Trường phái lãng mạn trong văn học Pháp
Phần I: Những nét đại cương
Xuất xứ một số chủ đề lãng mạn
Không hẳn trường phái lãng mạn Pháp là một cuộc
cách mạng văn học đột nhiên bùng nổ theo sau sự xuất hiện của
Chateaubriand và Mme de Staël. Trong lịch sử, cũng như
trong thiên nhiên và đời sống, không có gì hoàn toàn đột nhiên và không thể giải
thích bởi những nguyên nhân, đôi khi rất xa xôi. Những nguyên nhân kia
thường tăm tối vá khó nhận ra; nhưng chúng thực sự hiện hữu. Các biến
cố xảy ra và kế tục nhau thông qua những chuyển tiếp lặng lẽ, thường vượt ra
ngoài tầm chú ý của những người đương thời. Chúng là kết quả của những biến
cố đã có trước mà thường thường người ta không ý thức được tất cả tầm quan trọng
khi chúng xảy ra. Cho dù đó là lịch sử của những biến cố
chính trị, những tư tưởng triết học hay xã hội, hay những tác phẩm văn học,
luôn luôn và nhất thiết phải có những nguyên nhân, những chuẩn bị, và những
chuyển tiếp. Không bao giờ có hiện tượng nào bất ngờ, không giải thích được
hay không chuẩn bị. Những nhận định trên nhằm cho thấy rằng thường người
ta không ý thức được những chuyển tiếp và chuẩn bị nói trên. Và điều nầy
cũng áp dụng cho cả những thiên tài. Sự xuất hiện của những người nầy hình như
phá vỡ mắt xích của những chuẩn bị và chuyển tiếp. Nhưng có quả đúng vậy
không? Theo một chủ thuyết lịch sử từng có những môn đồ nổi tiếng, có thể chính
những thiên tài đó cũng chỉ là những hệ quả của những lực bí ẩn và thâm
sâu và của những sản phẩm tạo nên từ những dòng tư tưởng luân lưu trong
dân gian của cả một dân tộc, cả một thời đại; họ là những biểu hiện cho những lực
phổ quát kia và của những trào lưu bao la; họ không khác nào sự hiện thân của
chúng.
Ils seraient les représentants de ces forces massives et de
ces vastes courants; ils en seraient comme l’incarnation.
Cách Mạng Pháp là một trong những biến cố lớn đó xuất hiện đột
ngột và mãnh liệt trong lịch sử, và dường như hoàn toàn không ai chú ý. Nhưng
hãy nhìn kỹ: đó là một động thái đã có sự chuẩn bị tiềm tàng trong lịch sử
chính trị dưới chế độ cũ và, ngoài ra, trong sự khai triển song hành của những
tư tưởng mới trong thế kỷ mười tám và của những nhu cầu xã hội thường xuyên bức
xúc mãnh liệt đối với quần chúng trong nước. Tựu trung những yếu tố
đó chính là sự giải thích luận lý và sâu sắc cho cuộc cách mạng 1789.
Tương tự, trường phái Lãng Mạn Pháp là một canh tân văn học,
được chuẩn bị từ lâu do sự tiến hóa tư tưởng và cuộc tuần hành liên tục
và cấp tiến của các nhà trí thức hướng về một cái gì mới mẻ xuyên suốt
thế kỷ mười tám.
Nếu cần đưa ra một lịch sử hoàn chỉnh về những nguồn gốc của
trường phái lãng mạn thì phải lùi xa hơn Chateaubriand và Mme de Staël, xa
hơn cả Cách Mạng Pháp, cho đến giữa thế kỷ mười tám. Phải đề cập chi tiết
đến Diderot, Rousseau, Bernardin de Saint-Pierre, xem xét những tác phẩm của họ
và phân tích những gì mới mà mỗi tác giả đã đưa vào. Lý do là người ta
tìm thấy nơi họ những động lực mới hay những chủ đề khai triển mới; đó chính là
những chỉ dấu cho thấy một thay hình đổi dạng sắp xảy ra trong văn học Pháp.
Chúng ta sẽ đi theo một phương pháp khác và lần lượt điểm qua
những chủ đề cũng như những động lực khai triển khác nhau và cho thấy chúng
thay nhau xuất hiện thế nào trong văn học Pháp, từ Diderot đến Victor
Hugo, xác định phương vị của những nhà văn chính trong giai đoạn chuẩn bị
đó. Cuối cùng, qua công tác phân định chúng ta sẽ giải thích làm thế
nào những nhà văn đó, một khi tập hợp lại trong những tác phẩm đầu thế kỷ mười
chín, đã trở thành những yêu tố cấu trúc và đặc trưng cho trường phái Lãng
Mạn Pháp.
Một cách khái quát, người ta có thể nói rằng văn học Pháp thế
kỷ mười tám toàn bộ mang sắc thái cá nhân chủ nghĩa. Trong thế kỷ mười bảy,
văn học Pháp chủ yếu phi cá nhân, trí thức và duy lý, nghĩa là chi phối bởi
lý trí của Descartes và Boileau.
Au XVIIIe siècle, la littérature Française est
essentiellement impersonnelle, intellectuelle, rationaliste, c’est-à-dire
gouvernée par la raison de Descartes et de Boileau.
Vào thế kỷ mười tám, và đúng hơn, hậu bán thế kỷ mười tám (vì
nửa thế kỷ đầu nhắc lại những đặc trưng của thế kỷ trước, trong khi nửa sau rõ
rệt thiên về những đặc trưng của thế kỷ nầy), văn học Pháp trở nên hoàn toàn cá
nhân và đượm màu tình cảm. Mọi nhà văn đều thể hiện trong tác phẩm của
mình cá tính, tâm trạng, phong cách tưởng tượng, và cảm ứng của mình,
nghĩa là phương thức tác động đối với thế giới sự vật chung quanh.
Trong những tác phẩm viết ra thời đó xuất hiện hai thể loại
chủ đề văn chương mới: tình cảm đối với thiên nhiên và diễn tả mãnh
liệt những cảm xúc.
1. Tình cảm đối với thiên nhiên.
Nhắc đến những từ nầy người ta muốn nói đến ý nghĩa vẻ đẹp của
sự vật bên ngoài, những quang cảnh chung quanh chúng ta. Ý nghĩa đó rất
tế nhị và gần như không được biết đến trong thế kỷ mười bảy, ngoại trừ La
Fontaine và Mme de Sévigné. Chủ đề nầy được khai triển triệt để với
J. J. Rousseau và Bernardin de Saint-Pierre; nơi họ người ta tìm thấy nhiều
mô tả thế giới bên ngoài. Họ cảm nhận mãnh liêt vẻ đẹp hùng tráng hay sức
quyến rũ vô biên của thiên nhiên, từ đó họ tìm cách thực hiện một bức
tranh hiện thực, đầy màu sắc, có khả năng làm cho thiên nhiên đó sống động nơi người
khác và kích động trí tưởng tượng của độc giả tương tự như cảnh trí đó đã kích
động trí tưởng tượng của chính họ. Từ đó sản sinh ra sức rực rỡ trong văn
thái của họ. Fils Naturel của Diderot, chẳng hạn, đưa ra
nhân vật Dorval trong một ngoại cảnh thiên nhiên đẹp đẽ đầy quyến rũ, với niềm
hứng khởi dẫn đến sự vinh danh thiên nhiên mang sắc thái tôn giáo, một
thuộc tính của văn học thế kỷ mười tám. Ngoài ra, những nhà văn đó không
đơn thuần chỉ tả cảnh mà thôi; họ muốn đi vào truyền thông với những gì chúng
ta ngày nay gọi là “linh hồn bí ẩn của sự vật (l’âme mystérieuse des
choses)”; họ liên kết thiên nhiên với tất cả những biến cố, tất cả những
cảm xúc trong đời sống tinh thần của họ; họ tìm nơi thiên nhiên niềm an ủi
và yên bình khi họ đau khổ, hay chỉ tìm những đề tài trầm tư. Ví dụ, khi
nói về dải núi Valais, Saint-Prieux trong La Nouvelle Héloïse của
Rousseau diễn tả cảm tưởng thanh thoát an bình xuất phát từ thiên
nhiên hùng vĩ đó. Tương tự, trong Réveries du promeneur
solitaire, J.J. Rousseau minh họa trạng thái “hạnh phúc sung mãn , tuyệt đối,
và đầy đủ - bonheur suffisant, parfait, et plein” đến từ những “giấc mơ cô đơn
- réveries solitaires” bên bờ hồ Bienne. Nhưng điểm làm nổi bật đặc tính
cá nhân chủ nghĩa trong những tác phẩm của Rousseau nằm trong kết luận qua đoản
văn sau, “Trong một hoàn cảnh như thế, người ta hưởng thụ được gì? Không
được gì cả… nếu không phải là chính mình và sự hiện hữu của chính mình; bao
lâu tình trạng đó kéo dài, người ta thấy tự mãn với mình, giống như Thượng Đế”.
De quoi jouit-on dans une pareille situation? De
rien… sinon de soi-même et de sa propre existence; tant que set état dure, on se
suffit à soi-même, comme Dieu.
Người ta có thể trích dẫn nhiều thí dụ hơn nữa từ những tác
giả thuộc giai đoạn đó của thế kỷ mười tám. Tình cảm về thiên nhiên trở
nên một trong những chủ đề của văn học lãng mạn. Và như thế, phải chăng đó
là một thể loại cảm xúc rất quen thuộc đối với chúng ta những con người của thế
kỷ mười chín, những cảm xúc hoàn toàn đặc biệt, dịu dàng hay mạnh mẽ, tràn đầy
quyến rũ hay cao vời vĩ đại, bắt nguồn từ tính chất của ngoại cảnh, bừng dậy
trong tâm hồn trước những phong cảnh mỹ miều? Thi sĩ, triết gia, nghệ
sĩ, hay những kẻ đơn thuần quen trầm tư, tất cả đều đi vào truyền thông với
ngoại cảnh, thẩm thấu sự sống của chúng, mở rộng tâm hồn trước những ấn tượng
nhận được từ chúng. Không những thế, qua truyền thông tương tác, họ liên
kết thiên nhiên với đời sống nội tại của họ, và biến thiên nhiên thành kẻ tâm sự
cho những niềm vui, đau đớn, và suy tư của mình. Từ đó xây dựng lên một
truyền thông hai chiều của con người với thiên nhiên và của thiên nhiên với con
người.
Mais aussi, par manière de réciprocité, il associe la nature
à sa vie intérieure, et il fait d’elle la condifente de ses joies, de ses
peines, de ses réflexions. Ainsi il s’établit comme une comminication
réciproque de l’homme à la nature et de la nature à l’homme.
Đó chính là một trong những đặc tính của thơ ca lãng mạn và
đó là yếu tố góp phần gia tăng biên độ cho thi ca lãng mạn. Chateaubriand
đưa lên sân khấu người lữ hành cô đơn mất hút trong những cánh rừng Châu Mỹ;
nhưng nhân vật tự bảo, “tinh thần con người dễ dàng lấp đầy những không gian của
thiên nhiên, và tất cả những cô đơn của trái đất ít bao la hơn là một thoáng trầm
tư của con tim. Đó chính vì con người mang trong mình cả một thế giới
nội suy và phóng xuất thế giới nội suy đó lên những sự vật chung quanh.”
L’esprit de l’homme remplit aisément les espaces de la
nature, et toutes les solitudes de la terre sont moins vastes qu’une seule
pensée de son cæur. C’est que l’homme porte en lui tout un monde de
pensée intérieure qu’il projette sur toutes les choses qui l’entourent.
2. Cảm xúc của tâm hồn
Đó là những tình cảm, đam mê, đặc biệt là những đam mê của
tình yêu, và cũng là những ấn tượng của trí tưởng tượng, nhất là của sầu muộn
(mélancolie). Sầu muộn đó trong văn học hiện đại gắn liền với những đam
mê của tình yêu như những ấn tượng đến từ một số ngoại cảnh thiên nhiên. Tình cảm đó phát xuất từ tâm niệm cho rằng mọi vật trên đời rồi sẽ qua đi, con
người là hữu hạn, thiên nhiên gò bó, lạc thú hiếm hoi, và những hạnh phúc
lớn nhất rồi cũng tan biến. Suy tư về cái chết gần như luôn luôn đi liền
với suy tư về tình yêu. Đam mê và sầu muộn: đó là hai yếu tố chủ yếu mà
người ta tìm thấy khắp nơi bên trong nguồn cảm hứng lãng mạn.
Giả thử tất cả những cảm xúc hay ấn tượng đó được phát triển
tối đa về cường độ, biên độ, và hoạt tầm, tương ứng với khả năng của trái tim
và sức tưởng tượng của con người: Kết quả sẽ là một biểu hiện trữ
tình (expression lyrique). Trữ tình bấy giờ chính
là biểu hiện cao độ của cái tôi (moi), cái tôi đam mê, làm mồi hoặc cho một
dục vọng thỏa thuê và vô độ, hoặc cho một nỗi buồn không cứu vãn được.
Những mẫu người tình cảm, tưởng tượng, đam mê, bị sức tưởng
tượng làm dao động từ hứng khởi (enthousiasme) sang sầu muộn, và dục vọng nâng
lên thành trữ tình: đó chính là bản chất của văn học thế kỷ mười tám trong những
năm trước và sau 1761, thời điểm của La Nouvelle Héloïse.
Những mẫu người đó chính là biểu mẫu đầu tiên trong những tác
phẩm của các nhà văn. Mọi người đều biết đến nhân vật của Rousseau, xuất
hiện với một thứ tình cảm u uẩn, một thứ tưởng tượng rối loạn, dễ dàng rơi vào
sầu muộn cũng như hứng khởi, trở thành đồ chơi cho những đam mê đau khổ làm lệch
hướng cuộc đời, không bao giờ có đủ sức mạnh tinh thần để chế ngự bản năng và
khống chế dục vọng. Và cả Diderot cũng vậy, khi ông tự buông thả cho
tính khí, xuẩn động và cảm ứng nhất thời! Ông cho biết, “trong một ngày
tôi có cả trăm tính khí khác nhau tùy theo đối tượng đã chi phối tôi”. Ông có một khuynh hướng đặc biệt đi đến hứng khởi. Ông là người bênh vực
cho đam mê: “Tất cả những gì mà đam mê gợi ra tôi đều cho phép cả.” Cuối
cùng, ông thể hiện một thứ cảm tính thái quá và vô độ, một hiện tượng không phải
luôn luôn biểu tượng cho một bản chất thâm sâu: “Cảm tính của ông nông nổi”,
theo nhận xét của Mlle de Lespinasse về ông. Và Mme Necker viết:
“Diderot bị kích động khi ông ta tự kiềm chế và trở lại tự nhiên khi bị
kích động thái quá”. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên trước lối hành xử thường
khích động và sự thái quá thường xuyên trong cách thể hiện cảm tính và hứng khởi
của ông. Diderot cảm giác, cảm xúc, và hành xử thái quá; những ấn tượng của
ông luôn luôn bất thường; ông luôn luôn đi đến trạng thái trữ tình .
Ngoài ra, chung quanh những nhà văn, trong xã hội đương thời của
họ, có một số người mang bản chất đam mê, cảm tính sâu sắc, ngây ngất, đau khổ,
tưởng tượng thái quá, vì dằn vặt bởi một khao khát khôn nguôi về vô hạn và lý
tưởng nên đòi hỏi được xoa dịu đối trước những ảo tưởng lừa dối của tình
yêu. Chính lời của Mme Lespinasse: “Chỉ có đam mê là có lý –
Il n’y a que la passion qui est raisonable”. Và một khi cảm nhận được tất cả sự
cay đắng của tình yêu, bà không còn thấy cuộc sống đáng sống nữa và kêu gọi
cái chết, tương tự như gã tiều phu tuyệt vọng ngày xưa. Chính vì thế mà chúng ta thấy chan hòa trong tim và tràn ngập trên môi những
tình cảm lãng mạn, cung điệu trữ tình chan chứa tình yêu và tuyệt vọng. Tình yêu và sự chết là những chủ để chính dòng của thi ca lãng mạn thời kỳ nầy.
3. Ảnh hưởng của văn học Anh
Muốn hiểu rõ sự hình thành của những chủ đề lãng mạn trong thế
kỷ mười tám tại Pháp, còn phải ghi nhận ảnh hưởng của văn học Anh đối với các
nhà văn Pháp. Trong thời kỳ nầy, giữa Anh và Pháp có những liên hệ trí thức rất
sinh động: du lịch qua lại của các nhà văn, dịch thuật các tác phẩm, trao
đổi tư tưởng giữa hai nước. Đối với lịch sử văn học cũng như lịch sử chính trị,
ảnh hưởng sâu xa đó của Anh là điều hiển nhiên đối với những quan niệm chính trị,
tư tưởng triết học, cuối cùng là văn học nói riêng, kịch nghệ và tiểu thuyết của
Pháp trong hậu bán thế kỷ mười tám.
Trong giới hạn của đề tài, chúng ta sẽ đặc biệt đề cập đến
Richardson và Macpherson. Người thứ nhất đóng góp nhiều cho chủ đề đam mê
mà chúng ta vừa trình bày bên trên. Người thứ nhì đóng góp cho chủ đề sầu
muộn mà người ta luôn luôn tìm thấy trong thi ca lãng mạn Pháp. Chúng ta
sẽ không nhấn mạnh đến Richardson nhiều. Những tiểu thuyết của ông rất nổi
tiếng và được xuất bản từ năm 1740 đến 1753. Chính Prévost, tác giả của “Manon
Lescaut”, đã dịch những tác phẩm nầy, và độc giả Pháp có thể thưởng thức Paméla (1742), Clarisse
Harlowe (1751), Grandisson (1755). Những tiểu thuyết Anh
đượm màu sắc đam mê đó đã thành công lớn tại Pháp. Đó là một thời thượng,
một cao trào đặc xuất. Biết bao nước mắt chan hòa trên những tâm hồn ủy mị!
Diderot, vốn luôn luôn bị khích động thái quá vì hứng khởi, đã dành cho
Richardson một sự ca ngợi chưa từng nghe qua và đã hét lớn trong một cơn mê trữ
tình, “Ôi Richardson, Richardson, người duy nhất trong mắt tôi, tôi sẽ vĩnh viễn
là độc giả của người!
Vì quẫn bách… tôi phải đi bán sách; nhưng người sẽ ở lại với tôi, người sẽ ở với tôi trên cùng một kệ sách với Moïse, Homère, Euripide, và Sophocle”. Và, với giọng ngây thơ, Diderot xuất chúng thêm rằng “Càng có được tâm hồn đẹp bao nhiêu thì người ta càng có sở thích thanh cao và thuần khiết bấy nhiêu… người ta càng đánh giá cao những tác phẩm của Richardson bấy nấy”. Đó chính là sự khiêm tốn.
Vì quẫn bách… tôi phải đi bán sách; nhưng người sẽ ở lại với tôi, người sẽ ở với tôi trên cùng một kệ sách với Moïse, Homère, Euripide, và Sophocle”. Và, với giọng ngây thơ, Diderot xuất chúng thêm rằng “Càng có được tâm hồn đẹp bao nhiêu thì người ta càng có sở thích thanh cao và thuần khiết bấy nhiêu… người ta càng đánh giá cao những tác phẩm của Richardson bấy nấy”. Đó chính là sự khiêm tốn.
Tiểu thuyết của Richardson cũng có ảnh hưởng rõ nét trên J.J.
Rousseau. La Nouvelle Héloïse (1761) là cuốn tiểu thuyết về đam
mê rất được thuở lãm thời đó và đến ngày nay vẫn còn nhiều người
thích thú đọc lại. Dường như tiểu thuyết nầy theo sau các bản dịch của Paméla và Clarisse
Harlowe.
Về phần James Macpherson và thơ Ossian mà ông tuyên bố đã
khám phá và dịch ra tiếng Anh, mọi người đều biết lịch sử của sự lừa đảo văn học
nổi tiếng nầy. Fingal et Temora, tác phẩm mà Macpherson giới thiệu với
công chúng (1762-1763) như là bản dịch của những bài thơ do một thi sỷ trữ
tình Tô Cách Lan thế kỷ thứ ba sáng tác, thực ra chỉ là những tác phẩm
do chính Macpherson viết ra. Đối với Tô Cách Lan, đây là một vấn đề
quốc gia; những bài thơ đó có một tiếng vang rộng lớn, và Macpherson đã nổi tiếng
một thời, sau đó giàu to. Trong giới hâm mộ và nhiệt tình nói
chung đang dấy lên khắp Âu Châu, có những ghi nhận tiêu cực về một số phản đối;
nhưng những người cố nêu ra vấn đề gian lận lại không được ai nghe tới. Nguồn gốc
đích thực của những bài thơ trên không được làm sáng tỏ, và Macpherson cuối
cùng đến cư ngụ tại Westminster, Anh Quốc, vinh quang cho đến khi qua đời.
Những bài thơ Ossian là một hình thức thần thoại hóa
(mystification) thuần túy và đơn giản, nhưng đó là lối thần thoại hóa Âu
Châu. Người ta đã dịch chúng ra mọi thứ tiếng. Thi sĩ Ý,
Cesarolti, tuyên bố Ossian vượt hơn cả Homère; Gœthe cũng nói thế: “Ossian đã thay thế Homère trong tim tôi”. Tại Pháp, chính
Letourneur đã dịch thơ của Macpherson. Bản dịch nầy xuất bản năm
1776, nghĩa là cùng năm với bản dịch của Shakespeare và của Werther: một tập hợp
không kém phần hấp dẫn và đã làm nổi bật sự hội tụ của những ảnh hưởng
đang tác động trên văn học Pháp thời bấy giờ.
Nói chung, ảnh hưởng của thơ Ossian đóng vai trò khá quan trọng
cuối thế kỷ mười tám. Chateaubriand nhiệt thành ngưỡng mộ những thơ
này. Năm 1793, trong khi Cách Mạng Pháp đẩy ông qua Anh Quốc,
Chateaubriand là “đại môn đồ của nhà thơ trữ tình Tô Cách Lan”; ông
tuyên bố, “Với ngọn giáo trong tay, tôi sẽ bênh vực cho sự hiện hữu của Ossian
đối với mọi người, như bênh vực sự hiện hữu của cố thi hào Homère”. Macpherson có nhiều người mô phỏng cũng từng tuyên bố đã “khám phá
những thơ văn Tô Cách Lan”. Chateaubriand đã đọc “say sưa” tất cả những
tác phẩm đó mà theo chính lời ông nói “đó dứt khoát là của bố
già Oscar (Ossian), luôn cả những bản thảo rách nát của Macpherson.”
Trong số những tác phẩm khác thuộc thể loại Oassian, ông dịch ba bài thơ của
John Smith: Dargo, Duthona và Gaul. Ngay cả khi đã hết
tin vào sự đích thực liên quan đến những bài thơ Oassian, ông vẫn còn mê mẩn lắng
nghe “tiếng đàn hạc” của thi sĩ trữ tình, như người ta nghe một giọng nói bình
lặng nhưng dịu dàng và não nuột.
Điều nầy hiển nhiên chứng tỏ tại sao những bài thơ Ossian
thành công đến mức nào: chúng mang lại một nét mới, nỗi sầu muộn u uẩn
và êm đềm kia đã trở nên thời thượng mà người ta tìm thấy trong những áng văn của
các thi sỷ lãng mạn Pháp. Trong một trang sách viết rất xuất sắc, đầy ý
nghĩa và hài hước, Paul Albert đã làm nổi bật tầm ảnh hưởng của Ossian trên nghệ
thuật, thi ca và hội họa Pháp vào thế kỷ mười tám. Ông nhắc lại sự ngưỡng
mộ của Napoléon và của Mme de Staël đối với thơ
Ossian. Ông cho thấy hình ảnh của thi hào trữ
tình Lamartine năm 1836 bị ám ảnh bởi hồi ức của Ossian: trong bài thơ Jocelyn, Lamartine đã lai láng thốt nên những vần thơ lỗi lạc
sau đây:
Ossian! Ossian! Lorsque plus jeune encore
Je rêvais des brouillards et des monts d’Inistore;
Quand, tes vers dans le cœur et la harpe à la main,
Je m’enfonçais l’hiver dans des bois sans chemin.
Ảnh hưởng của Ossian trên Lamartine là thành thật và sâu đậm.
Đó không đơn thuần là kết quả của thời thượng; có sự cảm thông thực sự giữa nguồn
cảm hứng trong hồn thơ Ossian và trí tưởng tượng của Lamartine. Chính
Lamartine nói với chúng ta điều đó trong lý lịch tự khai được dùng làm lời phi
lộ cho cuốn Premières Méditations (1849). Ông cho chúng
ta biết rằng, sau khi rời đại học, ông đặc biệt chuyên tâm đến Le Tasse và
Ossian, và thơ là do Ossian “mặc khải” cho ông. Xin hãy nghe thơ theo như
Lamartine cảm nhận, hoàn toàn trầm tư và đượm sắc sầu muộn:
“Ossian fut l’Homère de mes premières années; je lui dois une
partie de la mélancolie de mes pinceaux. S’est la tristesse de
l’océan. Je n’essayai que très rarement de l’imiter; mais je m’en
assimilai involontairement le vague, la rêverie…”
Tóm lại, chúng ta vừa nhận thức được trong văn học hậu bán thế
kỷ mười tám nhiều yếu tố mới: tình cảm đối với thiên nhiên và mối liên hệ
giữa thiên nhiên và cảm xúc của con người; sự diễn tả sắc bén và
mãnh liệt của đam mê làm đảo lộn con tim; nỗi sầu muộn, nỗi buồn thăm thẳm,
ưu tư thầm kín về hư không và về cái chết pha lẫn với những niềm vui và đau khổ
của tình yêu; tính chất trữ tình trong biểu hiện tình cảm, xúc cảm,
đam mê, ngay cả trong văn xuôi. (Trong thế kỷ mười tám không thực sự có thơ trữ
tình.) Tất cả những yếu tố, chủ đề, và kỹ thuật đó, một khi được đưa vào
văn chương, sẽ lưu lại đó mãi mãi. Chateaubriand chuyển hóa chúng thành
thi ca lãng mạn; nhưng chắc chắn chúng hiện hữu trước Chateaubriand cũng như những
nhà văn lãng mạn. Do đó Diderot, J.J. Rousseau, và Bernardin de
Saint-Pierre đương nhiên là những tiền bối của trường phái lãng mạn Pháp. Nếu thêm vào ảnh hưởng của Richardson và những bài thơ của Ossian thì chúng ta
sẽ có những yếu tố chủ yếu, những yếu tố chắc chắn đã chuẩn bị từ thế kỷ mười
tám cho sự canh tân văn học Pháp, những yếu tố mà các nhà văn lãng mạn Pháp,
thông qua Chateaubriand, đã đón nhận như một di sản ngàn vàng.
Lương Tấn Lực
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét