Văn xuôi Thạch
Lam
dưới góc nhìn văn hóa
dưới góc nhìn văn hóa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn hóa. Nó tiêu biểu cho diện mạo và các giá trị văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần. Văn học là một sản phẩm mang tính đại diện cho văn hóa, có khả năng nhận thức, phản ánh, sáng tạo chuyển tải và giữ gìn các giá trị văn hóa. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ rất sâu sắc, chặt chẽ. Văn hóa không chỉ hiện diện trên bề mặt biểu hiện mà còn có khả năng chi phối, tác động ở chiều sâu đối với văn học, đặc biệt trong tâm thức sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm văn chương vì thế chắc chắn đã thể hiện những dấu ấn văn hóa nhất định. Nghiên cứu văn chƣơng từ góc nhìn văn hoá đã và đang là một hướng tiếp cận nghiên cứu hiệu quả vì trong bối cảnh hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã và đang đặt ra như một thách thức trước xu hướng toàn cầu hóa.
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu văn chương theo hướng này như: nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Sơn Nam… Thạch Lam là một trong số không nhiều các nhà văn hiện đại Việt Nam đã để lại được dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc bằng những tác phẩm mang đậm chất văn hóa. Văn xuôi Thạch Lam chứa đựng trong đó những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại ở “chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Nghiên cứu văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa để thấy được cảm xúc và thái độ của nhà văn trước thiên nhiên và cuộc sống con người. Đồng thời thấy được những đóng góp của riêng nhà văn trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân tộc, cũng như thấy được những giá trị văn hóa dân tộc hoặc ảnh hưởng hoặc được thể hiện trong tác phẩm của ông như thế nào, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mối quan hệ giữa nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagor đã nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài người không phải bằng cách tự xóa mình đi, mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính mình”. Theo ý nghĩa ấy, Thạch Lam đã tạo được cho mình một phong cách rất riêng không lẫn với ai. Vì vậy, trong chương trình phổ thông và đại học, Thạch Lam là một tên tuổi quen thuộc và quan trọng. Sau nhiều lần thay đổi chƣơng trình và chỉnh lý sách giáo khoa, vị trí của Thạch Lam vẫn được khẳng định. Do đó, việc nghiên cứu Thạch Lam có ý nghĩa thiết thực và bổ ích trong công tác giảng dạy. Một lý do không thể thiếu nữa đó là lòng yêu mến và ngưỡng mộ của tác giả luận văn đối với sáng tác của nhà văn Thạch Lam. Từ những lý do trên, nên tôi đã chọn đề tài: Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa với hy vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác của Thạch Lam.
Văn học là một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn hóa. Nó tiêu biểu cho diện mạo và các giá trị văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần. Văn học là một sản phẩm mang tính đại diện cho văn hóa, có khả năng nhận thức, phản ánh, sáng tạo chuyển tải và giữ gìn các giá trị văn hóa. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ rất sâu sắc, chặt chẽ. Văn hóa không chỉ hiện diện trên bề mặt biểu hiện mà còn có khả năng chi phối, tác động ở chiều sâu đối với văn học, đặc biệt trong tâm thức sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm văn chương vì thế chắc chắn đã thể hiện những dấu ấn văn hóa nhất định. Nghiên cứu văn chƣơng từ góc nhìn văn hoá đã và đang là một hướng tiếp cận nghiên cứu hiệu quả vì trong bối cảnh hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã và đang đặt ra như một thách thức trước xu hướng toàn cầu hóa.
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu văn chương theo hướng này như: nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Sơn Nam… Thạch Lam là một trong số không nhiều các nhà văn hiện đại Việt Nam đã để lại được dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc bằng những tác phẩm mang đậm chất văn hóa. Văn xuôi Thạch Lam chứa đựng trong đó những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại ở “chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Nghiên cứu văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa để thấy được cảm xúc và thái độ của nhà văn trước thiên nhiên và cuộc sống con người. Đồng thời thấy được những đóng góp của riêng nhà văn trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân tộc, cũng như thấy được những giá trị văn hóa dân tộc hoặc ảnh hưởng hoặc được thể hiện trong tác phẩm của ông như thế nào, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mối quan hệ giữa nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagor đã nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài người không phải bằng cách tự xóa mình đi, mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính mình”. Theo ý nghĩa ấy, Thạch Lam đã tạo được cho mình một phong cách rất riêng không lẫn với ai. Vì vậy, trong chương trình phổ thông và đại học, Thạch Lam là một tên tuổi quen thuộc và quan trọng. Sau nhiều lần thay đổi chƣơng trình và chỉnh lý sách giáo khoa, vị trí của Thạch Lam vẫn được khẳng định. Do đó, việc nghiên cứu Thạch Lam có ý nghĩa thiết thực và bổ ích trong công tác giảng dạy. Một lý do không thể thiếu nữa đó là lòng yêu mến và ngưỡng mộ của tác giả luận văn đối với sáng tác của nhà văn Thạch Lam. Từ những lý do trên, nên tôi đã chọn đề tài: Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa với hy vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác của Thạch Lam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn và là một trong những
gương mặt lớn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Những sáng tạo và
đóng góp của ông rất có ý nghĩa đối với quá trình hiện đại hóa nền văn học nước
ta giai đoạn này. Vì vậy, Thạch Lam là một hiện tượng văn học đƣợc nghiên cứu sớm
và rất nhiều. Các ý kiến đều đánh giá cao tài năng và giá trị văn chương của
ông. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã phát biểu: “Thạch Lam có một ngòi bút
lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những
cảm tình, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một
cách thật tinh vi” [57; tr570]. Còn Thế Lữ trong bài viết “Tính cách tạo tác của
Thạch Lam” in trên tờ Thanh Nghị số 39 ra ngày 16/6/1943 đã nhận xét “Cái kho
tàng cuộc sống bên trong rất châu báu” [51; tr.820]. Tác giả Nhớ rừng đã bằng sự
tinh tế và nhạy cảm của một thi sĩ mà hiểu người bạn văn của mình. Ông nhìn thấy
trong những tác phẩm của Thạch Lam có ánh sáng của một sự thực khác, đó là sự
thực tâm hồn. Hay trong lời giới thiệu cuốn Thạch Lam truyện ngắn và tiểu luận, nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Nói đến Thạch Lam người ta nhớ đến truyện
ngắn nhiều hơn truyện dài”.
Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Thạch Lam là người có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc” [71; tr170]. Lê Dục Tú trong Quan niệm con người trong sáng tác của Thạch Lam (Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, 1993) một lần nữa khẳng định chiều sâu nhân bản trong ngòi bút miêu tả nhân vật của Thạch Lam: “Dù trong cảnh ngộ nào con người trong sự miêu tả của Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và giàu tính nhân bản” [89; tr16-22]. Trong bài Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài, Nguyễn Nhật Duật chỉ ra rằng: “Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, đơn giản và trong sáng, Thạch Lam đã gợi cho chúng ta cả một bối cảnh Việt Nam không còn nữa với ngày nay cả một bầu không khí thanh bình, thơ mộng và nghèo khốn”. [25; tr12-16]. Nhà văn Hồ Dzếnh nhớ tới Thạch Lam như nhớ người đã gọi tên trìu mến và tha thiết với món ăn Hà Nội “Tôi nhớ anh những hôm đi qua phố Hàng Đào, Hàng Ngang, tưởng chừng như phong vị một Hà Nội ba sáu phố phường vẫn còn phảng phất đâu đây. Trước Thạch Lam, chưa mấy ai phát hiện đầy đủ cái thi vị, tinh hoa của những món quà thổ ngơi Hà Nội, khoan nói đến nghệ thuật thưởng thức như anh, với tấm lòng nâng niu trân trọng” [24]. Nhà văn Vũ Bằng lại viết: “Anh quý từ chén nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng một cách gần như thành kính, tiếc từ một cái kẹo vừng rơi xuống đất, nhặt lên phủi bụi rồi cầm lấy ăn một cách chậm rãi như thể vừa nhai vừa suy nghĩ, vừa cảm ơn trời đã cho mình sống để thưởng thức một món ăn ngon lành như vậy, anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời có câu gì không chu đáo để cho người ta tủi thân mà buồn…” [12].
Rồi các luận văn, luận án đề cập đến nghiên cứu văn chương từ góc nhìn văn hóa: Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam của tác giả Trần Thị Thu Hà trường Đại học sư phạm Hà Nội, năm 2011; sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư dưới cái nhìn văn hóa của tác giả Hoàng Thị Hà trường ĐH sư phạm Hà Nội, năm 2011; Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa của Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2013; Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của Ngô Minh Hiển…
Nhìn chung các bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét về sáng tác của Thạch Lam tương đối nhiều và phong phú các ý kiến. Song chưa có công trình riêng biệt nghiên cứu về văn xuôi Thạch Lam từ hướng tiếp cận văn hóa học. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn sẽ cố gắng đi sâu, tìm hiểu những giá trị mới trong tác phẩm của ông cũng như những đóng góp riêng của nhà văn Thạch Lam đối với văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Thạch Lam là người có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc” [71; tr170]. Lê Dục Tú trong Quan niệm con người trong sáng tác của Thạch Lam (Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, 1993) một lần nữa khẳng định chiều sâu nhân bản trong ngòi bút miêu tả nhân vật của Thạch Lam: “Dù trong cảnh ngộ nào con người trong sự miêu tả của Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và giàu tính nhân bản” [89; tr16-22]. Trong bài Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài, Nguyễn Nhật Duật chỉ ra rằng: “Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, đơn giản và trong sáng, Thạch Lam đã gợi cho chúng ta cả một bối cảnh Việt Nam không còn nữa với ngày nay cả một bầu không khí thanh bình, thơ mộng và nghèo khốn”. [25; tr12-16]. Nhà văn Hồ Dzếnh nhớ tới Thạch Lam như nhớ người đã gọi tên trìu mến và tha thiết với món ăn Hà Nội “Tôi nhớ anh những hôm đi qua phố Hàng Đào, Hàng Ngang, tưởng chừng như phong vị một Hà Nội ba sáu phố phường vẫn còn phảng phất đâu đây. Trước Thạch Lam, chưa mấy ai phát hiện đầy đủ cái thi vị, tinh hoa của những món quà thổ ngơi Hà Nội, khoan nói đến nghệ thuật thưởng thức như anh, với tấm lòng nâng niu trân trọng” [24]. Nhà văn Vũ Bằng lại viết: “Anh quý từ chén nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng một cách gần như thành kính, tiếc từ một cái kẹo vừng rơi xuống đất, nhặt lên phủi bụi rồi cầm lấy ăn một cách chậm rãi như thể vừa nhai vừa suy nghĩ, vừa cảm ơn trời đã cho mình sống để thưởng thức một món ăn ngon lành như vậy, anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời có câu gì không chu đáo để cho người ta tủi thân mà buồn…” [12].
Rồi các luận văn, luận án đề cập đến nghiên cứu văn chương từ góc nhìn văn hóa: Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam của tác giả Trần Thị Thu Hà trường Đại học sư phạm Hà Nội, năm 2011; sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư dưới cái nhìn văn hóa của tác giả Hoàng Thị Hà trường ĐH sư phạm Hà Nội, năm 2011; Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa của Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2013; Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của Ngô Minh Hiển…
Nhìn chung các bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét về sáng tác của Thạch Lam tương đối nhiều và phong phú các ý kiến. Song chưa có công trình riêng biệt nghiên cứu về văn xuôi Thạch Lam từ hướng tiếp cận văn hóa học. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn sẽ cố gắng đi sâu, tìm hiểu những giá trị mới trong tác phẩm của ông cũng như những đóng góp riêng của nhà văn Thạch Lam đối với văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn dựa vào các phạm trù văn hóa, soi tỏ mối quan hệ giữa văn hóa - văn học ở tầm khái quát và đi sâu vào văn xuôi Thạch như một hiện tượng văn hóa cụ thể.
Luận văn xác lập hệ thống lý luận về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa - văn học để từ đó nhận diện sự tồn tại và tiếp nối các mạch ngầm văn hóa được biểu hiện trong văn xuôi của Thạch Lam. Luận văn chỉ ra tầng sâu các giá trị văn hóa trong văn xuôi của Thạch Lam, làm rõ căn nguyên tồn tại chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn, qua đó cũng khẳng định nét độc đáo và đóng góp của Thạch Lam trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu khái lược về tiếp cận văn hóa học và văn xuôi Thạch Lam. Tìm hiểu về các phương diện biểu hiện văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam.
Tìm hiểu về các phương thức biểu hiện những cảm quan văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam.
Luận văn dựa vào các phạm trù văn hóa, soi tỏ mối quan hệ giữa văn hóa - văn học ở tầm khái quát và đi sâu vào văn xuôi Thạch như một hiện tượng văn hóa cụ thể.
Luận văn xác lập hệ thống lý luận về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa - văn học để từ đó nhận diện sự tồn tại và tiếp nối các mạch ngầm văn hóa được biểu hiện trong văn xuôi của Thạch Lam. Luận văn chỉ ra tầng sâu các giá trị văn hóa trong văn xuôi của Thạch Lam, làm rõ căn nguyên tồn tại chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn, qua đó cũng khẳng định nét độc đáo và đóng góp của Thạch Lam trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu khái lược về tiếp cận văn hóa học và văn xuôi Thạch Lam. Tìm hiểu về các phương diện biểu hiện văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam.
Tìm hiểu về các phương thức biểu hiện những cảm quan văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Triển khai luận văn Văn xuôi Thạch lam
dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi của Thạch
Lam, trong đó tập trung vào một số tác phẩm sau:
Truyện ngắn:
- Tập: Gió đầu mùa - NXB Đời nay, Hà Nội 1937.
- Tập: Nắng trong vườn - NXB Đời nay, Hà Nội 1938.
Bút ký:
- Hà Nội băm sáu phố phường - NXB Đời nay, Hà Nội 1940.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp liên ngành: Chúng tôi xác định đây là phương pháp quan trọng của luận văn này, trong đó phương pháp nghiên cứu văn học là chủ đạo, đồng thời phối hợp vận dụng, phối hợp một số tri thức liên ngành văn hóa học, sử học, triết học, tôn giáo học, ngôn ngữ học, liên văn bản cắt nghĩa văn học bằng truyền thống văn hóa, hoạt động văn hóa, góc nhìn văn hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa, phát hiện các giá trị văn hóa kết tinh trong văn xuôi Thạch Lam.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa được các hình thức nghệ thuật trong tác phẩm và mối quan hệ với nội dung để chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm, của quá trình văn học trong tác phẩm của Thạch Lam.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Phương pháp này thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nét mới của tác phẩm, trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, quan niệm về con người… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, mô tuýp, hình tượng, ngôn ngữ...
- Phương pháp so sánh: Đây cũng là một phương pháp cần thiết giúp chúng tôi đối chiếu các vấn đề ở cả hai bình diện đồng đại và lịch đại; so sánh ở nội bộ tác phẩm của một nhà văn, so sánh giữa tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn với nhau nhằm khám phá một cách hiệu quả thế giới văn xuôi Thạch Lam, làm nổi bật nét văn hóa sâu đậm, rất riêng của nhà văn Thạch Lam. - Phương pháp hệ thống: Chúng tôi xem văn xuôi Thạch Lam là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố và có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác như văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, triết học…
Truyện ngắn:
- Tập: Gió đầu mùa - NXB Đời nay, Hà Nội 1937.
- Tập: Nắng trong vườn - NXB Đời nay, Hà Nội 1938.
Bút ký:
- Hà Nội băm sáu phố phường - NXB Đời nay, Hà Nội 1940.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp liên ngành: Chúng tôi xác định đây là phương pháp quan trọng của luận văn này, trong đó phương pháp nghiên cứu văn học là chủ đạo, đồng thời phối hợp vận dụng, phối hợp một số tri thức liên ngành văn hóa học, sử học, triết học, tôn giáo học, ngôn ngữ học, liên văn bản cắt nghĩa văn học bằng truyền thống văn hóa, hoạt động văn hóa, góc nhìn văn hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa, phát hiện các giá trị văn hóa kết tinh trong văn xuôi Thạch Lam.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa được các hình thức nghệ thuật trong tác phẩm và mối quan hệ với nội dung để chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm, của quá trình văn học trong tác phẩm của Thạch Lam.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Phương pháp này thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nét mới của tác phẩm, trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, quan niệm về con người… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, mô tuýp, hình tượng, ngôn ngữ...
- Phương pháp so sánh: Đây cũng là một phương pháp cần thiết giúp chúng tôi đối chiếu các vấn đề ở cả hai bình diện đồng đại và lịch đại; so sánh ở nội bộ tác phẩm của một nhà văn, so sánh giữa tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn với nhau nhằm khám phá một cách hiệu quả thế giới văn xuôi Thạch Lam, làm nổi bật nét văn hóa sâu đậm, rất riêng của nhà văn Thạch Lam. - Phương pháp hệ thống: Chúng tôi xem văn xuôi Thạch Lam là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố và có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác như văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, triết học…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội
dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái lược về tiếp cận văn hóa học và văn
xuôi Thạch Lam.
Chương 2: Các phương diện biểu hiện văn hóa của văn xuôi Thạch
Lam.
Chương 3: Phương thức biểu hiện những cảm quan văn hóa trong văn xuôi Thạch
Lam.
1. 1.
Khái lược về tiếp cận văn hóa học
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đã có từ lâu đời và có nội hàm rất rộng. Theo A.L.Kroeber và C.L. Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: Cái nhìn phân tích về Khái niệm và Định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ số lượng định nghĩa văn hóa phong phú như vậy vì một phần văn hóa là một phạm trù hết sức rộng. Phần khác, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích và phương pháp của mình đều có quyền đưa ra một định nghĩa thích hợp. Sau đây, tôi xin điểm qua một số định nghĩa về văn hóa tiêu biểu. Cụ thể như:
Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) định nghĩa:
Văn hóa là một khái niệm đã có từ lâu đời và có nội hàm rất rộng. Theo A.L.Kroeber và C.L. Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: Cái nhìn phân tích về Khái niệm và Định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ số lượng định nghĩa văn hóa phong phú như vậy vì một phần văn hóa là một phạm trù hết sức rộng. Phần khác, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích và phương pháp của mình đều có quyền đưa ra một định nghĩa thích hợp. Sau đây, tôi xin điểm qua một số định nghĩa về văn hóa tiêu biểu. Cụ thể như:
Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) định nghĩa:
1. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. (Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn
hóa Phương Đông. Nền văn hóa cổ).
2. Những hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa
mãn nhu cầu của đời sống tinh thần. (Phát triển văn hóa. Công tác văn hóa).
3.
Tri thức, kiến thức khoa học. (Học văn hóa. Trình độ văn hóa).
4. Trình độ cao
trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh: (Sống có văn hóa. Ăn nói thiếu
văn hóa).
5. Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ
sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. (Văn
hóa rìu hai vai. Văn hóa Đông Sơn).
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP HCM, 1997, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP HCM, 1997, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Theo Đỗ Lai Thúy trong Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu
người văn hóa thì "Văn hóa là tất cả những gì phi tự nhiên" [85; tr
16 -17]. Tác giả cũng cho rằng, đây là định nghĩa khái quát nhất, rộng lớn nhất.
Định nghĩa về văn hóa có tính chất cấu trúc luận, tác giả Phan Ngọc cho rằng:
"Văn hóa là quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới
thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người,
một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các
kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là
độ khúc xạ". [85; tr 16 -17].
UNESCO - Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hóa và rồi đi đến một thống nhất chung như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm cả nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo ra những công trình vượt trội lên bản thân” [ 85; Tr18]
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hóa là một mặt trận; Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.”
Tóm lại, dù có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, nhưng tựu chung lại, văn hóa có những đặc điểm cơ bản sau: Văn hóa là một hoạt động sáng tạo, mang tính lịch sử chỉ riêng con người mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao gồm mọi ứng xử của con người với nhau và con người với tự nhiên - xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Những hoạt động sáng tạo đó đã đạt được thành tựu của các giá trị văn hóa, được bảo tồn và khai thác phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục (theo nghĩa rộng). Văn hóa là thể hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại, tạo ra một kiểu lựa chọn riêng của tộc ngƣời, một cá nhân so với một tộc khác, một cá nhân khác tạo thành những nhân cách văn hóa (cá nhân), những nền văn hóa khác nhau (cộng đồng).
Dù hiểu theo cách nào thì văn hóa cũng đều là sản phẩm độc đáo của quá trình lịch sử do cá nhân và cộng đồng ngƣời tạo nên. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi nghiêng về cách hiểu văn hóa gắn liền với bản sắc văn hóa theo định nghĩa của Phan Ngọc và của UNESCO.
UNESCO - Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hóa và rồi đi đến một thống nhất chung như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm cả nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo ra những công trình vượt trội lên bản thân” [ 85; Tr18]
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hóa là một mặt trận; Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.”
Tóm lại, dù có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, nhưng tựu chung lại, văn hóa có những đặc điểm cơ bản sau: Văn hóa là một hoạt động sáng tạo, mang tính lịch sử chỉ riêng con người mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao gồm mọi ứng xử của con người với nhau và con người với tự nhiên - xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Những hoạt động sáng tạo đó đã đạt được thành tựu của các giá trị văn hóa, được bảo tồn và khai thác phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục (theo nghĩa rộng). Văn hóa là thể hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại, tạo ra một kiểu lựa chọn riêng của tộc ngƣời, một cá nhân so với một tộc khác, một cá nhân khác tạo thành những nhân cách văn hóa (cá nhân), những nền văn hóa khác nhau (cộng đồng).
Dù hiểu theo cách nào thì văn hóa cũng đều là sản phẩm độc đáo của quá trình lịch sử do cá nhân và cộng đồng ngƣời tạo nên. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi nghiêng về cách hiểu văn hóa gắn liền với bản sắc văn hóa theo định nghĩa của Phan Ngọc và của UNESCO.
1.1.2. Bản sắc văn hóa
Văn hóa là sản phẩm, là diện mạo của cá nhân và cộng đồng. Vì thế nói tới văn hóa không thể không nhắc đến vấn đề bản sắc văn hóa, tức là cái “tinh túy”, cái cốt lõi của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử.
Bản sắc văn hóa, theo Ngô Đức Thịnh là “một tổng thể các đặc trưng của văn hóa được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử của dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn” [79]. Theo Dương Phú Hiệp thì: “Bản sắc riêng của mỗi nền/ dạng/ kiểu văn hóa thường được biểu hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong hiện tượng văn hóa hoặc các sản phẩm của văn hóa, quy định bộ mặt của mỗi nền văn hóa” [47; tr40]. Ngoài ra, phần đáng kể của nó lại được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của cộng đồng người. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa, bản sắc đó luôn có thêm những giá trị mới được hình thành và tiếp tục được bồi tụ để định hình và lộ diện, phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử. Các giá trị mang bản sắc văn hóa của từng tộc người, không phải ngẫu nhiên được hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị.
Như vậy, bản sắc văn hóa được hiểu là những gì tinh hoa, bền vững của một nền văn hóa. Nó mang ý nghĩa chỉ cái cốt lõi, chỉ những đặc trưng riêng của một cộng đồng văn hóa và là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác. Vì vậy, dấu ấn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền sẽ đƣợc thể hiện trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó có văn học.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.1.3.1. Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa
“Văn học là nhân học” (Macxim Gorki), văn học lấy con ngƣời làm đối tượng trung tâm để phản ánh và khắc họa. Mà bản chất của văn hóa là hƣớng đến tinh thần nhân văn, nhân bản và mục tiêu duy nhất là xây dựng con người. Và cả văn hóa lẫn văn học đều lấy chân - thiện - mỹ làm thước đo cho trình độ phát triển.
Văn học là một bộ phận của văn hóa. Nhờ có văn học, những sắc màu văn hóa được tái hiện một cách sinh động và sắc nét “Khi thì hiện diện trên bề mặt của hiện thực đời sống với những phong tục, tập quán, hội hè đình đám, những nghi lễ, có khi được thể hiện ở chiều sâu, trong sâu thẳm tâm thức văn hóa cộng đồng” [64; tr161] hay tính cách, ứng xử của con người với con người và con người trước thiên nhiên. Văn học, cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán… là những thành tố hợp thành cấu trúc tổng thể bao trùm lên tất cả là văn hóa. Vì vậy, cũng như các thành tố khác, văn học luôn chịu sự chi phối trực tiếp “từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [11; tr5]. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Đỗ Thị Minh Thúy chỉ ra rằng: “Đặt văn học trong văn hóa tức là nhấn mạnh sự tác động tổng thể của văn hóa tới văn học, như vậy các nhân tố xã hội, kinh tế, chính trị... tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung, thông qua văn hóa mới tác động đến văn học, ở quan hệ đặc biệt này, văn học trở thành một trong những tiêu điểm của văn hóa, đóng vai trò nhân tố đại diện cho văn hóa [86; tr239]”. Như vậy, văn học là một trong những bộ phận quan trọng của văn hóa, là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Đồng thời văn học cũng là phương tiện lưu giữ và bảo lưu văn hóa thời đại cũng như truyền thống độc đáo của dân tộc. Song nhà văn - chủ thể sáng tạo cũng là con đẻ của một cộng đồng. Muốn hay không, nhà văn đó cũng tiếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong đó chứa đựng nội hàm văn hóa của thời đại.
Sau nữa, nếu văn hóa là những gì còn đọng lại trong chiều sâu tâm trí con người sau khi thời gian đã sàng lọc tất cả thì cái hình ảnh hiển hiện ngày một lắng sâu của diện mạo, bản sắc văn hóa Việt Nam lại được hiện hình rõ nét qua văn học. Không phải ngẫu nhiên mà tìm hiểu về văn hóa Việt Nam nhiều người lại tìm về văn học Việt Nam. Nói cách khác, văn học là hiện thân của văn hóa. Bằng sức mạnh của ngôn từ, văn học đã diễn đạt được khá đầy đủ và trực tiếp lớp vỏ của tư duy và tầng sâu của cảm xúc trong hệ thống tinh thần và đời sống văn hóa dân tộc. Việt Nam không có nền văn hóa lộ thiên đồ sộ như nhiều quốc gia trong khu vực nhưng chúng ta lại có bề dày văn hóa của người Việt Nam với những đức tính cao đẹp như yêu nƣớc, cần cù, đoàn kết, giàu lòng yêu thương, trọng tình trọng nghĩa, giữ chữ tín… Khi được tổ chức UNESCO phong tặng danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh nghĩa là thế giới đã công nhận nét đặc sắc văn hóa trong giá trị tinh thần của người Việt Nam chúng ta ở cả quá khứ và hiện tại. Nếu không có cái bề thế của nền văn hóa - văn học cách mạng biết nâng niu kiệt tác Truyện Kiều, biết khai thác tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hòa quyện trong thơ văn vì đại nghĩa dân tộc thì có lẽ trong văn học của chúng ta không có tiếng vang như thế. Là hiện thân của văn hóa, văn học đã mang trong mình hình hài của bề sâu văn hóa nơi mà từng bị che lấp bởi nét dáng tân kỳ của văn hóa phương Tây hoặc bởi cái nhìn mơ hồ của những quan niệm văn chương lỗi thời. Văn học bao giờ cũng là lực lượng xung kích trên mặt trận văn hóa. Chính lịch sử văn hóa - văn học dân tộc đã cho chúng ta một nhận thức đúng đắn rằng: người cầm bút chỉ trở thành một nhà văn lớn khi nào đạt đến tầm vóc của một nhà văn hóa tư tưởng.
Là một bộ phận của văn hóa, hiện thân cho nền văn hóa, văn học đương nhiên là một sản phẩm đặc biệt của văn hóa. Chính điều này đã đặt ra những yêu cầu đối với người đọc và người nghiên cứu tác phẩm đó là:
1/ Phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hóa xã hội hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với các hiện tượng văn hóa khác.
2/ Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là một sản phẩm văn hóa vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa.
3/ Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới cả mạch ngầm sâu thẳm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ.
1.1.3.2. Văn học kết tinh giá trị văn hóa
Chúng ta biết rằng, giá trị (value) là “cốt lõi” của văn hóa, là “thước đo” nhân bản của xã hội loài người. Vì vậy nghiên cứu các vấn đề văn hóa, chúng ta không thể bỏ qua giá trị và giá trị văn hóa bởi đó chính là hình thái của đời sống tinh thần. Nó phản ánh và kết tinh đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của con người. Nói như Ngô Đức Thịnh, giá trị là “những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là Chân - Thiện - Mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất con người” [79; tr38]. Như vậy, giá trị văn hóa còn gọi là giá trị xã hội, nó gắn bó với sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. GS Trần Văn Giàu rất có lý khi gọi tên những “giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người”. Đó là những sắc màu khác nhau trong “bảng màu” tạo nên giá trị truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Giá trị còn là một phạm trù tinh thần được con ngƣời nhận thức, đúc kết những kinh nghiệm, những va chạm với thực tiễn, dùng để phân biệt với những gì "phi giá trị”. Giá trị con người được nhận thức, sàng lọc, kết đọng qua “bộ lọc" của tâm thức văn hóa. Chỉ những gì là hợp lý, hợp chuẩn mực, nhân đạo, nhân văn mới được gìn giữ, bảo lưu, bảo tồn qua nhiều thế hệ, góp phần làm giàu thêm cho truyền thống văn hóa của dân tộc. Ngược lại, những gì “phi giá trị", “kém giá trị” tất yếu sẽ bị đào thải không có sức sống bền lâu với thời gian. Do không phải là một phạm trù đơn lẻ, những giá trị hướng đến Chân - Thiện - Mỹ sẽ tạo nên một hệ giá trị. Hệ giá trị này có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Nó giống như một "mao mạch” giúp con người không ngừng phấn đấu vươn lên để hoàn thiện chính mình. Trên cơ sở đó, mỗi cá nhân sẽ góp thêm một tiếng nói vào sự tiến bộ chung của cộng đồng.
Soi chiếu vào văn học, chúng ta nhận thấy văn học là bộ phận của văn hóa, chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại thì nhà văn - chủ thể sáng tạo lại là con đẻ của cộng đồng. Muốn hay không thì nhà văn cũng phải tiếp cận những thành tố của văn hóa cộng đồng. Cho nên, những sáng tác của họ sẽ luôn được tắm mình trong hệ giá trị. Đó chính là lý do để giải thích vì sao người tiếp nhận luôn hướng đến những giá trị thẩm mỹ - một phạm trù mỹ học gắn với sự tự biểu hiện độc đáo của chủ thể sáng tạo. Đặc biệt những giá trị này luôn luôn được đặt trên phông nền của giá trị truyền thống. Nói như nhà phê bình Trương Đăng Dung thì giá trị thẩm mỹ chính là “tấm hộ chiếu” quyết định tác phẩm của thời đại này bước sang thời đại khác và tiếp tục sự đào thải, lựa chọn thông qua hệ thống thẩm mỹ. Theo đó giá trị thẩm mỹ đích thực trong sáng tác văn học sẽ hướng con ngƣời tới Chân - Thiện - Mỹ, gắn liền với sáng tạo, xây dựng hình tượng con người theo cái đẹp và xác định một tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp. Những sáng tác văn học vừa gắn liền với bản chất đặc thù nghệ thuật vừa mang đến cho đối tượng thưởng thức một cảm nhận đúng hướng sẽ luôn tạo ra một “hiệu ứng” mỹ cảm nhất định trong lòng người đọc. Giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn học sẽ được thế hệ sau nuôi dưỡng, bồi đắp theo thời gian. Tuy nhiên, giá trị không phải là phạm trù tĩnh tại. Trong cuộc giao lưu tiếp biến, bên cạnh những yếu tố nội sinh được cấy trồng và giữ lại, có những yếu tố chưa phù hợp sẽ được cải biến cho phù hợp với thực tiễn hơn nữa, văn học còn nâng đỡ cho con người bằng một niềm tin, một tinh thần lạc quan về những giá trị vĩnh hằng có sức sống vượt thời gian, vượt qua sự băng hoại. Bên cạnh đó, văn học còn viết về cái xấu, cái ác, “phản văn hóa”, “phản giá trị”. Do đó, sáng tác văn học còn có khả năng tác động, điều chỉnh các hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, xã hội và với chính mình.
Soi chiếu phạm trù giá trị vào tác phẩm văn học sẽ giúp người nghiên cứu tránh được cái nhìn thiển cận trong việc bình giá những mô hình phản ánh. Bằng bảng màu giá trị sẽ ngấm sâu, “khúc xạ” trong sự rung động mãnh liệt của nhà văn, vào từng “mao mạch” trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Ngược lại với con đường nhà văn đã đi, người thưởng thức sẽ thụ cảm, tri nhận giá trị văn hóa ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống, thói quen, tâm thức dân tộc, tâm lý cộng đồng. Điều đặc biệt, bảng màu giá trị không lung linh hiện hình một cách sắc nét như màu hữu hình của hiện thực đời sống. Nhiều khi nó ngầm ẩn trong mạch ngầm sâu thẳm của tâm thức cho nên người tiếp nhận phải biết phát hiện, nhận ra nó.
Trong tổng thể chung của định hướng xã hội, văn hóa - văn học bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực khác của đời sống. Mặt khác, nếu coi văn hóa là “bộ chỉnh” bên trong của xã hội thì mọi động thái, mọi biến thiên, mọi rối loạn trong văn hóa đều để lại những hậu quả trực tiếp trong chính trị, kinh tế, đạo đức… từ đó rất có thể sẽ làm chệch hướng văn hóa. Nguy cơ "chệch hướng" trong văn hóa có thể hủy hoại sức sống một dân tộc, biến văn hóa dân tộc thành “bản sao” của dân tộc khác. Nói đúng hơn, nếu giá trị văn hóa không được định hướng đúng khiến văn hóa có nguy cơ “thay máu” thì cũng sẽ đẩy đến sự thay máu của cả hệ thống chính trị. Lúc đó, văn học đóng vai trò như một “bộ lọc” tin cậy để thẩm định giá trị văn hóa. Văn học còn biết đào thải những gì là “phi văn hóa”, “phản giá trị”. Nói cách khác, văn học có khả năng phê phán về văn hóa. Chúng ta đều biết văn hóa là một hiện tượng lịch sử, là một cấu trúc đa tầng. Bản thân văn hóa có những yếu tố bất biến, kết đọng thành dạng thức bên cạnh đó văn hóa cũng có mặt động, không ngừng nghỉ theo đà tiến hóa của văn minh. Vì thế nó không chấp nhận sự ngưng đọng. Những cái gì thuộc giá trị văn hóa tích cực của ngày hôm qua ở một mặt nào đó rất có thể sẽ là cái chƣa phù hợp, phản văn hóa của ngày hôm nay. Ví dụ như: "trung, hiếu, tiết, nghĩa" là phạm trù văn hóa lâu đời nhưng "ngu trung, ngu hiếu" là phản văn hóa. Như vậy, văn học có thể phát huy vai trò thẩm định phê phán. Trong hiện trạng có nhiều biểu hiện văn hóa xuống cấp như hiện nay, nhất là những nguy cơ băng hoại giá trị đạo đức thì ngòi bút phê phán của văn học càng nên được mài sắc hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, nếu văn hóa là toàn bộ những gì do con người tạo ra thì văn hóa cũng chính là thước đo của trình độ phát triển. Văn học đã mang trong mình một năng lực đặc biệt - năng lực sáng tạo văn hóa. Văn học sáng tạo văn hóa, không phải vì văn học có khả năng lưu trữ những dữ liệu văn hóa của đời sống. Cao hơn, văn học góp phần quan trọng trong việc tạo nên giá trị văn hóa mà nổi lên hàng đầu là những giá trị nghệ thuật trong ngôn ngữ dân tộc và những giá trị nhân văn trong phẩm chất con người.
Văn học xét theo một góc độ nhất định là ngệ thuật ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là sản phẩm của một tiến trình văn hóa lâu dài của xã hội loài người, vừa là công cụ của sự phát triển văn hóa, vừa là một giá trị văn hóa hàng đầu. Văn hóa càng vươn lên trình độ cao thì ngôn ngữ càng trở nên phong phú, tinh tế hơn. Do đó, văn học đã phát triển diện mạo của văn hóa dân tộc qua ngôn ngữ. Trong sự cạnh tranh quyết liệt của các phương tiện nghe, nhìn hiện đại, quỹ thời gian của con người rất eo hẹp song văn học vẫn có chân trời riêng của nghệ thuật ngôn từ. Nói như GS Trần Đình Sử “ngôn từ là phương tiện giao tiếp không gì cạnh tranh được”. Bản thân nghệ thuật ngôn từ đổi mới và phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của văn hóa, tạo điều kiện cho văn học phát triển là bước đột phá cho sự phát triển của đời sống văn hóa.
Tuy nhiên, văn học là nhân học, do đó văn học còn hun đúc tạo nên giá trị văn hóa hàng đầu khác: đó là phẩm giá con người. Đây chính là phương tiện khẳng định tác dụng chiều sâu của văn học trong quá trình xây dựng, phát triển nhân cách văn hóa. Văn học có tác dụng to lớn và sâu sắc giúp con ngƣời hiểu được người khác và hiểu được chính mình. Nếu như khoa học khai hóa nhận thức về tự nhiên, xã hội, về con người… thì văn học có thể cắt nghĩa những lý lẽ riêng của trái tim mà khoa học khó nắm bắt. Đời sống tâm hồn và tâm lý con người ngày càng trở lên phức tạp và nghệ thuật mới có thể soi thấu để chuẩn bị cho sự tự ý thức. Có những tác phẩm đọc xong ta thấy bàng hoàng vì nó giúp ta nhận ra chính mình. Văn học có khả năng tác động tới sự tự ý thức của con người, cả về những mặt mạnh, mặt yếu, những tiềm lực lớn lao nhiều khi không ngờ tới, qua đó giúp con người hoàn thiện và phát triển chính mình. Văn học đã tạo ra những cuộc hành trình bên trong có ý nghĩa quyết định với sự cải tạo, hoàn thiện, phát triển bản thân. Nói cách khác nó có vai trò quan trọng để phát triển nhân cách văn hóa.
Văn hóa là sản phẩm, là diện mạo của cá nhân và cộng đồng. Vì thế nói tới văn hóa không thể không nhắc đến vấn đề bản sắc văn hóa, tức là cái “tinh túy”, cái cốt lõi của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử.
Bản sắc văn hóa, theo Ngô Đức Thịnh là “một tổng thể các đặc trưng của văn hóa được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử của dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn” [79]. Theo Dương Phú Hiệp thì: “Bản sắc riêng của mỗi nền/ dạng/ kiểu văn hóa thường được biểu hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong hiện tượng văn hóa hoặc các sản phẩm của văn hóa, quy định bộ mặt của mỗi nền văn hóa” [47; tr40]. Ngoài ra, phần đáng kể của nó lại được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của cộng đồng người. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa, bản sắc đó luôn có thêm những giá trị mới được hình thành và tiếp tục được bồi tụ để định hình và lộ diện, phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử. Các giá trị mang bản sắc văn hóa của từng tộc người, không phải ngẫu nhiên được hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị.
Như vậy, bản sắc văn hóa được hiểu là những gì tinh hoa, bền vững của một nền văn hóa. Nó mang ý nghĩa chỉ cái cốt lõi, chỉ những đặc trưng riêng của một cộng đồng văn hóa và là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác. Vì vậy, dấu ấn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền sẽ đƣợc thể hiện trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó có văn học.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.1.3.1. Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa
“Văn học là nhân học” (Macxim Gorki), văn học lấy con ngƣời làm đối tượng trung tâm để phản ánh và khắc họa. Mà bản chất của văn hóa là hƣớng đến tinh thần nhân văn, nhân bản và mục tiêu duy nhất là xây dựng con người. Và cả văn hóa lẫn văn học đều lấy chân - thiện - mỹ làm thước đo cho trình độ phát triển.
Văn học là một bộ phận của văn hóa. Nhờ có văn học, những sắc màu văn hóa được tái hiện một cách sinh động và sắc nét “Khi thì hiện diện trên bề mặt của hiện thực đời sống với những phong tục, tập quán, hội hè đình đám, những nghi lễ, có khi được thể hiện ở chiều sâu, trong sâu thẳm tâm thức văn hóa cộng đồng” [64; tr161] hay tính cách, ứng xử của con người với con người và con người trước thiên nhiên. Văn học, cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán… là những thành tố hợp thành cấu trúc tổng thể bao trùm lên tất cả là văn hóa. Vì vậy, cũng như các thành tố khác, văn học luôn chịu sự chi phối trực tiếp “từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [11; tr5]. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Đỗ Thị Minh Thúy chỉ ra rằng: “Đặt văn học trong văn hóa tức là nhấn mạnh sự tác động tổng thể của văn hóa tới văn học, như vậy các nhân tố xã hội, kinh tế, chính trị... tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung, thông qua văn hóa mới tác động đến văn học, ở quan hệ đặc biệt này, văn học trở thành một trong những tiêu điểm của văn hóa, đóng vai trò nhân tố đại diện cho văn hóa [86; tr239]”. Như vậy, văn học là một trong những bộ phận quan trọng của văn hóa, là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Đồng thời văn học cũng là phương tiện lưu giữ và bảo lưu văn hóa thời đại cũng như truyền thống độc đáo của dân tộc. Song nhà văn - chủ thể sáng tạo cũng là con đẻ của một cộng đồng. Muốn hay không, nhà văn đó cũng tiếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong đó chứa đựng nội hàm văn hóa của thời đại.
Sau nữa, nếu văn hóa là những gì còn đọng lại trong chiều sâu tâm trí con người sau khi thời gian đã sàng lọc tất cả thì cái hình ảnh hiển hiện ngày một lắng sâu của diện mạo, bản sắc văn hóa Việt Nam lại được hiện hình rõ nét qua văn học. Không phải ngẫu nhiên mà tìm hiểu về văn hóa Việt Nam nhiều người lại tìm về văn học Việt Nam. Nói cách khác, văn học là hiện thân của văn hóa. Bằng sức mạnh của ngôn từ, văn học đã diễn đạt được khá đầy đủ và trực tiếp lớp vỏ của tư duy và tầng sâu của cảm xúc trong hệ thống tinh thần và đời sống văn hóa dân tộc. Việt Nam không có nền văn hóa lộ thiên đồ sộ như nhiều quốc gia trong khu vực nhưng chúng ta lại có bề dày văn hóa của người Việt Nam với những đức tính cao đẹp như yêu nƣớc, cần cù, đoàn kết, giàu lòng yêu thương, trọng tình trọng nghĩa, giữ chữ tín… Khi được tổ chức UNESCO phong tặng danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh nghĩa là thế giới đã công nhận nét đặc sắc văn hóa trong giá trị tinh thần của người Việt Nam chúng ta ở cả quá khứ và hiện tại. Nếu không có cái bề thế của nền văn hóa - văn học cách mạng biết nâng niu kiệt tác Truyện Kiều, biết khai thác tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hòa quyện trong thơ văn vì đại nghĩa dân tộc thì có lẽ trong văn học của chúng ta không có tiếng vang như thế. Là hiện thân của văn hóa, văn học đã mang trong mình hình hài của bề sâu văn hóa nơi mà từng bị che lấp bởi nét dáng tân kỳ của văn hóa phương Tây hoặc bởi cái nhìn mơ hồ của những quan niệm văn chương lỗi thời. Văn học bao giờ cũng là lực lượng xung kích trên mặt trận văn hóa. Chính lịch sử văn hóa - văn học dân tộc đã cho chúng ta một nhận thức đúng đắn rằng: người cầm bút chỉ trở thành một nhà văn lớn khi nào đạt đến tầm vóc của một nhà văn hóa tư tưởng.
Là một bộ phận của văn hóa, hiện thân cho nền văn hóa, văn học đương nhiên là một sản phẩm đặc biệt của văn hóa. Chính điều này đã đặt ra những yêu cầu đối với người đọc và người nghiên cứu tác phẩm đó là:
1/ Phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hóa xã hội hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với các hiện tượng văn hóa khác.
2/ Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là một sản phẩm văn hóa vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa.
3/ Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới cả mạch ngầm sâu thẳm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ.
1.1.3.2. Văn học kết tinh giá trị văn hóa
Chúng ta biết rằng, giá trị (value) là “cốt lõi” của văn hóa, là “thước đo” nhân bản của xã hội loài người. Vì vậy nghiên cứu các vấn đề văn hóa, chúng ta không thể bỏ qua giá trị và giá trị văn hóa bởi đó chính là hình thái của đời sống tinh thần. Nó phản ánh và kết tinh đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của con người. Nói như Ngô Đức Thịnh, giá trị là “những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là Chân - Thiện - Mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất con người” [79; tr38]. Như vậy, giá trị văn hóa còn gọi là giá trị xã hội, nó gắn bó với sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. GS Trần Văn Giàu rất có lý khi gọi tên những “giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người”. Đó là những sắc màu khác nhau trong “bảng màu” tạo nên giá trị truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Giá trị còn là một phạm trù tinh thần được con ngƣời nhận thức, đúc kết những kinh nghiệm, những va chạm với thực tiễn, dùng để phân biệt với những gì "phi giá trị”. Giá trị con người được nhận thức, sàng lọc, kết đọng qua “bộ lọc" của tâm thức văn hóa. Chỉ những gì là hợp lý, hợp chuẩn mực, nhân đạo, nhân văn mới được gìn giữ, bảo lưu, bảo tồn qua nhiều thế hệ, góp phần làm giàu thêm cho truyền thống văn hóa của dân tộc. Ngược lại, những gì “phi giá trị", “kém giá trị” tất yếu sẽ bị đào thải không có sức sống bền lâu với thời gian. Do không phải là một phạm trù đơn lẻ, những giá trị hướng đến Chân - Thiện - Mỹ sẽ tạo nên một hệ giá trị. Hệ giá trị này có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Nó giống như một "mao mạch” giúp con người không ngừng phấn đấu vươn lên để hoàn thiện chính mình. Trên cơ sở đó, mỗi cá nhân sẽ góp thêm một tiếng nói vào sự tiến bộ chung của cộng đồng.
Soi chiếu vào văn học, chúng ta nhận thấy văn học là bộ phận của văn hóa, chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại thì nhà văn - chủ thể sáng tạo lại là con đẻ của cộng đồng. Muốn hay không thì nhà văn cũng phải tiếp cận những thành tố của văn hóa cộng đồng. Cho nên, những sáng tác của họ sẽ luôn được tắm mình trong hệ giá trị. Đó chính là lý do để giải thích vì sao người tiếp nhận luôn hướng đến những giá trị thẩm mỹ - một phạm trù mỹ học gắn với sự tự biểu hiện độc đáo của chủ thể sáng tạo. Đặc biệt những giá trị này luôn luôn được đặt trên phông nền của giá trị truyền thống. Nói như nhà phê bình Trương Đăng Dung thì giá trị thẩm mỹ chính là “tấm hộ chiếu” quyết định tác phẩm của thời đại này bước sang thời đại khác và tiếp tục sự đào thải, lựa chọn thông qua hệ thống thẩm mỹ. Theo đó giá trị thẩm mỹ đích thực trong sáng tác văn học sẽ hướng con ngƣời tới Chân - Thiện - Mỹ, gắn liền với sáng tạo, xây dựng hình tượng con người theo cái đẹp và xác định một tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp. Những sáng tác văn học vừa gắn liền với bản chất đặc thù nghệ thuật vừa mang đến cho đối tượng thưởng thức một cảm nhận đúng hướng sẽ luôn tạo ra một “hiệu ứng” mỹ cảm nhất định trong lòng người đọc. Giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn học sẽ được thế hệ sau nuôi dưỡng, bồi đắp theo thời gian. Tuy nhiên, giá trị không phải là phạm trù tĩnh tại. Trong cuộc giao lưu tiếp biến, bên cạnh những yếu tố nội sinh được cấy trồng và giữ lại, có những yếu tố chưa phù hợp sẽ được cải biến cho phù hợp với thực tiễn hơn nữa, văn học còn nâng đỡ cho con người bằng một niềm tin, một tinh thần lạc quan về những giá trị vĩnh hằng có sức sống vượt thời gian, vượt qua sự băng hoại. Bên cạnh đó, văn học còn viết về cái xấu, cái ác, “phản văn hóa”, “phản giá trị”. Do đó, sáng tác văn học còn có khả năng tác động, điều chỉnh các hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, xã hội và với chính mình.
Soi chiếu phạm trù giá trị vào tác phẩm văn học sẽ giúp người nghiên cứu tránh được cái nhìn thiển cận trong việc bình giá những mô hình phản ánh. Bằng bảng màu giá trị sẽ ngấm sâu, “khúc xạ” trong sự rung động mãnh liệt của nhà văn, vào từng “mao mạch” trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Ngược lại với con đường nhà văn đã đi, người thưởng thức sẽ thụ cảm, tri nhận giá trị văn hóa ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống, thói quen, tâm thức dân tộc, tâm lý cộng đồng. Điều đặc biệt, bảng màu giá trị không lung linh hiện hình một cách sắc nét như màu hữu hình của hiện thực đời sống. Nhiều khi nó ngầm ẩn trong mạch ngầm sâu thẳm của tâm thức cho nên người tiếp nhận phải biết phát hiện, nhận ra nó.
Trong tổng thể chung của định hướng xã hội, văn hóa - văn học bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực khác của đời sống. Mặt khác, nếu coi văn hóa là “bộ chỉnh” bên trong của xã hội thì mọi động thái, mọi biến thiên, mọi rối loạn trong văn hóa đều để lại những hậu quả trực tiếp trong chính trị, kinh tế, đạo đức… từ đó rất có thể sẽ làm chệch hướng văn hóa. Nguy cơ "chệch hướng" trong văn hóa có thể hủy hoại sức sống một dân tộc, biến văn hóa dân tộc thành “bản sao” của dân tộc khác. Nói đúng hơn, nếu giá trị văn hóa không được định hướng đúng khiến văn hóa có nguy cơ “thay máu” thì cũng sẽ đẩy đến sự thay máu của cả hệ thống chính trị. Lúc đó, văn học đóng vai trò như một “bộ lọc” tin cậy để thẩm định giá trị văn hóa. Văn học còn biết đào thải những gì là “phi văn hóa”, “phản giá trị”. Nói cách khác, văn học có khả năng phê phán về văn hóa. Chúng ta đều biết văn hóa là một hiện tượng lịch sử, là một cấu trúc đa tầng. Bản thân văn hóa có những yếu tố bất biến, kết đọng thành dạng thức bên cạnh đó văn hóa cũng có mặt động, không ngừng nghỉ theo đà tiến hóa của văn minh. Vì thế nó không chấp nhận sự ngưng đọng. Những cái gì thuộc giá trị văn hóa tích cực của ngày hôm qua ở một mặt nào đó rất có thể sẽ là cái chƣa phù hợp, phản văn hóa của ngày hôm nay. Ví dụ như: "trung, hiếu, tiết, nghĩa" là phạm trù văn hóa lâu đời nhưng "ngu trung, ngu hiếu" là phản văn hóa. Như vậy, văn học có thể phát huy vai trò thẩm định phê phán. Trong hiện trạng có nhiều biểu hiện văn hóa xuống cấp như hiện nay, nhất là những nguy cơ băng hoại giá trị đạo đức thì ngòi bút phê phán của văn học càng nên được mài sắc hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, nếu văn hóa là toàn bộ những gì do con người tạo ra thì văn hóa cũng chính là thước đo của trình độ phát triển. Văn học đã mang trong mình một năng lực đặc biệt - năng lực sáng tạo văn hóa. Văn học sáng tạo văn hóa, không phải vì văn học có khả năng lưu trữ những dữ liệu văn hóa của đời sống. Cao hơn, văn học góp phần quan trọng trong việc tạo nên giá trị văn hóa mà nổi lên hàng đầu là những giá trị nghệ thuật trong ngôn ngữ dân tộc và những giá trị nhân văn trong phẩm chất con người.
Văn học xét theo một góc độ nhất định là ngệ thuật ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là sản phẩm của một tiến trình văn hóa lâu dài của xã hội loài người, vừa là công cụ của sự phát triển văn hóa, vừa là một giá trị văn hóa hàng đầu. Văn hóa càng vươn lên trình độ cao thì ngôn ngữ càng trở nên phong phú, tinh tế hơn. Do đó, văn học đã phát triển diện mạo của văn hóa dân tộc qua ngôn ngữ. Trong sự cạnh tranh quyết liệt của các phương tiện nghe, nhìn hiện đại, quỹ thời gian của con người rất eo hẹp song văn học vẫn có chân trời riêng của nghệ thuật ngôn từ. Nói như GS Trần Đình Sử “ngôn từ là phương tiện giao tiếp không gì cạnh tranh được”. Bản thân nghệ thuật ngôn từ đổi mới và phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của văn hóa, tạo điều kiện cho văn học phát triển là bước đột phá cho sự phát triển của đời sống văn hóa.
Tuy nhiên, văn học là nhân học, do đó văn học còn hun đúc tạo nên giá trị văn hóa hàng đầu khác: đó là phẩm giá con người. Đây chính là phương tiện khẳng định tác dụng chiều sâu của văn học trong quá trình xây dựng, phát triển nhân cách văn hóa. Văn học có tác dụng to lớn và sâu sắc giúp con ngƣời hiểu được người khác và hiểu được chính mình. Nếu như khoa học khai hóa nhận thức về tự nhiên, xã hội, về con người… thì văn học có thể cắt nghĩa những lý lẽ riêng của trái tim mà khoa học khó nắm bắt. Đời sống tâm hồn và tâm lý con người ngày càng trở lên phức tạp và nghệ thuật mới có thể soi thấu để chuẩn bị cho sự tự ý thức. Có những tác phẩm đọc xong ta thấy bàng hoàng vì nó giúp ta nhận ra chính mình. Văn học có khả năng tác động tới sự tự ý thức của con người, cả về những mặt mạnh, mặt yếu, những tiềm lực lớn lao nhiều khi không ngờ tới, qua đó giúp con người hoàn thiện và phát triển chính mình. Văn học đã tạo ra những cuộc hành trình bên trong có ý nghĩa quyết định với sự cải tạo, hoàn thiện, phát triển bản thân. Nói cách khác nó có vai trò quan trọng để phát triển nhân cách văn hóa.
1.1.4. Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Xu hướng vận dụng các quan điểm và
thành tựu văn hóa để lý giải văn học mới xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XX mà
người khởi xướng là M.Bakhatin, giáo sư văn học người Nga thuộc Đại học
Saransk. Bakhtin quan niệm: “Trước hết, khoa học nghiên cứu văn học cần phải gắn
bó chặt chẽ với lịch sử văn học. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của
văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái bối cảnh nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một
thời đại trong đó nó tồn tại” [10]. Phƣơng pháp tiếp cận văn học từ quan điểm
văn hóa học ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa, trong đó tác phẩm
văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo
đức, chính trị, luật pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con người… từng tồn tại trong một
không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết
cấu, mô tuýp, hình tƣợng, ngôn ngữ… Phương pháp này thiên về giải mã các hình
tượng nghệ thuật, tìm ra nét thời đại của tác phẩm.
Lịch sử nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng: Có nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: nghệ thuật học, phân tâm học, xã hội học, thi pháp học, văn hóa học… Trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, mỗi góc nhìn đều có giá trị bình đẳng, cần thiết, bổ sung cho nhau và không loại trừ nhau. Tính hiệu quả, tính ưu việt của mỗi cách tiếp cận được quy định bởi người nghiên cứu có xác định đúng đối tượng, phạm vi nghiên cứu thích hợp và vận dụng, xử lý mối quan hệ giữa chúng với mục tiêu đặt ra. Do vậy cần có một cái nhìn toàn diện về góc nhìn văn hóa xuất phát từ yêu cầu của thời đại, đáp ứng và thừa nhận tác phẩm văn học như một bộ phận của văn hóa.
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phương pháp đã xuất hiện khá lâu trong nghiên cứu văn học ở trong và ngoài nước. Những thành tựu nghiên cứu đạt được từ phương pháp này gần đây mới thực sự được chú ý ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa không đơn thuần là việc dùng văn hóa để giải thích văn học mà quan trọng hơn là việc các nhà nghiên cứu văn học “vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm” và “đặt văn học vào bối cảnh rộng lớn của văn hóa - xã hội, hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với những hiện tượng văn hóa xã hội khác, từ đó làm nổi bật những sắc thái văn hóa phong phú được thể hiện trong tác phẩm văn học: hoặc giải mã khám phá những phù hiệu, biểu tượng hàm ẩn muôn vàn lớp nghĩa trầm tích của văn hóa trong văn bản văn học cụ thể " [11; tr7]. Cùng với thời gian, sự ra đời của các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu những tác động và chi phối của văn hóa đã cho thấy tính ưu việt của nó so với các cách tiếp cận tác phẩm văn học khác.
Tiêu biểu như:
Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nói như tác giả Trần Nho Thìn, trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa: “Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian”. [75; tr10].
Như vậy, có thể tóm lƣợc nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là đặt tác phẩm văn học đó gắn với thời đại văn hóa mà nó ra đời để từ đó giải mã những chi phối của văn hóa thời đại đến việc xây dựng tác phẩm văn học.
Lịch sử nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng: Có nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: nghệ thuật học, phân tâm học, xã hội học, thi pháp học, văn hóa học… Trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, mỗi góc nhìn đều có giá trị bình đẳng, cần thiết, bổ sung cho nhau và không loại trừ nhau. Tính hiệu quả, tính ưu việt của mỗi cách tiếp cận được quy định bởi người nghiên cứu có xác định đúng đối tượng, phạm vi nghiên cứu thích hợp và vận dụng, xử lý mối quan hệ giữa chúng với mục tiêu đặt ra. Do vậy cần có một cái nhìn toàn diện về góc nhìn văn hóa xuất phát từ yêu cầu của thời đại, đáp ứng và thừa nhận tác phẩm văn học như một bộ phận của văn hóa.
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phương pháp đã xuất hiện khá lâu trong nghiên cứu văn học ở trong và ngoài nước. Những thành tựu nghiên cứu đạt được từ phương pháp này gần đây mới thực sự được chú ý ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa không đơn thuần là việc dùng văn hóa để giải thích văn học mà quan trọng hơn là việc các nhà nghiên cứu văn học “vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm” và “đặt văn học vào bối cảnh rộng lớn của văn hóa - xã hội, hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với những hiện tượng văn hóa xã hội khác, từ đó làm nổi bật những sắc thái văn hóa phong phú được thể hiện trong tác phẩm văn học: hoặc giải mã khám phá những phù hiệu, biểu tượng hàm ẩn muôn vàn lớp nghĩa trầm tích của văn hóa trong văn bản văn học cụ thể " [11; tr7]. Cùng với thời gian, sự ra đời của các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu những tác động và chi phối của văn hóa đã cho thấy tính ưu việt của nó so với các cách tiếp cận tác phẩm văn học khác.
Tiêu biểu như:
Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nói như tác giả Trần Nho Thìn, trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa: “Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian”. [75; tr10].
Như vậy, có thể tóm lƣợc nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là đặt tác phẩm văn học đó gắn với thời đại văn hóa mà nó ra đời để từ đó giải mã những chi phối của văn hóa thời đại đến việc xây dựng tác phẩm văn học.
1.2. Khái lược về văn xuôi Thạch Lam
1.2.1. Tiểu
sử, con người nhà văn Thạch Lam
Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của Tự lực
văn đoàn và là một trong những gương mặt lớn của văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945. Những sáng tạo và đóng góp của ông rất có ý nghĩa đối với quá
trình hiện đại hóa nền văn học nước ta giai đoạn này.
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, nhưng nguyên quán ở làng Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau này khi làm lại giấy khai sinh để thi nhảy Tú Tài, ông mới đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Thi đỗ Tú Tài phần thứ nhất, vừa lúc hai anh mở báo, Thạch Lam liền thôi học, chuyển sang viết báo với anh. Bắt đầu cầm bút từ năm 1931, Thạch Lam viết cho hai tờ báo của nhóm Tự lực văn đoàn là Phong hóa, Ngày nay, ngoài ra còn viết cho một tờ báo khác. Tuy vậy mãi đến năm 1936 Thạch Lam mới viết truyện ngắn, được tuyển thành ba tập: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết Ngày mới (1939); Tập tiểu luận Theo dòng (1941); Tập ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943) Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc. Cả hai đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940. Thạch Lam còn được xem như là một trong số những người đầu tiên “giới thiệu tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust”.
Trước khi qua đời năm 1942, Thạch Lam còn dự định viết cuốn Thập niên đăng hỏa, “Một thiên hồi ký kể lại thời kỳ suốt mười năm anh dan díu với ả phù dung” theo lời kể của Đinh Hùng - trong đó tác giả muốn kể lại “tấn bi kịch mà cũng là huyền thoại của những kẻ ít nhất cũng phải trải qua mười năm từ cả thiên đường lẫn địa ngục”. Tiếc rằng cái chết đến quá sớm đã không cho Thạch Lam hoàn thành được hồi ký đó. Thạch Lam ra đi ở cái tuổi quá trẻ nhưng ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những trang văn lấp lánh cái tài, cái tâm của ngƣời cầm bút. “Thạch Lam mất đi không những là làng Việt Nam thiệt một anh tài mà quốc dân ta cũng mất một phần tử tâm huyết và trung thành vậy.” (Huyền Kiêu)
Trong ký ức của người thân và bạn bè, Thạch Lam luôn luôn hiện lên bóng dáng một con người từ tốn khiêm nhường, với lối sống phong nhã, tài hoa, một con người “cao hơn một thước bảy mươi. Mắt sâu và buồn. Người chỉ cần cái phẩm hơn cái lượng… người yêu hoa cẩm chướng,... thích thơ Nguyễn Nhược Pháp, yêu văn Nguyễn Tuân". [95].
Nhà văn Thế Uyên (con trai bà Nguyễn Thị Thế, cháu gọi Thạch Lam là cậu), trong bài Tìm kiếm Thạch Lam, có đoạn: "Mẹ tôi bảo chú Thạch Lam mơ mộng, tế nhị, đa cảm, thì thủa nhỏ đã thế... Và chính ở đây (trại Cẩm Giàng) những người đàn ông ngồi uống trà, hút thuốc, nói chuyện tâm đắc... Có khi bàn chuyện văn chương, báo chí, có thể là chuyện cải cách dân tộc. Thường trong lúc ấy, Thạch Lam ngồi trong đám bạn văn thơ, bởi tính cách Thạch Lam chỉ có thế..." [95; tr43].
Nhà văn Vũ Bằng kể lại: "Thạch Lam yêu sự sống hơn bất kỳ ai. Anh quý từ cốc nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng uống một cách gần như thành kính... như thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để thưởng thức ngon lành như vậy. Anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời... khiến người ta tủi thân mà buồn. Thạch Lam đi đứng nhẹ nhàng… Anh là một người độc đáo có tài lại khiêm nhường, người nhỏ mà nhân cách lớn..." [12].
Có lần Thạch Lam nói: "Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường sự sống".
Có lẽ ít thấy tác giả nào, văn với người lại có một sự thống nhất như ở Thạch Lam. Dù viết tiểu thuyết, truyện ngắn hay tùy bút, bao giờ văn chương Thạch Lam cũng tinh tế, nhẹ nhàng, sâu sắc như chính cuộc đời ông vậy. Đặc biệt truyện ngắn: “Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam tức là nói đến nghệ thuật viết truyện ngắn của Thạch Lam… một số truyện ngắn Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực được” [95]. Hầu hết các nhà nghiên cứu xưa và nay, miền Nam và miền Bắc, đều thống nhất với nhau ở một điểm: Sở trường của Thạch Lam là truyện ngắn, tiểu thuyết của ông không mấy thành công. Riêng tập tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường thì được coi là “kết tinh tư tưởng, quan niệm của Thạch Lam, mới cho độc giả thấy rõ nhà văn qua ngòi bút” [95]. Điều đó quả là đúng. Tha thiết, trân trọng, nâng niu đối với những gì nhỏ bé nhất, thơm thảo nhất góp phần tạo nên đất nước, dân tộc, tinh tế, nhạy cảm trong cách thưởng thức những giá trị văn hóa tưởng chừng bình thường, đưa việc thưởng thức “Quà Hà Nội” lên thành một nghệ thuật… đó là những gì người đọc sẽ bắt gặp trong Hà Nội băm sáu phố phường của nhà văn.
Với những đóng góp to lớn của nhà văn trong nền văn học dân tộc, năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đường mang tên Thạch Lam. Đây là một việc làm mạnh dạn, là cách trân trọng nhà văn và văn chương của ông. Hiện nay, truyện ngắn Hai đứa trẻ (in trong tập truyện Nắng trong vườn) của ông đang được giảng dạy ở lớp 11 trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, nhưng nguyên quán ở làng Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau này khi làm lại giấy khai sinh để thi nhảy Tú Tài, ông mới đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Thi đỗ Tú Tài phần thứ nhất, vừa lúc hai anh mở báo, Thạch Lam liền thôi học, chuyển sang viết báo với anh. Bắt đầu cầm bút từ năm 1931, Thạch Lam viết cho hai tờ báo của nhóm Tự lực văn đoàn là Phong hóa, Ngày nay, ngoài ra còn viết cho một tờ báo khác. Tuy vậy mãi đến năm 1936 Thạch Lam mới viết truyện ngắn, được tuyển thành ba tập: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết Ngày mới (1939); Tập tiểu luận Theo dòng (1941); Tập ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943) Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc. Cả hai đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940. Thạch Lam còn được xem như là một trong số những người đầu tiên “giới thiệu tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust”.
Trước khi qua đời năm 1942, Thạch Lam còn dự định viết cuốn Thập niên đăng hỏa, “Một thiên hồi ký kể lại thời kỳ suốt mười năm anh dan díu với ả phù dung” theo lời kể của Đinh Hùng - trong đó tác giả muốn kể lại “tấn bi kịch mà cũng là huyền thoại của những kẻ ít nhất cũng phải trải qua mười năm từ cả thiên đường lẫn địa ngục”. Tiếc rằng cái chết đến quá sớm đã không cho Thạch Lam hoàn thành được hồi ký đó. Thạch Lam ra đi ở cái tuổi quá trẻ nhưng ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những trang văn lấp lánh cái tài, cái tâm của ngƣời cầm bút. “Thạch Lam mất đi không những là làng Việt Nam thiệt một anh tài mà quốc dân ta cũng mất một phần tử tâm huyết và trung thành vậy.” (Huyền Kiêu)
Trong ký ức của người thân và bạn bè, Thạch Lam luôn luôn hiện lên bóng dáng một con người từ tốn khiêm nhường, với lối sống phong nhã, tài hoa, một con người “cao hơn một thước bảy mươi. Mắt sâu và buồn. Người chỉ cần cái phẩm hơn cái lượng… người yêu hoa cẩm chướng,... thích thơ Nguyễn Nhược Pháp, yêu văn Nguyễn Tuân". [95].
Nhà văn Thế Uyên (con trai bà Nguyễn Thị Thế, cháu gọi Thạch Lam là cậu), trong bài Tìm kiếm Thạch Lam, có đoạn: "Mẹ tôi bảo chú Thạch Lam mơ mộng, tế nhị, đa cảm, thì thủa nhỏ đã thế... Và chính ở đây (trại Cẩm Giàng) những người đàn ông ngồi uống trà, hút thuốc, nói chuyện tâm đắc... Có khi bàn chuyện văn chương, báo chí, có thể là chuyện cải cách dân tộc. Thường trong lúc ấy, Thạch Lam ngồi trong đám bạn văn thơ, bởi tính cách Thạch Lam chỉ có thế..." [95; tr43].
Nhà văn Vũ Bằng kể lại: "Thạch Lam yêu sự sống hơn bất kỳ ai. Anh quý từ cốc nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng uống một cách gần như thành kính... như thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để thưởng thức ngon lành như vậy. Anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời... khiến người ta tủi thân mà buồn. Thạch Lam đi đứng nhẹ nhàng… Anh là một người độc đáo có tài lại khiêm nhường, người nhỏ mà nhân cách lớn..." [12].
Có lần Thạch Lam nói: "Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường sự sống".
Có lẽ ít thấy tác giả nào, văn với người lại có một sự thống nhất như ở Thạch Lam. Dù viết tiểu thuyết, truyện ngắn hay tùy bút, bao giờ văn chương Thạch Lam cũng tinh tế, nhẹ nhàng, sâu sắc như chính cuộc đời ông vậy. Đặc biệt truyện ngắn: “Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam tức là nói đến nghệ thuật viết truyện ngắn của Thạch Lam… một số truyện ngắn Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực được” [95]. Hầu hết các nhà nghiên cứu xưa và nay, miền Nam và miền Bắc, đều thống nhất với nhau ở một điểm: Sở trường của Thạch Lam là truyện ngắn, tiểu thuyết của ông không mấy thành công. Riêng tập tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường thì được coi là “kết tinh tư tưởng, quan niệm của Thạch Lam, mới cho độc giả thấy rõ nhà văn qua ngòi bút” [95]. Điều đó quả là đúng. Tha thiết, trân trọng, nâng niu đối với những gì nhỏ bé nhất, thơm thảo nhất góp phần tạo nên đất nước, dân tộc, tinh tế, nhạy cảm trong cách thưởng thức những giá trị văn hóa tưởng chừng bình thường, đưa việc thưởng thức “Quà Hà Nội” lên thành một nghệ thuật… đó là những gì người đọc sẽ bắt gặp trong Hà Nội băm sáu phố phường của nhà văn.
Với những đóng góp to lớn của nhà văn trong nền văn học dân tộc, năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đường mang tên Thạch Lam. Đây là một việc làm mạnh dạn, là cách trân trọng nhà văn và văn chương của ông. Hiện nay, truyện ngắn Hai đứa trẻ (in trong tập truyện Nắng trong vườn) của ông đang được giảng dạy ở lớp 11 trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm nghệ thuật và quan điểm sáng tác của Thạch
Lam Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, nhưng khác với Nhất Linh, Hoàng Đạo,
Khái Hưng... ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hướng đi gần với cuộc sống của những
người dân bình thường nghèo khổ. Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam có
đoạn viết: "Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm
xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người
phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hy sinh
(Cô hàng xén). Có truyện miêu tả với lòng cảm thông sâu sắc một gia đình đông
con, sống cơ cực trong xóm chợ (Nhà mẹ Lê). Có truyện phân tích tỷ mỷ tâm lý phức tạp của con người (Sợi tóc). Ngày mới đi sâu vào nội tâm của một cặp vợ chồng
trí thức nghèo. Chưa có truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét như các tác phẩm của
các nhà văn hiện thực phê phán. Theo dòng là một thiên tiểu luận viết kiểu tùy bút, ghi lại suy nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến hay,
nhưng chưa đi sâu vào khía cạnh nào. Cuốn Hà Nội băm sáu phố phường có phong vị
đậm đà của quê hương xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu
chất thơ, sâu sắc, thâm trầm, thường để lại một ấn tượng ngậm ngùi, thương
xót".
Giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn học" của nhà văn Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó. Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, ngƣời đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn... Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực...
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực, tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố... Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật của Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam... Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.
Nhà văn Nguyễn Tuân đánh giá: “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc… Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học” [95; tr436].
Còn nhà văn Vũ Ngọc Phan: “Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng... Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy ...” [8; tr41]. GS. Phạm Thế Ngũ: “Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội... Đối với ông, nhân vật thường là những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi… Và ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền tư tưởng cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay Hoàng Đạo… Ta thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội nhỏ bé mà ông thương xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông...” [8; tr.65].
Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo vừa xây dựng đều được Thạch Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn Thạch Lam đều tìm được sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi. PGS. Nguyễn Hoành Khung: “... Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương cảm đối với số phận người nghèo qua những câu chuyện mang một dư vị ngậm ngùi, tội nghiệp”… [8; tr.203].
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình hướng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thường khơi sâu vào thế giới bên trong của cái "tôi", với sự phân tích cảm giác tinh tế. Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu" (Nguyễn Tuân).
Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông dường như không có cốt truyện, song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công trong thể loại bút ký. Hà Nội băm sáu phố phường gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ, đã thể hiện được khát vọng muốn “Thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”, hướng con người tới cái thiện và sự cao cả. Thạch Lam hướng đến một thứ văn chương gắn bó mật thiết với đời sống, không thoát ly thực tại và tích cực hơn còn góp phần đấu tranh cho cái thiện toàn thắng, làm cho con ngƣời sống tốt đẹp hơn. Vậy nên, Thạch Lam viết truyện ngắn với cốt truyện đơn giản. Ông không kích thích ngƣời đọc bằng cốt truyện ly kỳ và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn ngƣời đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lý tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng sự phân tích tâm lý tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng. Văn Thạch Lam giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Ông là một nhà văn thiên về cảm giác nên hình ảnh về cuộc sống và con người trong sáng tác của Thạch Lam mang đậm chất thơ. Ngòi bút Thạch Lam luôn hướng đến tìm kiếm và khám phá những nét đẹp kín đáo, bình dị của cuộc sống và con người. Nếu trước kia, khi phân loại, xếp Thạch Lam vào nhà văn hiện thực hay lãng mạn đều có những băn khoăn, thì giờ đây băn khoăn ấy đã đƣợc giải tỏa. Thạch Lam là một cây bút lãng mạn giàu chất hiện thực.
Thạch Lam là nhà văn trẻ, một gương mặt tiêu biểu của Tự lực văn đoàn. Ông cũng là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Thạch Lam đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn riêng biệt không lẫn với ai. Tiếp cận văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi nhận thấy: từ những tiền đề lý thuyết về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, văn học kết tinh các giá trị văn hóa, văn hóa kết hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sống của con người, không gian văn hóa Hà Nội - Hải Dương, cả hoàn cảnh riêng, tiểu sử con người nhà văn đã cộng hưởng, chi phối tác động đến sự thể hiện đậm dấu ấn văn hóa trong sáng tác của ông.
Giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn học" của nhà văn Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó. Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, ngƣời đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn... Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực...
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực, tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố... Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật của Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam... Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.
Nhà văn Nguyễn Tuân đánh giá: “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc… Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học” [95; tr436].
Còn nhà văn Vũ Ngọc Phan: “Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng... Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy ...” [8; tr41]. GS. Phạm Thế Ngũ: “Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội... Đối với ông, nhân vật thường là những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi… Và ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền tư tưởng cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay Hoàng Đạo… Ta thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội nhỏ bé mà ông thương xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông...” [8; tr.65].
Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo vừa xây dựng đều được Thạch Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn Thạch Lam đều tìm được sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi. PGS. Nguyễn Hoành Khung: “... Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương cảm đối với số phận người nghèo qua những câu chuyện mang một dư vị ngậm ngùi, tội nghiệp”… [8; tr.203].
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình hướng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thường khơi sâu vào thế giới bên trong của cái "tôi", với sự phân tích cảm giác tinh tế. Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu" (Nguyễn Tuân).
Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông dường như không có cốt truyện, song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công trong thể loại bút ký. Hà Nội băm sáu phố phường gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ, đã thể hiện được khát vọng muốn “Thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”, hướng con người tới cái thiện và sự cao cả. Thạch Lam hướng đến một thứ văn chương gắn bó mật thiết với đời sống, không thoát ly thực tại và tích cực hơn còn góp phần đấu tranh cho cái thiện toàn thắng, làm cho con ngƣời sống tốt đẹp hơn. Vậy nên, Thạch Lam viết truyện ngắn với cốt truyện đơn giản. Ông không kích thích ngƣời đọc bằng cốt truyện ly kỳ và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn ngƣời đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lý tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng sự phân tích tâm lý tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng. Văn Thạch Lam giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Ông là một nhà văn thiên về cảm giác nên hình ảnh về cuộc sống và con người trong sáng tác của Thạch Lam mang đậm chất thơ. Ngòi bút Thạch Lam luôn hướng đến tìm kiếm và khám phá những nét đẹp kín đáo, bình dị của cuộc sống và con người. Nếu trước kia, khi phân loại, xếp Thạch Lam vào nhà văn hiện thực hay lãng mạn đều có những băn khoăn, thì giờ đây băn khoăn ấy đã đƣợc giải tỏa. Thạch Lam là một cây bút lãng mạn giàu chất hiện thực.
Thạch Lam là nhà văn trẻ, một gương mặt tiêu biểu của Tự lực văn đoàn. Ông cũng là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Thạch Lam đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn riêng biệt không lẫn với ai. Tiếp cận văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi nhận thấy: từ những tiền đề lý thuyết về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, văn học kết tinh các giá trị văn hóa, văn hóa kết hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sống của con người, không gian văn hóa Hà Nội - Hải Dương, cả hoàn cảnh riêng, tiểu sử con người nhà văn đã cộng hưởng, chi phối tác động đến sự thể hiện đậm dấu ấn văn hóa trong sáng tác của ông.
Chương 2 CÁC PHƯƠNG DIỆN BIỂU HIỆN
VĂN HÓA CỦA VĂN XUÔI THẠCH LAM
2.1. Cảm quan văn hóa về thiên nhiên và cuộc sống
2.1.1. Cảm quan văn hóa về thiên nhiên
Trong đời sống tinh thần của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, thiên nhiên giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Triết học phương Đông đã xác định, trong bộ ba Thiên - Địa - Nhân, con người là một bộ phận hữu cơ của thế giới, là dấu nối của trời và đất. Hòa chung vào ngôi nhà chung của thiên nhiên vũ trụ, con người được sống bằng bản ngã đích thực của mình. Đó là lý do lý giải sự trở về với thiên nhiên trong sạch, khoáng đạt, thuần khiết lại là hành vi ứng xử văn hóa của nhiều nho sĩ và phần lớn tri thức phương Đông xưa nay.
Có thể nói, mọi hoạt động của con ngƣời không thể tách rời môi trường thiên nhiên. Thiên nhiên là người bạn, là chứng nhân cho bao nỗi vui buồn của con người. Thiên nhiên nào cũng vậy, vẫn là gió, mưa, nắng, gió, trăng, hàng cây, góc phố, con đường… nhưng thiên nhiên đậm chất văn hóa là bởi con người đã văn hóa hóa thiên nhiên. Tiếp cận văn xuôi Thạch Lam dƣới góc nhìn văn hóa, chúng tôi xin mạnh dạn cắt nghĩa cách cảm, cách nghĩ của Thạch Lam trước thiên nhiên. Nói đúng hơn, phát hiện ra Thạch Lam đã văn hóa hóa thiên nhiên qua ngòi bút của mình. Nhìn nhận và cảm xúc trước thiên nhiên cũng là cách thể hiện thái độ ứng xử văn hóa của Thạch Lam. Qua tác phẩm, chúng tôi nhận thấy vẻ đẹp thiên nhiên dưới ngòi bút Thạch Lam mang đậm dấu ấn văn hóa vùng Hà Nội - Hải Dương với ba điểm sáng sau đây.
Trong đời sống tinh thần của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, thiên nhiên giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Triết học phương Đông đã xác định, trong bộ ba Thiên - Địa - Nhân, con người là một bộ phận hữu cơ của thế giới, là dấu nối của trời và đất. Hòa chung vào ngôi nhà chung của thiên nhiên vũ trụ, con người được sống bằng bản ngã đích thực của mình. Đó là lý do lý giải sự trở về với thiên nhiên trong sạch, khoáng đạt, thuần khiết lại là hành vi ứng xử văn hóa của nhiều nho sĩ và phần lớn tri thức phương Đông xưa nay.
Có thể nói, mọi hoạt động của con ngƣời không thể tách rời môi trường thiên nhiên. Thiên nhiên là người bạn, là chứng nhân cho bao nỗi vui buồn của con người. Thiên nhiên nào cũng vậy, vẫn là gió, mưa, nắng, gió, trăng, hàng cây, góc phố, con đường… nhưng thiên nhiên đậm chất văn hóa là bởi con người đã văn hóa hóa thiên nhiên. Tiếp cận văn xuôi Thạch Lam dƣới góc nhìn văn hóa, chúng tôi xin mạnh dạn cắt nghĩa cách cảm, cách nghĩ của Thạch Lam trước thiên nhiên. Nói đúng hơn, phát hiện ra Thạch Lam đã văn hóa hóa thiên nhiên qua ngòi bút của mình. Nhìn nhận và cảm xúc trước thiên nhiên cũng là cách thể hiện thái độ ứng xử văn hóa của Thạch Lam. Qua tác phẩm, chúng tôi nhận thấy vẻ đẹp thiên nhiên dưới ngòi bút Thạch Lam mang đậm dấu ấn văn hóa vùng Hà Nội - Hải Dương với ba điểm sáng sau đây.
1/ Thiên nhiên hòa quyện với
con ngƣời trong sự tồn tại hiện hữu theo quy luật tự nhiên của nó.
2/ Thiên
nhiên bao trùm lên cảnh vật tràn đầy sinh sắc.
3/ Thiên nhiên nhuốm tâm hồn,
tình cảm của con người.
Trước hết, Thạch Lam đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên trong sự hòa quyện với con người trong sự tồn tại hiện hữu theo quy luật tự nhiên của nó. Trong những trang văn của nhà văn ta thấy bức tranh thiên nhiên phong phú, muôn màu, muôn vẻ mang đến vẻ đẹp nguyên sơ và tinh khiết. Đó là vẻ đẹp của ngày - đêm, mưa - nắng, mây - mù, sông - nước, mặt trời - trăng sao, cây - cỏ, hoa - lá … là những vẻ đẹp còn nguyên khôi trong vũ trụ ở quanh ta. Một áng mây bay, một làn gió thổi, một tia nắng vàng, một cơn mưa đầu mùa, một làn sương trong suốt, một đêm trăng sao, những hàng cây bãi cỏ, hoa lá muôn màu cũng đưa lại cho người đọc một cảm quan về cái đẹp. Đây là khung cảnh một đêm trăng trong truyện Tình xưa: “Trăng rằm vằng vặc, tường vôi sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bỏ xuống mặt sân, và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong. Thời khắc êm dịu và thú vị”. Còn đây là hình ảnh “Con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ”. “những vòng ánh sáng lọt qua vòm câu xuống nhảy múa theo chiều gió”, vẻ yên tĩnh tuyệt đối “tựa như bao nhiêu sự ồn ào ngoài kia đều ngưng lại trên bực cửa”và mùi hƣơng thoang thoảng mát lành của cây hoàng lan… tất cả cộng hƣởng với nhau tạo nên một thế giới cổ tích yên bình và thanh sạch. Ở Tối ba mươi đó là cảnh “mưa buồn rầu và âm thầm trong bóng tối”, hè phố “ướt át và nhớp nháp bùn không một bóng người qua lại”. Trong Cô hàng xén, Tâm lại bước đi trên con đường quen thuộc đầy sương mù và gió lạnh “Cái vòng đen của rặng tre làm giằng bỗng vụt hiện lên trước mắt, tối tăm và dày đặc”.
Thiên nhiên của những ngõ nhỏ, phố nhỏ, của hương cốm làng Vòng… tất cả đã để lại một ấn tượng đặc biệt trong lòng của người đọc. Thiên nhiên trong những trang văn của Thạch Lam mang cái dư âm của không gian địa văn hóa. Cho nên, cỏ cây, hoa lá, núi sông, đất trời ở mỗi vùng khác nhau nhưng cũng đều là vẻ đẹp của quê hương xứ sở của đất nước Việt Nam dấu yêu? Song ta vẫn thấy con tim yêu của tác giả nghiêng về Cẩm Giàng - Hải Dương. Có lẽ đó nên hầu hết tác phẩm của ông ta đều thấy hình ảnh quê hƣơng của một vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên phố huyện. Quả đúng là cái đẹp ấy man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tang ở mọi vật tầm thường.
Thạch Lam không chỉ mang đến cho người đọc về một cảm quan về cái đẹp của thiên nhiên nguyên sơ mà ta còn thấy nhà văn hướng đến cảm quan về thiên nhiên bao trùm lên cảnh vật, hòa gắn với cảnh vật tạo nên một bức tranh thiên nhiên muôn hình vạn trạng, tràn đầy sinh sắc: Đó là cảnh “vừa mới ngày ngày hôm qua giời vẫn còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng muời làm nứt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi” thế mà chỉ qua một đêm mưa rào ta đã thấy “trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt”. Những biến chuyển vi diệu của đất trời ấy, ta đã thấy cảnh vật thiên nhiên hiện lên muôn hình, muôn vẻ, đa màu sắc và tràn đầy cảm quan của con người. Hay những đêm trăng lóng lánh nhƣ dát vàng trên đường đã thắm đượm tình quê hương "những đêm sáng trăng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngoài đường, vì nhà nào cũng nóng như một cái lò và hàng vạn con muỗi vo ve. Dưới bóng trăng những đá rải đường trắng đen và lấp lánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi trưa và bốc lên một cái mùi riêng lẫn mùi rác bẩn và mùi cát” (Nhà mẹ Lê). Cảnh vật đẹp đến mê hồn: “Hai bên cánh đồng lúa xanh gió đưa như nổi song. Cảnh thơ mộng “Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: “Cây hoàng lan!”. Và “Ngoài vườn, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo trắng của Nga. Những chiếc búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá” (Dưới bóng hoàng lan). Tất cả tạo nên một thế giới cổ tích yên bình và thanh sạch. Đó là khung cảnh dịu ngọt chăng tơ trong lòng người.
Không chỉ có thế, ta còn thấy cảnh sắc thiên nhiên nhuốm tâm hồn, tình cảm của con ngƣời, khiến cảnh - tình quyện chặt giàu săc màu, hương vị, âm thanh. Cảnh thiên nhiên đã đẹp, càng đẹp hơn, có hồn hơn khi tất cả gắn với cuộc sống, số phận, tình cảm… của con người. Ở truyện Tối ba mươi ta thấy cảnh “mưa buồn rầu và âm thầm trong bóng tối”, hè phố “ướt át và nhớp nháp bùn không một bóng người qua lại”. Khung cảnh thiên nhiên ấy, tự thân nó như đã chứa đựng nỗi đau thân phận của hai cô gái nhà săm Liên và Huệ. Thiên nhiên đã góp một phần quan trọng trong việc phủ lên câu chuyện cái màn mờ đục, u ám của tâm trạng con người. Trong nỗi chua xót của một Người lính cũ và niềm thương cảm của nhân vật tôi, thiên nhiên được cảm nhận như có sự gia tăng của bóng tối: “Xung quanh chúng tôi, cái đen tối của đêm khuya dày dằng dặc”. “Nỗi đau đớn nghẹn ngào” của nhân vật Diên hình như đã tìm thấy sự đồng cảm với thiên nhiên “Trong bóng tối buổi chiều”. Có thể nói rằng thế giới thiên nhiên trong sáng tác của Thạch Lam là một thứ “ngôn ngữ” độc đáo. Nó có tiếng nói riêng và luôn có khả năng nói thay con người. Thiên nhiên mang trong nó những thông điệp nỗi niềm mà con người chưa nói hết. Nó lấp đầy những khoảng trống, những chỗ đứt đoạn trong dòng tâm tư của nhân vật và vì thế mà ẩn chứa bên trong mình một vẻ đẹp riêng.
Dấu ấn tâm trạng trên của thiên nhiên còn thể hiện ở sự cảm nhận theo diễn biến tâm trạng nhân vật. Vẫn là quang cảnh ngôi nhà ấy của gia đình mẹ Lê thôi nhưng ấm áp và đầy ánh sáng trong những ngày no ấm và hiu hắt, tối tăm trong những ngày đói khổ. Con đường mà nhân vật Tâm “trở về” nó chỉ dịu mát, và trong lành khi nhân vật có một thoáng nhớ về quê cũ. Thiên nhiên đầy sương mù và gió lạnh “Cái vòng đen của rặng tre làm giằng bỗng vụt hiện lên trước mắt, tối tăm và dày đặc”. như cất lời, nó nói hộ nhân vật tâm trạng nặng nề, u ám. Đặc biệt là Thạch Lam tả bóng tối thời trước và cùng thời với ông, chưa có ai tả bóng tối sinh động, có hồn và đầy sinh thú đến thế. Cái bóng tối nơi làng quê đồng nội Việt Nam, thường đƣợc xem như một cái gì thù địch với cuộc sống, với con người lương thiện. Thế mà thú vị thay, trong tác phẩm của mình rất nhiều lần Thạch Lam miêu tả bóng tối như bạn bè tin cậy của con người “Loan trở lại cái mộng xinh đẹp của mình.
Sung sướng nàng nhắm mắt để cho bóng tối đến, mát và rực rỡ bao bọc cả tâm hồn, thân thể nàng” (Bắt đầu). Còn bóng tối trong Bóng người xưa không chỉ là bạn bè mà còn như một thứ “phép màu” khi được pha hòa với một ít ánh sáng, làm: “Vân không trông thấy trước mắt mình nét mặt hàng ngày của vợ nữa, chàng chỉ thấy một người vợ trẻ hơn, đẹp hơn. Những nếp nhăn của người đàn bà luống tuổi đã mất đi trong bóng tối; khuôn mặt trở nên đều đặn, cái miệng hơi hé trên hàm răng nhỏ trắng muốt, đôi mắt long lanh sáng”. Bóng tối trên phố huyện, ai bảo nó chỉ quẩn quanh, hiện thân cho những cảnh đời tăm tối: “Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tốí” (Hai đứa trẻ).
Có thể nói, khuynh hướng cởi mở tâm hồn để tạo cảnh, hòa đồng tình yêu với thiên nhiên của Tự lực văn đoàn, được Thạch Lam thể hiện tinh tế về màu sắc và dồi dào về cảm giác. “Tôi trèo lên đỉnh đồi, ngồi trên những tảng đá quay nhìn khắp bốn phương. Khi nắng bắt đầu gay gắt và cỏ đã nóng dưới gót chân, tôi thong thả đi xuống, đi len lỏi vào các vườn chè, sắn rồi đến bờ sông Cống, tìm một chỗ bóng mát ngồi nghỉ. Tôi ngả mình trên cỏ nằm mơ màng đếm cái tiếng kêu của chim gáy ở tận đâu xa xa. Tất cả buổi, tôi chỉ quanh quẩn ở ngoài đồi, trông và nghe không biết mỏi. Chiều đến, tôi lắng nghe luồng gió thì thào trong cành lá, hay đứng trên đồi nhìn sương mù từ từ bốc lên mặt sông. Tôi lần theo những con đường bằng cỏ ướt đó tìm trong bờ giậu cái điểm sáng của con sâu đêm. Tôi ngẩng nhìn vì sao lấp lánh trên không, dải Ngân hà mờ sáng và tìm ông Thần Nông…”. Tâm trạng lo lắng về hàng quán không gạt bỏ khỏi Liên những cảm xúc trước thiên nhiên. “Qua khe lá của cành bàng ngôi sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, rồi hoa rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu” (Hai đứa trẻ).
Dường như thiên nhiên, cảnh trí, bầu không khí bao quanh nhân vật với đủ màu sắc mùi vị, âm thanh đã tạo nên sự êm đềm, hài hòa trong tác phẩm. Sự hài hòa ấy là điểm tựa của con ngƣời, giữa nó với thế giới được nối với nhau bởi sợi dây bền chặt của mối giao hòa tuyệt vời, vô hình đấy mà hiện hữu đấy. Có khi chỉ trong một hình ảnh thoáng qua, một cảnh nhỏ ở sáng tác của Thạch Lam cũng mang một nét riêng ý vị về cảnh sắc thiên nhiên và con người của dân tộc: “Thanh bước dưới giàn thiên lý. Có tiếng người đi và bà chàng mái bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vườn vào…” (Dưới bóng hoàng lan) hoặc cảnh một buổi sáng thôn quê: “Qua giậu thưa thấp thoáng người đi chợ sớm, tiếng cười nói vang lên với tiếng đòn gánh kĩu kịt vì những bao gạo nặng” (Buổi sớm).
Có thể nói, cái đẹp trong tác phẩm Thạch Lam là cái đẹp trinh nguyên của thiên nhiên, của bầu không khí bao quanh nhân vật - cái bầu không khí đặc biệt mà thiếu nó con người có nguy cơ trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Ta có thể nhắm mắt mà hình dung theo cảm giác của Thạch Lam tới những vẻ đẹp tự nhiên, gần gũi xung quanh. Không có gì to tát nhưng đằm sâu sự hài hòa tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên. Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ êm ả, đượm buồn, thấm đẫm cảm xúc trìu mến, nâng niu mà nhà văn luôn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện linh hồn nông thôn Việt Nam, hồn xưa dân tộc.
Đó là dưỡng khí tinh thần của con người mà Thạch Lam đã “chắt chiu cái đẹp” (Bùi Việt Thắng) cho đương thời và hậu thế.
Trước hết, Thạch Lam đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên trong sự hòa quyện với con người trong sự tồn tại hiện hữu theo quy luật tự nhiên của nó. Trong những trang văn của nhà văn ta thấy bức tranh thiên nhiên phong phú, muôn màu, muôn vẻ mang đến vẻ đẹp nguyên sơ và tinh khiết. Đó là vẻ đẹp của ngày - đêm, mưa - nắng, mây - mù, sông - nước, mặt trời - trăng sao, cây - cỏ, hoa - lá … là những vẻ đẹp còn nguyên khôi trong vũ trụ ở quanh ta. Một áng mây bay, một làn gió thổi, một tia nắng vàng, một cơn mưa đầu mùa, một làn sương trong suốt, một đêm trăng sao, những hàng cây bãi cỏ, hoa lá muôn màu cũng đưa lại cho người đọc một cảm quan về cái đẹp. Đây là khung cảnh một đêm trăng trong truyện Tình xưa: “Trăng rằm vằng vặc, tường vôi sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bỏ xuống mặt sân, và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong. Thời khắc êm dịu và thú vị”. Còn đây là hình ảnh “Con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ”. “những vòng ánh sáng lọt qua vòm câu xuống nhảy múa theo chiều gió”, vẻ yên tĩnh tuyệt đối “tựa như bao nhiêu sự ồn ào ngoài kia đều ngưng lại trên bực cửa”và mùi hƣơng thoang thoảng mát lành của cây hoàng lan… tất cả cộng hƣởng với nhau tạo nên một thế giới cổ tích yên bình và thanh sạch. Ở Tối ba mươi đó là cảnh “mưa buồn rầu và âm thầm trong bóng tối”, hè phố “ướt át và nhớp nháp bùn không một bóng người qua lại”. Trong Cô hàng xén, Tâm lại bước đi trên con đường quen thuộc đầy sương mù và gió lạnh “Cái vòng đen của rặng tre làm giằng bỗng vụt hiện lên trước mắt, tối tăm và dày đặc”.
Thiên nhiên của những ngõ nhỏ, phố nhỏ, của hương cốm làng Vòng… tất cả đã để lại một ấn tượng đặc biệt trong lòng của người đọc. Thiên nhiên trong những trang văn của Thạch Lam mang cái dư âm của không gian địa văn hóa. Cho nên, cỏ cây, hoa lá, núi sông, đất trời ở mỗi vùng khác nhau nhưng cũng đều là vẻ đẹp của quê hương xứ sở của đất nước Việt Nam dấu yêu? Song ta vẫn thấy con tim yêu của tác giả nghiêng về Cẩm Giàng - Hải Dương. Có lẽ đó nên hầu hết tác phẩm của ông ta đều thấy hình ảnh quê hƣơng của một vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên phố huyện. Quả đúng là cái đẹp ấy man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tang ở mọi vật tầm thường.
Thạch Lam không chỉ mang đến cho người đọc về một cảm quan về cái đẹp của thiên nhiên nguyên sơ mà ta còn thấy nhà văn hướng đến cảm quan về thiên nhiên bao trùm lên cảnh vật, hòa gắn với cảnh vật tạo nên một bức tranh thiên nhiên muôn hình vạn trạng, tràn đầy sinh sắc: Đó là cảnh “vừa mới ngày ngày hôm qua giời vẫn còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng muời làm nứt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi” thế mà chỉ qua một đêm mưa rào ta đã thấy “trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt”. Những biến chuyển vi diệu của đất trời ấy, ta đã thấy cảnh vật thiên nhiên hiện lên muôn hình, muôn vẻ, đa màu sắc và tràn đầy cảm quan của con người. Hay những đêm trăng lóng lánh nhƣ dát vàng trên đường đã thắm đượm tình quê hương "những đêm sáng trăng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngoài đường, vì nhà nào cũng nóng như một cái lò và hàng vạn con muỗi vo ve. Dưới bóng trăng những đá rải đường trắng đen và lấp lánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi trưa và bốc lên một cái mùi riêng lẫn mùi rác bẩn và mùi cát” (Nhà mẹ Lê). Cảnh vật đẹp đến mê hồn: “Hai bên cánh đồng lúa xanh gió đưa như nổi song. Cảnh thơ mộng “Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: “Cây hoàng lan!”. Và “Ngoài vườn, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo trắng của Nga. Những chiếc búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá” (Dưới bóng hoàng lan). Tất cả tạo nên một thế giới cổ tích yên bình và thanh sạch. Đó là khung cảnh dịu ngọt chăng tơ trong lòng người.
Không chỉ có thế, ta còn thấy cảnh sắc thiên nhiên nhuốm tâm hồn, tình cảm của con ngƣời, khiến cảnh - tình quyện chặt giàu săc màu, hương vị, âm thanh. Cảnh thiên nhiên đã đẹp, càng đẹp hơn, có hồn hơn khi tất cả gắn với cuộc sống, số phận, tình cảm… của con người. Ở truyện Tối ba mươi ta thấy cảnh “mưa buồn rầu và âm thầm trong bóng tối”, hè phố “ướt át và nhớp nháp bùn không một bóng người qua lại”. Khung cảnh thiên nhiên ấy, tự thân nó như đã chứa đựng nỗi đau thân phận của hai cô gái nhà săm Liên và Huệ. Thiên nhiên đã góp một phần quan trọng trong việc phủ lên câu chuyện cái màn mờ đục, u ám của tâm trạng con người. Trong nỗi chua xót của một Người lính cũ và niềm thương cảm của nhân vật tôi, thiên nhiên được cảm nhận như có sự gia tăng của bóng tối: “Xung quanh chúng tôi, cái đen tối của đêm khuya dày dằng dặc”. “Nỗi đau đớn nghẹn ngào” của nhân vật Diên hình như đã tìm thấy sự đồng cảm với thiên nhiên “Trong bóng tối buổi chiều”. Có thể nói rằng thế giới thiên nhiên trong sáng tác của Thạch Lam là một thứ “ngôn ngữ” độc đáo. Nó có tiếng nói riêng và luôn có khả năng nói thay con người. Thiên nhiên mang trong nó những thông điệp nỗi niềm mà con người chưa nói hết. Nó lấp đầy những khoảng trống, những chỗ đứt đoạn trong dòng tâm tư của nhân vật và vì thế mà ẩn chứa bên trong mình một vẻ đẹp riêng.
Dấu ấn tâm trạng trên của thiên nhiên còn thể hiện ở sự cảm nhận theo diễn biến tâm trạng nhân vật. Vẫn là quang cảnh ngôi nhà ấy của gia đình mẹ Lê thôi nhưng ấm áp và đầy ánh sáng trong những ngày no ấm và hiu hắt, tối tăm trong những ngày đói khổ. Con đường mà nhân vật Tâm “trở về” nó chỉ dịu mát, và trong lành khi nhân vật có một thoáng nhớ về quê cũ. Thiên nhiên đầy sương mù và gió lạnh “Cái vòng đen của rặng tre làm giằng bỗng vụt hiện lên trước mắt, tối tăm và dày đặc”. như cất lời, nó nói hộ nhân vật tâm trạng nặng nề, u ám. Đặc biệt là Thạch Lam tả bóng tối thời trước và cùng thời với ông, chưa có ai tả bóng tối sinh động, có hồn và đầy sinh thú đến thế. Cái bóng tối nơi làng quê đồng nội Việt Nam, thường đƣợc xem như một cái gì thù địch với cuộc sống, với con người lương thiện. Thế mà thú vị thay, trong tác phẩm của mình rất nhiều lần Thạch Lam miêu tả bóng tối như bạn bè tin cậy của con người “Loan trở lại cái mộng xinh đẹp của mình.
Sung sướng nàng nhắm mắt để cho bóng tối đến, mát và rực rỡ bao bọc cả tâm hồn, thân thể nàng” (Bắt đầu). Còn bóng tối trong Bóng người xưa không chỉ là bạn bè mà còn như một thứ “phép màu” khi được pha hòa với một ít ánh sáng, làm: “Vân không trông thấy trước mắt mình nét mặt hàng ngày của vợ nữa, chàng chỉ thấy một người vợ trẻ hơn, đẹp hơn. Những nếp nhăn của người đàn bà luống tuổi đã mất đi trong bóng tối; khuôn mặt trở nên đều đặn, cái miệng hơi hé trên hàm răng nhỏ trắng muốt, đôi mắt long lanh sáng”. Bóng tối trên phố huyện, ai bảo nó chỉ quẩn quanh, hiện thân cho những cảnh đời tăm tối: “Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tốí” (Hai đứa trẻ).
Có thể nói, khuynh hướng cởi mở tâm hồn để tạo cảnh, hòa đồng tình yêu với thiên nhiên của Tự lực văn đoàn, được Thạch Lam thể hiện tinh tế về màu sắc và dồi dào về cảm giác. “Tôi trèo lên đỉnh đồi, ngồi trên những tảng đá quay nhìn khắp bốn phương. Khi nắng bắt đầu gay gắt và cỏ đã nóng dưới gót chân, tôi thong thả đi xuống, đi len lỏi vào các vườn chè, sắn rồi đến bờ sông Cống, tìm một chỗ bóng mát ngồi nghỉ. Tôi ngả mình trên cỏ nằm mơ màng đếm cái tiếng kêu của chim gáy ở tận đâu xa xa. Tất cả buổi, tôi chỉ quanh quẩn ở ngoài đồi, trông và nghe không biết mỏi. Chiều đến, tôi lắng nghe luồng gió thì thào trong cành lá, hay đứng trên đồi nhìn sương mù từ từ bốc lên mặt sông. Tôi lần theo những con đường bằng cỏ ướt đó tìm trong bờ giậu cái điểm sáng của con sâu đêm. Tôi ngẩng nhìn vì sao lấp lánh trên không, dải Ngân hà mờ sáng và tìm ông Thần Nông…”. Tâm trạng lo lắng về hàng quán không gạt bỏ khỏi Liên những cảm xúc trước thiên nhiên. “Qua khe lá của cành bàng ngôi sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, rồi hoa rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu” (Hai đứa trẻ).
Dường như thiên nhiên, cảnh trí, bầu không khí bao quanh nhân vật với đủ màu sắc mùi vị, âm thanh đã tạo nên sự êm đềm, hài hòa trong tác phẩm. Sự hài hòa ấy là điểm tựa của con ngƣời, giữa nó với thế giới được nối với nhau bởi sợi dây bền chặt của mối giao hòa tuyệt vời, vô hình đấy mà hiện hữu đấy. Có khi chỉ trong một hình ảnh thoáng qua, một cảnh nhỏ ở sáng tác của Thạch Lam cũng mang một nét riêng ý vị về cảnh sắc thiên nhiên và con người của dân tộc: “Thanh bước dưới giàn thiên lý. Có tiếng người đi và bà chàng mái bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vườn vào…” (Dưới bóng hoàng lan) hoặc cảnh một buổi sáng thôn quê: “Qua giậu thưa thấp thoáng người đi chợ sớm, tiếng cười nói vang lên với tiếng đòn gánh kĩu kịt vì những bao gạo nặng” (Buổi sớm).
Có thể nói, cái đẹp trong tác phẩm Thạch Lam là cái đẹp trinh nguyên của thiên nhiên, của bầu không khí bao quanh nhân vật - cái bầu không khí đặc biệt mà thiếu nó con người có nguy cơ trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Ta có thể nhắm mắt mà hình dung theo cảm giác của Thạch Lam tới những vẻ đẹp tự nhiên, gần gũi xung quanh. Không có gì to tát nhưng đằm sâu sự hài hòa tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên. Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ êm ả, đượm buồn, thấm đẫm cảm xúc trìu mến, nâng niu mà nhà văn luôn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện linh hồn nông thôn Việt Nam, hồn xưa dân tộc.
Đó là dưỡng khí tinh thần của con người mà Thạch Lam đã “chắt chiu cái đẹp” (Bùi Việt Thắng) cho đương thời và hậu thế.
2.1.2. Cảm quan
văn hóa về cuộc sống
Thạch Lam yêu thiên nhiên, yêu quê hương, nhất là yêu Hà Nội tha thiết. Người ta thƣờng thấy hàng ngày, sau công việc của tòa báo, Thạch Lam hay lang thang các phố, khi đi một mình, lúc cùng với bạn bè, có hôm đến hai, ba giờ sáng mơi về trước chợ Đồng Xuân, xem họp những phiên "chợ xanh". Nhiều người còn nhận xét: dù uống một chén nước trà, hay một bát nước vối, dù nhấp một ngụm rượu, hay thưởng thức một món ăn. Thạch Lam thường trầm ngâm suy ngẫm, tỏ rõ một thái độ trân trọng, nâng niu những giá trị văn hóa tinh thần tiềm ẩn trong sự sống hàng ngày. Ông vừa như nhắc nhở mọi người, vừa như nêu lên một phương châm cũng phù hợp với mười điều tôn chỉ của Tự lực văn đoàn để sáng tác; Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây, phải có cái can đảm “mình dám là mình”, và “chúng ta cứ việc diễn tả cái tâm hồn An Nam của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ, mà chúng ta ấp ủ trong thâm tâm”. Ông còn nhấn mạnh “chúng ta chỉ có thể bằng các nhà văn ngoại quốc khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn chúng ta mà thôi”. [91]. Trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến, người dân Việt Nam phải sống trong cảnh “một cổ hai tròng”, cuộc đời nô lệ. Đất nước thì bị kìm kẹp, không phát triển mà ngày càng lạc hậu. Nói như Nguyễn Tuân là một xã hội “tối trời tối đất”, nên cuộc sống của dân ta phần nhiều là khốn khổ, đói nghèo.
Trước hết là những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đổ mồ hôi sôi nước mắt, “con trâu đi trước cái cày theo sau” nhưng chưa hết mùa đã hết thóc, đói vẫn hoàn đói, rét vẫn hoàn rét, khổ vẫn là khổ. Nhất là những năm mất mùa, thì họ lại đói hơn, tất tưởi chạy vạy để được bữa no, được bát cơm chan đầy nước mắt! Nhiều người chạy khỏi làng ra đô thị để kiếm kế sinh nhai. Họ làm đủ mọi nghề để kiếm sống: buôn bán nhỏ, bán hàng rong, đi ở, đi làm thuê, kéo xe… Họ sống cũng khổ cực chẳng hơn người nông dân là mấy. Những người khác vào nhà máy, làm giáo viên hay công chức có khá hơn song có người vẫn đói nghèo. Thạch Lam - một nhà văn có tâm, có tình, có sự cảm thông chia sẻ sâu sắc đã tái hiện biết bao cảnh đời đầy thương tâm trên những trang văn của mình.
Nhà mẹ Lê ở Đoàn Thôn ở chung với ngƣời “ngụ cư làm ăn đói kém” trong “Hai dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những cái giại nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một căn nhà gạch có gác, bưng bít như một cái tổ chim”. Nhà mẹ Lê có ngƣời mẹ và mười một đứa con “chen chúc một khoảng rộng bằng hai cái chiếu”. Mùa rét nằm ở nền giải rơm mẹ con cùng nằm ngủ trên đá “trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc”. Mẹ Lê “thấp bé, da mặt và chân tay dăn deo như một quả trám khô”. Mẹ Lê mùa nóng cũng như mùa rét, dậy sớm, đi làm mướn để nuôi con. Làm vất vả nhưng một ngày chỉ đƣợc “mấy bát gạo để nuôi con”, bác vẫn cho là “những ngày sung sướng”. “Không có ai mướn thì nhịn đói” phải đi ăn xin. Rét đến các con nhỏ chỉ có “manh áo rách nát”, “thịt thâm tím” như thịt con trâu chết. Bọn chúng đã rét nhƣng không có cái ăn khóc lả đi. Suốt đời mẹ Lê đi làm, cho đến chết vẫn đói nghèo. Không phải chỉ có mẹ Lê mà các gia đình ở phố chợ “đều đói rét khổ sở”, họ "lặng lẽ âm thầm chịu khổ…", “không than thở”… bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.
Bác Dự trong Một cơn giận, một bác phu xe “co ro vì rét, hai tay giấu dưới mảnh áo tồi tàn” bị phạt phải mất tiền lại chẳng có phương tiện làm đành lưu bạt. Trong khi đó “con ở nhà ốm cần thuốc để cứu chữa". Anh ở trong xóm nghèo, nhà bên cạnh “người đàn ông ốm yếu tay cắp một chiếc áo quan bằng gỗ mới”. Có tiếng khóc của “hai người đàn bà” trong một túp “nhà lụp xụp” - “Đứa bé con đã chết”. Ngƣời phu xe lại phải tá túc trong “một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo, trên bờ là một cái đầm nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một cuộc đời khốn nạn, những người gầy gò, rách rưới như những người trong một cơn mê”….
Thạch Lam không dừng lại ở cảm nhận của mình về cuộc sống nghèo đói, khổ sở mà ông luôn hướng đến những điều tốt đẹp của họ trong cuộc sống ấy. Họ không kêu ca, than thở - không phải họ an phận mà họ hy vọng và lạc quan. Cái lạc quan vốn là phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động đã được truyền từ đời này sang đời khác trong ca dao:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Tuy cuộc sống của họ khó khăn nhưng họ không có đường cùng, họ vẫn lao động, vẫn gắng hết sức để duy trì sự sống. Chi Liên trong Một đời người vẫn đến chỗ làm không nghỉ một buổi. Mẹ Lê vẫn mong có người mướn đi làm để lấy tiền nuôi con. Lúc gần trút hơi thở cuối cùng, mẹ Lê vẫn nghĩ “Giá có người mướn” để có tiền nuôi đàn con. Mẹ Lê là người yêu con, nâng niu “hôn hít” và nựng con “giống bố nhất”. Thật là một ngƣời phụ nữ đảm đang yêu chồng, thương con. Trong truyện những người hàng xóm cũng thật tốt bụng “tối lửa tắt đèn có nhau” và “lá lành đùm lá rách”. Khi bác Lê chết “Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ ở đầu làng” (Nhà mẹ Lê). Cuộc sống của họ như vậy nhưng họ vẫn “cựa quậy” vươn lên để đón ánh sáng ngày mai. Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, mặc dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng hai chị em vẫn cố thức đợi tàu. An nằm trên đùi chị, mi mắt sắp rơi xuống, còn dặn với: “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Chuyến tàu đến, Liên gọi An dậy, hai chị em đón tàu đi qua - chuyến tàu ở Hà Nội về mang âm thanh và ánh sáng làm tan cái bóng đêm của phố huyện. Hai chị em thấy “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi” và thấy “Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Liên thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”.
Có thể nói, âm thanh, ánh sáng đến là hy vọng đến và khát vọng mong mỏi cuộc sống mới của hai chị em, của phố huyện và của cả mọi người. Thật đẹp, thật đáng trân trọng làm sao!
Thạch Lam còn cảm nhận được cuộc sống có ý nghĩa. Cuộc sống yên ả của nông thôn, đô thị trên đất nước ta với đời sống tinh thần phong phú đậm sắc màu văn hóa của dân tộc ta. Nhà văn vẫn thấy cảnh tình Việt Nam yên ả: vẫn cây đa bến nước mái đình, vẫn cái cổng làng cổ kính mở đóng hàng ngày, vẫn lũy tre bao bọc những mái nhà còn thơm mùi rạ và vẫn những người nông dân thuần phác cực nhọc “thẳng da lưng chùng da bụng trên những cánh đồng thẳng cánh cò bay dập dìu biển lúa xanh, vàng” làm nao lòng người đọc. Những cảnh của cuộc sống yên bình cứ ẩn hiện trên những trang văn của ông: Ai đã vào làng đều cảm thấy vui: “Đường ở ngoài nắng, vào đây mát rượi hẳn đi, vì hai bên đường hẹp, có lũy tre mà cành lá giao nhau ở trên ngọn làm thành một cái vòm lá kín ". Nhãn lồng là một thứ nhãn rất chắc, cùi dầy, múi có khe lồng lên nhau. Còn nhiều thứ nhãn khác nữa, nhãn đường phèn, nhãn nước, nhãn ráo. Ỏ vùng này có thứ bạch nhãn quý lắm, gọi là nhãn tiến, vì ngày xưa vẫn đem tiến vua. Đó cũng là cái nhà cổ “có hiên cửa bức bàn”, “trong nhà có nhiều câu đối sơn treo cái cột… có trường kỷ kê liền với chiếc án thư …" (Đi vào làng) . Đó là cảnh đập lúa “Tiếng lúa đập trên cối đá thình thịch lẫn với tiếng hạt thóc bắn ra rào rào vào lá cót..” (Đập lúa)… Cảnh làng quê là thế, cảnh ở đô thị cũng đẹp (Hà Nội băm sáu phố phường), mỗi phường lấy một nghề, người thì đông đúc, cuộc sống ồn ã, náo nhiệt. Đẹp nhất vẫn là quà bánh Hà Nội - quà bánh của những người “sành ăn” đã trở thành đặc sản có một không hai, làm nên phong vị Hà Nội và văn hóa của Hà Nội: Đó là cốm, bánh cốm, phở, bún, cháo… Hà Thành. Người Việt Nam làm sao quên được, người nước ngoài nức tiếng khen.
Con người Việt Nam lại có đời sống văn hóa tinh thần phong phú làm nên nét đẹp mang hồn cốt Việt Nam: Những phong tục tập quán cổ truyền vẫn tồn tại vững bền: phong tục lễ tết, thờ cúng tổ tiên (Tối ba mươi), cưới xin, hôn nhân (Một đời người). Những tình cảm yêu thương được sẻ chia, lòng trắc ẩn vị tha của con ngƣời Việt Nam thật đáng trân trọng. Bà Cả khao khát con và thấy được tình mẫu tử (Đứa con). Sơn cho bạn nghèo chiếc áo hoặc bọn trẻ thương đàn chim bị rét? Đó là những nghĩa cử cao đẹp. Có thể nói, cuộc sống yên bình, êm ả với những phong tục tập quán và đời sống tinh thần văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam hiện lên vẻ đẹp lung linh trên những trang sách của Thạch Lam làm ta nhớ, xúc động và trân trọng biết bao.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong bài Lời nói đầu Tuyển tập Thạch Lam in năm 1957 đã viết: Ngoài các tập truyện Thạch Lam có viết một tác phẩm xinh gọn, duyên dáng để riêng ca ngợi những phong vị và sắc thái thủ đô ngàn năm văn vật. Tập ký Hà Nội băm sáu phố phường đƣợc truyền tụng nhiều nhất. Tác phẩm miêu tả cuộc sống hàng ngày của Hà Nội và những thú vui ẩm thực của dân thành phố. Đó là quà, là món ăn tuyệt ngon của Hà Nội.
Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng là ngon và lịch sự. Ở các thôn quê, chút “quà Hà Nội” là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hóa của người cho… Nếu chúng ta về các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà Hà Nội có vị ngon chừng nào! Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế sao mà bún chả Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi. Và Thạch Lam đã ghi lại thật tỷ mỷ các thứ quà làm nên cái “chất riêng của Hà Nội” với tư cách một thi sĩ về khoa thẩm vị (theo cách nói của Khái Hưng) “Ăn quà là một nghệ thuật: ăn đúng cái giờ ấy và chọn người bán ấy mới là người sành ăn” Thực tế ở Hà Nội lúc bấy giờ, mỗi giờ có một thứ ăn khác nhau: tang tảng sáng là bánh mì, hay còn gọi là bánh Tây thời ấy. Bánh mì là thứ quà của những người thợ đi làm sớm, sau đó là thứ bánh rán nóng của lũ trẻ con. Song món chính tông của quà Hà Nội phải kể đến là bánh cuốn Thanh Trì "Bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa. Vị bánh thơm, bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn đậm vì chút mỡ hành. Người bán bánh cuốn Thanh Trì đội mẹt và rổ trên đầu, từng tụm năm, bảy người từ phía Lò Lợn đi vào trong phố, dáng điệu uyển chuyển và nhanh nhẹn”. Rồi thứ nữa “vào mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ở cái xôi vừng mỡ, nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi”. Và đặc biệt, phải kể đến vị hành khô khi ăn ngô nếp bung non, rưới thêm chút nước mỡ trong… mà nói đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Thạch Lam yêu thiên nhiên, yêu quê hương, nhất là yêu Hà Nội tha thiết. Người ta thƣờng thấy hàng ngày, sau công việc của tòa báo, Thạch Lam hay lang thang các phố, khi đi một mình, lúc cùng với bạn bè, có hôm đến hai, ba giờ sáng mơi về trước chợ Đồng Xuân, xem họp những phiên "chợ xanh". Nhiều người còn nhận xét: dù uống một chén nước trà, hay một bát nước vối, dù nhấp một ngụm rượu, hay thưởng thức một món ăn. Thạch Lam thường trầm ngâm suy ngẫm, tỏ rõ một thái độ trân trọng, nâng niu những giá trị văn hóa tinh thần tiềm ẩn trong sự sống hàng ngày. Ông vừa như nhắc nhở mọi người, vừa như nêu lên một phương châm cũng phù hợp với mười điều tôn chỉ của Tự lực văn đoàn để sáng tác; Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây, phải có cái can đảm “mình dám là mình”, và “chúng ta cứ việc diễn tả cái tâm hồn An Nam của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ, mà chúng ta ấp ủ trong thâm tâm”. Ông còn nhấn mạnh “chúng ta chỉ có thể bằng các nhà văn ngoại quốc khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn chúng ta mà thôi”. [91]. Trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến, người dân Việt Nam phải sống trong cảnh “một cổ hai tròng”, cuộc đời nô lệ. Đất nước thì bị kìm kẹp, không phát triển mà ngày càng lạc hậu. Nói như Nguyễn Tuân là một xã hội “tối trời tối đất”, nên cuộc sống của dân ta phần nhiều là khốn khổ, đói nghèo.
Trước hết là những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đổ mồ hôi sôi nước mắt, “con trâu đi trước cái cày theo sau” nhưng chưa hết mùa đã hết thóc, đói vẫn hoàn đói, rét vẫn hoàn rét, khổ vẫn là khổ. Nhất là những năm mất mùa, thì họ lại đói hơn, tất tưởi chạy vạy để được bữa no, được bát cơm chan đầy nước mắt! Nhiều người chạy khỏi làng ra đô thị để kiếm kế sinh nhai. Họ làm đủ mọi nghề để kiếm sống: buôn bán nhỏ, bán hàng rong, đi ở, đi làm thuê, kéo xe… Họ sống cũng khổ cực chẳng hơn người nông dân là mấy. Những người khác vào nhà máy, làm giáo viên hay công chức có khá hơn song có người vẫn đói nghèo. Thạch Lam - một nhà văn có tâm, có tình, có sự cảm thông chia sẻ sâu sắc đã tái hiện biết bao cảnh đời đầy thương tâm trên những trang văn của mình.
Nhà mẹ Lê ở Đoàn Thôn ở chung với ngƣời “ngụ cư làm ăn đói kém” trong “Hai dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những cái giại nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một căn nhà gạch có gác, bưng bít như một cái tổ chim”. Nhà mẹ Lê có ngƣời mẹ và mười một đứa con “chen chúc một khoảng rộng bằng hai cái chiếu”. Mùa rét nằm ở nền giải rơm mẹ con cùng nằm ngủ trên đá “trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc”. Mẹ Lê “thấp bé, da mặt và chân tay dăn deo như một quả trám khô”. Mẹ Lê mùa nóng cũng như mùa rét, dậy sớm, đi làm mướn để nuôi con. Làm vất vả nhưng một ngày chỉ đƣợc “mấy bát gạo để nuôi con”, bác vẫn cho là “những ngày sung sướng”. “Không có ai mướn thì nhịn đói” phải đi ăn xin. Rét đến các con nhỏ chỉ có “manh áo rách nát”, “thịt thâm tím” như thịt con trâu chết. Bọn chúng đã rét nhƣng không có cái ăn khóc lả đi. Suốt đời mẹ Lê đi làm, cho đến chết vẫn đói nghèo. Không phải chỉ có mẹ Lê mà các gia đình ở phố chợ “đều đói rét khổ sở”, họ "lặng lẽ âm thầm chịu khổ…", “không than thở”… bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.
Bác Dự trong Một cơn giận, một bác phu xe “co ro vì rét, hai tay giấu dưới mảnh áo tồi tàn” bị phạt phải mất tiền lại chẳng có phương tiện làm đành lưu bạt. Trong khi đó “con ở nhà ốm cần thuốc để cứu chữa". Anh ở trong xóm nghèo, nhà bên cạnh “người đàn ông ốm yếu tay cắp một chiếc áo quan bằng gỗ mới”. Có tiếng khóc của “hai người đàn bà” trong một túp “nhà lụp xụp” - “Đứa bé con đã chết”. Ngƣời phu xe lại phải tá túc trong “một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo, trên bờ là một cái đầm nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một cuộc đời khốn nạn, những người gầy gò, rách rưới như những người trong một cơn mê”….
Thạch Lam không dừng lại ở cảm nhận của mình về cuộc sống nghèo đói, khổ sở mà ông luôn hướng đến những điều tốt đẹp của họ trong cuộc sống ấy. Họ không kêu ca, than thở - không phải họ an phận mà họ hy vọng và lạc quan. Cái lạc quan vốn là phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động đã được truyền từ đời này sang đời khác trong ca dao:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Tuy cuộc sống của họ khó khăn nhưng họ không có đường cùng, họ vẫn lao động, vẫn gắng hết sức để duy trì sự sống. Chi Liên trong Một đời người vẫn đến chỗ làm không nghỉ một buổi. Mẹ Lê vẫn mong có người mướn đi làm để lấy tiền nuôi con. Lúc gần trút hơi thở cuối cùng, mẹ Lê vẫn nghĩ “Giá có người mướn” để có tiền nuôi đàn con. Mẹ Lê là người yêu con, nâng niu “hôn hít” và nựng con “giống bố nhất”. Thật là một ngƣời phụ nữ đảm đang yêu chồng, thương con. Trong truyện những người hàng xóm cũng thật tốt bụng “tối lửa tắt đèn có nhau” và “lá lành đùm lá rách”. Khi bác Lê chết “Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ ở đầu làng” (Nhà mẹ Lê). Cuộc sống của họ như vậy nhưng họ vẫn “cựa quậy” vươn lên để đón ánh sáng ngày mai. Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, mặc dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng hai chị em vẫn cố thức đợi tàu. An nằm trên đùi chị, mi mắt sắp rơi xuống, còn dặn với: “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Chuyến tàu đến, Liên gọi An dậy, hai chị em đón tàu đi qua - chuyến tàu ở Hà Nội về mang âm thanh và ánh sáng làm tan cái bóng đêm của phố huyện. Hai chị em thấy “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi” và thấy “Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Liên thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”.
Có thể nói, âm thanh, ánh sáng đến là hy vọng đến và khát vọng mong mỏi cuộc sống mới của hai chị em, của phố huyện và của cả mọi người. Thật đẹp, thật đáng trân trọng làm sao!
Thạch Lam còn cảm nhận được cuộc sống có ý nghĩa. Cuộc sống yên ả của nông thôn, đô thị trên đất nước ta với đời sống tinh thần phong phú đậm sắc màu văn hóa của dân tộc ta. Nhà văn vẫn thấy cảnh tình Việt Nam yên ả: vẫn cây đa bến nước mái đình, vẫn cái cổng làng cổ kính mở đóng hàng ngày, vẫn lũy tre bao bọc những mái nhà còn thơm mùi rạ và vẫn những người nông dân thuần phác cực nhọc “thẳng da lưng chùng da bụng trên những cánh đồng thẳng cánh cò bay dập dìu biển lúa xanh, vàng” làm nao lòng người đọc. Những cảnh của cuộc sống yên bình cứ ẩn hiện trên những trang văn của ông: Ai đã vào làng đều cảm thấy vui: “Đường ở ngoài nắng, vào đây mát rượi hẳn đi, vì hai bên đường hẹp, có lũy tre mà cành lá giao nhau ở trên ngọn làm thành một cái vòm lá kín ". Nhãn lồng là một thứ nhãn rất chắc, cùi dầy, múi có khe lồng lên nhau. Còn nhiều thứ nhãn khác nữa, nhãn đường phèn, nhãn nước, nhãn ráo. Ỏ vùng này có thứ bạch nhãn quý lắm, gọi là nhãn tiến, vì ngày xưa vẫn đem tiến vua. Đó cũng là cái nhà cổ “có hiên cửa bức bàn”, “trong nhà có nhiều câu đối sơn treo cái cột… có trường kỷ kê liền với chiếc án thư …" (Đi vào làng) . Đó là cảnh đập lúa “Tiếng lúa đập trên cối đá thình thịch lẫn với tiếng hạt thóc bắn ra rào rào vào lá cót..” (Đập lúa)… Cảnh làng quê là thế, cảnh ở đô thị cũng đẹp (Hà Nội băm sáu phố phường), mỗi phường lấy một nghề, người thì đông đúc, cuộc sống ồn ã, náo nhiệt. Đẹp nhất vẫn là quà bánh Hà Nội - quà bánh của những người “sành ăn” đã trở thành đặc sản có một không hai, làm nên phong vị Hà Nội và văn hóa của Hà Nội: Đó là cốm, bánh cốm, phở, bún, cháo… Hà Thành. Người Việt Nam làm sao quên được, người nước ngoài nức tiếng khen.
Con người Việt Nam lại có đời sống văn hóa tinh thần phong phú làm nên nét đẹp mang hồn cốt Việt Nam: Những phong tục tập quán cổ truyền vẫn tồn tại vững bền: phong tục lễ tết, thờ cúng tổ tiên (Tối ba mươi), cưới xin, hôn nhân (Một đời người). Những tình cảm yêu thương được sẻ chia, lòng trắc ẩn vị tha của con ngƣời Việt Nam thật đáng trân trọng. Bà Cả khao khát con và thấy được tình mẫu tử (Đứa con). Sơn cho bạn nghèo chiếc áo hoặc bọn trẻ thương đàn chim bị rét? Đó là những nghĩa cử cao đẹp. Có thể nói, cuộc sống yên bình, êm ả với những phong tục tập quán và đời sống tinh thần văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam hiện lên vẻ đẹp lung linh trên những trang sách của Thạch Lam làm ta nhớ, xúc động và trân trọng biết bao.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong bài Lời nói đầu Tuyển tập Thạch Lam in năm 1957 đã viết: Ngoài các tập truyện Thạch Lam có viết một tác phẩm xinh gọn, duyên dáng để riêng ca ngợi những phong vị và sắc thái thủ đô ngàn năm văn vật. Tập ký Hà Nội băm sáu phố phường đƣợc truyền tụng nhiều nhất. Tác phẩm miêu tả cuộc sống hàng ngày của Hà Nội và những thú vui ẩm thực của dân thành phố. Đó là quà, là món ăn tuyệt ngon của Hà Nội.
Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng là ngon và lịch sự. Ở các thôn quê, chút “quà Hà Nội” là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hóa của người cho… Nếu chúng ta về các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà Hà Nội có vị ngon chừng nào! Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế sao mà bún chả Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi. Và Thạch Lam đã ghi lại thật tỷ mỷ các thứ quà làm nên cái “chất riêng của Hà Nội” với tư cách một thi sĩ về khoa thẩm vị (theo cách nói của Khái Hưng) “Ăn quà là một nghệ thuật: ăn đúng cái giờ ấy và chọn người bán ấy mới là người sành ăn” Thực tế ở Hà Nội lúc bấy giờ, mỗi giờ có một thứ ăn khác nhau: tang tảng sáng là bánh mì, hay còn gọi là bánh Tây thời ấy. Bánh mì là thứ quà của những người thợ đi làm sớm, sau đó là thứ bánh rán nóng của lũ trẻ con. Song món chính tông của quà Hà Nội phải kể đến là bánh cuốn Thanh Trì "Bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa. Vị bánh thơm, bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn đậm vì chút mỡ hành. Người bán bánh cuốn Thanh Trì đội mẹt và rổ trên đầu, từng tụm năm, bảy người từ phía Lò Lợn đi vào trong phố, dáng điệu uyển chuyển và nhanh nhẹn”. Rồi thứ nữa “vào mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ở cái xôi vừng mỡ, nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi”. Và đặc biệt, phải kể đến vị hành khô khi ăn ngô nếp bung non, rưới thêm chút nước mỡ trong… mà nói đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đào Văn A
(1981), Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, Tạp chí Văn học, (số
5), tr. 11 - 16.
2. Hoài Anh (2001), Thạch Lam, những trang văn xanh màu cốm
non, Thạch Lam về tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Hoài Anh (2001),
Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn
hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Huỳnh Phan Anh (1972), Thạch
Lam tiểu thuyết gia, Nxb Giao điểm, Sài Gòn, (số 1), tr. 12.
7. Vũ Tuấn
Anh (1994), 30 năm đầu thế kỷ: Sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại mới
của Văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí Văn học, (số 2), tr. 21 - 26.
8. Vũ Tuấn
Anh, Lê Dục Tú (2006), Thạch Lam về tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9.
Lại Nguyên Ân (2001), Giải pháp điều hòa xã hội trong văn Thạch Lam. Sách Thạch
Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
10. M. Bakhtin, Lý luận và
thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội 1992.
11. Trần Lê Bảo (
2011), Giải mã văn học từ văn hóa học, Nxb Đại Học Quốc Gia, Hà Nội, tr.5.
12. Vũ Bằng (1990), Miếng ngon Hà Nội, Nxb VHTT, Hà Nội.
13. Lê
Nguyên Cẩn (2008), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Tân Chi (1999), Thạch Lam văn và đời, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
15. Đỗ Thị Ngọc Chi (2013), Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án
tiến sĩ Học Viện Khoa Học Xã Hội.
16. Đào Đức Doãn (1993), Quan niệm nghệ thuật
của Thạch Lam, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn,Trường ĐHSP Hà Nội.
17. Trần Ngọc Dung (2001), Phong cách truyện ngắn Thạch Lam, Thạch Lam về tác
gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Đ.X.Likhachốp - Thời gian nghệ thuật
trong tác phẩm văn học, tạp chí văn hoc.
19. Trường Chính (1974), Chủ nghĩa Mác
và văn hóa Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Trương Chính, Trần Đình Hượu
(2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
21. Má Ngọc Chừ (2009), Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, Nxb Trẻ.
Thành Phố Hồ Chí Minh.
22. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
23. Trần Ngọc Dung (2004), Ba phong cách trong
văn học Việt Nam thời kỳ đầu những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch
Lam, Nam Cao, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
24. Hồ Dzếnh ( 2001), “Với Thạch Lam”,
Thạch Lam về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Nhật Duật
(1972), Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài, Tạp chí Giao điểm Sài Gòn, (số 1),
tr. 6 - 12.
26. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn 1930 - 1945 , Nxb Văn học,
Hà Nội.
27. Hà Minh Đức (1997), Thạch Lam - sách Văn học Việt Nam 1900 - 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Hà Minh Đức (2001), Thế giới nhân vật của Thạch Lam,
Thạch Lam về tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Vũ Gia (1994), Thạch
Lam thân thế và sự nghiệp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
30. Văn Giá (1994), Theo dòng một
ghi chú nghệ thuật, những tín niệm văn chương - Thạch Lam văn chương và cái đẹp,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
31. Văn Giá (2000), Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người
Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội, Tạp chí VHVN CA, (số 10),
tr.15.
32. Trần Văn Giầu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Hồ Thế Hà (1994), Truyện ngắn Thạch Lam,
đặc điểm không gian nghệ thuật - Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội. 40
34. Hoàng Thị Hà (2013), Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư dưới góc
nhìn văn hóa. Luận văn thạc sĩ trường Đại học sư phạm Hà Nội.
35. Trần Thị Hà
(2011), Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam, Luận văn thạc sĩ trường Đại
học sư phạm Hà Nội.
36. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Lê Thị Đức Hạnh (1983), Màu sắc
dân tộc trong sáng tác Thạch Lam, Tạp chí văn học, (số 5), tr. 11 - 17.
38. Lê
Thị Đức Hạnh (1965), Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, Tạp chí văn học (số 4), tr.
19 - 25.
39. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn,
Tạp chí văn học, (số 3), tr. 32 - 38.
40. Lê Thị Đức Hạnh (1996), Con người và
cuộc đời Thạch Lam, Báo giáo dục và thời đại chủ nhật, (số 11), tr. 15.
41. Phạm
Thị Thu Hương (2001), Sự kiếm tìm cái đẹp bị đánh mất, Thạch Lam về tác giả tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật
về con người trong truyện ngắn Thạch Lam, Tchí văn học, (số 3), tr.18 - 24.
43. Phạm Thị Thu Hương (2001), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945; Thạch Lam - Thanh Tịnh - Hồ Dzếnh, Luận án phó
tiến sĩ trường Đại học sư phạm Hà Nội.
44. Hê ghen (1968), Mỹ học, Nxb Văn học,
Hà Nội.
45. Ngô Minh Hiển (2009), Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
từ góc nhìn văn hóa, luận văn tiến sĩ viện văn học.
46. Đỗ Đức Hiểu (1994), Phố
huyện của Thạch Lam - Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
47. Dương Phú Hiệp (2002), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa
và con người Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội , tr.40. 41
48.
Nguyễn Hoành Khung (1990), Lời giới thiệu truyện ngắn Thạch Lam 1930 - 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Huyền Kiều (1965), Thạch Lam một người Việt Nam thành
thực, Tạp chí văn học Sài Gòn, (số 36), tr. 29 - 35.
50. Thạch Lam (2001), Hà Nội
băm sáu phố phường, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
51. Phong Lê (1992), Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, Tạp chí văn học, (số 2),
tr. 21 - 26.
52. Phong Lê (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, Hà Nội. 53.
Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, báo Thanh nghị, (số 39), tr.
17.
54. Dương nghiễm Mậu (1972), Thời của Thạch Lam, Tạp chí Giao điểm Sài Gòn,
(số 4), tr.15.
55. Nguyễn Đăng Mạnh ( 2005), Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
56. Lê Thanh Nga (2006), Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Thạch Lam qua đề tài ẩm thực, Luận văn thạc sĩ trường
Đại học sư phạm Hà Nội.
57. Lãng Nguyên (1965), Thạch Lam - ký giả và họa sĩ, Tạp
chí Văn Sài Gòn, (số 36), tr.15.
58. Vương Trí Nhàn (1988), Hà Nội với đời văn
Thạch Lam, báo Người Hà Nội, (số 73), tr. 11 - 13.
59. Vũ Ngọc Phan ( 1989),
Nhà văn hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Phạm Phú Phong
(1992), Mấy vấn đề thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Sông Hương, (số 5),
tr. 18 - 25.
61. Nguyễn Phúc (1994), Quan niệm văn chương của Thạch Lam: vị nghệ
thuật hay vị nhân sinh - Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
62. Nguyễn Vinh Phúc (1994), Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường - Thạch
Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
63. Hoàng Phê (2010), Từ
điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Tr 1406- 1407.
64. Nguyễn Xuân Sanh
(1994), Thạch Lam những đức tính sáng tạo - Thạch Lam văn chương và cái đẹp,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
65. Băng Sơn (2000), Thú ăn chơi người Hà Nội, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
66. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và
phân tích tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67. 68. Nguyễn Bích Thảo
(2000), Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm Hà Nội.
69. Nguyễn Công Thắng (1992), Thạch Lam trong Gió đầu mùa, Kiến thức ngày nay,
(số 9), tr. 19 - 27.
70. Bùi Việt Thắng (1994), Thạch Lam - văn chương và cái đẹp,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
71. Bùi Việt Thắng (2001), “Người chắt chiu cái đẹp“,
Thạch Lam về tác giả và tác phẩm , Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Thành
(1994), Nhìn lại những quan niệm văn học của Thạch Lam, Thạch Lam văn chương và
cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
73. Nguyễn Thành Thi, (2006), Phong cách văn
xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Nguyễn Thành Thi
(2000), Thạch Lam từ quan niệm về cái đẹp đến những trang văn Hà Nội băm sáu phố
phường, Tạp chí Văn học, (số 10), tr. 32 - 37.
75. Nguyễn Thành Thi (2003), Thạch
Lam những tác phẩm tiêu biểu, Nxb Giáo giục, Hà Nội.
76. Nguyễn Thành Thi
(2006), Phong cách văn xuôi Thạch Lam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Trần
Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, tr.9-10.
78. Ngô Đức Thịnh ( 2009) , Đạo Mẫu Việt Nam, Tập 2, Nxb Tôn
Giáo, Hà Nội.
79. Ngô Đức Thịnh (2011), “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ
giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập”, http://
www.vanhoahoc.vn
80. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Ngô Minh Hiển (2009) Văn xuôi Nguyễn Tuân và
Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa, luận văn tiến sĩ, viện văn học HN.
82. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và
phụ nữ, (số 3), tr. 11 - 16.
83. Bích Thu (1992), Sự thức tỉnh của con người
trong sáng tác Thạch Lam, Tạp chí khoa học và Tổ quốc, (số 11), tr. 26 - 31.
84. Bích Thu (1994), Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh, Thạch Lam văn
chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
85. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa
Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
86. Đỗ Thị
Minh Thúy ( 1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb, Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
87. Trần Ngọc Thêm ( 1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
88. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - Khái niệm và suy ngẫm,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
89. Hoàng Tiến (1994), Những điều tôi học được ở
Thạch Lam - Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
90.
Đinh Quang Tốn (1994), Thạch Lam và quê hương sáng tác, Nxb Hội văn Hà Nội, Hà
Nội.
91. Lê Dục Tú (1993), Quan niệm về con người trong sáng tác của Thạch Lam.
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (số 4), tr. 16 - 22.
92. Lê Dục Tú (1997), Quan niệm
về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Xuân Tùng ( 2000), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng. 94. Thế Uyên
(1965), Tìm kiếm Thạch Lam, Tạp chí Văn Sài Gòn, (số 36), tr. 39.
95. Ngô Thị
Thanh Xuân (2004), Kết cấu và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam,
luận văn thạc sĩ trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét