1. Phong trào Thơ mới là cuộc cách mạng thơ ca,
chuyển thơ Việt Nam từ trung đại sang hiện đại. Thắng lợi lớn nhất
của phong trào Thơ mới là sự hình thành, phát triển và cộng hưởng
của sáu, bảy mươi nhà thơ trẻ tài danh, là sự ra đời và tồn tại
lâu dài của mấy trăm thi phẩm có giá trị. Nguyễn Bính là một trong
những thi nhân trụ cột của phong trào Thơ mới. Thơ Nguyễn Bính được
đánh giá cao vì khả năng lan tỏa, khuếch tán rất tự nhiên. So sánh
Nguyễn Bính với các nhà thơ khác cùng thời, như trường hợp Hàn
Mặc Tử, là để cùng lý giải những điểm tương đồng và khác biệt
độc đáo của họ trong đời sống văn chương có quá nhiều những hiện
tượng và biểu hiện phức tạp.
2. Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử là hai nhà thơ lớn,
có vị trí quan trọng, được khẳng định rõ ràng trong phong trào Thơ
mới và trong thơ Việt Nam hiện đại. Từ trước đến nay, Nguyễn Bính
luôn được giới phê bình - nghiên cứu văn học ưu ái. Trong công
trình Thi nhân Việt Nam 1932 -1941 [1] nhằm
tổng kết thành tựu 10 năm của Thơ mới, tác giả Hoài Thanh - Hoài
Chân đã nhận xét về Nguyễn Bính bằng nhiều lời khen ngợi! Nguyễn
Bính và Hàn Mặc Tử còn được chọn đưa vào chương trình giảng dạy
các cấp, kể cả chương trình dạy học ở miền Nam giai đoạn 1954 -
1975. Tiếng vang của phong trào Thơ mới cộng với việc được giảng
dạy, ca ngợi là một trong những lý do quan trọng khiến thơ Nguyễn
Bính, Hàn Mặc Tử tồn tại lâu dài trong ký ức của nhiều thế hệ.
Trong cuộc hiện đại hóa thơ ca Việt Nam, cả Nguyễn Bính lẫn Hàn
Mặc Tử đều thể hiện xuất sắc năng lực khám phá và thể hiện cái
tôi cá nhân độc đáo, khả năng diễn đạt phong phú ngôn ngữ tiếng
Việt hiện đại.
Trong công trình Ba đỉnh cao Thơ mới, nhà phê bình
văn học Chu Văn Sơn đã có cách chọn lựa và phân biệt khá thú vị
về ba nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới:
“Xuân Diệu thì mới nhất, còn Nguyễn Bính quen
nhất, trong khi Hàn Mặc Tử lại lạ nhất. Về sắc điệu trữ tình,
một người là ‘thi sĩ của tình yêu’, một người là ‘thi sĩ của thương yêu’, còn
người kia là ‘thi sĩ của đau thương’. Người này cầm cờ nhóm "Xuân
Huy", người kia lĩnh xướng "dòng thơ quê", người còn lại cai
trị "trường thơ loạn” [2].
Theo đó, có vẻ như Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đối
lập nhau, vì Nguyễn Bính tiêu biểu vì “quen nhất”, còn Hàn Mặc Tử
độc đáo ở sự “lạ”. Tuy nhiên, sự “quen - lạ” ở đây chỉ là cách
định danh theo kiểu tối giản cho dễ hiểu. Vì đánh giá Nguyễn Bính
quen thuộc là xét ở bình diện tiếp nhận của người đọc, còn cái “lạ”
của Hàn Mặc Tử chính là tư duy thơ độc đáo, là phong cách nghệ
thuật của nhà thơ.
Nói về các đặc điểm riêng của Nguyễn Bính và Hàn
Mặc Tử; mỗi người đều có những phát hiện và ý kiến bàn luận.
Nếu Hàn Mặc Tử làm thơ trong khoảng 10 năm và nổi tiếng ở thời kỳ
Thơ mới phát triển đỉnh cao là giai đoạn 1936 - 1939, thì con đường
sáng tạo của Nguyễn Bính dài hơn. Tác giả Tương tư làm thơ
khi mới 12, 13 tuổi và khẳng định vị trí quan trọng chủ yếu ở
chặng đường thơ 1940 - 1945. Năm 1940, Hàn Mặc Tử từ giã cuộc đời
về với Cõi Chúa trong đau đớn, bệnh tật, khi mới 28 tuổi. Nhà thơ “chân
quê” Nguyễn Bính đi qua được mốc lịch sử 1945, viết tiếp nhiều bài
thơ cho giai đoạn sau, nhưng cũng vội lìa bỏ cõi trần khi mới 48
tuổi (năm 1966). Tuy nhiên, xét xu thế vận động của nghệ thuật,
nhiều người vẫn nhận định Trường Thơ Loạn (Bình Định)
trong đó có Hàn Mặc Tử đã góp phần chính trong việc chuyển thơ
Việt Nam từ lãng mạn sang khuynh hướng tượng trưng, siêu thực ở giai
đoạn cuối của Thơ mới. Trong khi đó, Nguyễn Bính trước sau vẫn nằm
trong khung lãng mạn thuần khiết của Thơ mới giai đoạn đầu.
Điều mọi người dễ đồng cảm là xếp Nguyễn Bính
vào trường phái “chân quê”, vào nhóm các thi sĩ chuyên khai thác và
ca ngợi cảnh điền viên thôn dã. Thơ Hàn Mặc Tử, ngược lại, càng
lúc càng thâm nhập sâu vào thế giới siêu hình, với các biểu tượng
trăng, hồn, máu đầy bi thương, ám ảnh. Thế nhưng xét từ nguồn gốc
cảm hứng nghệ thuật, sự chi phối của văn hóa truyền thống, cách
chọn đề tài hay hiện thực phản ánh; chưa hẳn hai nhà thơ đã khác
nhau hoàn toàn.
Như vậy giữa hai đỉnh cao Thơ mới là Nguyễn Bính và
Hàn Mặc Tử không phải là khoảng cách khác biệt, mà chính là sự
tương đồng trong đời sống sáng tác và tư tưởng nghệ thuật. Đặt
Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử trong từ trường Thơ mới, còn có thể phát
hiện rằng những điểm khác biệt của hai tác giả cũng chính là
những điểm tương đồng và ngược lại.
Khảo sát tập trung vào ba đề tài hai nhà thơ cùng
quan tâm là: mùa xuân, thôn quê và sự ra đi (thời
gian, không gian và di chuyển), có thể phát hiện ra nhiều điều thú
vị mới từ tác phẩm của hai nhà thơ.
Thứ nhất là với đề tài mùa xuân. Nguyễn Bính nổi
tiếng vì có nhiều bài thơ hay viết về Tết và mùa xuân như: Mưa
xuân, Rượu xuân, Nhạc xuân, Thơ xuân, Xuân tha hương, Mùa
xuân xanh, Xuân về... Còn nếu phải thống kê một chữ "xuân"
trong thơ Nguyễn Bính e rằng con số này không nhỏ. Ngay trong bài Cô lái
đò dù không được xếp vào mảng đề tài thơ xuân cũng có ít nhất là 6
chữ “xuân”. Đọc thơ Nguyễn Bính mới thấy nhà thơ đã từng tin yêu, khao khát ở
cuộc đời biết bao. Con người hay mộng ước, dễ thất tình ấy đã được mấy mùa
xuân như ý?
Mưa xuân được viết năm 1936. 40 câu thơ 7 chữ thể
hiện câu chuyện tình yêu của một cô gái mới lớn rất duyên dáng, lôi
cuốn. Yếu tố tự sự kết hợp dòng cảm xúc da diết đã làm gia tăng hiệu quả
thuyết phục cho thi phẩm. Mưa xuân là bài thơ hay về mùa xuân
của Nguyễn Bính. Xuân về, Thơ xuân là những bài thơ xuân
đúng nghĩa nhất của Nguyễn Bính, là thơ Tết, thơ mong ước. Trong cảnh trăm hoa
khoe sắc, vạn vật nức xuân tâm, lòng thơ của thi nhân cũng bồi hồi lai láng:
Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai
(Thơ xuân)
Nhưng đến Rượu xuân, Nhạc xuân, Xuân tha
hương... thì tâm tình xuân của Nguyễn Bính đã nhuốm vị chua cay. Đọc Rượu
xuân có 8 câu nhưng thấy nhà thơ đa mang quá. Đã "cao tay nâng chén
rượu hồng" mừng xuân, mừng em đi "lấy chồng xuân nay",
nhưng còn trách móc, hờn dỗi:
Em đi dệt mộng cùng người
Lẻ loi chỉ một góc trời riêng anh.
Nhạc xuân có câu cuối đẹp nhưng vô cùng ám ảnh
về sự “còn - mất”:
Giờ đây chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi.
Nhiều người vẫn nghĩ so với Nguyễn Bính, Hàn Mặc
Tử ít viết về mùa xuân. Nhưng, thống kê trong các tập thơ của ông,
chỉ tính các bài thơ có chữ Xuân và Tết cũng có
khá nhiều, như: Ăn Tết, Ngày Tết xa nhà, Ngày xuân đi
chơi đề thơ ở Chùa, Sớm mồng một Tết đi xe lửa ra Huế, Sầu
xuân, Xuân hứng, Cưới xuân - cưới vợ, Xuân như ý, Xuân
đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện... Trong các bài thơ xuân của Hàn
Mặc Tử, bài Mùa xuân chín được đánh giá cao hơn cả. So
sánh hai thi phẩm Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) và Mùa
xuân chín (Hàn Mặc Tử) sẽ thấy rõ các điểm giống mà khác
độc đáo của hai nhà thơ.
Mùa xuân của Nguyễn Bính được bao phủ trong màu xanh. Định
nghĩa mùa xuân là mùa xanh cảm giác vẫn chưa đủ, nên thi sĩ phải thêm chữ “cả”
nhấn mạnh, khẳng định. Tám câu thơ 7 chữ, câu nào cũng có màu xanh. Từ cảm
giác choáng ngợp, ngất ngây trong sắc xanh bao la, không gian xuân được mở rộng
từ cao xuống thấp (trời xanh -> lá xanh -> đồng
lúa xanh -> cỏ xanh), từ gần đến xa, rồi xa lại gần (từ đồng
tôi -> đồng nàng -> đồng quanh; từ tôi -> lũy
tre làng -> dải thắt lưng xanh -> tôi). Trong con mắt
nhìn yêu thương của tác giả Lỡ bước sang ngang ta thấy chan chứa một
tình xuân, một niềm hy vọng thanh tân. Vậy nên câu thơ thứ 6 (Tôi đợi người
yêu đến tự tình) là câu duy nhất trong bài không nhắc đến màu xanh nhưng
chính màu xuân xanh lại bắt đầu từ đây, gây chú ý trong một chữ “đợi” giản
dị.
Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính là một mùa hy vọng. Nó bắt
đầu bằng tâm trạng chờ đón tình xuân thật hạnh phúc - tha thiết và tin yêu.
Điểm nhấn của bài thơ là hình ảnh “cái thắt lưng xanh” như một tín hiệu
xuân phấp phới từ đằng xa - ở cuối bài.
Cũng viết về mùa xuân như Nguyễn Bính, cũng sử dụng
các chất liệu quen thuộc như cỏ xanh, trời xanh, cô gái và tuổi xuân
xanh; nhưng bức tranh xuân trong Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
tạo ấn tượng chủ yếu bằng cảm giác hơn là màu sắc. Nói như nhà phê
bình Đỗ Lai Thúy: thơ Hàn Mặc Tử là sự hòa sắc của cả lãng mạn, tượng trưng
và siêu thực, nhưng lại phảng phất phong vị Đường thi và một chút không khí
Liêu trai [3].
Nhan đề hai bài thơ giống nhau, chỉ khác một chữ (tính từ): “xanh”
và “chín”. Nhưng từ một chữ ấy hé mở ý đồ nghệ thuật của hai
nhà thơ.
Nếu Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính là bản
hòa tấu nhiều cung bậc màu xanh (cao - thấp, xa - gần) và cảm xúc
(yêu thích - say đắm - hồi hộp), thì Mùa xuân chín của Hàn Mặc
Tử mở đầu và kết thúc bằng diễn trình của nắng (từ “làn nắng
ửng khói mơ tan” buổi sáng đầu xuân đến “nắng chang chang” cuối xuân
chuyển sang hạ). Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử không phải
một trạng thái, mà là sự vận động, chuyển đổi của một quá
trình. Bức tranh mùa xuân của hai tác giả ở phần đầu tương đối giống
nhau: một bên là đồng quê tươi xanh, một bên là làng quê đầm ấm.
Nhưng nếu màu xanh trong thơ Nguyễn Bính thân quen và tất yếu, thì
trong thơ Hàn Mặc Tử cái thực và cái ảo luôn chồng lấn, biến đổi.
Mở đầu bài thơ Mùa xuân chín là khung nền màu nắng ửng
hồng huyền ảo của một buổi mai xuân khi sương khói vừa tan, có những mái
nhà tranh màu vàng đậm nhạt điểm xuyết “lấm tấm”. Hai câu đầu rất cổ điển
nhưng đến câu thơ thứ ba đã hiện đại, nhất là chữ “trêu” tinh nghịch đặt giữa
câu (Sột soạt gió trêu tà áo biếc). Cảm giác ngượng nghiụ, hồi hộp khi
chờ đón tin xuân. Mùa xuân đang đến, đang đến... Dấu chấm đột ngột mà rụt rè
giữa câu thơ thứ tư tựa như dấu chân mùa xuân đang đến: im lặng mà âm vang!
Mùa xuân quen thuộc mà lạ đến ngỡ ngàng. Xuân in bóng trên giàn thiên lý: bất
ngờ, lộng lẫy. Chữ “bóng” hư ảo đứng cạnh, khiến chữ “xuân” rất thực
thành khoảnh khắc nhiệm màu, kỳ diệu của tâm linh. Còn nghe âm vang xao xuyến
đâu đây lời thơ Hàn Mặc Tử trong Xuân như ý :
Chàng ơi! Chàng ơi! Sự lạ đêm qua
Mùa xuân đến mà không ai biết cả!?
Tình xuân e ấp như cô gái quê đang độ xuân thì. Đến đây cảm
xúc đã ngân lên thành giai điệu:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Từ “cỏ non” trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du đến “cỏ” trong Thơ mới và trong thơ đương đại là những
đường xanh kết nối thú vị trong trường liên tưởng thi ca. Trong Mùa
xuân xanh, cỏ bình yên, đợi chờ, hy vọng (cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh).
Trong Mùa xuân chín, là sóng cỏ: cuồn cuộn, nhấp nhô, uốn lượn. Cỏ
không bình yên! Tiếng hát như hương xuân dâng tràn, quấn quít, lan tỏa trong
không gian. Cỏ thật không là cỏ, bài ca chẳng phải bài ca và mùa xuân là tất
cả những gì trong trẻo, nên thơ, quyến rũ nhất của đất trời vạn vật kết tinh,
tụ hội nên. Trái xuân chín tới, hương vị xuân ngọt ngào, đắm đuối, nhưng bên
trong đã có chút dự cảm xót xa. Thi sĩ nào cũng quá nhạy cảm với số phận
ngắn ngủi của cái Đẹp.
Không hốt hoảng như Xuân Diệu:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
nhưng thời gian cũng làm nhà thơ khắc khoải. Những đoạn
liên tưởng hết sức ngẫu nhiên đan xen (Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.../
Chị ấy năm này còn...) làm tình xuân đột nhiên sâu lắng xuống và tứ thơ dường
như được khơi gợi từ đây. Ngày mai mùa xuân sẽ không còn nữa, những cô gái đẹp
cũng sẽ phai nhạt tuổi xuân. Khúc du xuân cũng là khúc chia ly - chia ly
tuổi xuân xanh. Dành tới cả một đoạn thơ 4 câu để miêu tả tiếng hát, nhà thơ
như muốn níu kéo, giữ lại một cái vô hình đang tan biến: âm thanh của tình
yêu, của mùa xuân. Chút tình quê tha thiết làm nên sự thiên vị đó. Tuổi xuân
của các cô gái quê mình ngắn ngủi biết bao. Mới đây còn e thẹn ngại ngùng khi
mặc áo mới đón xuân, giờ đã sắp giã từ tuổi xuân đi theo chồng. Dòng hồi ức
quay về quá khứ, nhưng thời gian vẫn đang chảy tới tương lai. Ngày mai của
các cô gái sẽ là chị ấy hôm nay? Và nét đẹp xuân thì, tươi non hôm nay chính
là hình bóng “chị ấy” hôm qua?
Kết thúc bài thơ Mùa xuân xanh là chi tiết
cái “thắt lưng xanh” tượng trưng cho vẻ đẹp thanh xuân, cho hội ngộ
yêu thương. Kết thúc bài thơ Mùa xuân chín cũng nói về người
phụ nữ, người chị tần tảo, nhưng là câu hỏi; không phải để hỏi mà như
đang tự vấn trong ký ức ngậm ngùi. Chữ "khách xa" giống với
"khách đường xa, khách đường xa" trong Đây thôn Vỹ Dạ. Có lẽ
28 năm của cuộc đời ngắn ngủi, đau đớn, Hàn Mặc Tử vẫn nghĩ mình là khách, là
hành nhân, đi tìm một mùa xuân vĩnh cửu, không chói chang trắng xóa bờ bãi cô
đơn, không nhức nhối đau thương.
Nếu Mùa xuân chín có cấu trúc phức hợp,
tạo sự vận động dưới bề mặt tĩnh, tạo sự đan xen của hai yếu tố
thực và ảo, thì Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính có cách
sắp xếp giản dị nhưng chặt chẽ, linh hoạt dựa vào điểm nhìn của
nhân vật trữ tình. Bài thơ chỉ có 2 khổ, khổ đầu tả sắc xuân, khổ
thứ hai tả tình xuân. Câu thơ “Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh” nằm ở vị
trí giữa bài thơ, như vô tình mà ám ảnh khôn nguôi! Trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, chẳng phải số phận nhân vật chính Thúy
Kiều cũng bắt đầu từ ngôi mộ nàng Đạm Tiên trong tiết Thanh Minh đó
sao? Bài thơ không nhắc đến sự vận động của thời gian và nhiều
người đọc ngộ nhận bức tranh xuân của Nguyễn Bính vô cùng tĩnh
lặng. Nhưng chữ “đợi” lặp lại hai lần trong bài thơ thể hiện trạng
thái âu lo và những dự cảm bất an được giấu kín bên trong câu chữ.
Sự vượt trội của Nguyễn Bính chính là ở chỗ này, bên trong cái
giản dị, dễ hiểu luôn hàm chứa chiều sâu của thân phận con người
và nỗi cô đơn ám ảnh. Sức gợi từ câu thơ thứ 5 trong bài cũng
giống như hai đoạn liên tưởng trong bài thơ Mùa xuân chín.
Như vậy, Nguyễn Bính cũng như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu
và các nhà Thơ mới nói chung, đều là những người nhạy cảm với
bước đi của thời gian. Đây cũng là chỗ mâu thuẫn, khác biệt giữa
truyền thống phương Đông và văn minh Phương Tây. Trong cơn va chạm đó,
nếu Xuân Diệu “vội vàng” gia tăng cả tốc độ và cường độ chạy cho
kịp với thời gian, thì Hàn Mặc Tử tìm kiếm sự phi thường vượt ra
khỏi cái giới hạn bình thường của thời gian. Với Nguyễn Bính, nhiều
người vẫn nghĩ ông tìm về thời gian quá khứ và làng quê làm cứu
cánh, chỗ dựa. Nhưng tác phẩm Mùa xuân xanh trả lời rằng
một mùa xanh miên man là hình ảnh trong mơ ước, còn thực tế con
người hiện đại của nhà thơ vẫn chờ đợi một tình yêu đích thực
với cuộc sống thực.
Thứ hai, Nguyễn Bính là nhà thơ viết nhiều và viết
hay về đồng quê, nếp cũ, đến mức tên nhà thơ đóng đinh với đề tài
này. Nhưng, thực tế cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều quay về quê
kiểng, cội nguồn bằng tâm hồn của người Việt trong cơn chuyển
dịch đô thị hóa diễn ra vào những thập niên đầu thế kỷ
XX. Chỉ cần mở tập Tâm hồn tôi (1940) của Nguyễn Bính là
đã thấy hầu hết các bài thơ trong đó khai thác vẻ đẹp của làng
cảnh, nếp sinh hoạt nông thôn như: Bến sông, Cây bàng cuối
thu, Chân quê, Chờ nhau, Chùa vắng, Giấc mơ anh lái
đò, Hoa cỏ may, Người hàng xóm, Qua nhà, Thư gửi
thầy mẹ, Thi vị, Xuân về,... Hàn Mặc Tử trong tập Gái
quê cũng có nhiều bài thơ hay, chân chất về tình quê, tình làng
như: Tình quê, Gái quê, Lòng quê, Duyên muộn, Đời
phiêu lãng, Một đêm nói chuyện với gái quê,... Điều thú vị là
trong khi Nguyễn Bính vẽ nên nhưng câu chuyện đời sống điền viên đậm
màu cổ tích, đẹp lãng mạn và thi vị; thì Hàn Mặc Tử bao giờ
cũng mô tả thật và thường xen trong đó những suy tư, liên tưởng về
số phận người nông dân. Bài Tình quê là một trong những
bài thơ hay, được nhiều biết của Hàn Mặc Tử. Bài thơ thể 5 chữ,
tiết tấu linh hoạt, lời thơ trong sáng, cảm xúc lãng mạn:
Trước sân anh thơ thẩn.
Đăm đăm trông nhạn về;
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
nhưng xen trong thơ bài còn có những câu thơ gợi nhớ
về nỗi buồn khổ, hay tâm sự đau thương của con người, như:
Tiếng buồn trong sương đục
Tiếng hờn trong lũy tre...
Và:
Với ngày xuân hờ hững
Cố quên tình phu thê...
Trong bài Lòng quê cũng có những câu da
diết nỗi niềm:
Không biết ở thôn quê
Em có gầy như liễu
Hay buồn như đám mây....
Cảm xúc của nhà thơ dành cho người phụ nữ, người
chị, người em gái quê luôn xuất phát từ lòng yêu thương, sự thấu
hiểu chân thành. Bài Duyên muộn của Hàn Mặc Tử khiến
người đọc liên tưởng đến hình ảnh người chị quê tần tảo trong
truyện ngắn của Thạch Lam, Thanh Tịnh giai đoạn trước 1945:
Người nói duyên em đã muộn màng
Bởi vì nghèo khó chẳng xênh xang
Nhưng xuân em chín từ năm ngoái
Há phải vì em áo nối quàng.
Suy cho cùng, tình yêu quê hương, nguồn cội cũng
chính là tình đất nước, tình dân tộc. Theo lý giải của nhà nghiên
cứu Hoàng Thị Huế trong Thơ mới: Nhìn từ quan hệ văn hóa - văn
học [4],
các nhà Thơ mới trong đó có Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử đã xuất phát
từ cảm quan văn hóa dân tộc, kết hợp với tư tưởng mới của phương
Tây, phát hiện ra thiên nhiên, đất nước với những vẻ đẹp, màu sắc
mới. Nếu Hàn Mặc Tử bộc lộ tình thương yêu những người nghèo khó,
thân phận bi thảm, thì Nguyễn Bính khách quan hơn. Thơ ông vẽ nên
cảnh trầu - cau, bến - thuyền, anh lái đò, cô gái dệt lụa, ươm tơ
vàng óng, giậu mồng tơi, cánh đồng xanh, cái yếm đào, hội chùa...
thanh bình, hạnh phúc, bằng màu sắc hiện đại, bằng cái nhìn thú
vị, mới mẻ. Đối với bài Tương tư, nhiều người thường chỉ phân
tích thôn Đoài, thôn Đông, lá xanh - lá vàng - đầu đình - đò giang,
đến đường làng - hàng cau - vườn trầu và bướm hoa..; mà quên mất
tâm trạng “chín nhớ mười mong” của kẻ tương tư. Bài Chân quê cũng
vậy. Vấn đề không phải là chuyện cái áo hay trang phục bề ngoài
của cô gái. Qua thể hiện của nhà thơ, người đọc thường bênh vực cho
truyền thống và thói quen, cho rằng “cái áo tứ thân, cái khăn mỏ
quạ, cái quần nái đen” là đẹp và hợp với cô gái quê hơn cả. Nhưng
ai cũng hiểu “khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm” mới là hiện
đại, tân thời. Mà thường cái gì mới cũng có sức hấp dẫn, lôi
kéo. Tội lỗi là do cô gái đã “vượt biên” ra khỏi lũy tre làng, thay
đổi môi trường sống nên suy nghĩ, tư tưởng cũng thay đổi. Cái áo
mặc ngoài có thể thay dễ dàng, còn tâm hồn con người bên trong khi
đã khác (Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều), thì sự mất mát sẽ
là tất yếu. Thi phẩm Chân quê độc đáo ở chỗ nó vẽ nên
một bức tranh quê rất êm đềm, thi vị, có con đê đầu làng, có nàng thôn
nữ, có lễ chùa, có “hoa chanh nở giữa vườn chanh”, có gia đình đầm
ấm với “thầy u”- con trẻ và có tình yêu bộc lộ kín đáo, ý nhị.
Đằng sau tấm hình đẹp thấm đẫm hồn quê ấy, không thể không nhận ra
sự thay đổi tất yếu của thời đại, của con người. Nguyễn Bính cũng
như Vũ Đình Liên với Ông đồ đã bày tỏ nỗi e ngại trước
những xáo trộn do tác động của quá trình đô thị hóa, do ảnh hưởng
của văn minh phương Tây. Nguyễn Bính giống Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân,
Anh Thơ ở ý thức lưu giữ các giá trị văn hóa dân tộc; nhưng khác
nhiều người ở chỗ miền quê không chỉ là hiện thực (hay hiện thực
của quá khứ) mà nó được nuôi dưỡng trong chính tâm hồn ông. Nhà thơ
không “đi tìm thời gian đã mất” vì ông luôn có nó, dùng nó để cắt
nghĩa thực tại.
Đề tài quê hương hay làng quê có tính truyền thống
trong văn chương xưa nay. Cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều quan tâm
đến đề tài này. Nhưng có vẻ như Hàn Măc Tử thiên về tả thực hơn
cả Nguyễn Bính. Trong bài Đây thôn Vỹ Dạ, ở khổ thơ đầu, cảnh
vườn Vỹ Dạ được tả rất thực, từ không gian, thời gian, màu sắc,
đường nét và cả địa điểm cũng được xác định cụ thể. Bài thơ độc
đáo ở chỗ tư duy thơ vận động rất nhanh từ cái rất thực đến cái
siêu thực. Nguyễn Bính ngược lại, ông chọn chốn quê bình yên, như
cách bù trừ cho tâm trạng cô đơn, xáo động khi dấn thân giang hồ và
bị lạc lõng nơi đô thị. Giống như Vũ Bằng viết Thương nhớ mười
hai trong áp lực nhớ thương đất Bắc khôn nguôi và nỗi đau đất
nước bị chia cắt; Nguyễn Bính cũng viết về miền quê, chốn cũ khi
đã từ bỏ “vườn cam, mái gianh”, đã trót “dan díu với kinh thành”.
Đề tài “Chân quê” là cách lựa chọn khôn ngoan đúng sở trường của
nhà thơ, để không bị trộn lẫn với rất nhiều giọng điệu khác trong
dàn hợp xướng Thơ mới. Trong khi Hàn Mặc Tử có khi còn kêu gọi “Sao
anh không về chơi thôn Vỹ?”, Nguyễn Bính dù luôn đắm đuối với đời
sống thôn quê thi vị, vẫn thể hiện cái nhìn tỉnh táo từ thực tại:
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
(Hành phương Nam)
Hay xót xa tự hỏi:
Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn
Anh về quê cũ có buồn không anh?
(Anh về quê cũ)
Có thể khẳng định rằng không phải cứ viết trong
thơ: đồng ruộng, cây đa, con đò, trầu cau... là thành quê, thành
chân chất, mộc mạc. Nguyễn Bính là nhà thơ thể hiện thành công
nhất đề tài làng quê, nhưng đó còn là cái cớ, là phương tiện để
nhà thơ bộc lộ cảm xúc, khám phá cái tôi, con người cá nhân của
thời đại mới. Bên trong hình ảnh đồng quê thi vị là nỗi sầu đô thị
của thi nhân. Vây nên, thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều có chung
tâm trạng mâu thuẫn là vừa tha thiết gắn bó với quê hương, vừa có
cảm giác cô đơn, xa cách với chính quê hương mình.
Thứ ba, cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều thể
hiện việc đi đó, đi đây, sự dịch chuyển, nhưng với thơ Nguyễn Bính
đây là đặc tính. Nguyễn Bính được mệnh danh là “kẻ nghiện sông hồ”,
là nhà thơ của nỗi buồn tha hương, ly hương. Ca ngợi đời sống bình
yên thôn dã, song trong nhiều tác phẩm Nguyễn Bính là dày đặt những
địa danh, những chuyến đi từ Nam tới Bắc có thực. Nhà thơ viết như
ghi chép lộ trình cụ thể:
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây
(Giời mưa ở Huế)
Tuy không gọi chuyện lên đường là để “thay đổi thực
đơn cho giác quan” như Nguyễn Tuân, nhưng Nguyễn Bính cũng thích sự
trải nghiệm và khám phá cái mới. Có khi từ Bắc nhân vật trôi dạt
trời Nam (Hành phương Nam), có khi Tết đến mà nương náu tận miền
biên cương heo hút (Tết biên thùy):
Ngồi xếp bằng tròn trong ải lạnh
Nửa đêm trừ tịch bỗng dưng sầu
(Tết biên thùy)
Cảm giác lạc lõng, nhớ nhà, nhớ người thân cũng
đầy dư vị:
Chén rượu tha hương, trời: Đắng lắm!
Trăm hờn, nghìn giận một mùa đông
Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng
(Xuân tha hương)
Bài thơ Chú rể là anh là bài thơ vui, tả
nhân vật là người thích ngao du, vẫy vùng:
Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ
Đây đó lan dài gót lãng du
Về chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn
Như mây mùa thu, lá mùa thu...
Trong thơ Nguyễn Bính, các nhân vật, sự vật đều rộn
ràng đi - về với nhiều lý do và không có lý do. Trong Mưa xuân,
cô gái náo nức đi xem hội và buồn bã, thất vọng quay về - một dải
đê mà khi thấy gần, khi thấy đi rất xa! Trong Chân quê, là chuyện
bỏ quê lên thành phố và khi quay về, từ đầu làng đã làm người yêu
hoang mang vì ăn mặc đổi khác. Trong Hoa và Rượu là chuyện
người con trai đam mê giang hồ bỏ quê, bỏ mối tình thời thơ ấu. Đến
cả chiếc lá cũng bay lìa cành, cả đàn kiến cũng xôn xao trên thêm
cũ, cả trên trời cũng “tha hồ mây trắng bay”... Có lẽ sự vận động
biến đổi nhanh chóng của thời đại mới và quá trình đô thị hóa,
đã khiến các nhà Thơ mới tích cực dấn thân, có nhu cầu tìm kiếm
cái mới. Nhưng điều kiện xã hội, môi trường sống không làm họ thỏa
mãn, nên họ dễ hy vọng và cũng thường thất vọng. Bên trong thái độ
tự giễu cợt mình, có khi là nỗi đau bất đắc chí:
Hỡi người đi gió về mưa
Có xây dựng nổi cơ đồ gì không?
Đã đành nhớ núi thương sông
Nằm đây xa cách muôn trùng ải quan
(Nam Kỳ cũng gió và mưa)
Cũng như Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử thường nhắc các
địa danh như: Đà Lạt, Phan Thiết, Huế, Sông Hương, Vỹ Dạ,.. Thi sĩ
hay nói chuyện đi, chuyện “xê dịch”, nhưng mục tiêu đi hay đích đến
bao giờ cũng mơ hồ, khó xác định. Câu thơ thể hiện quan niệm thơ
Hàn Mặc Tử rõ nhất là:
Đi đi... đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường, cái ước mơ
(Đời phiêu lãng)
Nhà thơ thường lặp đi lặp lại những từ “khách”, “khách
đường xa” và cũng hay nói về mất mát, chia ly:
Ta là khách bơ vơ phàm tục
Nhớ cầm trăng cung bậc tiêu tao
Không ai trang điểm má đào
Cho ta say chết đêm nào đêm nay.
(Say
chết đêm nay)
Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
(Những giọt lệ)
Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất
Bay từ Dao Ly đến trời Đâu Suất; [...]
Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
(Phan Thiết, Phan Thiết)
Nhạy cảm về cuộc đời ngắn ngủi khiến thơ Hàn Mặc
Tử thường vẽ nên chuyến đi đến tương lai buồn và cô đơn:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy Nàng Tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”
(Những giọt lệ)
Trong khi Nguyễn Bính mang thân phận “con chim lìa đàn”,
thì Hàn Mặc Tử là ngôi sao cô đơn bay vụt qua bầu trời huyền bí.
Họ cùng ở trong bầu trời Thơ mới, mộng ước giống nhau, nhưng đường
đi khác nhau. Nguyễn Bính trong thơ và trong đời thực đều đi xa nhiều
chuyến, trải nghiệm nỗi ly hương, nhớ nhà nhiều lần, khát khao tìm
kiếm cái mới và thất vọng cũng không ít. Nhưng Hàn Mặc Tử phần
lớn là phiêu lưu trong mộng ảo. Nhà thơ hướng đến thế giới siêu
hình và sự giải thoát thân xác ra khỏi những giới hạn khổ đau của
hiện thực.
3. Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử là những đỉnh
cao của Thơ mới. Họ không tách biệt mà gặp nhau ở tài năng. Họ vượt
trội so với nhiều nhà thơ cùng thời cũng nhờ tài năng. Xét từ
phương diện tiếp nhận văn học, thơ Nguyễn Bính và thơ Hàn Mặc Tử
không phải khác nhau ở đề tài hay nội dung viết về cái gì, mà quan
trọng hơn là viết hay về cái gì và cách biểu hiện cảm xúc chân
thực, lôi cuốn người đọc.
Lý giải về sức sống mãnh liệt và sự lan tỏa của
thơ Nguyễn Bính không thể nghĩ đơn giản là Nguyễn Bính viết giống
ca dao, nên dễ đọc, dễ thuộc. Hơn nửa thế kỷ đã đi qua từ khi nhà
thơ từ bỏ cuộc đời, nhưng thơ ông vẫn tiếp nối sự sống cho ông và
sẽ còn sống lâu hơn nữa. Một điều cần chú ý và cần khẳng định
là tính giải trí rất cao đi kèm với các giá trị lớn khác trong
thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính nói về tình yêu rất tự nhiên mà duyên
dáng, kiểu như:
Giá đừng có dậu mồng tơi/ Thế nào tôi cũng sang
chơi nhà nàng (Cô hàng xóm)
hay nói đến tâm sự thất tình đau khổ mà vẫn rất
sang trọng, phóng khoáng và sâu sắc:
Chiều nay, thương nhớ nhất chiều nay/ Thoáng bóng em
trong cốc rượu đầy/ Tôi uống cả em và uống cả.../ Một trời quan
tái mấy cho say” (Một trời quan tái)
Thơ Nguyễn Bính không cần gọt tỉa kỳ khu, không
triết lý nặng nề, không có nhiều ẩn dụ, biểu tượng, nhưng không
hời hợt, nông cạn. Ông đem đến cho người đọc sự chia sẻ, sự đồng
cảm và hơn hết là niềm vui vì được hưởng thụ chữ nghĩa, sự thõa
mãn về nhu cầu cảm xúc cá nhân.
Chú thích:
[1] Hoài Thanh, Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam.
Nxb. Văn học (tái bản theo bản in đầu 1942 của Nguyễn Đức Phiên); H,
1988; mục “Nguyễn Bính” từ trang 343 đến 350; tr.343 ghi Nguyễn Bính sinh
năm 1919?
[2] Chu Văn Sơn: Ba đỉnh cao Thơ mới (Xuân Diệu
- Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử). Nxb. Giáo dục, H., 2003 (trích “Lời mở đầu
sách).
[3] Đỗ Lai Thúy: Con mắt thơ. Nxb. Lao Động, H.,
1994, tr.149.
[4] Hoàng Thị Huế: Thơ mới: Nhìn từ quan hệ
văn hóa - văn học. Nxb. Hội Nhà văn, H., 2014, tr.217-247.
6/8/2018
Nguyễn Thị Thu Trang
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét