"Lũ buồn hoang" và
Không phải ngẫu nhiên, Miên Di
đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là “Lũ buồn hoang”, một cái tên vừa quen lại
vừa lạ. Quen, vì thơ viết về nỗi buồn, không phải là điều xa lạ với vũ trụ thi
ca. Bởi, nỗi buồn xưa nay vốn là một “đặc sản”, một “hằng số” của thơ mà đã là
thi nhân, ít ra cũng có một từ, một câu, một bài thơ viết về nỗi buồn và những
câu thơ ấy đã găm vào tâm cảm người đọc những dấu ấn khó phai mờ.
Bìa tập thơ “Lũ buồn hoang”
1. Đó là những câu thơ chất chứa một nỗi ưu lo đến cháy
lòng trước thời thế của Tú Xương: “Trời không chớp bể cũng mưa nguồn/ Đêm nảo
đêm nao tớ cũng buồn.”, là những câu thơ buồn mà đẹp của Xuân Diệu trong Đây
mùa thu tới: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn
hàng”, hay những câu thơ xao xác một tiếng lòng thổn thức của Huy Cận trong Nhạc
sầu: “Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!/ Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường.”…Nhưng
lạ, vì cách định danh lũ buồn hoang như tên gọi tập thơ của Miên Di quả là điều
độc đáo, thể hiện một sự sáng tạo của thi nhân. Nỗi buồn ở đây không còn là một
“tính từ” chỉ cảm xúc như ta vẫn gặp mà đã trở thành một thân phận, một hiện hữu,
một định mệnh ám ảnh cả một kiếp nhân sinh, không chỉ riêng phận số nhà thơ mà
còn biết bao phận số khác trong cõi nhân gian đầy bất an này.
Đọc “Lũ buồn hoang” ta như thấy tâm hồn thi nhân trôi trong
dòng sông mà ở đó, nỗi buồn đã trở thành những lớp sóng ngữ ngôn vỗ về, xô đẩy,
lan tỏa cảm xúc của nhà thơ, chiếm lĩnh tâm thức, tâm cảm người đọc. Điều này
được thể hiện rõ trong các tứ thơ, các tựa đề bài thơ mà thi nhân đã lựa chọn
như một tâm thức hiện sinh mà khi đọc lên ta không khỏi thấy nao lòng và tự hỏi
sao cuộc đời lại có quá nhiều trạng thái buồn đến như thế!? Đó là mảnh buồn đan
kín trong nỗi cô đơn thân phận như một định mệnh: “Thuyền đâu tự biết lẽ loi/
Cô đơn vào đáy mắt tôi mảnh buồn” (Mảnh buồn). Và nỗi buồn không chỉ dăng mắc
trong phận số con người mà còn vây phủ cả tự nhiên như một thứ hương thơm đầy
huyễn hoặc: “Trên thân thể của bông hoa/ Nỗi buồn cũng rất ngọc ngà. Và thơm”
(Buồn hoa). Không những thế, trong cảm nhận của Miên Di nỗi buồn như một sinh
thể, ở đó không chỉ có niềm đau mà còn có cả niềm yêu thương mà con người chỉ
có thể cảm nhận được nếu chạm đến ngọn buồn, hay nói cách khác là phải sống đến
tận cùng với nỗi buồn, với niềm đau thân phận: “Trèo lên ngọn của nỗi buồn/ Thấy
như đứa trẻ thủa còn leo cây/ Thò tay hái ít thơ ngây/ Bỏ vào túi áo cho đầy
yêu thương…. Nỗi buồn trên ngọn rất hiền/ Trèo lên mới thấy hết miền cõi yêu.”
(Trên ngọn buồn) Có thể nói, đây là một liên tưởng lạ không chỉ trong ý tưởng
mà cả trong việc sáng tạo hình tượng thơ. Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến khúc
tình ca Trên ngọn tình sầu của Từ Công Phụng phổ thơ Du Tử Lê, một bài hát đã
trở thành nỗi ám ảnh đối với tôi cũng như bao thế hệ thanh niên ở miền Nam trước
1975. Không biết, khi Miên Di viết “trên ngọn buồn” có liên tưởng gì đến hình
tượng “ngọn tình sầu” trong khúc tình ca bất hủ này không, nếu có cũng là chuyện
bình thường của qui luật “liên văn bản” trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng dẫu
sao, việc sáng tạo những hình ảnh thơ đẹp và quyến rũ khi viết về nỗi buồn
trong thơ Miên Di hay nỗi sầu trong nhạc Từ Công Phụng, theo tôi đều đáng trân
trọng. Bởi, nỗi buồn và niềm đau xứng đáng được tôn vinh trong văn chương qua
những hình tượng văn học đẹp và độc đáo như thế. Điều này ta còn bắt gặp ở nhiều
câu thơ khác của Miên Di như “ngày ngày dạy lũ buồn ngoan/ Có đau cũng phải đau
ngoan, nhen buồn!” (Buồn ngoan); “Em dừng lại nơi đoạn đời tấp nập/ anh như ngã
ba buồn chấp chứa kẻ hỏng xe/ lặng lẽ vá nổi buồn nhau một chốc/ rồi lại đi
không phải nhớ nhung gì” (Vá buồn); “Vào những chiều đói nỗi buồn khôn tả/ Ta
như con thú cuồng nhấm máu vết thương lâu” (Đói buồn); “Màn đêm bọc tiếng thở
dài/ Co ro như một bào thai trong buồn” (Bọc buồn)… Như vậy, trong tâm thức của
Miên Di buồn như một “bào thai” đã có từ tiền kiếp, để đến hôm nay hiện hữu
trong cõi đời như một tất yếu của kiếp nhân sinh.
2. Đọc thơ Miên Di, ta thấy nỗi buồn không chỉ có ở những
bài thơ có tựa đề “Buồn” mà ngay cả ở những bài thơ khác, ta cũng thấy có những
câu thơ mà dư vị của nỗi buồn cũng mặn chát nỗi đớn đau của thân phận với nhiều
cung bậc cảm xúc khác nhau, trải dài trong phận số không chỉ của thi nhân mà
còn của những con người mà thi nhân đã gặp gỡ, đã yêu thương, đã sẻ chia trong
cõi nhân sinh. Đó là nỗi buồn bỏng cháy tâm hồn của những kẻ “thiếu quê hương”
mà từ góc nhìn hiện sinh cảm thức “thiếu quê hương” này chính là cảm thức lạc
loài của thân phận mà không ai trong cuộc đời lại không trải qua những khoảnh
khắc như thế: “Bỡn cợt với nét mày châu/ Vì nhau ai nỡ nêm đau vào buồn… Thử
làm một kẻ lưu vong/ Quê hương thất thểu ở trong nỗi buồn” (Bài thơ viết cạnh
dòng sống). Nỗi buồn trong thơ của Miên Di, vì thế, là nỗi buồn, ở đó, ta như bắt
gặp những trải nghiệm trong cuộc sống của thi nhân trên nhiều phương diện mà điều
ám ảnh thi nhân nhất là nỗi buồn trong tình yêu với những yêu thương, những đổ
vỡ, những mất mát, hạnh phúc, khổ đau: “Tôi tu bằng cuộc tình buồn/ Chân như
mơn mởn trên cồn cỏ hoa” (Khúc tu phiền). Để rồi, điều ấy đi vào tâm cảm thi
nhân và neo đậu ở đó như một ký ức buồn: “Cảnh buồn như một tâm tư/ mây trôi gợi
những từ từ xa nhau/ Bây giờ em ở nơi đâu/ Tôi buồn qua phố một câu hỏi này/ Em
đi bỏ lại bóng gầy/ vào đêm vắng vắng vào ngày vơi vơi/ Đôi chim ân ái trên trời/
bỏ tiếng hót lại cõi người buồn thiu” (Lạc rồi). Không chỉ là ký ức buồn mà
trong thơ Miên Di nỗi buồn còn là ngôi nhà của hữu thể, ở đó thi nhân đã “trang
trí” bằng những nỗi buồn riêng: “Trong nội thất của nỗi buồn/ Tôi trang trí những
hình tròn và cong/ Để khi bị ngã bên trong/ Luôn va phải một cõi lòng rất em.”
(Trang trí) Và, trong ngôi nhà hữu thể ấy, những nỗi đau, những vui buồn của cuộc
sống đều được thi nhân gởi vào trong đó, để chiêm nghiệm, để cảm nhận và để sống
với nó như một phần tất yếu của hiện hữu: “Có thay vui buồn thì cũng phải buồn
vui/ Yêu từng cơn mà bên nhau cả cuộc/ Hạnh phúc khi buồn là hạnh phúc rất vui/
Em nhặt rau thấy phần bỏ đi giống như mình yêu thương nhau/ mà chọn lấy phần
tươi tốt/ Nên những ngày tháng chan chung nồi canh xanh ngọt/ Mà riêng nhau ua
úa nỗi niềm/ Mình đã bỏ nhau khi còn chung bữa/ Nhặt dần vui ra khỏi nỗi buồn.”
(Vợ đi lấy chồng)
Có thể nói, những nỗi buồn mà thi nhân đã “nhặt” được từ cõi
nhân gian từ những mất mát của tình yêu, tình vợ chồng, đối với một số người
trong xã hội hiện đại, nhiều khi, không phải là điều đáng để họ quan tâm thì
trong thơ Miên Di, ta thấy ở đó những dằn vặt đến đơn đau và là nhân tố tạo nên
dự phóng sáng tạo mà nếu không có nó, chắc chắn sẽ không có những câu thơ viết
về nỗi buồn thê thiết đến như thế!? Song, bên cạnh những nỗi buồn đầy vị đắng
chát trong tình yêu, tình chồng vợ, đọc thơ Miên Di ta còn thấy sự ám ảnh của
những nỗi buồn về thân phận, mà sự nghiệm sinh trong những tháng năm “làm kiếp
con người” (từ dùng của Trịnh Công Sơn) đã giúp thi nhân nhận ra những điều ấy
với những rung cảm tinh tế nhất, của tâm hồn nghệ sĩ, trước từng khoảnh khắc của
hiện hữu mà nếu không có những phẩm tính này, sẽ không có một Miên Di -Thi
nhân với nhiều trở trăn, ưu lo về thế sự: “Những bửa cơm dẫn ta đi biền biệt/ bữa
cơm buồn/ rồi lại bữa cơm” (Thời vắng sống) “Chạm vào tuổi bốn mươi/ Buổi trưa
vội vã/ Những cành lan không chồng vẫn sinh nở/ tờ báo trên mặt bàn dang dở/ đời
chỉ là những mẫu tin nhanh/ Ta không kịp sống đến tận cuối những tin buồn/ với
nhau cũng vậy… Tuổi bốn mươi/ khoảng giữa của vui buồn/ như khoảng giữa của từng
lựa chọn/ ta vò tóc trên đầu như sóng bạc/ Khúc xé mình đến đoạn rẽ sông.” (Tâm
sự tuổi bốn mươi)
Hay nỗi xót ra về sự “ra đi” đầy bi thiết của người Bà trong những ngày tháng đói nghèo mà khi đọc lên lòng ta không khỏi thấy chênh chao một nỗi đau thân phận: “Cả đời bà chẳng được quà/ Bà đi vào lúc cả nhà thiếu ăn/ Tiễn đưa chỉ có vành khăn/ và ba tất đất lạnh tanh ngoài đồng.” (Cuối năm thăm mộ Bà)
Hay nỗi xót ra về sự “ra đi” đầy bi thiết của người Bà trong những ngày tháng đói nghèo mà khi đọc lên lòng ta không khỏi thấy chênh chao một nỗi đau thân phận: “Cả đời bà chẳng được quà/ Bà đi vào lúc cả nhà thiếu ăn/ Tiễn đưa chỉ có vành khăn/ và ba tất đất lạnh tanh ngoài đồng.” (Cuối năm thăm mộ Bà)
Sống ở đời, không ai không đối mặt với những lo toan, phiền
muộn và những điều ấy nhiều khi có thể đẩy ta vào bi kịch buộc ta phải tìm đến
một sự lựa chọn hiện sinh, để rồi chính ta phải tự trả lời câu hỏi: tồn tại hay
không tồn tại? hiện hữu hay không hiện hữu!?. Không ai có thể sống thay cuộc đời
của người khác và vì thế, không ai có thể vui buồn thay cho người khác. Bởi, những
buồn vui trong cuộc đời chính là một căn phần của hiện hữu tự nó sẽ làm nên
nhân vị của phận số mỗi người. Hơn ai hết, là một thi nhân, Miên Di đã nhận
chân được sự tất yếu này nên trong thơ anh, những diễn ngôn viết về nỗi buồn
cũng là những thông điệp nhân văn mà tác giả muốn chia sẻ với người đọc “Vì mỗi
ngày ta làm người tỉnh táo/ Tự chôn trong lẽ chết từng ngày/ Ta sống như bạt
ngàn ngôi mộ/ Nằm im im trên buổi chiều buồn” (Bài thơ mất trí); “Những ngày khổ
đã thành máu thịt/ Con chó buồn bỏ nạc nhớ khúc xương” (Những ngày khổ); “Tao vẫn
nhứ cái thằng nhiều khát vọng/ mơ ước mơ dễ phủ được thế thời/ giờ phụ vợ bưng
nỗi buồn xó bếp/ thương nó cái nhìn vẫn khao khát như xưa” (Bạn); “Buồn như gỗ
ruỗng mục mình/ Nghe ra từng vết đau đinh lỏng dần.” (Ruỗng); “Lòng anh lồng lộng
bốn bề/ Vậy mà chật cứng một thề hẹn xưa/ Chỉ cần một chút gió mưa/ một chiều
yên ả/ một trưa rộn ràng/ Một chiếc lá cũng chưa vàng/ một bài hát cũ/ một
hàng dừa nghiêng/ Thế là bắt gặp niềm riêng/ Lòng anh lồng lộng lại điêng điếng
buồn.” (Một thề hẹn xưa)… Bởi, nói như Aimé Césaire: “Nhà thơ là một kẻ rất già
nua và rất mới mẻ, rất phức tạp và rất giản dị, ở quảng biên thùy đã từng qua lại,
giữa mộng và thực, sáng và tối, ẩn và hiện; trong cơn đảo lộn bất thần ở nội
tâm, y tìm kiếm và nhận được một thứ ám hiệu, tiếng mật ước để hiểu ngầm mà
giao ứng, và đi tới mãnh liệt.” Thế mới biết, sự nhạy cảm và tinh tế trong tâm
hồn thi nhân cần cho cuộc sống và cho thơ biết dường nào!?
Một ám ảnh khác trong cõi nhân sinh cũng trở thành một dự
phóng sáng tạo trong tập thơ Lũ buồn hoang của Miên Di, đó là nỗi buồn trong phận
số của người phụ nữ mà ở đó thi nhân đã sẻ chia với cảm nhận của một người
trong cuộc. Vì vậy, nỗi buồn của người phụ nữ ở đây không chỉ là nỗi buồn của
riêng họ mà đó cũng là nỗi buồn của chính nhà thơ. Sự hóa thân kỳ diệu này cho
thấy không còn đâu là khoảng cách giữa cái tôi trữ tình của nhà thơ và nhân vật
trữ tình: “Tôi nhận ra khi còn là đứa bé/ Mắt chị buồn như một mùa mưa/ Cảnh chị
em mình như bãi chợ/ tránh chỗ nào vẫn cư rác dơ” (Chị);“Nhà em treo chữ Vu
Quy/ có hoa rượu, có xầm xì nhỏ to/ Ngực anh có một cơn ho / có trận rượu nát
ra tro nỗi buồn” (Lục bát vu quy); “Tôi đang sẵn có trên đời/ Mà sao em lại làm
người cô đơn/ Trong tủ áo cứ đầy hơn/ mà sao vẫn thấy trống trơn trong buồn”
(Tôi đang sẵn có trên đời); “Có một chỗ ngồi trống trong mắt cô dâu/ dành cho
người buồn nhất/ ngày em lấy chồng … Ai trang điểm cho em/ sao không đánh phấn
nỗi buồn/ đôi môi nguội trong màu sơn nóng/ em lơ đễnh nghe những lời chúc tụng/
trăm năm buồn như một dòng sông.” (Bài thơ đứng ngoài tiệc cưới)
Và chính điều này làm cho nỗi buồn trở nên ý vị như một phần tất yếu của cuộc sống mà con người không thể chạy trốn và chối bỏ được: “Có lẫn tránh tận hư vô/ Em không thoát khỏi là cô gái buồn” (Phận đàn bà); “Sợ tôi buồn, em bảo tôi đi bước nữa/ Em thương tôi bằng những bửa cơm người/ Còn em ở vậy thổi cơm cho thằng bé/ sợ con buồn, em chẳng nỡ để ai yêu.” (Sau ly dị). Chất nhân sinh ở nỗi buồn trong thơ Miên Di, vì thế đã ám ảnh tâm cảm người đọc, bởi ở đó mỗi người đều có tìm thấy bóng dáng nỗi buồn của mình trong cuộc đời trần thế vốn luôn bất toàn này. Và đây cũng là tiên đề tạo nên sự nỗi loạn hiện sinh và chất triết luận trong thơ Miên Di.
Và chính điều này làm cho nỗi buồn trở nên ý vị như một phần tất yếu của cuộc sống mà con người không thể chạy trốn và chối bỏ được: “Có lẫn tránh tận hư vô/ Em không thoát khỏi là cô gái buồn” (Phận đàn bà); “Sợ tôi buồn, em bảo tôi đi bước nữa/ Em thương tôi bằng những bửa cơm người/ Còn em ở vậy thổi cơm cho thằng bé/ sợ con buồn, em chẳng nỡ để ai yêu.” (Sau ly dị). Chất nhân sinh ở nỗi buồn trong thơ Miên Di, vì thế đã ám ảnh tâm cảm người đọc, bởi ở đó mỗi người đều có tìm thấy bóng dáng nỗi buồn của mình trong cuộc đời trần thế vốn luôn bất toàn này. Và đây cũng là tiên đề tạo nên sự nỗi loạn hiện sinh và chất triết luận trong thơ Miên Di.
3. Nói đến “Lũ buồn hoang”, có lẽ, một điều không thể
không đề cập đến đó là tâm thức “nỗi loạn” trong thơ Miên Di và có lẽ đây là điều
tạo nên chất “hoang” trong thơ viết về nỗi buồn của Miên Di. Đọc những bài thơ
như Uống rượu với Chúa, Tâm sự với Chúa, Em, Chúa và tôi… ta như bắt gặp ở đây
những cảm xúc mang tính nỗi loạn khi thể hiện nỗi buồn. Hình tượng Đức Kitô trong
thơ, thực ra không phải là điều mới lạ. Bởi, trong phong trào Thơ mới, ta thấy
hình tượng Chúa cũng đã xuất hiện khá nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử. Còn trong thơ
miền Nam trước 1975, hình tượng Chúa cũng xuất hiện trong thơ của nhiều nhà
thơ, trong đó đặc biệt nhất là thơ Nguyễn Tất Nhiên. Song, Chúa xuất hiện trong
thơ Hàn Mặc Tử hay Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cao vời của Đấng toàn năng và
nhà thơ cầu mong ở Chúa ân sủng để cứu rỗi những nỗi khổ đau trong cuộc đời
mình. Còn Chúa trong thơ Miên Di không chỉ là hình ảnh của “Đấng quyền năng” mà
còn là một con người, một thân phận cũng gánh chịu khổ đau, có thể chia sẻ những
buồn vui với con người trong cuộc đời. Đó là lời sẻ chia với Chúa về những nỗi
đau trần thế của thi nhân ở một buổi “tiệc” giữa chốn nhân gian trong “Uống rượu
với Chúa”: “Buổi chiều nghiêng vào riêng/ rót hoàng hôn xuống thế/ Chúa rót chiều
vào đêm/ ly rượu buồn như thế… Mời Chúa một nụ cười/ của nỗi đau trần thế/ ly
rượu buồn như thế/ máu của đấng quyền năng.” (Uống rượu với Chúa). Hay lời tâm
sự với Chúa, mong Ngài hãy quên đi nỗi buồn: “Chúa đừng buồn nữa Chúa ơi/ Trầm
luân cõi thế cho Người lên Ngôi” (Tâm sự với Chúa). Thậm chí có lúc thi nhân đã
“ngạo nghễ” tự thú: “Muốn làm thằng vô lễ/ mời chúa cụng với mình/ một cơn say
nhân thế/ thương khổ và điêu linh.” (Uống rượu với Chúa) Bởi lẽ, trong tâm thức
của thi nhân: “Chúa bây giờ nếu là Chúa hôm qua/ thì sẽ chẳng phục sinh làm gì
nữa/ Chúa đâu thể một lần cứu rỗi/ khổ đau bây giờ và cho cả xưa sau.” (Em,
Chúa và tôi). Song, không chỉ tâm sự mà thi nhân còn tra vấn cả Chúa và Phật về
những nỗi khổ của con người trong cõi nhân sinh: “Có lần anh hỏi Chúa ? đấng
toàn năng sao bất lực trước cuộc đời/ và hỏi Phật trăm tay nghìn mắt/ câu kinh
buồn như tuyệt vọng âm u.” (Vết thương)
Không chỉ có cái nhìn khác về Chúa mà trong thơ Miên Di, cái
nhìn của thi nhân về chốn thiêng đường ở nước Chúa cũng là một cái nhìn khác lạ
của một tâm thức hiện sinh, khi thiên đường trong thơ anh không ở nước Trời mà
tồn tại bên những nỗi khổ đau trần thế: “Anh sẽ đặt thiên đường ở đây/ nơi khổ
đau và nghèo khó/ đời vui không nếu vắng những ngày buồn (…) Nên anh đặt thiên
đường ở đây/ nơi nhiều nước mắt”(Cho nhau một chút thiên đường). Và những bài
thơ này đã thể hiện tâm thức nỗi loạn hiện sinh trong thơ Miên Di. Nhưng đó là
một sự “nỗi loạn đáng yêu” của một tâm hồn luôn chất chứa những nỗi đau đời,
luôn khao khát một sự giải thoát khỏi những nỗi khổ đau thân phận nhưng đành bất
lực. Bởi, những khổ đau trong cõi nhân sinh này là một nghiệp chướng, một hệ lụy
của tội “tổ tông”. Vì thế, cho dù nhân loại với bao khát vọng muốn giải thoát
con người khỏi những “khổ đau” trần thế cũng chỉ là những khát vọng lãng mạn mà
thôi. Thế nên, thi nhân đã mơ về cái thuở hồng hoang khi mà con người chưa sống
với quá nhiều tham vọng và ham muốn, vốn là cội nguồn của những khổ đau: “Mơ
thành sói dữ dịu dàng/ Trở về thăm thuở hồng hoang trong người.” (Giấc mơ tôi)
Bởi vì, trong suy niệm của thi nhân: “Gói sao được vệt khói mờ/ Khi cầu an lạc
là thờ khổ đau.” (Gói Khói)
Thơ Miên Di là thơ của những nghiệm sinh từ chính cuộc đời mình. Điều này đã kết tinh trong thơ anh thành những dự phóng sáng tạo. Vì thế, khi khám phá nỗi buồn trong thơ Miên Di, ta thấy những nghĩ suy về nhân tình, về cuộc sống luôn thấm đẫm trong từng ngữ ngôn mà ở những ngữ ngôn này thể hiện rõ sắc màu triết luận như một thứ dư vị riêng làm cho chất trữ tình trong thơ Miên Di càng thêm ý vị, nhờ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và trí tuệ. Bởi nói như Paul Claudel: “không phải trí tuệ làm ra thơ, nhưng chính nhờ trí tuệ mà ta thấy ta làm thơ” Còn A. Breton thì cho rằng: “Thơ phải là sự tan rã của trí tuệ” Và chất triết luận trong thơ Miên Di là sự kết tinh của sự tan rã trí tuệ và tâm hồn để phóng chiếu thành những ý thơ mang màu sắc triết luận mà ta có thể cảm nhận khi đọc những câu thơ thi nhân luận về hạnh phúc: “Nếu em khóc cho điều vừa mới/ Một tin vui hay đám tang người/ Hai buồn ấy cùng chung dòng nước mắt/ Hạnh phúc buồn hay hạnh phúc vui” (Hạnh phúc không vui). Hay sự cảm nhận về sự hiện hữu của tha nhân: “Khi em ngủ ở trên đời/ là vẫn có mặt trong rời xa nhau/ khi em thức ở nơi đâu/ Em còn tôi đấy đằng sau nỗi buồn” (Định nghĩa lại em); “Có lần tránh tận hư vô/ Em không tránh khỏi là cô gái buồn.) (Phận đàn bà) và sự hiện hữu của chính mình: “Tôi định nghĩa lại bão giông/ bình yên náo loạn ở trong lòng mình/ một nỗi ngao ngán bình bình/ một xôn xao rất là thinh lặng buồn/ Tôi hờn dỗi cả lối mòn/ đi hoài cứ gặp một tồn tại tôi” (Định nghĩa lại); “Tôi gặp tôi rất bất ngờ/ không trong tôi nữa bây giờ trong em/ Trong xe cộ trong ngày đêm/ Tôi gặp tôi ở bên thềm vắng tôi/ Gặp tôi vô ngã rong chơi/ Lạc trong ý nghĩ rối bời hỏng hư/ Tôi là một khối trầm tư/ Hiện diện như thể một hư vô. Buồn” (Tìm gặp vô ngã)
Thơ Miên Di là thơ của những nghiệm sinh từ chính cuộc đời mình. Điều này đã kết tinh trong thơ anh thành những dự phóng sáng tạo. Vì thế, khi khám phá nỗi buồn trong thơ Miên Di, ta thấy những nghĩ suy về nhân tình, về cuộc sống luôn thấm đẫm trong từng ngữ ngôn mà ở những ngữ ngôn này thể hiện rõ sắc màu triết luận như một thứ dư vị riêng làm cho chất trữ tình trong thơ Miên Di càng thêm ý vị, nhờ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và trí tuệ. Bởi nói như Paul Claudel: “không phải trí tuệ làm ra thơ, nhưng chính nhờ trí tuệ mà ta thấy ta làm thơ” Còn A. Breton thì cho rằng: “Thơ phải là sự tan rã của trí tuệ” Và chất triết luận trong thơ Miên Di là sự kết tinh của sự tan rã trí tuệ và tâm hồn để phóng chiếu thành những ý thơ mang màu sắc triết luận mà ta có thể cảm nhận khi đọc những câu thơ thi nhân luận về hạnh phúc: “Nếu em khóc cho điều vừa mới/ Một tin vui hay đám tang người/ Hai buồn ấy cùng chung dòng nước mắt/ Hạnh phúc buồn hay hạnh phúc vui” (Hạnh phúc không vui). Hay sự cảm nhận về sự hiện hữu của tha nhân: “Khi em ngủ ở trên đời/ là vẫn có mặt trong rời xa nhau/ khi em thức ở nơi đâu/ Em còn tôi đấy đằng sau nỗi buồn” (Định nghĩa lại em); “Có lần tránh tận hư vô/ Em không tránh khỏi là cô gái buồn.) (Phận đàn bà) và sự hiện hữu của chính mình: “Tôi định nghĩa lại bão giông/ bình yên náo loạn ở trong lòng mình/ một nỗi ngao ngán bình bình/ một xôn xao rất là thinh lặng buồn/ Tôi hờn dỗi cả lối mòn/ đi hoài cứ gặp một tồn tại tôi” (Định nghĩa lại); “Tôi gặp tôi rất bất ngờ/ không trong tôi nữa bây giờ trong em/ Trong xe cộ trong ngày đêm/ Tôi gặp tôi ở bên thềm vắng tôi/ Gặp tôi vô ngã rong chơi/ Lạc trong ý nghĩ rối bời hỏng hư/ Tôi là một khối trầm tư/ Hiện diện như thể một hư vô. Buồn” (Tìm gặp vô ngã)
4. Một tập thơ hay chưa hẳn là một tập thơ đã hoàn hảo.
Bởi, thơ cũng như tình yêu không bao giờ có sự viên mãn tuyệt đối. Vì thế, cũng
như những người yêu nhau, thi nhân luôn khát vọng đi tìm sự hoàn thiện cho hành
trình sáng tạo thơ của mình. Bởi, nếu trong hành trình sáng tạo, nhà thơ tự bằng
lòng với mình, cũng đồng nghĩa là hủy diệt sự tồn sinh của thơ mình và như thế,
điểm đến của thơ chính là nấm mồ đã chờ sẵn ở nghĩa trang thơ.
Đọc “Lũ buồn hoang”, bạn đọc có thể bắt gặp ở đó những câu
thơ khá hay, thể hiện sự tìm tòi đáng ghi nhận của Miên Di, mà khi đọc lên
chúng ta không khỏi ngỡ ngàng vì sự mới lạ của nó. Mới lạ nhưng không “màu mè”
“làm dáng” mà chân chất, thành thật đến đáng yêu. Đó là những câu thơ buồn và đẹp
mà khi đọc lên, không khỏi thấy lòng mình chao chát một nỗi xót xa: “Vắng em
sau yên xe/ Anh chuyện trò với khoảng trống/ Chiếc áo em may anh vẫn còn đang mặc/
Tấm áo bền hơn vết rách/ Anh diện lên mình hạnh phúc đã qua” (Vợ đi lấy chồng).
Hay: “Lòng như chỗ vắng bặt tăm/ Tôi và một chiếc lá nằm, thương nhau” (Chiếc
lá & tôi) “Cuối năm một khoảng mênh mông/ Một mênh mông giữa cõi lòng nhỏ
nhoi.”(Cuối năm thăm mộ Bà); “Thế là bắt gặp niềm riêng/ Lòng anh lồng lộng lại
điêng điếng buồn” (Một thề hẹn xưa) “Mái bếp dột đã thành quen với mẹ/ tiếng gà
quê quạnh quẽ những trưa chiều” (Tháng 7 này) “Thỉnh thoảng thăm mẹ một hôm/
Xòe tay xin ít trẻ con rồi về” (Tâm sự với mẹ) “Tiếng ru quắt quẻo cuối thôn/
ta về như trẻ lon ton làm người” (Lẽ chết màu xanh) “Buồn như gỗ ruống mục
mình/Nghe ra từng vết đau đinh, lỏng dần” (Ruỗng); “Đói khuya, sờ cái ví nghèo/
Tiếng rao khuất nẻo còn treo ngoài thềm”
(Tiếng mì gõ); “Đêm nằm thương những dòng sông/ tự cào xói lỡ ở trong lòng mình” (Tự cào)… Song, trong tập thơ Lũ buồn hoang không phải không còn những câu thơ, những bài thơ dễ dãi khi phải ép vận, ép từ một cách khiên cưỡng, thiếu tự nhiên, chưa đạt tới một độ chín của tư duy và chiều sâu tâm hồn mà nếu nhà thơ tỉnh táo hơn, biết hạn chế những điều này thì tập thơ Lũ buồn hoang sẽ hoàn hảo hơn. Đó là những câu thơ như: “Sân ga chôn dấu một điều/ Càng đông càng chất chứa nhiều phân ly” (Tâm sự với sân ga) “Con phố như là ta bà/ về đêm lại thấy rất là an yên” (Phố và tôi) “Ban sơ một tin bão xa/ Ta mộng lớn bỗng dọn nhà giúp em” (Thức tỉnh nhỏ) “Nghèo bây giờ nhớ nghèo ngày xưa/ Ran ran nhớ rệp vẫn chưa thấy nghèo” (Qui chiếu nghèo) “Phật tôi không tuổi không tên/ Tôi tu trong cuộc nổi nênh đời mình/ Nhà tôi là cả hành tinh/ Tha nhân là một gia đình thân nhân” (Khúc tu phiền); “Ai tìm an lạc thấy chưa/Có nghe như nguyện khi vừa ngứa xong” (Giác ngộ nhỏ)…
(Tiếng mì gõ); “Đêm nằm thương những dòng sông/ tự cào xói lỡ ở trong lòng mình” (Tự cào)… Song, trong tập thơ Lũ buồn hoang không phải không còn những câu thơ, những bài thơ dễ dãi khi phải ép vận, ép từ một cách khiên cưỡng, thiếu tự nhiên, chưa đạt tới một độ chín của tư duy và chiều sâu tâm hồn mà nếu nhà thơ tỉnh táo hơn, biết hạn chế những điều này thì tập thơ Lũ buồn hoang sẽ hoàn hảo hơn. Đó là những câu thơ như: “Sân ga chôn dấu một điều/ Càng đông càng chất chứa nhiều phân ly” (Tâm sự với sân ga) “Con phố như là ta bà/ về đêm lại thấy rất là an yên” (Phố và tôi) “Ban sơ một tin bão xa/ Ta mộng lớn bỗng dọn nhà giúp em” (Thức tỉnh nhỏ) “Nghèo bây giờ nhớ nghèo ngày xưa/ Ran ran nhớ rệp vẫn chưa thấy nghèo” (Qui chiếu nghèo) “Phật tôi không tuổi không tên/ Tôi tu trong cuộc nổi nênh đời mình/ Nhà tôi là cả hành tinh/ Tha nhân là một gia đình thân nhân” (Khúc tu phiền); “Ai tìm an lạc thấy chưa/Có nghe như nguyện khi vừa ngứa xong” (Giác ngộ nhỏ)…
Trong phần cuối tập thơ “Lũ buồn hoang”, Miên Di viết “Tôi
thích những ngày buồn, hoàng hôn đầy túi áo/ đem tiêu hoang cũng không hết những
ngày buồn.” (Tiêu hoang), Còn tôi thì thích những bài thơ, những câu thơ viết về
nỗi buồn của Miên Di trong tập thơ này. Tuy không phải đã đạt đến sự hoàn hảo về
nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật nhưng Lũ buồn hoang đã chạm đến
những nỗi đau trong cõi nhân sinh của thân phận, vì vậy nó sẽ neo lại trong
lòng người đọc như một nỗi ám ảnh của vô thức và tâm linh. Bởi, nỗi buồn không
chỉ đơn thuần là một trạng thái cảm xúc của tâm hồn con người mà còn là một yếu
tính của hiện hữu. Không có nó con người không còn là con người. Vì vậy, thơ viết
về nỗi buồn sẽ luôn tồn sinh với đời sống. Miên Di chọn viết về nỗi buồn và có
thể nói anh là một trong những nhà thơ viết nhiều và viết hay về nỗi buồn trong
thơ ca đương đại, hy vọng anh sẽ có chỗ đứng trong nền thi ca nước nhà. Bởi nói
như Paul Claudel: “Thơ ở khắp mọi nơi, trừ ở những nhà thơ tồi.” Rất may! Miên
Di với Lũ buồn hoang đang hiện hữu trên thi đàn, không phải là một nhà thơ như
thế! Tôi kỳ vọng và chờ đợi những mùa gặt mới trên cánh đồng thơ của Miên Di với
tư cách là một “Nhà thơ - Phu chữ” như thi sĩ Lê Đạt đã từng xác quyết khi luận
bàn về hành trình sáng tạo của thi nhân trên con đường dấn thân đi tìm vẻ đẹp của
nàng thơ…
Xóm Đình An Nhơn Gò Vấp,
Đầu mùa mưa, 11/5/2019
Trần Hoài Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét