng nào lụy hạ tuôn rơi." Dù lối diễn tả qua Ca Dao có hơi thăng hoa, nhưng lẽ đương nhiên tâm tình hiếu thảo có ảnh hưởng quan trọng nơi tình cảm con người: "Gió đưa cây cửu lý hương, từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn. Sầu riêng cơm chẳng buồn ăn, đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm." Tâm tình này được nhắc nhở nơi hình ảnh những kỷ niệm thơ ấu mỗi khi gợi về trong trường hợp cha mẹ đã khuất bóng: "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương." Những khung cảnh thiên nhiên nhiều khi du lòng con người tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ: "Vẳng nghe chim vịt kêu chiều, bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau. Thương thay chín chữ cù lao, tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình."
Tuy nhiên, cuộc đời có người nọ lại cũng có người kia; có người hiếu thảo với cha mẹ thì cũng có người chẳng coi cha mẹ ra gì: "Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày." Hoặc lại có người lạm dụng hình thức hiếu thảo hầu mong lấy tiếng cho mình: "Còn sống thì chẳng cho ăn, chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi." Những người này thường không để ý đến sự giúp đỡ cha mẹ: "Mẹ già ở tấm lều tranh, đói no chẳng biết rách lành không hay." Bởi vậy để khuyến khích con cái hiếu thảo với cha mẹ, người đời có câu: "Con không hiếu kính mẹ cha, bàn nhơn thiên hạ người ta chê cười." Đôi khi Ca Dao dùng thuyết nhân quả của nhà Phật để nhắc nhở người ta nên hiếu thảo với cha mẹ: "Mình chí hiếu với mẹ cha, con mình sẽ hiếu với ta khác gì," hoặc dùng sự kiện thiên nhiên nói cho con người ý thức nếu mình hiếu thảo với cha mẹ thì sau này con cái sẽ đối xử với mình như vậy: "Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó," hay tục ngữ cũng có câu: "Giỏ nhà ai quai nhà nấy."
Hiếu thảo là sự biểu tỏ tình cảm thương yêu sâu đậm cũng như lòng biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Người có hiếu với cha mẹ chắc chắn là người đáng được tôn trọng và tin tưởng vì chính hiếu đễ giúp con người nhận chân giá trị cuộc sống và giá trị làm người. Có hiếu đễ, con người mới đặt nặng vấn đề danh dự của mình cũng như gia tộc mình để sống sao cho xứng đáng hơn.
ANH EM HỌ HÀNG
Tự bản chất, cuộc sống mang đặc tính liên hệ giữa con người với con người. Sự liên hệ thân hay sơ tùy thuộc sự đối xử giữa người này với người kia và ngược lại. Tuy nhiên sự liên hệ huyết thống mặc dầu cũng phần nào tùy thuộc vào sự đối xử của con người trong cảm tình thân thiết hay không nhưng không giống như sự thân sơ quen biết bạn bè. Thế nên cho dù những người trong cùng dòng họ đối xử với nhau thân hay sơ thì vẫn có mối dây huyết thống ràng buộc. Mối dây huyết thống này liên kết những người trong giòng tộc với nhau dù gần hay xa trong liên hệ họ hàng. Bởi vậy, ông bà ta có câu: "Một giọt máu đào hơn ao nước lã."
Xét về mối liên hệ họ máu, anh em ruột là gần nhất cho dù đồng bào hay dị bào theo quan niệm phụ hệ. Phan Kế Bính ghi lại anh em đồng mẫu dị phụ "Không thân thiết gì mấy, cũng như người ngoài mà thôi" (Việt Nam Phong Tục; Phan Kế Bính; Sống Mới, 1983; tr. 29) xem ra hơi quá vì quan niệm này không đếm xỉa gì đến vai trò người mẹ trong sự liên hệ giữa con cái. Làm sao hai người dẫu khác bố, cùng mẹ sinh ra lại có thể được coi như người ngoài mà thôi trong khi dù chỉ là họ hàng mà sự liên hệ gia tộc còn được kể tới. Trên thực tế, anh em cùng mẹ khác bố tình thân thiết vẫn gấp mấy lần họ hàng con chú bác. Nói cho cùng, nhiều khi tâm tình con người bị ảnh hưởng quan niệm một cách quá đáng; chẳng hạn "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," hoặc "Con gái ngoại tộc đánh tốc đuổi đi;" âu đó cũng bởi ý thức sai lầm về trọng nam khinh nữ. Hơn nữa, trong thực tế, anh chị em cùng mẹ khác bố thân thiết nhau hơn anh chị em cùng cha khác mẹ bởi "Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá gặm xương."
Qua kinh nghiệm sống ai cũng nhận thấy: "Anh em như chân tay." Chỉ trừ trường hợp đặc biệt với một số người cố chấp bởi thiếu ý thức hoặc chỉ biết coi mình là trọng hay ỷ vào vị thế có thể bất cần đến thân thuộc để rồi khinh khi hay coi thường anh chị em. Tình máu mủ ruột thịt nơi anh em họ hàng trong giòng tộc bao giờ cũng được coi trọng hơn bất cứ sự liên hệ nào. Thói đời thường "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai," nhưng anh em họ hàng thì dù mình có "Lên voi xuống chó," hoặc chẳng may gặp lúc "Giậu đổ bìm leo," thân tình giòng tộc vẫn còn đó và cũng là nơi nhờ cậy căn bản nhất chẳng may trong những lúc sa cơ thất thế. Đồng ý rằng tình thân nơi anh em họ hàng đôi khi không được bằng tình bạn nhưng thử hỏi trong cuộc đời một cá nhân được bao nhiêu người được gọi là bạn thân. Có chăng may ra chỉ một người mình có thể đặt hết tin tưởng, dám sống chết cho tình bạn hữu, còn chung chung chỉ là bạn bè qua lại hay thân hữu. Thử xét lại kinh nghiệm sống, khi một người có công chuyện cần người giúp đỡ, ai là những người dám lăn xả vào những công việc cần thiết phải giải quyết; ai là người gắn bó lo lắng, coi việc mình cũng như việc của họ. Đối với bạn bè, sự giúp đỡ chỉ trong một giới hạn nào đó; còn anh em họ hàng, sự giúp đỡ được thực hiện đến mức tối đa mà chẳng cần đòi hỏi dù chỉ một lời cảm ơn.
Sự liên hệ anh em họ hàng tự nó mang tính chất linh thiêng huyết thống nên dù có thờ ơ, lãnh đạm đến đâu chăng nữa người ta cũng không thể xóa nhòa đi được mối giây liên hệ này dẫu có những trường hợp do cuộc sống đem đến sự đụng chạm bất hòa để một người cố quên hay phải chấp nhận đành lòng dứt bỏ bởi "Đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng." Đồng thời kinh nghiệm họ hàng cũng nói lên: "Có máu có đau." Mối liên hệ anh em họ hàng cảm thấy thì chất ngất nhưng diễn tả lại khó mà nói lên được gì. Nó cũng giống như tình yêu, chẳng ai định nghĩa được, mà đem ra phân tích thì lại càng rắc rối bởi có thước nào làm mẫu mực chung để đo mức độ lòng con người.
Trong mối liên hệ gia đình, "Anh em thuận hòa là nhà có phúc." Sự đối xử giữa anh em họ hàng quí nhất là sự thuận hòa, chị ngã em nâng, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thăng tiến cuộc sống. Tuy nhiên, giúp đỡ không mang nghĩa một chiều mà trong cuộc sống, "Có đi có lại mới toại lòng nhau." Cuộc đời tự nó đã mang tính chất phấn đấu để sống vươn lên; ai không nhận thức được điều này thì dù có nâng, có giúp cũng chẳng thể nào làm ăn nên. Muốn có được gì phải chấp nhận làm một cái gì là lẽ thường, chẳng chi mới lạ. Bởi vậy cổ nhân ta không chấp nhận có những chuyện ganh đua giữa anh em họ hàng: "Khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" vì chỉ có "gà què" mới "ăn quẩn cối xay." Hoặc hơn nữa, "Làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em." Khi đã chịu tủi anh em, đã bị anh em coi thường thì chắc chắn rằng mình cũng chẳng ra gì đối với xã hội bởi lẽ nếu đã bị "Anh em khinh trước," thì chắc chắn "Làng nước khinh sau."
Xét về quan niệm thân sơ họ hàng, ông bà ta có câu: "Con cô con cậu thời xa, con chú con bác thật là anh em." Có lẽ quan niệm này cũng bị lệ thuộc vào chế độ phụ hệ. Thực tâm mà nói, mấy ai trong chúng ta cảm thấy anh em con chú bác gần hơn con cô con cậu? Nói cho đúng, đàng nào cũng là anh em, và tình cảm thân sơ tùy thuộc sự đối xử qua lại với nhau mà chớ. Không hiểu những người theo chế độ mẫu hệ cảm thấy thế nào và quan niệm của họ ra sao. Quan niệm "xa gần" này không được coi là mẫu mực cho tình thân sơ; có chăng chỉ sinh thêm lắm phiền toái về ngôi thứ nơi đình đám hoặc vấn đề mời mọc theo lệ tục... Nếu xét về cá tính chung để xác định tình thân sơ thì quan niệm gần, xa trong mối liên hệ con chú bác và con cô cậu lại càng phi lý. Theo tâm lý, nhiều trường hợp người đàn ông dành cảm tình cho con của em gái hay chị gái mình có khi nhiều hơn cho chính con mình, và đàn bà dành cảm tình cho con của anh hay em trai mình nhiều hơn cho chính con mình. Thế nên, con cô gần với bố, con cậu gần với mẹ mà xa với mình có lẽ cũng là một điều dị kỳ, khó chấp nhận. Còn nếu nói theo tục lệ phải giữ "Con cô con cậu thời xa" càng vô lý hơn bởi tục lệ nào không có người đề xướng ra để dùng riết rồi quen. Mà đã có người đề xướng ra thì cũng có thể sửa đổi sao cho hợp lý hợp tình là tốt nhất.
Xét về sự liên hệ trong gia tộc, những người gần nhất với mình bằng vai với bố là anh chị em ruột của bố; bằng vai với mẹ là anh chị em ruột của mẹ. Bởi thế: "Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì." Tình cảm họ máu về đàng mẹ còn được diễn tả: "Dì ruột thương cháu như con, rủi mà không mạ (mẹ) cháu còn cậy trông." Sự liên hệ họ hàng giòng tộc có thể phần nào được coi như một bảo đảm cho con người vì dầu thế nào chăng nữa, "Chín đời họ mẹ vẫn hơn người ngoài."
Ngoài ra, có những người không mang liên hệ huyết thống cũng được coi như và chấp nhận nơi liên hệ họ hàng trong trường hợp hôn nhân. Sự liên hệ giòng họ với người ngoài dòng họ này đã xảy ra lắm cảnh trái ngang như trong trường hợp mẹ chồng con dâu hay nàng dâu và "bà cô" bên chồng. Nhìn về khía cạnh tâm lý, mẹ chồng và các "bà cô" cảm thấy thiệt thòi, mất mát vì người con, anh em trai đang bỗng dưng thân thiết với người ngoài mới cưới về hơn với mẹ và các chị em gái mình nên mối ghen tự tiềm thức được nảy sinh; do đó, "Giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng" cũng chẳng có gì lạ mà ảnh hưởng nhiều khi tàn khốc. Cũng may mắn, mấy chú "gà tồ" em trai chồng nếu chị dâu biết điều thì chỉ có lợi chứ chẳng bao giờ bị phiền hà: "Một trăm ông chú không lo, lo về một nỗi mụ o nỏ mồm." Tình thân sơ chị em dâu chỉ như bầu nước lã, phận ai nấy lo hãy còn êm cửa êm nhà. Riêng trường hợp mấy chàng rể thì chàng nào cũng giỏi, cũng hay nên sinh ra thích gáy. Bởi thế có câu: "Yêu nhau chị em gái, khái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."
Mặc dầu "Có cây mới có dây leo, có cột có kèo mới có đòn tay," tâm tình đối xử giữa họ hàng được thiết lập qua mối liên hệ hôn nhân có nhiều trường hợp cách xa bởi quan niệm phụ hệ: "Chồng cô với lại chồng dì, tiếng kêu bằng dượng, tình thì lãng quên." Chẳng những thế, liên hệ tang ma cũng chẳng có gì khác đối với người ngoài: "Chồng cô vợ cậu chồng dì, trong ba người ấy chết thì không tang." Hoặc: "Cậu chết mợ ra người dưng." Tuy nhiên, "Chú tôi có chết thím đừng lấy ai." Quan niệm này có thể cũng do ảnh hưởng từ chế độ phụ hệ mà ra.
Lã Mộng Thường
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một buổi tối ám ảnh ở Boston

Một buổi tối ám ảnh ở Boston Một trong những bài thơ nổi tiếng của ông là bài Chơi bóng rổ với Việt cộng. Bài thơ này viết tặng nhà văn Ng...