Thứ Ba, 31 tháng 12, 2019

Thi ca và sáng tác

Thi ca và sáng tác
Thơ, con người và sự vật
Khái niệm ban sơ.
1.- Nghệ thuật và thi ca thường đi đôi với nhau, tuy rằng ý nghĩa của hai từ rất xa nhau. Khi nói về nghệ thuật thì tôi thường nhắm đến tinh thần sáng tạo  của con người hay tính sáng tác, hoạt động sản xuất  tác phẩm. Khi nói đến thi ca, không phải chỉ là nghệ thuật đặc biệt viết nên những câu thơ, mà là một sự kiện vừa khá phổ thông vừa mang tính nguyên thủy; tức là sự tồn tại bên trong của sự vật, và là sự liên hệ hổ tương nội bộ của con người tự thân. Sự liên hệ hổ tương ấy là một thứ dự ngôn, như người xưa từng hiểu, từ vastes của Latinh có ý nghĩa là thi nhân và là vị thần. Thi ca theo nghĩa này là cuộc sống đầy thần bí của nghệ thuật, nó còn có một danh xưng nữa do Platon đề xuất là “âm nhạc” (mousike).
Nghệ thuật và thi ca - Mục đích chủ yếu của quyển sách nầy là nhắm làm sáng tỏ mối liên hệ hổ tương và khác biệt giữa đôi bạn thần kỳ không bao giờ tách rời nhau này.
Một mục đích chủ yếu nữa là tác dụng quan hệ căn bản giữa tri tính hay lí tính trong thi ca và nghệ thuật, đặc biệt là chứng minh trong thi ca có cội nguồn thực sự liên quan đến tiền khái niệm sinh sống của tri tính. Hai từ tri tính và lý tính là để chỉ lực lượng hay năng lực (faculté) đơn thuần trong tâm hồn con người. Nhưng tôi xin lưu ý ngay từ giờ là khi nó chỉ về sức mạnh tâm linh là thi ca, thì phải hiểu từ ấy có một ý nghĩa sâu rộng hơn nghĩa bình thường. Tri tính cũng như sự tưởng tượng là linh hồn của thi ca. Nhưng tri tính hay lý trí không phải chỉ có ý nghĩa thuộc tính logic, mà là nó bao hàm một thứ ý nghĩa thâm sâu bí áo - trong khi chúng ta cố gắng vượt qua mọi khó khăn để đạt đến cõi u huyền của thi ca thì nó lại hiện ngay trước mặt ta. Nói một cách khác, thi ca bắt buộc chúng ta phải khảo sát lý trí, khảo sát nguồn thần bí trong nội tâm của con người, bằng phương thức không phải lý tính, cũng không phải logic mới có tác dụng.
Nếu trong quá trình thảo luận, tôi thường đề cập đến nghệ thuật hội họa và thi nhân, không có nghĩa là tôi coi các môn nghệ thuật khác là không quan trọng, Trong tất cả các môn nghệ thuật thì phải nói âm nhạc là quan trọng, nhưng theo tôi nghĩ âm nhạc đòi hỏi một sự nghiên cứu riêng biệt. Hơn nữa tập sách nầy không phải là bộ sách chuyên nghiên cứu về nghệ thuật, tôi cũng không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà phê bình nghệ thuật. Công cuộc nghiên cứu của tôi chỉ là triết học, và những thí dụ tôi cần đến là thứ dễ hiểu cho mọi người, thí dụ chỉ là phương thức bổ trợ hay dẫn dắt để hiểu rõ và thẩm tra các quan niệm  mà thôi.
2.- Hai chương đầu trong  sách nầy đến mức nào đó, chỉ là những chương dẫn nhập. Chủ yếu của chương đầu là tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình (arts plastiques), nhưng thực tế đối với thi ca, như tôi vừa trình bày với ý nghĩa rộng rãi - có sự liên quan, nhưng chỉ là thơ với quan điểm ngoại tại và miêu tả thuần túy. Mục đích của chương nầy chỉ là đem lại cho độc giả có một cái nhìn cơ bản về sự thực, thông  qua phương thức chỉ dẫn vấn đề sẽ được nghiên cứu sau đó..
Chương thứ hai là thảo luận về ý nghĩa của từ nghệ thuật một cách chặt chẽ. Mục đích của chương nầy là thiết lập một số những nguyên tắc căn bản, những nguyên tắc ấy rất cần thiết cho việc tìm hiểu, nhất là khi tiến đến điểm chính yếu, tức là mối liên hệ giữa nghệ thuật và thi ca.
Thiên nhiên và con người.
3.- Khi đề cập đến cái đẹp, sự kiện đầu tiên được quan sát đến là sự thâm nhập lẫn nhau giữa thiên nhiên  và con  người. Sự thâm nhập lẫn nhau ấy là bản chất đặc biệt, bởi vì nó không  phải là sự hấp thụ lẫn nhau. Trong khi thiên nhiên và con người thâm nhập lẫn nhau mỗi bộ phận vẫn bảo vệ duy trì được bản chất đồng nhất, thậm chí nó còn đủ sức lực để bảo vệ sự đồng nhất. Nhưng cả hai đều không phải ở trong trạng thái tồn tại độc lập, mà chúng nó được hòa hợp một cách đầy thần bí.
Khi con người cảm thấy sảng khoái về cái đẹp, nó không  phải thâm nhập vào sự vật của thiên nhiên với tính cách đơn lẻ trong mối liên hệ thuộc ý hướng tính hay tinh thần cấu tạo thành nhận thức. Vì nhận thức là trở thành khác với tính cách là kẻ khác. Con người bị lôi cuốn bởi thiên nhiên, khi đối tượng nó ngắm nghía là một tác phẩm nghệ thuật thì tác phẩm ấy được xem như sự biến hóa của thiên nhiên. Thiên nhiên ấy trong một mức độ nào đó xâm nhập vào máu mủ và cùng với nó hít thở niềm hoan lạc đó. Đối với con người trong buổi sơ khai thì nghệ thuật nhắm vào mục đích vu thuật, giả thuyết ấy luôn luôn là một sự tranh luận; nhưng trong ý nghĩa sâu xa, dù không là thích đáng - nghệ thuật tự thân vẫn là một thứ vu thuật, trong quá trình phát triển dần dần đã được thuần hóa. Và khi thiên nhiên xâm nhập vào con người gây ra sự sảng khoái là thuộc về thị giác hay trực giác, đó là sự hình thành mang ý hướng tính thuần túy hay siêu việt chủ quan tính; đó là nghệ thuật thuần túy đã thuần hóa rồi và hoàn toàn thuộc về thẩm mỹ.
Ngược lại, nói về tình cảm thẩm mỹ dù ở bất cứ mức độ nào luôn luôn là một thứ xâm nhập của con người với thiên nhiên. Hãy coi đối tượng khoái thích thẩm mỹ thuộc khách quan hoàn toàn không ảnh hưởng đến con người, như sự chứng minh một bài toán tuyệt hay hoặc một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng xuất sắc, một bức khảm khắc hay giả đá hoa của Ả rập, hoặc một cánh hoa lóe sáng, ánh tà dương le lói trước khi lặn tắt, một con chim trên hoang đảo, hoặc trước một phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, một sa mạc mênh mông, một cánh rừng nguyên thủy rậm rạp, những núi non trùng điệp, những thác nước cao vòi vọi vang dội bao âm thanh dồn dập lôi cuốn du khách vào sự rung cảm cao cả. Thật ra là nơi nơi đều có ẩn tàng bóng dáng con người, kích thước con người tồn tại dù bị ẩn dấu đi. Tất cả những sự vật gì không phải tính người đều ẩn tàng  tính chất người trong đó: như sự chứng minh một bài toán tuyệt hảo, hay một tác phẩm trừu tượng  cực đẹp, thì đó là sự kết hợp hài hòa của lý trí, và được giao hoàn lại cho con người. Còn về cái đẹp chỉ làm cho cảm quan khoái , tiết tấu hay hòa điệu lại một lần trình diễn ở đâu đó, nó khiến cho giác quan tự thấy thích thú, khốn nổi đó là đặc tính vật lý tự thân của giác quan, như một màu sắc đẹp trong mối liên hệ sắc thái bao quanh, mà Degas từng gọi là “ Rửa mắt” (Rince d’oeil), chính là vi màu sắc của sự vật đó phù hợp với thị giác của con người đang cần nhịp điệu để thư giản hay tập trung. và đó là sự lung linh phi vật chất, tác dụng nội tại của giác quan thực hiện thông qua tính xâm nhập.
Cuối cùng đối với cảnh sắc hoang dã tráng lệ của thiên nhiên thì như thế nào? Cái gì của con người có còn xen lẫn ở đây không? Nhưng đó là một thứ tình cảm (tôi xin nói rằng  đó là một thứ phi lí tính, hay là thứ tình cảm thuần chủ quan) thứ tình cảm mà bản thân nó không liên quan gì đến mỹ cảm), nó tự phát sinh trong lòng chúng ta, rồi do chúng ta phóng xạ vào trong sự vật, và xuyên qua sự vật lại phát sinh ảnh hưởng đến chúng ta; đặc biệt là đối với thiên nhiên trở nên mãnh liệt, cao ngạo cô đơn, không sao thâm nhập vào được; giữa con người và thiên nhiên phát sinh một thứ tình cảm mất hài hòa rất lớn. Thứ tình cảm không hài hòa ấy không những chỉ áp đảo và còn làm cho con người kinh ngạc lạ lùng, mà còn đánh thức nơi chúng ta sự mờ tối u ám, cái tiềm lực cao cả mơ hồ không sao chụp bắt được - trong cảnh mờ mịt man nhiên đó, chúng ta không biết rằng chúng ta phải thông qua như thế nào về sự thể nghiệm đáng sợ ấy mới có thể khắc phực tình cảm không hòa điệu ấy. Ở đó có một ấn tượng vừa sợ hải vừa như khiêu khích, mà theo tôi nó bắt nguồn từ cảm xúc cao cả, nhưng nó khác hẳn tri thức về cái đẹp; cảm xúc cao cả ấy về giá trị thẩm mỹ có khuyết điểm vậy. Không tính đến cái mà du khách gọi là cao cả, đôi khi cũng do các triết gia bàng hoàng về sự cao cả ấy không sao giải thích được.
4.- Tuy nhiên trong những trường hợp chúng tôi vừa trình bày ở trên, khách thể tri thức thẩm mỹ tuy ám thị có liên quan đến con người, nhưng không phải là không có thể xa rời cuộc sống. Điều tôi muốn đề cập đến bây giờ, hãy gạt bỏ những điểm đặc thù, (cái đẹp thiên nhiên càng hùng vĩ, sự khoái thích hay cảm tri thẩm mỹ càng ngắm càng thấy thuần túy sinh động, khi nó đụng chạm đến cuộc sống con người với thiên nhiên càng sâu rộng). Cuộc sống con người đối với ảnh hửơng thiên nhiên càng sâu rộng, cái đẹp của thiên nhiên càng mãnh liệt, và đối với thẩm mỹ thiên nhiên khoái thích hay cảm tri thẩm mỹ càng thuần túy càng lớn.
Đó là khả năng thông qua sức tưởng tượng phát sinh. Như nhìn đám mây lơ lửng trên không, hay mặt biển mênh mông không bờ, đã tỉ tê với những tâm hồn đa cảm rằng “con người tự do luôn luôn quyến luyến đại dương”
Nhưng nó cũng có thể phát sinh trong sự tồn tại hiện thực.Thực tại thiên nhiên vật chất và tinh thần được con người xâm nhập như tôi nói“ thực tại vật chất và tinh thần” là chỉ vào ý nghĩa nội tại đầy đủ của thiên nhiên. Và chính vì vậy mà cái đẹp của thiên nhiên mới được phát hiện một cách tối ưu. Vịnh Rio de Janeiro mênh mông lấp lánh ánh sáng như một bức tranh, là một trong những khung cảnh thiên nhiên được chiêm ngưỡng nhất.Và còn biết bao vẻ đẹp, biết bao sự xúc động, tôi muốn nói đến sự xúc động là mỹ cảm chân chính - như cảnh mặt trời sắp lặn trên bến cảng Marseille, nơi xuất nhập khẩu với sự bố trí của con người, mặt nước dọc theo bến cảng với những gì bí ẩn, trong một rừng cột buồm tàu san sát, những cần trục, những ngọn đèn sáng trưng và những kỹ niệm! Hay khi anh lăn bánh xe dọc theo sông Hudson, hoặc xuyên qua đồi núi Virginia (dỉ nhiên không phải là đi bộ, dân Mỹ không biêt gì về thú tản bộ và trầm tư này). Hãy tưởng tượng giây lát rằng, xứ sở trong tầm mắt vẫn còn là thời của chủng tộc ở dưới các túp lều và của những đấu sĩ Indiens; như thế cái đẹp của thiên nhiên như được đánh thức, và mang một ý nghĩa, chỉ vì mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người được thiết lập trở lại. Những cư dân hiện đại chưa có đủ thì giờ để thâm nhập vào mảnh đất mang hình thức con người; nhưng cứ nhìn vào những hình thức lao động mãnh liệt của con người, văn minh công nghiệp với những xí nghiệp đã mọc lên đây đó trên những cánh đồng hay dọc theo các ven sông; nơi đó mối liên hệ giữa thiên nhiên với con người lại được thiết lập, một vẻ đẹp mới lại xuất hiện. Khi nào anh lại từ đại dương đi xuyên qua những vách đá hùng vĩ tiến vào Địa Trung Hải, mới chứng kiến vì sao vẻ đẹp phong phú của hai bên bờ biển lại như cuộc sống vang lên khúc ca? Vì sao một giải cong cong của bình nguyên La Mã lại cung cấp cho anh những tình cảm phong  phú, chẳng qua vì có Virgile - nhà thơ Latinh - và những Hy Lạp (dù trong thực tế, người ta chưa kịp nghe đến họ), và những ngọn gió vô hình của ký ức thổi mát tâm tư của con người. Có những nơi trên mặt đất này đã thâm nhập lý tính và sự lao khổ của con người, Chính xuyên qua lịch sử khiến giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp chặt chẽ, và từ đó thiên nhiên mới phát tản ra những phù hiệu và ý nghĩa, tạo nên sự bùng nổ những vẻ đẹp huy hoàng.
Thông qua sự phân tích ấy, chúng ta có thể rút ra hai điểm kết luận. Điểm I. là thiên nhiên vô cùng xinh đẹp khi nó chan chứa tình cảm. Tình cảm giữ một vai trò quan trọng trong kinh nghiệm mỹ cảm. Nhưng là thứ tình cảm nào? Không phải là thứ tình cảm phi lý tính mà tôi vừa kể qua, hay là thứ tình cảm thuần chủ quan nhưng là một thứ tình cảm kết hợp chặt chẽ với nhận thức. Thật vậy, đó là thứ tình cảm như tôi vừa nói qua, nó giống như tất cả các phù hiệu đầy ý nghĩa, trong đó phát sinh một thứ tình cảm do thiên nhiên xâm nhập con người, nó tạo thành hay hình thành một sự thích thú bao trùm cả thị giác. Đó là một thứ tình cảm siêu việt thuần chủ quan, đạt đến tinh thần tiếp cận sự vật đã biết, và hướng về sự nhận thức rõ hơn, rồi phát sinh ra mộng tưởng.
Điểm II, những phù hiệu và ý nghĩa mà tôi vừa nêu ra vẫn còn ở trong thái tiềm tàng, ít nhất phải đợi đến lúc người lữ hành trên mắt đất nhận được sự đụng độ đột ngột về cái đẹp. Trong ý thức chưa từng biểu hiện một sự nhớ lại khái niệm đặc biệt nào. Nhưng những phù hiệu và ý nghĩa ấy không bao giờ mất đi trong khi còn năng lực mỹ cảm. Chúng ta phải chú ý đến sự thật này, vì sau đây chúng ta sẽ trở lại vấn đề đó. Những phù hiệu thoáng qua, và những ý nghĩa không rõ ràng  sẽ tạo thành một áp lực tinh thần nhiều hay ít trong vô thức, giữ một vai trò quan trọng trong tình cảm thẩm mỹ và trong kinh nghiệm mỹ cảm.
Trong cùng hướng suy tư, khi chúng ta có kinh nghiệm mỹ cảm đối với thiên nhiên chúng ta nhìn vào từ Oscar Wilde - nghĩa là nghệ thuật mô phỏng thiên nhiên, thì rõ ràng là một câu không nói ra cũng tự hiểu. Vì nghệ thuật và thị giác của con người là một cách thế để con người xâm chiếm thiên nhiên, vì thiên nhiên mà suy tư và biểu hiện. Nếu không có những thế hệ thi nhân và họa gia phản ảnh cái đẹp của thiên nhiên, thì chúng ta làm sao xâm nhập được vào cái đẹp thiên nhiên. Chỉ có từ khi Giotto sử dụng màu vàng làm bối cảnh của nghệ thuật Trung cổ buổi đầu thay thế hang đá và núi rừng, ta mới ý thức được vẻ đẹp của núi rừng. Khi ta đi dạo ở La Mã mà cảm thấy thích thú thì phần nào là do Pinarese, người đã tạo ra sự  phản ảnh của hiện trường với những cung điện màu vàng sậm, những cửa tiệm, những công xưởng mở ra như những hang đá. Với những cư dân trên các ngả đường cổ xưa cho ta một khung cảnh dịu dàng đầy hấp dẫn. Nhìn vào những khuôn mặt dường như nhìn từ các bức chân dung, khiến cho thị giác chúng ta tăng thêm thích thú, Như khi đi trên các tuyến đường tàu điện ngầm ở Nữu Ước, nếu là người thích thưởng ngoạn nghệ thuật, chúng ta sẽ tha hồ ngắm những bức tranh của các họa sư như Cezanne, Hogarth hay Gauguin và Seurat đang trưng bày giữa thiên nhiên khi ánh đèn được bật sáng lên.
Sự vật và tính sáng tạo của tự ngã
5.- Thật là không đầy đủ, nếu cho rằng  tình cảm thẩm mỹ hay kinh nghiệm mỹ cảm có sự liên hệ hổ tương giữa con người với thiên nhiên. Điều mà chúng ta quan tâm, chính là mối liên hệ hổ tương giữa con người và thiên nhiên - chúng ta cứ cho là sự kết hợp thế giới với tự ngã, cùng quan hệ với sự sáng tạo nghệ thuật. Như thế chúng ta mới thực sự tiến vào chủ đề của tập sách này, và sau đó mới bàn đến thơ.
Nhưng trước khi mở đầu, tôi không thể không phàn nàn cho kho từ vựng của con người quá nghèo nàn. Tôi muốn diễn tả cùng lúc tính độc đáo và những gì nội tại thâm sâu của nhà nghệ thuật cùng với sự tồn tại cả máu, cả thịt và tinh thần người ấy, mà tôi chỉ có một từ trừu tượng: Tự ngã (le soi). Tôi muốn diễn tả cái thế giới này, điều mà nhà nghệ thuật hằng đụng đầu với đoàn quân hiện hữu, những trạng thái, những hiện tượng vật chất, tinh thần đầy rối rắm của cái đẹp và cả sự sợ hải, không sao giải mã nổi những gì sâu xa thần bí, và không sao biến đổi được tiến trình của nó; thế mà tôi chẳng tìm được tiếng nào ngoại trừ những ngôn từ quá nghèo nàn, cũ kỹ, tôi đành phải nói là sự vật của thế giới: Sự vật... Nhưng tôi cũng muốn trao cho cái từ trống trơn tình cảm này, nó cho con người nguyên thủy suy gẩm về sức mạnh thiên nhiên không đâu không có, hay như lời của các triết gia cổ đại Ionie từng nói: “Vạn vật đều có thần”.
Đối với vấn đề sự vật và tự ngã của nghệ thuật gia: Chúng ta há không học được những hình thức điển hình về chủ đề này, nó đã được biểu hiện qua nhiều thế kỷ, sự nỗ lực sáng tạo bằng tay và mắt của con người sao?
Tôi không thích sự khái quát và tóm lược. Nhưng phương pháp mà tôi cố gắng theo đuổi trong chương này buộc tôi cũng phải trở lại với sự luận thuật khái quát. Tôi hi vọng rằng tôi có thể nắm vững  những đặc tính chung để có thể đưa ra những đặc trưng khá đơn giản và khá rõ ràng để tránh được những giải thích tùy tiện quá nguy hiểm.
Về mối quan hệ giữa sự vật và tự ngã của nhà nghệ thuật, theo quan điểm của tôi, chúng ta hằng đối mặt với một sự thật vô cùng quan trọng, là tinh thần và sự cảm tri thi ca nghệ thuật Đông phương  và Tây phương có sự khác biệt và đối lập nhau.
Người ta có thể nói một cách chung chung là những nhà trước tác của Đông phương có thể nhấn mạnh rằng nghệ thuật Đông  phương là đối lập với chủ nghĩa cá nhân của Tây phương. Nghệ thuật gia Đông phương rất hổ thẹn khi nghĩ đến tự ngã của mình, và xấu hổ khi đem cái chủ thể tính của mình biểu hiện trong tác phẩm. Trách nhiệm chủ yếu đầu tiên của nhà nghệ thuật này là tự quên mình. Nó quan sát sự vật bằng sự trầm tư, đối với hình thể ngoại tại của sự vật đầy áo bí, và ẩn tàng sức sống huyền dịu của nó, rồi biểu hiện cả hai trong tác phẩm của mình, hoặc với sự thích thú của con người trang điểm cho cuộc sống, hoặc vì những nghi lễ thiêng liêng thờ cúng... Nhưng bản chất nghệ thuật Đông phương thuộc tôn giáo, hay khát vọng tôn giáo,... Do đó nghệ thuật  đồng giao lưu với sự vật, không  phải vì sự vật, mà vì một thực tại đáng tôn sùng và vô hình, mà sự vật là những phù hiệu, và xuyên qua sự vật, nghệ thuật cùng lúc triển khai với sự vật. Thực ra đó là tôn giáo chứ không phải nghệ thuật nữa, nó nâng nghệ thật lên cao như sự sống, và nó cũng là sức sống của nghệ thuật, mà nhu cầu cơ bản của nó là sự chân thực tự thân vĩ đại, tôi muốn gọi đó là tượng trưng của cuộc sống. Nghệ thuật Đông phương chỉ chuyên chú đến sự vật, và dường như tất cả nghệ thuật đều là chân thực như thế nên họ không thích chủ nghĩa hiện thực.
Giờ đây phải ghi chú hai phương diện khá đặc biệt, nó giúp chúng ta hiểu rõ. Vì sao nghệ thuật Đông phương chi phối tất cả sự vật, và sự vật mang tính thuần khách quan chứ không phải người và tính  chủ quan của con người... Trước tiên giống như bản năng tôn giáo của nhân loại khắp mọi nơi, không được phúc âm của Thiên chúa giáo biến đổi, những tôn giáo có liên hệ với nghệ thuật Đông  phương, về căn bản tất nhiên có sự hội thông qua chức năng tế tự của xã hội, pháp luật, và sự hiệu lực của lễ nghi nhằm bảo vệ và duy trì cộng đồng nhân loại. Nghệ thuật Đông phương trước hết chăm lo sự vật trong vũ trụ, bao gồm cả việc lễ nghi. Nó quay về với con người để tìm kiếm thực tại thiêng liêng, do sự vật có ý nghĩa với các bộ mặt bí nhiệm mà thế giới là tấm gương phản ảnh, một vũ trụ thần bí khác lạ với con người là siêu nhân, đôi khi rất tàn nhẫn phi nhân, Một thứ nghệ thuật như thế làm sao không tiềm ẩn một thần tượng để sùng bái. Chỉ cần Thượng Đế chưa đảm nhận nhục thể, chỉ cần vật vô hình chưa hiện thành hình, con người vẫn còn nghiêng về sự tôn sùng những lực vô hình, thì còn sùng bái những phù hiệu tượng trưng và sự vật. Ở đó nghệ thuật mang lấy những mắt thần, thì nó lại càng có khuynh hướng làm cho nghệ thuật thành thâm sâu hơn hay phú cho nghệ thuật một đức thiện đầy tính tượng trưng.
Mặt khác, tư tưởng nghệ thuật Đông phương không chịu dừng lại ở chỗ nghệ thuật đã hoàn thành, nói một cách chính xác hơn, một tác phẩm nghệ thuật không phải là một đối tượng giản đơn do nghệ thuật gia tạo nên, và nó không dựa vào tự thân của nó. Một tác phẩm chỉ được coi là hoàn thành khi nó là nơi gặp gỡ của hai tư tưởng, một là nghệ nhân và một là khán giả kết hợp với nhau. Tác phẩm nghệ thuật chỉ hiện hữu với tính cách là giao lưu tư tưởng bằng hành động. Kết quả là các nhà nghệ thuật Đông phương không chỉ hoàn toàn chuyên chú vào sự vật, mà còn  phải chuyên chú vào sự vật có thể tiến hành sự giao lưu tư tưởng với tha nhân. Và đây gắn liền với mối quan hệ truyền thống là tu thân dưỡng tính, là một nghĩa vụ tiến lên một bước là phải ly khai tự thân tạo ra hiện tượng tự quên mình thành ra một thái độ mỹ đức nguyên thủy.
6.- Như đã kể trên, theo tôi đó lả tình huống  chung liên quan đến Đông phương và nghệ thuật thi ca của Đông phương. Nhưng chúng ta hãy khảo sát chúng tỉ mỉ hơn. Nhà bình luận của Nhật Bàn là Okakura Kakuzo từng nói: ”Nếu Á châu không phải hoàn toàn là tinh thần, thì nó không là gì cả”.Và sự đồng nhất của nó cũng là sự đồng nhất tinh thần. Nhưng trong sự đồng nhất vẫn có những sai biệt. Sự phân tích của chúng ta sẽ đưa đến một kết luận chính xác, là giữa hai loại hình nghệ thuật Ấn Độ và Trung Quốc có những điểm khác nhau,
Do cách nào mà nghệ thuật Ấn Độ hoàn tòan hướng về sự vật? Có lẽ tôi phải nói rằng, nền nghệ thuật ấy là tội phạm của sự vật, tức là nó tự đem linh hồn nó phó thác vào sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong sự vật để rồi bừng nở thành cảm giác tuyệt vời kinh thiên động địa.
Dĩ nhiên nghệ thuật Ấn Độ cũng như triết học của họ, là thấm nhập mục đích của tinh thần  thực dụng (nhưng là mệnh lệnh của tâm linh).
Một tác phẩm nghệ thuật được nghệ thuật gia sáng tạo không đúng bằng nói rằng đó là một công cụ được tạo ra do kết quả của một lãnh vực tư tưởng vô  hình. Tôi không chỉ nghĩ đó là những đồ hình uy nghiêm, nếu người ta có thể nói, đó là những guồng máy xuất thần của Yoga (thiền định), tôi cũng nghĩ đến sự biểu hiện tâm linh và nụ cười trong biết bao thánh tượng  của Phật Bồ Tát bộc lộ trạng thái an tĩnh từ bi và mặc tưởng  khi ngắm nhìn sự vật. Nhưng mặt khác, tất cả những gì không  phải của Thượng  Đế thì đều là ảo ảnh. Và mặt khác các thứ ảo ảnh thuần túy thì cũng là sự cụ thể hóa của Thượng Đế, với tư cách không hề tham dự vào thực tại sáng tạo, nhưng với tư cách là sự phản ánh trong mộng mơ - và cái Tự Ngã duy nhất (l’unique Soi) mới thật sự là Thượng Đế. Như thế chúng ta phải nói, thứ mộng mơ ấy là thần thánh thiêng liêng, giống như hoa sen tinh khiết bừng nở trên mặt ao hồ phẳng lặng, ao hồ đó cũng thiêng liêng, hay tất cả vạn vật đều thiêng liêng. Không hề có sự thanh hóa của các giác quan khổ hạnh cấm kỵ, mà chỉ có tự ngã khai triển, tự tiến hóa của sức sống nhục thể và tinh thần không thể chia cắt ra, cho đến giây phút cuối cùng  giải thoát sức sống và tất cả sự biểu hiện của giác quan hay trí lực.
Không hề có sự thăng hoa hướng về Thượng Đế thông qua các thứ thực tại sáng tạo (vì thế giới là phi thực tại và không hề có những sáng tạo thực tại).
Những hình ảnh trong mộng làm thế nào có thể dùng vào việc chỉ hướng về thực tại, về bậc chí cao, vậy chỉ có Thực Tại là độc nhất vô nhị sao? Bậc minh trí muốn đi tìm sự cô đơn thuần túy hay chân chính, thì chỉ có cách là chuyển hướng về cái tự ngã nội tại của chính họ.
Đối với những sự vật có thể thấy được, thì không thể giải thích hiện tượng  tâm linh (trừ phi trong những tác phẩm Phật giáo và Hy Lạp). Trong ảo giác và trong lãnh vực của cảm quan, nghệ thuật tự nó có chỗ cư trú. Nghệ thuật miêu tả ảo ảnh, nhưng nó lại bị giao phó cho ảo ảnh, và bị giao phó cho những hình thức cảm giác sung mãn, không hề bị ước thúc. Trong quan niệm của Đông phương, nhiệm vụ chủ yếu của nghệ thuật gia trong quá trình phát triển là phải tự đồng hóa với sự vật mà nó muốn biểu hiện chứ không được đối kháng. Trong khi nhà nghệ thuật có ý đồ. đạt đến cõi thiên nhiên, nó chỉ có thể khiến cho sức sống và tự ngã đồng hóa, cùng khiến cho giấc mơ của thế giới hướng về sự sinh sản mà canh tân không dứt tuyệt, mà còn dồi dào hoạt động trong  tính dục táo bạo. Nó bị thiên nhiên và sinh lực  phong  phú không thể hoản hòa biến dịch chinh phục.
Chính vì vậy mà như tôi vừa nói, nghệ thuật Ấn Độ luôn luôn chụp bắt ý nghĩa tiềm ẩn trong sự vật, và hiến thân một cách cuồng nhiệt vào sinh mệnh nội tại của sự vật và vẻ phong nhã ngoại tại của nó.
Quá ham cửu vị của nghệ thuật Ấn Độ, nó cung cấp cho chúng ta dồi dào những hình thái xúc động sảng khoái hùng tráng sắc bén, bi thảm động lòng, cũng có khi đầy khêu gợi, thô bạo; những hình thức đầy những chi tiết tinh xảo, hoặc cũng có khi là những phẩm vật được chế tài từ những giống thực vật vĩ đại và những thứ chế tạo thành phẩm nội bộ ấy lại như từ miền nhiệt đới hay tinh túy của rừng già. Nó cũng đưa ra các thứ vật phẩm lễ bái phong phú, và đồ trang sức. Nó khiến chúng ta từ cảm quan tiếp xúc với cái đặc trưng hư ảo của các sự vật mà nảy sinh ý niệm dao động, chúng ta không rõ tính hư ảo của sự vật tại sao không có sự bình hành, mà là kết  quả của một thứ hoạt lực nhục dục đầy mãnh liệt.
Một nghệ thuật đầy vẻ đẹp thì nó không đi tìm cái đẹp nữa, Nó luôn luôn có hiệu lực phục vụ cho một thứ thực dụng, chứ không có hiệu lực với tình ái, vu thuật hay tôn giáo. Ngay trong sự thành tựu đầy huy hoàng, nghệ thuật ấy vẫn nhớ đến chất liệu ban sơ nó là gổ hay là đất, cũng như thiên nhiên không có gì là vĩnh cữu Trong thế kỷ trước linh mục Huc đã nhìn thấy ở Tây Tạng một bức tượng đắp bằng “bơ”rất tinh vi.Thứ nghê thuật ấy không mấy hứng thú đối với hình thể đẹp con người là một bộ phận to lớn vô biên, là do một trong những cái bóng huyền dịu của thần nữ Shiva phóng ra.
7.- Nghệ thuật Trung Quốc cũng hoàn toàn chuyên chú đến sự vật, nhưng lại áp dụng một phương thức hoàn toàn khác với Ân Độ. Sự vật không phải là những tội  phạm của nghệ thuật Trung Quốc, cái họ chụp bắt được đúng hơn là một thứ linh hồn của chủ nghĩa siêu hiện thực. Thứ nghệ thuật ấy là nỗ lực suy tư để khám phá truy tầm cái tâm linh ẩn tàng  kín đáo trong sự vật, cái nguyên tắc nội tại của động lực hài hòa, tưởng tượng như nó là một thứ tinh thần u hiển linh dịu vô hình của tinh thần vũ trụ, cần nêu rõ ra và phú cho nó cái hình thức điển hình của sự vận động và sự sống.
Ở đây không có cái gì là tuyệt đối, là tối cao và tự ngã độc nhất; nhưng chúng ta có một đức tin quảng đại vô biên, sùng bái đối với Đạo - một thứ bản nguyên tối sơ, và đối với thần thánh trên trời. Đối với tín ngưỡng ấy, toàn bộ tinh thần hiện rõ thành thứ ”tiền tồn tại” (préexistent); rồi từ tinh thần tiền tồn tại đó mà giáng xuống trong sự vật tính ẩn tàng và tô tạo khích động nội tại.
Sự vật tự nó tồn tại, dù chỉ là một phương thức ngắn  ngủi - thứ tình cảm bẩm sinh, đã bắt rể ăn sâu trong tâm hồn người Trung Quốc, nhưng nó quyết không bị chủ nghĩa siêu thực của Phật giáo làm mất đi; sự vật không  phải là mộng ảo, tự nó có thực tại của nó. Như thế sự vật tự thân (vì nó đã tham dự vào  thưc tại chân chính) có thể theo tinh thần mà giải thích - nghĩa là do sự trầm tư mà khám phá và giải phóng tinh thần ẩn tàng. Và khiến cho sự vật bị giác quan đụng chạm đến cũng được tĩnh hóa, Chính sự tĩnh hóa và tâm linh hóa là mục đích chủ yếu của nghệ thuật Trung Hoa.
Từ đời Nam Bắc triều Tạ Hách đã đưa ra nguyên tắc hội họa nổi tiếng là Lục pháp (1.- khí vận sinh động, 2/- Cốt pháp dụng bút, 3.-ứng vật tượng hình, 4.- tùy loại phú hình, 5.- kinh doanh vị trí, 6.-truyền di mô tả). Khí vận sinh động là biểu hiện cái tinh thần cộng hưởng độc đạo, Khi nghệ thuật gia chụp bắt được thần khí nội tại của sự vật, đó là nguồn cảm hứng tương thông với vũ trụ. Pháp thứ 2 là “cốt pháp dụng bút” cũng mang đầy ý nghĩa. Nếu nét bút có kỷ thuật diễn tả được cốt cách của sự vật, đạt đến độ sáng tác họa phẩm mà như là một ngành của thư pháp. Đó là vì nét vẽ đầy sức sống và thần khí (với sắc điệu của mực), biểu hiện sự đốn ngộ về sự sống linh động,và sự kết cấu hài hòa trong sự vật, đồng thời nó cũng chứng minh cái giá trị linh cảm của nghệ thuật gia.
Sự trầm tư của họa sĩ Trung Quốc dung hóa với sự vật thành nhất thể không phải bị cuốn trôi theo giòng xung lưu của sự vật, mà là để thấu hiểu được tinh thần tự thân nội tại của sự vật. Họa sĩ thu hút sự vật về với mình, nó khiến cho sự vật mang một ý nghĩa tâm linh, gạt bỏ những cảm giác chán ngấy, các hình tháí nhục thể, và màu sắc cũng như tất cả các chi tiết phong phú hay những trang sức rườm rà, mà cố gắng làm cho bản thân sự vật trở thành hòa hài trên lụa hay trên giấy, điều mà chính sự vật chưa hẳn đã có, đồng thời còn phải bộc lộ sự liên hệ mật thiết giữa tâm linh con người với sự vật. Nó vừa hưởng thụ cái đẹp nội tại của sự vật, vừa dẫn dụ nhận thức cái đẹp ấy. Như thế đúng như tôi vừa nói ở trên, nghệ thuật gia Trung  Quốc lo việc chụp bắt sự vật.
Nghệ thuật Trung Quốc hoàn toàn khác với nghệ thuật Ấn. Sự khác biệt đó là nghệ thuật Trung Quốc dành cho tác phẩm khoảng trống không gian và sự im lặng thời gian; và điều quan trọng là tạo ra uy lực trong sáng tạo; vì theo quan niệm của Đạo giáo (học thuyết Lão tử), cái không hiện hữu lại có ý nghĩa hơn cái hiện hữu. Điều đó khiến cho hội họa Trung Quốc đặc biệt tiếp cận với âm nhạc, vì trong âm nhạc điểm im lặng cũng quan trọng như điểm phát âm thanh – trong khi những tác phẩm nghệ thuật của Ấn hoàn toàn tràn ngập sự bộc lộ cuộc sống không gì cản ngăn lại được, và phát triễn những hình thức biểu cảm. Ở Trung Quốc không có khoa phân tích về các mối quan hệ cũng như bận tâm về môn giải phẩu học như ở Ấn Độ. Thế nhưng một con ngựa chạy nhanh ở Trung Quốc chính là sự thể hiện tinh thần vận động đầy sinh lực của con vật; trong khi những con ngựa và voi ở Ấn Độ, những vũ đạo và những tiên nữ trong rừng sâu là những tia sáng của bánh xe thiên nhiên biểu hiện những cảm giác hoan hỷ hay kinh sợ. Tính lưu động của nghệ thuật Trung Quốc giống như một bài thơ có thể ngâm nga, trong  khi sự lưu động của nghệ thuật Ấn Độ giống như con sông lớn nước tràn bờ.
Cuối cùng nói về thái độ đối với cái đẹp trong nghệ thuật – là một vấn đề khó khăn, ta sẽ chỉ đề cập sơ qua ở đây – như tôi đã nói, nghệ thuật Ấn Độ không quan tâm đến cái đẹp trực tiếp. Nếu người ta phẩm định rõ mục đích tự giác của nghệ thuật gia về động lực sống tồn tại của sinh mệnh hướng về hiệu lực tính thiện trong tác phẩm nghệ thuật, thì có thể nói một cách chính xác rằng nghệ thuật Ấn Độ (nếu không che đậy đi) thì nghệ thuật gia Ấn Độ đều không hề truy tầm về cái đẹp, tôi chỉ về cái đẹp vì đẹp. Nghệ thuật gia Trung Quốc cũng không truy tầm cái đẹp tự thân – họ cũng không khác gì những nghệ nhân thời Trung cổ của chúng ta, không truy tầm cái đẹp vì cái đẹp, nhưng lại truy tầm cái đẹp đích xác tối cao, vượt qua thế giới vật chất. Nói một các khác, đối với việc truy đạt về cái đẹp không phải chỉ loanh quanh trong ý thức của các nghệ thuật gia Trung Quốc hay các nghệ thuật gia thời Trung cổ; tuy họ thưởng thức cái đẹp của sự vật, họ lại muốn sáng tạo ra cái “tốt”, và nghĩ sao cho tác phẩm ấy thành công cụ chỉ đạo tinh thần. Nhưng nghệ thuật Trung  Quốc cũng như thời Trung cồ luôn luôn truy tầm cái đẹp tối cao, nhắm vào đích siêu việt thế giới vật chất, và với một cách vô ý thức chỉ thúc đẩy trong động lực tìm cái đẹp vì đẹp là chủ yếu, trong khi đó ngược lại, nghệ thuật Ấn Độ, như tôi nói, động lực tự thân của nó không có ý hướng nhắm vào mục tiêu của cái Mỹ, mà lại nhắm vào sự tồn tại hoặc  có sức hấp dẫn mà không mang tính lâu dài; hoặc sử dụng vào mục tiêu tối cao, đặc biệt là hướng về sự thể nghiệm tâm linh. Cái tính thiện của nghệ thuật dù không tìm kiếm, nhưng lại dùng phương pháp ấy để đạt đến cái đẹp. Về nghệ thuật Trung Quốc, dù nó thích thứ vẽ chân dung. nhưng nó lại chưa từng phát hiện về cái đẹp của hình thể con người. Niềm hứng thú của nó không phải cái đẹp về hình thể con người, mà là vẻ đẹp về phong cảnh và hoa điểu..
Tôi vừa nêu ra  những đặc điểm của nghệ thuật Trung  Quốc với một số ý nghĩa của nó rất gần gũi với nghệ thuật của chúng ta hơn là nghệ thuật Ấn Độ. Nhưng nghệ thuật Trung Quốc vẫn biểu hiện được cái ưu điểm sự vật, nó là đặc điểm chi phối chung của nghệ thuật Đông phương. Khốn thay, căn cứ theo khuynh hướng khách quan, nghệ thuật Trung Quốc tạo cho sự vật có tinh thần sống động và sinh khí, mà rồi thành  ra một thứ công thức điển hình chung cho các loại sự vật. Thậm chí người Trung Quốc rất ham mê qui pháp kỹ thuật, những điển chương hóa, rất sùng bái những danh nhân, những bậc thầy, nên những tín đồ phải noi theo những vết chân của thầy, mô phỏng theo họ một cách trung thực, khiến cho nghệ thuật Trung Quốc dễ rơi vào phong khí dẫn dụ của học viện. Điều này cũng giống như nghệ thuật của chúng ta gây ra sự chán ngấy, do đó mà những cây trúc vẫn mãi mãi duy trì bản tính mềm dẻo của nó không bao giờ biến đổi, cũng như cây đào, cây mai cương cường dũng mãnh đợi đến đông về mới nở hoa, những hoa lan đầy thuần khiết, chỉ bừng nở dáng kiều mỹ của nó giữa cảnh hoang dã tĩnh lặng, những hoa cúc vì mang tính chất cao cả của một tâm hồn ẩn dật, cũng như núi cao hùng vĩ luôn luôn như nở nụ cười mỗi bận xuân về (trăm hoa đua nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc.), để khi đông đến thì như chìm vào giấc ngủ triền miên, và đời bác nông dân thì sống thuần phác, phụ nữ thi yểu điệu dịu dàng, trong khi các vì tướng  soái thì lúc nào cũng  hào hùng  gan dạ.
8.- Tại sao chúng ta lại thảo luận về nghệ thuật Ấn Độ và Nghệ thuật Trung Quốc? Để rồi cuối cùng rút ra được cái gì? Điểm điển hình khác nhau giữa hai nền nghệ thuật không phát xuất từ chỗ con người chú ý đến sự vật, mà chính là từ chỗ sự vật chú ý đến người. Tất cả những nét đặc biệt mà tôi nêu ra chỉ là để biểu hiện các cơ cấu con người không thấy được, nó là tinh thần hay là nhục thể, là tôn giáo, là tri tính hay tình cảm, nó được tạo ra từ thiên nhiên hay lịch sử, xác quyết từ thích ứng hay tự do, cái căn bản biểu hiện của nó thuộc chủ quan tính của nhân dân Ấn Độ hay Trung Quốc, chính là sự kiện tiếp cận thi tính đặc biệt của một trong hai nền nghệ thuật – ngay cả trong hai trường hợp, nó không tự quay về với cái ngã con người, mà chỉ chú ý vào sự vật – sự kiện tuy xuyên qua tác phẩm, trong thực tế  không chỉ là sự mặc khải lờ mờ những sự vật, nhưng với phương thức vô ý chí không thú nhận che đậy – một thứ mặc khải tự ngã lờ mờ tối tăm, mặc khải tập thể của Ấn Độ hay của Trung Quốc.
Ngoài ra phải kể đến nghệ thuật Ấn Độ và nghệ thuật Trung  Quốc, trong sự kiện nhân thế đã trải qua nhiều thế kỷ liên tục tiếp xúc với nhau, cùng những biến chuyển và kinh nghiệm, mà phân chia ra những môn phái và những  phong cách khác nhau. Trong những trường phái ấy, mỗi trường phái phải có thơ, có phương thức truyền đạt, đặc biệt để sản xuất ra những tác phẩm, triển hiện những sự vật lờ mờ, và sự mặc khải tối tăm mang tính chủ quan tập thể.
Cuối cùng chúng ta hãy tìm hiểu bản thân tác phẩm cá biệt, những tác phẩm vĩ đại, xuyên qua những thời đại, đem lai cho chúng ta một thứ sáng tạo tính không sao quên được. Sự tồn tại và quán xuyến của nhà nghệ thuật Đông phương khiến cho chúng ta phải khâm phục về tính siêu nhiên của bản thân và sự nỗ lực thuần túy hướng về sự vật, trình hiện tính thuần khách quan trong sự vật. Đó là linh hồn cá nhân của nhà nghệ thuật, đặc tính tình cảm của nó đơn nhất và tự thân nó đơn nhất chủ quan với tính áo bí, và hư không của đêm tối. Tất cả những thứ đó, ngoại trừ tự thân nó ra, đều trình hiện lờ mờ trước mặt chúng ta. Sự thật, cá tính của nghệ sĩ đông phương đối với sự vật hầu như bị quên đi và giết chết, nhưng trong tác phẩm cá tính nó lại được trình hiện và phục hưng rất nhiều.
Như thế tôi có thể bảo tồn kết luận, một kết luận không toàn bộ, vì nó chỉ liên quan đến nghệ thuật Đông phương, tức là nghệ thuật Đông phương đối lập với chủ nghĩa cá nhân của Tây phương, không bao giờ nói về cái “tôi” (je). Nó hết sức giấu cái tự ngã của con người và chỉ chú ý đến sự vật. Trước hết chủ yếu nó hướng vế quần thể và biểu hiện cái nội dung siêu tự nhiên, đặc biệt là từ thiên và sự vật mà có ý nghĩa và yếu tố nội dung thiêng liêng. Nhưng trong sự vật hiển hiện hàm nghĩa áo bí của một thứ ý nghĩa rộng rãi, nghệ thuật đông  phương cũng không thể cản ngăn sự mặc khải, dù trong lơ mờ, cái chủ quan sáng tạo của nghệ sĩ. Càng có tri thức thi tính càng làm cho nghệ thuật thành sống động hiểu được và biểu hiện bộ mặt nội tại của sự vật, cùng lúc nó càng hiển thị và biểu hiện cái tự ngã con người càng nhiều.
Đối với nghệ thuật Hi Lạp cũng có một kết luận giống như vậy  tôi xin dùng vòng ngoặc, nó không thích hợp với nghệ thuật Islam (Hồi giáo). Do họ bị hạn chế trong việc miêu tả hình tượng, ít nhất là trong những công trình công cọng, được phát triển trong những đường nét thuần túy trừu tượng khách quan. Nghệ thuật của Hồi Giáo chuyên chú vào sự hòa hài, của toán số và nhịp đi của chỉnh tề. tuy nhiên trong tất cả các cửa kính có hình hoa hồng, và những đường cong lặp đi lặp lại, trong tất cả những tràng hoa, và trang trí lá cọ, trong tất cả bông hoa và dây hoa và trong sự vui thích đều phô bày màu sắc, nó vẫn không tự giác đối với tình cảm sinh động trong sự sáng tác, bị cái ngọn lửa âm ỉ của tri tính làm tàn rụi tính chủ quan sáng tạo.
Trở lại với nghệ thuật Hy Lạp, chúng ta biết (đây là một thứ ý kiến cũ kỷ nhưng là chân lý đủ để chúng ta đi vào việc luận bàn) trên một điểm nào đó nó chúng tỏ tính thần bí của Hi Lạp với tính cách là lý tính đốn ngộ. Con người và lý tính đụng độ với các thứ nguyên động lực của vũ trụ áp đảo những cạm bẩy đầy mưu mẹo của các thần giăng ra, nó vẫn dứt khoát tìm hiểu sự kỳ bí của thiên nhiên bất biến, ở đó nó bị khép kín trong cuộc sống, mà tốt nhất là nó đừng sinh ra. Chúng dùng quan niệm vô hình võ trang tranh đấu với sự vật; Orphée quyến rủ thú dữ, mà vẫn bị tửu thần Menades xé xác. Thần số mệnh  hủy diệt và tự do đối diện nhau. Nếu ý thức nghệ thuật đến với sự vật vốn có khả năng siêu nhân, thần thánh, hoặc vu thuật hoặc là lực lượng thư hùng  khác nhau, nó phấn đấu tìm hiểu sự vật, và rút ra khỏi cơ cấu của lí tính.
Chính là lúc có sự xung đột và trương lực làm cho sự vật trở thành bí ẩn khó hiểu và ý nghĩa nguy cơ. Khi trình hiện lí tính vẫn thắng lợi, nghệ thuật Hi Lạp đạt đến sự huy hoàng lộng lẫy độc nhất và bất tử. Về sau nghệ thuật Hi Lạp được cái may mắn là bảo toàn được một số tác phẩm hoàn toàn không phải so sánh nữa, tự nó đạt được phương thức thơ chân chính; nhưng cuối cùng lại phải khuất phục hai con đường láo liếng là mô phỏng và lý tưởng hóa. Khi nó rơi vào thời kỳ suy thoái, nghệ thuật Hi Lạp do khuất phục quyền lực “vật- tự- thể” mô phỏng, lại do hướng về sự truy tầm cái đẹp lý tưởng cũng của vật tự thể mà suy thoái. Nó lại càng tự mãn với hình thức hoàn toàn hợp lý hóa, nhưng tự nó hạn chế lấy nó mà còn không phản ánh được gì, vì định thức vừa câm vừa điếc, đó là sự khâm phục của Praxitele ban cho (nhà điêu khắc ở Athenes thời 370-330 tr. CN) các sử gia nghệ thuật. Như tôi đã từng nói, nghệ thuật Trung Quốc hoàn toàn ngược lại với nghệ thuật Hi Lạp, không chỉ ở trong phương diện nghệ thuật, mà còn ở ngay bản thân nghệ thuật gia, trong phương thức rất tự giác, và rất minh xác trong việc đi tìm cái đẹp. Đó là cả một hiện tượng lịch sử to lớn trong đời sống tinh thần nhân loại, là việc giải phóng giá trị siêu việt của cái đẹp vũ trụ, nó là sự tham dự phẩm tính của các thần, đồng thời cũng là sự tiến triển tinh thần của nhân loại hướng về ý thức tự ngã của một giai đoạn không có gì để so sánh (dù rằng nó mang tính chất rất tư nhiên mà Platon đã la réo là mỹ rất nguy hiểm). Trong lãnh vực khách quan mỹ nghệ thuật Hi Lạp lãnh hội được đặc quyền của con người, nó biết rằng cơ thể con người là cái đẹp nhất trong thiên nhiên; nó đạt đến trình độ cực mạnh trong sự phô bày. Nghệ thuật Hy Lạp rơi vào việc sùng bái hình thể trước mặt của con người. Chính vì vậy, nghệ thuật Hy Lạp bị thất bại vì hình thể con người và thiên nhiên, qui phục trước vẻ đẹp bên ngoài của vật tự thể (chose-en-soi), và sùng bái cái cơ thể của con người.
Để kết luận cho đoạn bình luận vắn tắt vừa nêu, chúng ta cần phải thấy ngoài sự khác biệt giữa nghệ thuật Hy Lạp và Đông Phương, chúng vẫn có những đặc trưng cộng đồng, như cả hai đều nhắm đến sự vật, không kể nghệ thuật gia chú ý hay nhận thức, mà trong tác phẩm vẫn không có cái không khí và phản ánh tính chủ quan trong sáng tạo. Để chống lại với sự vật và thiên nhiên, nghệ thuật Hi Lạp luôn luôn quay về với con người. Mà ưu tiển là khuôn mặt, dù rằng nó không chỉ là đối tượng khách thể trong thiên nhiên và là sự vật trong vũ trụ, lệ thuộc vào sự hoàn mỹ và thần tính của sự vật. Chính xác, một thứ cá nhân chủ nghĩa bắt đầu, xác định rằng  nó chỉ là sự liên hệ của kỷ năng hay kỷ xảo của nghệ thuật gia, chứ không phải là bản chất tự ngã của ngệ thuật gia. Có thể nghệ thuật gia Hy Lạp ít quên mình như nghệ thuật gia Trung Quốc; nhưng họ không quan tâm đến sự chú ý hay sự cạnh tranh mà chỉ quan tâm đến bản chất của chính họ. Tính thần bí nội tại của cá tính chưa được bộc lộ ra với mọi người.
Sự biểu hiện tự  ngã.
9.- Chính là dưới hình thức thần học, và khái niệm trừu tượng cực điểm về con người và sự tồn tại của nó lần đầu tiên mới được trình bày rõ ràng, về tư tưởng con người được biết trong công thức giáo điều của tín ngưỡng Thiên Chúa giáo là “nhất cá tam vị thiêng liêng” (la divine trivinite) - sự hóa thân của con người - một con người của thần lực nhân tính, tinh thần con người cùng lúc tìm thấy trước một ý niệm mới về Người - Phúc âm và thánh Paul tiết lộ cái ưu thế siêu việt nội tại của con người hơn con người ngoại tại, cái ưu thế của linh hồn, trong cuộc sống nội tại hợp pháp và ngoại tại - và nó có thể trầm ngâm về con của Chúa với vòng gai trên đầu, đó là tinh thần ngưng tụ về tự ngã sâu xa sống động và đầy thần bí..
Thế thì từ khi chúa Jesus giáng sinh về sau, kéo dài hàng bao nhiêu thế kỷ, nghệ thuật theo đường lối nào? Để tóm tắt cả một lịch sử dài dòng, trong quá trình tiến triển đó chúng ta phải nói rằng nghệ thuật cực kỳ đa dạng, nghệ thuật Tây phương đã trải qua từ ý nghĩa con người hiểu như một đối tượng, và trong tự ngã điển hình thiêng liêng của Chúa, đến ý nghĩa con người do thi nhân hay nghệ sĩ sáng tạo theo chủ quan tính của mình.
Tôi sử dụng phương thức đồ giải gần đây nhất để trình bày các giai đoạn chủ yếu của sự phát triển như tôi hiểu. Trong giai đoạn một, tính thần bí của con người chỉ xuất hiện như một sự vật khách thể, nhưng là trong thế giới sự vật siêu việt. Con người xuất hiện trên cao thiên nhiên và chinh phục cả thế giới. Người ta có nghệ thuật Byzantin, rất gần gũi với ý nghĩa của nghệ thuật Đông phương, tuy rằng những sự vật rất tự do, nó ảnh hưởng hình ảnh trang nghiêm và tráng lệ của Chúa, áp dụng kiến trúc basiliques với những hình khảm cẩn vĩ đại; chói lọi tinh thần của thế kỷ man rợ của thời La Mã cổ điển và Ravenne, về sau trở thành nghệ thuật La Mã. Thực tại to lớn của linh hồn con người được trình hiện càng ngày càng nhiều, nhưng vẫn chưa xuất hiện được, ngay đối với chất liệu của đối tượng, nó vẫn còn bị ý nghĩa của giáo điều che khuất, đó là hình tượng tượng trưng của tri tính và tế tự tính thiêng liêng của Chúa dàn trải khắp các sự vật.
Trong giai đoạn thứ hai, tính thần bí của con người vẫn xuất hiện trong cái nhìn của đối tượng thuần túy, trong thế giới siêu việt của đồ vật. Nhưng thời bấy giờ là thời của kiến trúc Gothique, nhất là sau thánh Francois d’Assises khám phá được tính thần bí của con người sâu xa hơn. Chính là thời kỳ của Duccico, của Giotto, của Angelico, của Pictas Pháp và Tây Ban Nha, trong ngọn lửa cuối cùng của Grienervald, nghệ thuật vẫn còn bị linh cảm tế tự chi phối, Chúa cứu thế vẫn còn ở địa vị trung tâm; nhưng là Chúa trong tinh thần nhân đạo, của đau khổ và sám hối, quanh Chúa là Thánh mẫu đồng trinh, và tất cả các thánh với đặc tính cá nhân mạo hiểm và những nhân vật nhân đạo có vai trò đặc biệt trong cuộc sống con người, và tất cả thiên nhiên gắn liền với con người trong ân huệ của Phúc âm. Linh hồn con người chiếu sáng khắp nơi xuyên qua những ngưỡng cửa thế giới khách quan, cái tự ngã nhân loại càng ngày càng hiện diện trên vũ trường cuộc đời, với tính chất là đối tượng nghệ thuật trình hiện trước mắt chúng ta.
Đến lúc nghi thức trật tự của Cơ Đốc giáo không còn được đề cao, và con người bắt đầu cảm thấy đối địch với một vị tri tự do mà nó vừa khám phá được, thì cũng là lúc nó cảm thấy mất mát trong sự cô đơn. Con người liền chú ý đến vũ đạo chết chóc, và vũ đạo buồn thảm (của chủ nghĩa tồn tại) vào cuối thế kỷ thứ 15.
10.- Trong giai đoạn thứ ba, ý nghĩa tự ngã và chủ thể tính xâm nhập vào quá trình quốc tế hóa, và xuyên qua phương thức mà nghệ thuật gia chuyển hóa thành tác phẩm, Về sau khi mà chủ nghĩa cá nhân phát sinh, thông thường người ta gọi là nghệ thuật phục hưng, nghệ thuật baroque và là nghệ thuật cổ điển. Đến đây chúng ta không chỉ là - cùng lúc chúng ta ý thức cái thiện của nghệ thuật hay nghị lực của tri tính - ý thức tự ngã của nghệ nhân mạnh hơn so với nghệ thuật gia của Hy Lạp. Trước tiên phát hiện ra là có một thứ giải phẩu tri thức đối với chức nghiệp của nghệ thuật gia cũng như của nhà khoa học, về hình nhi thượng học là khám phá ra các môn học mới mẻ, nhận thức thấu đáo cơ thể học, toán học, phối cảnh, sự biểu hiện chiều thứ ba (tức chiều sâu trong hội họa). Đó là niềm chiến thắng tự hào của người Ý trong lần phục hưng thứ hai. Song le tôi cho rằng có cái gì sâu xa hơn, nó mới kéo dài và phát triển trong nhiều thế kỷ tiếp theo: đó là cá tính của nghệ thuật gia hằng chú ý đến cái khách thể chân chính trong thiên nhiên, tạo thành áp lực vô thức mà trong khi sáng tác nghệ thuật gia được biểu hiện tự do.
Dĩ nhiên với ảo ảnh xưa vẫn tồn tại trong bối cảnh tư tưởng của Leonnard De Vinci (với tư cách là lý thuyết gia chứ không phải là nhà nghệ thuật), khi mà ông ta ca tụng sự mô phỏng hoàn mỹ thiên nhiên trong nghệ thuật hội họa, phải chăng nó luôn luôn ở phía hệ tư tưởng, nhưng sự thật thì nó bị phủ nhận. Họa sĩ không bao giở truy tầm sự tương tợ ở bên ngoài. Hình thức ngoại tại không thể mô phỏng, nhưng chỉ có thể diễn tả (interpréter) - chính vì vậy mà qui tắc của Michel Ange cung cấp cho hoạt động của hình tượng bằng hình thức ngọn lửa, từ trước đến giờ đó là nguyên tắc được chấp nhận. Nhất là đối với ngoại hình thiên nhiên, mặc dù đươc quí mến và tôn thờ, nhưng lại bị cảnh vật thiên nhiên lôi kéo trong sự tưởng tượng phong phú tự do. Véronese từng nói: “Họa sĩ chúng ta được tự do phóng túng như thi nhân và người điên” Allston (nghệ thuật gia của Mỹ) khi nhận xét về Titien, Tintoret, Véronese nói rằng: “Họ không chỉ đưa ra ý tường như mọi người nghĩ, mà đúng hơn trong địa hạt của tưởng tượng, họ còn đưa vào đấy năng lực của âm nhạc,- nếu tôi có thể nói như vậy - do sự khích động tương tợ, khiến họ kết hợp được ảo giác “của linh hồn trong thiên đàng”. Nói một cách khác, họ để cho khán giả thiết lập vai trò chủ thể (tức khả năng tưởng tượng), miễn là họ có khả năng tưởng tượng nếu không  tác phẩm của họ không có ý nghĩa gì cả mà phải phủ lên đó tấm vải màu che đậy lại.
Vào thời kỳ chúng ta nói, thiên nhiên cùng với hình thức cảm xúc, luôn luôn như vật tự thể (chose-en-soi) độc lập trước mặt nghệ thuật gia. Nghệ thuật gia chính xác không giống như tác gia thời Trung cổ theo tự nhiên để rút ra các thứ tượng trưng của thực tại siêu nhiên, họ không tin theo như Milan: Bức tranh đẹp không có gì khác hơn là sao chép hoàn mỹ các vị thần cùng với sự thống khổ và hồi ức của họ. (Nói thêm, đây là sự tiếp cận đặc biệt với ý thức hiện đại, đó là âm nhạc, và chỉ có toàn luật của trí năng mới có thể hiểu được và không phải là không khó khăn). Nhưng nghệ thuật gia bao giờ, đối với việc tìm kiếm trong thiên nhiên, giống như chủ nghĩa cổ điển của Hy Lạp, cái đẹp lý tưởng của khách thể mà cảm quan nắm được cự ly còn quá xa. Thiên nhiên từ sự vật hấp thụ của thế giới tưởng tượng với sự ban trợ và hợp tác tạo thành nguồn linh cảm, và cái chủ thể chuyên chú là cái quả của sự tưởng tượng sinh từ thiên nhiên và thấm nhuần thiên nhiên, rồi đem cái quả tưởng tượng ấy trình hiện trước mặt chúng ta. như thế một mặt nó vẫn giữ y nguyên khách thể - trở thành ý nghĩa mà tôi vừa xác định là “chủ thể được trình bày” có uy quyền tối cao. Nhưng một mặt khác, xác thực nó biểu hiện cái cá tính và phong cách, mặc dù đó là hoàn toàn chính xác, nó vẫn khát khao đạt đến phong cách hơn là có một phong cách. Vào thời đại thịnh hành mối quan hệ điển hình giữa thiên nhiên và nghệ thuật gia, tác phẩm so với dĩ vãng càng công khai hóa, tất nhiên nó phải mang dấu hiệu của tác giả. Đó là sự biểu hiện ngoại tại đích thực của những trường phái và kỷ thuật hổ tương đối lập từ đầu thế kỷ 16. Thậm chí hình thành trong tác phẩm nhân tố cá tính rất mạnh đến độ ngay những nghệ thuật gia vĩ đại thực tế không biết gì đến nghệ thuật của người khác. Michel Ange rất hà khắc đối với nghệ thuật Flamande, “thứ họa sĩ vẽ được lắm thứ, nhưng không vẽ được một thứ cho ra hồn,” và Greco nói về Michel Ange rằng: Ông ta là người tốt nhưng không biết vẽ’ Vào thế kỷ 17, 18 là thời hòa hài trí lực hoàn mỹ, là thời cực kỳ thịnh hành qui tắc sáng tạo của tính mẫn nhuệ và lý tính trực giác đáng kính. Chủ trương cá tính của nghệ thuật gia được hoàn toàn tự do, ít nhất là trong những tác phẩm nghệ thuật cổ điển vĩ đại. Một nền nghệ thuật như thế từ lình cảm thiêng liêng của thần giải phóng, nên trở thành nghệ thuật chân chính của người. Nên không phài chỉ có Rembrand (1606 - 1669), Zurbaran (1598 -1664), hay George de la Tour (1593 -1652), mà cho đến những bức chân dung của Velasquez (1599-1660) hay những hình ảnh của Vermeer (1632-1675), những bức phong cảnh của Poussin (1594-1665), hay của Claude  Gelee (1600-1882); trong những bi kịch và những màn vũ nữ của Watteau (1684-1721), đều mở rộng, cách này hay cách khác, với tinh thần tín ngưỡng thâm sâu phát xuất của tôn giáo.
Nhưng chúng ta đều biết rõ, nghệ thuật cổ điển bị đe dọa, bởi kẻ thù kinh niên là lí tính sáng tạo, phong khí học viện của chủ nghĩa thiên nhiên, sùng bái các phương pháp hoa mỹ. Mạt lộ đến khi mà ý nghĩa tượng trưng hoàn toàn bị mất trong sự hủ bại của chủ nghĩa cổ điển. Nhưng ngay trong giai đoạn vĩ đại, về lý thuyết được duy trì, nó là chủ thể ngoại lý và lý tính hòa hài, cùng với thị giác cung cấp cho cảnh tượng khách quan có thể lý giải; nỗi lo âu trội hơn, không thôi kiềm chế hay khống chế tính chủ quan sáng tạo, và áp bức thơ phải thông qua một chướng ngại thường trực, có thể để cho nó tự tìm thấy sự may mắn vĩ đại mà không biết, và để có một khẳng định mạnh mẽ của sự tự do độc đáo.
Thật là hiếu kỳ khi đi tìm hiểu về thời kỳ của thế kỷ 18, Chardin từng trình bày (có thể là từ đã được tu chỉnh theo lối viết của Diderot) đối với sau chủ nghĩa lãng mạn, thi nhân không thể không tạo ra một thứ nghệ thuật bình thường chuyên về ý hướng  biểu hiện cái trạng huống bi thảm của nghệ thuật gia. Nhưng so với sự sáng tạo tự do trong bi kịch nội tại, ông thấy rõ những kết quả không tốt trong sự huấn luyện của học viện. Chính vì vậy ông nói rõ trong buổi diễn thuyết trao giải thưởng cho Hội đồng chấm giải của salon năm 1765. Vào lúc 7, 8 tuổi người ta trao cho chúng tôi một cây bút chì. Chúng tôi bắt đầu vẽ theo mẫu tượng thạch cao những mắt, miệng, mũi, tai, rồi chân tay… Sau khi đã tiêu ma hàng trăm ngày đêm bên ngọn đèn dầu trước thiên nhiên không biến hóa, chẳng sống động; rồi người ta mới cung cấp cho chúng tôi thiên nhiên sống động. Và rõ ràng những công việc của những năm trước đó trở nên như vô nghĩa. Tất nhiên là phải học tập ngắm nhìn thiên nhiên, và chú ý đến những vật chưa từng thấy, đồng thời cũng phải nhìn lại nó. Đó là cuộc  sống đầy khổ sở của chúng tôi. Người ta đã hạn chế, giữ chúng tôi hàng năm, sáu năm trước mô hình, thay vì người ta phải cho chúng tôi phát huy tài năng nếu chúng tôi có thiên tài. Tài năng không thể hiển thị trong giây lát, không phải chỉ một lần thử nghiệm là người ta có thể thừa nhận khả năng của nó. Thật ra phải trải qua những thích thú, những khốn khổ, những năm tháng quý báu của tuổi trẻ phải trôi qua với những chán nản, mệt mõi, buồn bực, phải đến…, phải làm như thế nào mới trở thành… Tự mình phải đặt mình trong những điều  kiện vô cùng khốn khổ, phải đói khát hay chết đi sống lại, cánh cửa yêu thương mới mở ra… Người ta chọn cái phần cuối cùng, trừ thiểu số cứ hai năm một lần đến nới đây để tự thân họ bộc lộ  bày ra cái thú tính, còn những người khác không biết hoặc không thích thú gì, như nhà trường kiếm thuật đặt áo giáp lên ngực, hoặc trong quân đoàn phải mang súng trơn trên vai… Những ai chưa cảm được sự khó khăn của nghệ thuật, quyết không thể làm được gì có giá trị, những người cảm thấy khó khăn sớm qua cũng không làm được gì.
11.- Tôi đang thử phân tích sự tiến triển của giai đoạn thư tư này phù hợp với thời vĩ đại của hội họa hiện đại. Sau khi chủ nghĩa lãng mạn chuẩn bị công tác bắt đầu vào khoảng gần nửa thế kỷ của thế kỷ 19 vừa qua. Và dường như nó xâm nhập những nguy cơ nghiêm trọng trong thời đại chúng ta. Trong giai đoạn này, quá trình nội tại hóa đã hoàn thành, ý thức con người xuyên qua từ khái niệm quá độ của con người đến kinh nghiệm của tính chủ quan, nó đạt đến hành động sáng tạo tự thân. Hiện tại tính chủ quan được triển hiện, mà tôi gọi là sự sáng tạo. Đồng thời mà cũng là lý do  trực giác phát triển, và tính chủ quan thông qua phương pháp thuần cá tính hóa, mà chủ thể tương thông với thế giới trong hành động sáng tác. Đối với như cầu cơ bản của tự ngã biểu hiện, qua sự giải thoát làm sống động mối liên hệ mới giữa nghệ sĩ với sự vật và cung cấp cho nó cái đặc tính điển hình ý nghĩa nội tại của sự vật, xuyên qua cái tự ngã các nghệ thuật gia nắm được cái bất khả tư nghị, nó cùng với cái tự ngã nghệ thuật gia được biểu hiện trong tác phẩm. Đó là thời khắc thơ ý thức được tự thân.
Trong những bộ phận khác của sách này, chúng ta sẽ thảo luận tinh thần của sự vật. Hãy phân tích rõ ràng hơn về thi nhân và những họa sĩ, vì họa sĩ dù thế nào, vẫn luôn luôn gắn liền với thế giới thị giác. Chúng ta chỉ cần nêu ra một vài yếu điểm; ngày nay hội họa hiện đại đối với sự chi phối của chủ thể đã được giải phóng (điều này tôi đã nói qua trong kỳ quan của tưởng tượng) và cùng một nguyên nhân, đối với hình thức hiển thị ngoại tại khách quan của sự vật, trong đòi hỏi sự hài hòa của lý tính đã giải đáp rồi. từ nay về sau chỉ có tác phẩm mới là khách thể mà thôi. Họa chỉ liên quan đến hội họa, không có đo lường với bất cứ cái gì có một giá trị tự thân cá biệt..
Tất cả những bàn luận đều là đúng, nhưng chỉ đúng có một nửa. Ví chúng ta thấy gì ở những nghệ thuật gia vĩ đại hiện nay? So với dĩ vãng có những người rất chú ý đến thiên nhiên, tuy rằng không phải tất cả như thế, những người cùng một nguyên nhân truy tầm cái tự ngã dẫn đến sự vật thiên nhiên, ngoại hình bên ngoài của thiên nhiên, trong sự tìm kiếm tuyệt vọng trong sự tìm kiếm mỗi người dùng một phương thức khác nhau) họ không biết thực tại sâu xa áo bí là gì, ý nghĩa sự vật rất mơ hồ, cái ma lực của sự vật đã làm cho mỗi người suy tư khác nhau. Sự chinh phục bằng cây cọ, bảng màu, đối với thực tại không có tên gọi đã làm cho con người dấn thân và hi sinh cả tài năng, cả cuộc đời, và chạy theo sự hiểm nguy. Sở dĩ đến như thế là vì chủ thể sáng tạo tự thân không thức tỉnh mải mê kết giao với sự vật. Mối liên hệ với thiên nhiên đã biến đổi, nhưng mối quan hệ đó không xóa bỏ được. Thiên nhiên với họa sĩ không phải là vật tự thể đối lập, nhưng trong cội nguồn của tác phẩm cái mầm của khách thể sanh ra, về phương diện nội tại lại nhập vào đáy lòng của chủ thể sáng tạo.(Họa sĩ nếu nó thiếu đi cái sức tưởng tượng của thơ thì nó không là gì cả). Càng thâm nhập vào sự quan sát nội bộ của sự vật, tuy rằng sự vật và tự ngã của nó đều rơi vào sự tối tăm. Nó không thề suy luận để hiểu một phương nào của thế giới vật chất áo bí hóa một bộ phận nào. Từ phương diện hoặc một bộ phận chỉ ra sự cấu tạo thành đường nét và màu sắc. Và vì chủ thể tính đã thành vật môi giới chân chính xâm nhập vào thế giới khách quan, nhân đó không thể thấy được sự mong mỏi của sự vật, mà triển hiện cái tự ngã của họa gia, tất phải có cái nội tại thâm áo tương đồng và tiềm lực vô cùng vô tận. Chính vì vậy, hội họa hiện đại tuy đạt đến thời kỳ toàn thịnh vẫn giữ phong cách là họa, nhưng lại đạt đến một thứ bản thể luận mênh mông, và đạt đến độ tri tính siêu việt, nhưng cứ nhìn theo logic lý tính thì lại mâu thuẩn với nhau.
Trong hội họa hiện đại, xuất hiện cái tự ngã (Soi) và một thứ sự thật ưu điểm là phù hiệu (trưng tượng) và tượng trưng tính, tức là thời kỳ anh hùng của hội họa hiện đại (hiện tại nó đi vào dĩ vãng) cam kết biểu hiện với bất cứ giá nào không phải đơn giản trong sự vật như hội họa Trung Quốc, một tinh thấn sống động ẩn tàng trong đó, mà là đem đến cho nó một sự vô tri nội tại khá rộng và khá chân thực tại; tức là vật hữu hình có các phương diện nội tại vô cùng  mà mỗi phương diện cùng với sự truyền đạt có một thứ hàm nghĩa vô cùng hàm nghĩa - triển hiện trong các sự vật. Cứ theo cùng với thế giới vạn vật, tiến hành tinh thần giao lưu của hành vi có khả năng  phát sinh bật cứ một phương hướng nào, và nó chỉ biểu hiện bằng cách tạo dựng lại những vật ấy trong một cơ cấu hữu hình mới hơn.
Có thể coi Pierodella Francesca và Jerôme Bosch là những họa sĩ tiền phong hoàn thành việc giải phóng ý nghĩa thi tính trong hội họa. Không thua ai, Cezanne là nhân chứng vĩ đại, chắn chắn cao hơn Manet, cao hơn tất cả người khác. Ông ta là hình ảnh giải phóng trong nghệ thuật đương đại, chính xác vì ông là người hoàn toàn, cơ hồ như vụng về, đầy thất vọng, nên hướng  về ý nghĩa liên hệ và che đậy kín những sự vật hữu hình, dường như luôn luôn thoát khỏi sự ràng buộc, khi ông ta nắm được nó. Do đó trong tác phẩm của ông mang tính trường kỳ bất mãn; nên ông có khát vọng khá điển hình là thông qua sự ly khai thiên nhiên của hội họa hay tái tạo một “con gà con theo thiên nhiên” (tức là tạo một con gà con sống, một điều không sao thực hiện được). Khát vọng của ông là  đối với đồng thể qui tắc và đối với con mắt thưởng ngoạn có được sự hòa hài tồn tại trong vũ trụ bằng hành vi thô bạo của phẩm tính xúc động, tạo thành hồi âm vừa của sinh vật vừa của con người, vẽ mô phong cảnh rất nhỏ hoặc tĩnh vật để thức tỉnh chúng ta.
Cézanne không quan tâm đến phong cách sáng tạo mà chỉ chú ý đến phong cách của thiên nhiên, khám phá trong thiên nhiên, trong cái thế giới vật chật dày đăt và rộng lớn thẩm thấu ánh sáng và màu sắc. Nó là thế giới của họa gia, một công nhân áo bí giản đơn của tự ngã,( như thế cái phong cách của ông ta đối với thiên nhiên có ảnh hưởng gia tăng khí lực). Tôi kiên quyết cho rằng tất cả những họa phẩm của Cézanne chính là phù hiệu biểu ý tự thân ông ta. (đúng như A. Malraux nói về cái ghế của Van Gogh). Nhưng chúng ta chớ quên - Sự tỉnh lược ấy gây tổn hại phần lớn lý thuyết huy hoàng của các nghệ thuật gia  đương đại - nó vẫn là một thứ không thể phân chia, cái phù hiệu biểu ý lớn lao vô giá của trạng thái thực tại, mà ông ta chụp bắt được cái áo bí tồn tại trong chất liệu cơ thể, rồi chuyền qua tầm mắt và tâm chúng ta mà truyền đạt cái từ ngữ  không thể nào truyền đạt được - giờ tôi thử cố gắng nói ra, dù không thỏa đáng lắm - điều mà chúng ta tiết lộ về Cézanne, chỉ có công trình  kiến trúc mói có quyền năng tồn tại, cùng lúc sự vật nhờ vào tính bình lặng nghiêm túc, đối với chúng ta là mộng ảo.
Chính vì vậy, để đạt đến sự thực hiện tiến bộ, cái tự ngã trong nghệ thuật, những họa sĩ vĩ đại hiện đại đều thực hiện một cuộc cách mệnh; nhưng không cắt đứt mối liên hệ với những nghệ thuật gia vĩ đại của dĩ vãng. Ý nghĩa thi tính được giải thoát, và đối với cộng đồng sự vật triển hiện cùng chủ quan tính sáng tạo, đều được thanh trừng gánh nặng thế kỷ; trước sau họ vẫn trường kỳ nỗ lực trong nghệ thuật và mỗi thời đại đều sinh động tất cả đều xúng đáng để khỏi bị lãng quên.
12.- Tôi không biết  tương lai hội họa hiện đại sẽ ra sao, hay trong giai đoạn tới nó sẽ tiến triển như thế nào. Điều làm tôi thích thú là sự kiện hội họa hiện đại của Tây phương đã trình hiện những đặc điểm mà tôi đã đề ra ở trên. Những người đề xướng tiên phong vĩ đại trong hội họa hiện đại là Manet hay Whistler, Monet hay Bonnard, Van Gogh hay Henri Rousseau, Seurat, Renoir, Matisse, Braque hay Picasso, Rouault hay Chagall, mỗi người trong họ đều đưa ra phương thức của chính mình, đều là nhân chứng như nhau. Trong một thời kỳ khoảng 80 năm, từ nửa thế kỷ 19, hội họa đã đạt đến cực điểm chân thực, xé toang những bức màn của lớp này và lớp khác, để trở thành sự ý thức về bản chất chính xác, biểu hiện tinh thấn tự do vô tiền lệ cùng lực lượng thi tính nội tại.
Trong khi ngắm những bức tranh của Cézanne hay của Rouault, của Van Gogh, Henri Rousseau, Braque, Chagall, hay phải nêu ra những họa sĩ ít danh tiếng  như Odilon, Redon, Toulouse-Lautrec. D’Utrillo, Fresnaye, Jean Hugo, Marin, hay Paul Klee chúng ta có cảm xúc là chúng ta đang đứng trước một thời kỳ vô cùng vĩ đại, xuất phát điều mà trước đó không bao giờ có là hội họa thuần túy là hội họa. Và trước đó không bao giờ có, trong hội họa lại có một thứ chủ nghĩa nhân đạo sắc bén, kết hợp mạnh mẽ thấu thị với sự vật hữu hình, thông qua sự biểu hiện, đồng thời với sáng tạo của họa sĩ và với những hàm nghĩa do họa sĩ nắm bắt được trong thực tại.
Bấy giờ chúng ta nên đi đến nửa phần kết luận mà tôi vừa thiết lập: ngược lại với nghệ thuật Đông phương, nghệ thuật Tây phương tiến bộ trong việc nhấn mạnh cái tự ngã của nghệ sĩ, trong giai đoạn cuối cùng nó càng đi sâu vào vũ trụ cá thể và không thể truyền đạt tính chủ quan sáng tạo. Sự tiết lộ cái tự ngã hoàn toàn thay thế bằng sự biểu hiện chủ yếu cái đẹp ngoại tại. Nhưng nghệ thuật có mức độ quá lớn, nó có thể bày tỏ chính xác và biểu hiện tính chủ quan sáng tạo, cũng trong mức độ ấy và đồng thời sử dụng biểu hiện và diễn tả trạng thái áo bí và hàm nghĩa vô cùng của sự vật mà thị giác thường hay bị che đậy, chỉ nhờ vào lực lượng tinh thần của con người mới có thể biểu hiện được. Vì nó là sinh vật của đại dương. Phải chăng trong sự giải phóng siêu biểu hiện thực tại và ý nghĩa khách quan cố hữu của sự vật, mà chúng ta thấy được tính tượng trưng đầy dẫy trong hôi họa hiện đại, là do những ưu điểm của sự giải phóng tính chủ quan sáng tạo.
Do đó, theo tôi có thể nói, cái kết luận hoàn chỉnh tất phải như vậy: một mặt như chúng ta đã thấy đối với nghệ thuật Đông phương, khi nghệ thuật duy nhất hướng về sự vật đến độ thành công trình hiện sự vật với ý nghĩa che đậy, nó cũng bộc lộ những tăm tối ẩn ước. Là do nghệ thuật gia sáng tạo với tính chủ quan; trong khi chủ thể tính cố gắng cầm nắm va biểu hiện cái nhân tố quan trọng  của sự vật, và nó cũng là cái hàm nghĩa áo bí của sự sinh tồn, cái cảm tri thi tính ban cho nghệ thuật sức sống bao trùm, cùng lúc nghệ thuật bộc lộ và biểu hiện dù với sự vô tâm cái tự ngã con người. Mặt khác, khi nghệ thuật quay lại hướng về cái tự ngã của nghệ sĩ tiến đến sự bộc lộ chủ thể tính sáng tạo, cùng lúc nó bộc lộ sự vật một cách ẩn ước, (kín đáo) trạng thái và ý nghĩa của nó được dấu kín - và thực tế là với khả năng thẩm thấu vĩ đại. Tôi chỉ ra trong chiều sâu thẳm của sự tồn tại nhục thể tự thân, và tay của chúng ta tiếp xúc với sự tự nhiên. Trong khi nghệ thuật nỗ lực bộc lộ và biểu hiện cái tự ngã của nghệ thuật gia, ban cho nghệ thuật sức sống của cảm tri thi tính, đồng thời biểu hiện cái nội dung cực quan trọng của sự vật sinh tồn, nó là cái siêu biểu hiện thực tại và hàm nghĩa áo bí.
Điều đó có ý nghĩa gì? Đó là kết luận thực sự của nội dung triết học,. Sự miêu tả và qui nạp cuộc điều tra đưa chúng ta đến việc suy tư về cội nguồn của hành vi sáng tạo, nó phải có một sự đột khởi của tri tính đặc biệt, không song song với tính logic; ở đó sự vật và tự ngã được kết hợp chung bằng phương tiện của kinh nghiệm hay nhận thức không có khái niệm biểu hiện, và chỉ biểu hiện trong tác phẩm của nghệ thuật gia, chúng ta hãy tưởng tượng - nhưng làm thế nào để có thể tưởng tượng, trong một thứ  kinh nghiệm như vậy. sáng tạo trong thiên nhiên, sự vật được nhận thức trong tự ngã, và tự ngã được thể hội trong sự vật, chủ thể trở thành phương tiện xâm chiếm thầm lén.Trên bình diện nội tại của sự vật, chúng ta có hiện diện trong nhận thức thi tính hay trực giác thi tính, nó là đối tượng của sự phản tỉnh.
Ngắm những con nai và bò rừng vẽ trên những vách đá thời tiền sử, chúng ta phải khâm phục, và xác tín cái xung lực thuần tưởng tượng. Đây là sự thành tựu đầu tiên của nghệ thuật loài người và thi tính trực giác. Dựa vào phù hiệu, nó đề xuất cho chúng ta một bức hình miêu tả động vật và cuộc sinh hoạt đi săn. Họ còn trình hiện cho chúng ta tinh thần của những kẻ vô danh, đã vẽ những đường viền, để nói với chúng ta đó là những con người, họ đã bộc lộ cái tự ngã sáng tạo của một tri tính bất hủ, và một ý chí truy tầm đến mục đích cuối cùng, có khả năng cảm thụ cái Đẹp trong sáng tạo.
Khổng Đức Dịch Chương một trong quyển L’Intuition créatrice dans l’art et dans la poésie của Jacques Maritain
CHƯƠNG HAI
Nghệ thuật, cái thiện của tri tính thực tiễn.
Tri tính thực tiễn 
1.- Muốn may y phục, trước hết phải đo cắt. Một triết gia muốn tìm hiểu đặc tính của sự vật thì khởi đầu là phải phân biệt chúng rõ ràng. Sự phân biệt ấy dường như có thể thô bạo, Đơn giản là nó liên quan đến một số bản chất tự thân của sự vật. Và làm thế nào chúng ta có thể lý giải sự vật một cách rõ ràng trong sự hổn loạn biến động. Tách rời bản chất mà không làm mất ý nghĩa phức tạp và tính liên tục của thực tại. Để phân tích chính xác sự phức tạp và liên tục đó, điều cần thiết là phải hiểu rõ tính phong phú và hàm nghĩa của sự vật.
Trong chương này, tôi tự hạn chế mình chỉ khảo sát về nghệ thuật - cái nghệ thuật dưới hình thức nguyên thủy hay những đường nét cơ bản, về ý nghĩa nó tương phản với thi ca. Thật vậy chính trong nghệ thuật thực dụng người ta có thể khám phá những đặc tính, những biểu hiện, những điển hình của nghệ thuật, và với ý nghĩa phổ quát, nó là những hoạt động căn bản của loài người. Vào thời tiền sử, dường như sự tìm kiếm về cái đẹp và đồ trang sức cũng giống như người đương thời sáng chế ra dụng cụ và vũ khí. Và sự hoạt động về hội họa hay điêu khắc của con người nguyên thủy, ngay từ thuở ban đầu cũng không phải luôn luôn là phục vụ cho nghệ thuật. Mà sự thật vẫn là “thích bắt chước” (plaisir d’imiter), và sự xung động thi tính chẳng qua là sự nỗ lực nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thỏa mãn của con người - nhu cầu ấy cũng như sự trang điểm, dĩ nhiên thuộc bản năng  tìm kiếm cái đẹp, chứ không phải vì cái đẹp (vì mục đích theo đuổi chính là sự hấp dẫn của nữ tính, hay là do nam nhân sợ hải, hay nơi cư trú của con người thấm nhập tính nhân đạo).
Đề cập đến tiềm năng và sự tiến hóa tự nhiên của nghệ thuật, nó không bắt đầu bằng sự tự do và đẹp vì cái đẹp. Mà nó bắt đầu bằng sự tạo ra dụng cụ phục vụ cuộc sống của con người, thuyền độc mộc, bình hoa, cung tên, tràng chuổi, những hình vẽ trên vách đá, dùng để phục tùng những phù hiệu, vu thuật hay không, chứng tỏ ra môi trường  của con người do con người làm chủ. Nghệ thuật không bao giờ quên cội  nguồn của nó, con người vừa là công nghệ nhân, vừa là thi nhân (homo faber et homo poeta).Nhưng trong lịch sử tiến hóa của con người, chính con người công nghệ mang con người thi nhân ở trên vai. Chính vì vậy mà trước tiên tôi phải quay về với nghệ thuật thủ công, và tiếp đó tôi so sánh thế giới của nghệ thuật thủ công với thế giới nghệ thuật từ thời Phục hưng và thời bán thần thánh với những nghệ thuật gia tiếng tăm.
2.- Aristote đã nêu ra, đó là thí dụ tối hậu do triết học thu hoạch được về sự vật (ít nhất là những triết gia biết được cái kho tàng của chính bản thân họ) - tức là nói về hoạt động tri tính được con người nhận thức rất sớm, và bắt đầu biết phân biệt tri tính suy tư hay lý luận về tri tính thực tiễn. Đó không phải là hai điểm phân biệt giữa hai lực khác nhau, mà chỉ là sự khác biệt của hai phương thức căn bản cách biệt đồng  nhất của linh hồn - tri tính hay lí tính - thực hiện sự hoạt động của nó.
Tri tính suy tư chỉ là cái biết của nhận thức. Nó khao khát hiểu biết và chỉ hiểu biết. Chân lý, nắm được lấy nó, đó là mục tiêu duy nhất của cuộc đời.
Tri tính thực tiển biết được mục đích của hoạt động. Ngay từ đầu mục đích của nó không phải là hướng về sự nắm bắt tồn tại mà chính là hoạt động  của con người hướng dẫn và hoàn thành là nhiệm vụ của con người. Nó thấm nhập trong sự sáng tạo, khuôn theo tri tính, hình thành sự thực hiện sự vật, bình giá những phương tiện và mục đích. Chỉ đạo hay khống chế cái lực lượng thực hiện của chúng ta, đó mới là cuộc đời chân chính.
Sự phân biệt như vậy không phải là tình huống ngẫu nhiên. Nó là sự phân biệt về bản chất, vì toàn bộ động lực tri tính và mẫu điển hình tiếp cận ngay với mục đich của nó, chỗ dựa của mục đích chân chính, khác nhau khi chỉ là nhận thức và khi là hành động.
3.- Để có những cái nhìn chính xác, về hai quan điểm căn bản; thứ nhất là bộ phận tác dụng của dục vọng, và thứ hai là đặc tính của chân lý; có khi nó thuộc về tri tính suy luận, hoặc thuộc về tri tính thực tiển. Sự khác biệt giữa hai thứ tri tính hoạt động rất lớn, mối liên hệ quan trọng giữa tri tính và dục vọng khác nhau, cả về đặc tính chân lý của cả hai cũng khác.
Trong trường hợp của tri tính suy luận, dục vọng - nghĩa là ý chí, không phải ở cái nghĩa khả năng quyết định đơn giản, mà ở cái nghĩa rộng của nghị lực con người về dục vọng và tình yêu, hướng về cái thiện hiện hữu - dục vọng chỉ tham dự vào việc đưa tri tính thực hiện quyền lực, chính yếu của nó, thí dụ như vận dụng và theo đuổi việc giải quyết một bài toán khó, hay khảo sát về nhân loại học. Nhưng một khi tri tính bắt tay vào việc, thì dục vọng không dính dáng gì vào công việc ấy, ít ra với tư cách thuộc về sự nhận thức bình thường  do khái niệm, nó chỉ lệ thuộc vào vũ khí của lý tính.
Nhưng trong trường hợp của tri tính thực tiển, dục vọng lại giữ một vai trò đặc biệt trong tác phẩm như là sự nhận thức. Bằng cách này hay cách khác, và với những mức độ khác nhau, vì trong sự thực hành có đủ thứ mức độ, lý tính thực hiện sự liên hệ với ý chí. Vì tự thân được lý giải, nên tri tính duy nhất hướng về cầm nắm sự tồn tại, và chỉ có cách thâm nhập bằng cách này hay cách khác, thông qua dục vọng hướng về hoạt động  mục đích của chính mình, nó chiếm cứ, không phải nhắm vào việc nắm được sự tồn tại, mà là đặt vào hành động thực hiện.
Như thế trong nhận thức suy luận, chân lý có thích đáng hay phù hợp với tri tính và sự vật tồn tại. Nhưng làm thế nào để có thể hiện hữu trong sự nhận thức thực tiển. Trong nhận thức thực tiển hay sáng tạo, không có vật tiền tồn tại, có thể khiến tri tính và tự thân nhất trí với nhau. Sự vật tuy không tồn tại cũng phải làm cho nó tồn tại. Dù sự vật chưa được tồn tại nhưng qua sự sáng tạo, tri tính không phải là tồn tại, nhưng vì chủ thể là con người có khuynh hướng trực tiếp thúc đẩy động lực và tự thân tri tính phải tạo ra sự tồn tại. Nói một cách khác, chân lý trong nhận thức thực tiển là thích hợp hay phù hợp với dục vọng trực tiếp. Dục vọng với tư cách là hướng trực tiếp về chức năng cứu cánh, nơi đó sự vật sẽ được sáng tạo tồn tại. Luận điểm ấy tạo thành cơ sở triết học của chủ nghĩa Thomas, áp dụng cho những địa hạt khác nhau của nhận thức thực tiển tùy theo những hình thức biến hóa phong phú cùng những phương thức tương tợ mà không đơn nghĩa, nhưng rất chính xác  cho tất cả nhận thức thực tiễn.
Tính thiện của nghệ thuật
4.- Bây giờ hãy xét đến bản chất khác biệt thứ hai, lần này lại đề cập đến tự thân nhận thức thực tiển nội tại. Hoạt động của tri tính thực tiển chia ra là hoạt động hoàn thành của con người (trong lãnh vực vận mệnh con người), và trong công tác hoàn thành (cũng do con người hoàn thành, nhưng trrong lãnh vực sự vật và vượt ra ngoài phạm vi vận mệnh con người). Nói một cách khác, là nó chia ra thành hoạt động đạo đức và hoạt động nghệ thuật.
Đạo đức cùng với triết gia của kinh viện có liên quan gọi là “hành động”; nói cho rõ hơn là con người được tự do sử dụng ý chí chân chính, từ đó nó quyết định là tốt hay xấu. Còn nghệ thuật cũng do triết gia kinh viện gọi là “chế tác”; nghĩa là cách thức sản xuất ra tác phẩm, rồi tùy thuộc vào tác phẩm mà quyết định là đẹp, hay, hay xấu, dở.
Như thế sự thận trọng là đạo đức điển hình, tính thiện là trên hết, (điều tôi nói ra là ý nghĩa chính của người xưa, “thận trọng” (prudentia), tức là trí tuệ thực tiển ở độ cao nhất của tính thực tiển, tính thiện là quyết định táo bạo xác thực đáng tin, không phải là sự thận trọng của giai cấp tư sản rụt rè) - Sự thận trọng là quyền quyết định của hành vi tri tính hòan thành. Nghệ thuật, trái lại liên quan đến sự hoàn thành tác phẩm, do tri tính trực tiếp quyết định.
Nghệ thuật tồn tại trong linh hồn, đó là sự hoàn thiện của linh hồn. Điều mà Aristote gọi là”habitus”theo tiếng La tinh, một phần tính nội tại hay là một sự an bài bố trí bền vững  bắt nguồn từ chủ thể nuôi dưỡng và sức lực thiên nhiên - hay khiến cho con người có một lực lượng  đặc biệt nội tại.
Khi một “tập tính”(habitus) - một trạng thái chiếm hữu, một tính chất không chế, một thứ tính linh nội tại được phát triển, nó trở thành một thứ của quí giá trị của chúng ta, thành một lực lượng kiên cường, bất khuất phục của chúng ta; vì nó là một thứ thăng hoa cao quý trong vương quốc nhân tính và là sự tôn nghiêm chân chính của con người.
Nghệ thuật là thứ tính thiện - không phải là cái thiện của đạo đức (nó đối lập với cái hình thức đạo đức thiện). Tính thiện trong nghệ thuật có ý nghĩa sâu rộng và triết học hơn cái nghĩa thông thường của từ này. Tập tính (habitus) hay là “trạng thái sở hữu”, một lực lượng nội tại phát triển trong con người; nói về phương thức hành động thì nó khiến cho mọi việc được hoàn mỹ; còn nói về việc sử dụng, thì trong hoạt động, nó ban cho chúng ta một thái độ thẳng thắn kiên định. Con người không bao giờ lầm lẫn, dù trong hành động nó không nghĩ đến việc thiện, nhưng đức thiện tự nó không bao giờ sai lầm. Con người có đức thiện nghệ thuật thì trong tác phẩm của nó không bao giờ có lầm lẫn, vì trong hành động dù không vận dụng đến tính thiện, nhưng cái thiện nghệ thuật tự thân nó không hề có sai lầm.
Nghệ thuật là cái thiện của tri tính thực tiển - chính cái tính thiện đặc biệt đó của tri tính thực tiển liên quan đến việc thực hiện đối tượng sáng tạo.
Có thế chúng ta mới thấy rõ mối liên hệ có đặc tính quan trọng giữa nghệ thuật và tri tính. Bản chất của nghệ thuật là tri tính, giống như bản chất của hoa hồng là hương thơm, hay sự lấp lánh là phát ra tia lửa. Tính thiện nghệ thuật thích đáng là lý tính của nghệ nhân trong địa hạt thực hiện - có sự hoàn hảo nội tại của tri tính. Học giả thời Trung cổ từng thừa nhận, không phải những điêu khắc gia như Phidias, hay Praxitele, mà chính là những anh thợ mộc, những bác thợ rèn ở hương thôn đều biết phát triển lý tính nội tại và tôn sùng tri tính. Cái thiện của nghệ nhân không phải nơi sức mạnh của cơ bắp hay sự mềm mại của những bàn tay. Nó là cái đức của tri tính, nó ban cho nghệ nhân đức khiêm nhường và tinh thần hoàn mỹ.
5.- Nhưng đối nghịch với tính thận trọng, nó cũng là sự hoàn hảo của tri tính thực tiển, nghệ thuật thuộc về cái thiện của tác phẩm, chứ không phải là cái thiện của con người. Người xưa thích nhấn mạnh về sự khác biệt này, trong sự so sánh sâu sắc giữa nghệ thuật và sự thận trọng. Chỉ cần người thợ thủ công chế tạo sản phẩm bằng gổ, hay một thứ kim hoàn đẹp đẽ là đủ; còn con người của anh ta hung dữ hay phóng đảng không quan trọng; cũng như nhà toán học chứng minh chính xác, còn tính khí đố kỵ hay hung ác không có gì quan trọng.Về phương diện này thánh Thomas Aquin đã đề xuất: nghệ thuật giống như tính thiện của tri tính suy luận. nó phải hành động tốt, chỉ liên hệ đến sự vận dụng ý chí và sự tự do của vai trò chủ tể.
Vì cái thiện trong nghệ thuật không phải là cái thiện của ý chí con người, mà là cái thiện của sự vật tự thân được sáng chế. Như vậy nghệ thuật không đòi hỏi, như là điều kiện tiên quyết, sự kiên cường của ý chí hay khả năng dục vọng của bản tính sự vật, cái động lực và cứu cánh chính, của con người hay đạo đức, tóm lại là trong giới hạn của số phận con người. Sự kiện độc hại của con người không ảnh hưởng gì đến văn phong của nó.
Tại đây chúng ta đối diện với những vấn đề không còn thuộc trong chủ đề của quyển sách; tuy nhiên nó có thể là những câu nói trôi qua không phải là vô ích. Trong giây lát tôi sẽ nhắc lại nó, sự bắt buộc đầu tiên trong triết học là phát sinh cái đặc điểm của sự vật tự thân, giải thoát cái giới định của bản tính hay bản chất. Triết học suy tư những điều như nghệ thuật tự thân phát sinh, nay tự nó có những nhu cầu cơ bản về đặc chất và bản chất. Nhưng việc đáng buồn vẫn là trong thực tại chúng ta chưa kịp phát sinh về bản chất tự thân của nó, mà bản chất đã tự thể hiện trong một chủ thể cụ thể. Thật ra, nghệ thuật tự nó thuộc về một lãnh vực riêng biệt và độc lập với lãnh vực đạo đức. Nó đột nhập vào sự sinh hoạt và trong sự vật của con người như một ông hoàng của cung trăng hay như nữ thần người cá trong văn phòng hải quan hay nhà thờ của một giáo khu; nó luôn luôn gây ra sự bối rối và khơi dậy những lo âu. Nhưng nghệ thuật lại tồn tại trong con  người - trong nghệ thuật gia. Kết quả nó là một sự thật của con người, một sự độc hại mà không có chứng cớ gì tổn hại đến văn phong của nó. Nhưng nó cũng là một sự thật mệt mõi như kẻ nghiện ma túy kéo dài ra có hại đến văn phong của nó. Nên Baudelaire cũng đã từng cảnh giác chúng ta chớ có đam mê nghệ thuật thái quá, dần dần nó sẽ phá hủy chủ thể con người, và cuối cùng - do nguyên nhân vật chất hay chủ thể gián tiếp bị phản ứng  ngược, tự hủy hoại cả nghệ thuật; khi con người không còn gì nữa thì nghệ thuật của nó cũng tiêu ma luôn.
Nhưng những sự vật còn lắm rắc rối, vì nghệ thuật gia vẫn ý thức đến sự liên hệ cuộc đời đạo đức, và nghệ thuật của mình, nó bị dụ hoặc, khi đã hoàn toàn khuất phục, trước sự luyến ái của loài quỷ tinh, nên vẫn làm ra vẻ yêu thương nghệ thuật với tinh thần đặc biệt, phải lo lắng nhiều cho cái thiện của tác phẩm hơn là lo cho linh hồn. Nó vận dụng hết sức lực mà nếm những quả đắng cay, và bùn dơ trên mặt đất, tạo ra vẻ hiếu kỳ, hay điên điên khùng khùng, thực nghiệm một thứ đạo đức mới lạ; hay phụng thờ một thứ quỷ hút máu người, một thứ đạo đức tối thiện để nuôi dưỡng nghệ thuật của nó.
Và tất cả những hoạt động cuối cùng vẫn là bài toán sai lầm, vì nghệ thuật gia với sự  mạo hiểm vẫn rơi vào lầm lẫn một cách tế nhị - một cách gắn liền chặt chẽ với lãnh vực sáng tạo, tức liên quan đến khí chất của lực cảm giác và tư tưởng, và liên hệ đến cảm giác và thực tại của tri tính, nó tạo thành khí chất con người trong vòng hoạt  động nghệ thuật.
Tuy nhiên nó vẫn là khả năng của nghệ thuật gia, thậm chí là một nghệ sĩ vĩ đại, dù rằng nó bị hư hỏng nhiều phương diện: nó vẫn là con người đã hi sinh cái tự ngã để cống hiến cho đời sự phồn vinh, cống hiến cho chúng ta sự khoái thích và tinh thần hạnh phúc cho cả nhân loại. Nên nữ thánh đồ là Therèse d’Avila đã nói: “cuộc đời mà không có thi ca thì không sao chấp nhận được - thậm chí đối với cả giới tăng lũ, chúng ta không có gì để mà phán xét nghệ thuật gia, bất kể như thế nào, sự việc chỉ có thể điều chỉnh giữa Thượng Đế và nghệ sĩ, trong ý này hay ý khác”.
Nghệ thuật thực dụng và cái đẹp thuần túy.
6.- Tri tính thực tiển luôn luôn liên hệ với ý chí, dù chúng khác nhau, nhưng trong nhận thức thực tiển, thật ra tri tính kết hợp trực tiếp vời dục vọng, đó là chuẩn tắc cơ bản của triết học Aristote. Đây cũng là phương thức khác nhau mà lại thích hợp cho nghệ thuật và tính thận trọng. Trong trường hợp thận trọng, thì trong phạm vi mục đích sinh hoạt của con người lại hướng về dục vọng, nó giữ một vai trò quan trọng  trong sự nhận thức thực tiển, và chân lý là sự tương hợp với ý chí trực tiếp hay dục vọng với tính cách dục vọng được tính thiện đạo đức điều chỉnh.
Nhưng về mặt nghệ thuật, thì ý chí giữ vai trò hướng về tác phẩm; và sự điều chỉnh của ý chí hay dục vọng lại ở trong ý hướng  khiến cho tác phẩm thành tốt, và thông qua tri tính phát hiện sự sinh ra qui tắc. Thành thử sự phán xét về giá trị của nghệ thuật gia về những  động tác của bàn tay trong việc thực hiện là chính xác, khi nó tương hợp với dục vọng trực tiếp, hướng về sự sản xuất tác phẩm với phương tiện những quy tắc được thẩm định phát sinh từ tri tính. Do đó căn cứ theo sự phân tích cuối cùng, vai trò chủ yếu vẫn là tri tính, và nghệ thuật mang chất tri tính nhiều hơn là thận trọng. (có nghĩa là khéo léo).
Chúng ta hãy suy tư một chút (đặc biệt là dùng ý tượng đơn giản hóa của sự vật) là sự sáng chế chiếc thuyền đầu tiên, trong thời gian chưa có ngôn ngữ và ý tưởng về thuyền bè. Trước mặt không có gì hết, ngoài ý chí phải thỏa mãn cái nhu cầu - tìm cách vượt qua sông hay eo biển. Việc thỏa mãn nhu cầu, chính đó là quy tắc, với một cái thước thợ hướng dẫn hoạt động sáng tạo của tri tính. Khi tri tính con người vận dụng lần đầu tiên, cách xác định sử dụng những mảnh kiến thức thu hoạch được, (như nhìn thấy thân cây trôi nổi trên mặt nước) mà có ý tưởng nảy sinh, kết hợp chúng lại; sự phán đoán ấy rất chính xác vì nó hợp với quy luật đầu tiên.
Cái bè đầu tiên được sáng chế, dĩ nhiên là thô lậu đơn giản, vụng về. Nó phải được cải tiến. Hiện tại tri tính phải lưu ý đến hai quy tắc - qui tắc cơ bản ban đầu là (tri tính phải nắm được nhu cầu và sự thỏa mãn dục vọng). nó là quy tắc tạo chiếc bè đầu tiên; quy tắc thứ hai là trong quá trình sáng tạo chiếc bè đầu tiên, phát sinh ra ý tưởng mới. Nhưng chiếc bè thứ hai vẫn giữ đúng hai quy tắc trước; cùng lúc với việc chế tác mới phát sinh quy tắc thứ ba, nó phát sinh sự cải tiến trong khi chế tác chiếc thứ hai. Sự phát hiện ấy được giữ trong ký ức để cải tiến, Lịch sử sáng chế và cải tiến của phi cơ, máy gia tốc cộng hưởng và máy tính vẫn là sự lặp lại những qui tắc vừa nêu.
Tôi hi vọng rằng độc giả sẽ tha thứ về những thí dụ đơn giản. Nhưng những thí dị đó lại giúp chúng ta hiểu rõ chân lý, những chân lý ấy đối với mục đich mà chúng ta nói ra giản đơn, nhưng lại là những điều căn bản nhất. Cái chân lý thứ nhất là những qui tắc trong nghệ thuật thực dụng, quy tắc không phải do giáo sư của nhà trường hay các viện bảo tàng dạy dỗ, mà là do con mắt của tri tính sáng tạo phát hiện ngay trong lúc lao động. Nhưng phương pháp, một khi được khám phá, nó có khuynh hướng trở thành những bí quyết; có thể nó trở thành một thứ chướng ngại có lợi hay hại cho đời sống nghệ thuật, ít ra nó cũng trợ  giúp cho nghệ thuật.
Một chân lý căn bản khác, những quy tắc mà nghệ nhân thủ công phát hiện càng ngày càng tài tình và khéo léo, điều quan trọng là họ tôn trọng cái quy tắc đầu tiên, thỏa mãn nhu cầu, đó là ý chí cơ bản và là nguyên tắc được quy định.
Tóm lại, chúng ta đã đề cập trong nghệ thuật thực dụng, cái yêu cầu của ý chí hay dục vọng chính là thỏa mãn cái nhu cầu đặc biệt; và cái dục vọng trực tiếp là nhắm vào việc thỏa mãn cái nhu cầu đặc biệt, thông qua tri tính phát hiện những quy tắc, mà cái như cầu thứ nhất chân chính là do tri lực nắm được.
7.- Hiện tại cái ta gọi là mỹ nghệ thuật (beaux arts) là cái gì? (Về sau tôi sẽ thuyết minh vi sao tôi lại nghi ngờ sự diễn đạt này). Giờ hãy nói về cái đẹp trong nghệ thuật. điều mà ý chí hay dục vọng đòi hỏi; đó là sự khai phóng hay khởi động của tinh thần sáng tạo chân chính, trong sự khao khát cái đẹp của nó.- cái đẹp bất khả tư nghị ấy, tình yêu và thi ca có sự tranh chấp kịch liệt, chúng ta sẽ thảo luận trong chương tới.
Cái trực chỉ của dục vọng là hướng về mục tiêu, thông qua tri tính phát hiện các thứ qui tắc mà đạt đến mục tiêu đó. Cái quy tắc đầu tiên mà toàn bộ tác phẩm sinh ra là trực giác sáng tạo.Tính sáng tạo hay là lực hình thành, không phải chỉ là những sinh vật thuộc thể vật chất, mà nó là tiêu ý (signe) và đặc quyền của cuộc sống trong tinh thần những sự vật. Chúng ta phải phong phú, sự phong phú ấy biểu hiện trong phạm vi nội tại tự kỷ (en soi). Jean de Saint Thomas đã viết;”đó là một thứ hoàn mỹ vĩ đại, bản chất nó là thuộc đặc chất của tri tính.” Tri tính trong bản thân chúng ta cố gắng phát sinh. Nó không chỉ nôn nóng sản sinh những từ, những khái niệm, vốn ở trong tâm chúng ta, mà còn muốn sinh ra một bộ tác phẩm giống như vật chất và tinh thần của chúng ta. Và ở đó còn dung hóa cái gì trong linh hồn chúng ta. Tri tính thông qua thiên nhiên, qua dư dật nên có khuynh hướng ngâm nga cùng đem tự thân biểu hiện trong tác phẩm. Do thứ nguyện vọng thiên nhiên vượt ra ngoài biên giới của tri tính, và chỉ thông qua lực vận động của ý nguyện và dục vọng mà nó có thể hoàn thành. Tri tính chiếu theo cái linh cảm thiên nhiên của chính nó mà quên mất tự thân, cùng khiền cho cái tối nguyên thủy và cái xung lực đặc biệt quyết định tính thực tiển hữu hiệu của trí lực.
Tinh thần của tính sáng tạo là căn cơ bản thể luận đầu tiên của hoạt động nghệ thuật. Nó là trạng thái thuần túy ở trong cái mỹ của nghệ thuật, và nó thanh trừ hết những thành phần ngoại lai. Và tinh thần của trí lực thuần túy có khuynh hướng sáng tạo ra sự vật, mà tinh thần trí lực tự thấy đó là niềm thích thú của mình, có nghĩa là sinh ra một một sản phẩm đẹp. tri tính sau khi được tự do tách ra khỏi tính tinh thần thì nỗ lực hình thành cái đẹp.
Đó là trong tinh thần khát khao sự sáng tạo cái đẹp thuần túy, cái dục vọng cơ bản cùng với cái đẹp của nghệ thuật và cái động lực quan của tri tính kết hợp thành một hướng về giải thoát cho tính sáng tạo.
Tại đây chúng ta không thỏa mãn với cái nhu cầu đặc biệt của con người trong cuộc sống, chúng ta vượt khỏi cái lãnh vực thực dụng. Đối với tri tính, nhu cầu không phải ở bên ngoài mà là đồng nhất với nó Thông qua khách thể sáng tạo. chúng ta tham dự vào khách thể tự thân của sáng tạo là tính chất của tinh thần. Vì cái đẹp là vô dụng, nó nhờ vào trí lực tỏa sáng, nên nó giống như lãnh vực tri tính vô cùng vô tận và siêu việt thiên nhiên. Từ cái mục đích chân chính ấy - mục đich siêu vũ trụ - có khuynh hướng lệ thuộc lãnh vực tri tính, lãnh vực khoái thích điên cuồng, chứ không phải là thế giới thực dụng. cái lý tri tính của nghệ thuật trong cái đẹp nghệ thuật (beaux-arts) có một trình độ cao hơn cái đẹp của nghệ thuật thủ công (tuy rằng nó cũng có liên hệ mật thiết với lực mẫn cảm và cảm xúc). Cái đẹp trong nghệ thuật cơ bản là sự vật là nhu cầu của tri tính dùng trực giác của sáng tạo tính biệu hiện cái bộ phận bên ngoài của sự vật mà nó nắm được và thêm vào đó là sự biểu hiện cái đẹp.
Từ quan điểm đó chúng ta có thể hiểu những giải thích và lý luận nghệ thuật do tâm lý học thực nghiệm hay xã hội học, chủ nghĩa duy vật thực nghiệm, thực nghiệm luân lý hay thực dụng hay những gì tri tính trình bày đề xuất với chúng ta như Allen Tate từng nêu, “sự  khích động của thơ như là những xung động phản ứng hướng về hành động, một phương thức phản ánh” hay như ông ta dạy rằng; ”Thi ca là một thứ tâm lý ứng dụng”. Đó là một thứ logic của chủ nghĩa thực chứng (positivisme), vì nó chỉ nhắm vào thứ “thân thiết điên cuồng” (aimable demence), và nó nêu ra mà không nói gì về thực tại.
8.- Bây giờ chúng ta hãy nhất trí về việc phê phán tính sáng tạo khi nó đúng đắn thì biết được những qui tắc - hay dục vọng trực tiếp hướng về sự tham dự cái đẹp của một tác phẩm được sản suất theo những quy tắc thích hợp.
Cái khái niệm chân chính của qui tắc bị biến hóa trong cái đẹp của nghệ thuật, thông qua sự hoạt động của nghệ thuật ảnh hưởng đến cái đẹp. Trước tiên những qui tắc mỹ trong nghệ thuật so với quy tắc trong nghệ thuật thực dụng lại càng phải tụân thủ một cách nghiêm khắc, trong quy luật luôn luôn đổi mới. Nó phải luôn luôn là những qui tắc mới phát sinh, không chỉ liên hệ đến một dữ kiện khách thể - tàu bè, bình hoa, hay máy tính cần phải cải tiến, mà là liên hệ với cái đẹp; ở đó nó phải tham dự, nó là cái đẹp vô cùng vô tận. Ngoài ra bất cứ một phong cách đặc biệt hay một kiệt tác của thế giới luôn luôn có vô số phương thức để đạt đến sự tham dự vào cái đẹp. không có hình thức nghệ thuật nào dù hoàn mỹ mấy đi nữa cũng không thể khép kín trong giới hạn cái đẹp của nó. Nghệ thuật gia như đứng trước một đai dương  mênh mông và hoang vắng.            
… không thuyền buồm, không thuyền buồm, và chẳng
có một hoang đảo.      
(Mallarme - “Brise marine”)
Và tấm gương mà nghệ thuật gia dùng để phản ánh cuộc đời, so ra không lớn hơn tâm hồn của họ. Họ bắt buộc phải tìm cho được cái gì mới để thuyết minh; một thứ hoàn toàn mới khác lạ để tham gia vào cái mới điển hình, và nó còn bao hàm, đòi hỏi những hình thức mới để thực hiện - nó là những quy tắc mới thích ứng cơ bản và lâu dài, nó là những quy tắc chưa hề được dùng qua, tuyệt đối mới làm cho người ta sửng sốt. Nó còn nhấn mạnh đến tinh thần phổ quát mà tôi vừa nói là những quy tắc căn bản và lâu dài, hay đúng hơn là những quy luật vĩnh cữu của nghệ thuật. Những quy luật vĩnh cữu hay nội tại ấy. có lẽ ở mức độ của những quy luật đặc biệt, thí dụ như quy luật của số hoàng kim (nombre d’or). Nó chỉ tồn tại ở mức độ cao cả của triết học, và của các bậc minh trí (ẩn tàng trong căn bản thiện của nghệ thuật, nó sinh động hơn những khái niệm). Nơi nghệ thuật gia nó là tinh thần của tính thiện trong nghệ thuật cơ bản, nó có trước sự biểu hiện nghệ thuật. Trong việc áp dụng nó biến hóa vô cùng, và được coi như là mẫu mực trong những kiệt tác của bất cứ thời nào và phong cách nào.
Tiếp theo, trong trường hợp của mỹ thuật thuần túy, tác phẩm phải hoàn thành trong mục đich, một mục đich đặc biệt, tuyệt đối duy nhất. Đối với nghệ thuật gia, cũng như đối với mỗi tác phẩm, mỗi một lần đều phải có một phương thức mới. Theo đuổi một mục đích và về hình thức tư tưởng phải tăng cường ảnh hưởng, chính vì vậy, những quy tắc trong nghệ thuật nói chung được cố định và quy định, độc lập với qui tắc của sự thận trọng - trong nghệ thuật thuần túy, nó đảm nhận những  quy tắc thận trọng vô cùng mềm mại; vì mỗi lần áp dụng cái trường hợp mới tuyệt đối đặc biệt mà trước kia chưa hề có. Chính vì vậy mà bậc thầy của nghệ thuật gia thành công trong việc hình thành kỹ nghệ đẹp, là nhờ vào những quy luật thận trọng không xác định trước; nhưng quyết định theo tính ngẫu nhiên đặc biệt của qui tắc thận trọng, dựa vào hiệu lực thích đáng của thận trọng - là sự mẫn nhuệ, tính chu đáo, sự dè dặt, kỹ thuật khéo léo, sự táo bạo, sự minh mẫn và giảo hoạt mưu mẹo…
Cuối cùng, tác phẩm hoàn thành là vì  mục đích tự thân và sự tham gia đặc biệt, độc đáo, và tất cả vì cái đẹp duy nhất, lý trí đơn độc không đủ để cho nghệ thuật gia quan niệm và tạo thành tác phẩm từ trong phạm vi tự ngã mà không sai lầm, vì như Aristote từng nói:” người là mục đich, mục đích ấy hiện ra trước mắt” (Tel est un chacun, telle lui parait la fin).
Mỗi người tự phán đoán cái mục đích của chính mình, khi nó căn cứ theo cái thực tại tự thân mà cá nhân nó bị cuốn hút. Vì cái mục đích cuối cùng và siêu việt ở đây là cái đẹp - chứ không phải  là nhu cầu đặc biệt cần phải thỏa mãn, mà là cái đẹp hấp dẫn. Như thế tinh thần siêu nhiên, tự cấp tự túc và tuyệt đối là mục đích nghiêm túc, đòi hỏi nghệ thuật gia chân chính dấn thân. Như thế để cho nghệ thuật có thể quan niệm và hình thành tác phẩm trong phạm vi nội tại tự thân với sự phán đoán sáng tác không sai lầm.
Đó là sự cần thiết để cho động lực chủ quan tính, các dục vọng và ý nguyện của nó đều hướng trực tiếp về cái đẹp. Định nghĩa của chân lý, của tri tính thực tiễn dường như thích hợp với dục vọng trực tiếp trình hiện một sản phẩm mới. Mặc dù cái đẹp của nghệ thuật (beaux-arts) đầy tính tri thức hơn các thứ nghệ thuật khác, chúng ta vẫn thấy rõ dục vọng vẫn giữ một vai trò quan trọng, và tình yêu của cái đẹp vẫn phải dựa vào tri tính hướng về tất cả cái đẹp. Chính vì phân tích cuối cùng, trong nghệ thuât cũng như trong trầm tư, tri tính trên đỉnh cao của nó vượt qua những khái niệm lý tính suy luận và kết thúc bằng hảo cảm hay thiên nhiên tính kết hợp với khách thể, mà chỉ có tình yêu mới có thể gây ra... Để nghệ thuật gia sản sinh trong cái đẹp, nó phải si mê cái đẹp, tình yêu chính đáng là một qui luật siêu nghệ thuật, một thứ tiền đề, nó không đủ thích ứng với các phương thức sáng tạo, nhưng cần thiết cho sinh khí nghệ thuật - nó là điều kiện tiên quyết cho toàn bộ nghệ thuật.
9.- Còn phải xác định luận điểm rất quan trọng; trong khi bàn luận về nghệ thuật thực dụng, chúng ta chỉ chú ý đến sự phát hiện của nghệ nhân thủ công càng ngày càng tinh xảo; cái vị trí của quy tắc thứ hai không kể là quan trọng và thiết yếu như thế nào, cái nhiệm vụ của người thợ thủ công trước tiên đối với qui tắc đầu tiên, tức là ý nguyện cơ bản ban đầu là phải hướng về sự thỏa mãn nhu cầu đó. Một tòa nhà hùng vĩ mà không có cửa ra vào thì không phải là công trình kiến trúc hoàn hảo.
Nhưng quy tắc đầu tiên cho cái đẹp của nghệ thuật (cái đẹp thuần túy) là cái gì? Tôi đã nói, đối với sự khao khát cái đẹp, thì dục vọng cùng với tri tính hợp nhau hướng về sự giải phóng tinh thần sáng tạo chân chính. Cho nên, cái qui tắc đầu tiên là tinh thần của tự do sáng tạo, trước tiên là dựa vào đó để diễn đạt cuộc sống tình cảm của mình hay là điều tiết tính khí - nhân đó tư tưởng của nghệ thuật gia và bàn tay của ông ta trước hết phải trung thực.
Như thế đối với người mới học nghề hội họa hay âm nhạc, cái quy tắc đầu tiên là nó phải tuân theo sự thích về màu sắc hay âm thanh mà mắt tai nó cảm xúc, phải tôn trọng sự thích thú đó, phải cống hiến vào đó tất cả sự chú ý; lúc nào cũng có cảm quan thích thú đối với sự vật. Bởi vì tinh thần sáng tạo trong sự khát khao cái đẹp, thông qua cảm quan và dưới hình thức mảnh dẻ yếu đuối, trước tiên là tác phẩm đầy kinh dị. Vả lại, khi có người mới học nghề bắt đầu khám phá hay học được một quy tắc đặc biệt, thì thường là nó đi đến chỗ đánh mất sự thức tỉnh yếu đuối của nghệ thuật, vì nó thiếu cái thế lực nội tại mà nó phải khống chế vấn đề qui tắc, cái quy tắc này lại trở thành một thứ bí quyết. Nó cùng với tác giả lại cảm thấy khoái thích một cách trung thực, thế là hủy hoại cái quy tắc đầu tiên  của nghệ thuật.
Nhưng với tất cả những điều mở đầu đó, người ta vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa của nghệ thuật. Người ta vượt qua nó được, khi tác phẩm sáng tạo thông qua sự thống trị không phải là cảm quan khoái thích đầy thỏa mãn của trí lực, mà là trực giác sáng tạo phát sinh trong tầng sâu thẳm của tri tính. Bởi vì tinh thần tự do của tính sáng tạo, thông qua bộ phận điều tiết, chân chính của cuộc sống, trước hết là biểu hiện, đó là trực giác sáng tạo tính hay thi tính bị tạm ngưng trong tính chất của vũ trụ duy nhất hoàn mỹ đặc biệt, trong cái đẹp hình thành toàn bộ tác phẩm. Tôi sẽ nói về tính trực giác sang tạo ở chương sau, ở đây chỉ nói sơ qua.
Tôi chỉ muốn nói rằng, trực giác sáng tạo là quy tắc đầu tiên của cái đẹp trong nghệ thuật, đòi hỏi tất cả sự trung thực, sự tuân thủ, sự chú ý của nghệ thuật gia. Tôi còn muốn nhấn mạnh, trong cái qui tắc đầu tiên ấy, tối cơ bản, cùng với tất cả những quy tắc mang tính chế tác, rất cần thiết đến đâu, cũng có một sự khác biệt đặc biệt, có thể nói vô cùng vô tận, giống như giữa trời với đất. Tất cả những quy tắc khác, đều thuộc trần tục, chúng liên quan đến cách thức vận dụng cấu tạo nên tác phẩm, còn cái qui tắc đầu tiên là quy tắc của thiên quốc, nó vẫn là khái niệm chân chính trong nội tâm, nó là cái đẹp của tác phẩm chế tác. Nếu không có trực giác sáng tạo ở đó, kỷ thuật trong tác phẩm dù hoàn hảo đến đâu, nó vẫn là vô nghĩa, nghệ thuật gia không nói được gì. Nhưng nếu có trực giác sáng tạo ở đó, thông qua mức độ nào đó trong tác phẩm thì tác phẩm tồn tại và như hướng về ta nói năng dù rằng nó hình thành không hoàn hảo vẫn như đến từ con người; nó có đặc tính của nghệ thuật và là một bàn tay rung rinh (c’ ha l’habito de l’arte e man che trema).
Trên đỉnh cao của hoạt động nghệ thuật, với ai đã từng ngao du lâu dài trên nẻo đường của quy tắc, cuối cùng không có đường nào khác. Vì con của  chúa hay của thần linh thì không phải ở dưới quy luật nào cả, Đúng như lời của thánh Augustin, cái quy luật cuối cùng  dặc biệt của một linh hồn hoàn mỹ là hãy yêu mến và thực hiện tất cả điều gì con muốn (amaet fae quod vis). Như thề cái quy tắc duy nhất của nghệ thuật gia hoàn hảo là cứu cánh; “hãy trung thành với trực giác sáng tạo của ngươi, và thực hiện tất cả điều gì con muốn”. Thứ ưu điểm ấy, chúng ta công nhận là rất ít tồn tại nơi con người, một lực lượng sáng tạo thuần túy, hay một tinh thần tự do tự tại ( không bị ràng buộc vào đâu).
10. - Tính siêu việt của mỹ nghệ thuật 
Đừng có hiểu một cách tuyệt đối sự phân biệt giữa nghệ thuật thục dụng và mỹ - nghệ thuật. trong tác phẩm thô của người thợ thủ công, nếu như có nghệ thuật tồn tại, như thế là có liên hệ đến sự tồn tại nghệ thuật, thông qua nhu cầu của tinh thần sáng tạo tính; một thứ tác dụng gián tiếp ảnh hưởng đến sự sinh sản khách thể, để phục vụ nhu cầu của con người. Vả lại chúng ta đang sống trong một thời đại công nghiệp, trong những thứ cơ giới khác nhau, sản phẩm được sản xuất hàng loạt do nghệ thuật của kỹ sư, hay do nghệ thuật hiện đại, ở đó tinh thần sáng chế máy móc, sự nghiên cứu  nhu cầu kỷ thuật thuần túy thục dụng, chắc chắn chỉ nhắm vào chức năng sự vật hoàn thành chứ không tìm kiếm cái đẹp, thiên nhiên tự đưa đến cái đẹp.
Chiếc tàu thủy hiện đại của chúng ta chỉ nhắm vào quan điểm tốc độ và công dụng mà chế tạo, chứ không nhắm vào việc trang điểm cho đẹp mắt như những chiếc tàu buồm ngày xưa. Tôi nghi rằng người ta xây dụng cái cầu Brooklyn không ở trong một ý hướng thẩm mỹ, song le người ta  có thể đã kích thích sự xúc động sâu xa của Hart Crane và ông này đã kết dính với những vần thơ của ông. Sự cao vút của cây cầu, những công lộ chênh vênh, những ống khói hoang phế, những nhà máy biến dạng, những công xưởng cổ quái kỳ dị, những nhà máy hùng vĩ vênh váo, bao quanh New York là một trong những khung cảnh  đẹp đầy xúc động.
Tất cả những cái đó là chân thực, mặc dù như vậy, chúng ta vẫn cho rằng học thuyết của Corbusier là chủ nghĩa giáo điều không hoàn thiện. Vì như tôi vừa nói, cái đẹp đích xác tồn tại, chẳng qua chỉ là sự kiện ngẫu nhiên, kể như toàn bộ lãnh vực của nghệ thuật, là một thí dụ tồn tại đặc biệt, thậm chí tôi hoài nghi rằng sự khóai thích bừng hiện trước mặt ta có phải do ta cao hứng, mà nó chỉ là một thứ bản năng bất thường do mắt ta được khai hóa. Sự thật, thiên nhiên không phải như bài học của Le Corbusier. Những bông hoa, côn trùng, chim chóc, không phải sinh hoạt y theo quan điểm tất nhiên cấu tạo ra. Nó triển khai sự trang điểm cực xa hoa khiến con người cũng phải thất kinh và cái đẹp Baroque cùng tồn tại phong cách như thế. Cuối cùng  cũng như nổi lo về cái đẹp xuất hiện nơi người thợ thủ công, cũng giống như nhu cầu đòi hỏi đối với tinh thần sáng tác có ảnh hưởng hổ tương, người ngoài không biết trong cơ khí chế tạo và công trình sư vẫn có nghệ thuật sinh ra một cách kín đáo. Nhưng công trình sư hay kỷ sư trong khi vẽ chiếc xe hơi không phải không chú ý đến những đường nét đẹp, và tôi đâm ra nghi ngờ rằng trong những công trình vĩ đại như cầu George Washington hay cầu tưởng niệm Delaware, người sáng tạo không phải chỉ biết có tính chất thực dụng.
Về phần những nghệ thuật gia vĩ đại, họ thích thú trong việc chế tác những từ ngữ hay thanh âm thành tác phẩm như Valéry (1871-1945) hay Stravinsky (1882-1971) chẳng hạn, tôi cho rằng họ không mấy khi nói đến chân lý, nói đến sự thật. Thật tế, sự nội hàm của tinh thần trực giác sáng tạo, cùng với ý nghĩa truyền đạt của thi tính hay toàn luật (mélodie) mang đầy sức sống động trong tác phẩm nghệ thuật ấy, mặc dù họ chống lại sự cảm hứng. Và những nghệ thuật vĩ đại ấy biết rõ cái giá trị của thiên phú. Nhưng vì trong sự nỗ lực họ đã tận dụng trở thành nghèo nàn, hay do dễ tức giận vì bóng dáng lí tính của nàng thơ Muse sản sinh những khích động bí mật, hay do đã bổ khuyết vào sự hoang vu, cùng dựa vào cái đẹp để chuyển đổi mục tiêu của chúng ta, để họ nhân cái hư giả của thiếu thốn mà miêu tả cái tổng thể.Tính chất thiếu thốn ấy đã được Platon tưởng tượng phát minh, mà không nói gì hết, đó là đức tính của nghệ thuật chân chính. Dù là vậy, nhưng Stravinsky là một thiên tài sáng tác, lại thoát ra khỏi chủ thuyết Narcissisme tự say đắm với mình, thanh một tri tính tàn nhẫn, rơi vào sự luyến ái  những ca khúc nam nữ.
11.- Hiện tại chúng ta đưa ra hai điểm tóm lược là so sánh giữa nghệ thuật thực dụng và mỹ nghệ thuật. Trước tiên do sự liên hệ giữa mỹ và tinh thần sáng tạo thuần túy là tự do - Sự tự do tinh thần chân chính. Theo sự thật, mỹ nghệ thuật thuộc vào thế giới nghệ thuật của chủ nghĩa tự do; đại đa số mỹ nghệ thuật đối với cổ nhân chưa biết đó là chân, vì dưới mắt họ tất cả là những công việc thủ công đều là dấu vết của trạng thái nô lệ. Và tinh thần tự do là mỹ nghệ thuật không có kết thông với đơn vị nghệ thuật nào khác. Tất cả những gì khi nói về nghệ thuật tổng quát thì phải hiểu nó là sự áp dụng. Nó có những đức tính của tri thức thực tiển, nhưng như chúng ta thấy. nhìn xa về tương lai thì tri tính hay lí trí nó tự giữ một vai trò quan trọng, không phải là thứ li trí khái niệm, suy luận logic, cũng không phải là lí trí thủ công. Mà là lí tính trực giác, trong lãnh vực cao sâu và tối tăm nó đụng chạm vào trung tâm linh hồn; ở đó tri tính hoạt động với căn cơ duy nhất và kết hợp với sức mạnh của nó là linh hồn. Đó là sự siêu việt của mỹ nghệ thuật liên hệ với các thứ nghệ thuật khác.
Tuy nhiên - đây là yếu điểm thứ hai - mỹ nghệ thuật thuộc về bản tính nghệ thuật nói chung, nó ứng dụng vào qui tắc của nghệ thuật thực dụng. Như thế khái niệm, suy luận, logic của lý tính hay những gì biểu hiện tốt hơn, (vì chúng ta đang bàn về trật tự của thực tiển), lý tính thủ công  trong nghệ thuật mỹ, dù nó là thứ hai vẫn giữ một vai trò quan trọng và cần thiết. Nó không chỉ là thứ yếu mà là công cụ thuần túy. Thế nhưng khi nó chiềm vị trí hàng đầu, tác phẩm trở thành một xác chết, một sản phẩm của kinh viện. Nhưng khi nó là tư liệu suy luận của lý tính, và những quy tắc mà nó bao hàm - những qui tắc thứ hai như tôi vừa nói ở trên, sử dụng thành công cụ không chế thói quen của những bàn tay; nếu như người ta có thể nói là công cụ trực giác sáng tạo tính, nó tạo thành sự thận trọng, tinh cơ mẫn, và khéo léo cần thiết của đời sống nghệ thuật. Chính vì thế mà Dégas mới ám chỉ rằng” một bức tranh là một sự vật nó đòi hỏi sự khôn lanh, ác ý và tội phạm”. Chế nhạo những quy tắc bằng cách nêu ra sự tự do của nghệ thuật; đúng là sự biện giải vụng về và ngu muội. Baudelaire cũng viết rất rõ rằng; tu từ học và âm vận học là phương pháp phát minh ra hình thức nghiêm chỉnh, và là sự tập hợp những quy luật theo yêu cầu của cơ cấu tinh thần tồn tại, và phương pháp tu từ học, âm vận học chưa hề gây trở ngại cho bản năng tự thân sáng tạo lực. Trái lại nó còn trợ giúp cho sự phát triển sức sáng tạo là một sự thật chính xác. Coleridge còn khẳng định: “Thiên tài không phải là không quy luật, bởi vì cái tạo nên thiên tài chính là khả năng hành động sáng tạo dưới những quy luật do tự thân nó lập ra.”
12.- Chúng ta hãy bàn về hai điểm cuối cùng. Tôi thử trình bày rõ về bản chất đặc trưng chân chính của nghệ thuật, với tính cách là tác dụng thiện trong tri tính thực tiễn. Nhưng rõ ràng là cái thiện của tri tính không thể tồn tại cô lập. Bởi vì nghệ thuật là đức thiện của tri tính, nó đòi hỏi kết thông với toàn bộ lãnh vực của tri tính. Nhân đó trí lực và nhận thức là khí hậu bình thường của nghệ thuật, toàn thể niềm tin gắn bó với hệ thống giá trị khai hóa truyền thống là thổ nhưỡng thông thường của nó, di sản của một hệ thống kiên cố và niềm tin thanh khiết, giá trị của một nền văn hóa, một niềm tin, và giá trị một chân trời thông thường của kinh nghiệm vô tận của con người bừng sáng với kiến giải đam mê những lo âu, hay là đức thiện tri thức của tinh thần trầm tư.
Đối với nghệ thuật gia tôn sùng sự vô tư và thôn dã thô bạo là dấu hiệu yếu đuối của nội tâm. Nhưng sự thật vẫn là tất cả kho tàng trên hành tinh này chỉ có lợi cho nghệ thuật, nếu nó có đủ lực để không chế và tạo ra hoạt động tự thân. Và không phải tất cả những nhà thơ đều có sức lực của Dante.
Mặt khác, tri tính do trời sinh là trầm tư, như thế, không có cái thiện tri tính, cũng như cái thiện thực tiển. Trong lãnh vực đặc biệt nội tại, tự thân nó không phát triển, đồng thời không có phát triển nhiều hay ít sự trầm tư. Nhưng tri tính trầm tư trong địa hạt nghệ thuật là gì, nếu nó không phải là tri tính phê bình? Về vấn đề này Baudelaire đã viết:”Có lẽ đây là một hiện tượng rất mới lạ trong lịch sử nghệ thuật là nhà phê bình trở thành thi nhân, một sự đảo ngược trong qui luật tâm lý, một quái vật, (ý tưởng của Baudelaire, phê bình gia chỉ là phê bình gia, do thiên phú, theo tôi đó là một giả thuyết vô nghĩa) Trái lại, tất cả những nhà thơ vĩ đại đều tự nhiên nhi nhiên trở thành nhà phê bình. Tôi rất tiếc là thi nhân chỉ do bản năng duy nhất chi phối, tôi cho như thế là không hoàn hảo. Trong đời sống tinh thần của thi nhân phát sinh trong cơn khủng hoảng, nó lại suy luận về nghệ thuật, khám phá ra những quy luật tối tăm với mục đich là sản xuất và rút tỉa trong sự nghiên cứu một loạt những qui tắc mà mục đích là sản xuất thi pháp kỳ dịệu không lầm lẫn. Một phê bình gia có thể biến thành thi nhân, đó là một kỳ tích, và tại bản thân thi nhân không còn bao hàm tính phê bình là điều không thể có. Với thi nhân đó là điều chính xác tuyệt đối. nhưng với sự phê bình thì phải thận trọng, chúng ta sẽ xem lại sau này.
Cuối cùng nếu chính xác nghệ thuật là đức thiện của tri tính sáng tạo, hướng về sự phát sinh cái đẹp và chiếm đoạt, trong thế giới sáng tạo phương thức hoạt động áo bí của thiên nhiên để sản xuất tác phẩm của chính mình - một thứ sáng tạo mới mẻ - kết quả là nghệ thuật tự thân kế tục dùng phương thức lao động sáng tạo thần linh. Đúng như Dante đã nói rằng nghệ thuật con người của chúng ta giống như con của Thương Đế.
Nghệ thuật của các ngươi gần như là con cháu của Thượng Đế!.
CHƯƠNG BA
Cuộc sống tiền ý thức của tri tính
Nghệ thuật đắm đuối trong thi ca
Khát khao được lí tính giải thoát.
1.- Trong chương trước tôi đã mạnh dạn cho rằng gốc rể của nghệ thuật là ở trong tri tính. Nghệ thuật là đức thiện của tri tính thực tiễn; nghệ thuật nhất là mỹ nghệ thuật (beaux arts) được tri tính hóa nhiều hơn là thận trọng (prudence) Nghệ thuật là đức thiện chân chính của công tác lý tính. Nhưng hiện nay chúng ta đang đứng trước một sự mâu thuẫn, một sự kiện tựa như hoàn toàn tương phản với thực tế, mà tôi vừa nhắc đến là nghệ thuật hiên đại - thứ nghệ thuật rất ưu tú, rất sâu xa có khuynh hướng khát khao giãi thoát lý tính (thứ lý tính của logic).
Đương nhiên đó là một sự thật rõ ràng hơn là một hiện tương phổ quát, dễ nhận thấy, nó trình hiện chính xác; đến độ một triết gia Pháp là Blanc de Saint-Bonnet phải thốt lên là: ”lý tính đã suy thoài rõ rệt trong thời hiện đại”. Người ta cũng có thể nói, với những kẻ đầy nhiệt tình, mạnh mẽ cổ vũ cho nghệ thuật hiện đại cũng phải đắng cay nói rằng, nghệ thuật hiện đại cũng đang giống như lý tính, đối diện trước sự suy thoái (hoặc cũng có thể khẳng định rằng; nghệ thuật hiện đại tám phương bốn hướng đều bị lý tính hiện đại bao vây, uy hiếp - và cái gọi là lý tính là chỉ cho các nghệ thuật gia hiện đại đang vội vàng chụp lấy cái vi ngôn đại nghĩa của sự vật xung quanh, mà không dám nhìn thẳng vào sự vật; tức là trong khi họ cương quyết nhận định được sự thật, đang chìm đắm trong việc giải thích những hư ảo, lý do là họ tin rằng thi ca đang thay thế cho vai trò khoa học.Thật ra nghệ thuật hiện đại đang cố gắng tự vệ bằng cách lẫn tránh trong chủ nghĩa phi lý tính.
Nhưng sự giải thích như vậy không hoàn hảo, và vấn đề vẫn sơ sờ ra đó. Vì khát vọng được giải thoát khỏi lý tính là một hiện tượng thật tại đầy ý nghĩa và sâu xa. Nó gắn liền với  khát vọng điển hình của nghệ thuật trong đường nét chính yếu và trong cuộc sống nội tại với tính cách là nó tự ý thức được trào lưu của cuối thế kỷ với mức độ trước đó chưa hề có, và nó đã khám phá được  cái linh cảm tự ý thức của thi ca (la poésie au coeur de cette conscience de soi) tức tính chân thật và hoang dã nguyên thủy của thơ (la poesie nue et sauvage). Thi ca đã gặm nhắm nghệ thuật hiện đại, đó chính là nguyên nhân nó phải tách rời lý tính. Bây giờ tôi chưa đề cập đến tho là gì? Mà tôi chỉ quan tâm đến kết quả do thơ tạo ta.
Tôi không thể không khái quát hóa, động thời dùng những phương thức đơn giản để miêu tả kỷ năng mà chúng ta hằng chú ý là công trình phát triển của nghệ thuật hiện đại. Đối với triết học nghệ thuật mà nói, đó là một quá trình phát triển tự thân bình thường mà còn là tính khải phát đặc biệt. Tôi phải nói rằng tất cả đều thuộc vào sự thật chìm đi, mà nghệ thuật trở thành càng được ý thức - nghệ thuật được hình thành càng ngày càng rõ sự tự do, càng ngày càng rõ tính tất nhiên, không để cho sự vật làm chủ tể. Không phải là tự thân nó sáng tạo và sanh ra sự thiện càng ngày càng rõ, là sự đòi hỏi của nghệ thuật gia phải trung thành với sự chân thực, và đó là sự trung thực đối với sức tưởng tượng của cá nhân.
Những công thức mà tôi vừa sử dụng đều đem lại cơ hội cho sự đòi hỏi của những người không thích hợp và không tin vào chân lý. Tự thân nó là chân thực. Tôi cũng sẽ nói rằng, thảo luận về quá trình cơ bản phát triển là một quá trình của sự giải thoát hay giải trừ; nó cần phải giải thoát cái xung lực nội tại, nó gắn liền với tính chất của nghệ thuật là và nó đòi hỏi khi sử dụng sự vật phải biến đổi nó đi. Vì đúng như kết quả của nghệ thuật thủ công, người thợ phải chú ý đến tính chất của những chất liệu khi nó dùng đền, phải phân tích thiên nhiên, cách thức thiên nhiên cấu tạo ra nó. Thí dụ như sự cấu tạo của gổ nơi cây, hay những chất liệu trong hầm mỏ, để đem lại một hình thức bẩm sinh trong tinh thần. Cho nên, khi họa sĩ hay thi nhân ngắm nhìn nhìn những ngoại hình thiên nhiên trong thế giới thực tại, khám phá ngay được cái hình thức chính của thực tại ấy, và vẻ đẹp của nó, cùng những công cụ tư tưởng đã trải qua bao thế kỷ được người đời sử dụng để tạo nên sản phẩm. Có như thế, tâm hồn nghệ thuật mới nảy sinh được những hình thức mới, mang vẻ đẹp cho tác phẩm. Như thế nên giải thoát và cải biến thường đi đôi với nhau. Theo ý tôi, người ta có thể phân biệt được ba giai đoạn tiến triển trong nghệ thuật hiện đại, đặc biệt là trong hội họa và thi ca.
Trước tiên nghệ thuật hiện đại nỗ lực tự giải thoát khỏi những hình thức và thiên nhiên. Nó không những biến đổi thiên nhiên, mà còn nhắm đem lại quy luật cực đoan biến đổi ngoại hình thiên nhiên mà hội họa thường áp dụng, và còn thông qua một thứ hình thức thuộc lãnh vực khác, và mối liên hệ giữa các hình thức - mà khám phá một thực tại thâm sâu trong cơ cấu của màu sắc hay ngữ từ chính xác của nghệ thuật; biểu hiện những giấc mơ, những căm hờn, những lo âu hay những buồn rầu của chúng ta. Và với những nghệ thuật gia vĩ đại, điều đó không chỉ bao hàm một thái độ coi thường thiên nhiên hay cách ly chúng. Mà đúng hơn còn đánh cắp những thi chất thần bí của bản thân thiên nhiên.
Giai đoạn thứ hai là giải phóng và biến đổi ngôn từ, cái ngôn từ tôi nói ở đây là ngôn từ lý tính. Thứ ngôn ngữ đã bị tước đoạt quyền lợi biểu đạt sự vật đặc biệt, nó mang ý nghĩa thực dụng phát sinh thói quen thành khô khan không sao tránh né được. Chính vì vậy, không chỉ gây  trở ngại cho thi ca, mà còn hạ bệ giá trị của thi ca, nên phải nói khác đi cái điều nó muốn nói. Giờ hãy suy luận về khái niệm căn cứ theo hình thức của thói quen, mắt tai thích thú về những đường nét màu sắc của hội họa, hay âm thanh hài hòa của âm nhạc. Nó là ngôn ngữ lý tính của hội họa và âm nhạc. Vì sao những nghệ thuật gia hiện đại lại tìm cách tạo ra sự đấu tranh giải thoát qui luật logic và lý tính của ngôn ngữ, khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên? Chính vì họ không còn chú ý nhiều đến ngôn từ, đến những liên hệ hấp dẫn quan trọng của nó nữa, mà chỉ muốn biến đổi và giải thoát nó khỏi sự suy luận của lý tính. Joyce sáng tạo ra một thứ ngôn từ mới, mang một ý nghĩa truyền đạt, thứ ngôn ngữ ấy chỉ dành cho một số người hiểu thôi. Những người tìm kiếm khác dấu kín ý nghĩa logic hay ý nghĩa khái niệm trong ngôn ngữ cấu thành hình ảnh, còn từ ngữ được dùng chỉ để khơi gợi. Một mặt những nghệ thuật gia thuộc phái ấn tượng và tân ấn tượng, như Cézanne, Gauguin, Van Gogh cùng những người khác đều chú trọng đến ngữ ngôn của họa gia, rất chú trọng đến thành phần ngôn ngữ của họ - nhưng chính là để phát hiên một thứ ngôn ngữ hội họa mới, giải thoát cái cơ cấu khái niệm tri tính ngoại tại, cái trạng thái dễ đọc của lý tính trực tiếp vẫn còn trình hiện trong tranh của William Blake. Bài thơ hay bức tranh không nói bằng ngôn ngữ của logic.
Nghệ thuật cũng xâm nhập vào lãnh vực mơ hồ tối tăm. Pierre Reverdy (1889-1960 nhà thơ Pháp) cũng nói;” Tôi cũng mơ hồ nó như tình cảm vậy.” (je suis obscur comme le sentiment). Sự mơ hồ kín đáo càng tăng lên trong giai đoạn thứ ba. Nghệ thuật nỗ lực tự giải thoát mình khỏi ý nghĩa của khái niệm hay logic; đó là những nhà thơ như René Char (1907- Pháp), Henri Michaux (1899- Pháp). Hart Crane (1899-1932- Anh), Dylan Thomas (1914-1933 Anh) và những họa sĩ của trường phái lập thể, Không ngại ngùng gì cả họ truyền đạt một nội dung vô giá, tác phẩm gần như không nói gì cả, nó câm lặng. Nó đánh thẳng vào tâm linh chúng ta với những phương thức cấm đoán. Ý nghĩa logic có bị mất đi không? Không, nó không mất đi đâu. Nhưng có thể nói, nó đã bị tiêu hóa trong ý nghĩa của thi tính, nó bị bẻ gảy, bị băng hoại để chỉ còn  như một thứ khơi động của ý nghĩa thi ca. Ý nghĩa thi tính lại chỉ lóe sáng trong bóng tối. Ý nghĩa ấy kết hợp thành một với thơ tự thân, nó hoàn thành nội tại, thực hiện viên mãn bản thể luận của thơ, nó ban cho thơ sự tồn tại chân chính và ý nghĩa thực chất, ý nghĩa của thi tính quyết không đồng nhất với ý nghĩa khái niệm, cũng như tâm hồn con người khác biệt với ngôn từ của nó. Nó không thể tách ra khỏi hình thức cơ cấu của thi tính, không kể là rõ ràng hay kín đáo tối tăm, ý nghĩa thi tính tồn tại ở đó, bản chất nó liên kết chặt chẽ với hình thức, nó ở trong  cơ cấu  nội tại của tư tưởng, của hình thức thi tính. Trong nghệ thuật hiện đại, nó đòi hỏi sự tự do tuyệt đối với bất cứ giá nào.
Những gì tôi vừa miêu tả là nhằm giải thoát khái niệm lý tính, sự suy luận, và logic. Mặc dù trong quá trình phát triển có thể là ngẫu nhiên, một thứ nhu cầu bắt chợt của lý tính, và một  thái độ nguy kịch mà lý tính rất mơ hồ (gần như không hay biết) trong bản chất, lý tính phó thác ngắn ngủi, nếu nó chính xác khi lý tính có cuộc sông sâu xa và ít ý thức khi mà logic bộc lộ. Vì lý tính chính xác không chỉ nói năng rõ ràng, còn liên tưởng, suy luận, lý giải, mà còn “trực giác lý tính” (intuitus rationis), là hành động chủ yếu và công năng của lực lượng duy nhất được gọi là trí tính hay lý tính. Nói một cách khác, nó không chỉ là lý tính logic, mà còn là sự tồn tại của trực giác lý tính, nó có trước lý tính logic.
… khi mà tâm hồn
Đạt đến lý tính, thì lý tính tồn tại
Suy luận hay trực giác.
Coleridge (thi hào của Anh) đã viện dẫn lời của Milton để khẳng định về quan điểm “lý tính trực giác”, ông ta cũng đã viện dẫn đến uy quyền của Aristote. Trong lãnh vực lý luận tri thức, như khoa học, triết học, lý tính trực giác là tác dụng căn bản, tất cả những lý luận chứng minh cuối cùng vẫn không chứng minh được, mà chỉ có thể lý giải bằng nguyên tắc thứ nhất, và rõ ràng tất cả những khám phá chính xác đều biểu hiện trong trạng thái mới mẻ phát sinh từ tia sáng trực giác, trước khi được chứng minh bằng suy luận và kinh nghiệm. Nhưng chỉ có trong thi ca vai trò của trực giác lý tính mới biểu hiện đột xuất. Về sau, chúng ta sẽ phân tích chúng rõ hơn. Bây giờ chúng ta đang đứng trước một thứ trực giác có nguồn gốc từ tình cảm, và chúng tiến vào hoạt động tri tính nguyên thủy là vương quốc của đêm đen; đó là thứ tri tính vượt xa khái niệm và logic, quan hệ chủ yếu trong hoạt động của nó là tưởng tượng và tình cảm. Chúng ta đã rời bỏ lý tính logic, thậm chí là lý tính khái niệm, nhưng so với dĩ vãng càng sử dụng nhiều lý tính trực giác - nó là một phương thức tác dụng  của phi lý tính.
Tất cả những điều tôi đã nói là khát khao giải thoát logic lý tính; tôi sợ rằng không mấy thích đang với sự tháo gở nhiều lần trong thục nghiệm thi ca hiện đại, nó mới từ từ hoàn thành được nhiệm vụ chân chính. Đó là con đường lý tưởng mà tôi có ý theo đuổi. Thật ra trong số những nghệ thuật gia hiện đại tiếng tăm, tất cả đều dấn thân trong tống quát,, nhưng chắc chắn họ không rơi vào nẻo cực đoan. Họ tự giải thoát khỏi cái lý tính logic bằng cách biến cải ý nghĩa trong khi vận dụng, nhưng không phải là thủ tiêu ý nghĩa của nó.
2.- Chúng ta đang thảo luận về một quá trình phát triển đầy nhũng hiểm nguy quan trọng. Đây là một thứ nhiệm vụ mang tính mạo hiểm, được cái phần nhiều nó là ngẫu nhiên và cao giá. Và là một thứ quá trình phát triển mà phương thức phát sinh tính chất hoàn toàn khác nhau. Trong quá trình phát triển, phải tiếp xúc hai khuynh hướng chân giả hổ tương, có khi còn hổn hợp với nhau nữa. Bây giờ chúng ta hãy tiếp tục phân tích, nên phân biệt ba tuyến đường chủ yếu của ba phương hướng khác nhau, và theo tôi nó giống như ba mủi tên xuyên qua toàn bộ quá trình phát triển. Chỉ có một phương hướng chính xác tốt - đó là phương hướng tự thân trực tiếp là thơ. Trong việc biến đổi thiên nhiên, ngôn ngữ, ý nghĩa logic hay lý tính, trong quá trình phát triển, mục tiêu cuối cùng, tất cả đều hướng về ý nghĩa thi tính tự thân; nghĩa là hướng về nẻo chân chính, tự do, và tức khắc tiến vào trong tác phẩm, trong cõi thâm sâu của tâm hồn ta là nơi sinh ra trực giác sáng tạo. Thí dụ chúng ta nghĩ ngay đến một loạt những nghệ sĩ như Rouault và Chagall, Satie hay Debusy, Hopkins, Apollinaire, Hart Crane, Reverdy, T.S. Eliot, S.John. Perse (tôi chỉ nêu ra những nhân vật quan trọng), những người đã tạo thành một thế hệ nghệ thuật, không kể đến những nghệ nhân vĩ đại khai sáng như Baudelaire.
Chúng ta hãy đề cập đến một hướng khác, nhằm vào việc sáng tạo nghệ thuật thuần túy. Trọng tâm nhằm đến tuy không phải là thành phần trung tâm tuyệt đối, nhưng cũng là thành phần cơ bản, cái quyền lực sáng tạo của tinh thần nhân loại luôn luôn khát sự sáng tạo thuần túy - dường như ganh tỵ với Thượng Đế, người cơ trí đã sáng tạo chúng ta. Ngoài ra, thơ và thơ vĩ đại mà người ta đạt đến, chụp bắt được đều là do phương thức gia tăng và dư dật.
Hãy nghĩ đến Picasso, vì sao, mà ông ta đã đưa ra lắm dạng thức tiên tiến khác nhau. Trong khi con người không dễ gì đến được sự sáng tạo thuần túy. Tất nhiên là ông ta đã tiếp nhận cái hàm nghĩa nội tại mạnh mẽ. Lúc bấy giờ Picasso vô cùng chán ghét và thất vọng với thế giới hiện tại, (chúng ta biết được vẻ mặt của thiên sứ, Picasso lại vẽ cho nó méo mó đi, có thể đó mới là chân tướng của chúng ta), Và môn hội họa trừu tượng đương đại thất bại đối với hình thức, thuần túy tự cấp tự túc giải phóng vũ trụ; nó không thể truyền đạt bằng ý nghĩa tượng trưng, với hình thức quá lộ liễu và nghèo nàn.
Và còn một định hướng nữa, lần này nó không theo con đường chính. Dù rằng nó mang một tham vọng quá cao, nhưng thực tế là một nỗ lực tự mình lường gạt mình. Vì ở đây là định hướng bị đảo ngược, mục đích cao cả không phải là sụ giải thoát theo ý nghĩa thi tính càng không phải là sự sáng tạo thuần túy, mà chỉ là sự truy tầm tự ngã con người xuyên qua thi ca. Khởi đầu là sự mê đắm tự ngã (le narcissisme) - đảm nhiệm việc tìm kiếm sự thích thú chủ quan của trạng thái thi tính tự thân (chúng ta hãy nghĩ đến Rimbaud - một đôi phương diện của ông ta) hay nghĩ đến Gide, sự bộc lộ đột ngột hành động tự do, hay vô duyên vô cớ, và có quyền lực lựa chọn mà không chọn lựa; hay nghĩ đến Mallarmé, một tác phẩm hoàn mỹ mà chỉ phản ảnh hư vô thuần túy, cùng với sự thông qua từ ngữ khiến cho quyền lực vu thuật biến đổi thực tại, ít nhất là thực tại ấy tồn tại ở trong tâm hồn con người. Về sau, sự si mê tự ngã ban cho một thứ chủ nghĩa của thần Promete (tin vào sức mạnh và khả năng của con người). Cuối cùng chủ nghĩa siêu thực lại thảo luận về ý nghĩa của sự xung động lực và phương hướng hoàn toàn điên đảo của nó, Với chủ nghĩa siêu thực, cái động lực của toàn bộ thi ca thiên lệch hướng về sự giải phóng tát cả quyền lực của con người và chinh phục cái vô hạn bằng lực lượng  của phi lí tính.
Chương bốn
TRỰC GIÁC SÁNG TẠO và NHẬN THỨC THI TÍNH
Nguồn gốc duy nhất của lực lượng tâm linh
I.- Trong chương trước tôi đã đề cập đến tinh thần và ý thức hay tiền ý thức tồn tại trong cơ thân chúng ta; đặc biệt là đề cập đến tinh thấn vô thức, và vô thức tự động, hoặc vô thức của Freud, dù rằng cả hai đều có sự liên hệ mật thiết, nhưng tính chất lại khác nhau. Tôi cũng đã nói qua, chính trong tinh thần nửa tối nửa sáng của đêm tối tâm linh mà thơ và sự linh cảm của thơ bắt được nguồn mạch đầu tiên. Tôi đã dựa vào quan điểm của thánh Thomas d’Aquin mà phát sinh cơ cấu tri tính và hoạt động vô thức của tri tính.
Lại một lần nữa, dựa theo vài quan điểm triết học của thánh Thomas, mà chúng ta sẽ triển khai cuộc thảo luận về tính trực giác sáng tạo và tính trực giác trong thi ca. Những quan điểm ấy chỉ nhắm thuyết minh sức mạnh của linh hồn, và từ linh hồn đó phát sinh ra hình thức, do từ sức lực của linh hồn mà sự sống, sinh vật, cảm giác, trí năng mới tiến hành vận động. Từ khi linh hồn nhân loại tồn tại, thì sức lực của linh hồn tự nhiên cũng tồn tại. Đương nhiên, nói về trình tự của sự tồn tại, thì trước tiên là xuất hiện lực lượng nuôi dưỡng (đó là giai đoạn manh nha hoạt động đơn độc); sau đó mới đến lực lượng cảm giác, cuối cùng là lực lượng tri tính. Nhưng trong hoạt động linh hồn có một sự trật tự tồn tại, liên quan đến bản chất chứ không phải thời gian - lực lượng của linh hồn dựa vào cái trật tự cội nguồn của nó mà xuất phát. Ở đây, thánh Thomas dạy rằng tùy theo cái trình tự thiên nhiên ưu tiên đó mà phát xuất, lực lượng nào mạnh nhất, hoàn hảo nhất sẽ phát xuất trước, và ông nói tiếp (đó là điểm tôi chú ý nhất) trong hàng ngũ của bản thể ấy, có một thứ lực lượng hay tài năng thông qua một lực lượng làm môi giới hay một công cụ trung gian xuất hiện bản chất của linh hồn. Lực lượng ấy sẽ xuất hiện trước, vì lực lượng nào hoàn hảo nhất  thì đó là nguyên tắc hay là chỗ y cứ của tồn tại (raison d’etre). Vì chúng ta vừa là mục đích, lại vừa là chuẩn tắc năng động của chúng, hoặc là ngọn nguồn hữu hiệu của sự tồn tại. Tri tính không tồn tại vì cảm giác, nhưng như Thomas đã nói: “Cảm giác là một thứ tham dự không hoàn thiện của tri tính”, vì trí lực mà tồn tại. Rồi thì trong nguồn gốc bản chất tuần tự, cảm giác tồn tại nếu có thể nói, thoát thai từ trí tính, theo tri tính mà tồn tại. Nói một cách khác, nó tham dự thông qua trí tính, mà bản chất linh hồn đạt đến sự phát triển.
Vì vậy, chúng ta phải nói rằng, tưởng tượng thông qua sự trung gian của tri tính mà sản sinh ra bản chất linh hồn; mà giác quan bên ngoài cũng thông qua tưởng tượng mà sinh ra bản chất của linh hồn; vì tri giác ngoại bộ tồn tại trong con người để phục vụ cho sự tưởng tượng, cũng thông qua tưởng tượng  mà phục vụ cho tri tính
2.- Tôi rất dễ xiêu lòng vì biểu đồ. Tôi hy vọng rằng biểu đồ mà tôi đề xuất sau đây, nó trình bày được cái tuần tự xuất hiện, giúp tôi làm sáng tỏ cái trật tự của vấn đề, dù rằng cái vai trò của hội họa trừu tượng cũng không được lý tưởng lắm.
Điểm chóp của đồ biểu là bản chất của linh hồn. Hình chóp thứ nhất (tạm gọi như vậy) biểu hiện cho bản chất linh hồn. Đỉnh điểm của hình nón là đại diện cho tri tính, hay lý tính phát xuất từ linh hồn.
Phần thứ hai của hình nón đại diện cho sự tưởng tượng - xuất phát từ linh hồn thông qua môi giới trung gian của tri tính. Phần thứ ba đại diện cho cảm giác bên ngoài, thông qua sự tưởng tượng và phát sinh từ linh hồn.
Vòng tròn thứ nhất đại biểu cho khái niệm vũ trụ và những quan niệm có thể nói tạm thời, những ngoại hình khái niệm hóa của lý tính. Đó là thế giới hoạt động của khái niệm lý tính logic và suy luận.
Vòng tròn thứ hai đại biểu cho vũ trụ của ý tưởng với những hình thức rõ ràng, hay tạm thời có thể nói là sự tổ hợp ngoại hình của tưởng tượng. Đó là thế giới tưởng tượng thành công do thực tế hoạt động khích động cảm giác bên ngoài và tập trung lại trong hoạt động, và duy trì được sự thống nhất, nói một cách khác, trong quá trình nhận thức, do tưởng tượng quyện nhập vào cảm giác, trong hoạt động hiện hành của con người ở trong trạng thái thức tỉnh, dùng vào mục đích thực dụng.
Vòng tròn thứ ba đại diện cho những sự kiện trực giác do cảm giác bên ngoài cung cấp - bản thân nó gần như vô thức, và trở thành nhận thức khi nó thấm nhập vào cơ cấu công cộng của ký ức, tưởng tượng và những cảm giác nội tại khác.
Bây giờ, ba cái hình nón đều không phải trống không, mà mỗi hình nón tự đại diện cho một lực lượng sống và sự hoạt động mà nó tượng trưng. Chớ có giới hạn cuộc sống và hoạt động của tri tính hay lý tính bên ngoài cái vòng tròn khái niệm của lý tính. Vì nó thuộc về một thứ năng động lực rất lớn, nó xuất phát từ trung tâm của linh hồn và tự chấm dứt nơi vòng tròn.
Hơn nữa không nên giới hạn cuộc sống và hoạt động của trí tưởng tượng bên ngoài sự tổ hợp của vòng tròn.Thực tế nó là một năng động lực to lớn tự phát triển từ cao đến thấp dọc theo chiều sâu thẳm của linh hồn và chỉ chấm dứt ngoài vòng tròn.
Về phần cuộc sống và hoạt động của những cảm giác bên ngoài, không mảy may nghi ngờ, nó phát sinh nơi cảm giác cung cấp những dữ liệu cho trực giác - ở đây tâm linh tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhưng nó phản chiếu lên cao, trong những vùng thẳm sâu của linh hồn, và tất cả cái gì nó tiếp nhận của thế giới bên ngoài, tất cả cái gì nó nắm được trong nhận thức của giác quan, tất cả kho tàng giàu sang quí báu của Ai Cập, đều thâm nhập đến trung tâm sâu xa của linh hồn.
Cuối cùng chúng ta có thể qui định bằng những chấm, cái vùng mà chúng ta gọi là vô thức hay tinh thần tiền ý thức. Những điểm chấm khác là chỉ cho địa hạt vô thức động vật hay là tự động. Cho nên, nó biểu hiện sự kiện của hai miền với cơ thể là khái niệm và quan niệm. Cũng như những hình ảnh (ý tượng) và cảm tri giác về hình ảnh, người ta có thể chia ra ba trạng thái khác nhau. Nó có thể thuộc về lãnh vực ý thức - tạm thời có thể nói thí dụ như (a), hoặc thuộc về lãnh vực vô thức tự động (b), hoặc thuộc về lãnh vực tinh thần tiền ý thức (c). Đó là yếu điểm sẽ nhắc lại trong các cuộc thảo luận tiếp theo.
3.- Đó là đồ biểu. Điều quan trọng đối với chúng ta là sự kiện bắt nguồn cội rể như là tất cả sức mạnh của linh hồn, cội rể ẩn tàng của tinh thần vô thức; và trong tinh thần vô thức có cội nguồn hoạt động như thâm nhập vào tri tính và tưởng  tượng, cũng như những cường lực của dục vọng, ái tình và sự xúc động, cường lực của linh hồn tự bao trùm cái này, cái khác, lãnh vực của cảm giác tồn tại trong lãnh vực tưởng tượng, và lãnh vực tưởng tượng lại tồn tại trong lãnh vực tri tính. Và tất cả lực lượng của linh hồn đều là tri tính nội tại, được kích phát và hoạt động trong ánh sáng phát khởi của tri tính. Và căn cứ theo trật tự và sự đòi hỏi của bản chất, hai lãnh vực đầu tiên tự chuyển động theo dẫn lực và theo cái chí thiện tối cao của lãnh vực tri tính, cũng như sự tưởng tượng và những cảm giác không thể vì vô thức động vật hay tự động tuyệt giao với tri tính. Trong lãnh vực tri tính, tưởng tượng và cảm giác vượt qua sinh hoạt nguyên thủy của chúng, về sau nơi con người chúng được phục hồi và đạt đến trạng thái con người chân chính, trong trạng thái đó, chúng nó dùng phương thức trí lực tham dự, và có thể nói, nó hoạt động thẩm nhập đến trí lực.
Nhưng trong tinh thần vô thức, cuộc sống của tri tính không phải hoàn toàn hấp thụ do sự chỉnh đốn và phát sinh của công cụ tri thức thuần lý, là quá trình sản xuất những khái niệm và quan niệm, mà như chúng ta đã phân tích cuối thiên vừa rồi, và nó tự chấm dứt ở lằn mức khái niệm đột xuất của lý tính. Đối với tri tính có một cuộc đời khác, sinh mệnh ấy lợi dụng những cội nguồn khác và có một sinh lực dự trử khác, nó là sự tự do, tôi chỉ sự tự do này là chức năng sinh ra quan niệm và khái niệm trừu tượng, tự do trong việc nhận thức lý tính và những nguyên tắc tư duy logic, tự do trong việc điều tiết những hành vi và chỉ đạo sự sinh hoạt của con người, tự do về những qui luật hiện thực khách quan, thừa nhận sự nhận thức của lý tính suy luận của khoa học. Nhưng các thứ tự do ấy dường như chỉ dành cho một số ít người có đặc quyền, hay những thành phần có nhiều ngang trái, thứ tự do ấy không phải là tự do may rủi, tự do có đời sống tri tính được nhận thức và sản sinh tuân theo sự thân triển nội tại.Và độ lượng kéo theo sự biểu hiện của tinh thần sáng tạo, và nó được hình thành và sống động do trực giác sáng tạo. Tôi cho rằng đó là sự tự do trong đó có bao hàm tri tính, đời sống tưởng tượng, cội nguồn duy nhất của sức mạnh linh hồn, và trong tinh thần vô thức, là cội nguồn của thi ca.
Như Platon từng đề cập, sự tự do của thi ca giống như sự tự do của con trẻ, tự do của trò chơi và của mộng mơ. Nhưng trong thực tế, thi ca không có các thứ tự do như Platon nói. Nó là sự tự do của tinh thần sáng tạo. Bởi vì thi ca phát sinh trong chiều sâu của đời sống, nơi mà lực lượng tâm linh hoạt động chung chung, nó bao hàm sự đòi hỏi cơ bản có tính cách hoàn chỉnh hay tổng thể. Thơ không phải là sản phẩm đơn độc của lý tính, hay tưởng tượng, mà là tổng thể của con người, gồm có cảm giác (sens), tưởng tượng (imagination), tri tính, (intellect), tình yêu (amour), dục vọng (desir), bản năng (instinct), máu và tinh thần (sang et esprit) kết hợp lại, và chức trách đầu tiên của nhà thơ là là bắt buộc phải tự ẩn dấu mình bên cạnh trung tâm của tâm linh, chính chỗ ẩn dấu đó là tổng thể tồn tại, đó là cội nguồn của trạng thái sáng tạo.
Trực giác trong thi tính
4.- Như vậy trong khi bàn về thi ca, chúng ta phải chấp nhận rằng trong tinh thần của tri thức vô thức, trong cội nguồn duy nhất của lực lượng tâm linh, ngoại trừ cái quá trình phát triển, sự nhận thức nhắm vào các khái niệm và quan niệm trừu tượng, còn tồn tại đôi thứ tiền khái niệm hay không phải là khái niệm, mà sự vật vẫn ở trong trạng thái tri thức hoạt động đích xác. Cho nên, sự vật ấy không phải thông qua phương thức khái niệm (như tôi đã nói trong chương trước, đó là một thứ mầm mống khác, nó không cung cấp hình thức gây ấn tượng sâu xa. Cái mầm mống ấy không nhắm vào việc hình thành khái niệm, vì nó đã là một thứ hình thức tri thức hay là động tác hoàn toàn xác định dù rằng nó bị bao trùm trong đêm đen của tinh thần vô thức. Nghĩa là người ta có ở đó một nhận thức bằng động tác, nhưng không được khái niệm hóa.
Như thế vấn đề chúng ta cần làm sáng tỏ ở đây có liên quan đến sự nhận thức về hoạt động thi học. Hiển nhiên, thứ nhận thức mà chúng ta thảo luận ở đây, không phải là thứ nhận thức mà trước kia (trong lý luận) thuộc tất cả các lãnh vực văn hóa và kinh nghiệm của con người; nó là điều kiện nhận thức tiên quyết do thi ca và nghệ thuật cung ứng cho những tư liệu bên ngoài, và các thứ tư liệu ngoại bộ này được xâm nhập vào ngọn lửa thiện đức của sự sáng tạo, mà cải tiến sự nhận thức mà chúng ta đang thảo luận là thứ nhận thức nội tại, nó nội tại ở trong thơ và cùng đồng thể chất với thơ, tự nó có đầy đủ bản chất.
Mục tiêu thứ nhất mà chúng ta đề xuất ở đây là khái niệm của tinh thần sáng tạo tự do. Nơi người thợ thủ công, tinh thần sáng tạo dường như bị bạn chế hay ràng buộc vào một mục đích đặc biệt, tức đối với nhu cầu riêng biệt ấy tất đầy đủ. Còn đối với thi nhân, thì được tự do sáng tạo, vì nó chỉ nhắm vào sinh sản ra cái đẹp, mà cái đẹp là siêu nhiên (transcendantal), nó bao hàm vô số khả năng thực hiện và khả năng chọn lọc. Tại điểm đó, thi nhân giống như một vị thần, và để phát hiện cái bản chất tối sơ của thơ, không có cái gí so sánh có ý nghĩa hơn với vị thi nhân đầu tiên.
Quan niệm sáng tạo của Thượng Đế cũng xuất phát từ sự thật đó: tính sáng tạo đó là không tiếp nhận từ sự vật nào cả, vì sự vật vốn chưa hề có. Quan niệm này không phải do đối tượng nào hình thành, nó là thuần túy mang tính hình thành và tự cấu thành lấy. Và cái điều nó biểu hiện hay diễn tả sự vật trong tính chất sáng tạo không có gì khác, chính là tự thân kẻ sáng tạo với thể chất siêu nhiên đầy ẩn ngữ được dùng các phương thức khuếch trương, truyền bá hay phân phối. Lý trí của Thượng Đế không phải là cái gì khác biệt đâu, mà chỉ là do bản chất tự thân quyết định hay qui định. Thượng Đế chính thông qua sự hoạt động của trí lực nhận thức tức là thể chất và tự ngã tồn tại mới nhận thức được tác phẩm của Ngài. Tác phẩm ấy hiện hữu trong thời gian, và bắt đầu từ thời gian, nhưng cũng trong thời gian hành động sáng tạo tự do lại trở thành vĩnh hằng.
Thơ cũng có tình huống rất giống như vậy. Thơ là dấn thân vào tinh thần tự do sáng tạo, và như thế nó bao hàm hoạt động nhận thức không phải do sự vật mà là do bản chất tự thân cấu thành, nó mang tính chất hình thành và tự cấu thành lấy. Như thế rõ ràng thi nhân là một vị thần đáng thương. Nó cũng không tự biết mình.Và quan điểm sáng tạo của họ tùy thuộc một cách đáng buồn, và thế giới ngoại tại tùy thuộc vào vô số các hình thức và vẻ đẹp do con người sáng tạo ra, và tùy thuộc vào khối sự vật mà con người đã sử dụng qua bao thế hệ, cùng với những phù hiệu những mã số trong bộ lạc, được chuyển qua thành ngôn ngữ. Nhưng dù tất cả là như vậy, thi nhân vẫn noi theo thuộc vào những yếu tố ngoại tại lạ lẫm mà biểu hiện tính chất tự thân trong sự sáng tạo.
Do đó chúng ta có thể thấy tính chủ quan của thi nhân đối với thơ rất quan trọng. Cái điều tôi nói đó không liên quan gì đến giòng tình cảm nông cạn không ngừng trào tuôn của những độc giả đa sầu, đa cảm, chính thông qua thứ tình cảm ấy mà thi nhân các thời đại đem cống hiến cho tình nhân, và những ca khúc điên cuồng đến chúng ta. Tôi nghĩ đến tính chủ quan đầy ý nghĩa thâm sâu của bản thể, tức là toàn thể thực chất của con người, tự thân hướng về vũ trụ. Tinh thần của tâm linh khiến cho tính chủ quan có thể thông qua hành đông nội tại của chính mình hàm chứa tự thân, nơi trung tâm của tất cả chủ thể mà nó nhận thức như là khách thể, dù nó tự hiểu như là chủ thể. Đúng như sáng tạo của thần linh, dùng sự nhận thức của Thượng Đế có bản chất tự thân, kể như là điều kiện tiên quyết, trong sáng tạo thi ca, yêu cầu ban sơ là thi nhân phải nắm vững tính chủ quan của mình. Mục đích của thi nhân không phải là để tự biết mình, nó cũng không phải là lãnh tụ của một giáo phái. Mục đích đặc biệt của chủ nghĩa thần bí thiên nhiên, là thông qua cái hư không mà đạt được kinh nghiệm trực giác tự ngã hiện hữu, cái Atman, trong cái hiện thực hoàn toàn thuần túy. Nhưng mục đích của thơ không phải là điều đó. Cái nhu cầu chủ yếu của thi nhân là sáng tạo; nhưng nhà thơ không thể nào sáng tạo được, nếu không vượt qua ngưỡng cửa nhận thức chủ quan của mình, dù rằng thứ nhận thức ấy rất mơ hồ. Bởi vì thi ca với bản chất là sáng tạo, trước hết nó phải là hoạt động tri thức. Thơ là ban cho sự vật hình thể chứ không phải là do sự vật hình thành. Nếu thi nhân không tạo nên bản chất và sự hiện hữu, thì sự hoạt động nhận thức nào mới có thể diễn tả và trình hiện thành tác phẩm tốt. Chính vì vậy, mà tác phẩm hội họa, điêu khắc,âm nhạc hay cả thi ca, càng bộc lộ tính chủ quan của tác giả.
5.- Nhưng thể chất của con người tự nó cũng rất mơ hồ. Con  người không nhận thức được tâm linh của mình, trừ trường hợp tâm linh xuất hiện hoặc nhiều hoặc ít sáng tỏ ý thức, phản tỉnh sáng tỏ, mà chụp bắt được thoáng qua trong hiện tượng phức tạp; nhưng hiện tượng phức tạp đó chỉ làm gia tăng sự bí ẩn, làm cho người càng lú lẩn đối với bản chất tự ngã của mình. Con người không nhận thức được chủ thể của mình. Nếu nó có nhận thức được, thì đó cũng là thứ vô hình, nó chỉ có cảm giác như một đêm tối bao trùm ím ắng.Tôi cho rằng, nhà văn Mỹ là Melville đã hiểu được điểm đó, khi ông nói rằng: “Không ai có thể cảm được bản thể chính xác của mình, nếu không nhắm mắt lại suy tư, phảng phất như bóng tối kia chính là yếu tố đặc hữu của thể chất chúng ta.”. Cái chủ thể tính với tính cách chủ thể không thể khái niệm hóa được: vì nó là một vực thẳm bất khả tri. Như thế nó làm sao có thể hiện rõ ra cho thi nhân.
Thi nhân không tự nhận thức rõ ràng được tự thân của mình. Bởi vì con người chỉ tự ý thức được tự thân qua sự phản ánh của sự nhận thức thế giới đồ vật, nếu nó không bị cái thế giới sự vật đó xâm nhập tự thân tràn đầy và biến mình thành không hư, thi nhân chỉ tự nhận thức với điều kiện rằng sự vật phát sinh phản hưởng trong tâm tư, và cũng tự nó duy nhất tỉnh ngộ trong một sát na. Nói các khác, sự đòi hỏi đầu tiên trong thi ca, là thi nhân  đối với chủ thể tự thân nhận thức mù mờ, nhưng không tách rời với sự đòi hỏi khác, là đối với thế giới thực tại và khách quan vừa nội tại, vừa ngoại tại phải nắm vững. Đối với việc nắm vững thế giới thực tại khách quan, thi nhân không phải thông qua khái niệm và nhận thức theo khái niệm hóa, mà bằng sự nhận thức mù mờ, mà tôi sẽ mô tả sau đây như là sự nhận thức kết hợp với tình cảm.
Đây là những điểm khốn khổ của nhà thơ. Nếu nó nghe được những ngôn ngữ bí ẩn từ sự vật phát ra một cách ấp úng; nếu nó lãnh hội được cái thực tại từ tồn tại, những thông tin và những văn tự mật mã hóa; nếu nó chụp bắt được trong nhân gian, trong trời đất những sự vật nhiều hơn so với mộng tưởng triết học của chúng ta; như thế không phải là nó nhận thức tất cả điều đó với ý nghĩa bình thường của ngôn từ mà chính là nó tiếp nhận tất cả những cái đó trong sự ẩn ước sâu xa của sự nhận thức ôm đồm. Đối với tất cả sự vật mà nó phân biệt và dự đoán không phải là không liên quan đến các sự vật khác với tự thân của nó; nhưng trái lại, là cùng với tình tự của sự vật không thể tách rời, và thực mà nói, những sự vật ấy cùng với tự thân của nó dung hóa thành đồng nhất.
Trực giác sáng tạo là một hiện tượng trong nhận thức thông qua sự kết hợp hay sự đồng nhất tính, phát sinh từ trong tinh thần vô thức, và nó trở thành hoa trái trong tác phẩm, đối với tự ngã của nó và sự vật cầm nắm một cách ẩn ước. Như vậy, cái mầm mống mà tôi vừa nói ở trên, nó là tinh thần cuộc sống tự do của tri thức hàm chứa trong đêm dài, từ đầu nó hướng về sự triển hiện – không phải là thứ siêu nhân hay là con người tài năng, mà là những người theo chủ nghĩa siêu thực tín nhiệm, biểu hiện một thứ thấp hèn. Thật ra trong mầm mống ấy có hàm chứa một tản mây sáng láng của trực giác đột nhiên phát sinh, trong đó có liên quan đến tự ngã của thi nhân, và một thứ tia sáng đặc biệt của thực tại trong thế giới sáng tạo của Thượng Đế. Tuy nhiên, cái tia sáng phát xuất thành cá tính khó quên, nhưng nó cũng sản sinh những hàm nghĩa, và khả năng ám thị lực cọng minh vô hạn.
Qua một hạt cát thấy cả thế giới
Qua một bông hoa thấy cả trời xanh.
Đó là đáp án đem lại do sự phân tích triết học về vấn đề đặt ra cho sự nghiên cứu chúng ta, thuần miêu tả hay đạo luận trong chương đầu của sách này. Chúng ta nhận thấy rằng, nghệ thuật đông phương chỉ chú trọng hướng về sự vật, nhưng họ lại cùng với sự vật (nói về trình độ, họ lại thành công trong sự triển hiện sự vật). triển hiện một cách mù mờ; nghệ thuật gia sáng tạo theo tính chủ quan. Ngược lại nghệ thuật tây phương chú ý phát huy cái tự ngã của nghệ thuật gia, có thể nó cùng với tự ngã (nói về trình độ, họ rất thành công trong việc triển hiện tự ngã), và cùng lúc triển hiện sự vật mù mờ, lại bao hàm ý nghĩa áo bí của sự biểu hiện thực tại.
Và chúng ta có thể đi đến kết luận: cội nguồn của hành động sáng tạo là phải trải qua một quá trình phát triển tri thức đặc biệt, một sự thể nghiệm hay nhận thức không có song song đối xứng với logic lí trí, và thông qua nhận thức ấy, sự vật và tự ngã đều cùng được thấu hiểu một cách khó lý giải.
Bây giờ, do sự sử dụng ý thức tự ngã mà đề cao được tính phản tỉnh phát triển trong nghệ thuật và trong thi ca hiện đại, nó khiến cho thi nhân tán đồng ý kiến của Pierre Reverdy:“giá trị của một tác phẩm là do sự đụng chạm kịch liệt của thi nhân với số phận ông ta”. Nhiệm vụ của chúng ta là bằng vào phương diện triết học mà lý giải quá trình nội tỉnh tại sao phát sinh và phát sinh như thế nào: trực tiếp điều nghiên cái công năng của tri thức nội tại trong tiền khái niệm đời sống, khiến chúng ta nhận thức được trực giác thi tính và việc nhận thức thi tính đều là một trong những sự biểu hiện cơ bản của tinh thần tính chất con người, và cùng là sự đòi hỏi sơ khởi của tinh thần sáng tạo thấm đẩm trong tình cảm và tưởng tượng.
Nhận thức bản chất thi tính.
6.- Tôi vừa sử dụng từ “nhận thức thông qua đồng nhất tính”(connaissance par connaturalité), nó có liên hệ đến nền tảng khác biệt của thánh Thomas d’Aquin, theo đó thì có hai phương thức để phán đoán, nó thuộc về phương diện thiện trong đạo đức, thí dụ như tính cương nghị. Một phương diện, trong tinh thần chúng ta có thể có môn học đạo đức học, tức ta có cái khái niệm Thiện và nhận thức về lí trí; sự nhận thức ấy của chúng ta phát sinh một thứ tri thức thuần túy chân thực.
Nếu có người bắt chợt hỏi ta cương nghị là gì? Chúng ta chỉ việc tra duyệt và khảo sát lại những đối tượng hiểu biết trong khái niệm của chúng ta là có thể giải đáp chính xác. Một nhà triết học đạo đức có thể không phải là ngừơi đức độ tốt, nhưng có khả năng biết rõ về tính Thiện.
Một phương diện khác nữa là chúng ta có thể thông qua ý chí và dục vọng mạnh mẽ của bản thân mà biết được tính thiện, khiến cho nó trở thành cụ thể hóa ngay trong ta, cùng đồng nhất hóa ngay trong đời sống hiện hữu của ta, Nếu có người bắt chợt hỏi về sự cương nghị, chúng ta sẽ trả lời tức khắc, không phải thông qua khoa học mà là thông qua tính thiên hướng, thông qua sự tra duyệt và khảo sát con người của chúng ta, thông qua đặc tính yêu thích,và thiên hướng hiện hữu của chúng ta. Một người có thể không  hiểu biết gì về triết học đạo đức, vẫn có thể biết được tất cả tính thiện (biết sâu sắc là khác) qua tính đồng nhất.
Trong nhận thức thông qua sự kết hợp hay tính thiên hướng, tính đồng nhất hay đồng chất tính, tri thức không đơn độc thành tác dụng, mà là do tình cảm thiên hướng và ý hướng của ý chí cùng tác dụng với tư cách hướng dẫn và định hình. Đó không phải là một thứ nhận thức bằng lí trí, mà là thông qua bằng khái niệm, suy luận logic và vận dụng nhận thức lí trí. Mặc dù sự nhận thức ấy rất là mơ hồ hoặc không sao có thể lý giải được, nhưng nó vẫn là thứ nhận thức thực tại chính xác. Thánh Thomas dùng phương thức ấy giải thích sự khác biệt, một là sự nhận thức thực tại thần linh thông qua thuyết thần học, và một là sự nhận thức thực tại thần linh thông qua kinh nghiệm thần bí. Vì theo ông, tinh thần con người thông qua thiên hướng và đặc tính đồng nhất mà nhận thức được sự thần bí của sự vật; không những do nó từng nhận thức sự vật, mà như Pseudo-Denys nói, thì còn do chúng nó bị ma xát.
Sự nhận thức thông qua đồng nhất tính, có một tác dụng lớn trong cuộc sống con người. Triết học hiện đại hầu như đã liệng nó vào sự lãng quên, nhưng những học giả xưa lại đối với nó vô cùng cảm hứng và thích thú, dựa vào đó mà thiết lập ra các thuyết trầm tư thiên phú. Tôi cho rằng, chúng ta cần phải nhận thức tính chất đạo đức thực dụng, và kinh nghiệm thần bí thiên nhiên hay siêu nhiên – trong địa hạt nghệ thuật và trong thi ca, phục hồi các thứ nhận thức ấy, thừa nhận tác dụng cơ bản và tính trọng yếu. Theo tôi, nhận thức thi tính là một thứ nhận thức đặc biệt do thiên hướng, chúng ta có thể nói, đó là một thứ nhận thức biểu hiện tình cảm và đồng nhất tính. Thứ biểu hiện đồng nhất tính tình cảm ấy có liên quan đến tinh thần sáng tạo, nó tự bộc lộ khuynh hướng của nó trong tác phẩm. Cho nên trong nhận thức như vậy, các đối tượng được sáng tạo như thi ca, hội họa, âm nhạc giao hưởng, trong sự tồn tại tự thân của nó được coi như là một vũ trụ riêng nó, tác dụng nhận thức ấy xuất phát từ nhận thức bình thường thông qua  những khái niệm và những phán đoán, Do đó, sự nhận thức thi tính chỉ có trong tác phẩm mới có thể biểu hiện đầy đủ. Sự nhận thức thi tính phát sinh một cách vô thức hay tiền ý thức từ trong tinh thần của thi nhân, về sau có một thứ hầu như không đến được, mà là một cách thức như cưỡng chế, và không thể chống lại được xuất hiện trong ý thức thông qua một cú sốc tình cảm và tri thức, hay thông qua một thứ kiến thức kinh nghiệm không đoán trước được, thứ kiến thức ấy nó báo cho sự hiện hữu tự thân, nhưng không biểu hiện rõ
7.- Thứ nhận thức phát sinh tình cảm thông qua sự đồng nhất tính. Vì thế cho nên, trong cái nhìn đầu tiên, người ta tin, mà thường thi nhân cũng tin rằng, họ như là nhân vật Ahab của Moby Dick (nhà văn Mỹ) miêu tả:” Đó là điều suy tư, nếu Ahab có thời gian suy nghĩ đến; khốn nổi Ahab không bao giờ nghĩ tới, nó chỉ cảm xúc,cảm xúc, vẫn là cảm xúc, mạo hiểm nghĩ đến, chỉ đủ làm bối rối những kẻ sắp chết mà thôi. Quyền lực ấy chỉ có Thượng Đế mới có được đặc ân đó. Nhưng cách suy nghĩ ấy của con người là sai rồi. Thi nhân cũng nghĩ như vậy. Nhân thức thi tính phát sinh từ lý trí với danh nghĩa là tri tính, chính xác, và tiếp thu từ bản chất, dù nó dựa vào cảm giác, cũng không thể là dụng cụ môi giới, việc này tôi sẽ giảng giải sau. Tôi đang muốn giải thích một lý thuyết chắc không phải là thứ thuần tình cảm, hay là một học thuyết thi ca của chủ nghĩa đau thương. Trước tiên, tôi đề cập đến một thứ nhận thức chính xác, thứ nhận thức ấy không phải là tình cảm, nhưng trong nhận thức ấy lí trí lại biết trong thứ nhận thức ấy, cũng như trong tất cả những nhận thức khác. Tiếp theo tình cảm mà tôi nói đến không có chút gì giống với tình cảm tươi sống thô lổ và thuần chủ quan, mà tôi đã nói đến trong chương đầu, nó không dính dáng gì đến nghệ thuật. Nó không phải là thứ tình cảm mà thi nhân miêu tả hay biểu lộ trong thi ca; mà là một thứ chế tác trong tác phẩm như là một thứ chất liệu, hay là một thứ tình cảm như tài liệu sống phục vụ cho đề tài, cũng không phải là một sự khích động của thi nhân khiến cho độc giả đọc thơ cảm thấy “lạnh xương sống”; Nó là thứ tình cảm hình thức (émotion forme); nhưng lại thành nhất thể với trực giác sáng tạo, nó cung cấp hình thức cho thơ, nó giống như một thứ ý niệm, mang tính ý hướng, hay là nó bao hàm ý nghĩa nhiều hơn tự thân nó.Tôi dùng từ ý hướng tính (intentionnel) theo ý nghĩa của thánh Thomas; về sau lại được Bentano và Husserl dùng trong triết học đương đại. Ý hướng ấy chỉ cho khuynh hướng  tồn tại thuần túy, thông qua nó là một sự vật, thí dụ như một đối tượng đã biết đang hiện diện, một thứ phi vật chất, hay là dụng cụ siêu chủ quan, siêu việt như một ý niệm, với tính cách nó xác định là hành vi nhận thức, nó là khuynh hướng phi vật chất, hoặc là ý hướng mang tính khách quan.
Tình cảm làm thế nào để nâng cao đến mức của tri tính và  còn có thể nắm được vị thế của khái niệm, trở thành tri tính có tác dụng quyết định, vì trong hiện thực nó bị coi như là vật dụng cụ hay môi giới. Đây là một vấn đề khó khăn, như tất cả các vấn đề cùng loại tương tợ, liên quan đến việc áp dụng các ý niệm phổ quát của nhận thức, trong đó phát huy tác dụng khác nhau của các lãnh vực đặc biệt. Tôi cho rằng đối với tất cả tình huống nói rằng linh hồn bị các sự vật làm tổn thương, không bằng nói rằng nó nhận thức được chúng nó, thông qua chủ quan tính cọng minh thể nghiệm chúng nó. Và nói rằng nhận thức theo chủ nghĩa thần bí thì chúng ta có được một thứ kiến giải vĩ đại của Thánh Thomas phát triển – tình yêu thương hướng về ý hướng khách quan của lãnh vực tiến triển. Tôi nói rằng trong nhận thức thi tính tình cảm mang lấy linh hồn được thực tại thể nghiệm – thông qua hạt cát nhỏ phản ánh cả thế giới – thâm nhập vào chiều sâu chủ quan và tinh thần vô thức của tri tính.Vì nơi thi nhân khác biệt với tha nhân,(nhất là đối với những người bị gắn chặt trong guồng máy văn minh) linh hồn đối với tự thân càng thêm hữu dụng, nó vẫn bảo tồn được sự trừ bị của tinh thần, nó không bị sự hoạt động ngoại tại và năng khiếu chăm chỉ lao động nuốt trửng. Và cái thứ tinh thần trừ bị sâu xa ấy chưa bị vận dụng, hiện tượng chưa vận dụng ấy như một giấc ngủ của linh hồn; nhưng khi nó ở vào trạng thái tinh thần, thì tinh thần tự thân cũng như đối với tất cả những gì hàm chứa trong nó đều trở về với thực tế. Linh hồn ngủ, nhưng cái tâm của nó lại thức, nên hãy để cho nó ngủ.
Giờ chúng ta hãy giả thiết rằng trong giấc ngủ mê say, đột ngột có một tình cảm xâm nhập vào (không kể nó là thứ tình cảm như thế nào, và từ đâu tới). một mặt nó dàn trải khắp cả linh hồn, thấm nhập hết cả linh hồn, và xuyên qua cách thức ấy linh hồn thành như đồng nhất với sự vật; và một mặt khác, tình cảm rơi vào trong nguồn suối sống động, tiếp nhận  sinh lực của tri tính. Tôi cho rằng đó là chủ quan tính, dưới áp lực tri tính thắp luồng ánh sáng  tản phát của phát khởi tri tính (l’intellect illuminateur) tiềm tàng hướng về kho tâm linh đầy kinh nghiệm và hồi ức, hướng về thế giới ý tưởng lưu động, kỷ niệm, liên tưởng, cảm giác và dục vọng, tình cảm đang rung lên vì khích động. Đúng như tôi đã nói qua, điều đó đủ khiến tình cảm dùng các phương thức xu hướng  hay khuynh hướng của toàn thể linh hồn trong cách thức xác định, tiếp thu các hoạt lực và sức sanh sản của tinh thần chưa xác định, nơi đó nó xâm nhập với ánh sáng của những phát khởi tri tính, nhân đó tất cả vẫn là tình cảm nhưng đồng thời lại chuyển biến thành sự vật, trong các phương diện mà nói, nó cùng với tình cảm xâm nhập vào linh hồn thành một công cụ của tri tính, theo tính nội hàm và chơi vai trò trong quá trình nhận thức sự tương tợ giữa thực tại và chủ thể xác định tính nội tại không phải  khái niệm của tri tính trong hoạt động tiền ý thức, chính do sự thật như thế, nên tình cảm biến thành trạng thái ý hướng khách quan, nó thành tinh thần hóa, thành ý tượng tính, tức là nó trở thành trạng thái phi vật chất, thành một thứ sự vật tự thân truyền đạt ở bên ngoài. Tình cảm thành một thứ tri tính, một phương tiện có tác dụng quyết định hoặc là một công cụ truyền đạt tư tưởng tình cảm.Thông qua thứ công cụ ấy, một số sự vật được nhận thức một cách mơ hồ, khiến cho tình cảm của linh hồn sinh ra một ấn tượng sâu sắc với sự vật; và trong sự vật bị bao hàm cùng với chúng không thấy được sự vật có mối liên hệ thâm trầm, cùng với linh hồn không thể nhất trí biểu đạt hay là sự vật liên tiếp đả động đến linh hồn, để hồi hướng trở lại với linh hồn. Bản chất trực giác thi tính vốn là một thứ ánh sáng lóe lên trong tri tính, và là một thứ tình cảm tinh thần phát sinh từ  tinh thần vô thức. Như tôi nói vế ý nghĩa trực giác thi tính là một thứ độc quyền của linh hồn. Tại linh hồn sự hoạt động của giấc mơ và sự nội tĩnh rất tự nhiên và khoáng đạt, khi mà biên giới tinh thần của con người chưa bị cuộc sống thương nghiệp xâm chiếm.Về một ý nghĩa khác, nó (trực giác thi tính) xuất phát từ tư tưởng của con  người, là một trí năng rất tự nhiên, cho nên chúng ta có thể nói rằng, tất cả mọi người đều có khả năng tiềm tàng trực giác thi tính, chỉ vì chúng ta không biết đến mà hóa ra có nhiều người áp chế nó hay vô tình giết chết nó. Do đó mà họ sinh ra bản năng bất mãn đối với thi nhân.
Bản thân trực giác thi tính sinh ra trong sự vận động thiên nhiên và sự tự phát tuyệt vời của linh hồn, nó tự tìm kiếm bằng cách giao lưu với những sự vật có tinh thần đầy đủ ý nghĩa và sự kích thích tình cảm tự thân. Và đôi khi ở vào năm tháng thành thục sau khi tinh thần được bồi dưỡng đầy đủ kinh nghiệm và thể nghiệm nhiều đau khổ, và tự thân nó lại quay về, nó như cảm thấy thích thú trong giấc ngủ sáng tạo, và trực giác thi tính như  thức tỉnh- giấc ngủ cũng hiện hữu, và một cách thế nào đó nó như thứ quả chua xanh tươi hay như một đứa trẻ thơ, một con  người của thời nguyên thủy (thiên địa mới tinh khôi- nói như Hàn Mặc Tử). Sự nhận thức thi tính đối với tinh thần con người cũng rất tự nhiên như con chim bay về tổ của nó, và đó chính là thế giới tinh thần, con đường bay về với sào huyệt thần bí của linh hồn. Vì nội dung trực giác thi tính là bao hàm thực tại của sự vật trong thế giới, và chủ quan tính của thi nhân, cả hai thứ được truyền đạt một cách kín đáo, xuyên qua một thứ ý hướng của tinh thần hay tình cảm. Linh hồn được biết qua kinh nghiệm của thế giới, và thế giới cũng được biết qua kinh nghiệm của linh hồn, đó là sự nhận thức thông qua tự thân không hề nhận thức. Thật vậy, một sự nhận thức không phải để nhận thức, mà chính là để sáng tạo, đó là ý hướng sáng tạo tính.
Rimbaud từng nói:”tôi là một kẻ khác”, Trong trực giác thi tính, thực tại khách quan và chủ thể tính, toàn bộ thế giới vật chất và linh hồn cùng tồn tại không thể phân chia. Trong thời khắc đó, ý nghĩa và cảm giác bị đưa về trong tim, hoạt lực và tinh thần và tình cảm đưa về trực giác. Thông qua hoạt động của tri tính, tuy không phải là khái niệm hóa, tất cả lực lượng của linh hồn đều bắt nguồn từ hoạt động này; tất cả sự vật đều phát sinh từ trực giác sáng tạo nguyên sơ từ trong linh hồn của thi nhân, và sự va chạm mạnh của tình cảm.
Sự tiếp xúc trực tiếp với trực giác, tất cả những tác phẩm nghệ thuật chân chính có tinh thần sâu sắc cùng với ý là thông điệp nhắm truyền đạt như hội họa, điêu khắc, hay kiến trúc, âm nhạc, đều mang lại cho chúng ta một chứng cứ tương tự như vừa nêu.
Tính cách nhận thức trực giác thi tính
8.- Tôi muốn đưa thêm mấy điểm ý kiến để làm sáng tỏ những hàm nghĩa chủ yếu trong khái niệm trực giác thi tính. Mà theo tôi, từ quan điểm đó, trước tiên chúng ta phải phân biệt trong trực giác thi tính, cái gì là sáng tạo, và cái gì là nhận thức; hoặc người ta có thể coi nó như trong sáng tạo tính, có liên quan đến việc sản xuất ra tác phẩm, họặc trong nhận thức có liên quan đến những gì đó nó cầm nắm được.
Như thế chúng ta có thể coi cái trực giác thi tính đầu tiên như là sự nhận thức. Đúng như chúng ta từng thấy, sự nhận thức sự vật thực tại và sự nhận thức chủ quan của thi nhân là trực giác thi tính. Như thế có thể nào coi điều chúng ta vừa nói “thực tại của sự vật” là chính xác không? Hay nói một cách khác, “khách thể của thi tính trực giác là gì? Nhưng từ khách thể là một từ hàm hồ, vì trong khái niệm sự vật nó đã được khách quan hóa rồi. Dĩ nhiên trong thi tính trực giác không có khái niệm, cũng không có khách quan hóa. Vậy chúng ta có thể hỏi: làm thế nào thi tính trực giác có thể cầm nắm dược sự vật?
Đáp án là sự bao hàm, trong sự tư duy trước, liên quan đến việc nhận thức thi tính; trực giác thi tính không nhắm về bản chất, vì bản chất là phải thông qua khái niệm, tức là một thứ quan niệm, mà bản chất đã tách ra khỏi thực tại cụ thể, và bị thẩm xét theo suy luận, nó thành ra đối tượng (khách thể) của nhận thức, chứ không còn là sự cầm nắm sự vật theo thi tính trực giác. Thi tính trực giác hướng về sự hiện hữu cụ thể, với tính cách cố hữu là linh hồn bị một dữ kiện tình cảm đâm xuyên qua, nghĩa là nó luôn luôn hướng về một hiện hữu đặc biệt, một thực tại cá biệt cụ thể và phức tạp. Vật phức tạp ấy được chụp bắt, đột nhiên của chủ trương tự ngã và trong cái cá thể tổng hợp của thời gian. Động tác này phát xuất trong một sát na, nơi bàn tay thân yêu, nó chỉ tồn tại trong giây lát rồi vĩnh viễn biến mất, và chỉ còn duy trì trong ký ức của các bậc thiên thần, vượt qua thời gian.  Trực giác thi tính chụp bắt lấy nó, trong sự nỗ lực yếu đuối của thời gian ghi giữ. Nhưng nó không dừng lại trong sự tồn tại đặc định, mà nó vượt qua, nó đến cõi vô tận. Chính vì thi tính trực giác không có khái niệm khách thể, mà nó có khuynh hướng hướng về vô tận, nó hướng về tất cả thực tại, cái thực tại vĩnh hằng dấn thân trong tất cả sự hiện hữu đặc biệt, nó thực hiện đặc tính áo bí của vật thể bao hàm trong tình trạng đồng nhất, và trrong mối liên hệ đặc biệt với những vật khác, hay nó thực hiện nhựng thực tại khác; tất cả những trạng thái hay thành quả của vật thể tản mác trong toàn thế giới. Nó không có cái gì để thiết lập mối liên hệ lý tưởng với cái hiện hữu đặc biệt ấy, với nó liên hệ tư tưởng ngay với sự hồi hướng mà nó nắm được trong tinh thần chủ thể thức tỉnh và thống nhất với nó. Theo tôi nghĩ, đó là sự cầm nắm sự vật của thi tính trực giác, trong chủ thể của thi nhân vang dội một thứ tồn tại đơn nhất bao gồm  một thứ tồn tại có sự hồi hướng của tất cả thực tại, thông qua với hình thức một thứ phù hiệu biểu hiện. Như thế, đúng như Aristote từng nói là thi ca mang tính chân lý hơn là lịch sử. Nhưng dĩ nhiên  đó không phải là phương thức nhận thức, hay là nói theo dạng thức, vì phương thức ấy hoàn toàn liên quan đến sự tồn tại, sự vật hiểu được  coi như không phải do cầm nắm được mà thành khái niệm hóa. Nhưng sự cầm nắm ấy, không phải là ngẫu nhiên, không phải là sự kiện thuần túy của sự tồn tại, mà chính là do sự khai phóng vô cùng phong phú của sự vật tồn tại, và coi đó như là một thứ phù hiệu. Vì trực giác thi tính làm cho sự vật tự nó cầm nắm được trở thành tinh khiết và sống động, cư trú ở một chân trời kiến thức mênh mông. Sự vật với tính cách là tri thức thi tính nắm được thành tràn đầy ý nghĩa.
Sự vật không phải chỉ có ý nghĩa là gì, mà còn luôn luôn không dừng lại ở sự tự thân siêu việt, mà còn cung cấp nhiều hơn những ý nghĩa phong phú tự thân nó sở hữu, vì nó hấp thu được nhiều phương thức hoạt động của giòng luân lưu đệ nhất nguyên nhân. Tự thân nó trở thành ưu tú hay bại liệt, vì hữu thể nó vô cùng phong phú, hay vì cái hư vô lôi kéo nó đi vào cõi hư vô. Chính vì thế sự vật dùng nhiều phương thức, thông qua vô số hành vi và tiếp xúc mà có sự hổ tương giao lưu của tình cảm và phân liệt. Tôi cho rằng trong giòng trôi chảy của tinh thần tồn tại có một thứ hổ tương giao lưu bắt nguồn từ tồn tại, có thể nói rằng trong sự vật nó là nguồn sáng tạo áo bí, có lẽ cuối cùng là chỗ tự ngã của thi nhân thu hoạch được trong đêm tối, thể nghiệm và nắm được sự vật, hay nhận thức mà coi như không nhận thức.
9.- Bây giờ chúng ta hãy bàn qua chức năng nhận thức của trực giác thi tính. Cái gọi là thi tính, trực giác là chỉ vào sự cảm nhận trực tiếp của chủ thể thi nhân hiển hiện trong tăm tối kín đáo. Đối với vấn đề đó không cần thiết phải nhấn mạnh ở đây. Trực giác thi tính quá rõ ràng và tràn đầy trong tính chủ quan của thi nhân cầm nắm. Sự vật, vì sự cầm nắm và tính chủ quan vẫn là thứ kinh nghiệm được nhận thức trong mơ hồ, và sự cầm nắm sự vật chỉ là cầm nắm thông qua sự hồi hướng tình cảm kết hợp với chủ quan tính. Hơn nữa như chúng ta thấy, chính là tính chủ quan của thi nhân và biểu đạt tinh thần sáng tạo trong tác phẩm; đối với sự cầm nắm sự vật cùng với tính chủ quan triệt để thức tỉnh cùng phát sinh. Chúng ta cũng có thể nói rằng, cái yếu tố quan trọng nhất trong việc đạt đến trực giác thi tính là kinh nghiệm của sự vật trong thế giới; vì đối với linh hồn con người mà nói, nó là sự nhận thức tự thân rất tự nhiên trước sự nhận thức sự vật; nhưng  điều quan trọng nhất vẫn là kinh nghiệm của tự ngã – vì chính trong sự triệt để thức tỉnh của tự thân chủ quan tính, với cuộc sống tự do của tri tính trong đêm tối mù mờ, mà tình cảm mới tạo thành ý hướng tính và trực giác tính, nói một các khác, đó là công cụ quyết định của nhận thức tính .
10.- Cuối cùng hãy luận bàn về tác phẩm; nó cũng ở trong sự kết hợp không thể chia cắt – mà như là trực giác thi tính sanh ra như vậy - vừa triển hiện cái tính chủ quan của thi nhân, và là thực tại triển hiện nhận thức thi tính mà cảm tri được nó.
Không kể là một bức họa hay một bài thơ, tác phẩm ấy là một thứ khách thể, chính tự nó mà thi tính trực giác đạt đến khách quan hóa. Tác phẩm cần phải luôn luôn duy trì sự nhất trí và giá trị cái khách thể tính của nó. Nhưng cùng lúc nó là một thứ phù hiệu - vừa là  phù hiệu trực tiếp cảm tri đầy áo bí trong sự vật, cái chân lý của thiên nhiên hay mạo hiểm lấy được trong vũ trụ mênh mông không sao không sao phủ nhận được; và là một thứ phù hiệu quay về  của vũ trụ chủ quan của thi nhân, cái bản chất tự ngã trình hiện trong u tối. Và giống như thi tính trực giác chụp bắt được sự vật tràn đầy ý nghĩa, giống như sự tồn tại đầy phù hiệu cũng như tác phẩm tự nó đầy ý nghĩa, và tự thân nó đầy sự phong phú ý nghĩa, hạ bút là tác phẩm có thể truyền đạt tâm linh vạn vật trên khuôn mặt con người.
Chì một khuôn mặt
Đáp ứng tất cả danh nghĩa vạn vật trong  nhân gian.
Tác phẩm trình hiện dưới mắt chúng ta, cùng lúc với tự thân của nó, tự thân những sự vật khác, nói chung là vô số sự vật đã phản ánh tương tợ trong tầm mắt.Thông qua sự khoa trương của thi ca, và lực lượng của phù hiệu, Béatrice đã khiến cho người yêu của Dante trở thành phát quang. Cùng lúc Sophie Von Kuln đã khiến vị hôn thê của Novalis chết đi, thành tiếng gọi của Thượng Đế đầy hấp dẫn lôi kéo.
Như thế chính thi ca chụp bắt ý nghĩa thần bí của sự vật, và  ý nghĩa còn thần bí hơn nữa khi nó bao trùm tất cả những gì của chủ quan tính mờ tối triển hiện, ngỏ hầu mang tất cả sự vật dồn nhập thành hình thể vật chất, Và tất cà ý nghĩa sự vật cảm tri được với ý nghĩa hợp nhất đầy sức sống và thâm trầm - kết hợp thành ý nghĩa đặc biệt phức hợp và chỉnh tề; tác phẩm thông qua đó mà tồn tại, và chúng ta cũng đã đề cập đến điều đó trong một chương trước gọi là ý nghĩa thi tính của tác phẩm.
11.- Trực giác thi tính trong hội họa có những điểm khác biệt gần như tương  phản với thi nhân phải không? Thật ra, trực giác thi tính có những đặc trưng  căn bản giống nhau giữa họa sĩ và thi nhân; tuy nhiên nó vẫn có những  bản chất ý nghĩa khác nhau. Chính đó là thực tại, mà thi nhân đối diện với một cái thực tại là khách thể chân chính của trí lực, nói một cách tinh xác hơn, là thực tại tuyệt đối phổ biến trong đại dương  tồn tại; trrong khi đó thì họa sĩ là đối diện với thực tại hình thức của thế giới vật chất.
Thế giới tồn tại của nhục thể, và thông qua thế giới ấy là đại dương duy nhất tồn tại vô hạn biểu hiện ở nơi nó. Cái thế giới của họa sĩ là thế giới tồn tại trước bằng thị giác, và tất cả là thế giới của tri tính.
Như vậy, muốn mô tả thi tính trực giác của họa sĩ, trước tiên phải nhớ rằng họ là người chụp bắt thiên nhiên, gắn liền với thiên nhiên, không thể rời xa thiên nhiên được, hay nói như Picasso” người ta không thể chống lại thiên nhiên, và tất cả những họa sĩ cùng có những tình cảm như nhau. Nhưng theo như nhận xét của tôi từ trước, (tôi muốn dừng lại để nói về họ với ý nghĩa hoàn toàn triết học). Họa sĩ không ngắm thiên nhiên như là sự vật tự tại độc lập, để rồi phục chế hay mô phỏng  cái hình trạng bên ngoài của nó. Mà họ ngắm thiên nhiên như là một vật sáng tạo thần bí, họ cố gắng mô phỏng lại cái tác phẩm thần bí đó, với phương thức hoạt động nội tại đầy áo bí, họ còn thông qua đôi mắt, nhờ vào thi tính trực giác mà thực hiện sự sáng tạo chủ quan tính như một mầm hay cái chỉa khóa của khách thể để tiến vào thế giới tái tạo của tác phẩm. Điều mà tri tính của họa sĩ chụp bắt trong bóng tối tất cả sự vật và tự ngã, đó là một trạng thái vô cùng thâm trầm của vật chất hữu thể, thấy được với tính cách là một công trình bằng màu sắc hay đường nét, một trạng thái hay hơn yếu tố thần bi của vũ trụ với chất liệu có thể thấy được hay là sự tồn tại vật chất với tính cách trạng thái ấy hay yếu tố ấy phải thành quả trong tác phẩm - tự thân nó là một đối tượng của thị giác trước khi hiện hữu và tất cả là khách thể của tri tính.
Nhưng cái quá trình mà tôi vừa đề cập đến không thể phát sinh, cùng lúc cái thế giới nhục thể tồn tại hữu hình siêu việt, và đạt đến cái thế giới tồn tại bất khả tư nghị và thế giới tồn tại vô hạn, Vì trong thi tính trực giác, chủ quan tính là công cụ xâm nhập vào thế giới khách quan, điều mà họa sĩ tìm kiếm sự vật trong sự vật hữu hình, tất phải có đầy đủ một thứ nội tại đồng nhất  thâm áo của tự ngã chính yếu và một thứ trừ bị dùng không sao hết được. Trong khi họa sĩ cầm nắm được cái thực tại hữu hình của trạng thái nhục thể hiện hữu, nó coi như là nắm được một thứ phù hiệu, thông qua thứ phù hiệu ấy giống như một thứ hàm nghĩa áo bí, có tính  nhất trí, cọng minh và trong thế giới tồn tại của thi nhân, và trong thế giới ẩn ước của nhân loại lại nắm bắt được một thứ tư tưởng, tình cảm giao lưu trong một giòng lưu động không sao xác định được. Nhưng họa sị lại bắt được một thứ ẩn ước khác, nó cũng là cách thức hồi tưởng và liên tưởng mà thôi. Giống như một thứ “nguyên lý sinh thực”(principe séminal), hay là một thứ chìa khóa có tác dụng phát huy - thi tính trực giác của họa sĩ hướng tự thân ông ta truyền đạt vật chất hữu hình vô cùng vô tận về những phương diện nội tại, cùng lý do đồng nhất truyền đạt cái thế giới tồn tại bất khả kiến, mượn đó để hiển hiện  cái hàm nghĩa vô cùng vô tận của cái hàm nghĩa.Và sự chụp bắt tất cả những cái ấy đều thông qua phương thức nhận thức đồng nhất, trong phương thức nhận thức ấy, tinh thần giao lưu của động tác cùng với sự vật trên đời đều có thể phát sinh bất kể là phương thức nào, và tất cả đều có thể hiển hiện  bằng cách tái tạo những sự vật trong một cơ cấu hữu hình mới.
Chính vì thế mà hội họa chính xác vẫn là hội họa, dù đã đến - nhất là sau công cuộc “giải phóng” đã tiến đến gần giai đoạn hiện đại - với một thứ siêu hình học mênh mông và một trình độ tri tính tiến gần đến những đặc tính tương tợ thi ca. Nhờ vào tính trực giác sáng tạo mà đối với thế giới vật chất hữu hình thiết thực có thể tiến hành đến việc cầm nắm sự ẩn ước ngấm ngầm hay ám thị.
Hội họa hiện đại cũng giống như thi ca, đều ngưỡng mộ mức cao độ của tri tính, nó rất quan tâm đến trực giác lý tính ảnh hưởng đối với sự vật, trong mức độ của sự trung thành với nhận thức thi tính. Nhưng đồng thời hội họa hiện đại, (giống như thi ca hiện đại), đều có ý đồ hướng đến sự chống đối và xông vào sự liều lĩnh là tự phân tán trong chủ nghĩa cảm giác thuần túy hay tháo gở sự tưởng tượng tổng quát, mà chỉ đuổi theo sự hướng dẫn của sự thích thú (gout), nó lầm lẫn với cái đặc tính của nhận thức thi tính phi logic hay là sự giải thoát cái khái niệm lý tính với sự loại bỏ toàn bộ tự thân lý tính và tri tính, đánh mất luôn tinh thần hay cảm xúc, như lời của Gauguin là “trung tâm thần bí của tư tưởng”. Sự mâu thuẩn của hội họa hiện đại, dưới mắt tôi, nói theo tinh thần triết học, là dẫn đến sự khải phát bất bình thường. Ngoài ra tôi nghĩ rằng phải nêu rõ những điểm về lý tính, không có gì phải ngạc nhiên rằng đối với họa sĩ, cái trực giác thi tính tự thân kém hơn là của thi nhân. Họa sĩ biểu hiện tự thân trên bức vẽ chứ không phải trong ngôn ngữ. Nói về sự nội tỉnh, thông thường nó dùng một thứ từ hối rất khiêm tốn. sự thật trong từ hối khiêm tốn đó, họ lại chọn được những từ ngữ chơn chất (đôi khi rất xúc động), để truyền đạt ý nghĩa sâu xa mà họ không có cách biểu hiện. Như vậy họ dùng những phương thức, như Cézanne là bày tỏ những cảm thụ hữu hạn, những ấn tượng, những cảm giác, những khích động nội tâm, những ảo tưởng; đối với họ mà nói từ “ảo tưởng”, dĩ nhiên trong triết học, nó rất gần gũi với trực giác thi tính.
Thế nhưng về chứng cứ của ý nghĩa không phải là không có, càng không cần phải dùng những họa gia vĩ đại của Trung Quốc để chứng minh. Chính trong ý nghĩa đầy đủ nhất mà chúng ta nghe được từ miệng các họa sĩ hay điêu khắc nói mới hiểu được rằng:”những sự vật mà nó ngắm đều có một giá trị hoàn mỹ vô tận”; hay những gì họ đề xuất “những vật logic hữu hình phục vụ cho sự vật vô hình,… với tất cả khả năng của nó, hay nghệ thuật gia nhìn, nghĩa là nhãn quan của nó như gắn liền vào tim của nó đọc được tầng sâu thẳm của thiên nhiên, hay là để biểu hiện những cái “đại hình thức”, nó giấu nhẹm tất cả sự phong phú của thiên nhiên, phải yêu thương chúng, trở thành một bộ phận với chúng trong sự tán đồng. Hoặc giả như lời của Van Gogh mô tả, “thay vì tìm cách diễn tả chính xác những gi có  ở trước mắt tôi, tôi tận dụng những màu sắc cực mạnh để biểu đạt tự thân của tôi”; tôi muốn vẽ nam nhân và nữ nhân mà không biết cái gì là vĩnh hằng, người xưa dùng hào quang làm vật tượng trưng, tôi cũng dùng tính chất lung linh của sắc màu đẻ biểu hiện cái hào quang, hay như Poussin, khi ông ta nói rằng “họa phẩm chỉ là hình ảnh của tinh thần sự vật, dù rằng nó trình bày những cơ thể, và trong tác phẩm vẫn có những bộ phận thuộc về chủ thể mà không sao hiểu được. Đó là cành vàng của Virgile mà không ai có thể phát hiện, nếu không có sự dắt dẫn của số mệnh.
Một phương diện khác, những ý kiến mà tôi đưa ra là chính xác, chúng ta có thể nhân thức được, tính phát triển giữa họa sĩ và thi nhân, sự đồng nhất về nỗ lực và lý thuyết, sự phát triển ấy bắt đầu từ thời lãng mạn của Đức, với Baudelaire và Delacroix, nó đem lại nhiều điều may mắn; nhưng cũng không ít những tai họa cho đôi bên. Trong các hội đoàn giao lưu, thi nhân và họa sĩ trao đổi tư tưởng, kết thông những đòi hỏi, cùng ngưỡng mộ nhau, cùng  cạnh tranh đố kỵ, nhờ đó mà thành ra phương thức phát triển và và khuêch trương vô giá về bản năng sáng tạo. Nhưng trong sự kết hợp đó, cũng khiến cho họa sĩ va thi nhân lãng quên cái vai trò tự thân đặc biệt của mỗi ngành nghề. Chịu ảnh hưởng của họa gia, thi nhân có thể chỉ thấy trong thơ một sự cấu trúc của hình ảnh; và phía hội họa chịu ảnh hưởng của thi ca, họa sĩ chỉ thấy có sự hiện hữu của  cái thế giới vật chất hữu hình, mà quên đi sự đòi hỏi đầu tiên của trực giác thi tính là đặc tính của hội họa. Do đó thay vì phải tìm kiếm trực tiếp cái đặc tính phổ biến để đạt đến sự tồn tại của thế giới tuyệt đối, nó phải tự lực thoát khỏi hội họa để đưa ra một thứ văn chương biêu hiện biến thể mới lạ, mà không vì sự thất vọng và chán nản mà cầu cứu đến phong khí mới mẻ của học viện, mà phong phú học viện ấy chỉ là một thứ trang điểm giả mạo tự do và một thú lý tưởng trống không.
Tính chất sáng tạo của trực giác thi tính
12.- Nhận xét cuối cùng của tôi là đề cập đến trạng thái thứ hai của hai trạng thái mà người ta có thể phân biệt trong trực giác thi tính tức là nói về tính cách sáng tạo của trực giác thi tính.
Theo khởi thủy thì trực giác thi tính hướng về công việc; nó tồn tại ngay khi nó thức tỉnh cái bản thể tự thân của thi nhân, và đạt đến trình độ cọng minh áo bí trong thực tại, nó là sự xung động sáng tạo có ý nghĩa của cuộc sống u thâm của tri tính chứ không phải là khái niệm, thứ xung động ấy có thể tiềm tàng. Vì trực giác thi tính thiết lập một bầu khí bình thường trong tinh thần, cho nên thi nhân luôn luôn hướng về cái thứ xung động tiềm tàng ấy mà phát triển.
Anh hãy lý giải những sách thuyết minh
Thương phẩm, những thư mục, bảng quảng cáo
Ca tụng ở trên cao
Đó là bài thơ của buổi sáng nay…
Nhưng tất cả những cái đó không thể là hành động phát triển của thi nhân. Hơn nữa, trực giác thi tính chỉ có thể tiềm tàng ẩn trú lâu dài trong tâm hồn, mà không bao giờ bị quên đi, mãi cho đến một ngày như tự tỉnh dậy sau một giấc ngủ và bắt buộc không thể không có sáng tác. Nhưng trong thời khắc ấy, nó không cần đến bất cứ một điều kiện nào đóng góp vào mà chỉ mình nó thực hiện vấn đề. Tất cả như đều sẵn sàng ở đó, bao hàm trong thi tính trực giác, tất cả dữ kiện, tất cả sinh lực, tất cả ngộ tính, tất cả lực lượng sáng tạo đang hành động, giống như một thứ năng lực hướng về phía tri tính lao thẳng tới, và ở nơi ý nghĩa ấy (về phần cường độ, có đôi vai trò ngẫu nhiên, mà sự tình cờ có thể diễn giải trong quá trình phát triển). Toàn hình của tác phẩm đã phát sinh trước, sự hoàn hình ấy bây giờ tiếm tàng, đưa ra câu thơ đầu tiên của bài thơ, nó như là phần thưởng đến từ ý thức của linh hồn, hay là nó tiềm tàng tập trung trong nầm mống tinh thần của một cuốn tiểu thuyết  hay một vở kịch nào.
Về phần tác phẩm hoàn thành, người ta có thể nói, theo tôi, yếu tố của cái đẹp trong tác phẩm hoàn chỉnh đại thể kể như là tự ngã khách quan hóa tiến nhập vào hành động, hay trong chủ đề liên quan đến trực giác thi tính. Trong khi các yếu tố khác cấu thành sự phát quan chính kết hợp với thi tính trực giác trong trạng thái tự nhiên và nguyên thủy. Cho nên dù một bài thơ đầy chi li vụn vặt chẳng ra gì nhưng với thi tính trực giác cũng có thể mang lại sắc thái thuần túy của thơ. Vì không có gì quí giá hơn là chụp bắt được thơ trong cao trào sóng dữ của biển cả, nó đã ban cho những câu thơ:
Hy vọng lấp lánh như cộng rơm trong chuồng
Ô, cái nhận thức vững chắc của anh
Như áng mây mẫn tiệp của buổi sáng quay lại
Khi chiều về…
Nó là mùi vị và máu của Chúa khi bị ám hại
Khiến cho đại lượng của  tất cả chủ nghĩa Platon cũng vô ích
Tôi luôn luôn thích thơ “hài cú”, vì nó là những câu thơ mang tính thấu triệt hơn là những ý niệm của cái máy vĩ đãi ồn ào chỉ tổ làm điếc tai. Tuy nhiên nó vẫn còn một sự bắt đầu là trực giác thi tính, bao hàm một thứ tiềm lực thi ý của toàn thể và đòi hỏi toàn thể phải vượt qua nó. Khi mà thi tính trực giác chưa đạt đến điểm đó, mà chỉ biểu hiện những phương thức manh múm; như thế là thi nhân đã phản bội nghệ thuật rồi.
13.- Bây giờ là phải khảo sát một vấn đề khác. Trong nghệ thuật thực dụng chúng ta hãy chú ý đến thi tính tri thức, tình cảm trực giác; không phải là mầm mống tinh thần trong việc hoàn thành các sản phẩm ấy, trực giác thi tính có thể có tác dụng nơi chúng - một sự quan tâm đối với cái đẹp có thể manh múm trong đó; nhưng thi tính trực giác không phải là điểm tập trung quyết định trong việc sáng tạo ra sản phẩm. Điểm tập trung có tác dụng quyết định trong việc ấy, các nhà triết học kinh viện gọi là “quan niệm sáng tạo tính”. Các nhà kinh viện học ấy còn cẩn thận tuyên cáo với chúng ta rằng:”cái quan niệm sáng tạo của các nghệ nhân thủ công nghiệp không phải là khái niệm, vì nó không phải là sự nhận thức, cũng không phải là biểu hiện tính, mà chỉ là sự sinh thành; nó không có khuynh hướng khiến cho tư tưởng chúng tạo thành hình sự vật, mà chỉ tạo cho sự vật thành hình trong tư tưởng chúng ta. Các nhà kinh viện học không bao giờ dùng từ’quan niệm” với ý nghĩa là khái niệm như chúng ta sử dụng từ thời Descartes. Như vậy nếu chúng ta tiếp tục bàn về quan niệm sáng tạo của nghệ nhân thủ công nghiệp thì với điều kiện chớ có quên rằng từ ‘quan niệm”là biểu thị tính sáng tạo thuần túy với ý nghĩa chúng ta thường dùng là “quan niệm sáng tạo”. Quan niệm sáng tạo của nghệ nhân thủ công nghiệp là hình thức tri tính hay là một thứ tinh thần mô rập nó bao hàm tính thống nhất phức tạp có thể đó là sự vật được đưa ra như là sự tồn tại lần thứ nhất.
Do tính ngẫu nhiên vô cùng bất hạnh mà xuất hiện sự biểu đạt tương tợ là quan niệm sáng tạo được chuyển qua địa hạt của nghệ thuật thực dụng với ý nghĩa là mỹ thuật, hay nói đúng hơn, nghệ thuật ấy lệ thuộc vào tính âm nhạc của Platon, có nghĩa là thi ca. Kết quả là sự hổn loạn tệ hại, lý thuyết gia của nghệ thuật lầm lẫn, đưa từ quan niệm thành ra khái niệm, tưởng tượng rằng  cái gọi là quan niệm sáng tạo là một mẫu mực lý tưởng ở trong đầu nhà nghệ thuật, đặt để thành điều tác phẩm được giả định là vấn đề mô phỏng hay là chân dung của mẫu mã. Do đó nghệ thuật thành  ra nghĩa địa của mô phỏng, tác phẩm là sự sáng tạo độc đáo, chứ không phải là bản sao chép và không bao giờ thực hiện giống như quan niệm mẫu mã. Đồng thời từ quan niệm sáng tạo chỉ có ý nghĩa để chỉ cho quan niệm của nghệ nhân thủ công nghiệp còn được dùng thi tính trực giác tự thân để chỉ cho phương tiện sáng tạo tính, nó cũng phát sinh trong tình cảm, trong suối nguồn ban đầu  của đời sống tiền ý thức của tri tính, cũng phát sinh thi tính trực giác... Và Eckermann từng chất vấn tác giả mà ông ta khâm phục là Goethe về nhân  vật Faust mà ông này tạo ra. Goethe trả lời; ”Nếu tôi có thể đáp được là tôi cũng chỉ hiểu lờ mờ”. Từ trên trời cao xuyên qua thế giới cho đến địa ngục, đó là lời giải thích, đó không phải là hư không, nhưng cũng  không phải là quan niệm, mà là quá trình tình tiết của động tác”.
Đó không phài là quan niệm, vì quan niệm thì không tồn tại, mà chỉ có thi tính trực giác. Thực tế, đó là điểm tôi sẽ nhấn mạnh trở lại trong chương tới - Trực quan thi tính vượt qua đức thiện của nghệ thuật. Nó là một trạng thái ưu việt và là cách thức đột xuất, đúng như một nhà học giả kinh viện đã nói là bao bàm và uẩn súc trong tự thân của nó (formaliter - eminenter), tất cả đều tồn tại trong quan niệm sáng tạo của nghệ nhân thủ công nghiệp - và tồn tại vô hạn định, vì thi tính trực giác vừa là nhận thức tính, vừa là sáng tác tính. Thi tính trực giác nhập vào tác dụng hiện thực cùng lúc nó tiến vào địa hạt công hiệu của nghệ thuật và trong động lực, mà nó lợi dụng cái trò không phương cách, không  sung mãn của nghệ thuật.
14.- Tình hình cũng đúng như vậy, đối với những nhà thơ chân chính. Nhưng tất cả những nghệ nhân cũng như những  nhà thơ đều có phải chân chính cả đâu. Tôi muốn nói rằng, vào thời khắc bắt đầu thực hiện tác dụng, có thể lại phát sinh một quá trình khác. Cái lúc thi tính trực giác trở thành quan niệm sáng tạo của nghệ nhân, tư nó đã đánh mất tính siêu nhiên cố hữu, mà rơi vào cái guồng máy náo nhiệt và sự quan tâm chế tạo thuần tri tính, mà quan niệm sáng tạo của nghệ nhân đang hoài bảo. Và trong chừng mực mà nó trở thành một quan niệm giả tạo, thi tính trực giác bỏ lại phía sau lắm bản chất quan trọng, đặc biệt là khả năng sáng tạo dựa vào sự đồng nhất ưu việt của sự nắm bắt hữu hiệu, nhận thức thi tính và trực giác tình cảm. Theo tôi cái hiện tượng sản sinh khi mà con người gấp rút triển hiện cái hoạt lực của nó, đã gấp rút sáng tạo một vật gì vĩ đại, hoặc giả do thi tính trực giác trong người nó quá suy yếu, thi tính trực giác đi vào cõi siêu việt, thay vì tự nó dùng phương thức bổ sung, mà không phải nghe theo cái gì khác - như thế là với những người không hề có thi tính trực giác. Chính vì vậy mà chúng ta gặp trong tiệm sách, trong các buổi hòa nhạc, hay triển lãm nghệ thuật, những tác phẩn quá tồi tệ, không đáng nói, như trong các vở kịch chỉ có tình tiết, như không có hành động, và trong tiểu thuyết thì nhân vật là những con người máy, không có tự do, những gả lang thang phiêu bồng chẳng có giá trị gì. Tôi cho rằng, chỉ có lực lượng khác thường là trực giác thi tính, mới có thể gây ra mối quan hệ khiến tiểu thuyết gia hay bất cứ nhà nghệ thuật sáng tạo nào quyết định được ý tượng, chỉ có Thượng Đế mới sáng tạo ra được những hành động tự do vĩnh hằng, và chỉ có Thượng Đế mới ôm trọn mối quan hệ của số phận.
Những ý kiến tôi vừa nêu ra là để giải thích sự phân biệt, tất cả sự phân biệt về bản chất, tôi tin là rất khó áp dụng vào những trường hợp đặc biệt, thế nhưng về sự phê bình văn học và mỹ học luôn luôn ý thức được sự khác biệt cơ bản: một bên là những con cái của âm nhạc Mousike, tức những thi nhân, những nhà sáng tác, có thể bao gồm những nghệ nhân hoàn hảo; và một bên là những con cái của kỷ thuật Techne, tức những nhà văn học hay những chuyên viên, nói chung những nghệ nhân kém cỏi.
15.- Chúng ta có thể xét thấy vì sự vận dụng và huấn luyện hiệu lực của bản thân nghệ thuật được cái thiện, từ đó mà quan niệm sáng tạo của nghệ nhân thủ công nghiệp được cải thiện theo.
Trái lại trực giác thi tính, không thể cải thiện bằng sự huấn luyện và vận dụng học tập được; vì nó tùy thuộc vào tính tự do của trời sinh và sức tưởng tượng cùng với lực lượng tri tính trời sinh. Bản thân nó không thể cải thiện, nó đòi hỏi phải phục tùng nó. Nhưng thi nhân lại có thể chuẩn bị và đến với nó tự do bằng cách phải loại bỏ những chướng ngại vật và sự ồn ào. Thi nhân có thể duy trì và bảo vệ nó, hay là gia tốc lực lượng tự phát của thi tính trực giác bằng cách tiến triển sự tĩnh hóa tự thân,. Đối với nó thi nhân có thể tiến hành sự tự giáo dục bản thân, nhưng không bao giờ phản bội lại nó (đó là trường học có kỷ luật rất nghiêm minh), và là nơi thích nghi cho tất cả (cũng là trường học của sự hi sinh).
Về sự thực thi  trực giác thi tính, muốn được cải thiện nó phải thông qua sự khiêm nhường; tôi nói điều đó không phải với con  người, mà là nói với chính bản thân của trực giác - hơn nữa phải thông qua phương thức và cách thực hành công tác trí lực và công tác hiệu lực mới được cải thiện. vì thi tính trực giác quan tâm đến là tác dụng tự nó phải thực hiện, cho nên trong quá trình phát triển nghệ thuật tự nó phải tiến đến hoàn thiện. Tôi không thừa nhận rằng bước đầu của thi tính trực giác là tác dụng của linh cảm vô hình, hay là vật dụng không hoàn thiện  như Paul Claudel đã nói quá cứng rắn nó là kết quả của linh cảm (inspiration). Vì ông ta nghĩ rằng  nó là khái niệm bị cầm nắm, xuất hiện trog môi trường ý thức.Trong khi tôi nghĩ rằng  trực giác thi tính từ khởi thủy đã đầy đủ và hoàn chỉnh, tự ban đầu nó đã chứa đựng một tiềm năng to lớn. Trong quá trình sáng tạo, cái tiềm tàng tính bao hàm trong thi tính trực giác, chính nhờ vào sự lao động chăm chỉ của trí lực hoàn mỹ mới phát huy được cái tác dụng tự kỷ mà áp dụng cho tự ngã.. Tiếp đó phát huy tác dụng kỷ xảo của nghệ thuật và sự minh mẫn của tri tính, chúng nó lựa chọn phán đoán và đào thải đối với tất cả sự vô ý nghĩa, với thành phần thô thiển cạn cợt, hoặc là áp bức, vì kỷ xảo nghệ thuật và sự minh mẫn tri tính đều nghe theo tình cảm sáng tạo và cầu cứu nơi nó. Không có sự cần cù lao động của trí lực, thi tính trực giác thông thường không triển hiện toàn bộ tài năng của nó.
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề tính chất nội tại của trực giác thi tính nơi thi nhân với mức độ chất lượng thấp hay cao. Về phương diện này, điều quan trọng nhất là kinh nghiệm nội tại,và sự thâm nhập sâu, ngày càng nhiều ý hướng chủ quan.Vì thi tính trực giác phát sinh trong  cõi tăm tối, ở đó tri tính, sự tưởng tượng, tất cả sức lực của linh hồn thổi vào sự đồng nhất, cái thực tại của thế giới hiện hữu, nó mang lại một ý hướng tình cảm, và trong sự thể nghiệm ấy trước tiên là bao hàm một thứ cảm thụ rất nhạy bén. Như là một thứ chủ nghĩa thần bí, có khả năng thể nghiệm cái thần của sự vật, ở đây thi nhân cũng phải thể nghiệm sự vật của thế giới ấy, và sự thể nghiệm của nó là càng thâm trầm, đến nổi có thể mang chúng nó và tự thân nó nói ra. Và một khi thi nhân đã dấn thân vào sự hoạt động giao lưu của tinh thần, nó còn cảm được một thứ vô tình một cách mãnh liệt, và so với tự thân của nó còn có cái sức mạnh của bàn tay tả hửu đưa qua mà không trở lại. Sự sáng tạo của thi tính trực giác có tỉ lệ với mức độ sâu xa của sự chăm chú lao động.
Ở đây tôi muốn nhắc lại điều tôi đã nói trong một thiên khảo luận khác là biên giới của thi ca. Căn cứ theo qui luật phải luôn luôn trưởng thành, trong tuần tự cuộc sống của tinh thần sáng tạo cũng phải luôn luôn tự đào sâu vào cái trung tâm chủ thể tính. Ở đó phải chấp nhận những sự vật của thế giới cũng như của linh hồn tự thân nó nhận thức. Theo dõi con đường nội tĩnh, dĩ nhiên người ta đưa đến sự tư vấn, và xuyên qua chừng mức nào đó, sự tiến bộ của tinh thần có thể tự đuổi theo tuy dưới một hình thức hay sự thể nghiệm khác của tôn giáo chính xác, phù trợ linh hồn thi nhân vượt khỏi cái bình diện biểu hiện; nếu không thi tính siêu việt trong tinh thần vẫn có thể tiếp tục tiến triển trong mức độ sâu xa được không? Khi một con người bất cứ là với giá nào, vẫn can đảm tiếp tục phủ nhận  tinh thần trưởng thành của tính sáng tạo, và nó lại không có cái gì để khiến cho sự tồn tại toàn thể có thể yêu cầu sự kinh nghiệm thành đạt, đó là một hành vi đầy bi kịch áo bí của Nietzsche.
Bất kể như thế nào, điều ta muốn giữ lại ở đây chính là sự sáng tạo kết cấu thành những mức độ khác nhau trong bản chât tinh thần mà mỗi cá nhân tự thừa nhận mình là gì - và nhà thơ càng trưởng thành thì mức độ trực giác sáng tạo càng lắng sâu. Hiện tại nếu nó vẫn còn cảm động về những câu ca ngày xưa thì nó không làm được gì cả, mà nó phải đào lổ chôn chúng thật sâu. Người ta có thể nói rằng, cái sốc của đau khổ và ảo giác phải chìm đi hết cái này đến cái khác, sau những bức tường bản thể. Người ta phải hủy diệt nó không thương tiếc, người ta quấy phá, bao vây nó, thi nhân phải đau xót mòn mõi, bị quấy nhiễu lắm lúc bị dồn ép, nếu tự thân nó có thể quay về và phát hiện ra bầu trời bị tàn phá không sao hiểu được; nó không thể nào tự chôn mình vào địa ngục. Nhưng nếu đến điểm cuối đường, mà thi nhân chuyển qua trầm mặc im lặng, đó không phải là điều thành trưởng mà chúng ta nói đến, cũng không phải là bài ca tự ngã xa xưa - nó tách ra khỏi tinh thần sáng tạo chưa hề sáng tạo, nguyên mẫu của tất cả cuộc sáng tạo, chính đó là bức tường cuối cùng của tâm linh đạt đến, và là bản chất con người tiêu tan.
Cái đoạn văn tự chủ yếu thuộc về trực giác thi tính đã được viết ra về chủ đề âm nhạc, và về Arthur Louree, trong mắt tôi là một thí dụ lớn trong âm nhạc hiện đại, trong nguồn linh cảm sáng tạo sâu xa mà tôi vừa nêu ra. Vì tác gia âm nhạc chính xác là nhà tư tưởng triết học, người đã cống hiến những kinh nghiệm vô giá, ít dính líu đến quan niệm vũ trụ và quan niệm về giá trị con người được cấu tạo bằng ngôn ngữ; ít dính líu đến hình thể và hình ảnh như các họa gia và điêu khắc gia, ít dính líu đến điều kiện vật dụng và đồ vật xây dựng như các kiến trúc sư. Chính vì cương vị là nhạc sĩ mà ông ta có thể đáp ứng  được sự xác minh trong sáng về tính siêu hình trong thi ca. Cũng chính vì vậy không có cái gì sai lầm khi nó hiển hiện ngay. Cho nên ngoại trừ những tác gia ca kịch ra, không ai có thể triệt để đại diện một cách chính xác hoàn hảo như vở ca kịch của Nietzsche.
Tự ngã sáng tạo và trung tâm tự ngã của chính  mình
16.- Tất cả những nhận thức về thi tính trình bày ở trước giúp chúng ta hiểu được sự siêu nghiêm cơ bản của họat động thi tính. Nó cũng bắt buộc chúng ta phải thiết lập một sự phân biệt rõ ràng giữa tính sáng tạo tự ngã và cái tự thân trung tâm tự ngã. Sự phân biệt không phải là không liên hệ với sự phân biệt siêu hình giữa con người với tính cách con người thiên nhiên, và con người với tính cách cá nhân. Đó là vật chất với cái nghĩa bản nguyên đàu tiên của Aristote (materia prima). Vật chất  khát khao tồn tại (với tư cách là tiềm năng thuần túy không có tự thân quyết định) và đồng thời nó khiến cho sự tồn tại co rút lại (nó tự giới hạn trong chính khả năng  của nó hay sức tiêp thu trong những diều kiện ban phát). Trong mỗi cá nhân của chúng ta- cái cá tính - nó như đem cái tự ngã của chúng ta bài xích cái sự vật bên ngoài của kẻ khác - đại khái có thể mô tả như là cái tự ngã hẹp hòi, luôn luôn là sự uy hiếp, và luôn luôn khao khát sự xâm chiếm sự vật cho mình. Trái lại chính trong  tinh thần tồn tại ức chế tự thân, và trong tồn tại thặng dư, nên nhân cách mới thành căn rể của tinh thần. Nhân cách là hướng về con người truyền đạt toàn thể cơ cấu và trong cái thực thể của tinh thần linh hồn gò bó sự hợp điệu; nó chứng thực sự khẳng khái trong tồn tại hay tính khoáng đạt của nó, thuộc về nguyên tắc tinh thần. Ý nghĩa cá tính đối với tính nội tại của tự thân đồng thời nó cũng  cần đến sự giao lưu của nhận thức và tình yêu. Do sự thật đó, mỗi cá nhân, chúng ta là  một con người thiên nhiên có tinh thần nội tại tính, có nhu cầu nhận thức và tình yêu, và trong mỗi người đều cần đến một cá nhân khác hay giao lưu với những người khác, Cái danh từ mới mẻ và vĩnh hẳng ghi khắc trên đá cẩm thạch, ngày nào đó sẽ ban cho chúng ta cái mà “không ai hiểu được, ngoại trừ người đã được tiếp nhận nó” triển hiện cái cá tính của chúng ta. Cái tên được viết trên hộ chiếu (passe-port) của chúng ta, mà mọi người biết nó chỉ là một trong cá tính của chúng ta mà thôi. Như Juliette nói: ”Chính anh mới là anh”, Anh không phải là Montaigne, hay Romeo, hãy bỏ tên đó đi và thay vào đó cái tên chỉ là một phần của anh.Tôi đem toàn thể tâm linh của tôi ban cho anh.”
Cái ngã sáng tạo của nghệ thuật gia là con người thiên nhiên, là hoạt động của tinh thần giao lưu, chứ không phải là cá tính vật chất hay là cái tự thân trung tâm của tự ngã.
Lionell de Fonseka (học giả hiện đại của Pháp) nói rằng: kẻ thô tục luôn luôn nói về “tôi”. Nó cũng nói “người ta” thật ra cùng giống nhau, vì cái tôi của nó chỉ là cái ngã  trung tâm của tự ngã, một thứ chủ thể của hiện tượng và bản chất liên quan đến sự trung lập, một thứ chủ thể của hành vi vật chất, thứ chủ thể ấy giống như cái ngã của chủ ngĩa vị kỷ, biểu thị cái đặc trưng vật chất tham lam và u ám dày đặc.
Thi ca cũng luôn luôn nói đến cái tôi, nhưng phương thức sử dụng của nó hoàn toàn khác. Cái tâm của tôi là một từ mỹ lệ. David từng hát:“Hãy ban cho tôi sự sống, và tôi sẽ nhớ mãi những lời khuyên nhủ của ngươi”. Cái ngã trong thi ca là thực thể thâm áo của chủ thể sinh động và yêu thương, đó là cái ngã sáng tạo, một chủ thể như hành vi, biểu thị một thứ tác dụng đặc hữu của tinh thần sáng suốt và đầy cởi mở. Từ quan điểm đó, cái tôi trong thi ca giống như cái tôi của các vì thánh, tuy rằng mục đích nó khác nhau, nhưng vẫn có điểm giống  nhau là tinh thẩn của một chủ thể hiến dâng.
Như vậy sự hoạt động của thi tính là do nhu cầu cần thiết của bản chất siêu nhiên. Nó khiến cho cái tự ngã uẩn hàm của con người chìm sâu vào cõi u ẩn, nhưng quyết không phải vì duyên cớ của tự ngã. Sự dấn thân tự ngã của nghệ thuật gia vào trong hoạt động thi tính, cũng như triển hiện cái tự ngã của nghệ thuật gia trong tác phẩm, tất cả đều là sự triển hiện cái hàm nghĩa đặc biệt của nghệ thuật gia nắm được cái ẩn ước của sự vật, tất cả đều là vì cái hoàn hảo của tác phẩm. Cái ngã sáng tạo vừa tự hiển hiện, vừa tự hy sinh, vì bản tính nó là hiến dâng, nó bị tách ra khỏi tự thân trong sự xuất thần để mà sáng tạo; nó tự chết để mà sống trong tác phẩm (tự khiêm nhường và tước bỏ biết bao!
Hoạt động thi tính mang tính siêu nhiên vô tư đầy ý nghĩa, coi như chủ nghĩa vị kỷ là thù địch với hoạt động thi tính. Nghệ thuật gia với tư cách là con người luôn luôn bận rộn với sự khát khao sáng tác. Nó có thể nói như Baudelaire: “Tôi bất cần đến con người”, nó giống như Proust chỉ có thể bận rộn với tác phẩm, hay có thể hoàn toàn vị kỷ như Goethe. Trong quá trình sáng tạo, với tư cách là một nghệ thuật gia, nó không phải là con người vị kỷ, mà là con người siêu nhiên của tự ngã. Hơn nữa với tư cách là con người nghệ thuật gia, sự khát khao sáng tạo có thể đưa nó vào tư trào phát triển và bao dung  của một linh hồn mà sự đam mê và tham vọng  không phải là vị kỷ nữa. Và một thứ nội tại phong phú, mà khoát đạt là công hiệu bình thường  và đồng khuynh hướng của nghệ thuật. Sự hẹp hòi và keo kiệt và tham vọng của con người tạo cho nó sống trong lạnh lùng và sương mù. Cuối cùng Shelley nói là đúng: “Linh cảm của thi tính liên hệ với trạng thái tinh thần, thiên nhiên nó là trạng thái giao chiến với tất cả những dục vọng thấp hèn.”
17.- Tôi cho rằng chính do ảnh hưởng tính siêu nhiên rất cơ bản của thi nhân trong hoạt động thi ca, chính do ảnh hưởng khuynh hướng thiên nhiên hướng về sự sáng tạo mà thi nhân và nghệ thuật gia hướng vế phía chúng ta biểu hiện sự sáng tạo nội tại, những tích tượng thể nghiệm nghèo nàn. Họ dùng những từ lệnh tuân theo qui ước và cạn cợt, dùng những ngôn từ qúa xưa cũ - theo thơ xữ nữ, nữ thi thần (Muse), những tiên nữ hầu hạ ở thiên đường, những thiên tài, những tài năng của thi tính, những vị thần sống động, về sau là nữ thần tưởng tượng - để nói cái thứ kinh nghiệm, ít nhất là những vĩ nhân đã sống, và tin những  kinh nghiệm đáng tin tưởng, nhưng ý thứ tri tính của họ chưa hề nỗ lực cầm nắm mảy may. Chúng không hứng thú gì về ý thức nội tĩnh tự ngã. Nói một cách đại thể, thời đại nội tĩnh là thời đại thức tỉnh ý thức bắt đầu phục vụ cho chủ nghĩa thần bí của thánh Thérèse d’Aville và thánh Jean de la Croix, về sau là phát triển phục vụ cho thi ca. Đến thời kỳ chủ nghĩa lãng mạn, khi mà thời đại nội tĩnh bắt đầu phục vụ thi ca, thí nó kéo dài hàng mấy thế kỷ cho “tự ngã phát triển”, mãi cho đến thời kỳ hiện đại. Do sự phát sinh cái tự ngã phát triển, mà có các lãnh vực thi ca chân chính, đó là sự kiện vô cùng may mắn; khi cái tự ngã phát triển trong lãnh vực thi ca, từ trong ngọn lửa của tinh thần giao lưu, lãnh vực tự ngã sáng tạo chuyển qua lãnh vực cá tính vật chất của con người chìm đắm trong quyền lực và tư lợi, thành tự ngã trung tâm thô bỉ, nó trở thành tai họa. từ đó chủ nghĩa vị kỷ của con người là một hình thái chống thiên nhiên, và nó phát triển một cách vô giới hạn. Một mặt khác, hoạt động thi tính tự thân, phải trải qua những nổi đau thương không hay không biết, ngay cả đối với thi nhân vĩ đại, có dịp chúng ta sẽ thảo luận về vấn đề này.
Vừa rồi chúng ta có nói đến sự biến chuyển trong sự phát triển của thi ca không thể so sánh được, với sự phát triển ấy qui công cho sáng tạo tính của tự ngã. Đó là tình huống thường xảy ra trong lịch sử nhân loại. Những bản chất siêu nhiên của hoạt động thi tính có tính thâm căn cố đế, đế đổi cái tự ngã của con người xâm nhập vào thế giới nghệ thuật không thể khiến cho thi nhân biến thành một thứ cao giá trong sự sáng tạo đúng là một từ đầy mâu thuẩn); kết quả tạo cho nghệ thuật gia trở thành anh hùng, thành giáo sĩ, một vị giáo chủ cứu thế. Lúc ấy thi nhân không phải hiến thân trong tác phẩm, nhưng là hiến thân cho thế giới với cả sự vinh quang.
Khổng Đức dịch trong l”intuition creatrice của J. Maritain.
Khổng Đức
Theo https://www.vanchuongviet.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...