Đường vào quê hương qua ca dao
Nếu phật giáo có tới tám ngàn pháp môn
hướng dẫn kẻ mộ đạo đến Chân, Thiện, Mỹ, thời muốn tìm về nguồn sống dân tộc,
những người con yêu nước Việt có thể tìm ra bao lối về, trong đó Ca Dao có thể
được coi như là một nẻo về của tâm thức, một trong muôn vạn đường vào dân tộc
Việt Nam.
Như nhạc sĩ Phạm
Duy đã viết: 'Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, à a ơi tiếng ru
muôn đời...' và 'Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn
vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi...' - ngôn ngữ do đó không
những chỉ là một phương tiện để truyền thông, diễn đạt tình ý con người mà còn
là hơi thở, sinh khí phản ảnh nền văn hoá của một dân tộc, và gắn liền với vận
mệnh của một quốc gia. Khi còn ấu thơ, chúng ta hầu hết đều được nghe những lời
ru đầy tình tứ dân tộc trong các giấc ngủ chập chờn, và cho đến bây giờ, lang
thang nơi xứ lạ quê người, 'Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi' thỉnh thoảng vô
tình bắt gặp trên các tạp chí Việt ngữ những câu Lục bát quen thuộc như:
'Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.'
Người trong một nước phải thương nhau cùng.'
hay
'Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.'
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.'
Ít ai trong
chúng ta để ý rằng đó chính là những câu CA DAO giữa rừng Tục-ngữ, Ca-dao, và
Dân-ca bàng bạc trên nên trời văn học bình dân Việt Nam.
Vậy để nhận diện
được những lời CA DAO như trên, ở đây chúng ta sẽ thử định nghĩa CA DAO một
cách tóm tắt.
CA DAO là những
câu hát ngắn, không có chương khúc. Tuỳ theo nội dung, số câu có thể diễn đạt
từ hai, bốn, sáu, tám hay dưới hình thức Song thất lục bát, Lục bát biến thể...
Với âm điệu phong phú, những câu ca dao do đó có thể được ngâm nga hay hát lên
mà không cần phải có tiếng đệm, tiếng láy, và thường để diễn tả tính tình,
phong tục tập quán của người bình dân. Do đó CA DAO có khi còn gọi là PHONG
DAO, do tiếng PHONG từ phong tục. Vì sự phong phú trong nội dung ca dao, ở đây
chúng ta sẽ giới hạn bài viết trong phạm vi Ca dao tổng quát, tạm gác sang một
bên những bài ca dao với nội dung hài hước, gia đình, và trữ tình.
Trước hết, muốn
tìm hiểu những cơ duyên giao cảm cho sự chào đời của ca dao, thiết nghĩ không
còn gì hơn là chúng ta ngược về quá khứ, trở về với xã hội Việt Nam ngàn
năm về trước. Có thể nói đơn vị căn bản của quốc gia Việt Nam ngày
xưa là làng quê bao bọc bởi những lũy tre xanh, vốn được coi như là một lớp
tường thành thiên nhiên ngăn chặn ngoại xâm. Giữa lớp tre xanh cổ kính đó, đời
sống và tâm tình người dân mộc mạc hầu như cô đọng, tách biệt với những sinh
hoạt bên ngoài, ngay cả với những làng xa xóm giềng. Chính khung cảnh xã hội
biệt lập này phải chăng đã là một môi trường thuận tiện, làm nảy sinh những
điệu hò câu hát là một trong vài thú tiêu khiển đơn sơ thường nhật thuở bấy
giờ. Khi ta buồn ta không biết tỏ bày cùng ai, thôi thì ra đứng ngõ sau mà than
rằng:
'Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ.
Nhện ơi! nhện hỡi! nhện chờ mối ai?
Nhện ơi! nhện hỡi! nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi! sao hỡi! nhớ ai sao mờ?
Sao ơi! sao hỡi! nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân hà,
Bóng sao Tinh đẩu đã ba năm tròn,
Bóng sao Tinh đẩu đã ba năm tròn,
Chỉ một bài ca
dao ngắn ngủi, chúng ta đã có thể tưởng tượng ra một cảnh đồng quê Việt Nam
trầm mặc trong một đêm trời lấp lánh đầy sao, và sau mái nhà tranh, ánh trăng
chênh chếch soi bóng trên mặt ao mơ hồ bóng cá lội. Để rồi trong ánh trăng
thanh, kẻ cô đơn bâng khuâng tự hỏi:
'Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, gọi là núi non?
Trăng bao nhiêu tuổi, trăng tròn?
Núi bao nhiêu tuổi, núi còn trơ trơ?'
Núi bao nhiêu tuổi, gọi là núi non?
Trăng bao nhiêu tuổi, trăng tròn?
Núi bao nhiêu tuổi, núi còn trơ trơ?'
Từ nỗi buồn bâng
quơ, khi đối diện với khung cảnh thanh tịnh, bát ngát của một đêm trăng toàn
bích, kẻ cô đơn như chợt bước vào một thế giới vô ưu, đượm màu triết lý:
'Đố ai biết đá mấy hòn?
Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm?
Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm?
Đố ai biết lúa mấy cây?
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng?
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng?
Đố ai quét sạch lá rừng?
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Đố ai lặn xuống vực sâu,
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa?
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa?
Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát? Ta chừa nguyệt hoa.'
Ru con không hát? Ta chừa nguyệt hoa.'
Những người dân
quê của xã hội thời xưa không phải lúc nào cũng ưu tư phiền muộn, vì còn có
biết bao nhiêu công việc đồng áng trông đợi. Để bù đắp cho nỗi vất vả của kẻ
chân lấm tay bùn, hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, người dân Việt Nam lại
gác cày, vui chơi cho bỏ lại sau lưng những lúc làm lụng cực nhọc:
'Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
Tháng Tư, đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan ngọ, trở về tháng Năm.
Tháng Sáu buôn nhãn, bán trăm,
Tháng Bảy, ngày rằm, xá tội vong nhân.
Tháng Tám, chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng Chín, chung chân buôn hồng.
Tháng Mười, buôn thóc, bán bông,
Tháng Một, tháng Chạp, nên công hoàn toàn...'
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
Tháng Tư, đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan ngọ, trở về tháng Năm.
Tháng Sáu buôn nhãn, bán trăm,
Tháng Bảy, ngày rằm, xá tội vong nhân.
Tháng Tám, chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng Chín, chung chân buôn hồng.
Tháng Mười, buôn thóc, bán bông,
Tháng Một, tháng Chạp, nên công hoàn toàn...'
Một khi đã trở
về đời sống hằng ngày với những lo toan, người dân quê Việt Nam, vốn mang tâm
hồn của một thi sĩ lãng mạn, cũng phải phơi bày một phần nào tâm tư và lề thói
cư xử thực tế mà xã hội Việt Nam đã ngầm chấp nhận; trong đó hình thức ăn vận bề
ngoài cốt biểu lộ sự tự trọng nay đã được tô điểm trở thành méo mó:
'Áo dài chớ tưởng là sang,
Bởi không áo ngắn, mới may áo dài.'
Bởi không áo ngắn, mới may áo dài.'
Cảm thấy ngụy
biện không xong, ta lại bèn than rằng:
'Cha đời cái áo rách này,
Mất chúng, mất bạn vì mày, áo ơi!'
Mất chúng, mất bạn vì mày, áo ơi!'
Từ nỗi ta thán
vô ích, ta đâm ra tức tối tạo hoá đã gây ra cảnh đời đen bạc, để rồi đi đến lý
sự cùn, nhạo báng:
'Hơn nhau tấm áo, manh quần,
Thả ra ai cũng ở trần như ai.'
Thả ra ai cũng ở trần như ai.'
Thế mới biết,
tâm tư và tính tình người Việt Nam chúng ta trải qua bao thời đại hầu
như không hề thay đổi. Thế nên:
'Cơm ăn chẳng hết thì treo,
Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng.'
Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng.'
Hay tương tự như
thế:
'Cà thâm thường bỏ góc chạn,
Đến khi hoạn nạn, lại hỏi cà thâm.'
Đến khi hoạn nạn, lại hỏi cà thâm.'
Hoặc thẳng thừng
hơn:
'Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.'
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.'
Kể gì người đời,
vì ngay cả đến trời ta vẫn thường hay bỏ quên.
Hỷ, nộ, ái, ố,
và ganh ghét, đố kỵ, bội bạc vốn là những đặc tính tất nhiên trong xã hội,
trong ca dao Việt Nam, những điều này còn được diễn tả mỉa mai cay đắng hơn:
'Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng, chín nghìn anh em.'
Đến khi đỗ Trạng, chín nghìn anh em.'
Thói đời là thế
nhưng sao tráng được, bởi chưng:
'Lòng sông, lòng biển, dễ dò.
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người.'
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người.'
Ca dao như thế,
ngoài tính cách phô trương những nét trữ tình và phong tục, tập quán của xã hội
Việt Nam, còn chê bai thói đời đen bạc, tư cách thấp của con người, nhưng đó
chính là một kho tàng luân lý vô giá, một bài học hữu ích cho kẻ hậu sinh tập
rèn nhân cách.
Đường vào Dân tộc qua ca dao như đường thiên lý, dài vô hạn. Càng đi, ta càng khám phá ra nhiều điều thích thú có liên quan đến đời sống, tâm tư, và cung cách xử thế của người dân Việt, lồng trong một khung cảnh đầy màu sắc quê hương. Cứ như lữ khách đi vào lòng dân tộc, bắt đầu từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Qua mỗi địa danh, lữ khách dừng lại chiêm ngưỡng thắng cảnh cùng các di tích lịch sử, sực nhớ đến công lao dựng nước của tiền nhân.
Đường vào Dân tộc qua ca dao như đường thiên lý, dài vô hạn. Càng đi, ta càng khám phá ra nhiều điều thích thú có liên quan đến đời sống, tâm tư, và cung cách xử thế của người dân Việt, lồng trong một khung cảnh đầy màu sắc quê hương. Cứ như lữ khách đi vào lòng dân tộc, bắt đầu từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Qua mỗi địa danh, lữ khách dừng lại chiêm ngưỡng thắng cảnh cùng các di tích lịch sử, sực nhớ đến công lao dựng nước của tiền nhân.
'Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng.'
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng.'
Hay là:
'Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm ra khơi.'
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm ra khơi.'
Đường vào Dân
tộc qua ca dao còn dài, chúng ta có thể dừng chân tạm nghỉ để ngày mai lại sẽ
lên đường.
Phạm Đức Tiến
Theo http://www.maxreading.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét