Đà Lạt xưa và nay
Đà Lạt ngày xưa
"Khi mới lớn lên, tôi nghe ông Chú của tôi kể lại ông và
tất cả học sinh của thành phố Ðà Lạt được chính quyền vận động đi trồng những
cây thông quanh bờ Hồ Lớn, sau này được đặt tên là Hồ Xuân Hương".
Lúc bấy giờ người Pháp đã xây đập chặn nước của dòng suối lớn
Ðà Lạt chảy từ hướng Bắc về, qua các ghềnh thác lớn nhỏ rồi đổ xuống tận sông
Ðà Rằng ở vùng Bảo Lộc, Ðịnh quán. Trong khi đó, họ cũng ngăn đập ở thượng nguồn
làm hồ nước Suối Vàng với đập Thủy Ðiện Ðan Kia bên dãy núi Bà ở phía Bắc thành
phố. Trên đường mở vòng quanh thành phố, họ đã chặn nước tạo nên hồ Than Thở và
hồ Saint Benoit, sau này được đổi tên là Chi Lăng. Xa hơn, về hướng chính Bắc
là hồ nước nhân tạo ở ấp Ða Thiện với dòng nước chảy về Thác Cam Ly. Riêng với
Hồ lớn, họ đã phải dùng cốt mìn để khoét sâu thêm trước khi làm đập ngăn dòng
nước trên đoạn đường từ hướng Nhà Thờ Con Gà qua dốc lên phố chính thương mại
được mang tên là Khu Hòa Bình. Chiếc cầu trên đập nước được gọi là cầu Ông Ðạo.
Sau này, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tức cảnh qua cầu nên thơ với tà áo trắng học
sinh tung bay viết nên bản nhạc "Có một Dòng Sông". Khi ghé thăm Ðà Lạt,
nhạc sĩ Lam Phương cũng viết bản nhạc "Thành Phố Buồn" góp mặt với một
số bài ca của các nhạc sĩ khác như "Chiều Vàng", "Xứ Hoa
Ðào", "Ðà Lạt sương mờ" v.v...
Hồ Xuân Hương và nhà Thủy tạ (1960)
Dòng suối từ cầu Ông Ðạo chảy xuôi theo thung lũng bên ấp Ánh
Sáng mới được dựng lên sau năm 1955, mở rộng như một dòng sông nhỏ qua cầu Bá Hộ
Chúc bằng gỗ, đến ấp nhỏ với vườn rau cải xanh mướt quanh năm rồi qua cầu Nhà
Ðèn, khu "Abattoire" chuyên mổ lợn giết bò, qua xóm Lò Gạch rồi đổ về
Thác Cam Ly với một ấp người Thượng gốc sắc tộc Kơ Ho với nhà sàn tập thể ở đầu
nguồn. Với trợ cấp của một chủ nông trại người Pháp tên Farraut, còn chìm trong
cảnh núi rừng hoang dã và nguồn nước chảy rất mạnh qua ghềnh đá nhấp nhô. Từ
đây, người ta còn nghe tiếng nai bép xép và tiếng hổ gầm. Từ Thác đi về hướng
Tây chừng hai trăm thước dẫn lên ngọn núi cao với rừng thông dày đặc xanh thẫm
là lăng mộ của ông Nguyễn Hữu Hào, cha ruột của Nam Phương Hoàng Hậu, Chánh phi
của Hoàng Ðế Bảo Ðại, cuối đời nhà Nguyễn. Chính phủ thuộc địa Pháp đã trao lại
thành phố Ðà Lạt do Bác Sĩ người Pháp, tên Yersin khám phá và lập nên cho Nam
Triều nên ông Vua Bảo Ðại đã lấy làm "Hoàng Triều Cương Thổ" dành cho
Hoàng thân quốc thích và tất nhiên là người Pháp cai trị.
Thác Cam Ly (1925 - 1930)
Ngược lên hướng Tây Bắc từ Thác nước là Phi trường Cam Ly, với
đồi núi trùng điệp vây quanh, nhưng phi trường rất ít được sử dụng vì thời tiết
mây mù và núi cao vây quanh. Từ đây, đi ngược về thành phố, trên một ngọn núi lớn
với rừng thông già là khu trường nổi tiếng của các Bà Sơ là "Couvent des
Oiseaux" với các nữ sinh xinh đẹp như mộng, trong bộ đồng phục váy đầm xếp
nếp màu xanh Ðại dương từ những gia đình khá giả ở khắp miền Nam gửi đến nội
trú. Ở phía Nam là ấp Du Sinh gồm những người Bắc di cư vào Nam trốn chạy Cộng
Sản hồi năm 1954 lập nghiệp sinh sống tại đây. Qua một núi thấp với những ngôi
biệt thự sang trọng nhìn về hướng thung lũng xóm Lò Gạch sẽ đến khu trường nội
trú Tiểu học "Petit Lycée" với cơ sở khang trang nằm ẩn khuất trong rừng
cây thơ mộng. Về hướng Ðông, qua nhà máy Ðiện thường được dân chúng gọi là Nhà
Ðèn, qua Cầu Ðúc rồi leo dốc Duy Tân gần như thẳng đứng dẫn lên phố Hòa Bình. Nếu
tiếp tục đi về hướng Ðông Nam sẽ qua những ngôi biệt thự lộng lẫy, kiêu kỳ hơn
nữa trên con đường mang tên Bác Sĩ Yersin với khu Tòa Án, rẽ vào Trung Tâm Thí
Nghiệm Chủng Ngừa của Cố Bác Sĩ Yersin, vào Biệt Ðiện số 1 của Vua Bảo Ðại, gần
bên rừng ái ân với cảnh trí thật thơ mộng và vắng vẻ.
Cầu Ông Ðạo (1957)
Lúc còn học ở trường Tiểu Học Ðà Lạt, là trường Tiểu học duy
nhất lúc ấy dạy tiếng Việt, vào năm 1951, tôi được đề cử cùng những học sinh
khác vào Dinh Vua Bảo Ðại ở Biệt Ðiện số 1 để nhận quà Tết do chính tay ông Bảo
Ðại trao cho. Dinh cơ nguy nga và tráng lệ như cảnh phim Vua Chúa của Tây
Phương thời đó. Tôi cũng có được món đồ chơi duy nhất từ bé đến lớn là con gà
con bằng nhựa với máy móc làm nó nhẩy từng bước trên hai chân. Ở ngã ba rẽ
vào Biệt Ðiện số 1 là cơ sở hành chánh của chính quyền, sau này có khi được lấy
làm Tiểu Khu cho đến lúc dời lên cơ sở của Ðại Biểu Cao Nguyên Trung Phần do
các ông Tôn Thất Hối và Nguyễn Văn Ðãi đảm trách đến ngày cuối cùng.
Nhà thờ Con Gà (1948)
Ngay sau lưng đường Yersin là thung lũng sâu hẹp của ấp Xuân
An, Dốc Nhà Bò, Suối Cát dẫn về Suối Tía xuống tận Núi Voi dưới chân đào Prenn.
Một bên là trường Dòng Domaine de Marie tức là địa phận Ðức Bà, một bên là sân
vận động nhỏ rồi đến ngôi Nhà thờ Con Gà với tháp chuông cao có hình con gà
trên cùng. Kế đến là khách sạn Du Parc với Tháp cao làm Ðài Phát Thanh,
Ngân Khố, Bưu Ðiện và khách sạn Palace nằm trên đồi nhìn xuống hồ nước Xuân
Hương với đường bậc cấp thoai thoải, rộng lớn đưa xuống đường vòng quanh Hồ với
Nhà Thủy Tạ sơn trắng đứng trên doi đất chồm ra mặt nước. Một bên đường là Câu
Lạc Bộ Thể Thao với sân quần vợt. Ở lưng đồi, có một khu biệt thự trước năm
1959 dành làm trường Quốc Gia Hành Chánh với khóa học đầu tiên.
Tòa Ðại biểu Chính Phủ Cao Nguyên Trung Phần là một dinh thự
bề thế nằm ngay trên đỉnh đồi nhìn về phía Hồ nước với đường trải nhựa vòng
cung và hàng rào sơn trắng uy nghi. Về hướng Ðông là ngã tư đầu dốc Prenn đổ dốc
vào thành phố. Bên kia là ngọn núi dành cho Biệt Ðiện số 2 của Vua Bảo Ðại. Khoảng
năm 1959, mới có cây xăng Kim Cúc được xây dựng ngay góc ngã tư này. Từ đây, đổ
xuống dốc là hai dãy biệt thự đối mặt kéo dài xuống tận cuối dốc với khách sạn
và nhà hàng Pháp tên “Au sans soucis”. Khi ngược lên là mấy ngôi biệt thự nằm lẻ
trong rừng thuộc tài sản của một người Pháp ở Ðà Lạt lâu đời tên là Farraut.
Ngay tại đây, từ trước năm 1975, chính quyền đã phá núi làm bến xe cho các loại
xe đò, xe chở hàng để giảm bớt lưu lượng trong thành phố. Quen thuộc nhất là
Nghiệp đoàn xe đò Minh Trung với loại xe hiệu Peugeot của Pháp được biến cải để
chở cả 9, 10 người khách.
Khách sạn Du Parc (1948)
Vào năm 52, gia đình tôi tạm trú ở căn biệt thự số 17 đầu dốc
Preen, bên kia đường là nhà của Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Liên Quân lúc ấy là
Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu và tư dinh của Chỉ huy trưởng Ngự Lâm Quân là Thiếu
Tá Trần Bá. Lúc ấy, đám con của láng giềng tôi đều có xe đưa rước đi học, chỉ
có anh em tôi phải lội bộ đến trường. Hơn nữa, họ đâu có thèm học trường Việt.
Người giàu sang phải học "trường Pháp".
Ðường đèo dốc Preen dài ngoằn ngoèo cả 10 cây số. Ðường hẹp với
một bên là bờ núi đá và một bên là dốc sâu thăm thẳm. Lúc còn đi Hướng Ðạo ở Ðà
Lạt, bọn trẻ nhỏ chúng tôi từng nhiều lần đổ dốc bằng xe đạp khi đi cắm trại. Ở
khoảng cây số thứ 4 là thác nước Ða Tăng La, lúc xưa gọi theo tiếng Kơ Ho là
Dantania, với dốc đá cheo leo khuất trong rừng sâu dày đặc. Vừa hết đèo dốc là
thác nước Preen ngay bên trái với màn nước chảy chồm qua mỏm đá trong cảnh rừng
núi đầy thơ mộng.
Thoạt tiên, khi người Pháp mở đường lên Ðà Lạt, trên Quốc Lộ
20 sau này, từ Bảo Lộc, Di Linh đi lên họ đã mở một đường đèo ngắn hơn nhưng
nguy hiểm hơn song song với đèo hiện hữu xuyên lên khu trại Hầm. Ngay ngọn đèo
đã bỏ hoang ấy, với đường rải đá loang lổ, có một ngôi Chùa Sư Nữ với những cây
mít lâu năm cằn cỗi và vườn mận trái ngọt.
Câu lạc bộ thể thao
Từ ngã bao đầu dốc Preen mới, qua Biệt Ðiện sẽ đến khúc Ðại lộ
Trần Hưng Ðạo rộng gấp ba bốn lần những con đường trên Ðà Lạt, với những ngôi
biệt thự hai bên đường sang trọng dẫn đến khu Villa Alliance của các nhà Truyền
Ðạo Tin Lành ở ngay đầu dốc Preen cũ, liền với ấp trại Hầm nổi tiếng với những
khu vườn Mận ngọt lịm chớm vàng ươm hoặc màu tím sẫm đen. Từ đây dẫn xuống Biệt
Ðiện số 3 nằm khuất trong rừng núi sâu là nơi Vua Bảo Ðại làm chỗ đi săn bắn. Ðầu
dốc đường vào trại Hầm, có một biệt thự làm Night Club, mãi đến tập niên 60 mới
dẹp bỏ. Từ đây đi về hướng Ðông là đường đi Phan Rang với đèo qua Trại Mát, Trạm
Hành, Ðơn Dương, đèo Ngoạn Mục, Sông Pha. Bên trái, trước khi đến khúc quanh
nhìn xuống hồ Than thở là một biệt thự lúc xưa làm chỗ "Mãi Dâm" công
khai cho lính Viễn chinh Pháp (Borden Militaire). Bên phải là hai trụ sở của Hướng
Ðạo Pháp để lại. Trại Mát là một làng nhỏ bên đường với ngôi nhà thờ Cao Ðài
khá lớn và vườn cây cà phê, rau cải. Bên trong xa có ghềnh và thác nước nhỏ rất
ngoạn mục nhưng chưa được khai thác thương mại và xóm dân gần đa số di cư từ Quảng
Nam, Quảng Ngãi vào. Từ Trạm Hành phải đổ con dốc 4, 5 cây số mới đến Ðơn Dương
với Hồ nước Ðập Ða Nhim do người Nhật xây dựng thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Song song với đường đi Trại Mát, nối dài đường vòng hồ Xuân
Hương là con đường nằm ngang dưới chân biệt thự và phòng mạch của Bác sĩ
Sohier, đã sống gần trọn đời tại nơi này, đưa vào Nha Ðịa Dư Quốc Gia và Trường
Trung Học "Grand Lycée Yersin". Trường sở bề thế chiếm hẳn một chỏm
núi rộng cả ngàn mét vuông với các dãy nhà hai tầng làm phòng ốc cho lớp học,
nhà nội trú, phòng thể dục với sân rộng lớn hơn một sân bóng đá và một tháp
chuông vươn lên khỏi chòm rừng thông, ở hướng Ðông, nhìn xuống hồ nước. Ðây là
một cơ sở giáo dục lớn do Chính phủ Bảo hộ Thuộc địa Pháp xây dựng được đặt thống
thuộc trực tiếp với Bộ Giáo Dục của nước Pháp, với chương trình học, thi cử được
sự công nhận của Mẫu Quốc với Chương trình học, Giáo sư và sách vở đến từ Pháp.
Con em của dân Pháp thuộc địa và công chức Pháp đã gửi lên đây ở nội trú theo học
cùng với các gia đình người Việt giàu có hoặc làm việc cho Pháp. Ngoài ra, còn
có một số ít người Thượng của các sắc tộc trên Cao Nguyên được tuyển chọn cho
vào học miễn phí trong kế hoạch lâu dài cho cuộc thống trị. Một số người Thượng
gốc Kơ Ho, Ra Ðê còn được đưa qua Pháp du học để trở về phục vụ cho chính phủ
thuộc địa Pháp. Ðây cũng là mầm mống đã nảy sinh ra Mặt Trận FULRO ở Cao Nguyên
của người Thượng với sự tiếp tay của Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ sau này. Nơi này
cũng thu hút nhiều nhà trí thức của Pháp muốn thay đổi không khí tìm đến dưới
hình thức dạy học như Thi sĩ Jean O'Neil còn lăng mộ nằm sau lưng Nhà Thờ của địa
phận Ðức Bà "Domaine de Marie" ở ấp số 4, Ða Nghĩa, trên một thế đất
giữa thung lũng nhỏ với dòng nước bao quanh rất nên thơ.
Ga xe lửa Đà Lạt (1948)
Từ ngã ba vào Nha Ðịa Dư, đường vòng qua Ga Xe Lửa tọa lạc
trên một mảnh đất khá rộng san bằng một chỏm núi với ấp Hồng Lạc nằm dọc theo
khe nước. Ấp này mới thành hình từ năm 1951 với khu trại gia binh dành cho Ngự
Lâm Quân đồn trú bảo vệ Hoàng Triều Cường Thổ. Ðường xe lửa chạy song song với
đường bộ đi về Trại Mát đến Ðơn Dương. Ở những chặng đường đèo, xe lửa được giữ
lại bằng móc sắt ở giữa đường với thêm một đầu máy đẩy lúc lên dốc và hãm lại
lúc xuống dốc. Sau này đường xe lửa ngưng chạy vì an ninh đã trở thành trụ sở của
Hàng Không Air Việt Nam để lập thủ tục đưa hành khách bằng xe ca về tận Phi trường
Liên Khương (cách 20 cây số về Nam). Từ Ga xe lửa qua ấp Cô Giang, Cô Bắc là
nơi có một biệt thự nghỉ mát cho Không Quân trước năm 75. Với nhiều biệt thự
theo kiểu của Anh, Ý đến tận ngã rẽ vào trường Võ Bị Ðà Lạt, trước khi vào khu
phố Chi Lăng và hồ Than Thở ở phía Ðông, Trường Võ Bị được chính phủ Bảo Hộ
Pháp thành lập để đào tạo cán bộ cho Quân đội thuộc địa. Bên cạnh là bệnh viện
quân đội "Catroux" làm nơi chữa trị và dưỡng thương cho Sĩ quan Pháp
từ các mặt trận chuyển về.
Máy bay Air Việt Nam tại phi trường Liên Khương
Bệnh viện với nhiều căn nhà trệt và một nhà lầu hai tầng bao
quanh một sân rộng như sân bóng tròn, nằm trên một chỏm núi san bằng sâu vào
bên trong, nối liền với cơ sở của trường Võ bị Liên Quân cũ. Bên ngoài là cơ
ngơi của các Y sĩ, Sĩ quan phục vụ với gia đình. Vào năm 1960, trường Võ Bị
Liên Quân được cải tổ thành trường Võ Bị Quốc Gia dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, với
cơ sở bề thế, khang trang mới được xây dựng trên ngọn đồi 1515 san bằng bên cạnh
trang trại của Farraut và gần hồ Than Thở. Với Chính phủ Quốc Gia và chương
trình Ðại Học 4 năm lồng trong việc huấn luyện quân sự lấy theo khuôn mẫu của
trường Võ Bị West Point bên Mỹ, đã thu hút nhiều thế hệ thanh niên ở miền Nam từ
năm 60 đến 75.
Với 4 khóa học cùng một lúc trong trường, vào ngày nghỉ được
ra phố cuối tuần, các sinh viên Sĩ Quan đã tô điểm thêm cho vẻ sang trọng của
Thành phố với các bộ quân phục mùa Hè và mùa Ðông thẳng nếp chỉnh tề, đẹp mắt.
Bên trái của Trường Võ Bị nằm trên một ngọn Ðồi Cù, bên hồ là trung Tâm Nguyên
Tử Lực Cuộc được xây dựng vào năm 1960, đã cung cấp một số giáo sư du học từ Mỹ
về cho trường Võ Bị và Trường Ðại Học Chính trị Kinh Doanh, Văn Khoa và Sư Phạm
ở Ðà Lạt.
Trường Yersin
Cơ sở của Khu Ðại Học Ðà Lạt ở ấp Ða Thiện vốn là trường ốc nội
trú của Thiếu Sinh Quân Pháp sau năm 1955 được chuyển về Vũng Tàu. Cũng như cơ
sở của Trường Trung Học Trần Hưng Ðạo bên hồ nước nhân tạo bên ấp Ða Thiện cũng
từ cơ ngơi của Thiếu Sinh Quân giao lại từ năm 1952 với tên trường Bảo Long là
Hoàng Tử của Vua Bảo Ðại. Nằm trên sân Cù là nền đất đỏ san bằng ngọn núi thấp
là trường Nữ trung Học Bùi Thị Xuân nguyên thủy là trường Trung Học Phương Mai
tên của Công chúa con Vua Bảo Ðại, rồi được đổi thành Quang Trung khi Thủ Tướng
Ngô Ðình Diệm lên chấp chánh. Sau cùng, tất cả nam sinh được dồn về Trung học
Trần Hưng Ðạo và cơ sở này dành cho Nữ sinh với tên trường là Bùi Thị Xuân với
đồng phục áo dài màu xanh, quần trắng. Ðối diện với trường Bùi Thị Xuân là trường
Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị được lập năm 1961 đã cung ứng Sĩ quan CTCT cho
các đơn vị quân đội. Ðây nguyên là cơ sở của trường Huấn luyện Hiến Binh của
Quân Ðội Liên Hiệp Pháp, về sau giải thể nhập chung vào ngành Quân cảnh của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Toàn cảnh khu Hòa Bình và chợ Đà Lạt
Dưới thung lũng hẹp của ấp Ða Thiện gồm đa số người Việt di
cư từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào, chuyên trồng trái dâu tây. Kế đến là ngọn núi nghĩa
trang thường được gọi là Mả Thánh được lập từ ngày có thành phố Ðà Lạt với mộ
bia chồng chất từ dưới chân núi lên đến đỉnh phía Ðông là khu mộ Tử Sĩ của những
thanh niên yêu nước chống Pháp đã hi sinh. Dưới chân núi phía Tây, theo đường
lên núi Bà là làng Ða Nghĩa với ấp số 4, ấp số 6 gọi theo mốc cây số đường, lên
đến Ðăng Kia, Suối Vàng với ngôi chùa Linh Sơn (1) lâu đời. Ở Ðan Kia, có một
cao ốc Tu viện Thiên Chúa đồ sộ nổi lên giữa rừng núi của Dòng Ða
Minh.
Cao sừng sững về phía Bắc là dãy núi Bà với hai chỏm núi gần
như chìm trong sương mù quanh năm. Hàng năm, các khóa Võ Bị đã lần lượt vượt đồi
núi chinh phục đỉnh Lâm Viên như một truyền thống trước khi chính thức trở
thành Sinh viên Sĩ quan.
Từ ấp số 4 về khu phố Hòa Bình có hai đường gần như song
song. Ðường trên các ngọn núi nối liền chạy ngang trước mặt khu tu viện
"Domaine de Marie" với ngôi nhà thờ Ðức Bà uy nghi trên đỉnh núi với
bậc cấp rộng lớn, xoai xoải đưa lên cửa chính với các cơ sở nhà tu khang trang
vây quanh dành cho các Nữ tu Dòng Thánh Mẫu Marie với cơ sở trường tiểu học đạo
Thiên Chúa. Nằm khiêm nhường bên dưới, bên đường Hai Bà Trưng là trường Tiểu học
Ða Nghĩa, bắt đầu bằng một ngôi nhà dành cho ba lớp sơ cấp từ năm 1945 đến 1959
mới phát triển thành trường Tiểu Học, tiếp đến, trên đường Hai Bà Trưng bên
dòng suối nhỏ chảy về Cam Ly là Cư xá công chức của Thị xã như Bưu Ðiện, Công
chánh v.v… với các vườn rau cải dọc theo dòng nước tiếp liền qua đường Phan
Ðình Phùng khởi đầu một khu phố buốn bán sầm uất. Gần nhà thờ Ðức Bà tọa lạc
khu Nhà Thương dành cho quần chúng với sự chăm sóc nhân từ của các Sơ từ Tu Viện
Domaine de Marie đến làm việc từ thiện bác ái.
Hồ Xuân Hương và cầu Ông Đạo
Nhà Thương Ðà Lạt dành cho quần chúng nghèo và người Thượng từ
các Buôn về. Dãy nhà lầu hai tầng rộng rãi cách khu nhà Thương chừng vài trăm
mét về phía Nam là Bệnh viện Ðà Lạt với các Bác Sĩ, Y Tá người Pháp dành cho giới
giàu sang. Về phía Tây, gần đấy là cơ sở nhà Ðoan đổ dốc nhỏ qua các biệt thự với
vườn cây Mận dày đặc đưa lên ngọn núi với các cơ sở của Cảnh Sát và Công An đổ
về miệt thác Cam Ly. Dưới chân núi Nhà Ðoan là xóm Lò Gạch, sau này đổi tên là
đường Hoàng Diệu tiếp giáp đến khu nhà sàn định cư của một số người Kơ Ho làm
việc cho Trang trại nhà Farraut. Các Bà Sơ dòng Tu cũng có một thời mở một tiệm
ăn ở đầu dốc gần nhà Ðoan để kinh tài với phong cách rất đặc biệt thu hút nhiều
khách hàng từ xa đến.
Đường Duy Tân (nhìn ra phía rạp Hòa Bình)
Từ đường Phan Ðình Phùng, ở khoảng giữa, có ngả rẽ lên dốc với
chùa Linh Sơn (2) trên lưng núi với cơ ngơi khá bề thế và trang trí đẹp mắt, hòa
nhã nối tiếp qua con đường Võ Tánh đưa xuống hồ Ðội Có, là hồ nhỏ chứa nước
dùng cho cả thành phố với nhà máy lọc nước. Từ đây đi ngược lên núi là đường độc
đạo đưa lên Dinh Thị Trưởng, đường Hàm nghi dẫn vào phố chợ, trước được người
Pháp bắt chước Tàu đặt tên là đường An Nam với ngôi nhà thờ Tin Lành nhỏ gọn ở
lưng chừng núi và rạp chiếu bóng nhỏ xíu nằm chênh vênh bên dốc đứng nhìn xuống
đường Phan Ðình Phùng. Từ đây đi vào vào Bến xe cũ ngay dưới chân Dinh Thị Trưởng
và Khu phố Chợ với Nhà Lồng Chợ ở giữa và tiêm buôn bán, nhà hàng bao quanh gồm
một số đáng kể của người Tàu đã định cư lâu đời theo dân Pháp thuộc địa, nổi tiếng
với những nhà hàng ăn sang trọng như Au Chic Sanghai, tiệm bánh mì Vĩnh Chấn,
tiệm thuốc Bắc, Tạp hóa xen lẫn một ít cơ sở buôn bán của người Việt vốn dòng
dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn. Các Ông thì đều là Tôn Thất và các Bà, các Cô đều là
Tôn Nữ. Bà chủ tiệm vàng lâu đời Bùi Duy Chước vốn là Công Tằng Tôn Nữ. Ðấy là
thời kỳ Hoàng Triều Cương Thổ.
Chợ Đà Lạt (1968)
Ðến năm 54, những tiệm phở Bắc nổi lên với Phở Bằng ở đường
Hàm Nghi, Phở Tín bên hông chợ và Càphê Tùng với cà phê Ban Mê Thuột và nhạc
trào lưu mới quyện trong khói thuốc lá mịt mù. Vài năm sau có gia đình lưu lạc
từ Nam Vang lên đây mở tiệm hủ tiếu Nam Vang lừng danh. Gần rạp chiếu bóng Ngọc
Hiệp, đầu hẻm từ Phan đình Phùng đi qua đường Hai Bà Trưng là quán Mì Quảng với
hương vị đặc biệt nổi danh lại do một ông người Bắc vào Nam từ những năm 1940 đứng
nấu. Ngay góc đường đầu dốc Duy Tân có tiệm làm bánh mì Vĩnh Chấn nóng giòn từ
sáng sớm cho đến khuya. Sau này, vào khoảng năm 59, có người Do Thái "nhận
nơi này làm quê hương" mở lò bánh mì ngon hơn hết. Về khuya, khi các tiệm
tạp hóa đóng cửa, quanh khu chợ Hòa Bình và đường nhỏ trước mặt khách sạn Thủy
Tiên đã mở ra các gánh bắp nướng, cháo gà, bún riêu, bún bò… cho khách đi chơi
về đêm. Con đường nhỏ này chạy ngang cổng trường Tiểu học Ðà Lạt dẫn vòng theo
triền núi qua Thư viện cũ, sân Quần Vợt, Cư Xá Sinh Viên Ðại Học Nữ và các biệt
thự lên đến đỉnh núi với giao thông hào và hố chiến đấu còn sót lại từ thời quân
Nhật chiếm đóng. Với một trang trại nhỏ của Farraut do mấy người Thượng ở trông
coi.
Tiệm bánh Wĩnh Chấn (đầu đường Duy Tân)
Ðầu dốc khu Hòa Bình, con dốc ngắn đổ xuống cầu ông Ðạo với
hai hàng cây Mai Ðà Lạt nở hoa màu hồng tươi thắm rộ hai bên lề đường. Con đường
phía trên qua dãy “Kiosque” nhỏ, đến rạp Ngọc Lan, với xe Phở Bắc nổi tiếng món
phụ hành ngâm giấm và cải xà lách răng cưa, vòng ấp Ánh Sáng xuống cầu Bá Hộ
Chúc. Năm 1958, Ấp này được lập cho dân nghèo với những căn nhà vách ván mái
tôn. Ðầu ấp là Bến xe đò cũ sau này ngôi chợ mới được xây cất xong. Chợ mới này
là công trình của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khởi công vào năm 1958 với khúc Ðại
Lộ ngắn nguyên là hẻm núi giữa khu phố Hòa Bình và chân núi xoải dài từ Dinh Thị
Trưởng ra đến hồ Xuân Hương. Trên núi là Nhà Giam Chính của Ðà Lạt, với một số
biệt thự nhìn xuống hồ như biệt thự của Bảy Viễn, Luật sư Dương Trung Tín… Kiến
trúc ngôi chợ hai tầng dựa lưng vào vách núi với bậc thang rộng rất ngoạn mục dẫn
lên Khu Hòa Bình với Phòng Trà “La Tulipe Rouge” vang bóng một thời với các Ca
sĩ Mỹ Thể và Khánh Ly thuở còn chưa nổi tiếng, cùng một vài khách sạn và nhà
Kiosque làm tiệm ăn, bán hàng Len, vật Kỷ niệm. Ðường vòng hồ Xuân Hương được
tô điểm thêm, năm 1959 với vườn Bích Câu trồng đủ các loại hoa đẹp, rực rỡ
quanh năm thu hút khách du lịch từ phương xa tới với bầy ngựa núi làm cảnh.
Từ hồ Xuân Hương đi lên trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân là
đường Võ Tánh với xóm nhà nhỏ và vườn cây đào, cây mận. Nơi này là chỗ sinh trưởng
của Nhạc sĩ Lê Uyên với những khúc tình ca khác lạ với dòng nhạc đương thời làm
rung động nhiều con tim của tuổi trẻ đang bước vào cuộc chiến ngày càng khốc liệt.
Anh đã gia nhập nhóm Tao Ðàn. Ðài Phát Thanh Saigon với giọng ngâm thơ truyền cảm
và nức nở cùng với giọng ngâm Nữ Hồ Ðiệp.
Trường nữ trung học Bùi Thị Xuân
Về người Ðà Lạt, ngoài người sắc tộc Ko Ho nguyên thủy, dưới
triều đại Hoàng Triều Cương Thổ đời Vua Bảo Ðại, dân cư ai cũng có dính dáng đến
Hoàng Tộc nhà Nguyễn di dân vào từ Huế.
Một thành phần khác nữa là người Pháp thuộc địa và những kẻ
làm việc cho họ hầu như đếu mang quốc tịch Pháp. Trước năm 60, thành phố có khá
nhiều trẻ lai Pháp ở các trường dòng Ðạo Thiên Chúa như Adran, Domaine de
Marie. Sau năm 60, dưới thời hòa bình của Tổng Thống Diệm, việc trồng trọt rau
cải được người Pháp mang giống sang từ lâu như bắp cải, sà lách, cà rốt v.v… được
phát triển mạnh với từng đoàn xe vận tải chở về bán tại Saigon, Nha Trang, một
số khá lớn người từ vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi nghèo khó đã đến định cư và tạo
thành một khối nhân lực đáng kể. Với sức chịu đựng lâu bền, cần cù, họ đã chăm
chỉ khai thác tối đa những thung lũng, hẻm núi để tạo nên thành những thửa vườn
rau tươi tốt quanh thành phố từ Trại Mát, ấp Thái Phiên, cây số 6, Lò Gạch, Cam
Ly Thượng đến Suối Cát, Suối Tía.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt ở miền Nam từ năm 1965 đến
1975, lớp thanh niên sinh trưởng ở Ðà Lạt đã vào quân đội đi chiến đấu và hi
sinh khá nhiều ở các mặt trận. Phần lớn, vốn thích mặc đẹp và oai hùng, họ đã
gia nhập vào Không Quân và Hải Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhắc đến Ðà Lạt, cũng không thể thiếu những địa danh ở ngoại
ô. Dưới chân đèo Ðơng Dương là đập nước Ða Nhim. Bên dưới dốc Preen, ở cây số
17 là đường vào La Ba, Ðức Trọng với thảo nguyên rộng mênh mông trên cao và hồ
nước trong xanh nổi tiếng với một loại khoai lang mật ngọt như mật đường được xẻ
phơi khô và chuối trái nhỏ vỏ mỏng, quả thơm trái lớn.
Ngày xưa, tôi từng có mộng về hưu về đây mở trang trại trồng
trọt với thú săn bắn về đêm. Vài cây số về phía Nam là Phi trường Liên Khàng về
sau được đổi gọi là Liên Khương với thác nước rộng lớn đổ xuống khu làng Tùng
Nghĩa của các sắc dân miền Bắc di cư vào năm 1954 lập nghiệp sinh sống. Thác nước
hùng vĩ và ngoạn mục hơn nằm xa trên Quốc Lộ 20 về phía Nam độ 30 cây số là
thác Gougah và Pongour nằm sâu vào bên trong phía Tây Quốc Lộ. Về phía Ðông Bắc
của thành phố, bên ấp Thái Phiên là con đường đất bỏ hoang do người Pháp thiết
lập để nối từ Ðà Lạt về Nha Trang. Về sau, có một Buôn người Thượng định cư ở
đây gọi là Ða Rơ Hoa.
Một số không ít đã gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia tại Ðà Lạt
và đã có hai Thủ Khoa. Chiến tranh chỉ nhớm chân ngoài rìa thành phố và một vài
biểu tượng từ các Phi Hành đoàn Trực thăng của Không Quân ghé lại với chiến phục
và súng đạn. Ngoại trừ, một vài lần vào năm Mậu Thân 68, một lực lượng yếu kém
của Việt Cộng xâm nhập từ Ðan Kia, Suối Vàng về đến rạp Chiếu bóng trên khu phố
Hòa Bình đã bị quân đội ở địa phương đánh đuổi ngay ngày hôm sau. Còn lại là những
vụ pháo kích nhỏ, lẻ tẻ vào một vài nơi đồn trú của Quân Ðội. Dù vậy, chiến
tranh cũng không để lại dấu vết nào đáng kể trên thành phố thơ mộng, êm đềm
này.
Có nhiều nghi vấn về ngôi chùa Linh Sơn (3) đồ xộ, tráng lệ
đã được xây cất lên sau 1975 ở vùng Suối Tía, từ đầu dốc Preen đi vào là nơi vốn
là địa bàn hoạt động của Du kích Việt Cộng ngày xưa và trong lúc dân chúng
nghèo đói cực khổ của một quốc gia được Liên Hiệp Quốc xếp hạng gần chót của
các nước nghèo trên thế giới.
Sau năm 1945, trong cao điểm của thời kỳ chống Pháp với phong
trào Việt Minh do Cộng Sản chủ mưu, một số thanh niên yêu nước đã hăng hái theo
vào chiến khu rồi sau đó, ở thế kẹt, phải ra tận ngoài Bắc trong chiến dịch Tập
Kết vào năm 1954. Một số lớn họ đã trở về Ðà Lạt sau năm 1975. Những người này
với tinh thần ôn hòa đã cố giữ quê hương của họ tránh giai đoạn tàn sát của chủ
nghĩa Cộng Sản cho đến thời kỳ được gọi là "Ðổi Mới". Nhưng từ
sau năm 1975 cho đến 79, 80, một số rất lớn những người có máu mặt, tiền của,
trí thức đã chạy trốn khỏi Ðà Lạt. Ðặc biệt là những người có liên hệ đến chính
phủ Pháp vốn có quan hệ ngoại giao tốt đẹp với Hànội đã lần lượt được "Hồi
Cư" về Pháp, để lại đằng sau những biệt thự rộng lớn, nguy nga, tráng lệ
không có người ở, chăm sóc và cửa tiệm đóng cửa.
Năm 1984, khi được thả về từ Trại Tù Cải Tạo, tôi đã trở về
thăm gia đình và lòng tràn đầy chua xót khi thấy quê hương của mình đã mất. Bây
giờ chỉ còn người dân Ðà Lạt lam lũ, tất bật. Những người ở lại là những người
sống bám theo những mảnh vườn rau cải.
Ngoài ra, hơn 20 ngàn người từ miền Bắc được chính quyền mới
đưa vào Nam với chính sách di dân khống chế Cao Nguyên Miền Trung đã phá rừng ở
quanh khu lân cận thành phố khiến cho các dòng nước bị cạn, và thời tiết cũng
không còn mát mẻ như xưa. Con đường Phan Ðình Phùng buôn bán thuở xưa, nay đã
trở nên đông đúc, chật hẹp và ồn ào náo nhiệt như một khu phố của thành phố
SàiGòn ngày trước. Với mức dân số tăng vọt sau chiến tranh, thành phố đã phát
triển vô tổ chức, không kế hoạch đưa đến tình trạng bát nháo, từ khu vực Phan
Chu Trinh, Nhà Ðèn đến Chi Lăng ăn vào tận Hồ Than Thở.
Cơ sở của Trường Võ Bị nay tiêu điều, xơ xác như bị bỏ hoang.
Các dòng nước bị ngăn chặn và làm cho các hồ Than Thở, Xuân Hương muốn cạn khô
khiến vẻ đẹp thiên nhiên không còn nữa. Các loại xe máy nổ cũng tăng vọt làm
cho không khí yên tĩnh của Ðà Lạt ngày xưa biến mất. Ðến thời kỳ đổi mới, người
Nhật, người Tầu Ðài Loan, Hồng Kông đã đổ tiền vào khai thác như tu sửa khách sạn
La Palace, làm sân Golf, xây khách sạn nghỉ mát trên vùng đồi núi bên hồ nước
Suối Vàng.
Ðà Lạt bỗng chốc biến dạng như một thiếu phụ đã luống tuổi vội
vàng trang điểm, thay đổi xiêm y. Một giai cấp mới được thành hình vừa “Rởm” lại
vừa "lai căng". Tây không ra Tây, Tầu không ra Tầu. Ðà Lạt diễm kiều
của ngày xưa nay đã mất. Thay vào đấy là cô gái Xã Hội Chủ Nghĩa đi giầy cao
gót, đồng phục công nhân và mái tóc cắt ngắn đã được nhuộm màu vàng, đỏ với đôi
mắt láo liên và đôi môi cong cớn. Ngọn núi nghĩa trang của Ðà Lạt có từ những
năm 30 đến nay đang bị đào xới và san bằng cho chương trình kế hoạch của người
tư bản Nhật. Ở đấy, có cả một nhóm mộ ngày xưa được gọi là Mộ Tử Sĩ, ngày nay
không còn ai công nhận để bị dẹp bỏ cho con đường đổi mới.
Những người cầm quyền như lưỡng lự đứng giữa ngã tư đường
không biết nên đi theo hướng nào. Một thành phố Du lịch và Nghỉ mát có mâu thuẫn
với Xã hội Chủ nghĩa không? Bây giờ dân số Ðà Lạt đã gấp ba lần trước năm 1975,
chưa rõ phải sống trên nền móng kinh tế nào?
Toàn cảnh thành phố Đà Lạt "bê tông hóa" ngày
nay
Cuộc khai thác du lịch như nửa mùa, quê kệch ở hồ Xuân Hương,
Thác Cam Ly, Thác Đa Tan La, Preen, Suối Tía, Rừng Ái Ân, Biệt Ðiện vua Bảo Ðại
chỉ làm cho bộ mặt Ðà Lạt càng thêm diêm dúa. Ðà Lạt ngày nay càng xói mòn vì
mưa lở và khí hậu ngày càng nóng bức vì trơ trụi mất rừng cây thông bạt ngàn
bao quanh.
Trần Ngọc Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét