Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

Năm gà nói chuyện gà

Năm gà nói chuyện gà
Năm 2017 âm lịch là năm Đinh Dậu, cũng là năm con gà trong những con giáp truyền thống của Trung Quốc. Vì Gà (phiên âm là Ji) đọc na ná như Cát (phiên âm là jie), chú gà với dáng vẻ oai phong đĩnh đạc được người xưa coi là biểu tượng của may mắn, là “ngũ đức chi cầm” (Loài chim mang 5 đức tính Văn, Võ, Dũng, Nhân, Tín) rất đúng giờ và biết giữ chữ tín. Gà trống gáy gọi mặt trời lên, ánh sáng tới, đuổi tà và mời gọi may mắn, do đó ngày mồng 1 tháng Giêng còn được gọi với một cái tên mỹ miều là ngày con gà.
Quách Phác thời Tấn viết trong “Huyền Trung Ký” rằng: “Đông Nam hữu đào đô sơn, Thượng hữu đại thụ, Danh viết “đào đô”, Chi tướng khứ tam thiên lý, Thượng hữu nhất thiên kê. Nhật sơ chu, quang chiếu thử mộc, thiên kê tức minh, quần kê giai tùy chi minh,” ý nói rằng phía Đông Nam có ngọn núi Đào Đô, trên núi có một cây đại thụ gọi là Đào Đô, cành cây sải dài 3.000 dặm, trên cây có một con gà trời. Hàng ngày mỗi khi mặt trời mọc, khi tia sáng đầu tiên chiếu trên cây, chú gà trời lại cất tiếng gáy, nó vừa gáy thì gà khắp thiên hạ đều cất tiếng gáy theo. Ngoài ra trong “Sơn Hải Kinh” cũng viết về câu chuyện chú gà vàng Kim Kê (gà trời) gáy gọi hoa dâm bụt, mặt trời mọc chiếu rọi những bông hoa dâm bụt.
1. Những điển cố liên quan tới gà
Về đức tính của gà, một điển cố thời Hán “Hàn thi ngoại truyền” (Thơ Hàn truyền ra ngoài) đã viết rằng: “Đầu đái quan giả, Văn dã; Túc bác cự giả, Vũ dã; Địch tại tiền cảm đấu giả, Dũng dã; Kiến thực tương hu giả, Nhân dã; Thủ dạ bất thất thời, Tín dã.” Tức là: Trên đầu gà có mào, cổ nhân rất coi trọng điều này vì mào tượng trưng cho lễ nghi, cổ nhân coi áo mũ đường hoàng là Lễ, đây là đức Văn. Sau chân gà có cựa, đi lại đầu ngẩng cao, ngực ưỡn thẳng, trông cường tráng, uy vũ, đây là đức Võ; Gà còn bảo vệ con bằng mọi cách, không sợ cường địch, đây là đức Dũng; Gà có đồ ăn thì gọi đồng loại, đây là đức Nhân; Gà trực đêm không bỏ giờ, chuyên gáy báo sáng, đây là đức Tín. Năm đức tính “Văn, Võ, Dũng, Nhân, Tín” của gà đã khắc họa diện mạo và tính cách của gà một cách sinh động, thể hiện được sự truy cầu đạo đức của con người, nên gà còn được mệnh danh là “đức cầm” (Loài chim có nhiều đức tính), có câu thơ ca ngợi rằng: “Ý tại ngũ canh sơ, U u tiềm ngũ đức; Chiêm cố hậu minh thời, Đông phương hữu tinh sắc” (Luôn để tâm tới đầu mỗi canh giờ, Âm thầm mang theo ngũ đức; Trông ngóng chờ đợi khi trời sáng, Phương Đông có ánh sáng tinh khôi).
Gà có rất nhiều những tên gọi thanh cao như “Chúc dạ” (Ngọn nến trong đêm), “Tư Thần” (Quan canh giờ), “Tri thời điểu” (Chim biết giờ). Gà trống trông coi giờ, cổ nhân làm việc khi mặt trời lên, nghỉ ngơi khi mặt trời lặn, một năm 365 ngày, dù cho nắng oi giá buốt hay nắng mưa gió tuyết, mỗi buổi sớm gà trống đều gáy đúng giờ, không hề lười biếng, sai giờ, gọi mọi người thức giấc, mọi người mới bắt đầu một ngày mới làm việc, học tập và sinh hoạt. Như văn nhân thời xưa gọi thư phòng là “Kê song”, “Kê song dạ tĩnh khai thư quyển” (Bên khung cửa sổ giữa đêm thanh vắng lần giở cuốn sách) của La Ẩn thời Đường được Phạm Thành Đại thời Tống viết thành: “Kê song dạ khả tụng” (Bên khung cửa sổ đêm khuya đọc thành lờ i) đã miêu tả được cảnh đêm khuya yên ắng, thi nhân nghe tiếng gà gáy mà trở dậy đọc sách.
“Văn kê khởi vũ” (Nghe gà gáy dậy luyện võ) đây là điển cố Lệ Chí nổi tiếng trong “Tổ Thích truyện – Tần Thư”: Tổ Thích và Lưu Côn thời Tấn khi còn trẻ đã ôm chí lớn, đối diện với quân Hung Nô xâm lược, bách tính phải ly tan, hai người ôm chí báo hiếu nước nhà, khôi phục Trung Nguyên, thường cùng nhau đàm luận tới nửa đêm canh thâu. Một buổi sớm tinh mơ, cả một vùng đất rộng lớn đang yên ắng, đột nhiên một tràng gáy rộn ràng của những chú gà đã khiến Tổ Thích giật mình tỉnh giấc, ông vội vàng gọi Lưu Côn nẳm bên cạnh mà rằng: “Anh nghe xem, gà trống đang giục chúng ta thức giấc.” Lúc này, cả bầu trời vẫn đầy sao, bốn bề yên ắng, chỉ có những làn gió nhẹ thổi man mát, hai người vung thanh kiếm dài, hàng ngày vào lúc rạng sáng hai người đã khổ luyện võ nghệ, sau này đều trở thành danh tướng văn võ song toàn thời Tấn. Tinh thần thiếu niên lập chí, chăm học khổ luyện của họ đều tràn đầy trong từ “Văn kê khởi vũ” này.
2. Ý nghĩa tượng trưng của chú gà
Mọi người đã diễn giải và liên tưởng tới ý nghĩa tượng trưng của gà từ những đặc điểm của nó, gà không chỉ là đức cầm (loài chim có nhiều đức tính) mà còn là tường cầm (loài chim may mắn). Trong trái tim của mọi người đức tính cao đẹp canh giờ tới bình minh của gà trống đã là biểu tượng cho sự thành thực không giả dối, cần mẫn và giữ chữ Tín; còn là biểu tượng cho một ngày mới tới, hy vọng mới, tất cả đều có một sự khởi đầu mới; và biểu tượng cho sự hoàn thiện không ngừng, kiên trì không mệt mỏi, là biểu tượng về nghị lực và dũng khí.
Gà trống gáy sáng, hàm ý rằng đêm dài đã qua đi, mặt trời bừng sáng mọc lên từ phương Đông, ánh sáng tràn tới, là biểu tượng cho trời sáng và may mắn. Gà còn được gọi là “Dương điểu” (Chim mặt trời), nói rằng nó có phong thái cương cường, có thể hàng yêu, diệt quái, trừ tà, vì khi gà báo sáng, thì ma qủy đang tác quái trong đêm đen không con nào nghe tiếng lại không khiếp sợ, trốn chạy tứ phía. Gà cũng trở thành biểu tượng trừ tà trấn yêu trong tranh. “Kinh Sở tuế thời ký” của Lương Tông Lẫm triều Nam có chép rằng: “Chính nguyệt nhất dạ…. Thiếp họa kê hộ thượng, Huyền vỹ sách du kỳ thượng, Sáp đòa phù kỳ bàng, Bách quỷ úy chi.” (Ngày mồng một tháng Giêng… Dán tranh gà trên cửa, Treo dây sậy ở trên, Cắm gỗ đào (trên có ghi tên Thần linh) hai bên, Bách quỷ đều sợ) Cho nên năm mới mọi người không chỉ dán tranh gà trống trên cửa để xua đuổi tà ác cầu bình an, mà còn gọi ngày đầu tiên của năm là ngày con gà. Trong “Đáp hỏi lễ tục” của Đổng Huân thời Tấn viết rằng: “Chính nguyệt sơ nhất vi kê nhật, Chính đán họa kê vu môn” (Mồng một tháng Giêng là ngày con gà, mồng một dán tranh con gà lên cánh cửa). Dân gian thường dùng giấy cắt, tranh vẽ, những sản phẩm mỹ nghệ có hình chú gà để cầu phúc trừ tà.
Câu chuyện Tôn Ngộ Không thỉnh mời Mão Nhật Tinh Quân trợ chiến trừ yêu trong “Tây Du Ký” đã được lưu truyền rộng rãi: Thầy trò Đường Tăng trên đường thỉnh kinh đi qua nước Tây Lương, con rết thành tinh trong động Tỳ Bà tại núi Độc Địch đã cướp mất Đường Tăng, ba đồ đệ đều bại trận dưới tay nó. Tôn Ngộ Không lên trời tới cung Quang Minh thỉnh cầu Mão Nhật Tinh Quân trợ chiến hàng yêu, nhìn thấy tinh quân khắp mình một bộ tơ vàng óng, tỏa ra ánh sáng lấp lánh: “Quan trâm Ngũ Nhạc kim quang thái, Hốt chấp sơn hà ngọc sắc quỳnh. Bào quải thất tinh vân ái đãi, Yêu vi bát cực bảo hoàn minh. Đinh đương bội hưởng như xao vận, Tấn tốc phong thanh tự bãi linh. Thúy vũ phiến khai lai mão túc, Thiên hương phiêu tập mãn môn đình.” (Vương miện như ánh vàng kim chói sáng núi Ngũ Nhạc, Thẻ quan màu ngọc bích tỏa khắp sơn hà. Áo mắc thất tinh mây cuồn cuộn, Quanh eo vòng bảo Bát Cực sáng rực. Ngọc leng keng như gieo vần, Ào ào tiếng gió như chuông rung. Lông vũ xanh biếc sải rộng tới sao Mão Tú, Hương trời ngào ngạt khắp cổng đình) Tướng mạo vốn có của Mão Nhật Tinh Quân là một chú gà trống lớn cao 6, 7 thước, thần vị là “Tư thần đề hiểu” (cai quản thời gian và báo sáng), Ngài lập tức hạ phàm cùng Tôn Ngộ Không hàng yêu. Đợi Tôn Ngộ Không dẫn dụ con rết thành tinh ra khỏi động đánh nhau thì Tinh Quân biến thành một chú gà, cất tiếng gọi con rết thành tinh, yêu tinh lập tức hiện nguyên hình, lại gọi một tiếng nữa con rết thành tinh lập tức chết ngay trước mặt, sau đó Ngài trừ hết đám yêu ma cứu Đường Tăng ra ngoài. Có câu thơ ca ngợi Mão Nhật Tinh Quân rằng: “Hoa quán tú cảnh nhược đoàn anh, Trảo ngạnh cự trường mục nộ tình. Dũng dược hùng uy toàn ngũ đức, Tranh vanh tráng thế tiện tam minh. Khải như phàm điểu đề mao ốc, Bổn thị thiên tinh hiển thánh danh.” (Mào hoa cổ gấm như tơ sắc, Vuốt cứng cựa dài mắt giận dữ. Lẫm liệt oai phong ngũ đức đầy, Sừng sững tráng khí cất ba tiếng gáy. Nào phải chim phàm hót trên nhà cỏ, Vốn là thiên tinh hiển thánh danh)
3. Ngụ ý ẩn chứa trong văn hóa nghệ thuật truyền thống về chú gà
Gà dưới ngòi bút của thi nhân lại càng bút ngọc sinh hoa, đủ màu sắc và tư thái. Sớm nhất có thể đọc được trong “Kinh Thi” rằng: “Kê ký minh hỹ, Chiêu ký doanh hỹ” (Gà đã gáy sáng, Triều đã đông người), “Phong vũ như hối, Kê minh bất dĩ” (Mưa gió u ám, gà gáy không ngớt), sau này “Phong vũ như hối, kê minh bất dĩ” được trích dẫn để hình dung những bậc quân tử có chính nghĩa kiên định tiết tháo của mình trong những năm tháng mưa gió quay cuồng, loạn lạc đen tối. Theo đó tiếng gà gáy không ngừng vang vọng bên tai, câu thơ “Kỷ đức danh tiêu ngũ, Sơ minh độ tất tam” (Viết về đức thì gà có 5 đức tính, Gáy tiếng đầu ắt là canh ba) của Đỗ Phủ đã hình dung nhân cách của gà, câu thơ “Đan kê phi hoa thái, Phong cự như phong mang” (Chú gà trống đỏ phủ lên mình lớp lông vũ sặc sỡ, Hai cái cựa như đao kiếm sắc nhọn) đã hình dung về dũng khí kiên cường của gà trống, có người coi gà như một người thủ tín mũ cao vuốt sắc: “Thủ tín thôi chiêu dương, Năng minh tống hiểu âm. Nga quan trang thụy bích, Lợi trảo tước hoàng kim.” (Thủ tín giục mặt trời mọc lên từ phương Đông, Cất tiếng gáy tiễn buổi sớm mai chạng vạng. Mào cao cao như được gọt giũa từ ngọc bích, Móng sắc nhọn như vàng kim gọt thành) (“Kê” – Từ Di); có người ví gà như kẻ kiên trinh có trực giác: “Bất vi phong vũ biến, Kê đức nhất hà trinh. Hữu ám thường tiên giác, Lâm thần tức tự minh” (Không vì mưa gió đổi (mà không báo thức), Đức tính của gà kiên trinh biết bao. Thường tỉnh giấc khi trời còn mờ tối, Sắp sáng đã tự cất tiếng gáy) (trích từ bài “Phủ thí phong vũ vấn kê” (Thi phủ nghe tiếng gà gáy trong mưa gió) – Lý Tần)
Những câu thơ trong bài “Quy điền viên cư” (Về sống nơi điền viên) của Đào Uyên Minh: “Ái ái viễn nhân thôn, Y y khư lý yên. Cẩu phệ thâm hạng trung, Kê minh tang thụ điên” (Ấm áp thôn xa vắng, Nuối tiếc sương khói nơi hoang tàn. Chó sủa nơi hẻm sâu, Gà gáy trên cây dâu nghiêng nghiêng) và những vần thơ trong bài “Đào Hoa nguyên ký” (Ghi chép về nguồn gốc của hoa Đào) viết: “Phương thảo tiên mỹ, Lạc anh tân phân…. Thiên mạch giao thông, Kê khuyển tương văn” (Cỏ thơm mườn mượt, hoa rơi lất phất… Lối nhỏ nơi ruộng đồng đan xen, Tiếng gà gáy chó sủa hòa với nhau) đã tạo nên một khung cảnh lý tưởng “Thuần nhiên cổ phong” (phong cách cổ tự nhiên) mộc mạc tự nhiên, nơi đây gà đã trở thành biểu tượng cho hòa bình và sự yên bình. Mọi người luôn mong ngóng rời xa nơi Đào Nguyên huyên náo, Vương Duy thời nhà Đường đã thể hiện bài tản văn “Đào hoa viên ký” này dưới hình thức thơ ca, viết thành “Đào Nguyên hành”, trong đó có câu : “Nguyệt minh tùng hạ phòng long tĩnh, Nhật xuất tuyết trung kê khuyển huyên” (Trăng soi khung cửa dưới bóng cây tùng lặng lẽ, Mặt trời mọc giữa vầng mây chó gà xôn xao) liên tiếp triển hiện từng bức tranh của Đào Nguyên: Ánh trăng, bóng cây tùng, lầu gác trầm mặc, cả một vùng trời đêm Đào Nguyên tịch mịch; mặt trời, ráng mây, gà gáy chó sủa, buổi sớm tại Đào Nguyên huyên náo cả một vùng. Hai bức tranh mang hai ý vị khác nhau; cảnh đêm đều là tĩnh vật, cảnh hừng đông lại lấy trạng thái động, cảnh nào cũng như thơ như họa đã truyền được tiếng gọi hân hoan của sinh mệnh khi thuận theo Đạo, “quay trở về với tự nhiên”.
Tiên thơ Lý Bạch viết rằng: “Cước trứ tạ công kịch, Thân đăng thanh vân thi. Bán bích kiến hải nhật, không trung văn thiên kê…” (Chân mang guốc gộc, Người leo thang mây xanh. Phương Đông mặt trời mọc trên biển, Giữa không trung một tiếng gà…) (“Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt” – Mơ dạo chơi trên núi Thiên Mụ ngâm bài thơ lưu biệ t) Tạ Công trong thơ chỉ Tạ Linh Vận triều Nam Bắc, ông thường vân du khắp nơi, tìm tiên tầm đạo, “guốc mộc” của ông lên núi, xuống núi như đi tại đất bằng. Trong mơ Lý Bạch đi loại “guốc mộc” này, leo lên bậc đá lên tận mây xanh trên núi Thiên Mụ, đứng trên đỉnh núi cao, nhìn mặt trời đỏ trên biển đông đang nhoi lên lưng chừng núi, nghe thấy tiếng gà trời đang gáy, những điều này mở màn cho sự xuất hiện của Thần tiên, đã vẽ nên bối cảnh thần kỳ. Tiếp đó nhà thơ miêu tả cổng trời mở ra, cảnh tượng tráng lệ phi phàm, Thần tiên trong mây lần lượt kéo tới, đọc những vần thơ ấy khiến con người tràn đầy khát khao hướng về thế giới Thần tiên.
Gà cũng thường xuất hiện trong thơ của những ẩn sỹ, miêu tả cuộc sống ẩn dật yên tĩnh đạm bạc của ẩn sỹ. Như Lư Chiếu Lân thời Đường ca ngợi những ngày tháng yên tĩnh khi ẩn cư trong núi như sau: “Đình u văn lệ hạc, Song hiểu thính minh kê” (Nơi đình tịch mịch nghe tiếng hạc kêu, Rạng sáng bên khung cửa sổ nghe tiếng gà gáy) (“Sơn trang hưu mộc” – Nghỉ ngơi tắm gội nơi sơn trang). Khi Mai Nghiêu Thần du ngoạn Lỗ Sơn, thưởng thức những cảnh đẹp trong núi, nơi núi rừng tràn ngập khói sương, tĩnh lặng như vậy, đi trong sương khói, thong dong như vậy, đang không biết rằng nơi này có người hay không, thì nghe thấy từ nơi mây trắng sâu thẳm vẳng tới một tiếng gà gáy, nên cuối cùng đã viết trong bài thơ “Lỗ Sơn sơn hành” (Dạo bước trên núi Lỗ Sơn) rằng: “Nhân gia tại hà xứ? Vân ngoại nhất thanh kê.” (Nhà người ở nơi nao? Ngoài mây một tiếng gà) Nơi người ấy cư ngụ là nơi mây trắng cuồn cuộn vây quanh, chỉ nghe thấy tiếng gà, không nhìn thấy bóng dáng, khiến con người tha hồ bay bổng tưởng tượng.
Thời xưa khi các thi nhân miêu tả khung cảnh điền viên có rất nhiều người viết về gà. Ví như Đỗ Phủ viết: “Khu kê thượng hướng mộc, Như văn ngưỡng sài kinh” (Đuổi gà lên cây, mới nghe thấy tiếng gõ cửa gỗ), Lưu Vũ Tích viết: “Sương ngưng nam ốc ngõa, Kê xướng hậu viên chi” (Sương đọng trên mái ngói phía Nam, Gà gáy trên cành cây sau vườn), đã gắn chặt hình ảnh chú gà với nhà nông một cách thú vị. Có lần nhân dịp năm mới vừa qua Ôn Đình Quân qua đêm tại một nhà nghỉ sơ sài tại thị trấn Bắc Bản Kiều thành Thương Châu, nghe thấy tiếng gà trống báo sáng của nhà khách ông vô cùng cảm khái, đã viết bài “Thương Sơn tảo hành” (Khởi hành sớm tại Thương Sơn): “Thần khởi động chinh đạc, Khách hành bi cố hương. Kê thanh mao điếm nguyệt, Nhân tích Bản Kiều sương.” (Sớm mai dậy khởi hành cất lên tiếng chuông ngựa, người lữ khách thương nhớ cố hương. Tiếng gà dưới ánh trăng nơi quán trọ, dấu người in trên những giọt sương tại Bản Kiều) Có thể nghe thấy tiếng gà, có thể nhìn thấy tiếng gà gáy, vết sương trên Bản Kiều đã in vào lòng người, khiến mọi người cảm nhận được không khí lạnh giá buốt buổi sớm mai mùa đông, đã sáng tạo nên một bức tranh của người lữ khách vất vả khởi hành bước trên những giọt sương mai. Bức tranh người lữ khách khởi hành lúc sớm mai, tâm cảnh nhung nhớ quê hương của người xa xứ đã vượt khỏi triều đại nhà Đường trải qua nghìn năm vẫn chạm thẳng tới tâm hồn người lữ khách xa xứ, mỗi lần đọc lại đều khiến lòng người vô cùng cảm khái.
Tiếng gà gáy còn biểu thị sự trân quý của thời gian, sự trân quý của sinh mệnh, như một tiếng chuông cảnh báo đối với người chí sỹ khiến lòng người bừng tỉnh. Kẻ không có chí thì tiêu trầm, lãng phí thời gian; kẻ có chí thì sự ắt thành, biết quý tiếc thời gian như vàng ngọc. Xuyên suốt thơ ca cũng có biết bao nhiêu tác phẩm ngâm vịnh về những chú gà, phó thác ý chí báo quốc mãnh liệt không hề ngơi nghỉ, như những câu thơ: “Ngũ canh dẫn hàng chấn hộ dũ, Hoành đĩnh vô phục tu nguyên nhung. Minh tinh dĩ cao đề vị dĩ, Vân tế đằng thượng triêu dương hồng.” (Canh năm gân cổ chấn động mọi nhà, Ưỡn ngực không cần tới xe trận lớn. Sao sáng đã lên cao mà tiếng gáy vẫn chưa dứt, giữa đám mây vọt lên mặt trời hồng) (“Tân mãi đề kê” – Chú gà gáy mới mua). “Nhất nhật chi kế tại vu thần” (Thời gian sung sức nhất trong cả ngày là vào buổi sáng), Nhan Chân Khanh cũng viết trong “Cần học” (Cần cù học tập) rằng: “Tam canh đăng hỏa ngũ canh kê, Chính thị nán nhi độc thư thời. Hắc phát bất tri cần học tảo, Bạch thủ phương hối độc thư trì.” (Canh ba lên đèn canh năm gà gáy, chính là lúc nam nhi đọc sách. Khi tóc xanh không biết dậy sớm cần cù đọc sách, Tới khi bạc đầu hối hận thì đọc sách cũng đã muộn) Ý là nửa đêm đốt lửa học tới canh ba, canh năm gà gáy lại dậy học, lúc sáng sớm và lúc nửa đêm chính là thời gian tốt để đấng nam nhi đọc sách, khuyên con người chăm chỉ học tập, thời gian không đợi con người, đừng lãng phí thời gian, để tránh tương lai về sau chẳng làm nổi trò trống gì, sau này hối hận thì đã muộn.
Gà cũng là chủ đề được các họa sỹ vô cùng yêu thích. Ngay từ 5, 6 nghìn năm trước hình tượng của gà đã xuất hiện trên những bức tranh đá và đồ gốm sứ, sau đó gà cũng xuất hiện trên đồ đồng xanh, như gà sứ, hũ hình con gà và đồ đồng xanh “kim kê”. Sau thời Hán dần dần xuất hiện những bức tranh treo cửa, tranh tết, tranh cắt giấy có chủ đề về gà. Họa sỹ dùng hình tượng chú gà để lấy tiếng đồng âm và những tổ hợp hữu cơ về những sự vật và hiện tượng liên quan khác, mang theo rất nhiều ngụ ý. Từng chú gà dưới nét bút của người họa sỹ có muôn vàn sắc thái khác nhau, trong một tác phẩm chỉ cần có gà thì sẽ mang thêm rất nhiều sức sống và niềm vui.
Như bức tranh tết “Kim kê báo sáng” có rất nhiều hình vẽ đều là một chú gà trống và mặt trời cùng xuất hiện, tượng trưng cho ánh sáng ban mai đã tới; cũng có bức vẽ một chú gà trống đứng trên tảng đá lớn ngẩng cao đầu, ưỡn ngực hiên ngang. Bức tranh “Cát tường như ý” đã dùng hình ảnh một cậu bé đồng tử như ý ở bên cạnh một chú gà trống. Bức “Tử khí đông lai” (Sắc tím từ phía đông đã tới) có hình chú gà và chùm hoa leo tím, ngụ ý chỉ điềm lành sắp tới. Bức “Ngũ tử đăng khoa” vẽ một chú gà gân cổ lên cất cao tiếng gáy, 5 chú gà con đứng cạnh lắng nghe, ngụ ý là chỉ việc dạy ngũ tử. Ngoài ra “Kê chi ngũ đức”, “Văn kê khởi vũ” đã trở thành những cảm hứng vẽ tranh, cấu tứ của tác phẩm tinh xảo, thể hiện được cảm thụ trong tâm hồn của người họa sỹ, thể hiện vô cùng biểu cảm khí thế của gà trống, sự nhân từ của gà mẹ và sự hoạt bát của những chú gà con.
Gà mà họa sỹ 5 đời Mai Hành Tư vẽ sống động như thực, con người thế gian tôn xưng nghệ thuật đó là “Gà nhà họ Mai”, ví như bức “Tử mẫu kê đồ” (Tranh mẹ con gà) mà ông vẽ; Hoàng Thuyên thời tống quan sát sự vật rất tinh tế tỉ mỉ, gà mà ông vẽ, sợi lông gà mà ông vẽ nhìn cũng chói lọi, vô cùng sống động, như bức “Cẩm Kê Đồ” (Tranh gà gấm) mà ông vẽ; bức “Đào trúc cẩm kê đồ” (Tranh đào trúc gà gấm) của Vương Uyên thời nhà Nguyên, bút pháp nghiêm túc cẩn thận lại tả thực, ông vẽ gà cũng đồng thời tạo ra cảnh nhẹ nhàng, tao nhã và tĩnh lặng. Trong bức “Thu liễu hùng kê đồ” (Tranh gà trống bên cây liễu mùa thu) của Lý Trí thời nhà Thanh, lấy phong cảnh điền viên làm nền, lấy chủ đề là cây liễu, hoa cúc dưới hàng rào và chú gà trống, đồng thời hé lộ ý nghĩa của chủ đề: “Lương diệp phiêu tiêu xứ sỹ lâm, Sương hoa bất úy tảo hàn sâm. Họa kê dục họa kê nhi khiếu, Hoán khởi nhân gian vi thiện tâm.” (Lá lạnh xác xơ nơi rừng thẳm, Hoa sương không sợ giá lạnh sớm mai ùa về. Vẽ gà lại muốn vẽ gà gáy, Thức tỉnh nhân gian giữ thiện tâm) Thơ và họa tôn nhau lên, đã vẽ nên phong thái uy dũng của gà trống và viết lên khí phách của nó, thể hiện được hình tượng thanh cao, thoát tục, không bị mê bởi thế tục, tại đây gà đã trở thành vật trung gian mà họa sỹ dùng để thức tỉnh tấm lòng lương thiện của con người thế gian.
Thân (Khỉ) đi Dậu (Gà) tới, cùng với tiếng gáy ngân vang, chú gà vàng kim kê báo sáng đã tới. Trong thời đại con người đều đang khát vọng may mắn bình an hôm nay, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp thế gian, mang tới may mắn và tốt lành tới cho con người, càng ngày càng có nhiều người tu luyện Đại Pháp, chứng thực Đại Pháp, nhân dịp năm mới họ tặng những câu đối, chữ Phúc và lịch chân tướng tới cho mọi người. Như trong câu đối viết rằng: “Văn kê khởi vũ văn đại đạo đắc Đại Pháp, Pháp Luân thường chuyển Pháp vô biên Đại Pháp vô biên” (Nghe gà gáy dậy luyện võ nghe đại đạo đắc Đại Pháp, Pháp Luân thường chuyển Pháp vô biên Đại Pháp vô biên). Hy vọng mọi người minh bạch chân tướng, ghi nhớ “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân-Thiện-Nhẫn hảo”, từ đó có được tương lai tốt đẹp quang vinh, đây chính là thiện duyên và phúc âm trân quý, mọi người nhất định phải trân quý!.
Vũ Tường
Theo http://vn.minghui.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...