KỲ 1. AI ĐƯA BÙI GIÁNG VÀO NHÀ THƯƠNG
ĐIÊN?
Không chỉ là một giọng thơ lạ lùng, cuộc đời Bùi Giáng cũng có vô số chuyện lạ lùng bởi ông “chẳng
sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn”. Xin
giới thiệu với bạn đọc những tài liệu mới nhất về thi sĩ Bùi Giáng.
Bùi Giáng qua ký họa của Chóe - Ảnh: Tư liệu
Có cuộn băng cassette ghi lời kể của chính Bùi Giáng về
nguyên do ông bị “áp tải” vào nhà thương điên Biên Hòa.
Những tài liệu này ghi nhận qua các buổi gặp gỡ với đại diện
của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM - ông Bùi Dương Thạch, hoặc những người từng
sống gắn bó nhiều năm với Bùi Giáng như ông Nguyễn Thanh Hoài tại số 482/35/5
Lê Quang Định, P.11, Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Chính ở địa chỉ đó, hiện vẫn còn
lưu giữ các cuốn băng với nhiều chi tiết sống động do Bùi Giáng kể ra, được
Thanh Hoài ghi âm:
“Những năm cuối đời của bác Giáng, nhất là từ 1990 trở đi,
hai bác cháu thường ngồi nói những chuyện riêng tư cho đỡ buồn trước hiên
nhà, hoặc dưới tàng cây trong sân vào mỗi đêm khi gia đình đã đi ngủ hết. Bác
kể hết sức chi tiết về chuyện đời của bác, từ thời còn nhỏ cho đến lúc lớn
lên, rời miền Trung vào Sài Gòn sinh sống, làm thơ và giao du với ai, cũng
như việc sáng tác, in ấn như thế nào… Một bữa, tôi lấy máy cassette để ghi âm
lại lời nói của bác thì thấy bác có vẻ băn khoăn hỏi: “Mi thâu làm cái chi?”.
Tôi nói với bác thâu để có gì hay thì cháu nghe lại không thôi nó quên! Bác
nói rứa thì được, mi cứ thâu đi, tao nói cho nghe”. Và Bùi Giáng nói về “sự cố”
đã đẩy ông vào nhà thương Biên Hòa với nội dung như lời Thanh Hoài tóm lược
dưới đây.
“Vào những năm đầu tiên của thập niên 1960, bác Giáng viết
rất nhiều, gần như không có ngày nào dừng bút, bản thảo dày lên chưa kịp in
thì xảy ra vụ cháy nhà nơi bác đang ở trên đường Phan Thanh Giản, nay là đường
Điện Biên Phủ, khiến bao nhiêu bản thảo cháy rụi. Bác nói với tôi là tao quá
tiếc và đau đớn nhất là công trình biên soạn về truyện Kiều ròng rã suốt 3
năm trời đã thành tro, làm tao buồn quá bỏ hết để rong chơi khắp lục tỉnh,
sông nước kênh rạch chỗ nào có dịp là tao tới.
Khi về, thì Tòa đại sứ Pháp và Tòa đại sứ Đức ở Sài Gòn có
mời tao đến hỏi thăm, họ nói nếu tao cần sách gì họ sẽ mang tặng không đòi một
đồng nào. Nhưng nhà cháy rồi, lấy sách của Pháp của Đức về cũng không có chỗ
để, nên tao cám ơn rồi từ chối, không nhận. Thế nhưng hai tòa đại sứ kia
không biết thế nào vẫn lại tìm cách gửi đến tao mấy thùng sách quý của các
tác giả nổi danh ở nước họ và trên thế giới. Tao đành phải nhận nhưng không
biết cất nơi nào nên tao mới đến gặp ông chủ (tạm giấu tên) của NXB VT để vui
vẻ tặng lại cho ông ta. Nhưng ông ta không nhận, vì ông nói người Pháp người
Đức tặng cho anh toàn sách quý, nếu anh không có chỗ cất vì nhà đã cháy, thì
tôi chỉ giữ giùm, khi nào anh cần đến nói là tôi giao lại cho anh. Tao vui vẻ
ra về.
Đến không lâu sau tao kẹt quá, không có tiền đủ để ăn cơm
bình dân và uống la-de con cọp chai loại lớn nên tao đến gặp ông chủ NXB kia
để nhận lại số sách đã gửi. Nhưng kỳ cục là khi tao đến lấy, thì ông ta không
giữ lời, nhất định không chịu trả. Tao nhắc lại là tại sao khi tao tặng thì
không nhận, nói giữ giùm, bây chừ đến lấy tại sao lại không đưa? Ông ta cứ một
mực tỉnh bơ, không trả. Tao nổi điên tao chửi một trận, rồi tao về. Bước ra
ngoài đường tao thấy chiếc xe hơi kiểu Nhật sang trọng của ông chủ đó đang đậu
trước nhà, luôn tiện tức quá tao lượm một cục đá xanh thiệt to ném thẳng vào
chiếc xe đó cho hả giận, ai dè nó bể cái kính xe, mà lúc đó chiếc xe trị giá
cả bạc triệu. Ông ta chạy ra thì sự đã rồi, vừa tiếc của, vừa giận tao lắm, mới
điện thoại cho thằng em ruột của tao (không nêu tên) lúc ấy là sĩ quan của
quân đội ông Thiệu đến mắng vốn và để chở tao về. Khi về đến nhà, thằng em ruột
của tao ngao ngán nhìn tao và có lẽ nhớ đến chiếc xe đắt giá bị bể kiếng rồi
sợ rằng tao ở trong nhà nó có thể cũng sẽ gây ra cảnh tương tự như thế. Nói
trắng ra là thằng em tao với đứa con gái út của nó chắc hẳn nghĩ rằng tao
điên nên đã cùng nói với tao là thôi để ngày mai tụi em chở anh về Vũng Tàu
vài hôm nghỉ mát cho khỏe người tĩnh trí anh à. Tao cứ tưởng thật nên sáng
hôm sau ngồi lên xe cho chúng chở đi về Vũng Tàu. Nào ngờ đến Biên Hòa tụi nó
đã chở thẳng tao vào nhà thương điên để gửi, tao có nói gì đi nữa thì bọn
“cai ngục” chung quanh cũng chẳng ai tin, mi thấy có đắng họng không?”. Về
sau ông viết mấy câu: “Gặp người tôi tưởng người điên - gặp tôi tôi tưởng tôi
điên như người”…
|
||
KỲ 2- THIÊN TÀI KHÔNG THỂ ĐỊNH NGHĨA
Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng đã khép lại hôm 14.9 nhưng âm vang trên diễn
đàn ấy 'vẫn còn tiếp tục truyền thông và mở rộng' như lời ông Bùi Dương Thạch
- đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại tọa đàm, đã nói với chúng tôi trong cuộc gặp
chiều hôm qua 18.9.
Bùi Giáng tại nhà đường Lê Quang Định - Ảnh: Tư liệu
Thưa ông, vui lòng cho biết một trong những điều 'vẫn còn
truyền thông' sau tọa đàm?
Tôi muốn nói đến tiểu sử Bùi Giáng mà trước đây thường do
các tác giả ngoài tộc Bùi viết với một số chi tiết khác nhau làm công chúng
băn khoăn. Nay qua tọa đàm, Bùi tộc Vĩnh Trinh chúng tôi thu thập thêm tài liệu
để chính thức thông báo về các nét chính trong đời ông sau đây. Bùi Giáng
sinh ngày 17.12 năm Bính Dần 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, H.Duy
Xuyên, Quảng Nam, là con thứ nam của ông Bùi Thuyên (thuộc đời thứ 16 họ Bùi ở
Quảng Nam) và bà Huỳnh Thị Kiền. Ông lấy vợ năm 1944, lúc 18 tuổi. Vợ ông là
hoa khôi trong vùng: bà Phạm Thị Ninh; khi mang thai bà bị bệnh, phải sinh
non và cả hai mẹ con đều qua đời. Từ đó ông in sâu vào lòng một quá khứ không
vui: “Xin ngó lại bàn chân em bước/ Vì em đi vào lúc gió đương bay”. Rồi ông
nói với người đã khuất trên núi rừng Trung Việt: “Khung cảnh ấy nằm sâu trong
đáy mắt/ Có lệ buồn, khóc với lệ hòa vui/ Để tràn ngập hương mùa lên ngan
ngát/ Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi”...
Về các chi tiết khác, nghe nói đã có một số tài liệu mới về
Bùi Giáng vừa lưu hành trong nội bộ của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM?
Đó là ấn phẩm dày khoảng 360 trang lần đầu tiên chúng tôi tập
hợp các bài viết về Bùi Giáng được xem là một bộ sưu tập nhỏ dùng làm tặng phẩm
kỷ niệm cho bà con trong Bùi tộc. Chúng tôi cám ơn và ghi nhận nhiều cách
nhìn về Bùi Giáng mà chú Bùi Văn Nam Sơn gọi một cách hình ảnh là “Bùi Giáng
trong chiếc kính vạn hoa”. Chẳng hạn anh Mai Thảo viết về Bùi Giáng rất sống
động và tài tình, riêng chuyện “điên” mà Mai Thảo nhắc đến qua 4 câu: “Và ở
Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng. Tối tối về chùa đêm làm thơ. Ngày ca múa khóc cười
giữa chợ. Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi” thì anh Huỳnh Hữu Ủy không đồng tình, cho
là “Mai Thảo rất nhầm lẫn khi quy tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên
nhân thời đại” vì Bùi Giáng đã: “Thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc đời,
chẳng còn câu chấp chi cả, ông sống hoan hỷ như một đứa trẻ với một nguồn thơ
tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc” như mấy câu: “Người con gái lội qua
khe/Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau/Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/Bàn chân với
nước cùng nhau lại đè”...
Còn những điểm sáng tương đồng tương cảm?
“Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu cũng có thể cảm thụ được cái tinh thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ, nhìn một hành vi mà thấy được phong độ dị thường của cả bình sinh. Một giọt nước mắt mang cả lượng hải hàm của đại dương - nói như nhà Phật. Các bậc thâm trầm ngày xưa gọi đó là “mở cửa thấy núi, một khí xuyên suốt (khai môn kiến sơn, nhất khí quán hạ). Phương Tây bảo rằng Văn là Người. Quả ở đây, Người trở thành Văn, Văn với Người không hai. Anh Giáng là sao Văn Khúc (...) thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable)”.
Bùi Văn Nam Sơn
Có lẽ cần nhắc đến kết luận của Thái Tú Hạp rằng: “Dù với
bao nhiêu lời nhận định nào đi nữa ta vẫn thấy một điểm chung của mọi người
là đã dành sự yêu mến cho con người siêu lãng tử lẫn thiên tài độc đáo này”.
Một điểm chung tiếp theo là nhắc đến “một Bùi Giáng lang thang trên vỉa hè
Sài Gòn đau đáu nhớ nhung về mảnh đất hẹp Quảng Nam mà vẫn đem triết học Đông
Tây về với ca dao lục bát, vẫn có thể quàng vào thân thể của Brigitte Bardot
hay Monroe những xiêm y của Xuân Hương” như Nguyễn Hoàng Vân đã viết từ
Melbourne (Úc). Các bài viết trước năm 1975 của Trần Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung,
Tạ Tỵ, Du Tử Lê, hoặc sau này của Huy Cận, Trụ Vũ, Phạm Thiên Thư, Vũ Đức Sao
Biển, cùng nhiều tác giả khác đều tựu trung nhắc đến Bùi Giáng là thi sĩ đã
đưa thơ “vượt qua những rào cản của ngôn ngữ”. Nỗi nhớ quê hương của ông cũng
thật lạ như: “Người hỏi tôi: Từ đâu ông đến đây?/ Thưa cô thôn nữ từ đây
tôi về/ Ủa phải anh Sáu Giáng đó không?/ Và cô có phải là cô Bông năm nào?/ Anh
còn nhớ rõ ôi chao!/ Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh/ Anh điên mà dzui-dzẻ thập
thành/ Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu”.(Bùi tộc phổ hệ)
Những năm cuối đời, có lần Bùi Giáng về thăm những “cô gái
quê” thuở xưa: “Bảy mươi tuổi quá nặng nề/ Còn em đã sáu tám rồi em ơi”. Ông
cũng viết một bài thơ trước khi mất do Bùi Kiến Quốc chép lại: “Chiêm bao tôi
thấy tôi về Quảng Nam/ Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn/ Duy Xuyên, Tiên Phước, Hòa
Vang, Thăng Bình/ Tìm người bạn cũ không ra/ Còn phong cảnh cũ khác xa những
ngày/ Xóm làng, đồng ruộng lạ thay!/ Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa/ Giữ nguyên
hình ảnh đậm đà/ Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào/ Ngắm nhìn, tim máu xôn
xao/ Tôi rời đất Quảng trở vào miền Nam/ Tâm hồn bao xiết hoang mang/ Bài thơ viết
vội, dở dang lạ lùng...”.
Riêng ông nhớ nhất những câu gì của Bùi Giáng?
Câu: “Ta đi còn gửi đôi giòng/ Lá rơi có dội ở trong sương
mù”, thơ của ông gửi lời hẹn không chỉ đến người ở cõi này, mà còn đến những
ngày “hội” ở kiếp sau. Đồng thời cũng làm chúng ta liên tưởng đến người vợ
xinh đẹp của ông cùng qua đời với đứa con đầu lòng khi tuổi mới thanh xuân -
và chắc chắn biến cố ấy đã làm ông đau xót hẹn hò: “Mai sau còn dự hội
nào/Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông...”.
| ||
Lúc 9 giờ sáng nay 20.9, lễ tưởng niệm 15 năm ngày mất Bùi Giáng (1998 - 2013) sẽ cử hành tại ngôi mộ của
ông ở nghĩa trang Gò Dưa, Q.Thủ Đức, TP.HCM.
Thủ bút của Bùi Giáng trong sổ nợ
đoạn trường - Ảnh: tư liệu
Ngày Bùi Giáng mất theo âm lịch là 17.8 Mậu Dần, nên hằng
năm lễ giỗ thường được tổ chức ngày 16.8 âm lịch (năm nay rơi vào 20.9.2013
dương lịch). Vì thế, trưa nay gia đình sẽ cúng ngọ với mâm chay đặt trước mộ
và mâm mặn dành cho các văn nghệ sĩ khắp nơi yêu thơ ông đến viếng để uống
chén rượu nhớ ngày ông ra đi giữa “ngàn thu rớt hột”. Nhà thơ Trần Đới - người
gắn bó với Bùi Giáng suốt 15 năm trên “chiếc đu bay” sẽ có mặt. Và dự kiến Đắc
Phúc sẽ hát tại chỗ một số bài nhạc do anh phổ thơ Bùi Giáng, bên cạnh tay
đàn tây ban cầm cổ điển Lê Quốc Phong và nghệ sĩ nhạc rock Linh Xù (Phan Ngọc
Linh), Lư Châu (Phan Văn Châu). Dịp này, chúng tôi đến ngôi nhà cũ Bùi Giáng ở
nhiều năm trước lúc qua đời và được gia đình cho xem các cuốn sổ nợ do chính
ông ghi từ 1993 đến 1998.
Trong đó, ông thường ghi nợ ở một quán mở gần nhà (nằm
trong con hẻm đường Lê Quang Định), chủ quán là ông Tốt rất “từ bi”, hễ Bùi
Giáng uống rượu chịu bao nhiêu vẫn cứ để ghi sổ dài dài, nên cuối năm 1997,
giáp Tết Mậu Dần 1998 (năm Bùi Giáng mất), đã viết mấy câu vào sổ nợ: “Bài
thơ thân tặng Đại ca/Kính thưa ông Tốt là cha thằng Bùi khùng”.
Nghe nói ông Tốt đã xin Bùi Giáng đừng gọi ông ta bằng
“cha” mà ông ta sẽ bị tổn thọ. Song Bùi Giáng bác bỏ, nói biết đâu kiếp trước,
kiếp xưa, kiếp xa “ngài” đã mấy triệu lần làm cha “Bùi” này rồi. Chiều 30 tết,
gia đình ra trả nợ để lấy cuốn sổ ấy về, thay vào cuốn sổ mới, Bùi Giáng lập
tức ghi mở hàng: “Trả xong món nợ láng giềng/Lòng vui phơi phới tháng
giêng Mậu Dần”.
Nhưng chỉ vài giờ sau giao thừa, Bùi Giáng lại xuất hiện
trước cửa ông Tốt “đạp đất” để khai bút đầu năm vào sổ, thiếu “một ngàn rưỡi
ngày nguyên đán”. Mồng hai, mồng ba cũng vậy, đến: “hôm nay mồng bốn tháng
giêng/hai ngàn nợ này - say rượu suốt hoài trăm năm” và kéo dài gần hết tháng
giêng: “sau tết 20 ngày nợ hai ngàn rưỡi” và “sau tết 22 ngày/nợ nơi này hai
ngàn rưỡi”… Điều khác người, là tiền nợ ông ghi bằng chữ chứ không ghi bằng số.
Cũng có chỗ nợ chỉ năm ngàn nhưng ông ghi: “nợ nần năm triệu”
với chú thích rõ bên dưới: “tức là năm ngàn Việt Nam”. Có lần ông Tốt méc với
gia đình là bác Giáng ngồi uống rượu ngoài quán la hét rằng làm vua, làm tổng
thống, làm chủ tịch nước không sướng bằng ông Tốt sinh ra để suốt đời bán rượu
cho thằng khùng, đúng như ông đã viết trong sổ nợ: “Muôn thu thiên thượng lâu
đài/không bằng bán rượu lai rai cho thằng khùng - năm ngàn hôm nay - giờ này
số dzách - 1998 January”. Có những câu khá buồn: “Tháng năm sắp đổi sắp dời/Một
mình ngồi uống biết mời mọc ai/Chỉ còn cô độc đeo đai...” . Những câu ấy nhắc
chúng tôi nhớ lại tham luận của GS-TS Huỳnh Như Phương mới đây tại Tọa đàm
khoa học về Bùi Giáng có đoạn đại ý nói rằng tọa đàm mở ra ngoài các mục đích
nghiên cứu khoa học, còn được xem là lời xin lỗi với vong linh Bùi Giáng về
nhiều năm đã “bỏ quên” ông…
Trong “sổ đoạn trường” ấy Bùi Giáng cũng nói trước về ngày
ra đi của mình: “Nợ nần ông trả từ nay/ Về sau ắt sẽ còn đâu nợ nần”. Thật ra,
chính chúng ta nợ ông rất nhiều. Món nợ lớn nhất (chưa nói đến giá trị văn
chương và tư tưởng độc đáo của ông), là nguồn vui lạ lùng mà cuộc sống lang
thang của ông đã lan tỏa ra ngoài, không hề tính toán và đòi hỏi gì, như Huy
Tưởng đã viết và đọc cách đây đúng 15 năm trong giờ vĩnh biệt: “anh Bùi Giáng
đã dấn mình một cách hiên ngang và khốc liệt vào cõi Thơ ca, TẬN HIẾN hết cả
đời mình cho duy nhất thơ ca (…) tận hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp
đối đãi nào của nhân thế, trút gởi hết thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở
đời như vay tạm một hình cốt mong manh bi thiết và mộng mị. Hình ảnh đắm chìm
của tận hiến hung hiểm đó chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của
thiên tài thơ Bùi Giáng (…) Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng yêu kính. Cầu cho hồn
anh được siêu sinh tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại với quê nhà, tiếp
tục rong ruổi vui chơi trên cõi trời Đâu suất…”.
Thật vậy, ông đã mang “những hạt nắng bảy màu” đến với nhân
sinh cùng tiếng cười vui bất ngờ đâu đó: “Cái vui ấy ông đã ban tặng cho đời
mãi đến ngàn sau, không những bằng ngôn từ mà cả bằng thân xác” (Thích Nhuận
Châu) - và nay ông đã về “cố quận” (như chữ ông thường dùng) để lại mấy câu
da diết: “Đất hoa khóc vĩnh biệt người/ Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu”.
Lời cố quận là tên một tập khảo luận nổi tiếng của Bùi
Giáng - cùng với tập Lễ hội tháng ba trở thành hai cuốn sách mà bạn đọc có thể
tìm hiểu về tư tưởng được xem là “ẩn mật” của ông - như Bùi Văn Nam Sơn nhận
định. Sáng nay, ông có thể sẽ trở về trong hương khói, với “niềm vui ẩn mật”
mà Nguyễn Quang Thanh từng khẳng định là luôn luôn được “phơi bày ở trong
chính mình và ở quanh mỗi chúng ta”. Phơi bày trong im lặng và im lặng như
thơ Bùi Giáng viết: “Một lời chẳng nghĩa là bao/ Dẫu lời không tiếng lẽ nào không
nghe?”.
Bùi Giáng đã tạo ra được một cuộc hôn phối kỳ lạ giữa Trời và Đất, Đông và Tây, giữa Heidegger đìu hiu gió tuyết và Nguyễn Du tịch mịch sương chiều. Bùi Giáng không bao giờ là một nhà “giải minh” tư tưởng triết học hiểu theo nghĩa hàn lâm của thuật ngữ này (...) ông không bao giờ sử dụng các “phương pháp phân tích” và diễn giảng của nhà trường để đi sâu vào một tác phẩm hay một tác giả. Với ông, chỉ có sự đồng cảm hay thấu cảm với một tâm hồn đồng điệu nào đó hoặc với suối nguồn uyên nguyên của tư tưởng mới là điều đáng kể, còn ngoài ra tất cả đều là phù phiếm, dù cho sự phù phiếm này có được nâng lên thành một hệ thống quan niệm có tính chất phương pháp luận.
Trần Trung Phượng
| ||
Chiều qua (20.9), dự lễ tưởng niệm Bùi Giáng ở Nghĩa trang
Gò Dưa (TP.HCM) xong, lão thi sĩ Trần Đới, 82 tuổi - tác giả thi phẩm Tảo
mộ lênh đênh, đã nói chuyện với chúng tôi một cách say mê về Bùi Giáng, mở đầu
vỏn vẹn với bốn chữ Bùi Giáng đạt đạo.
Đạt đạo như thế nào? Nghe hỏi, Trần Đới nói với giọng khá
to:
- Đạt đạo ở chữ “mỹ”. Có người vào đạo qua chữ “chân”, hoặc
chữ “thiện”, còn Bùi Giáng đạt đạo ở cõi thơ tức vào đạo qua chữ “mỹ”. Giống
như muốn vào một thành phố có nhiều cửa, người ta chỉ cần vào một cửa là được
- Bùi Giáng đã theo cửa “mỹ” ấy để vào, thì cả “chân” và “thiện” cũng thành tựu
một lần theo bước chân ông.
Trần Đới nói: “Mình bắt đầu quen Bùi Giáng tại Đại học Vạn
Hạnh - Sài Gòn năm 1972”, lúc ấy đại học này quy tụ một số tài danh thi văn
như Phạm Công Thiện, Phạm Thiên Thư, Tuệ Sỹ, Trần Xuân Kiêm… Những ngày sống
với Bùi Giáng tại một căn phòng vừa rộng vừa trống trải tại Tổng vụ thanh
niên Phật tử, mỗi sáng hễ rủng rỉnh vài ba đồng trong túi là họ kéo qua quán
phở Vũ Hùng gần đó ăn, xong về nằm “mỗi người làm việc của mình” trên những
cái giường sắt trải nệm vừa cũ vừa mòn, nhưng có thể nhún nhảy tha hồ nhờ đám
lò xo bên dưới. Chính ở đó Trần Đới đã làm thơ rồi đưa Bùi Giáng đọc, có lần
Bùi Giáng đọc xong đã nhắc ông hãy tránh lối nói đao to búa lớn: “Chuyện như
kia mà nói lời như thế, đó là lời tục tĩu của bọn phàm phu muốn bắt chước các
ông thánh.
Siêu thực không phải chỉ là chuyện ở trên mây. Càng không nên bắt chước lối nói của Phật, Chúa, Khổng, Lão. Phật, Chúa, Khổng, Lão đang nằm nhún nhảy, giỡn cười và hút thuốc trên giường đây nè! Chú mày hãy nghe tiếng cút kít của chiếc giường và nhận ra pháp âm của đạo. Ngôn ngữ của thi ca là cảm tính đi trước, tư tưởng đi sau…”. Và muốn làm thơ lục bát nên đọc và ngẫm các câu: “Đồn xa quằn quại bóng cờ/Phất phơ buồn tự thời xưa trở về… Người lên ngựa kẻ chia bào/Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san… Cặp trên của ai vậy anh? - Huy Cận. - Dưới thì Kiều… - Ừ. - Rứa còn của anh? câu nào mà anh cho là đạt nhất? - Ông lộn xộn hoài… Muốn gì đấy? Mưa nguồn và Lá. Nhưng đọc xong thì quên tuốt mẹ nó đi. Hãy quên, tất cả những gì mà từ trước đến nay đã biết. Hãy quên đi rồi hãy viết. Hãy viết như viết trong chiêm bao: nơi đó mọi thứ đã trộn lẫn. Một thứ trộn lẫn đầy cảm động và mãnh liệt. Đừng có chằm hăm vào một cái gì, một chỗ nào. Hãy nên chằm hăm vào rạt rào, như vậy, như vậy… - Vậy vậy!”. Lão thi sĩ Trần Đới nói đại ý người “đạt đạo” không ngự trên mây xanh mà hòa lẫn với vạn duyên trong trời đất, không từ chối niềm xôn xao chào đón của những hạt bụi, cỏ hoang, hoa dại và sương khói bên đường. Có thể nghiệm ra điều ấy qua hành trang của một Bùi Giáng lang thang, khi thì ngồi làm thơ trên “xô xích le” (xe xích lô), khi thì lượm bao ni lông, giấy vụn… Vừa nói, Trần Đới vừa đưa chúng tôi xem tập san kỷ niệm Bùi Giáng in đã lâu nhưng chỉ phổ biến rất hạn chế trong vòng thân hữu chứ chưa rộng rãi và bảo chúng tôi nếu thấy được hãy trích giới thiệu với bạn đọc trẻ ngày nay, trong đó có đoạn Trần Đới hỏi: “- Lô hỏa thuần thanh là chi rứa anh Bùi?” - “Ngọn lửa đã xanh… Lửa đã xanh thì tươi mát như ngọn lá đa mới nở. Nhưng sức nóng mãnh liệt của nó xuyên thủng bất cứ thứ cứng rắn nào”. Trần Đới cũng nhắc đến một người: Phạm Mạnh Hiên - tác giả của một bài viết khác trong tập san trên, trích dưới đây:
“Tôi nhớ năm 1973, nhà văn Mai Thảo (đã chết ở Mỹ) và Nguyễn
Xuân Hoàng lúc đó đang trông coi tập san Văn có ý muốn làm số đặc biệt về Bùi
Giáng. Tôi vốn mê thơ Bùi Giáng từ lâu, dù chưa được gặp anh, tôi xăng xái viết
cho Văn một lúc hai bài (ký bút danh Nam Chữ và Thục Khưu). Báo ra, một bữa
tôi đến tòa soạn lãnh nhuận bút, bất ngờ gặp Bùi Giáng ở đấy. Sau lời giới
thiệu của N.X.H rồi cùng kéo nhau ra quán cóc bên hông tòa soạn uống lave. Thế
là tôi đã được gặp Bùi Giáng, một Bùi Giáng bằng xương bằng thịt hẳn hoi! Tôi
cảm thấy vô cùng mãn nguyện đồng thời cảm thấy nhỏ bé trước anh vô cùng. Từ
đó giữa anh Bùi Giáng và tôi trở nên thân thiết. Anh Bùi Giáng ở một góc nhỏ
trong căn phòng rộng với vài vị sư khác trong Viện đại học Vạn Hạnh. Tôi thường
lên anh chơi. “Tài sản” của anh chỉ có chiếc giường sắt cá nhân, manh chiếu mỏng,
dưới gầm giường lủ khủ đủ thứ loại sách. Tôi rất ngạc nhiên, sau bao nhiêu
năm thân thiết với anh, chẳng bao giờ tôi thấy anh ngồi bàn viết (mà bên chỗ
anh nghỉ ngơi cũng không có chiếc bàn chiếc ghế nào). Lúc nào anh cũng nằm ngửa
viết, nằm ngửa đọc trên chiếc giường cá nhân của mình. Anh viết nhanh, viết
nhiều bằng những cuốn vở tập học sinh, những cuốn sổ dày kẻ ca-rô. Tôi thường
cùng anh ngao du khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, bất kể đêm ngày. Những lúc đó tôi thấy
anh làm thơ sao mà dễ dàng, ngồi đứng gì chữ cũng cứ theo ngòi bút trên tay
anh trào ra ào ạt. Anh làm thơ bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào, miễn là trên tay
anh có bút giấy hay những trang sách nào đó cũng được, đặc biệt sách nào anh
đọc qua đều thấy chằng chịt những ghi chú lẫn cả thơ anh viết. Được đi ngao
du với anh như thế cũng là đã lắm rồi. Có lần say ngất ngưởng, sáng tỉnh dậy,
thấy mình đang nằm ở vỉa hè. Thú vị xen lẫn với ngỡ ngàng, ngơ ngác!”..
|
||
Kỳ 5: Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh
|
“Viết về bất cứ danh nhân nào người ta thường phải nhắc đến
nơi chôn nhau cắt rốn cũng như dòng dõi huyết thống của danh nhân đó - ở đây
chúng tôi muốn nói đến Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh”.
Ảnh: Gia đình cung cấp
Ông Thạch kể, về sau họ Bùi phân định làm 5 phái vào đời thứ
13. Sang đời thứ 14, Bùi gia đã nổi tiếng “của nhiều người đông”. Đến đời thứ
15, nhiều vị đã từ Vĩnh Trinh sang lập nghiệp ở các phủ huyện khác như: Điện
Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn. Tiêu biểu nhất cho nếp sống nho phong có ông Bùi Túc,
hai vị đỗ đạt là ông Bùi Hữu Chí và Bùi Giác. Đến đời 16, nổi tiếng trong nước
về lĩnh vực văn hóa có Bùi Văn Nam Sơn hiện nay và Bùi Thế Mỹ trước kia. Bùi Thế
Mỹ (1904 - 1943) là nhà văn, ký giả nổi danh với bút hiệu Lan Đình và Thông
Reo, chủ bút nhật báo Điện Tín - cộng tác thường xuyên với các tờ: Tân Thế kỷ,
Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Phụ nữ Tân Văn, Công Luận, Dân báo và từng bảo
với bạn mình là Thiếu Sơn: "Tôi không tha thứ cho bọn gian lận kiếm ăn
trên địa hạt văn chương". Khi ông mất, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có câu đối
khóc ông trên báo Tiếng Dân.Ông Bùi Dương Thạch (ảnh), 65 tuổi - đại diện Bùi tộc Vĩnh
Trinh tại TP.HCM - đã mở đầu như vậy trong buổi gặp gỡ thân mật với chúng tôi
vào trưa qua 21.9, rồi tiếp: “Bùi Giáng thuộc đời thứ 17 của dòng họ Bùi ở Quảng
Nam. Dòng họ này rời đất Hoan Châu, tỉnh Nghệ An ngày nay, vào cuối thế kỷ 15
dưới thời vua Lê Thánh Tôn, để theo cuộc Nam tiến lịch sử cùng tiền nhân của
Đào tộc vào vùng đất Quảng Nam sáng lập ra xã hiệu Bình Khương, hiện nay là
làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, với đệ nhất tổ là ngài Bùi Tấn Diên và đệ nhị
tổ là ngài Bùi Tấn Trường, khai khẩn và phân ranh giới 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh
Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm, thường gọi “lục thôn”. Bài minh
trên bia đá kỷ niệm trùng tu đình Lục thôn (Đình Châu) năm 1754 ghi: “Nguyên
châu chúng ta ngày trước có ngài cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo
đình sở - đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn - người gần lấy
làm hài lòng - kẻ xa rủ nhau kéo đến - họp thành chợ đông vào lúc ban trưa - đến
nay chưa ai quên được”...
Rời quê hương, Bùi Giáng ra đi, đi và đi mãi, và đã gặp những ai trong lễ hội tháng ba, tháng tư tháng năm, tháng chín tháng mười, tất cả mọi tháng nào “còn sơ nguyên mộng”?
Gặp Bồ Tát cười vui như nắc nẻ
Một hôm nào nương tử bước hai chân
Vén xiêm áo nghe tượng thần mở hé
Tòa thiên nhiên ngồi xuống cỏ vô ngần (...)
Một hôm nào nương tử bước hai chân
Vén xiêm áo nghe tượng thần mở hé
Tòa thiên nhiên ngồi xuống cỏ vô ngần (...)
Người ta chết lúc làm thơ như thế
Không hề gì vì chết rỡn cho vui...
Không hề gì vì chết rỡn cho vui...
BÙI GIÁNG
Đời thứ 17 có Bùi Kiến Tín du học và tốt nghiệp bác sĩ y khoa
tại Pháp, về nước ông sáng chế loại dầu chữa bệnh thời khí nổi danh có tên “Dầu
khuynh diệp bác sĩ Tín” thông dụng toàn quốc. Công thức bào chế của ông hiện
nay vẫn được một số xí nghiệp dược phẩm Việt Nam dùng để tái sản xuất. Bác sĩ
Tín là thân phụ của tiến sĩ Bùi Kiến Thành - người Việt đầu tiên được đào tạo tại
Mỹ trong lĩnh vực tài chính và có quá trình hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực
này trên trường quốc tế (sau năm 1975, ông Thành trực tiếp hỗ trợ Ban Biên giới
chính phủ nghiên cứu cơ sở luật pháp để bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên thềm lục
địa, khu vực dầu khí biển Đông). Bác sĩ Tín cũng là thân phụ của kiến trúc sư
Bùi Kiến Quốc. Cũng đời thứ 17 đã xuất hiện Bùi Giáng, “sinh tại làng Vĩnh
Trinh, nay thuộc thôn Vĩnh Trinh, xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,
là con thứ hai của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - nhưng nếu tính tất cả
các anh em trong nhà thì Bùi Giáng là con thứ năm. Sau này khi ông vào sống ở
Sài Gòn được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng”, ông Thạch nói.
Như vậy, từ chiếc nôi Vĩnh Trinh, thi sĩ Bùi Giáng đã bước
vào “cuộc lữ”, mang theo những kỷ niệm không quên về thời trẻ ở quê nhà: “Đường
đi nhật nguyệt trôi qua/ Tha hương cố quận lạc hoa một nhành/ Trường miên nguyện
ngủ dưới ngành tùng trăng”. Nội hàm của hai tiếng “cố quận”, “quê hương” hoặc
“quê nhà”, trong sáng tác của Bùi Giáng mang nhiều ý nghĩa. Có thể đó là quê
hương “nhất như” của tất cả mọi loài. Là nơi trăn trở “hướng về” của loài người
bị “lưu đày” qua nhiều đời nhiều kiếp.
Cũng có thể là chiếc nôi Vĩnh Trinh trong thương nhớ đời này của ông với những “mộng ban đầu”, với những “cái gì đã mất”, được ghi qua di cảo: “Hình dung ở dưới trăng ngà/ Một hình bóng cũ nảy hoa dưới trời/ Tình yêu đã mất em ôi/Chiêm bao mộng tưởng rong chơi suối vàng”. Cũng trong bản thảo viết tay của ông để lại, đã đọc thấy những dòng hoài niệm: “Anh sắp đặt em một chỗ nằm/ Khoát tay em bảo em không nằm ngồi” - mà muốn “đứng” mãi trong trái tim ông. Và ông (cũng trong di cảo) đã đưa “tình trong tim máu ra ngoài rong chơi”. Đó là hiểu quê hương theo cái nghĩa xương thịt nguồn cội của Bùi tộc, còn “quê hương” và “nỗi nhớ” trong thế giới thơ Bùi Giáng quá đa nghĩa, mà chúng ta cần có thời gian chiêm nghiệm - ông Bùi Dương Thạch đã nói như vậy vào cuối buổi gặp mặt.
Cũng có thể là chiếc nôi Vĩnh Trinh trong thương nhớ đời này của ông với những “mộng ban đầu”, với những “cái gì đã mất”, được ghi qua di cảo: “Hình dung ở dưới trăng ngà/ Một hình bóng cũ nảy hoa dưới trời/ Tình yêu đã mất em ôi/Chiêm bao mộng tưởng rong chơi suối vàng”. Cũng trong bản thảo viết tay của ông để lại, đã đọc thấy những dòng hoài niệm: “Anh sắp đặt em một chỗ nằm/ Khoát tay em bảo em không nằm ngồi” - mà muốn “đứng” mãi trong trái tim ông. Và ông (cũng trong di cảo) đã đưa “tình trong tim máu ra ngoài rong chơi”. Đó là hiểu quê hương theo cái nghĩa xương thịt nguồn cội của Bùi tộc, còn “quê hương” và “nỗi nhớ” trong thế giới thơ Bùi Giáng quá đa nghĩa, mà chúng ta cần có thời gian chiêm nghiệm - ông Bùi Dương Thạch đã nói như vậy vào cuối buổi gặp mặt.
(Lời cố quận, Martin Heidegger - giảng giải thơ Hoelderlin.
Bùi Giáng dịch giải - NXB An Tiêm, Sài Gòn 1972)
Đây cũng là tập di cảo thứ 11 xuất bản trong vòng 15 năm qua
- kể từ ngày Bùi Giáng rời “cõi người ta” - và chính thức bắt đầu phát hành hôm
nay ở ngôi nhà ông đã sống và viết tập ấy trước khi mất năm 1998 ở số 482/35/5
Lê Quang Định, P.11, Q.Bình Thạnh, TP.HCM (nhà sách Quỳnh Na) và một địa chỉ
khác: 245 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM (nhà sách Hà Nội).
Giở tập thơ ra, ngay bài thứ nhất cũng cho ta biết ông viết
trước lúc ra đi không lâu: “Bảy mươi ba tuổi Xóm Gà chơi/Xóm núi xưa xa ở
cuối trời”. Xóm núi xưa xa là xóm núi nào? Đó là: “miền quê hẻo lánh,
xung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt cả tuổi
thơ (làng tôi có xưa kia nhiều cỏ mọc - cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới
những cồn gò, đồi núi thật xanh). Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh
không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn thiêu nướng khổng lồ” như Bùi Giáng từng bộc lộ. Cuối bài thơ là hai
câu: “Sơn ổ cuối trời xa có biết/ Tâm tình dị khách thất thập dư?”. Ông tự
nhận mình là một “dị khách” vào tuổi “thất thập dư” và “sơn ổ cuối trời”
được nhắc đến trong bài chính là nơi ông đã mừng chào cô Chín nào đó: “Mừng
chào cô Chín Quảng Nam/ Duy Xuyên phủ huyện Vĩnh Trinh thôn làng”.
Có tác giả từng nhận xét “Bùi Giáng càng điên... càng tỉnh -
càng già... càng lãng mạn” (Nguyễn Hưng Quốc), ứng với bài Lần cuối trong di cảo
Tâm sự tuổi già: “Thăm em lần cuối cùng này/ Tặng em chẳng rõ lấy gì tặng
nhau/Ngỡ ngàng chuyện trước chuyện sau...” và chú thích bên dưới bằng hai
câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Đình Toàn: “Ru em lần cuối cùng này/ Bằng hơi mát của
một ngày sắp qua”.
Nối theo là: “Giòng sông chảy tới tận cùng/ Ngày đêm không một
phút ngừng chảy trôi” - gợi đến Apollinaire mà ông đã dịch thơ - và
bài Mon destin oh Marie chẳng hạn: “Tình chấn động suốt vùng cây
suối liễu/ Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra giòng”. Cũng liên tưởng đến A une
passante của Baudelaire, được Bùi Giáng dịch với câu: “Có nghe trong gió mộng
triền miên qua”. Vậy đó, một mảng đậm đà trong di cảo này gồm những bài có dính
dáng đến “mộng”: “Chiêm bao luống những nhiều rồi/ Nhớ dòng sông cũ nhớ đồi núi
xưa” - “Tuổi già còn được bao lâu/ Mà mơ với mộng đằm đằm chiêm bao” vừa được
Đắc Phúc phổ nhạc và in vào tập này (cùng với các nhạc phẩm: Xuân hồng và
Trăm năm hồng lệ).
Các ý thơ tương tự viết năm 73 tuổi (vài tháng trước khi Bùi
Giáng qua đời) đưa ta về với thơ Saint John Perse, như bài Je me souviens,
với lời dịch thi thoát của ông: “Trong ly nước mộng tuyệt vời/ Với sầu giao
động nỗi đời giao thoa/ Linh hồn định mệnh âm ba/ Bông vàng khép mở đầu hoa mơ hồ”! Một
dấu nhấn nữa trong Tâm sự tuổi già là những lời “chào” viết lúc ông sắp
qua đời: “Già quá sắp chết đến nơi/ Chào nhau biết có ai đâu mà chào (...)
Chào em những buổi chiều chiều/ Ra bờ sông ngắm ngọn triều đang lên”. Đứng
trên “bờ sông” sinh tử, ông vẫn cười và vẫn “phá thể” trong thơ: “Bà nay
đã tám mươi ba/ Tôi nhỏ hơn bà mười tuổi/ Tôi nay chỉ bảy mươi ba mà thồi” (chữ
thồi ở đây có nghĩa là thôi). Cũng có những câu gửi vào cõi nào xa lắm: “Tôi về
nhà chốn Phiêu Bồng/ Tôi về nơi chốn có Mồng Một Giêng”. Ba chữ “Mồng Một Giêng” viết
hoa nói đến một cuộc “tái lai” của ông. Còn hiện đời: “Còn chi nữa? Nữa
còn chi/ Còn chi nữa chẳng chút chi là còn”. Một kiếp thi sĩ, một kiếp thị
hiện tài hoa, rồi cũng trôi qua như màu hoa trên dòng nước xiết: “Giòng
thu nước chảy chan hòa/ Sóng xuân thủy lục vì hoa hồng vàng”.
Đậm nét qua những bài thơ cuối đời trong di cảo thứ 11 này là
những câu ghi lại “hành trạng” của ông trên đường lang thang: “Ăn trong vườn ngủ
ngoài đường/ Ấy là tình nghĩa máu hường cho tim/ Nhành mai hỏi, đóa lan xin/ Chiều
nay ngõ trúc vắng tin tức người” (Ăn và ngủ). Có bài với tựa nghe rất buồn: Rồi
tôi khóc - nhưng đọc lại thấy ấm áp: “Triền miên một phút vô cùng/ Một giây
vô tận tao phùng tình yêu”. Ông cũng nhắc đến nhiều con vật: “Rằng
sao rất mực người ta/ Mà ngơ ngẩng vịt mà già nua trâu”. Vịt, được Huỳnh Hữu
Ủy kể: “Có một bữa, ông đòi tôi chở về căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để ông
cho vịt ăn, vì nhiều ngày qua rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên căn
gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồng vịt khoảng mấy thước vuông, ông ném gạo
cho vịt ăn, nói nói cười cười, rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bầy
vịt bằng... nhựa!”.
Thi sĩ Phạm Phú Hải (đã qua đời) - tác giả tập thơ với cái tựa
độc đáo và vang bóng: Gánh nước tưới sông - có đăng bài thơ Không
đề khá dài trong đặc san Tưởng niệm Bùi Giáng, mà khi đọc chúng ta thấy
hồn thơ của Phạm Phú Hải cùng “Bùi Giáng đại huynh” dường như kẻ trước người sau
tiếp nối từ một nguồn Hồng Lĩnh. Xin trích đôi dòng:
Ngọn hồng và cỏ ngủ quên
Gót son (và) mặt đất nghiêng bên chân người
Áo bay nghiêng một bầu trời
Tiếng cười nghiêng một chút thời gian xanh
Gió là cánh của âm thanh
Ngày là sóng của biển hành tinh xa
Xuân là nguyên đán giao thoa
Nắng là mật của ngàn hoa không màu...
Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với
'ngày tháng ngao du'
Ngồi lại với nhau nhân ngày đầu tiên phát hành tập thơ cuối đời
của Bùi Giáng: Tâm sự tuổi già vào hôm qua (23.9),
các bạn làng văn có nhắc đến một trong những gương mặt dị thường từng sống mãnh
liệt cùng Bùi Giáng qua những “ngày tháng ngao du”...
Bùi Giáng qua ống kính của L.N.D
Ảnh: gia đình cung cấp
Đó là nhà thơ - học giả Phạm Công Thiện, sinh năm 1941 tại Mỹ
Tho, tài hoa và rất thông minh như Bùi Giáng - thạo tiếng Anh, Pháp, Nhật, Tây
Ban Nha và Sanskrit (một cổ ngữ của Ấn Độ) từ 15 tuổi, biên soạn Anh ngữ
tinh âm lúc 16 tuổi, bắt đầu viết Ý thức mới trong văn nghệ và triết
học lúc 19 tuổi.
Phạm Công Thiện nổi tiếng với một loạt sách biên khảo: Bồ
đề Đạt ma - tổ sư Thiền tông (1964), Im lặng hố thẳm và Hố thẳm của
tư tưởng (1967), dịch cuốn: Tự do đầu tiên và cuối cùng (nguyên
tác Krishnamurti - 1968), Về thể tính của chân lý (Martin Heidegger -
1968), Tôi là ai? Đây là người mà chúng ta mong đợi! (Friedrich
Nietzsche - 1969).
Ông làm Khoa trưởng Văn khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh, chủ
biên Tạp chí Tư Tưởng của viện này từ 1968 và đã xuất gia thọ giới với
pháp danh Thích Nguyên Tánh tại chùa Hải Đức. Năm 29 tuổi (1970), từ giã Bùi
Giáng và làng văn Sài Gòn, Phạm Công Thiện rời Việt Nam qua Đức, Pháp, rồi Mỹ,
giảng dạy tại College of Buddhist Studies. Ở hải ngoại, ông tiếp tục viết nhiều
tác phẩm, như: Trên tất cả đỉnh cao là im lặng, Đối mặt với 1.000 năm cô
đơn của Nietzche và qua đời tại thành phố Houston (Texas, Mỹ) ngày
8.3.2011, thọ 71 tuổi.
Là một học giả, một nhà văn nổi danh với các cuốn: Mặt
trời không bao giờ có thực hoặc: Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất,
nhưng trước hết Phạm Công Thiện tự nhận mình là nhà thơ, với tập: Ngày sinh của
rắn (1967), trong đó nhiều câu được người yêu thơ đọc thuộc: “Mưa chiều thứ bảy
tôi về muộn/ Cây khế đồi cao trổ hết bông” - hoặc cả đoạn dài: “Gió thổi đồi
tây hay đồi đông/ Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng/ Trong mơ em vẫn còn bên cửa/ Tôi
đứng trên đồi mây trổ bông/ Gió thổi đồi thu qua đồi thông/ Mưa hạ ly hương nước
ngược dòng/ Tôi đau trong tiếng gà xơ xác/ Một sớm bông hồng nở cửa đông” (Lê
Uyên Phương phổ nhạc).
Để giúp thêm tư liệu, một kỳ lão trong làng văn cho chúng tôi
mượn cuốn đặc san Tưởng niệm Bùi Giáng do thầy Thích Quảng Hạnh và Thích Thông
Bác chủ biên, có đăng bài của nhà văn Tuấn Huy viết về những “ngày tháng ngao
du” giữa Bùi Giáng và Phạm Công Thiện như sau: “Mỗi lần Phạm Công Thiện gặp Bùi
Giáng là hai người thường gây nhau. Gây nhau về những “triết thuyết” này và “tư
tưởng” nọ. Nhưng với thơ văn thì hai người lại “thương” nhau vô cùng. Bùi Giáng
thường đọc những câu thơ ngắn cho Phạm Công Thiện nghe và ngược lại. Trong
thơ không có điều gì phải luận giải, trong thơ chỉ có sự chia sẻ và cảm
thông. Chúng tôi nhìn hai nhà thơ quàng ôm nhau. Hai nhà thơ ngó nhau cười dịu
dàng. Hai nhà thơ uống những ngụm bia lạnh. Hai nhà thơ hút thuốc lá. Rồi hai nhà
thơ ngồi yên như pho tượng” (…) Một ngày khác, tôi chở Phạm Công Thiện đến thăm
Bùi Giáng. Căn gác gỗ ọp ẹp ở bến xe đò gần đường Trần Quốc Toản (nay là đường
3/2- PV). Vừa bước lên cầu thang, đã thấy một dãy “gà mên” xếp đầy trước một
khung cửa đóng kín. Phạm Công Thiện gõ cửa. Mùi thức ăn (từ gà mên để lâu ngày)
gây nồng, và những con ruồi bay chấp chới trên những chiếc vung bằng nhôm xám xỉn.
Một lúc, Bùi Giáng ló đầu ra. Áo quần nhăn nhúm và tóc tai bù rối. Căn phòng nhỏ,
chật cứng sách vở. Một chiếc mền màu tro cũ và một ngọn điện được kéo thấp xuống
còn cháy sáng. Bùi Giáng, một tay đẩy những đống sách cho gọn gàng lại, một tay
hất hất chiếc mền. Cả ba chúng tôi vẫn đứng vì căn phòng quá hẹp.
Một đôi đũa và mấy chiếc mũ quăng bừa bãi trên một cuốn sách của Camus. Một đôi vớ đen lẫn lộn giữa một cuốn sách của Heidegger. Bùi Giáng nói: “Ngồi đi, ngồi đi…” (…) nhưng chúng tôi đứng lổn ngổn như mấy con ngựa hoang giữa một lòng núi hẹp”. Bùi Giáng giải thích nhiều bữa ông đã quên ăn, cứ để những phần cơm trước cánh cửa đóng im lìm, nhưng người nấu cơm tháng cứ theo lệ hằng ngày vẫn xách tới thêm, để sẵn.
Một đôi đũa và mấy chiếc mũ quăng bừa bãi trên một cuốn sách của Camus. Một đôi vớ đen lẫn lộn giữa một cuốn sách của Heidegger. Bùi Giáng nói: “Ngồi đi, ngồi đi…” (…) nhưng chúng tôi đứng lổn ngổn như mấy con ngựa hoang giữa một lòng núi hẹp”. Bùi Giáng giải thích nhiều bữa ông đã quên ăn, cứ để những phần cơm trước cánh cửa đóng im lìm, nhưng người nấu cơm tháng cứ theo lệ hằng ngày vẫn xách tới thêm, để sẵn.
Tuấn Huy kể tiếp: “Tôi nhìn lại những chiếc gà mên và những
con ruồi đậu xuống như một tấm lưới không hề có thực. Lát sau chúng tôi đến một
tiệm cơm chay ở góc đường Trần Quốc Toản, đối diện với Việt Nam Quốc tự (…) Phạm
Công Thiện gọi một ly cà phê. Tôi gọi một ly trà đá. Riêng Bùi Giáng gọi (một
lúc bốn thứ cả thảy): một tô hủ tíu, một tô mì, một ly cà phê sữa và một ly đá
chanh. Tôi ngơ ngác nhìn Bùi Giáng, nhưng càng ngơ ngác hơn khi thấy ông ăn một
miếng mì, rồi lại ăn một miếng hủ tíu, uống một chút nước chanh, rồi lại nhắm
nháp một chút cà phê (…) Ông gắp cái này một chút, uống cái kia một chút - như
người nhạc trưởng uyển chuyển trước một dàn nhạc. Ngay cả đồ gia vị cũng vậy.
Ông rắc một chút tiêu lên tô này, lại thêm một chút ớt vào tô nọ. Xúc một muỗng
đường, xin vài hạt muối. Muối cho vào ly đá chanh. Đường cho vào tô mì, lung
linh chộn lộn. Có lẽ chỉ có ông trời xanh hay bà trời trắng mới biết được ông
đang ăn uống hay đang chơi dạo giữa mùa trăng châu thổ?”
“Bùi Giáng - thi nhân thấu thị, đã sống kiệt tận miên bạc bình sinh, đã là một trong số hiếm hoi những linh hồn đã đi đến tận đáy của cái vực sâu không đáy, đã yêu đắm đuối cả cuộc bể dâu thê thảm, để công phu ghi tặng lại, bằng ngòi bút lô hỏa thuần thanh...”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thanh
Ảnh bìa tác phẩm của Bùi Giáng do An Tiêm xuất bản
|
Đấy là bốn câu trích từ bài thơ của Bùi Giáng tặng ông Thanh
Tuệ (hai chữ thanh tuệ viết thường) in trong cuốn Sa mạc phát tiết ấn
hành tại Sài Gòn năm 1969 bởi NXB An Tiêm. NXB này đã in nhiều sáng tác, dịch
thuật, biên khảo của Bùi Giáng và do Thanh Tuệ sáng lập điều hành từ năm 1965,
nhà văn Tuấn Huy ghi: “Dạo đó tôi thường gặp Bùi Giáng ở nhà Thanh Tuệ sát
cạnh nhà tôi, trong một hẻm nhỏ đường Lý Thái Tổ. Ngôi nhà lầu ngăn đôi, bên
này một mình tôi mướn lại của nhà văn Song Linh, bên kia Thanh Tuệ thuê, vừa
làm NXB An Tiêm vừa ở đó với mấy người bạn. Một lần, đang nằm ở bên này, tôi
nghe tiếng bước chân xầm xập lên chiếc cầu thang gỗ. Rồi tiếng Bùi Giáng ồn ào
cười nói. Có khi ông đọc thơ. Có khi ông chuyện trò với Thanh Tuệ và những người
khác, bằng cái giọng vừa ồm ôm, vừa chọ chẹ. Một lúc huyên náo như thế, rồi bặt
im, không một tiếng động nào nữa. Những căn nhà san sát mê thiếp dưới ánh nắng
xế và lớp gió chiều quấn lộng... Tôi bước sang đẩy cánh cửa khép hờ, thấy Bùi
Giáng đang ngồi ngủ gục trên một chiếc ghế. Thanh Tuệ thì nhẹ nhàng ý tứ xếp lại
những chồng sách mới in. Tôi cũng nhẹ nhàng ý tứ đến gần bên Thanh Tuệ, nhặt một
cuốn sách lên, để mùi thơm của giấy mới loãng tan trong khứu giác. Thanh Tuệ
ngó Bùi Giáng, cười. Nụ cười tươi tắn và hồn hậu. Tôi khẽ gật đầu. Chúng tôi để
yên cho nhà thơ chúng tôi ngủ”.
Con đường vào thơ của Bùi Giáng dẫn tới cửa chùa. Nói cụ thể hơn, không có NXB An Tiêm của Thanh Tuệ (một tu sĩ Phật giáo) thì bạn đọc không có cơ hội thấy hết được sự nghiệp thơ đồ sộ của Bùi Giáng. “Cuộc chơi lớn” của Bùi Giáng không dễ tìm được một NXB nào chịu bỏ tiền ra in cho ông, ngoài nhà An Tiêm.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Đến 1981, Thanh Tuệ sang Pháp, tiếp tục hoạt động xuất bản ở
Paris, đặt văn phòng liên lạc tại số 3 đường Vincent Van Gogh. Mùa thu 2004, để
chuẩn bị thêm tài liệu kỷ niệm 40 năm thành lập NXB An Tiêm (1965 -2005), Thanh
Tuệ đến Mỹ lưu lại mấy tuần tại San Jose, rồi đến Nam Cali, ở tại chùa Liên Hoa
do hòa thượng Thích Chơn Thành trụ trì và đột ngột lâm bệnh phải đưa vào Bệnh
viện Garden Grove cấp cứu. Song ông đã qua đời lúc 7 giờ 30 tối 16.8 năm ấy, thọ
69 tuổi. Bấy giờ đời sống gia đình ông ở Pháp rất đạm bạc, ngặt nghèo, vợ ông
là bà Đỗ Ngọc Lệ cùng trưởng nữ Thu Hương và hai cháu ngoại Hoàng Minh và Hoàng
Bảo phải mượn tiền mua vé máy bay qua Mỹ. Tiền nhà thương, tiền nhà quàn, tiền
hỏa táng lên tới hàng chục ngàn USD...
Hay tin, từ nước Đức, Thái Kim Lan viết những dòng “ai điếu”
Thanh Tuệ qua bài Đi tìm dấu vết An Tiêm gặp Bùi Giáng, nhắc lời dịch giả
Bửu Ý từng sống với Thanh Tuệ trong những năm mới thành lập An Tiêm: “thời
ấy anh Thanh Tuệ thấy quyển sách nào trình bày đẹp, nhất là sách ngoại quốc từ
Pháp, từ Mỹ, từ Đức, từ Ý trong các hiệu sách là anh mua về cho anh em đọc, rồi
cắt bìa giữ lại làm tư liệu cho những cuốn sách mà anh sẽ hư cấu, chọn bìa, chọn
giấy thích hợp với nội dung” để in. Trong 10 năm (1965 - 1975) NXB An Tiêm mở rộng
cửa đón nhận nhiều tác phẩm danh tiếng trên thế giới, qua các bản dịch bởi Bửu
Ý (chẳng hạn: Vườn đá tảng của Nikos Kasantzakis - 1967; Đứa con đi hoang
trở về của A.Gide - 1967; Văn học thế giới hiện đại của
R.M.Alberes - 1973), và các tác phẩm khác của Phạm Công Thiện, Vũ Khắc Khoan,
Tuệ Sỹ... có hình bìa hoặc phụ bản của Đinh Cường, Hiếu Đệ, Trịnh Cung. Giáo sư
Lê Văn Lợi nhắc: “Nguyễn Hiến Lê - dịch giả tác phẩm Chiến tranh và hòa
bình của Leon Tolstoi 4 tập dày cộm (gồm 3.000 trang) - rất ít khen ai và
tự xuất bản sách của thầy, lại hết lời cảm phục tài năng và tấm lòng Thanh Tuệ
với văn chương chữ nghĩa”... Rõ nét nhất là các tác phẩm của Bùi Giáng do
NXB An Tiêm in, mà nhà văn Nguyễn Mộng Giác ở hải ngoại đã đề cập đến vài hôm
sau ngày Thanh Tuệ mất: “có thể nói hầu hết những tác phẩm quan trọng của Bùi
Giáng đều do anh Thanh Tuệ in, dù NXB biết không thể lấy lại vốn in đã bỏ ra
(...) Một nhà thơ lớn (như Bùi Giáng) đẩy thơ vào một cuộc chơi lớn, thì ngay lập
tức cũng có một NXB “chịu chơi” có đôi mắt xanh sẵn sàng bỏ công bỏ sức ra in
thành quả khác thường của cuộc chơi ấy (...). Tôi tin chắc rằng anh Thanh Tuệ
kiếp trước cũng là một nhà thơ. Không, tôi lầm. Không cần phải đi ngược lên kiếp
trước. Ngay trong phút này, anh “đã là” một nhà thơ. Thi nghiệp của anh là An
Tiêm (...) anh đứng đợi Bùi Giáng vào lúc, vào chỗ thích hợp nhất, để hai người
sánh vai thực hiện một cuộc hành trình mới vào thơ”. Còn Bùi Giáng trong
“thơ điên” của mình vẫn nhắc: “Tuy nhiên xuất bản một thầy/Tu hành thanh
tuệ còn ngây thơ cười” - cười thanh thản, vì đã góp tay mở được một cánh cửa mới
và đầy “màu hoa trên ngàn” cho khu vườn văn học miền Nam, đưa An Tiêm vào huyền
thoại đẹp của ngành xuất bản Sài Gòn một dạo (còn nữa).
Bùi Giáng đã dịch Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long
Sinh và nhận định: “Những kiệt tác của Ngọa Long Sinh đi song song với Kim Dung
và Gia Cát Thanh Vân - thực hiện cuộc chuyển biến dị thường trong lịch sử văn học
tư tưởng Trung Hoa”. Không chỉ đọc suông, theo Bùi Giáng, đọc truyện võ hiệp là
“một trong những phép tu dưỡng ký ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc
theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiềm chế, nội kình
phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện”. Riêng với thi sĩ, sách võ
hiệp sẽ “giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ - điều đó không có chi lạ:
ban sơ vũ học, văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên
của tinh thần xuất phóng” (Sương Bình Nguyên, NXB Võ Tánh, Sài Gòn 1969).
Đoạn trên do nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến trích dẫn về Bùi
Giáng và Đỗ Long Vân với truyện võ hiệp trong tài liệu chúng tôi mượn được,
có ghi nhận xét của Bùi Giáng về cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta - hay Hiện tượng Kim
Dung của Đỗ Long Vân (NXB Trình bày, Sài Gòn 1967): “Ông Đỗ Long Vân nhận định
thâm viễn khoảng vắng lặng vô ngôn trong sách vũ hiệp... Những khuyết điểm của
bản dịch không làm trở ngại Đỗ Long Vân. Vì những kẻ tư tưởng chân thành, vốn
thường nhận ra rất mau những gì gọi là “ý tại ngôn ngoại” hoặc “huyền ngoại chi
âm” (âm thanh ngoài cây đàn - H.N.C) - hoặc “ngôn tại thử nhi ý tại bỉ” (lời ở
đây mà ý nằm ở nơi khác - H.N.C)”. Bùi Giáng cũng viết “Sách tôi bị cháy hết,
nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta để đọc lại”.
Những nhận định của Đỗ Long Vân về nội lực, về nguyên lý võ học và cơ cấu luận... đều bắt nguồn từ cái nhìn sâu thẳm vào tinh thể tinh yếu của vấn đề, và gợi cho người đọc rất nhiều dư hưởng mênh mông khát vọng từ các kiệt tác kim cổ Đông Tây (...). Còn Bùi Giáng có một cái nhìn rất lạ về tác phẩm Kim Dung nói riêng và sách báo võ hiệp nói chung.
Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến cho biết đôi dòng về Đỗ Long Vân “là người thâm cứu văn học Tây Phương, được đào tạo tại Pháp, nhưng tâm hồn ông lại hòa điệu và rất gần gũi với suối nguồn Đông Phương Sơ Thủy, nên dễ dàng thể hội phần tinh túy hoằng viễn trong tư tưởng Kim Dung bằng những suy niệm chân thành”.
Huỳnh Ngọc Chiến cho biết đôi dòng về Đỗ Long Vân “là người thâm cứu văn học Tây Phương, được đào tạo tại Pháp, nhưng tâm hồn ông lại hòa điệu và rất gần gũi với suối nguồn Đông Phương Sơ Thủy, nên dễ dàng thể hội phần tinh túy hoằng viễn trong tư tưởng Kim Dung bằng những suy niệm chân thành”.
Bùi Giáng đánh giá cao những gì Đỗ Long Vân bàn về Kim Dung
và cho cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta đã “nằm trong vùng thâm viễn như cuốn
Nho giáo của Trần Trọng Kim, chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn
của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương Tây
Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng
rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác ông ở đôi chi tiết. Nhưng
không cần. Điều cốt yếu ông (Đỗ Long Vân) đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ
tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những
tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương”.
Đến đây, để minh họa thêm cho các nội dung trên, chúng tôi
trích mấy câu trong loạt bài Chuyện tình qua tiểu thuyết Kim Dung của
Hồng Hạc và bài Xuân và hoa trong tiểu thuyết Kim Dung của Phi Pháp, đăng trên
Báo Thanh Niên từ cuối năm 2005 (Hồng Hạc và Phi Pháp là hai bút danh
khác của Giao Hưởng) như sau: “Là một vương tử, nhưng tâm hồn đa cảm của Đoàn Dự
gần với gió bụi. Ông đi khắp giang hồ. Đến trước tượng thạch nữ sau núi Vô Lượng
của phái Tiêu Dao, Đoàn Dự ngây ngất trước một "thiên nhan" mang hai
quyền năng gần như mâu thuẫn nhau: sát sinh và tái tạo. Với những người muốn
chiếm đoạt thạch nữ thì sẽ chết dưới chân "nàng". Với Đoàn Dự, thạch
nữ đã "sinh" ra cho ông một niềm ngây ngất, nhẹ nhàng như hương trà
mà ông từng nếm trải.
Và cũng lạ lùng từa tựa như tâm thái quá thân thương trước một người xa lạ mà ta mới gặp và không giải thích được vì sao. Ngày kia, đôi mắt chứa những cơn sóng tình không ngừng vỗ của ông dừng lại ở một người: "Ôi Vương Ngữ Yên! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt... Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy (...). Tiếc thay võ học trong đời này chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng (Đỗ Long Vân)”.
Và cũng lạ lùng từa tựa như tâm thái quá thân thương trước một người xa lạ mà ta mới gặp và không giải thích được vì sao. Ngày kia, đôi mắt chứa những cơn sóng tình không ngừng vỗ của ông dừng lại ở một người: "Ôi Vương Ngữ Yên! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt... Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy (...). Tiếc thay võ học trong đời này chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng (Đỗ Long Vân)”.
Đỗ Long Vân hạ bút: “Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng.
Nhưng tình yêu là cái đam mê duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự
ăn năn. Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ
đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng
trị đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn, mà tại vì chàng là
nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu”. Bùi Giáng
cũng vậy, ông viết: “Thật ra, sự vật không có phân ly chia cắt. Và nghệ thuật của
con người xoay quanh một đề tài duy nhất là tình yêu muôn thuở vẫn gửi gắm về
riêng một lời ước hẹn với Hữu Thể Sơ Nguyên”.
Tuần tới, vào ngày 4.10, chương trình tưởng niệm thi sĩ Bùi
Giáng tại quê hương Quảng Nam của ông sẽ bắt đầu lúc 18 giờ ở Trúc Lâm Viên số
8 Trần Quý Cáp - TP.Đà Nẵng do Chi hội Hội Nhà văn Việt Nam, cùng văn phòng đại
diện NXB Văn học ở miền Trung và Tây nguyên tổ chức.
Bùi Giáng - ký họa của Đỗ Trung Quân
Với chủ đề Bùi Giáng - cõi phiêu bồng, chương trình có
các nhà văn nhà thơ: Ngân Vịnh, H’ Man, Lê Anh Dũng, Nhã Tiên, Vô Biên, Thúy Liễu,
Ái Niệm, Văn Nho, Thư Lan, Thu Thủy, nhà thư pháp Hồ Công Khanh, nhạc sĩ Trần
Quế Sơn và ca sĩ Lê Cát Trọng Lý góp mặt.
Đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM thông báo như vậy và
nhắc đến nhận định của nhà văn Thu Bồn (Hà Đức Trọng 1935 - 2003) lúc sinh thời: “Riêng
một mình thơ ông (Bùi Giáng) cũng đã có chỗ đứng trong thơ Việt Nam. Trường
phái Bùi Giáng - một trường phái mà không một nhà thơ nào học nổi. Nếu chúng ta
không lưu ý nghiên cứu nhà thơ này thì quả là một mất mát đáng tiếc”. Khi
biên soạn và sưu tập thơ Quảng Nam thế kỷ 20, Thu Bồn đã viết hồi ức về chuyện
gặp Bùi Giáng lần đầu tiên năm 1976 giữa cơn mưa lớn ở TP.HCM. Lúc ấy Bùi Giáng
đang đứng giữa trời chỉ trỏ cho xe cộ lưu thông, “người ông ướt mèm, tay chân
run cầm cập”.Thu Bồn đưa ông về nhà mình để nhen lửa sưởi ấm cho ông, rồi lấy một
bộ quần áo khô ra đưa ông mặc. Bùi Giáng nhìn quanh tìm chỗ kín để thay, Thu Bồn
bảo không cần phải tìm chỗ kín làm gì, cứ hãy cởi truồng ra đi, Bùi Giáng nói:
“Cái đó đâu phải như thơ mà lúc nào cũng bày ra được!”.
“Gương mặt tinh anh và cặp mắt sắc sảo (của Bùi Giáng) làm tôi kính sợ. “Đó, Bồ tát đó” - người bạn nói để giới thiệu người tôi hâm mộ mà trước đó chưa từng gặp (...) cũng như Tế Điên, hình như Bùi Giáng đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng...”.
Nguyễn Tường Bách
(Mùi hương trầm, NXB Trẻ, TP.HCM 2001)
(Mùi hương trầm, NXB Trẻ, TP.HCM 2001)
Với ông, “thơ” như dòng nước cuộn trước mắt, mà thi sĩ sẵn
sàng quăng thân vào đó: “Nửa đời bỏ lại thân anh/Nửa linh hồn bỏ nước xanh lên
bờ/Khổ đau về chẳng hẹn giờ...”. Và vượt ra ngoài ngôn ngữ thường tình, để
“nghe” được tiếng động của mầm non mới nở: “Nằm nghe ngọn lúa trổ hoa/Mây
trời kết trái tên là hột sương”. Để rồi, trong tương lai - thơ sẽ trở
thành ngôn ngữ thường ngày của nhân loại. Khi gặp nhau mọi người sẽ nói bằng
thơ... lục bát. Về điều ẩn mật đó, thêm một lần nữa, phải nhờ đến lời giải mã của
lão thi sĩ Trần Đới (người gần gũi nhiều năm và hiểu sâu về Bùi Giáng): “Có một
hôm giữa chiều đói bụng, ngồi bên góc hè gần Thư quán Vạn Hạnh nhìn sinh viên
ra vào mua sách vở, Bùi Giáng với giọng thuốc rê khò khè: “Bước đi của văn hóa
thật là kỳ ảo đậm đặc hơn mấy lần cái màu khói thuốc gì mà nhạt thếch này...”. Nói
qua lại một lát, Bùi Giáng bảo: “Ngay giờ này tớ thấy mình đã về đến thế kỷ
35, một - ngàn - rưỡi - năm nữa tớ sẽ đầu thai xuống “Sè gòn”, lúc đó người ta
gọi là “Sãi gòn” và trong đô thị mà tên gọi được phát âm theo giọng “mới” ấy
chỉ còn “nửa giọt Mưa nguồn rớt hột trên ngọn Lá Hoa Cồn”. Bùi thi sĩ tiếp: “Lúc
đó Mưa nguồn sẽ chuyển dịch thành kinh điển thi ca” và “tăng ni, các cha cố sẽ
ngâm thơ thay cho đọc kinh, tụng chú, lúc đó bước đi của văn hóa đã nhập thân
cõi nguồn xưa sau một màu thơ và mộng (...) Sau này lời nói thành thơ, toàn thơ
lục bát...”.
Ví dụ thay vì hỏi: “Anh đi đâu đó?” - thì theo Bùi Giáng thế
kỷ 35 thiên hạ sẽ hỏi đáp có vần điệu như sau:
Đáp: “Tao về nhà ngủ nằm kề vợ tao!”
Hoặc thay vì nói: “Nhà tôi ở gần nhà thờ Đức Bà” - họ sẽ diễn
bằng thơ: “Nhà tao cạnh góc nhà thờ/ Nhà mi ở tận góc chùa Vĩnh Nghiêm”. Một
thí dụ nữa do Bùi Giáng đưa ra về việc “lang thang school” bằng “ô tô bước”, để
được ngắm phố phường rộn rịp thích hơn: “Đi xe chậm, máy bay nhanh/ Thua tao cuốc
bộ loanh quanh Sài Gòn”.
Mấy cái đó còn dễ “nói bằng thơ”, chứ vào sòng bạc nói sao?
Bùi Giáng đáp - nói thế này: “Tao xin tất cả ăn thua/Đứa nào tiền lẻ thì
đưa bố xài”. Nhưng đấy là cách người ta nói với nhau bằng thơ vào thế kỷ... 35!
Chứ thế kỷ 20 và 21 này loài người phải đang tiếp tục nói bằng thứ ngôn ngữ “khôn
ngoan” một cách “dại khờ”, vì kết quả của thứ tiếng nói “lịch sự, lịch lãm”
ấy thường đem lại trăn trở, khổ đau, lường gạt, dối trá nhiều hơn là chân thành
và hạnh phúc! Nên Bùi Giáng thường thích sống trong cõi miền “Sơ nguyên lặng
lẽ” và chìm vào “im vắng thanh lương”. Tuy vậy, ở nơi đó - từ “tâm
không” sâu thẳm của ông - lắm lúc đã thình lình vọt lên những lời thơ thiết tha
và lãng mạn: “Anh quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ/Chỉ xin nâng một giọt lệ êm
đềm”...
Bùi Giáng với sư Viên Minh (chùa Kỳ Viên)
Ảnh: gia đình cung cấp
Trong chồng bản thảo dày cộm chưa in của ông, gia đình đọc thấy bài “kính gởi Hạnh Thanh ni cô thượng thừa”, với câu: “Người qua tôi cũng đi qua/ Người dừng tôi cũng qua loa tạm dừng” - và một số khác nữa gửi những gốc Bồ đề và các “nhà sư vướng lụy”.
Nhắc đến duyên nợ thắm thiết giữa nhà thơ với nhà chùa, nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho là tinh thần vô chấp của đạo Phật “rất thích hợp với khát vọng suy nghĩ và sáng tạo tự do của văn nghệ sĩ. Nhà thơ vào chùa thoải mái, không bị ngăn chặn cửa thu thẻ căn cước, khỏi phải rón rén bước đi vì kinh sợ đấng thần linh (...) đúng là chỗ an trú lý tưởng của các nhà thơ, khi họ cần một chỗ trú. Vì thế, Phạm Công Thiện là khách quý của khắp các chùa lớn, chùa nhỏ ở Việt Nam và ở hải ngoại. Nguyễn Tất Nhiên lái xe đến chùa trước khi quyết định từ giã cõi đời. Và Bùi Giáng trong suốt cuộc chơi lớn với đời vẫn xem chùa chiền là nơi dừng nghỉ thoải mái”.
Đúng, quanh năm, Bùi Giáng đã đến rất nhiều ngôi chùa trên đường lang thang của mình, như Huệ Nghiêm ở Bình Chánh, Huỳnh Kim ở Gò Vấp, Quán Thế Âm ở Phú Nhuận, đi bộ tới những chùa xa so với chỗ ở của ông như chùa Trúc Lâm ở chợ Cây Quéo, gần hơn như Pháp Hoa, Pháp Vân, Pháp Trí, Pháp Võ, lang thang khi ở Giác Lâm, Giác Viên, lúc nằm tại thiền viện Quảng Đức, hoặc ngồi nghỉ dưới gốc mai già 100 năm ở chùa Gò (Phụng Sơn). Sau này, khoảng hơn 15 năm cuối đời, ông thường lui tới các chùa gần hẻm nhà ông đang ở lúc ấy trên đường Lê Quang Định, như chùa Già Lam - nơi có phòng bán kinh sách - để “mua chịu” những tác phẩm do chính ông viết được tái bản, có giấy nợ ghi: “Nợ O Thêm chùa Già Lam 4 cuốn: Mưa nguồn, Cõi người ta, Ngộ nhận (và Hán Tự Bài Cú). Tất cả tổng cộng là 45 ngàn”. Chính ở đây, ông đã một lần nổi giận la hét. Nguyên sân chùa Già Lam có trồng một cây y sa trổ bông màu vàng nghệ như màu áo cà sa của các vị sư. Thấy hoa đẹp, Bùi Giáng lượm một vài bông rụng quanh gốc đưa lên miệng, vừa hôn hoa, vừa hớn hở cười lớn, mừng rỡ như gặp “người thân” xa xưa. Một phật tử nói: “Bác không được ồn ào như thế”. Ông hỏi lại: “Tại sao?”. Người kia đáp: “Vì Phật dạy không nên”. Ông bừng bừng nổi giận: “Phật dạy lúc nào? Ở đâu? Với ai?”.
Buổi chiều cuối cùng
“Thật là quá xúc động. Xúc động đến sững sờ khi thấy ông nằm bọc trong lớp drap trắng xóa, đôi mắt trắng đục nhìn sững chúng tôi. Nét tinh anh ngày nào không còn nữa, chỉ còn đủ để phản chiếu lại hình ảnh lờ mờ của chúng tôi trong ấy. Còn tất cả đều lặng lờ trong tịch mịch (như thơ ông): “Vì con mắt một lần kia đã ngó/ Giữa nhân gian bủa dựng một bầu trời/ Đài vũ trụ hồn nhiên bao rạng tỏ/ Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi”.
Hôm sau 7.10.1998, cũng đôi mắt ấy, đã không bao giờ còn mở ra lần nữa.
Thích Nhuận Châu
Rồi ông mắng một tràng rằng, không nên lặp lại lời của Phật như con vẹt, là vì Phật thuyết không chỉ tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà cả triệu triệu tỉ tỉ và vô lượng pháp môn, mỗi môn tùy người nói, chứ không phải bất cứ ai Phật cũng nói như nhau. Cảnh này, chỗ Già Lam này, lúc này, không nên “trụ” vào lời Phật cách đây đã hơn 2.000 năm trước để nói năng hoạnh họe như rứa. Hãy về nhà bán hết gia tài để mua cuốn Tư tưởng hiện đại của “thằng Giáng tên Bùi về đọc thì sẽ hiểu được điều đó chút ít!”. Cuốn Tư tưởng hiện đại của Bùi Giáng giảng giải về tư tưởng Kierkegaard - Malraux - Jaspers - Heidegger - với phần phụ lục khá quan trọng: “muốn đi vào cõi thơ Bùi Giáng và hiểu những nét thâm hậu nhưng bay bướm của ông thì không thể không đọc phần phụ lục ấy” - sa môn Huệ Thiện nhận xét như thế. Vì lẽ trên, chúng tôi trân trọng trích ra đây đoạn văn của Bùi Giáng viết với ngôi xưng “tao” để trách mắng “chúng” nào đó, như kiểu ông nổi giận trên sân chùa Già Lam hôm nào:
“Krishnamurti không phải là không biết chịu chơi, nhưng lúc chúng nó dòm qua phía Tây Phương và xô bồ công kích, chúng nó không phân biệt chân và giả, chúng nó tư tưởng một chiều, chúng nó không nhận ra sự hóa thân thiên hình vạn trạng của chư vị Bồ Tát cùng những vô lượng phương tiện lực trong xảo mật ngữ. Chỗ ngu si cốt yếu của chúng là: chúng quên mất rằng cái đường cày, cái lối cuốc, cái hột giống gieo ra, phải thuận theo mảnh đất. Cày cuốc trên đất núi không như cày cuốc trên đất phù sa, cấy lúa trên đất phù sa không như cấy lúa giữa thành phố, chăn bò ở giữa núi không giống phép chăn bò ở giữa đồng bằng với những ruộng lúa ruộng ngô nằm mấp mé bên đồng cỏ (và bất cứ lúc nào tứ chi con bò cũng có thể nhảy vọt từ đồng cỏ xuống ruộng đồng). Không một thằng tư tưởng Đông Phương nào ngày nay còn có thể nhìn ra Shakespeare trụ tại chỗ nào trong Bát Nhã Hoa Nghiêm để lập thuyết (mà riêng cái lối dịch L’Immoraliste của Đười Ươi đã mật nhiên khẩn thiết đáp vào). Trong đời tao quả thật tao chưa gặp một thằng học giả nào có được chút trí tuệ tối thiểu của kẻ chăn bò và người cày ruộng. Chúng nó ru rú rút vào căn phòng ngăn nắp tôn sùng Bồ Đề Đạt Ma, Long Thọ Bồ Tát, nhưng nếu cũng ông Bồ Tát ấy, cũng ông Đạt Ma ấy, khoác bộ áo khác, đi lững đững ở một phương trời khác, mà gặp chúng nó, thì lập thời chúng nó phỉ báng ngay. Hỏi làm sao thế. Chúng đáp: bởi vì mày không giống ông Đạt Ma Long Thọ của tao tôn thờ. Cõi tư tưởng vẫn còn rối loạn mãi, chung quy chỉ tại bọn học giả không biết học tập chăn bò, cày ruộng, trước khi mở mồm mở miệng bi bô”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét