Vẻ đẹp của quê hương Xứ Thanh từ
xa xưa đã từng được khắc họa trong thơ, nhạc và xứ Thanh còn có một cái tên vừa
kiêu sang, vừa mạnh mẽ đó là “Thanh Kỳ Khả Ái”. Cái tên “Thanh Kỳ Khả Ái”
từ đâu mà có?.
Cầu Hàm Rồng. Ảnh: Trần Đàm
Nếu có một lần bạn lên ngắm cảnh động Hồ Công, xã Vĩnh Ninh,
huyện Vĩnh Lộc, bạn sẽ thấy có một tảng đá nằm chắn ngay trên lối đi, có khắc bốn
chữ Hán rất lớn: “Thanh Kỳ Khả Ái”.
Động Hồ Công là một trong “đệ nhất động” mà nhiều tao nhân, mặc
khách đã đến thăm ngắm và đề thơ. Tuy nhiên, thời gian qua, nhiều người đặt câu
hỏi, câu “Thanh Kỳ Khả Ái” ca ngợi xứ Thanh xinh đẹp, đáng yêu đó là của ai đặt
tên cho mảnh đất này, và khắc tác vào đá? Theo nhà nghiên cứu văn hóa Hương Nao
thì bắt đầu từ việc tìm hiểu bài thơ khắc trong động Hồ Công của Chúa Trịnh Sâm
có nội dung như sau:
“Trùng trùng nẻo đá lượn quanh co/ Đỉnh núi nhô cao một Ngọc
Hồ/ Đá hóa cóc già châu tỏa sáng/ Son phai tượng cũ tuyết loang mờ/ Bóng mây chấp
chới hình tiên bước/ Hang nắng lung linh dáng hỏa lò/ Đất phúc xưa nay bao thắng
tích/ Nhọc chi tô điểm “Võng Xuyên đồ”. Nhà nghiên cứu văn hóa Hương Nao khẳng
định: “Qua bút tích khắc thơ trên động Hồ Công của Chúa Trịnh Sâm và căn cứ vào
ngày, tháng, năm ông có mặt ở đó giúp chúng ta xác định được chính xác bốn đại
tự “Thanh Kỳ Khả Ái” được khắc trên phiến đá nguyên khối, trên đường đi tới động
Hồ Công là của Chúa Trịnh Sâm.
Chúa Trịnh Sâm tuần du khắp nơi, được thưởng ngoạn nhiều thắng
cảnh nước non đất Việt, với tâm hồn thi sĩ, những cảm xúc đã được ông chép lại
hoặc cho các quân, tướng khắc tạc trên đá. Cũng với phong cách thích cảnh tiêu
giao và yêu quý quê hương, đất nước, trong lần nhà chúa có chuyến công du tới
vùng Nga Sơn, ông cũng đã có thơ đề trước cửa Thần Phù: “Đêm trăng bơi thuyền
qua Thần Phù/ Gió nhẹ triều dâng trăng sáng trôi/ Lênh đênh chiếc lá thuận dòng
xuôi/ Làn sông ngấn biếc bờ đôi phía/ Rặng núi hang xanh bóng giữa vời/ Thấp
thoáng mâm châu am cổ hiện/ Thập thình chày ngọc giọt thu rơi/ Bàn về La Viện
xưa đè sóng/ Biển cạn trời yên chuyện cũ rồi”. Bài thơ tả đêm trăng nhà chúa
bơi thuyền qua cửa Thần Phù sóng lặng, biển êm nên cảnh sắc càng lung linh, tuyệt
đẹp bởi “gió nhẹ’, “trăng sáng”, “đôi bờ sông ngấn biếc”, bằng ngôn ngữ tinh tế,
ông đã “vẽ” nên bức tranh đẹp bởi thiên nhiên hoang sơ và hữu tình. Cũng trong
dịp này, ông còn đến hang Từ Thức và đề thơ trong động: “Rời thuyền thửa hứng
viếng Từ Công/ Cửa động y nguyên khóa ánh hồng/ Xiêm ráng vách treo rờn gấm vóc/
Phượng reo đá gõ vọng cung thương/ Duyên tiên từ thuở ba sinh hẹn/ Bể khổ nay
đà mấy độ dâng/ Chớ bảo Dao Trì ngày thấm thoắt/ Chơi đây nào khác dạo Bồng
Hang”. (bản dịch Hương Nao). Người xưa phương tiện chính là thuyền bè, nhưng
không có nghĩa là không có con đường bộ nào khác ngoài sông biển.
Tuy nhiên, trong những chuyến công du nhàn tản, họ vẫn chọn đường biển cho gần nơi cần đến. Hơn thế, sông nước, núi non, hang động, cây lá, vốn là chủ thể làm nên những cảm xúc thẩm mỹ cho thi sĩ có cảm hứng sáng tác. Trong những vần thơ đó, nổi lên chủ đề chính là ngợi ca cảnh đẹp của xứ sở quê hương.
Tuy nhiên, trong những chuyến công du nhàn tản, họ vẫn chọn đường biển cho gần nơi cần đến. Hơn thế, sông nước, núi non, hang động, cây lá, vốn là chủ thể làm nên những cảm xúc thẩm mỹ cho thi sĩ có cảm hứng sáng tác. Trong những vần thơ đó, nổi lên chủ đề chính là ngợi ca cảnh đẹp của xứ sở quê hương.
Vua Lê Thánh tông từ Thăng Long về bái yết Sơn Lăng (Lam
Kinh) rồi đi thuyền rồng trên sông Mã để quay ra. Khi qua Hàm Rồng, thấy cảnh đẹp,
ông cho thuyền ngự neo lại ven bờ rồi lên động Long Quang ngắm cảnh đẹp nơi
đây. Ngài có thơ đề động Long Quang rằng: “Sườn non xanh đẹp dạ bồi hồi/ Xa ngắm
bao la cảnh đất trời/ Những tưởng lễ rồi phong Tráp Ngọc/ Nào ngờ lạc lối tới
Thiên Thai/ Mây nhàn ngập đất không người quét/ Sương núi trăm hàng chắn nắng
soi/ Sóng cuối ven rừng duyên dáng lượn/ Như mời khách quý đến thăm chơi”.
Tản Đà tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), người làng
Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Nội ngày nay) với bài thơ “Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng”
đã để lại cho đời sau một văn bản thấm đẫm tâm tình đối với cảnh đẹp của Thanh
Hóa, để hôm nay, mỗi lần đọc lên, chúng ta như thấy khung cảnh xưa vẫn hiện diện
trong đời sống hiện đại hôm nay: “Ai xui ta nhớ Hàm Rồng/ Muốn trông chẳng thấy
cho lòng khôn khuây/ Từ ta trở lại Sơn Tây/ Con đường Nam - Bắc ít ngày vãng
lai/ Sơn cầu còn đỏ chưa phai?/ Non xanh còn đối, sông dài còn sâu?/ Còn thuyền
đánh cá buông câu?/ Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?/ Lấy ai viếng cảnh bây giờ?/
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau?/ Ước sao sông cứ còn sâu,/ Non cao còn cứ giữ
màu xanh xanh,/ Khung cầu còn cứ như tranh,/ Hỏa xa cứ chạy bộ hành cứ đi,/
Xuân sang cỏ cứ xanh rì/ Thuyền ai chài lưới con chì cứ tung...” .
Học cách biểu đạt tình yêu quê hương của người xưa, các nhà
thơ hiện nay, mỗi người thể hiện một cách, nhưng đều có điểm chung là từ tình
yêu đất và người xứ Thanh mà thi cảm tràn lên ngòi bút. Trong bài thơ “Cứ về
Thanh Hóa một lần” của nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm đã đưa bạn đọc đến với từng
danh lam, thắng tích xứ Thanh thông qua những vần thơ: “Cứ về Thanh Hóa một lần/
Thì em hiểu hết người dân xứ này/ Vì sao hát lại “dô huầy”/ Vì sao nhiều lúc đò
đầy vẫn sang/ Vì sao đi cấy sáng trăng/ Vì sao hạt cát cũng vang trống đồng”.
Ngoài việc muốn giới thiệu điệu “hò sông Mã” với nhịp phách nhanh, mạnh, quyến
rũ, bạn đọc sẽ còn ngạc nhiên về một pho cổ tích về đất và người trên quê hương
xứ Thanh qua thơ Nguyễn Minh Khiêm: “Đâu cũng thần núi, thần sông/ Đâu cũng
truyền thuyết thêu trong, dệt ngoài/ Ngõ quê rung tiếng Trạng cười/ Rạ rơm ăm ắp
những lời giao duyên/ Đá mơ Từ Thức lên tiên/ Lưới chài rách cũng vớt lên gươm
thần...”.
Nhà thơ Văn Đắc khi tới đất luyện binh của Bà Triệu đã có thi
cảm với người mình yêu: “Đến đây rồi, ơi Triệu Sơn/ Hoa sim tím, có tím hơn những
mùa? Lượn vòng biếc giải núi Nưa/ Rừng xa, dốc dựng hẹn chờ người lên...”. Nhà
thơ Trịnh Anh Đạt trong bài thơ “Rau má” lại có một câu thơ mang tính khái quát
tài hoa về con người xứ Thanh mộc mạc đáng yêu: “... Vĩ nhân và các đời vua/
Cũng từ rau má ốc cua nên người...”. Nhà thơ Huy Trụ trong bài thơ Sông Mã, có
một khổ thơ ám ảnh lòng người khi nói về những khó khăn, gian khổ của mảnh đất
này: “Một tiếng gà giữa ngã ba Bông/ Dân sáu huyện cùng nghe, người sáu làng
cùng thức/ Một tiếng huầy dô xô con đò dọc/ Người trên bờ áo ướt đẫm mồ
hôi...”.
Nhạc sĩ Đồng Tâm đã viết nên hình ảnh chàng trai Thanh Hóa đã
chinh phục được người con gái phương xa bằng một bài hát tự hào, kiêu hãnh: “Em
có về làm dâu quê anh/ nơi hàng dừa xanh xanh thẳm trời quê/ Em có về làm dâu
quê anh/ nơi đồng xanh xanh ngô lúa/ Nơi Sông Mã xanh trong/ câu hò Sông Mã qua
bao nắng hè/ bao thác ghềnh với bao bến bờ....!”.
Bên cạnh những nhạc phẩm về xứ Thanh, có một bản nhạc khác biệt
và ấn tượng bởi nhịp Rốc tốc lực, âm vực mạnh, người nghe hát như đang chơi vơi
trên con thuyền hư thực giữa sóng nước Mã giang sơn thủy hữu tình: “Ai về Thanh
Hóa/ Dô tả dô tà/ Thanh Hóa anh hùng sáng ngời hò khoan/ ế dô khoan ta hò
khoan/ Miền quê Lê Lợi/ ế dô khoan ta dô khoan/ Đã lừng sử sách/ Dô tả dô tà ế
dô khoan là dô khoan/ huầy khoan/ hò khoan/.../ Càng hăng đánh giặc/ ế dô khoan
ta dô khoan/ Chứ ta càng sản xuất thắng to/ Dô tả dô tà...” .
Trong bài viết nhỏ này, không thể kể hết những tác phẩm thơ,
nhạc ngợi ca đất Thanh Kỳ Khả Ái đã ghi dấu ấn trong lòng người dân xứ Thanh và
bạn bè cả nước. Những tác phẩm trên chỉ là một trong nhiều tác phẩm của các bậc
vua, chúa, tao nhân mặc khách từng khắc đá đề thơ và các thi sĩ đã góp phần làm
nên hồn cốt của mảnh đất có trầm tích văn hóa lâu đời, địa linh nhân kiệt và
làm nên một danh xưng xứ Thanh đang ngày càng phát triển như hôm nay.
Viên Lan Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét