Cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh
Tình yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên
nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao
chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có
thủy, sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt
động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông
với con người. Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu
tình, còn là tượng trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê,
cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.
Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận trong kinh
nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua ca dao truyền thống
cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.
Mỗi dân tộc tồn tại đều có diện mạo riêng của mình. Diện mạo ấy
thường bộc lộ rõ rệt nhất trong văn hóa, tức là trong cách sinh hoạt, cách ứng
xử của con người trong quan hệ với chính mình, với tự nhiên và với xã hội. “Văn
hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động
sinh tồn và phát triển của mình” (Hà Văn Tấn) (1). Trong diện mạo ấy có những
nét độc đáo, chỉ riêng dân tộc có, nhưng cũng có những nét giống hoặc gần gũi với
các dân tộc khác. Nghiên cứu diện mạo hay bản sắc văn hóa dân tộc trước hết
không phải đi tìm cho được nét khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác, vì
điều này đòi hỏi sự hiểu biết rất lớn, mà chính là nhận diện cho được chân dung
văn hóa của dân tộc mình, xác định cho được những nét nổi bật đã tạo nên diện mạo
văn hóa của dân tộc.
Bản sắc văn hóa của dân tộc được cấu thành từ nhiều yếu tố,
trong đó có thị hiếu thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp. Sáng tác dân gian là một
căn cứ đáng tin cậy, dựa vào đó có thể nhận ra phần nào đặc điểm ý thức thẩm mỹ
của người Việt. Tìm hiểu cái đẹp trong ca dao là một cách tiếp cận, một con đường
nhằm đến mục tiêu nhận thức đầy đủ hơn tính cách của người Việt và xa hơn là diện
mạo của văn hóa dân tộc.
Trong ca dao truyền thống, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu có
chữ “Đẹp”:
Mặn nồng một vẻ thiên nhiên
Đất ta cảnh đẹp càng nhìn càng say. (2)
Gia Lâm có đất Cổ Bi
Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành.
Tương truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.
Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
Giao Tự lắm bãi nhiều doi
Lắm con gái đẹp nhiều nơi phải lòng.
Nhất đẹp con gái Bù Nâu
Cứng cỏi Đanh Xá, cơ cầu Quyển Sơn.
Gái Dự Quần đẹp như hoa lý
Nếu coi chữ “Đẹp” đồng nghĩa với chữ “Xinh” thì số lượng những
câu ca dao dạng này còn tăng lên rất lớn:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Nhất quế nhị lan
Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan trăm chiều.
Gặp em thấy khéo miệng cười
Thấy xinh con mắt, thấy tươi má hồng.
Có thể nói cái Đẹp là một cảm hứng lớn trong thơ ca trữ tình
dân gian người Việt. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả không làm thui chột cảm
xúc thẩm mỹ của người dân quê, không làm mất đi những rung động về vẻ đẹp của cảnh
vật và con người bắt gặp hằng ngày. Rung động ấy có khi bột phát thành tiếng
kêu vui:
Do Xuyên đẹp lắm ai ơi
Có về chỗ đó cho tôi về cùng.
Nhưng nhiều khi chỉ thể hiện trong cái nhìn trìu mến,
yêu thương với cảnh vật:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Nhác trông phong cảnh vui thay
Báo Bồng có phải chốn này hay không.
Trong hoàn cảnh đất nước nông nghiệp lạc hậu, thiên tai đe dọa,
làm không đủ ăn, đói no thất thường, đời sống lao động một nắng hai sương, giữ
cho được cái nhìn yêu đời và những rung động vô tư như vậy quả thật đáng quý.
Đó phải chăng cũng là một nét tính cách của người Việt? Phải chăng tình
yêu cái đẹp ấy là một trong những cội nguồn của sự mến mộ văn chương của người
Việt, nhất là đối với thơ ca, sự mến mộ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gọi là “bệnh
yêu thơ” không chữa được, còn Ngô Thì Sĩ thì gọi là bệnh “nghiện thơ” và chính
điều đó đã làm cho nước ta thành “một nước thơ” như lời Ngô Thì Nhậm nói khi
bàn thơ với Phan Huy Ích (3). Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy có khi đã dẫn đến
việc tạo ra nét “văn chương phù hoa” trong tính cách người Việt, như nhận xét của
Đào Duy Anh?(4).
Trong ca dao, những cảm xúc về cái đẹp bắt nguồn trước hết từ
bức tranh thiên nhiên và phong cảnh. Có rất nhiều câu chữ “Đẹp” đi liền với “Cảnh”:
Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.
Đường nào vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng núi Ngự, sông Hương.
Cảnh ở đây có thể là cảnh thiên nhiên như hòn Vọng Phu, núi
Nhồi, như sông Hương núi Ngự, nhưng cũng có thể là cánh đồng, làng quê, bến nước,
con đò, tức là cảnh ở đó tự nhiên và con người gắn với nhau thân thiết, gần
gũi:
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Đại Hoàng phong cảnh hữu tình
Cảnh hay phong cảnh đi vào ca dao phổ biến nhất trong bốn trường
hợp. Thứ nhất là trong những câu mở đầu (5):
Nước sông Gianh vừa trong vừa mát
Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.
Dang tay ngứt đọt từ bi
Cho lòng bên nớ bên ni kết nguyền.
hay:
Trăng lên đỉnh núi trăng mờ
Mình yêu ta thực hay là ghét chơi?
Thứ hai là trong những câu kể chuyện tâm tình, ở đó
cảnh là môi trường gặp gỡ, là nơi tình tự, chờ đợi, nhớ nhung, nơi diễn ra câu
chuyện yêu đương:
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu
Đêm khuya trăng lệch trời trong
Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha
Thứ ba, trong những câu ca giới thiệu về quê hương xứ sở:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương…
Dạo xem phong cảnh trời mây
Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.
Thứ tư, cảnh như đối tượng của sự thưởng thức thẩm mỹ:
Gió đưa, đưa lướt chòm thông
Gió bay thông cỗi như lồng bóng ngân
Suối trong leo lẻo trên ngàn
Kìa con chim Phượng soi làm suối trong.
hay:
Ai
đi qua phố khoa Trường
Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh
Dòng sông uốn khúc chảy quanh
Trên đường cái lớn bộ hành ngược xuôi.
Rõ ràng trong trường hợp thứ tư này, thiên nhiên và cảnh vật
hiện ra không phải như những đối tượng sở chỉ (reference), ám chỉ hay đưa
đẩy, mà là đối tượng của sự chiêm ngưỡng thuần túy. Điều này rất đáng chú ý, nó
chứng tỏ ca dao truyền thống không chỉ chứa đựng tâm tư và kinh nghiệm sống ủa
người dân quê mà còn thể hiện những rung động thẩm mỹ, tình yêu của họ với cái
đẹp của thiên nhiên và cảnh vật xung quanh.
Đặc điểm cơ bản của cảm xúc thẩm mỹ là tính vô tư. Đứng trước
một cảnh vật người ta có thể có nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng chỉ khi nào cảm
xúc thoát khỏi những quan tâm về ý nghĩa hay giá trị thực tế của đối tượng và
chỉ tập trung vào hình dáng, màu sắc và sự chuyển động của nó thì cảm xúc đó mới
được coi là cảm xúc thẩm mỹ. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều lần những
rung động thẩm mỹ như vậy:
Chiều chiều ra đứng gốc cây
Trong chim bay liệng, trông mây ngang trời
Trông xa xa tít xa vời
Những non cùng nước, những đồi cùng cây.
Trời xanh dưới nước cũng xanh
Có điều cần lưu ý là trong ca dao như đã nói ở trên, đối tượng
gây nên cảm xúc thẩm mỹ không chì là thiên nhiên mà nhiều khi còn là những cảnh
vật do con người tạo nên, gắn bó với đời sống của họ:
Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san.
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Cuộc sống của người nông dân vốn
gắn chặt với thiên nhiên, vì vậy vẻ đẹp của thiên nhiên cũng gắn chặt với sinh
hoạt của con người. Cái đẹp của phong cảnh có khi là vẻ đẹp của núi, sông, suối
khe thuần túy, nhưng nhiều khi là cánh đồng, là bến sông, là con đường người
qua lại đông vui. Trong ý thức của người nông dân, cảm xúc thẩm mỹ không phải
lúc nào cũng tồn tại độc lập mà thường pha trộn, xen lẫn với những cảm xúc
khác, nhất là cảm xúc về cái có ích. Điều này phản ánh rất rõ trong những câu
ca dao có chữ “Đẹp” liên quan đến phong cảnh:
Đường về Đông Việt loanh quanh
Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ.
Vẻ đẹp của quê hương ở đây gắn với cánh đồng lúa xanh hứa hẹn
một mùa gặt no ấm, tức là gắn với cảm giác về sự sung túc, với cái có ích.
Sự pha trộn giữa cảm xúc thẩm mỹ và cảm giác về cái có lợi bộc
lộ đặc biệt rõ rệt trong những câu thơ về con sông ở làng quê. Một mặt người
dân quê rất yêu mến vẻ đẹp của dòng sông với hình dáng uốn cong mềm mại của nó:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng…
Hỡi cô thắt bao lưng xanh
Có về Vạn Phúc với anh thì về
Vạn Phúc có cội bờ đề
Có sông uốn khúc có nghề quay tơ.
Trong thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, đường cong uyển chuyển
này in dấu rất đậm nét:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
Sông Tô một dải lượn vòng
Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng uốn khúc chảy quanh
Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Mặt khác, vẻ đẹp của con sông có được không chỉ do hình dáng
của nó mà còn nhờ chỗ nó có giá trị “tắm mát”.
Làng Chợ đẹp lắm ai ơi
Sông sâu tắm mát trên đồi nương ngô
Vùng Bưởi có lịch, có lề
Có sông tắm mát có nghề seo can
Cô kia thắt bao lưng xanh
Có về Yên Mĩ với anh thì về
Yên Mĩ anh có nhiều tre
Long tự hào của người dân quê về vẻ đẹp của con sông với
những đường nét uốn lượn tự nhiên cùng với công dụng tắm mát của nó cũng tương
tự như lời khen ngợi cô thôn nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết:
Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết, lại tươi răng vàng
Nhất đẹp là gái làng Cầu
Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.
Thẩm mỹ của người Việt xưa là vậy. Cái đẹp vừa có tính độc lập
nhưng cũng vừa gắn với cái Lợi, cái Đức. Con sông uốn khúc cũng đẹp, sông tắm
mát cũng đẹp, cả hai đều đẹp. Người có làn da trắng cũng đẹp, người nết na cũng
đẹp, cả hai đều được khen là Đẹp. Cái đẹp vừa có cái riêng (như là phẩm chất về
hình thức) vừa có cái chung (như tổng hợp của cả hình thức và ý nghĩa) – đó là
quan niệm về cái đẹp rất phổ biến trong ca dao truyền thống và có lẽ cũng cả
trong dân gian nói chung.
Bức tranh thiên nhiên và phong cảnh làng quê là cội nguồn của
những rung động thẩm mỹ trong ca dao. Khảo sát sự lắp đi lắp lại của những cảnh
vật trực tiếp khơi dậy những cảm xúc ấy, chúng ta thấy có những điểm đáng chú ý
sau đây.
Vẻ đẹp của cảnh núi – sông. Trong ca dao, “nước”, “non”,
“sông”, “núi” là những từ có tần số xuất hiện rất cao. Điều này cũng dễ hiểu,
bởi vì nước ta có địa hình phức tạp, nhiều núi, nhiều sông, núi và sông gắn chặt
với đời sống con người, nên núi sông đi vào ca dao nhiều cũng không có gì đặc
biệt. Đáng chú ý là ở chỗ, trong nhiều câu ca dao, núi - sông thường đi liền với
nhau, tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ:
Sông Tuần một dãy nông sờ
Hàm Rồng một dãy lờ mờ núi cao
Vui thay núi thẳm nông sâu
Thuyền đi hai dãy như sao hôm rằm
Đường mô vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng cảnh núi Ngự, sông Hương
Có rất nhiều câu ca dao trong đó núi - sông đi với
nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất về vẻ đẹp của thiên nhiên:
Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi Tam Đảo, kìa sông Tam Kỳ.
Dường như trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và
sông chỉ đẹp khi đi với núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi SƠN THỦY như một
nguồn cảm hứng của tình yêu hay của lòng tự hào về quê hương:
Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.
Nhìn xem phong cảnh làng ta
Có sơn có thủy bao la hữu tình.
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu
Nước non là nước non trời
Ai phân được nước ai dời được non.
Nước biếc non xanh trở thành dấu hiệu của vẻ đẹp phong cảnh,
thành niềm tự hào về nét đẹp của mỗi vùng quê:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Đền Hùng Phú Thọ nước biếc non xanh hữu tình.
Vì sao trong ca dao cái đẹp của phong cảnh thường gắn với
hình tượng “núi sông”, “sơn thủy”, “nước non”, “non xanh nước biếc”? Ở đây
có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Trước hết chúng ta thấy trong sâu thẳm
ý thức con người, những gì hài hòa thường là cơ sở tạo nên cảm giác đẹp, dễ chịu,
ưa thích. Trong tư duy phương Đông, hài hòa lớn nhất là hài hòa giữa Âm và
Dương. Từ cặp hài hòa Âm - Dương sẽ đẻ ra vô số cặp hài hòa khác, phổ biến nhất
là những cặp hài hòa mang tính cân đối, đối xứng như kiểu: ngày - đêm, trên -
dưới, trong - ngoài, lên - xuống, trưa - tối v.v... Trong ca dao có rất nhiều
câu thơ thể hiện nét tư duy ấy:
Thương em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.
Một người trên núi non Bồng
Một người dưới biển dốc lòng chờ nhau.
Ngược xuôi lên thác xuống ghềnh
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.
Núi - sông sở dĩ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp phong cảnh bởi
vì nó là cặp hài hòa lớn nhất, rõ rệt nhất, huống chi ngoài điều đó ra, ở nước
ta núi - sông vốn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của con người, mọi công việc
làm ăn, đói no, mọi sinh hoạt vui buồn đều gắn với sông, với núi; sông núi rất
gần gũi, thân thiết với con người. Tất cả điều đó làm cho sông núi dễ trở thành
biểu tượng tiêu biểu của cái đẹp phong cảnh thường được nhắc đến trong ca dao.
Ngoài ra, ở đây cũng còn một lí do nữa. Sở dĩ ca dao tả phong
cảnh thường nói đến sơn - thủy, nước - non có lẽ một phần vì theo quan niệm cổ
xưa của phương Đông, núi sông là cốt tủy của sự sống, núi không thể thiếu sông,
sông cần phải có núi, thiếu một trong hai cái đó, sự sống không tồn tại, như
dương thiếu âm, âm không có dương. Hình ảnh sông núi bên nhau bởi vậy trở thành
tượng trưng cho vẻ đẹp của vũ trụ, của đất trời. Để giải thích vì sao tranh sơn
thủy Trung Hoa thường vẽ cảnh núi sông, danh họa đời Bắc Tống Quách Hy đã viết:
“… núi có sông thì sinh động, có cây cỏ thì đẹp tươi, có khói mây thì mỹ lệ.
Sông lấy núi làm khuôn mặt, lấy đình, tạ làm vui mắt, lấy người câu cá làm tinh
thần. Cho nên sông có núi thì đẹp… Đó là sự bố trí của núi sông” (6). Trong ý
nghĩa ấy có thể nói những câu ca dao về thiên nhiên là những bức tranh sơn thủy.
Bên cạnh “sơn thủy”,”nước non” khi nói đến phong cảnh,
trong ca dao còn thường gặp hai chữ “hữu tình”:
Nhìn xem phong cảnh làng ta
Có sơn, có thủy bao la hữu tình.
Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Ở đây vẻ đẹp của sơn thủy không chỉ còn là vẻ đẹp của sự hài
hòa như bản chất của sự sống mà còn mang một sắc thái khác – sắc thái của tình
yêu. Cảnh đẹp là cảnh phải có tình. Tình ở đây trước hết là tình yêu lứa đôi,
có sơn có thủy, có mình có ta. Sơn thủy sở dĩ đẹp vì nó tượng trưng cho tình
yêu, tượng trưng cho hình ảnh người con trai và người con gái cho sự sống
có cặp có đôi:
Nước non, non nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ, xin đừng xa nhau.
Chính từ cảm hứng về vẻ đẹp của nước non như biểu tượng của
tình yêu trong ca dao, Tản Đà đã viết nên bài “Thề non nước” nổi tiếng:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non…
Như chúng ta thấy cảnh đẹp là cảnh “hữu tình”.
Nhưng “hữu tình” không phải chỉ là đẹp. “Hữu tình” cũng
không phải chỉ gắn với tình yêu:
Ở đây sơn thủy hữu tình
Có thuyền, có bến, có mình có ta.
Đại Hoàng phong cảnh hữu tình
Của nhiều đất rộng, gái xinh, trai tài.
Kim Liên phong cảnh hữu tình
Dương cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.
“Hữu tình” còn gắn với hạnh phúc, no ấm, với độ phì
nhiêu của đất đai, với cuộc sống tấp nập và với chính sự hiện diện đẹp đẽ của
con người. Rõ ràng cả ở đây thẩm mỹ của dân gian rất nhất quán: cái đẹp luôn gắn
với cái có ích. Nhưng ở đây cũng cho thấy một nét tính cách nữa của người Việt,
đó là coi trọng chữ tình. Cảnh quý không phải chỉ đẹp mà còn phải hữu
tình, hay nói cách khác, đẹp là phải hữu tình, khen một phong cảnh “hữu
tình” thì không chỉ là khen nó mỹ miều mà còn khen nó vì nó gợi ra những
liên tưởng về tình yêu hoặc cuộc sống no ấm. Chữ tình này là một đặc điểm nổi bật
trong tính cách người Việt, thể hiện cả trong thị hiếu thẩm mỹ, trong tình yêu,
trong cuộc sống và do đó cả trong văn học, trong ca dao:
Yêu nhau căn dặn đủ điều
Càng say về nết, càng yêu vì tình
Sống mà chẳng có chữ tình
Thì em cũng quyết liều mình cho xong.
Tìm hiểu đặc điểm của thiên nhiên và phong cảnh như ngọn nguồn
của cảm xúc về cái đẹp trong ca dao, chúng ta thấy những cảnh “hữu
tình” thường là những cảnh động:
Ở đây phong cảnh vui thay
Trên chợ dưới bến lại có gốc cây hữu tình.
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.
Người dân quê tuy cuộc sống vất vả, làm lụng cực nhọc, hứng
chịu đủ hậu quả thiên tai và bất công xã hội, nhưng nhìn chung cái nhìn của họ
về cuộc sống vẫn trong sáng, thấm đượm lòng yêu thiên nhiên, yêu đời. Không có
cái nhìn ấy không thể ngắm và vui với phong cảnh quê hương. Niềm vui ấy làm cho
cảnh vật trở nên sống động, linh hoạt, tràn đầy sinh khí:
Trời xanh dưới nước cũng xanh
Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.
Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng…
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai làng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Thị hiếu thẩm mỹ dân gian bộc lộ ở đây không chỉ thể hiện cái
nhìn lạc quan về cuộc sống. Trong gốc rễ sâu xa, nó gắn liền với vũ trụ quan của
người dân quê, với ý niệm thô sơ về tự nhiên, xem sự sinh trưởng và vận động của
vạn vật là sự sống và bản thân sự sống đã là đẹp. Đối với người dân quê, quả thực “cái
đẹp là cuộc sống”. “Trên một mức độ nào đó, cây xào xạc, cành cây đu đưa,
lá cây run rẩn cũng làm ta nghĩ đến cuộc sống của con người… Một phong cảnh đẹp
là khi nó có hoạt khí” (7). Cái “hoạt khí” toát lên từ cảnh gió thổi, sóng xao,
hoa cười, cá lội tung tăng chứng tỏ phong cảnh trong những câu ca dao trên tràn
đầy sự sống và do đó theo thểm mỹ của những người dân quê, nó cũng tràn đầy cái
đẹp.
Điều này cho phép chúng ta giải thích thêm một đặc điểm nữa của
thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao - đó là vì sao trong ca dao thường bắt gặp
rất nhiều màu xanh:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Cát Chính có cây đa xanh
Có đường cái lớn chạy quanh trong làng.
Dừa xanh trên bến hai hang
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.
Không chỉ “rau xanh” (con cò lội bãi rau xanh/
Đắng cay chịu vậy than rằng cùng ai) mà còn có “sen xanh” (Xuống
đầm ngắt lá sen xanh/ Thấy chim loan phượng đỗ cành xoan nâu), “nải
chuối xanh” (Lọng vàng che nải chuối xanh/ Tiếc con chim phượng đậu
nhành tre khô), rồi đến “đồng xanh” (Đường về Đông Việt loanh
quanh/ Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ), “rừng xanh” (Muốn
tắm mát xuống ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chin thì vào rừng xanh), “núi
xanh” (Chim khôn bay lượn ngang trời/ Trong non non biếc, trông
người người xa).
Đáng chú ý là không chỉ đồng xanh, rừng xanh, mà cả biển cũng
xanh, trời cũng xanh, mây xanh, sông xanh, nước xanh, hồ xanh, đến chim cũng
xanh:
Rừng xanh cả biển cũng xanh
Để xem cây quế ngả cành về đâu.
Trên trời có đám mây xanh
Có bông hoa lý, có nhành mẫu đơn.
Sông xanh phẳng lặng nước đầy
Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan.
Ai đi qua đò có biết
Dòng nước trong xanh biết là bao.
Con chim nhạn xanh xếp cánh bay chuyền
Sự đậm đặc của màu xanh trong ca dao rõ ràng là sự phản ánh
màu sắc của thiên nhiên nước ta, một vùng đất nhiệt đới có nhiều cây xanh, nhiều
rừng, nhiều cánh đồng trồng lúa và có bờ biển dài từ Bắc đến Nam. Nhưng không
phải chỉ như vậy. Cây xanh, đồng xanh, rừng xanh luôn luôn là biểu tượng của sự
sinh trưởng, tốt tươi, trù phú. Màu xanh ở đây không chỉ là màu của thiên nhiên
mà còn là màu của sự sống. Màu xanh trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của tự
nhiên tràn đầy sức sống. Màu xanh cũng thể hiện cái nhìn tươi mới, yêu đời của
người dân quê đối với phong cảnh thiên nhiên, thể hiện một nét đáng yêu trong
thẩm mỹ dân gian. Chính cái màu xanh ấy và cùng với nó là những rung động thẩm
mỹ chứa đầy tình yêu sự sống đã đi vào sáng tác của văn chương bác học làm cho
câu thơ mang đậm chất thẩm mỹ dân gian:
Cỏ xanh như khói bến Xuân tươi
Lại có mưa Xuân vỗ nước trời.
(Nguyễn
Trãi)
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Nguyễn Du)
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
(Hàn
Mặc Tử)
Cái đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn của ca dao. Nó là
cái đẹp đầu tiên, cái đẹp có trước. Người có đẹp thì người cũng chỉ là một bộ
phận của tự nhiên: “Người ta hoa đất”. Trong thẩm mỹ dân gian vẻ đẹp của con
người và thiên nhiên hòa với nhau, tô điểm cho nhau, nhưng dường như cái đẹp của
thiên nhiên vẫn cao hơn, như là thước đo, như là chuẩn mực:
Thấy em mắt phượng môi son
Mày ngài da tuyết đào non trên cành.
Điều này giải thích vì sao trong ca dao vẻ đẹp của con người
thường được ví với cây, với lá, với hoa:
Em như cái búp hoa hồng
Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu.
Gái Dự Quần đẹp như hoa lý
Trai thanh tân có ý mà theo.
Nhác trông thấy một bóng người
Vẻ đẹp của thiên nhiên tràn ngập trong ca dao, hiện lên trên
phong cảnh, trên hình dáng và khuôn mặt con người. Thái độ đối với cái đẹp của
thiên nhiên ấy vừa phản ánh vũ trụ quan thô sơ của người dân quê coi con người
và thiên nhiên như là một, vừa nói lên tình yêu của họ đối với thiên nhiên, một
tình yêu vừa có ý nghĩa mỹ học sâu sắc, vừa chứa đựng trong nó một nhãn quan về
môi trường rất nhân văn và hiện đại.
Tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao
chính là tìm hiểu cách con người cảm nhận vẻ đẹp của thế giới xung quanh, tìm
hiểu đặc điểm của những rung động thẩm mỹ đã để lại dấu vết trong cách sử dụng
từ ngữ, hình ảnh, trong cách đề cao, khen ngợi những cảnh vật được ưa thích. Từ
những khảo sát bước đầu trên đây, chúng ta thấy tình yêu thiên nhiên, trong đó
có yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách
người Việt. Đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có sơn có thủy, sông núi
hài hòa, núi sông uốn lượng mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy
sinh khí và sức sống (“xanh tươi”) nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó, tương thông
với con người (“hữu tình”). Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và màu sắc
tươi tắn còn là hình ảnh của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân
quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.
Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của con
người với hiện thực, nhưng cái đẹp không chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp
có cả trong thiên nhiên trong phong cảnh. Rung động trước vẻ đẹp của thiên
nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những
rung động thẩm mỹ thể hiện qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản
sắc văn hóa của người Việt và tìm hiểu cái đẹp của nghệ thuật. “Mỹ học tự nhiên
sẽ cho chúng ta những cơ sở cần thiết để xây dựng triết học nghệ thuật” (8).
Chú thích:
(1) Hà Văn Tấn - Bản sắc văn hóa Việt cổ, trong sách: “Đến với
lịch sử Văn hóa Việt Nam”, Nxb. Hội Nhà Văn, 2005, trang 151.
(2) Ca dao trích dẫn được lấy từ bộ sách: Nguyễn Xuân Kính,
Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001.
(3) Từ trong di sản… Nxb. Tác phẩm mới, HN, 1981, trang
32,62,76.
(4) Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Bốn phương,
HN, 1951, trang 22.
(5) Xem Đinh Gia Khánh: Câu mở đầu trong ca dao,…
(6) Theo Lưu Cương Kỷ - Phạm Minh Hoa: Chu Dịch và Mỹ học, Nxb Văn
hóa - Thông tin, HN, 2002, trang 46.
(7) N.G. Tchernyishevxki. Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với
hiện thực. Nxb. Văn hóa - Nghệ thuật, HN, 1962, trang 27,28.
(8) Vladimir Soloviev: Cái đẹp trong thiên nhiên, trong sách
“Siêu lý tình yêu” (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tập 3,
trang 9.
Nguyễn Thị Kim Ngân
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
số 635, tháng
11/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét