Hồi 37: Cảnh Điêu Tàn
Hai trấn Sơn Nam Hạ, Sơn Nam Thượng, Phạm Thái đi qua đều yên
tĩnh. Ở đó tuy bọn Lê thần cũng bất phục và ngấm ngầm phản đối triều đình Tây
Sơn, nhưng không lập thành đảng, thành hội như ở hai trấn Hải Dương và Kinh Bắc.
Vì thế, sự canh phòng đỡ nghiêm ngặt và ở các bến đò, sự hỏi
tín bài cũng không đến nỗi ráo riết như trên miền Bắc: quý hồ những người qua
sông đưa trình là đủ rồi, viên tuần giang không mấy khi bắt cạp chỉ cùng là hỏi
vặn lai lịch cặn kẽ.
Nhưng bắt đầu từ sông Hồng Hà thì sự qua lại đã khó khăn và
Phạm Thái đã phải phòng bị cẩn thận. Tuy kẻ xuất gia được miễn tín bài, Phạm
Thái cũng cố tìm lánh những đãi lộ và không qua Bấc Thành. Chàng đi ngược mãi
lên bến đò Trèm mới thuê thuyền sang ngang.
Dòng dã bốn hôm đường trường, Phạm Thái về tới hạt Từ Sơn.
Chàng toan đi thẳng đến chùa Tiêu Sơn, vì chàng nóng lòng muốn gặp mặt Quang Ngọc
ngay.
Nhưng khi xuống ngựa vào một cái quán nhỏ bên đường uống bát
nước trè nóng giải khát, chàng được nghe bà hàng thuật câu truyện "ma hiện
hồn tại chùa Tiêu Sơn," nên sợ hãi không dám tiến nữa.
Chàng cố giữ nét mặt thản nhiên. Một người bộ hành nhai trầu
bỏm bẻm vừa hỏi người kể truyện:
- Thế bây giờ lính còn canh giữ chùa ấy không?
- Không... Nhưng ý chừng ông ở vùng Nam mới lên, hay ông...
Bà hàng toan nói đùa: "Hay ông là thám tử của triều
đình" - thời ấy, nhất ở hạt Kinh Bắc, bọn thám tử của nhà Tây Sơn đông
nhan nhản - nhưng ngừng ngay lại, lo lắng nhìn mọi người.
- Không, tôi ở Thăng Long mới tới.
Phạm Thái vờ phá lên cười, hỏi:
- Ngày nay làm gì còn Thăng Long?
Bấy giờ người hỏi chuyện mới kịp để ý đến nhà sư:
- Ấy tôi quen mồm rồi đấy, vả gọi là Bắc thành tôi cứ e lẫn với
thành Kinh Bắc. Sư ông người vùng này?
- Không, tôi người vùng Nam.
Người đàn bà bán hàng nhanh nhẩu và muốn nói hết những điều
mình biết, tuy đã đinh ninh rằng nhất định giữ gìn mồm miệng:
- Bạch sư ông, sư ông tu hành ở Nam thì sao không cứ ở Nam,
lên đây làm gì? Ở đây các nhà sư bị bắt bớ, đòi hỏi khổ sở lắm... Rõ đã xuất
gia tu hành mà chẳng được an thân - Đòi hỏi ở đâu? Mà đòi hỏi vê việc gì vậy,
bà hàng?
- Ấy chỉ câu truyện ma chùa Tiêu Sơn mà lôi thôi thế đấy.
Quan phủ ngài không tin có ma, ngài nhất định cho rằng những con ma ấy chính là
các nhà sư tu ở chùa Tiêu Sơn. Nam vô a di đà Phật! Vì ngài thấy từ ngày có ma
hiện hồn thì sư cụ, sư ông chùa Tiêu Sơn biến mất...
Phạm Thái hoảng hốt:
- Biến mất?
- Vâng, bạch sư ông, biến mất. Mà nam vo a di đà Phật, chùa
Tiêu Sơn làm gì nên tội nên vạ.
Bà hàng ngừng lại, đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh. Người Bắc
thành mỉm cươl:
- Bà cứ kể, chúng tôi đây không phải thám tử, thám tiếc gì
đâu.
Bà hàng còn ngần ngừ, nhưng cái tính bép xép hay nói những điều
mình biết bao giờ cũng thắng nổi lòng lo sợ.
- Bạch sư ông, chẳng hay chùa Tiêu Sơn đã làm nên tội vạ gì,
mà bị quan quân đem binh lính về triệt hạ. Lũy tre bị chặt nhẵn nhụi, tường thời
bị phá, hào thời bị lấp Đến những cây tháp đựng xương các sư tổ cũng bị phá đổ.
Người ta đồn rằng quan phủ làm thế để trừ tiệt giống ma quỷ, yêu quái. Nhưng trừ
ma tà thì sao không đón thầy bùa, thầy phù thủy, mà lại phá chùa như thế, phải
không bạch sư ông? Có nhẽ phép vua phép nước cũng linh thiêng lắm, sư ông ạ, từ
hôm phá phách như thế, giống yêu quái bỏ đi hẳn. Không dám bén mảng tới chùa nữa.
Bà hàng hạ giọng se sẽ nói tiếp:
- Mà người ta lại đồn rằng chùa Tiêu Sơn là sào huyệt của một
đảng cướp ghê gớm lắm.
Phạm Thái phá lên cười!
- Nam vô a di đà Phật!
- Vâng, tôi thấy bác cai Đán cũng nói thế. Hình nhưnhững cây
Tháp trong chùa toàn là tháp giả để chúa vàng bạc, châu báu cướp được trong dân
gian.
Nhưng điều ấy tôi không tin. Kỳ dâng sao năm ngoái, tôi về
Tiêu Sơn lễ Phật có gặp sư cụ Phổ Tĩnh. Lạy trời lạy tổ, ngài phúc đức, hiền
lành lắm. Khi nào ngài lại Phạm Thái ngắt lời:
- Vậy bây giờ ngài ở đâu? Chắc ngài sợ hãi đi trốn tránh, đi
lánh nạn.
Phạm Thái không giữ nổi một tiếng thở dài. Người Bắc thành
quay lại hỏi chàng:
- Hẳn thiền sư có biết sư cụ chùa Tiêu Sơn?
Phạm Thái hơi luống cuống:
- Không... bần tăng... biết tiếng... mà thôi... Nhưng rồi ra
sao, bà hàng?
- Bạch sư ông, tôi cũng chỉ biết có thể. Sư ông muốn biết rõ
thêm thì xin lại điếm xem giấy yết thị.
- Điếm ở đâu thế?
- Cách đây một thôi ngắn. Bắt đầu từ đấy cho tới sông Cầu, cứ
một quãng lãi có điếm canh.
Người Bắc thành nghe nói vội vàng trả tiền trầu nước, rồi đứng
dậy rủ Phạm Thái:
- Hay ta cùng đến xem đi?
Phạm Thái ngần ngại. Bà hàng cũng gạt:
- Sư ông chẳng nên lại làm gì. Tôi thấy nhiều nhà sư bị đưa đến
phủ tra hỏi rầy rà lắm.
Bà ta chép miệng nói tiếp:
- Vua với quan trên biết đấy là đâu, chẳng qua họ cứ bày vẽ
ra để hạch sách... chứ đời thủa nào lại đi bắt bớ kẻ tu hành như thế.
Người Bắc thành cũng bão Phạm Thái:
- Bà ta nói thế mà phải! Ngay, gian chưa biết đâu, hãy bị tra
hỏi lôi thôi đã.
Mà tra hỏi với tra tấn thường hay đi liền nhau, sư ông nên giữ
gìn thì vẫn hơn.
Chàng ta lấy làm tự phụ rằng tìm được một ý hay vuốt ria cười
ha hả ra dáng thích chí lắm:
- Vậy sư ông ngồi đây một lát nhé?
- Vâng, cũng được. Ngựa của bần tăng, tôn ông cứ lấy mà dùng.
- Ngựa của thiền sư đấy à? Ồ! Thế thì càng hay lắm.
Chàng nhẩy phắt lên yên, ra roi phóng nước đại. Bà hàng nhìn
Phạm Thái hỏi:
- Sư ông quen biết ông ta?
- Không.
- Vậy sao ông lại cho người ta mượn ngựa? Nhỡ người ta không
trở lại thì sao? Thời loạn lạc trộm cướp như rươi, sao sư ông quá tin người thế?
- Kẻ tu hành không dám ngờ ai hết.
Thực ra Phạm Thái liếc mắt ngắm nghía người bộ hành, biết
chàng ta là bực phong lưu công tử, y phục chải chuốt và chững chạc, cái khăn
nhiễu tam giang, cái áo lương La-cả, cái quần vóc trắng ngà làm tôn hẳn vẻ mặt
tuấn tú và giáng điệu đài các của một văn nhân lanh lợi chốn cố đô.
Vả Phạm Thái cho rằng con ngựa kia chàng đã dùng được việc rồi
thì dẫu người ta có lấy mất cũng chẳng hề gì. Cưỡi nó có lẽ một thiền sư càng
làm cho người ta ngờ vực.
Cái ý nghĩ ngờ vực khiến chàng hơi chột dạ. Chàng thì thầm:
"Ư, mà nhỡ nó dùng ngựa của mình đi báo phủ..." Chàng toan rời hàng
nước rẽ vào một làng gần đó trốn tránh thì đã nghe tiếng ngựa phi. Chàng thò cổ
ra nhìn, lo lắng. Nhưng người Bắc thành đã kìm cương, cười nói:
- Con ngựa của thiền sư tốt quá. Ý chừng thiền sư cũng thích
chơi ngựa.
- Nam vô a di đà Phật! Bần tăng có thích một thứ gì đâu. Con
ngựa ấy nguyên một ngưòi ở xẽ Thanh Nê đã bố thí cho kẻ tu hành.
Người kia vuốt ve con ngựa.
- Tốt lắm. Con ngựa này thiệt giống ngựa Lạng Sơn: chân nhỏ, bờm
dầy, ức nở. Thực là ngựa trận, một ngày chạy trăm dậm không biết mỏi.
Phạm Thái hỏi tới bản chỉ thị, thì người kia thò tay vào bọc
rút ra một tờ giấy rộng và cuộn tròn, đầy những dấu ấn kiềm đỏ chói:
- Đây, thiền sư đọc.
Phạm Thái đỡ lấy xem thì đó là một tờ yết thị bằng chữ nôm
như sau này:
"Chùa Tiêu Sơn là một nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn.
Quan trên đã khám phá ra đươc. Hiện nay tên đầu đảng cướp là Phạm Thái đội đạo
hiệu Phổ T nh thiền sư cùng tên tướng của nó là Lê Báo đội hiệu Phổ Mịch còn lẩn
lút trốn tránh. Hai tên ấy, dân vùng Tiêu Sơn nhiều người biết mặt. Vậy yết thị
cho ai nấy rõ. Kẻ nào tàng nặc hai tên ấy tức có đồng phạm. Kẻ nào biết hai tên
ấy ở đâu mà không báo quan ngay để chúng trốn thoát bị phạt ba mươi trượng. Còn
kẻ nào bắt đươc hai tên ấy đem nộp, dù sống dù chết, đươc triều đình thưởng tiền
từ một nghìn quan trở lên, mà triều đình lại còn ban phẩm hàm cho nữa.
Nay yết thị
Từ Sơn phủ phân tri
Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứsáu
Tháng mười ngày... "
Dưới có bản tranh phác họa diện mạo hai nhà sư. Nét bút vụng
về và bức vẽ không giống làm cho Phạm Thái phải bật cười.
Người Bắc thành cũng cười, hỏi:
- Thiền sư đọc xong rồi?
- Vâng, nhưng sao tiên sinh lại dám bóc tờ yết thị?
- Ấy, tôi thấy trong điếm chẳng có một ai, liền bóc lấy cho
chóng việc, chứ chép thì bao giờ xong, nhất tờ yết thị lại viết bằng chữ nôm.
Mắt người ấy vẫn không rời con ngựa.
- Đẹp thực!
- Ngài thích?
- Còn phải hỏi!
- Vậy bần tăng để lại hầu ngài đấy.
Người kia vui vẻ đáp:
- Thực nhé? Thôi thế này. Sáng hôm nay tôi cũng cười ngựa
sang đây. Khi đến quán Yên Viên, nó giở chứng không chị phi nữa, ra roi thế nào
cũng làm thinh Tôi tức mình để lại cho người lái buôn ngựa, lấy có bốn mươi
quan. Vậy bốn mươi quan ấy tôi xin nộp thiền sư.
Phạm Thái đáp:
- Bao nhiêu cũng được.
- Thế thì còn gì bằng. Vậy xin thiền sư cùng đi Yên viên
chơi. Rồi sáng mai ta cùng về Thăng Long... Ta cùng đi Bắc thành một thể thiền
sư tính sao?
Phạm Thái vui mừng nhận lời ngay, vì chàng đương chưa biết đi
đâu.
Đã mấy hôm nay trong khắp các phố Bắc thành bày ra một cảnh rất
náo nhiệt.
Vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp sửa bắt đầu nên hàng nghìn sĩ tử
Bắc Hà vác lều chiếu từ các trấn xa gần kéo nhau về, lăm le tên chiếm bảng vàng
rồng mây gặp hội.
Ở các cửa ô, từng bọn thí sinh áo lương khăn nhiễu, đầu đội
nón sơn, chân dận dép da trâu, xúm xít đọc tờ chiếu chỉ dán trên thành tường. Tờ
chiếu ấy viết bằng chữ nôm như sau này:
Sự kén chọn nhân tài rất có quan hệ đến sự thịnh hưng của một
nước.
Từ khi Trẫm lên nối ngôi trời trị dân, không một lúc nào Trẫm
sao nhãng điều ấy Trẫm mong mỏi tìm bậc hiền sĩgiúp nước như người làm ruộng
mong mỏi trởi mưa giữa thời hạn hán.
Vì thế theo gương Tiên đế, nay Trẫm mở kỳ thi cống sĩ để các
sĩ tử trong nước có dịp cùng nhau thi thố tài năng.
Trẫm lại nghĩ một nơi đế đô không đủ chỗ cho sĩ tử khắp nước
đến hội họp. Vả những kẻ ngoài Bắc hà phải lặn lội vào hnh đô, e đường xá xa
xôi, nhất là đối với những ngưòi nghèo khó, phải lo kiếm tiền lộ phí để đi thi.
Bởi những lẽ trên, Trâm đặt kỳ thi công sĩ ở ba nơi, một là
hnh đô, một là Quy Nhơn, một là Bắc thành. Như thế người hạt nào đươc thi ở hạt
nấy, thực là giản tiện. Rồi kẻ nào đậu cống sĩ sang năm vào Kinh đô dự kỳ thi
bác sĩ.
Ở trường thi Bắc thành việc kén chọn nhân tài, Trẫm giao cho
đại tự đồ Nguyễn Văn Danh cùng với Thị Trung Ngự Sử Ngô Thì Nhậm đươc tuỳ nghi.
Khâm thử Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ sáu.
Bên cạnh tờ chiếu chỉ lại có một tờ yết thị cũng bằng chữ nôm
của hội đồng chấm thi như dưới:
Thừa lệnh Hoàng đé, quan chánh chủ khảo yết thị cho các thi
sinh biết rằng:
Có ba kỳ thi:
Kỳ đệ nhất: một bài giải nghĩa cùng bàn luận một câu tục ngữ
hay ca dao viết bằng chữ nôm.
Kỳ đễ nhị: một bài luận Nam sử cũng bằng chữ nôm.
Kỳ đễ tam: một bài thơ chữ nôm, hoặc chữ Hán, một bàiphú chữ
nôm hoặc chữ Hán.
Đúng giờ Dần, các thí sinh đã phải có mặt ở trường th i, ai nấy
phải mang theo lều chiếu cùng là bút mực giấy vở.
Kẻ nào gian trá sẽ bị tội nặng.
Nay yết thị
Quan chánh chủ khảo:
Ngô Thi Trung Nhự sử đại thần
Ở cửa ô Ưu nghĩa, khi đọc xong tờ chiếu chỉ và tờ yết thị, một
bọn học trò đủ các tuổi, từ mười tám đến ngoài năm mươi, đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ
hoặc kinh ngạc, hoặc chế riễu. Một người đã đứng tuổi nói:
- Năm xưa, đức Tiến đế mở khoa thi. Tôi phải lặn lội vào tận
Phú Xuân, thế mà tôi còn bỏ không thi, nữa là năm nay ở ngay Bắc thành.
Một thầy khoá đùa bỡn hỏi:
- Sao vậy?
- Tôi học đạo thánh hiền, dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh,
lại thèm làm những bài nôm na mách qué hay sao?
Dút lời dông đồ vút giấy bút xuống đất, giận dữ quay đi thẳng,
khiến mọi người phá lên cười.
Rồi họ xôn xao bàn tán. Kẻ phàn nàn chưa họ Nam Sử, kẻ lo ngại
quên mặt chữ Nôm. Lại có kẻ hỏi:
- Không biết làm phú nôm thì làm sao?
Một người đáp:
- Khó gì! lại hàng sách mua lấy một quyển phú nôm, văn sách
nôm của cụ Le Quý Đôn mà xem. Nhân tiện học lại chữ nôm một thể.
Một người nữa mỉa mai:
- Thi với cử! Chán ngắt! Văn nôm thì là phải nặng mùi, tờ yết
thị dán ở cưa ô Ưu Nghĩa, phố hàng Mắm thực là đắc nghi.
Một thí sinh có tuổi vừa nhìn trước nhìn sau, vừa bảo người
kia:
- Liệu giữ mồm miệng!
Rồi, từng tốp kéo đi các ngả.
Một bọn năm người rủ nhau ra chơi đền Ngọc Sơn. Nhưng vừa qua
cầu Sầm Công và rẽ sang phố hàng Bạc, các thầy khoá gặp một thiếu nữ gương mặt
sáng sủa đứng ở hè phố dương mắt nhìn và mủm mỉm cười tình. Một người trong bọn
bảo anh em:
- Nghe nói con gái, Bắc thành ghê gớm lắm kia đấy! Chớ có
trêu vào. Nên lảng xa ra là thượng sách.
Nhưng người thiếu nữ nào có để cho các thầy lảng xa! Nàng tiến
đến gần hỏi:
- Thưa các thầy, em coi như các thầy đương đi tìm nhà trọ?
- Có thế. Chừng cô là chủ hàng cơm?
- Thưa các thầy không. Em người Kinh Bắc, nhân gặp kỳ thi, về
đây bán hàng trầu nước.
Một thí sinh trẻ tuổi đã bạo, phá lên cười ha hả:
- Chừng để kén chồng, để tuyển phu?
- Thưa không ạ, em chỉ bán hàng để kiếm ăn. Em nghèo lắm,
thuê một gian xép ở ỉru quán kia. Chủ tửu quán bảo hễ em đón được năm người
khách trọ thì họ cho em ở nhờ không lấy tiền thuê. Vì thế em gặp năm thầy em mừng
quá. Vậy xin năm thầy thương em nghèo mà đến đấy ở trọ giùm.
- Đấy là đâu?
- Thưa năm thầy, quán Bạch Phượng ở phố Cầu Gỗ.
Năm người đưa mắt nhìn nhau. Rồi người trẻ tuổi nói:
- Được, cô cứ về trước đi Lát nữa chúng tôi đến.
- Tiện đường, em xin đưa các thầy về một thể.
- Nhưng lều, chiếu, tráp, nải, chúng tôi gửi cả đàng kia.
- Các thầy không ngại, để ở đâu rồi em xin đến lấy sau.
Chẳng đừng được, năm thầy khoá phải theo cô kia rẽ sang phố
hàng Đào rồi đến phố Cầu Gỗ.
Tửu quán Bạch Phượng dựng ngay cạnh cái lạch nhỏ thông liền hồ
Hoàn Kiếm với cái hồ nhỏ hàng Bạc. Trên lạch cái cầu hỗ bắt ngang, (vì thế mà
người ta đặt tên là Cầu gỗ). Đó là một nếp nhà gạch khá rộng, có gác, tuy gác ấy
thấp và không có cửa sổ trông ra phía đường, chỉ giống như cái mái chồng của một
kiểu nhà hai mái, dốc sây thành bậc.
Tửu quán ấy nguyên trước là nhà một người buôn lợn, khá giàu.
Một hôm vợ lẽ chủ nhân đứng cửa ngắm phố. Bỗng hai viên vệ binh qua đó thấy
nàng có chút nhan sắc, bèn thả lời trêu ghẹo. Cô vợ lẽ vốn người quê trấn Hải
Dương mới theo chồng đến ở Bắc thành, nên chưa rõ oai oác các ông vệ binh xứ
Nghệ. Nàng giở hết giọng chua ngoa tục bẩn ra đáp lại lời ngọt ngào của hai thầy
vệ. Người chồng nghe tiếng ầm ĩ ở cửa chạy ra, thấy hai ông lính thì giật mình
kinh hãi, nhưng đã quá muộn rồi. Chiều hôm ấy, gần một trăm vệ binh kéo đến nhà
người buôn lợn phá phách, bắt hết lợn làm thịt. May mà vợ chồng con cái chủ nhà
biết trước đã đi trốn tránh. Rồi sau họ dọn luôn đi ở nơi khác.
Nhưng nào bọn vệ binh đã thôi đâu. Chiều chiều họ còn kéo
nhau đi lượn qua cái nhà bỏ hoang để thị uy. Kẻ cười khoái chí, kẻ thét bô bô:
- Đã biết tay chúng ông chưa?
Một người khác lại tiếp:
- Phải biết! Ai bảo trêu vào lính nà vua! Trêu vào lính quan
tổng trấn!
Hôm đầu cũng có người láng giềng thương tình ra xin các thầy
vệ cho gia đình bác buôn lợn. Nhưng người khéo hứng việc ấy bị một quả đấm nên
thân. Từ đó không ai dám hé môi nói nữa lời, mặc cho nếp nhà kia bị khóa trái
không người ở.
Vì ai dại mà đến thuê một cái nhà nguy hiểm như thế, nhất là
khắp phố Cầu gỗ đều đã nghe rõ lời dọa nạt của các ông mãnh, lính hầu quan tổng
trấn:
"Đứa nào có giỏi cứ đến đây mà ở!"
Hai tháng ròng, nhà người buôn lợn vẫn đóng cửa im ỉm. Bỗng một
hôm có người khách lạ đến thuê. Hai bên hàng phố khúc khích cười khi nghe người
ấy hỏi thăm xem chủ nhà ở đâu. Họ thi nhau thuật lại những truyện chẳng lành đã
xảy ra, rồi khuyên người kia chớ nên trêu vào lính quan trấn thủ. Nhưng người
khách lạ không tỏ vẻ mặt cảm động mảy may, hỏi đi hỏi lại chổ ở của chủ nhà để
đến thuê, và nói nếu chủ nhà bán rẻ thì mua dứt.
Thấy vậy một người láng giềng nguyên có họ với bác buôn lợn mừng
rỡ, đứng ra nhận bán cho người khác lạ lấy nghìn quan tiền, rồi làm văn tự liền
lấy chữ ký của chủ nhà. Người khách chừng là một tay đại phú, vì trả ngay một
lúc năm mươi nén bạc, mà cũng chẳng cần phải có hộ trưởng ký nhận cùng áp triện.
Ngay mấy hôm sau nhà ngưòi buôn lợn đã trở nên một hàng cơm,
ngoài cửa treo một giải cờ dài nhuộm đỏ có viết bốn chữ lớn "Bạch Phượng tửu
quán".
Từ hôm khánh thành tửu quán, suốt phố người nào cũng ngó tới
cái hà ghê gớm kia, mà bọn lính quan tổng trấn đã ra lệnh không cho ai được
phép ở. Ngó tới để xem cuộc xung đột dữ dội đến bậc nào.
Quả nhiên cách đó vài ngày, năm người vệ binh đi qua phố Cầu
gỗ. Thấy cái nhà bị cấm đã nghiễm nhiên trở nên một tửu quán, họ thì thầm bảo
nhau:
- Thằng cha nào mà già gan thế?
- Ta thử vào xem sao.
Năm cậu vệ vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì chủ quán ở trong
nhà đã bước vội ra chắp tay lễ phép chào, rồi vồn vã hỏi:
- Thưa các thầy, có phải các thầy là vệ binh trong dinh quan
tổng trấn không?
Một ngưòi lính xừng xộ đáp:
- Phải, anh muốn nói vệ binh của quan tổng trấn điều gì?
Chủ quán lại vái dài một cái nữa, rồi mừng rỡ cuống quít:
- Ồ, thế thì may cho chúng tôi quá, chúng tôi đương sắp sửa
vào trong dinh mời các thầy ra chứng kiến cho bữa tiệc khánh thành tửu quán,
thì các thầy lại quá bộ đến thăm. Thực là hân hạnh cho chúng tôi quá. Chúng tôi
chẳng nói giấu gì các thầy, trước kia chúng tôi là vệ binh trong hai năm ở dinh
quan trấn thử Lạng Sơn.
Chỗ đồng nghiệp...
Rồi trong khi mấy người lính còn ngơ ngác nhìn nhau chưa biết
xử trí ra sao, thì chủ quán đã cất tiếng gọi:
- Em Hai!
Có tiếng dạ trong trẻo, rồi một người con gái rất xinh xắn,
nhanh nhẹn, y phục gọn ghẽ, từ nhà trong chạy vội ra.
- Thưa anh, anh bảo gì em?
Mấy cậu vệ trố mắt nhìn, tấm tắc khen thầm.
- Có các thầy cai ở trong dinh quan tổng trấn ra chơi, vậy em
sắp rượu mời các thầy xơi. Dứt lời, chủ quán chạy xuống bếp bảo làm nhắm, để một
mình cô em gái đứng tiếp chuyện với các cậu vệ. Giữ thể diện với một cô thiếu nữ
cực kỳ xinh đẹp, các cậu cảm tạ và nhất định từ chối không nhận lời dự tiệc một
cách quá đường đột.
Nhưng các cậu làm thân ngay với chủ quán, người đã được diệm
phúc có một cô em gái rất dễ thương. Và chẳng bao lâu, hết thẩy bọn vệ binh
trong dinh quan tổng trấn, từ đội, cai cho đến lính, không còn ai thèm nhớ đến
câu chuyện phá phách và thù oán nữa.
Thế là Bạch Phượng tửu quán bắt đầu vào thời kỳ thịnh đạt
ngay. Nay gặp kỳ thi cống sĩ, khách trọ đến càng đông, đông như trong động
Hương Tích gặp ngày chảy hội vậy.
Hồi 39: Cô Hàng Trầu Nước
- Thưa năm thầy đến nơi rồi.
Một ông trẻ tuổi nhất và láu lỉnh nhất trong bọn, mỉm một nụ
cười tình đáp lại:
- Thưa cô em, chúng tôi cũng biết là đến nơi rồi, vì chúng
tôi đã trông thấy lá cờ đỏ "Bạch Phượng tửu quán" đương phe phất đón
chào chúng tôi kia.
Người thiếu nữ quay lại vẻ mặt rất ngây thơ?
- Ồ! Thầy cũng biết chữ?
Cả năm thầy khoá cùng cất tiếng cười ha hả:
- Cô em ngộ nghĩnh tệ? Đi thi cống sĩ mà lại không biết chữ!
- Ồ nhỉ! Nhưng em cứ tưởng là thi chữ nôm kia chứ?
- Cả chữ Hán nữa.
- Cả chữ Hán nữa? Thì ra Nôm Hán toàn tài!
Mọi người lại phá lên cười. Một thí sinh thì thầm bảo bạn:
- Con bé hay hay nhỉ?
Con bé hay hay đã đưa các thầy vào hàng và cất tiếng gọi:
- Ông quán ơi, có khác trọ.
Tức thì chạy ra một ngưòi cao lớn, lực lưỡng, vận quần áo
nâu, chân đi giầy da trâu, đầu mọc lởm chởm chít chéo cái khăn lụa màu hoa
tiên. Người ấy hớn hở:
- Kính chào chư hiền. Xin mời chư hiền vào nghỉ trong nhà.
Quán chúng tôi được tiếp chư hiền thực là hân hạnh, hân hạnh cho quán chúng tôi
lắm.
Thiếu nữ bảo chủ quán:
- Tôi đón hộ ông đủ số năm ngài khách trọ rồi đấy. Vậy tiền
thuê cửa hàng trầu nước, ông liệu châm chước cho.
Nhưng không để ý đến thiếu nữ, chủ quán cuống quít, săn sóc
chung quanh năm người khách quý vì cứ liếc trông diện mạo sáng sủa và y phục chững
chạc, chủ quán cũng đoán biết rằng bọn kia là con nhà thế phiệt:
- Thưa chư tôn ông, chư tôn ông chừng người Kinh Bắc?
Thật ra, chủ quán rất thông minh, thoạt nghe mấ mẩu truyện của
năm thầy khóa đã biết các thầy vùng bể, như vờ hỏi chệch đi, làm ra mình ngớ ngẩn
thực thà không lưu tâm đến một việc gì hết. ở thời loạn, ở thời vua tôi không
thực bụng yêu nhau, thì sự ngờ nghệch ngây thơ là một nết rất tốt, vì ít ra nó
cũng tránh cho mình được sự ngờ vực của bọn thám tử. Phải, biết đâu trong năm
thầy lại không có một thầy là thân nhân của quan tổng trấn Võ Văn Dũng. Khắp Bắc
thành còn nao núng về câu truyện xử tử một người học trò, vì người ấy trong lúc
ngà ngà hơi men đã đọc cho bạn nghe bài thơ cảm khoái, có giọng mỉa mai bọn tôi
triều đình Tây Sơn là một bầy con nít, năm cha, ba mẹ. Việc ấy chắc chủ quán
chưa quên, nên nay gặp mấy ông khóa trẻ tuổi kia, chàng giả vờ đóng vai đần độn.
Nhưng một người trong bọn nghe câu hỏi thẳng thắn trả lời ngay:
- Không, chúng tôi sinh trưởng ở vùng Sơn Nam hạ cả. Tôi người
Xuân Trường.
- Thưa chư tôn, có ai người phủ Kiến Xương không?
- Có, tôi, Người vừa trả lời tức là thầy trẻ tuổi đã có chiều
muốn lơi lả với cô hàng trầu nước.
- Vậy chắc tôn ông có biết tiếng quan Thanh Xuyên hầu?
Chủ quán hơi cuống:
- À! Tôi biết tiếng... vì ngài là trấn thủ Lạng Sơn.
Rồi lảng sang chuyện khác, chàng cất tiếng gọi:
- Bớ tửu bảo?
Mấy thầy khóa khúc khích bấm nhau, thì thầm:
- Chà! Lão quán này có lẽ là một tay văn sĩ chăng? Gọi người
hầu rượu là tửu bảo, tửu biếc cẩn thận.
Nghe gọi, một người trẻ tuổi chạy ra. Gương mặt chàng sáng sủa,
điệu bộ chàng nhanh nhẹn, khiến ai thoạt trông cũng thấy chàng khác bọn hầu hạ
trong các tửu quán xưa nay:
- Dạ, bác truyền con làm việc gì?
- Anh đi sắp rượu ngay hầu năm ông cống xơi nhé.
Một người khách cười:
- Chúng tôi đã thi đâu mà ông đã vội tôn chúng tôi lên cống
sĩ, bác sĩ?
- Thưa chư tôn, chư tôn đã thi thế nào cũng đậu. Trước sau có
khác gì?
Co^ hàng trầu nước quay lại nhìn các thí sinh và mỉm cười rất
có duyên:
- Xin mời chư vị hãy lại xơi chén nước chè nóng cho ấm bụng
đã.
Một thầy khóa gật, cười tình đáp lại:
- Phải đấy, chư tôn huynh ạ. Chúng ta chẳng nên để cô hàng
mong đợi. Phải không, ông quán?
Chủ quán cười nịnh:
- Vâng. Nghe đâu cô hàng cũng là một nữ thi sĩ ở vùng Kinh Bắc
mới tới kia đấy. Có thể hầu chuyện văn thơ chư tôn được.
Cô hàng chau mày:
- Ông cứ chế riễu làm gì thế? Chúng tôi nữ nhi nan hóa dám
đâu học thói múa dìu qua mắt thợ.
Khách văn nhân đưa mắt nhìn nhau, có ý gờm gờm, thì cô hàng lại
nói tiếp:
- Thưa chư quý vị, ban nãy chư quý vị nói gửi lều chiếu cùng
hành lý ở đâu để em xin đi lấy về.
- Thôi chả dám phiền cô.
Chủ quán đứng lên đỡ lời:
- Để tôi sai người đi ngay. Xin chư tôn cho vài chữ. Vậy ở
đâu ạ?
Một thí sinh đáp:
- Ở nhà ông cử Lan, phố... à cửa ô Ưu Nghĩa.
Cô hàng thấy ông đồ tránh cái tên phố hàng Mắm thì quay đi mủm
mỉm cười.
Còn chủ quán vô tình nói luôn:
- À, ông cử Lan ở phố hàng Mắm, tôi biết. Vậy xin tôn ông cho
cánh thiếp, tôi bảo người nhà đi ngay.
Trong khi các thầy khoá ngồi ở phản hàng nước viết thiếp, thì
chủ quán mang đến một quyển sổ lớn mà rằng:
- Chúng tôi có một điều muốn thưa cùng chư tôn. ít lâu nay vì
có quân gian phi lẩn quất trong thành làm điều phi pháp, nên đối với việc tuần
phòng, quan tổng trấn rất nghiêm nhặt. Ngài có ra lệnh rằng các tửu quán đều phải
có một bạ nhật ký để khách viễn phương đến trọ khai tên, tuổi, quê quán vào đấy...
Chúng tôi cũng biết làm như thế là phạm đến danh dự của chư tôn, nhưng chư tôn
cũng lượng xét cho, nếu chúng tôi không tuân thượng lệnh thì tất phải tội với
triều đình...
Thấy chủ quán nói năng lễ phép, một người vội ngắt lời:
- Có gì mà phạm tới danh dự chúng tôi được. Giữ trật từ ở một
nơi đô hội rộng rãi, đông đúc như Bắc thành thì cố nhiên phải cẩn mật.
Vừa nói vừa đỡ lấy quyển bạ để viết. Tên tuổi năm người là:
Nguyễn Thanh, hai mươi ba tuổi, Nguyễn Ban, hai mươi mốt tuổi,
hai anh em, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường; Đỗ đắc Thắng hai mươi hai
tuổi, Đỗ đắc Tiến, hai mươi tuổi, cũng hai anh em, người làng La Ngạn, phủ
Nghĩa Hưng. Còn người thứ năm là Trịnh Nhị, hai mươi mốt tuổi, người xã Thanh
Nê, phủ Kiến Xương.
Xong việc sổ sách, chủ quán xin thiếp đi lấy hành lý, rồi
kính cẩn vái chào, để năm nhà văn ngồi lại mà lả lơi trêu gẹo cô hàng trầu nước.
Trịnh Nhị con nhà giàu sang, vốn đã thạo khoa tán gái, nhập cuộc ngay bằng một
câu khoe khoang với cô hàng:
- Cụ lớn tôi cứ bắt tôi phải đưa vài ba tên tiểu đồng đi cắp
tráp, xách điếu theo hầu, nhưng tôi ưa giản dị, nên chỉ đem có một đưá vác liều
chiếu. Vả đi đến đâu là nhà ở đấy, phải không cô hàng?
Cô hàng mỉm cười:
- Vâng tôn ông dạy rất phải.
Trịnh Nhị thích chí cười hé hé, nói tiếp:
- Lúc đã vừa ý thì lọ là phải có kẻ hầu, người hạ, thêm bận
chân!
- Vậy anh người nhà của tôn ông ý chừng ở đằng cửa ô Ưu
nghĩa?
- Phải, nó nhận được thiếp của tôi thế nào cũng theo bác chủ
quán, mang hành lý lại đây Đằng ấy là chỗ bà con. Nhưng tôi đã nói, đối với nam
nhi, đối với thi nhân mặc khách như anh em chúng tôi, thì mình ở đâu là nhà
mình đó, phải khống quý nương? Như gian hàng nhỏ của cô nương đây tuy hẹp,
nhưng lúc chúng tôi thích thì tức là lâu đài nguy nga của chúng tôi đó. Vì
khách làng văn như chúng tôi, sự nguy nga không ở cửa cao, nhà rộng, mà chỉ ở một
chén rượn nồng, một câu thơ hay, một lời nói có duyên, một bông hoa thơm hé nở.
Vừa nói chàng vừa liếc cô hàng một cách rất tình tứ, khiến bốn
người bạn phải lấy làm khó chịu, vì họ chỉ sợ sẽ mắc lỡm với cô hàng có cặp mắt
long lanh, sắc sảo và cái miệng luôn luôn nở một nụ cười bí mật.
Quả họ đoán không sai: cô hàng rót năm chén nước chè mạn sen
thơm ngát đặt trong cái khay khảm, rồi bưng lại sập mà nói rằng:
- Chả mấy khi tệ điếm lại được chu hiền chiếu minh, thực đại
hạnh, đại hạnh.
Nay nhân hàng vừa mở, vậy tiện nữ xinh Trịnh công tử ra ân
ban cho một đôi câu đối treo cửa.
Trịnh Nhị vui sướng:
- Sao quý nương biết tên tôi, mà lại gọi tôi là công tử?
- Dạ, ban nãy tiện nữ có trộm nhìn cánh thiếp của công tử.
Nguyễn Thanh vốn biết sức học kém cỏi của Trịnh Nhị và sợ lỡ
chàng giở hết cái dốt của chàng ra, thì thực cả bọn bị xấy lây với cô hàng, nên
đỡ lời ngay:
- Làm câu đối là một việc rất tầm thường quý nương chẳng cần
phiền đến tài cao của Trịnh đại huynh xin để tôi cáng đáng.
Ở hai cái cột có treo sẳn đôi liễn con phượng chưa viết chữ.
Cô hàng bắc ghế lấy xuống mà nói rằng:
- Thưa chư tôn, ban nãy Trịnh công tử đã làm xong một vế rồi,
chỉ còn một vế nữa thôi.
Trịnh Nhị hoảng hốt:
- Xong một vế? Tôi làm xong một vế rồi?
- Vâng, vế ấy tiến nữ đã ghi vào mảnh giấy, đây xin trình chư
tôn.
ĐỖ đắc Thắng đỡ lấy tờ giấy hao tiên của cô hàng trong có
hàng chữ thật tốt:
"Một chén rươu nồng, một câu thơ hay, một lời nói có
duyên, một bông hoa thơm hé nở ".
Nghe bạn đọc, Trịnh Nhị vỗ tay cười, tự phụ:
- Vế câu đối của tôi.
- Vâng, của công tử. Cho hay các văn nhân thi sĩ có đại tài vẫn
thế, làm văn làm thơ mà không biết rằng mình làm văn, làm thơ.
Năm người cùng lo lắng, ngẫm nghĩ Cô hàng lại nói tiếp:
- Thưa chư tôn, kể về câu đối ấy mà treo ở trà điếm của tiện
nữ thì cũng xứng đáng Nhưng tiện nữ xin phép Trịnh công tử đổi hai chữ cho được
đúng hơn vì ban nãy, chẳng qua công tử buột miệng mà nói thàng văn, chứ công tử
có kịp suy nghĩ tới tiến nữ đâu.
Nói đến đây, cô hàng đưa một cái liếc mắt rất kín đáo.
- Đổi hai chữ nào, quý nương?
- Thưa công tử, hai chữ "rượu nồng" ra hai chữ
"trà đượm".
Rồi nàng lại đọc:
Cả năm ông cống sĩ tương lai cùng tấm tắc khen:
- Hay! Hay lắm! "Một chén trà đượm, một câu thơ hay, một
lời nói có duyên, một bông hoa hé nở", câu ấy thực đáng treo ở cửa hàng trầu
nước của một cô nữ văn sĩ.
Cô hàng bẽn lẽn cuối đầu. Nhưng cô hiểu rằng không nên làm
cho các thầy khóa thất vọng. Cô bèn nói té tát để chữa thẹn cho các thầy:
- Thưa chư tôn, trong thơ, đối chọi là một sự tầm thường, những
bậc tài lỗi lạc không thèm để ý tới. Trịnh công tử cho một vế như thế cũng đủ
nghĩa lắm rồi. Đủ nghĩa thì thôi, còn tìm một vế nữa làm gì. Vậy xin Trịnh công
tử hạ cố cho tiện nữ được ngắm tài của Vương hi Chi tiên sinh đời nay.
Nghe cô hàng nói, các thầy mướt mồ hôi, Khóa Nguyễn Thanh lại
phải đảm nhận việc viết liễn, vì chàng biết rằng chữ Trịnh Nhị xấu như gà bới.
Vả bốn ông khóa nghe đâu đều ỷ vào lưng Trịnh Nhị mà chơi bời phung phí, nên phải
luôn chống đỡ, che chở cho chàng.
Viết xong vế câu đối với giòng lạc khoản "Trịnh Nhị,
Thanh Nê mặc khác đề, Nguyễn Thanh chừng biết cô hàng là gái chẳng vừa, liền bấm
bạn bè cáo lui vào trong quán nghỉ ngơi.
Cô hàng khúc khích cười, treo đôi liễn lên cột lẩm bẩm nói:
- Một bên đã có chữ. Còn một bên... hãy để đấy.
Hồi 40: Chủ Quán
Đêm hôm ấy, khi các khác trọ đều đã yên giấc, khi trống, mõ
và chiêng, kiểng ở trong thành đã điểm canh ba, chủ quán mới nghĩ đến đi ngủ.
Chàng ôm sổ sách lên gác, một từng thấp đến nỗi một người tầm thước có thể đứng
giơ tay lên với chạm mái được.
Vẫn tưỡng chàng đem sổ sách lên để tính toán các món chi tiêu
trong một ngày. Nhưng không, chàng vứt bề bộn hết cả giấy má trên mặt một cái
rương lớn, bên cạnh cây đèn dầu lạc, ngọn cháy lù mù, rồi cúi xuống một góc
phòng khẽ lật ván lên kéo ra một tờ giấy lớn bồi vải và cuộn tròn. Chẳng biết
nghĩ sao chàng lại đậy ván lại, rồi rón rén bước xuống nhà.
Trong các buồng, khách trọ đông ních, tiếng ngáy đủ giọng cao
thấp.
Chủ quán soát lại một lượt, từ phòng khách đặc biết dành
riêng cho các thí sinh giàu có, sang trọng, trong số đó có bọn Trịnh Nhị, cho
chí những phòng trống trải ở nhà ngang, nơi trọ của các chú lái gồng gánh thúng
mẹt. Chàng lẩm bẩm:
- Được lắm! Ngủ yên cả rồi.
Chàng liền trở lên gác ngoài, đóng cửa cài then cẩn mật, rồi
lại lật ván lấy tờ giấy lớn bồi vải ban nãy, mở rộng ra: đó là bức bản đồ Bắc
thành, và các phố, các cửa ô, các ao chuôm. Chàng di ngón tay trỏ xuống cửa
tây, rồi đưa đi theo con đường nhỏ qua mấy thửa ruộng tới đền thờ đức Tản Viên
dựng trên gò Nùng sơn.
Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại lắc đầu, đưa ngón tay trỏ đi từ
trại binh thẳng đường qua Võ miếu xuống cửa Nam Văn miếu. Chàng mỉm cười dừng lại
đó rồi đi ngang sang phía đông tới trường thi. Cặp môi chàng mỉm một nụ cười đắc
thắng:
- Chỉ năm trăm cũng đũ chán!
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, kín đáo. Chủ quán vội cuộn bản đồ lại
cất vào chỗ cũ, rồi lên giường nằm im thin thít. Lại có tiếng gõ, hai tiếng đi
liền nhau, kế tiếp ba tiếng nữa. Chủ quán mỉm cười sung sướng dậy mở cửa gác hỏi
sẽ:
- Ai?
- Ngu muội.
- Trời ơi! Hiền muội! thế nào, công việc?
Một thiếu nữ bước vội vào phòng. Đóng cửa cài then xong, nàng
đáp:
- Hy vọng.
Thiếu nữa là cô hàng trầu nước buổi sáng, và chính là Nhị
nương. Còn chủ quán tức là Trần Quang Ngọc.
Trần Quang Ngọc và mấy người đồng đảng bị vây ở trong hầm
chùa Tiêu Sơn.
Tuy viên phân phủ chưa tìm ra được cái hầm bí mật ấy, nhưng
cũng đoán chắc rằng bọn nghịch chỉ lẩn quất đâu đây mà thôi. Vì thế, y ra lệnh
cho quân lính ngày đêm phải vây bọc thực cẩn mật lấy các ngách, các lối quanh
chùa.
Nhờ mưu Nhị nương giả làm ma, bọn quân khiếp sợ. Nhưng ngay
đêm hôm nàng đem lương thực vào hầm, nhân quân canh đướng náo động tâm hồn.
Quang Ngọc cùng các bạn đồng chí trốn thoát ra ngoài. Vì chàng cho rằng mưu kia
tuy lừa được bọn lính ngu dốt, mê tín, nhưng trái lại sẽ giúp cho sự dò xét của
viên phân phủ nhiều lắm.
Quả thực, sáng hôm sau phân phủ Nguyễn Túc được tin báo có ma
hiện hồn ở sân sau chùa Tiêu Sơn, bèn tức tốc cười ngựa đến nơi xem xét. Theo lời
phác tả của tên lính canh, Túc đi quanh hai, ba vòng ngôi mộ, mà tên kia cho rằng
con ma biến vào đó. Bọn nha lại theo phân phủ bàn nên tìm thầy phù thủy cao tay
để lên đàn trừ tà. Nhưng Túc chỉ mỉm cười đứng ngẫm nghĩ rồi thong thả bảo quân
lính đi lấy cuốc, thuổng đào ngôi mộ...
Vì thế mà sự bí mật bị khám phá vì viên phân phủ đoán chắc rằng
Phổ Tĩnh thiền sư, chủ cái hầm kia tức chỉ là Phạm Thái.
Nửa tháng sau, Quang Ngọc đã trở nên chủ nhân quán Bạch Phượng
rồi chàng đem tiền - vì thế lực kim tiền bao giờ cũng mạnh - chạy cho Lê Báo được
trụ trì chùa Liên Phái. Còn Trịnh Trực thì nhân chưa ai được tung tích, Quang
Ngọc lưu lại Kinh Bắc để tìm kiếm thêm đảng viên trong vùng ấy sau này có dịp tốt,
chàng sẽ quay về hạt Từ Sơn lập lại đảng.
Chính giữa lúc Quang Ngọc đương miên man đến các cách lập lại
đảng, có lẽ to gấp mấy lần trước, thì nghe có tiếng gõ cửa rồi thấy Nhị nương
bước vào phòng báo cho chàng biết rằng việc đảgn rất hy vọng, chàng hỏi lại:
- Hiền muội có hy vọng, là hy vọng về phương diện nào, về
phương diện võ hay văn?
Nhị nương mỉm cười:
- Về cả hai phương diện.
Vẻ mặt Quang Ngọc vẫn thản nhiên:
- Nói qua cho ngu huynh nghe nào.
- Mưu kế rất giản dị. Hôm bắt đầu kỳ để nhất, các thí sinh sẽ
rấy loạn phá trường thi.
- Chắc?
- Chắc. Không kể hơn trăm đảng viên ở các trấn về dự thí, ngu
muội đã dụ được vài trăm thầy khóa nữa rồi.
- Cả năm chú ban sáng?
- Chính. Hôm ra xem đầu bài chữ nôm, bọn họ sẽ la hét ầm lên
rằng nhất định không làm bài nôm na mách qué... Thế là hàng nghìn người a dua
theo rồi ùa nhau phá trường thi bắt giữ các khảo quan lại. Tất nhiên quan tổng
trấn cho quân lính ra đàn áp Bọn quân lính ấy đã là quân lính ta.
- Của ta?
- Vâng, của ta. Nghĩa là viên quân cơ đã phát thệ theo...
- Theo đảng ta?
- Không... theo ngu muội.
Quang Ngọc trân trân nhìn mm, rồi mỉm một nụ cười kính phục:
- Nhưng phải giữ bí mật lắm đấy! Hiền muội nên nhớ việc phá Từ
Sơn.
- Việc này mà bại lộ thì chỉ một mình ngu muội chịu tội, vì
những người làm việc dưới lệnh ngu muội chỉ biết có ngu muội.
Quang Ngọc ngước mắt ngắm Nhị nương, thấy cặp mắt nàng long
lanh sắc sảo lạ lùng:
- Vẫn biết thế, vẫn biết rằng chúng ta đã đổi hẳn chiến lược,
chia nhau ra ai làm việc nấy, chỉ riêng chịu trách nhiệm đối với đảng. Nhưng mất
một viên thượng tướng như hiền muội, thì thực đảng cũng đến siêu.
- Hiền huynh cứ dạy quá lời làm gì thế.
- Lúc hiền muội vào ngu huynh đương xem lại bản đồ Bắc thành.
- Bản đồ của Vẽ Tăng họa?
- Phải, đây, hiền muội thử xem lại...
Quang Ngọc toan lấy bản đồ thì Nhị nương gạt đi mà rằng:
- Không cần ngu muội nhắm mắt cũng đi được khắp nội thành ngoại
ô.
Dút lời, nàng đứng dậy nói:
- Thôi, mời hiền huynh đi nghỉ, chẳng khuya rồi.
Quang Ngọc giữ lại:
- Ã, một tin mừng. Quỹ tháng này tăng nhiều lắm. Riêng tửu
quán đã thu được gần nghìn quan.
- Thế à! Một tin mừng nữa.
- Tin gì?
Nhị nương ghé lại gần nói thầm:
- Phạm Thái hiện ở Bắc thành.
Quang Ngọc vui mừng:
- Ở đâu?
- Ngu muội chưa gặp. Nhưng mai xin đi tìm.
Hồi 41: Hành Hình
Chung quan pháp trường, người ta đứng xem rất đông. Họ đến
ngay từ đầu giờ Dần để nhận chỗ.
Vì xử tử mấy người phản quốc quan trọng - một viên quan và bốn
viên đội - nên pháp trường không lập ở trong thành, mà dựng ngay ở trước cửa
chùa Liên Trì trông ra hồ Hoàn Kiếm. Quang tổng trấn muốn nhân dân khắp Bắc
thành đều được mục kích mấy cái đầu phản quốc rơi dưới lưỡi gươm nặng của viên
đao phủ.
Trong bọn đến xem, hai người nói chuyện:
- Sắc đẹp giết người!
- Thế con bé bán hàng nước hôm nay có bị hành hình không?
- Nó trốn thoát rồi còn đâu. Ngay khi chưa bại lộ câu chuyện
làm phản, chủ quán Bạch Phương đã làm đơn vào dinh quan phân tri sở tại kiện ả
kia về tội lừa đảo Nghe đâu cô ả ở trọ hơn một tháng, mà chẳng trả được một đồng
một chữ.
Rồi một đêm bỏ trốn biệt.
- Thế quan không tróc nã ư?
- Chắc có chứ, nhưng vị tất nó còn lẩn lút trong Bắc thành.
Ở một chỗ khác, năm, sáu người học trò khúc khích cười, thì
thầm bảo nhau:
- Sao ngày nay mà hãy còn những đứa cuồng xuẩn như thế nhỉ?
- Đại huynh bảo thế nào là cuồng xuẩn?
- Nghe theo một đứa con gái, một con hàng nước, để toan phục
hưng nhà Lê, đại huynh bảo chẳng gọi là cuồng xuẩn còn gọi là gì?
Một người thứ ba cười ha hả:
- Ý chừng chúng nó muốn bắt chước bọn Trịnh Kiểm đời xưa chứ
gì?
- Nghe đâu con bé hàng nước ghê gớm lắm kia đấy. Đại huynh đã
lại Quảng Minh đường đọc tờ chiếu chỉ chưa?
- Chưa. Có gì lạ vậy?
- Trong chiếu chỉ có nhiều câu mạt sát bọn Lê thần. Chừng con
bé hàng nước cũng thuộc bọn ấy.
- Dễ yêu tinh đấy, các bạn ạ. Các bạn có nhớ truyện con rắn
hiện thành người đẹp bán chiếu gon ở phường khán Xuân không? Nó xuống hoạ thơ với
cụ Nguyễn Trãi, rồi được cụ kén làm nàng hầu. Về sau nó lại hiện nguyên hình rắn,
đương đêm cắn chết hoàng thượng.
Một người từ nãy vẫn yên lặng, giữ vẽ mặt bực tức, bỗng thở
dài phàn nàn:
- Một lũ khốn nạn! Chúng nó làm mình hụt cống sĩ khoa này.
Mình bao công đèn sách, những tưởng được chiếm bảng vàng. Ngờ đâu chúng nó làm
phản để triều đình bãi khoa thi. Chư đại huynh tính như thế thì có uổng không,
như thế thì có tức chết được không?
- Nhưng đại huynh đã chắc đâu chiếm bảng vàng?
Mọi người cười phá lên, khiến mấy chú lính mặc áo nâu, đội
nón son vác dáo đứng giữ trật tự ở hàng đầu phải quay lại quát:
- Khẽ mồm chứ! Quan sắp đến đấy!
Những mẫu chuyện riêng kia đủ tỏ rằng Bắc thành vừa suýt có
biến. Cuộc biến loạn ấy, hoàn toàn là công trình của Nhị nương.
Tối hôm từ biệt Quang Ngọc ở Bạch Phượng, nàng cải nam trang
đi tìm Phạm Thái, vì buổi sáng vào đền Ngọc Sơn, nàng đã để ý tới một bài thơ của
một văn nhân đến vãn cảnh. Bài thơ ấy chỉ là một bài thơ đề vịnh, nhưng đối với
đảng viên đảng Tiêu Sơn lại là một dấu hiếu để báo cho nhau biết mà đi tìm
nhau. Tức thì Nhị nương họa lại nguyên vận. Trong bài hoạ, nàng không cần lời
thơ hay, nàng chỉ cốt chen được câu: "Phượng trắng soi bên dịp mộc hều."
Câu thơ ấy ai chẳng cho là tả đền Ngọc sơn đứng bên cầu Thê
Húc. "Nhưng Phạm Thái tất hiểu. Phải, làm gì mà không hiểu, vì ta ký tên
là nàng Hai".
Nhị nương vui sướng đọc lại câu thơ.
Nhưng suốt ngày vẫn không thấy Phạm Thái đến quán Bạch Phượng.
Nhị nương dồ rằng chàng chưa trở lại Ngọc Sơn. Vì thế, đêm ấy, chàng cải nam
trang la cà trong các tửu điếm để tìm Phạm Thái. Trước hết, nàng đến một hàng
thịt cầy ở phố hàng Hòm. Nàng chắc rằng anh chàng Lỗ Trí Thâm kia đã về Bắc
thành thì khi nào lại chịu kiêng khem cái thú nhắm rượn chả chó.
Ở đó không gặp Phạm Thái, nàng lại đến các hàng cơm chứa trọ
phố Thợ Nhuộm gần tràng thi, vì nàng chắc Phạm Thái chỉ quanh quẩn ở khu ấy. Vả
biết đâu Phạm Thái không đội tên để đi thi.
Mãi gần sáng, Nhị nương mới trở về quán Bạch Phượng nhủ, mà
Phạm Thái, nàng vẫn chưa biết tin tức ra sao. Cuối giờ Mão, nàng thức dậy. Dậy
không phải để bán hàng. Nàng vừa nghĩ ra một cách nữa đễ tìm kiếm Phạm Thái: là
sắm sửa vàng hương đi lễ các chùa. Vì nàng đoán chắc rằng nếu Phạm Thái không
có trong các tửu quán, thì chỉ ẩn núp ở chùa nào đó.
Quả không sai. Khi đến cổng chùa Trấn Quốc, và nhận được tính
cách Phạm Thái trong một bài thơ vịnh Tây Hồ, Nhị nương vui mừng tiến vào chùa
và gặp chàng đương ngồi nói chuyện với sư cụ. Nàng cố giữ mặt thản nhiên, đi
qua hành lang lên chùa trên.
Một lát sau, Phạm Thái theo lên thắp hương, vì ngày ấy là
ngày thường, nên chú tiểu xin phép đi chơi phố, và nhân tiện mua các thức ăn.
Hai người kể qua loa cho nhau biết tình thế và công việc của
đảng. Rồi Nhị nương hẹn Phạm Thái tối hôm ấy lại quán Bạch Phượng phố Cầu gỗ
bàn việc lớn.
Công việc vây phá trường thi và xui giục quân lính dấy loạn
tiến hành càng mau khi đã có Phạm Thái giúp Nhị nương một tay.
Bỗng xảy ra một việc chẳng ngờ, đến nỗi vỡ lở: Một người
trong bọn đứng đầu việc gây ra bỏ thi đến lễ đền Ngọc Sơn xin quẻ thẻ. Chẳng
may cho Nhị nương, quẻ thẻ ấy rất xấu. Người kia sinh ra nghi ngại, lo lắng. Đọc
đi đọc lại quẻ thẻ, người ấy nhận thấy một câu thơ có nghĩa ẩn hiện rằng nếu đi
phát giác việc làm phản với quan trên, thì thế nào cũng được hưởng phú quý.
Thế là thầy khóa sinh lòng tráo trở. Vả tráo trở lại có lợi lắm
cơ: Mười năm đèn sách, mà ra thi vị tất đã ăn thua, đằng này chỉ nói một câu là
nhảy một bước tới cao quan.
Kể ra, thầy khóa cũng rất siêu lòng vì cô hàng trầu nước xinh
đẹp, nhất lại được cô ta tâng bốc luôn luôn, và luôn luôn hứa những lời đường mật.
Nhị nương cũng ngờ rằng nhan sắc, và đức hạnh mình có lẽ khó
đánh dổ được lòng ham muốn công danh của những anh đồ đã thề sống chết với cái
chí xuất chinh. Nhưng nàng cho rằng dẫu việc có thất bại thì nàng cũng chỉ đến
đi trốn tránh một nơi, mà nếu chẳng trốn thoát thì lấy cái chết đền ơn đảng là
cùng. Vì việc làm phản này, nàng riêng chịu trách nhiệm. Phạm Thái có giúp nàng
cũng chỉ đứng ngoài cuộc mà thôi.
Tối hôm ấy, anh khóa phản phúc kia lần mò vào dinh quan tổng
trấn xin nói riêng với ngài một câu truyện rất quan trọng. Tức thì ngay giờ
sau, viên quản và bốn viên dội định làm phản bị bỏ ngục một cách rất yên lặng,
bí mật.
Nhưng dù bí mật đến đâu cũng có thám tử ra báo với Nhị nương.
Sáng sớm hôm sau, chủ quán Bạch Phượng làm đơn thân mang đến
huyện sở tại kiện cô hàng nước vô danh đã bỏ trốn đi mà chưa trả tiền trọ, tiền
ăn. giữa lúc ấy, viên phân tri Thọ Xương đương sắp binh lính để ra khám quán Bạch
Phượng và bắt bỏ ngục cô hàng nước.
Nhị nương phỏng đoán không sai. Quang Ngọc và Phạm Thái không
bị ngờ vực, khi nàng đã trốn thoát ra ngoại ô. Chỉ riêng các thầy khóa đang hí
hửng lên ông cống là bị thất vọng, vì ngay trưa hôm ấy, có yết thị bãi thi cống
sĩ và truyền cho các thí sinh nội nhật ai ở đâu phải về đó.
Năm hôm sau, viên quản và bốn viên đội làm phản bị điệu ra
pháp trường xử tử.
Cho hay trò đời vẫn thế, con người chỉ thích có sự biến đổi để
mà xem. Sự biến đổi ấy, họ coi như một tấn tuồng làm cho họ vui mắt, vui tai
trong chốc lát. Chẳng rứa mà trong số người đứng chờ xem hành hình, mấy ông đồ
bàn tán nói trên kia lại vui sướng được? Ấy là họ thuộc phái phản đối lối thi cử
của nhà Tây Sơn đấy.
Người Bắc thành ở gần vua chúa lâu đời đã hầu hoàn toàn có
tính cách phục tòng, nên khi bọn binh lính quát mắng thì họ im ngay.
Một lát sau, tiếng loa, tiếng trống lớn, trống con từ phía đền
Ngọc Sơn tiến đến. Rồi quan tổng trấn Võ Văn Dũng rời võng điều bước xuống. Đi
dưới bốn cái lọng xanh. Bốn vệ binh cầm bốn thanh kiếm trần đi dàn trước mặt.
Quan tổng trấn tính nóng như lửa và rất ưa sự mau chóng. Vì
thế, ngài vừa ngồi xuống xập là chiêng trống nổi lên ngay.
Trong khoảnh khắc, năm cái đầu rơi trên chiếu cạp điều. Máu
chảy lai láng, chiếu như nhuộm phẩm hồng. Rồi người ta bỏ năm cái đầu lâu vào
năm cái giỏ tre và treo lên cành cây ở bên tháp Báo Thiên. Người đi xem vui cười
bàn tán trên đường về.
Hồi 42: Thầy Tướng Số
Trong sân đền Trấn Võ, dưới góc cây muỗm già, một túp lều dựng
sơ sài, bằng bốn cái cọc chống một bức phên nứa có cài lá gồi. Đó là cửa hàng một
thầy tướng số.
Thầy tướng số ấy người còn trẻ măng, dù dôi mục kính gọng đồng
cố làm tôn vẻ đạo mạo của thầy lên. Mà hình như thầy đã được thụ giáo một Cốc tử
tiên sinh người Thiên quốc. Chẳng thế, bức vẽ trên khổ vải lớn treo ở thân cây
muổm lại là tướng mạo một người Tàu, với cặp mắt xếch ngược và cái bím thực dài
vắt qua vai ra đằng trước ngực. Cho đến cả cái ống bút, cái nghiên mực, cái
tráp đen, cái đĩa để gieo âm dương cũng toàn là đồ Tàu. Vì thế, người ta gọi thầy
là ông thầy Tàu, tuy thầy mang y phục đặc An Nam: cái khăn nhiễu Tam giang rộng
bản, cái áo the La cà dài lượt thượt, cái quần lụa Vạn Phúc ngả màu hồng và đôi
giầy Gia Lộc da dê chính hiệu.
Hôm nào, thầy cũng đến đó thực sớm, giở khăn gói lấy vuông vải
có hình treo lên cây, rồi mở tráp lấy ra đủ các thúu, nào thẻ hương, nào đĩa,
nào tiền, nào chân gà khô bày la liệt trên chõng. Rồi thầy ngồi bó gối chờ
khách hàng. Buồn thì thầy mở sách tướng số xem lại, hay đem Đường thi ra ngâm
nga.
Ngày rằm, mồng một là những ngày thầy đắt hàng nhất, vì ngoài
khách xem tướng, xem số, còn rất nhiều ngưòi nhờ thầy giảng hộ những lá thẻ xin
được ở trong đền. Hàng này phần nhiều là đàn bà, con gái, được thầy tướng số đẹ
trai khen và nịnh - vì thầy ta mặt mũi rất khôi ngô, mỹ lệ - thì sướng phồng
mũi lên, không bao giờ tiếc tiền thưởng.
Nhưng đối với bọn đàn ông, đối với các thầy khóa trẻ tuổi,
vãn cảnh đền, mơ màng chờ đợi xem có cô nào ngắt cành mẫu đơn bị trói để cởi áo
ra chuộc, đối với những bậc văn nhân, thi sĩ sẵn sàng bầu rượu, túi thơ, tới đền
để cảm đề ngâm vịnh, dối với những người ấy, thì thầy tướng rất giữ gìn, rất hà
tiện lời khen.
Mà có một điều lạ, là hình như thầy tướng cho rằng người Việt
Nam thời bấy giờ ai ai cũng phải phá ngang mới làm nên được. Thường thường thầy
dạy:
"Tướng ngài rất quý, nhưng không thể làm nên như bọn tầm
thường, nghĩa là không theo đường thi cử tiến thân được". Nếu người xem hỏi
vặn, thì thầy tướng sẽ nói tiếp:
- Tôi nói câu này, ngài đừng giận, chứ ngài thì một là mất đầu,
hai là công danh phú quý.
Một buổi sáng, thầy tướng đương ngồi nhìn theo những người tấp
nập đến lễ đền vì hôm ấy là ngày rằm. bỗng thầy để ý đến một thiền sư đi qua rẽ
xuống nhà tổ Chờ lúc thiền sư trở ra, thầy hắn dặng rồi mỉm cười cất giọng
trong trẻo mời một câu rất có duyên:
- Nam vô a di đà phật! Bạch sư ông...
- Nam vô a di đà phật!...
- Sư ông có xem tướng không?
Nhà sư dừng lại, tò mò nhìn thầy tướng rồi buồn rầu đáp:
- Thầy tính, bần tăng xuất gia tu hành, còn mong ước một điều
gì nữa mà cần biết hậu vận tương lai?
Thầy tướng vẫn mỉm cười:
- Sư ông không cần xem biết sau này có lên tới Nát bàn không
ư?
Nhà sư thản nhiên không đáp, toan đi thẳng.
- Bạch sư ông...
- Thầy bảo gì nữa?
- Tôi coi tướng sư ông như... như thế nào ấy.
Thiền sư quay lại đăm đăm nhìn thầy tướng vẻ mặt hơi cau có
khó chịu:
- Như thế nào?
- Khó nói quá. Như... như tướng một nhà sư... mà lại như tướng
một... một tráng sĩ.
- A di đà phật!
Thầy tướng nói luôn:
- Hai cánh tay cứng cáp kia để mang đại đao ở nơi chiến trường
đúng hơn là để cầm dùi gõ mõ thỉnh chuông. Còn hai bàn chân kia mà đặt vào
trong bàn đạp thì vững trãi lắm. Nhưng trừ hai mắt sắc, thì vẻ mặt hiền từ ra vẻ
một nhà tu hành... Tướng sư ông lạ lắm, giá sư ông để tôi xem kỹ lưỡng hơn thì
tôi còn tìm ra nhiều điều mới nữa.
- Nhưng bần tăng làm gì có tiền?
- Được, sư ông muốn trả bao nhiêu, hay không trả đồng nào
cũng được. Miễn là sau này sư ông tụng niệm kêu cầu Phật tổ phù hộ ban phúc cho
tôi là tôi đa tạ sư ông lắm rồi.
Nhà sư tươi cười lại gần, tuy đã yên trí rằng anh chàng kia
chỉ là một viên thám tử của quan tổng trấn nên mới vờ hỏi tò mò như vậy.
- Nếu thế còn nói gì nữa. Nào thì xem tướng.
- Cặp mắt phượng này... đáo để lắm... Lại cái miệng hùm với
cái hàm én... Giá để râu thì chẳng kém gì Trương Phi... Nhưng đẹp trai hơn
Trương Phi nhiều.
Nhà sư rất lưu ý đến diện mạo và giọng nói của thầy tướng số,
bỗng phá lên cươl:
- Chịu thầy. Nhưng hình như tôi đã gặp thầy ở đâu thì phải.
- Bạch sư ông ở đâu ạ?
- Ở... ở... vùng...
Thầy tướng nói luôn:
- Hay ở hàng thịt... thịt cầy.
- Nam vô a di đà phật!
Mấy người trong đền đi ra bưng miệng khúc khích cười. Đợi bọn
họ ra khỏi cổng, Phạm Thái - vì nhà sư chính là Phạm Thái - ghé gần vào tận tai
thầy tướng thì thầm:
- Khá lắm!
- Đã gặp Trần huynh chưa?
- Đã - Nói với đại huynh rằng ngu tỷ vẫn còn sống nhé, không
lo gì hết. Công việc vẫn tiến hành như thường. Còn Phạm hiền đệ?
- Ngu đệ vẫn tạm trú tại chùa Trấn quốc. Sư cụ chùa Trấn quốc
thế nào rồi cũng vào đảng ta.
Nhị nương vui mừng:
- Thế thì hay lắm. Chùa ấy địa thế rất có lợi...
Lúc bấy giờ, một bọn đàn bà ở trên phố đến lễ. Nhị nương thoáng
trông thấy, liền cất tiếng vờ hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông làm phúc bạch với sư cụ cho như thế.
- Xin vâng.
Rồi chừng để quảng cáo cho thầy tướng giả trai, Phạm Thái nói
lớn cốt các bà ki a nghe rõ:
- Về tiền vận bần tăng, thầy nói không sai một li một tý. Lắm
việc xảy ra tôi đã gần quên mà bây giờ nghe thầy nhắc đến tôi vụt nhớ lại.
Mấy người đàn bà thì thào nói chuyện với nhau coi bộ phục tài
thầy tướng lắm. Khi họ đã vào đền, Nhị nương bảo Phạm Thái:
- Hành động ở ngay Bắc thành khó thành công được.
- Vâng, ngu đệ cũng nghĩ thế. Người chốn cố đô này họ đã quen
sống gần vua, gần chúa, gần các quan to chức lớn, nên sinh ra kính cẩn lễ phép
quá, cử chỉ thì khúm núm, ngôn ngữ thì giữ gìn, hành vi thì nhút nhát. Nói với
họ một câu hơi táo bạo, họ đã run lên cầm cập, trông trước trông sau, tưởng như
có thám tử đang nấp đâu đó...
- Phải, họ coi mạng họ quý hơn danh dự họ nhiều lắm, Đem chí
lớn ra bàn với họ làm gì vô ích... Họ kém xa nhân dân trấn Đông, trấn Bắc.
Phạm Thái vốn người trấn Kinh Bắc, nghe Nhị nương tán dương
người vùng Bắc, thì tự phụ đứng thẳng lên đáp lại rằng:
- Người trấn Kinh Bắc thì còn phải nói!
Nhị nương cười hỏi lại:
- Còn người trấn Sơn Tây?
- Thôi tôi biết người vùng núi Tản sông Đà giỏi lắm rồi. Những
một Nguyễn hiền tỷ cũng làm lệch một bên gánh giang sơn!
- Ta nâng bốc lẫn nhau vô ích nhất là các công việc ta làm cứ
liên tiếp nhau mà thất bại mãi. Bây giờ hiền đệ định liệu ra sao?
Phạm Thái suy nghĩ:
- Phải, ở Bắc thành chẳng làm nổi việc gì, tuy trốn tránh có
dễ hơn ở các nơi. Bữa qua ngu đệ cũng có bàn với Trần đại huynh, thì đại huynh
định để tình thế êm êm đã, rồi phân phát bọn ta mỗi người đi hành động một nơi.
Trần đại huynh một mình ở lại Bắc thành, còn Trịnh Trực thì đại huynh cho sang
trấn Đông, ngu đệ về vùng Nam.
- Thế ngu tỷ?
- Hiền tỷ không thấy Trần đại huynh nói đến.
Nhị nương bực tức:
- Có lẽ nào thế được...
Nhưng nàng cũng nghĩ đến tấm tình của hai người một ngày thêm
khăng khít, tuy bề mặt thì vẫn là tình huynh đệ.
- Không, ngu muội phải đi Sơn Tây mới được. Ba phương: Bắc,
Đông, Nam, đều có người, sao phương Tây lại không có ai?
Rồi nàng cười hỏi Phạm Thái:
- Nhưng đảng trưởng cắt hiền đệ đi Sơn Nam hạ hay hiền đệ xin
đi?
Phạm Thái lo lắng nhìn Nhị nương:
- Trần đại huynh sai đi đấy chứ... Sao hiền tỷ lại hỏi ngu đệ
câu ấy?
- Chả sao cả. À, gửi hiền đệ thăm cô Quỳnh Như nhé?
Phạm Thái đỏ bừng mặt, toan nói cáu, thì mấy người đàn bà vừa
vào đền đã đi ra. Chàng yên lặng đứng nhìn vơ vẫn: Nhị nương lễ phép hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông có chịu không đã?...
- Chịu thầy.
Khi thấy bọn kia đã đi khuất. Nhị nương cười bảo Phạm Thái:
- Hiền đệ chịu rồi đấy nhé?
Phạm Thái cũng cười:
- Biết thế chẳng nói cho hiền tỷ biết nữa xong, tưởng thuật với
hiền tỷ một câu truyện buồn cười, ai ngờ hiền tỷ để bụng.
- Nhưng giá Quỳnh Như vào đảng thì càng hay chứ sao?
- Hay thế này: Để ngu đệ đi Sơn Tây, hiền tỷ xin đi Sơn Nam hạ.
Nhị nương vẫn cười:
- Ai lại trái thượng lệnh như thế?
Phạm Thái tức tối cúi chào Nhị nương rồi quay đi.
Hồi 43: Tìm Bạn Đồng Chí
Đã ba tháng trời ròng rã, Phạm Thái đi quyên giáo trong hai
trấn Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ. Lúc đi bộ, chàng rong ruổi khắp vùng Chương Đức,
thăm núi Tử Trầm cùng động Long Tiên. Khi đi thủy chàng cùng tiểu đồng lênh
đênh con thuyền trên giòng sông Đáy, qua bao nhiêu danh lam thắng cảnh từ Thanh
Oai, Ưng Hoà cho tới Lý Nhân, Ý Yên, Phong Doanh. Không một ngọn núi đá nào ở
hai bên vệ sông mà chàng không trèo, không một cái động nào mà chàng không vào xem.
Khi hứng trí chàng đề thơ ngâm vịnh, khi gặp tri kỷ chàng lưu ở lại chơi dăm ba
ngày.
Là vì, ngoài mục đích quyên giáo, chàng còn có mục đích khác:
đi ngoạn cảnh để di dưỡng tính tình, chờ dịp lại tận tụy theo đuổi việc lớn,
nhưng nhất là đi chu du thiên hạ để tìm nhân tài, tìm bạn đồng chí mà gây dựng
chi đảng Tiêu Sơn ở hai trấn Sơn Nam.
Nghe nói ở chùa Thiên Trù, gần động Hương Tích có Bảo Giám
thiền sư là một nhà đại văn hào về thời Lê, Mạt, chàng liền đến thăm. Hai người
bàn đạo lý, văn chương lấy làm hơp ý nhau lắm. Nhân Phạm Thái thuật chuyện biến
loạn suýt xảy ra ở Bắc thành vào dịp kỳ thi cống sĩ, Bảo Giám thở dài nói:
- Tôi xem thiên văn biết vận nhà Lê đã hết. Mệnh trời đã định
như thế, kéo sao lại được nữa mà toan việc nọ kia? Cứ ngắm chòm sao Bắc đẩu mấy
năm nay ánh sáng lờ mờ, thì đủ biết nhân tài không ở miền Bắc. Còn sao Nam cực
thì sáng rực lên, có lẽ ở trong Nam sắp có sự lạ.
Phạm Thái nghe Bảo Giám khinh miệt người miền Bắc, thì không
bằng lòng.
Nhưng chàng rất mừng thầm rằng thiền sư tỏ ý còn thương tiếc
nhà Lê. Muốn biết rõ tâm tính thiền sư đối với thời cục, Phạm Thái nói khích một
câu:
- Cao tăng nghĩ cũng phải. Nhà Lê ngày nay đã như cái nhà đỗ
nát, ai còn dại gì mà chui đầu vào để mái nhà sụp cho chết uổng mạng. Còn nhà
Nguyễn thì như toà lâu đài nguy nga, đồ sộ, ai lại không muốn ở. Vả ngưòi xuẩn
ngốc đứng đầu việc toan khởi loạn ở Bắc thành chỉ là một người đàn bà, một cô
hàng trầu nước tầm thường chứ bậc chí sĩ trong nước phải lấy nhàn làm quý, bạo
động có ích gì?
Bảo Giám kinh ngạc hỏi:
- Một cô hàng trầu nước?
- Vâng, một cô hàng nước ở phố Cầu gỗ.
- Thế bây giờ cô ta đâu?
- Bần tăng cũng không rõ cô ta trốn đi đâu, nhưng nghe đồn cô
ta rất đẹp và rất thông minh.
Bảo Giám lẩm bẩm:
- Thảo nào sao Chức nữ sáng trội lện, lại muốn thiên gần bộ
phận Ngân hà. Một kỳ nữ thực!
Phạm Thái biết rằng Bảo Giám tuy có tiếng làm một nhà chí sĩ ẩn
dật nhưng kỳ thực chỉ là một lão hủ nho, mê tín các khoa thiên văn địa lý không
đâu. Chàng liền từ biệt ra đi.
Qua miền Kim Bảng, thấy nước non hùng vỹ, chàng lên bộ dạo
chơi ngắm cảnh Đến rẫy núi tục truyền là núi Con Voi, chàng cảm hứng đề một bài
thơ lên vách đá:
NÚI CON VOI
Tạo hóa khen thay khéo vẽ vời,
Dạm nên một rặng núi Con Voi.
Tới chầu diện thẳm quỳ khom gối,
Nằm ngắm doành thanh vắt vẻo vòi.
Cây biế mc dưới trên che tán rơp,
Mây vàng cao thấp thẳng bành ngồi.
Cưa mây búa tuyết đầu dầu vậy,
Xương đá lòng rêu vẫn hẳn hoi.
Vừa đề dứt bài, chàng nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng.
Chàng quay lại: Một văn nhân mặt đỏ gay, đầu đội nón sơn, chân vận giầy vải chẽn,
đứng sững, trân trân nhìn chàng:
- Sư mô quỷ gì mà văn thơ tục tỉu!
Phạm Thái mặt tái đi, toan cho chàng kia một bài học võ,
nhưng chợt nhận thấy hắn say rượn bí tỉ, nên lại thôi. Chàng mỉm cười hỏi lại:
- Ý chừng tôn ông là văn sĩ?
Văn nhân vẫn cười:
- Sao thiền sư biết?
- Chả là văn sĩ mà ngôn ngữ cử chỉ lại quá nhã nhặn đến thế?
Người kia càng cười to, rồi ứng khẩu đọc:
Nhà văn này với sư ông,
Lỗ mãng nghe đâu cũng một tuồng,
Bá ngọ thằng nào mà nói dối:
Mồm ha hẳn chẳng nốc cà, tương.
Phạm Thái nghiêm nét mặt lại:
- Nam vô a di đà phật! Ông này say rượn lắm rồi.
- Say gì mà say. Mới uống hết non nửa bình. Hay thế này: mời
sư ông lại xơi rượn với bỉ nho cho vui. Bỉ nho đương chén bỗng thoáng thấy bóng
cái nón sư, nên vội vàng leo xuống, ngờ đâu gặp ngay một văn sĩ thiền sư... Bạch
thiền sư, đạo hiệu thiền sư là gì xin cho biết, để bỉ nho được xưng hô.
- Thưa tôn ông bần tăng đạo hiệu Mộng Vân.
- Cao tăng trụ trì chùa nào?
- Thưa tôn ông, tại chùa Trấn Quốc.
- Ở Tây hồ?
Chàng đọc luôn:
"Em ở Tây HỒ bán chiếu son.
"Chồng còn chưa có, hỏi chi con?"
Rồi nói tiếp:
- Ở miền ấy chừng nhiều gái đẹp?
- Vì cái tên Tây hồ đẹp lắm. Vả cứ một điều cao tăng tu ở đấy,
đủ tỏ rằng lời phỏng đoán của bỉ nho không sai.
- A di đà phật! Tôn ông nên giữ gìn lời nói hơn một chút.
Văn nhân cười phá lên:
- Xin lỗi cao tăng. Nhưng cao tăng có giữ gìn lời thơ đâu?
Cao tăng thử đọc lại bài thơ đề trên vách đá mà xem.
Thấy nhà su bẽ lẽn ngượng nghịu, chàng nói tiếp, chữa thẹn hộ:
- Thôi, bỉ nho cũng biết thiền sư chỉ là một nhà văn hào thời
nay, vì chẳng ưng nhà Tây Sơn, nên tạm mặc áo cà sa lánh cuộc đời phiền toái. Vậy
thì thiền sư còn ngần ngại gì mà chẳng nhận lời bỉ nho lên kia, đôi ta cùng
nhau uống rượn, ngâm thơ.
Dút lời, chàng cầm tay Phạm Thái dắt lên sườn non, và ngâm
vang núi:
Đánh ba chén rươu, khoanh tay giấc,
Ngâm một câu thơ, vỡ bụng cười.
Cho quách người đời danh với lơi.
Núi sông ta giữ để ta chơi.
Phạm Thái không giữ nổi vẻ trang nghiêm nữa, cũng phá lên cười:
- Tôn ông văn chương mẫn tiệp lắm. Xuất khẩu là thành thi.
- Ấy cũng đọc lếu đọc láo cho có thơ. Chẳng lẽ có tửu lại
không có thơ.
Hai người vừa leo giốc vừa nói chuyện. Một lát tới một nơi bằng
phẳng rộng hơn một gian nhà dựa vào bên sườn núi dưới bóng mát một cây tùng già
cỗi.
Phạm Thái hỏi:
- Tôn ông có một mình?
- Với cao tăng nữa là hai. Vậy xin mời cao tăng chiếu cố.
Trên tảng đá, một bình rượn lớn và một cái chén vại đặt bên cạnh
một tàu lá chuối đầy thịt nướng. Thấy Phạm Thái trù trừ nhìn tiệc rượn, văn nhân
cười nói tiếp:
- Xin mời thiền sư cứ chiếu cố cho. Đó là thịt lợn, chứ không
phải thịt cầy đâu mà thiền sư e sợ.
Phạm Thái cũng cười đáp:
- Thịt gì chả là thịt. Nhưng trước khi nhận lời tôn ông, xin
tôn ông cho biết quý tính cao danh.
- Thưa cao tăng, tên bỉ nho thì hà tất thiền sư phải biết. Gặp
nhau, chén một bữa rượn, rồi kẻ ở người đi nhớ nhau làm gì thêm bận lòng. Nhưng
thiền sư đã yêu mà hỏi, thì bỉ nho cũng xin thưa: bỉ nho họ Phạm tên Lư - Lư là
cửa chứ không phải Lư là lừa, xin thiền sư chớ lẩn biểu hiệu Thanh Sơn.
- Tôn ông họ Phạm thì ra cũng...
Phạm Thái bỗng ngừng bặt nói lảng:
- Vậy xin cất chén rượn chúc Phạm Thanh Sơn tiên sinh vạn
phúc.
- Có mỗi một chiếc chén! Thôi ta uống chung.
Một lát sau Phạm Thái chán nản ra đi bỏ Phạm Lư say bứ nằm ngủ
trên tảng đá. Chàng cau có lẩm bẩm nói một mình:
- Hay vận nhà Lê đến lúc cùng rồi, nên ta chỉ gặp toàn hạng
mê tín với hạng điên cuồng. Hay trấn Sơn Nam không có nhân tài?
Nửa tháng sau chàng lại chán nản hơn, khi chàng đã dựa tiếng
quyên giáo đến thăm các làng nổi tiếng văn vật nhất vùng. Ở đó cũng toàn một loại
hủ nho, toàn một phường ham phú quý. Đem nhà Lê ra nói với họ, họ chẳng hề cảm
động. Khi xưa ông cha họ có ăn lộc nhà Lê bao giờ? Họ chỉ biết có chúa Trịnh.
Khi chúa Trịnh mất ngôi báu thì họ cũng có thương tiếc. Nhưng ngày nay vắng nhà
Trịnh đã có nhà Nguyễn. Còn vua Lê, cái ông bụt mục, cái ông tượng nát ấy, họ
có kể chi?
Buồn rầu, chàng quay về Thanh Nê, chàng chợt nghĩ: ròng rã
hơn ba tháng trời, đi gần khắp hạt Sơn Nam, chàng chưa tìm được một bậc chí sĩ
nào có thể khiến chàng kính phục bằng Kiến Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như.
Hồi 44: Sơ Kính Tân Trang
Thấy Phạm Thái lại trở về làng, Kiến Xuyên hầu rất vui mừng
và đặt tiệc khoản đãi Phạm Thái khẩn thiết tạ tội vì hôm rời Thanh Nê ra đi, chàng
vội vàng quá không kịp cáo biệt hầu, để xin phép về thăm quê.
Biết Phạm Thái là một nhà văn lỗi lạc, học thức uyên thâm, Kiến
Xuyên hầu ngõ lời lưu chàng ở lại dạy mấy đứa cháu, con trai và con gái Thanh
Xuyên, Phạm Thái nhận lời ngay. Chàng cũng muốn nghỉ cái đời hoạt động ít lâu để
nghe ngóng thời cuộc Chàng nghĩ thầm: "Bây giờ Tây Sơn đưong lúc vận hồng,
thế mạnh, khó lòng làm gì nổi. Ta đợi biết tin tức chúa Nguyễn Ánh trong Nam
đã. Trong ấy mà thắng, ngoài này ta mới bắt đầu hoạt động, cũng chẳng muộn."
Thực ra đó chỉ là một câu nói, một ý nghĩ của kẻ anh hùng đã
bắt đầu thoái chí, đã bắt đầu hơi chán nản thời thế. Thường họ tự an ủi như thế.
Rồi dần dần họ quên việc lớn, trong chén rượn nồng hay trong lòng một người thiếu
nữ. Trời ơi!Cái tuổi ngoài hai mươi, hăng hái thì hăng hái thực. Nhưng đến lúc
đã nguội lạnh thì ngội lạnh hơn tro tàn. Lúc Bấy giờ họ sẽ đem chử nghĩa yếm thế
vẩn vơ ra mà che đậy một tâm hồn hèn yếu.
Hiện bây giờ Phạm Thái cũng chỉ là một ông thầy đồ còn sôi nổi
những ý tưởng cao xa.
Một hôm Kiến Xuyên hầu xuống nhà họ củ Phạm Thái ra vườn xem
hoa, rồi khẽ bảo chàng:
- Lão gia nghe nói triều đình đã một dạo lùng bắt các thiền
tăng. Sợ có kẻ lưu ý tới công tử chăng? Chi bằng phá giớ quách.
Kiến Xuyên hầu cả cười. Phạm Thái lễ phép trả lời:
- Bẩm tướng công, văn sinh lại nhập thế cũng không khó khăn
gì, chỉ việc bỏ bộ thiền phục ra là xong. Vả văn sinh chưa bao giờ đã chính thức
xuất thế, chẳng qua chỉ mượn bộ áo cà sa để ẩn núp trốn tránh, điều ấy văn sinh
đã nhiều lần thưa cùng tướng công.
Trương công reo lên:
- Công tử nói rất hợp ý lão gia.
Mấy hôm sau, Phạm Thái đã trở nên một ông đồ nho thực hiệu, với
tấm áo lương dài, với chiếc khăn nhiễu tam giang chít rất khéo để che cái đầu
trọc. Nhân anh em thường đùa bỡn gọi chàng là chiêu lý, chàng liền lấy tên là
Phạm Văn Lý. Chàng nghĩ thầm: "Thôi thế này thì không còn ai có thể nhận
ra được Phổ Chiêu thiền sư chùa Nghiêm Xá mà cũng chẳng còn ai biết mình là Phạm
Thái, một thời để tìm cái chết với thanh kiếm, cây cung ở bãi sa trường."
Chàng lấy làm tự thẹn, nhưng còn tự an ủi gượng: "Nhưng
nào ta đã thoái chí! Chẳng qua chỉ nương náu đợi thời. Đợi thời như Trần đại
huynh, Nguyễn đại Tỷ."
Có một cớ khiến lòng chàng trở nên uỷ mị mà chàng không dám tự
thú nhận. Cớ ấy là nàng Quỳnh Như.
Thực vậy, ngay hôm chàng vừa về tới Thanh Nê, Quỳnh Như đã mật
viết cho chàng một bức thư hỏi thăm về công việc chàng đương theo đuổi. Trong
phúc thư chàng thuật qua tình thế của đảng và tỏ ý chán nản về việc lập chi đảng
ở trấn Sơn Nam mà Quang Ngọc đã phó thác cho chàng. Chàng như trông thấy rõ
ràng sự thất bại chắc chắn, vì tiền thì không sẵn, quỷ của đảng lại một ngày một
cạn. Vả chàng khó lòng mà tìm nổi một bọn đồng chí, như bọn đồng chí của Quang
Ngọc khi đảng Tiêu Sơn còn hoành hàh trong trấn Kinh Bắc. Vậy chàng đành lòng
chờ đợi ít lâu...
Quỳnh Như tin ngay lời chàng. Mà chàng cũng tự tin lắm. Nhưng
khốn thay cái dáng điệu mị kiều thấp thoáng trong hoa và giọng nói du dương
văng vẳng chốn phòng khuê nhiều khi làm cho tráng sĩ hoá ra mơ mộng.
Mơ mộng đến nỗi viết nên những bài thơ đầy tình uỷ mị như bài
thơ độc vận sau này:
Chơi hoa nay đã biết danh hoa,
Nhưng nghĩ tình hoa, thẹn với hoa.
Réo rắt chiều xuân oanh hót liễu,
Càng thêm ngao ngán khách tìm hoa.
Ý tứ bài thơ trên thực không một chút tâm trạng gì gọi là tâm
trạng một nhà sư hay tâm trạng một danh sĩ có chí khí. Ðó chỉ hoàn toàn là tâm
tình một anh chàng mê gái.
Vả Quỳnh Như chẳng bao lâu cũng không còn là Quỳnh Như buồi đầu
nữa, cô Quỳnh Như biếu ngựa và giục tráng sĩ lên đường. Có lẽ xưa kia một là
nàng quá lãng mạn, hai là nàng cố làm cho Phạm Thái phải kính phục nàng, Phạm
Thái mà nàng đã thương thầm yêu trộm ngay từ hôm được đọc mấy bài thơ tuyệt bút
của chàng.
Nhưng ngày nay chân tướng nàng lộ hẳn ra: nàng chỉ là một thiếu
nữ con quan, dễ cảm động về cắi đẹp, cắi hay, vì những lời thơ tình tứ.
PhạmThái đương chán nản, thất-vọng về việc đảng, nghe những
câu tán tụng của Trương tiểu thư như những lời an ủi ngọt ngào. Vì thế lại càng
cẩm cúi gọt rủa nên nhiều bài thơ khắc...
Và chẳng bao lâu, hai người yêu nhau, say mê nhau thư từ, văn
thơ trao đổi xướng họa với nhau.
Lúc ấy, còn đâu là chí phấn đấu, còn đâu là tình khuyến
khích!
Một hôm được tin Trương công và Trương phu nhân ra chơi chùa,
Phạm Thál lẽn xuống phòng khuê thăm bạn gái. Thấyy Quỳnh như đang đọc truyện
Phan Trần, liền hỏi ý kiến nàng về tác phẩm ấy. Nàng cho rằng truyện Phan Trần
văn chương tuyệt tác.
Tức thì, ngay từ hôm ấy Phạm Thái bắt đầu soạn truyện
"Sơ kính tâm trang." Thấm thoát có hơn một tháng thiên tiểu thuyết bằng
thơ đã viết xong. Phạm Thái dâng tặng khách má hồng.
Cho hay ái tình có sức mạnh đến thế. Xưa kia theo đuổi việc lớn,
Phạm Thái chưa làm nhổ một công trình gì có kết quả mỹ mãn như việc soạn sách
này.
Truyện "Sơ kính tâm trang" đã làm cho tên Quỳnh Như
bất hủ. Nhưng nó sẽ mãi mãi răn bảo những bậc anh hùng ái quốc rằng chớ nên tạm
bước vào vòng tình ái để cố quên hay an ủi một sự thất bại; ái tình sẽ chiếm lấy
cả tâm hồn ta, không nhường cho việc lớn ta đang theo đuổi một chỗ cỏn con.
Xem truyện "Sơ kính tâm trang", Quỳnh như biết rằng
đó chỉ là thiên tình sử của hai người, nên càng cảm động và đọc đi đọc lại mãi
đến thuộc lòng. Vì nàng thấy nhân vật t trong truyện toàn là những người hai
bên họ Phạm và họ Trương cả: Trạch tung hầu thân phụ tác giả, chỉ mấy nét bút đủ
vẽ rõ rệt:
Phạm công nặng sức cần vương,
Giang sơn một gánh, cương thường hai vai.
Khôn toan thay đổi cuộc đời,
Lòng trời là thế, để người cho xong.
Và đoạn dưới đây chẳng là hình ảnh người yêu còn là hình ảnh
ai nữa?
Căn gan tóc dựng đứng lên,
Tuốt gươm chém án ngâm thiên ca rằng:
Làm trai cho thoả chí trai,
Trong trần ai chớ lụy ai tầm thường,
Bốn phương hồ chỉ dây vàng,
Nhảy từng đảo lãng, bắc thang vân cà,
Tu mi tỏ mặt trượngphu,
Đơn trung hiế ưu để trả thù non sông,
Anh hùng ấy mới anh hùng,
Còn nàng, tác giả quên sao được nàng. Quỳnh Như mỉm cười đọc
đoạn văn tả nhan sắc mình, mà tác giả đặt vào miệng tiểu đồng:
Trương công là đấng nghiên đường,
Vốn giòng ngọc điệp, tên nàng Quỳnh Thư,
Xuân hoa bực ấy đương vừa,
Tuổi vừa đôi tám, phong thư lạ lùng.
Thước tầm phong dạn bằng ông,
Lam pha mày liễu, mỗ đông da ngà,
Chiều cá nhảy, vẽ nhạn sa,
Mắt long lanh nguyệ, tóc rà rà mây,
Má hồng môi thắm hây hây,
Khổ mê thươc dươc, thức say hái đường,
Chiền xanh ngọc, vẻ so vàng,
Ôi hoa vì sắc, ủ hương vì màu.
Hồi 45: Quyển Phóng
Hai bên tìm đủ cách để trao đổi thư từ văn thơ với nhau mà
Trương công và Trương phu nhân vẫn chưa ngờ vực một tí gì.
Một đôi khi, nhưng hôm mưa gió lớn, sấm chớp đầy trời. Phạm
Thái cũng mơ màng tới sự nguy hiểm gian nan của thời oanh liệt, và nhớ tới bọn
anh em đồng chí đương mạnh bạo quả quyết theo đuổi việc lớn. Những khi ấy, cái
thú ủy mị của tình yêu vị tất đã thắng nổi cái thú xông xáo theo tìm cái chết.
Nhưng than ôi, cái chế thì xa mà tình yêu thì ở ngay bên cạnh, nó dỗ dành, nó
an ủi, nó dẫn dụ mình vào cõi mộng.
Phạm Thái sợ nhất những lúc nhớ đến Nhị nương vì tình yêu của
nàng đối với trần Quang Ngọc. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm để chữa thẹn, tự tha thứ:
"Người ta làm đảng trưởng có khác! Ta ví sao được?"
Rồi chàng giật mình kinh hãi, nhầm ôn lại những điều lệ
nghiêm khắc của đảng Tiêu Sơn đối với các đảng viên, Phải, bị triều đình Tây
Sơn truy nã thì còn có thể trốn tránh được, chứ bị đảng Tiêu Sơn kết án thì chỉ
có một việc chờ chết.
Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết, chàng
không quản. Nhưng vì một người con gái, mà sao nhãng chí lớn, dù sao nhãng
trong một thời kỳ ngắn ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm. Song một ý
nghĩ còn giữ chàng lại, khác nào mảnh ván trôi sông giữ người đám thuyền lênh
đênh trên mặt nước. Chàng tự nhủ thầm: "Ừ, sao ta không dụ Quỳnh Như vào đảng
Tiêu Sơn, như ta vẫn định từ trước?"
Những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ của Quỳnh Như tỏ ra rằng nàng
là một thiếu nữ tài năng phi thường, chẳng kém gì Nhị nương. Chàng còn nhớ tới
lời bình phẩm của Nhị nương khi chàng thuật truyện Quỳnh Như cho nghe. Nàng
nói: "Đảng ta mà được người ấy thì hay biết bao!" Rồi Nhị nương
khuyên chàng nên cám dỗ Quỳnh Như, đưa nàng vào đảng.
Phạm Thái mỉm cười: "Cám dỗ thì ta đã cám dỗ xong rồi.
Chỉ còn việc đưa nàng vào đảng. Việc ấy có lẽ khó hơn nhiều. Vì chính ta còn
đương mê muội trong vòng tình ái, ta phải làm một bài thơ trường thiên để gửi
cho Quỳnh Như mà dụ nàng."
Phạm Thái vui mừng, hăng hái, lấy giấy bút ra viết.
Bọn trò nhỏ kể nghĩa xong đã xuống cả dưới nhà ngang. Chàng rất
được bình tĩnh mà nghỉ thơ.
Nhưng chàng vừa mài xong mực, thì đứa thị tỳ lên nhà họ nói
mượn cho Quỳnh Như bộ Đường thi. Kỳ thực nó chỉ cốt lên để trao cho Phạm Thái một
bức hoa tiên.
Phạm Thái vội vút cả nghiên, cả bút, vội quên cả lời khuyên
răn, dỗ dành: chàng chỉ còn trông thấy bức thư và nét bút của Quỳnh Như mà
thôi. Chàng đọc đi đọc lại bài thơ viết theo điệu Tây Giang nguyệt rồi tiện bút
tiện mực, chàng phúc đáp như sau này:
Ai lên tử các thanh vân,
Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gởi trao.
Cậy lòng vì gió đưa vào xuân cung,
Oanh yến véo von gọi khách,
Cỏ hoa hớn hở gọi ai,
Gió xuân hay hẩy giục đưa người,
Dễ khiến lòng thơ bối rối.
Thấp thoáng thời oanh dệt liễu,
Thung thăng phấn bướm dồi mài,
Vũ lăng xa diễn biết bao vời!
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Không hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Giòng ngư câu đeo lá tình chi,
May thay một hội tương kỳ,
Đã bên tình phận lại bề phong lưu,
Câu hảo cầu đợi người thục nữ,
Năm mây phong đôi chữ đồng tâm.
Đón xuân nhắn với tri âm,
Tính tình xin tỏ tiếng cầm này cho,
Rắp hẹn hò, ngồi hoa đứng tuyết,
Lòng còn e khôn biết nói năng.
Bây giờ mượn gió cung Đằng,
Vì duyên đua mối xích thằng lại đây.
Thơ rằng:
Từ chốn thềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt trong đàn oán,
Trăng lạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận,
Thì xin ân ái vẹn nên đường,
Phong lưu đội lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương?
Tục trần chi để lóa gương?
Tuyết, mai là tiết, liễu, dương, ấy tình,
Khôn hoa vừa mảnh phong thanh,
Nức gương kính các, nổi danh tao đàn,
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trang trộm thấy phong quang.
Xui lòng du tử thêm càng,
Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Tâm sự gửi hoa tiên một bức,
Từ chương khôn sánh bực hào hoa,
Những thi ân ái thế,
Tài nương xin hãy xét ta chữ tình,
Bóng quế mờ mờ trước nóc,
Hơi hương hây hẩy bên thềm.
Ngón cầm dìu dặt nhắn thâu đêm,
Văng vẳng khêu sầu dường điểm!
Cành tuyết ngoài rèm mới rớm,
Chồi mai bên cửa vừa cầm,
Vườn đào quạnh quễ mượn ai tầm,
Mấy bức gấm phong im ỉm!
Im ỉm gấm phong mấy bức,
Điểm một ngày dằng dặc dường niên,
Dễ ai đưa đón cung tiên,
Xếp nghề vũ lại, để bên trường tình,
Mâyphủ vóc hình thương cẩu.
Nguyệt mờ ám vẻ ngọc thiềm.
Bóng đèn xanh thắm lọt năm đêm,
Dì dõi khắp sầu khôn điểm.
Mấy tiếng khẽ thêm luống gẩy,
Vài phen ngấm mực còn cầm.
Tuyết lồng thôn hạnh biết đâu tầm?
Chín khúc sầu trường im ỉm.
Im ỉm sầu trường chín khúc,
Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư,
Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ,
Sầu ai luống để khách thơ thêm càng!
Viết xong, Phạm Thái đọc lại một lượt lấy làm vừa ý lắm. Lúc ấy
có lẽ chí lớn đã hoàn toàn biến thành tình yêu.
Rồi chàng ngồi chờ thị tỳ lên để trao thư cho nó đưa xuống phòng
thêu. Nhưng chờ mãi đến trưa vẫn không thấy nó lên.
Chàng sốt ruột liền nghĩ ra một cách, tuy hơi nguy hiểm nhưng
rất giản dị: là viết phóng son cho hai đứa cháu Quỳnh Như tô. Chàng tự nhủ thầm:
"Viết ra hai đoạn như thế, dẫu Trương công có đọc qua cũng chẳng hiểu được."
Chàng sung sướng làm theo ý nghĩ rồi chiều hôm ấy, chàng bảo học trò đem phóng
xuống cho Quỳnh Như xem.
Quỳnh Như gnồi bên cửa sổ, thêu chiếc riềm màn với chỉ kim
tuyến. Đã mấy hôm nay, việc nữ công nàng biếng nhác. Sáng ngày, khung cửi im tiếng,
xa không quay, quặng để nhện trăng. Nàng lấy nê mải thêu bức riềm màn tặng cha,
nhưng bức riềm màn ấy mới xong được mươi mũi chỉ. Nàng những mải ngắm trời ngắm
mây, ngắm hoa, ngắm bướm mà hết thì giờ.
Có khi đương giở mủi kim, nàng ngừng lại, đứng dậy tìm bút mực
và giấy hoa tiên, đề một bài thơ. Vì một con chim khuyên ở đầu cành liểu thướt
tha trước gió, hay đôi bướm trắng đuổi nhau lượn vòng quanh bộ núi giả vừa gợi
ra trong trí nàng một bài thơ tứ tuyệt, nên nàng vội ghi lên giấy những cảm tưởng
dịu dàng với những vần êm ái, những điệu du dương.
Quỳnh Như đề xong thơ, mỉm cười lẩm bẩm: "Cũng khá đấy!
Rồi ta nhờ Phạm quân nhuận sắc cho".
Tưởng tới Phạm Thái, nàng không khỏi bối rối. Nàng vẫn tự phụ
rằng nàng có con mắt tinh đời, đã đoán biết Phạm Thái không phải là một thiền
sư ngay từ khi chàng còn mặc áo cà sa và đeo tràng hạt. Nàng sung sướng tự nhủ
thầm: "Tài ấy mà gặp buổi thái bình thì chẳng trạng nguyên cũng thám hoa,
bảng nhỡn".
Một cảnh rực rỡ tưng bừng hiện ngay trước mắt tưởng tượng của
nàng. Một trang phong lưu công tử vừa lĩnh mũ áo trạng nguyên, cưởi ngựa vào
cung dự yến. Áo màu lam, ngựa sắc trắng, thấp thoáng dưới lầu hồng, trong đám
người xung quanh để xem mặt ông tân khoa. Ngồi trên lầu, nàng gieo xuống một quả
cầu thêu chỉ ngũ sắc...
Quỳnh Như giật mình tỉnh mộng, vì nàng vừa ném ra vườn cuộn
chỉ thêu đương cầm trong tay. Và nàng buông tiếng thở dài chán ngán, nhớ đến
cái thân thế kỳ dị bí mật của người nàng yêu: "Ừ, lạ lùng thật! làm quân
sư cho một tướng giặc, rồi đi tu, rồi lập đảng. Đời chàng sao mà nhiều gian
nguy đến thế!"
Cái bóng ông trạng nguyên cưỡi ngựa bạch đã biến thành hình ảnh
một tráng sĩ múa gươm trên lưng con ngựa nhuốm máu hồng phi nước đại ở giữa dắm
can qua, ở giữa tiếng chiêng, tiếng trống rầm trời, bụi bay mù mịt.
Quỳnh Như lo lắng, sợ hãi, tưởng tượng mình đương cùng người
yêu đứng trong vòng tên đạn.
Nàng tự thẹn và nhớ lại hôm mới biết Phạm Thái, nàng chỉ mong
ước chàng theo đuổi chí lớn, giúp nhà Lê lấy lại giang sơn. Nhưng mấy tháng xa
cách Phạm Thái đã làm cho nguội lạnh chí cao xa mà làm bồng bột tình thương nhớ.
Bây giờ, nàng chỉ lo có một điều: là phải cùng Phạm Thái biệt ly.
Nàng đương ngồi buồn rầu suy nghĩ thì Trương Đăng Quế, cháu
nàng, mang quyển phóng vào khoe:
- Cô ơi! Cô coi chữ cháu tô có tốt không?
Quỳnh Như sung sướng cầm xem, vì nàng vẫn khao khát được ngắm
nét bút tươi tắn, mềm mại của Phạm Thái. Nhưng vừa đọc được mấy câu đầu, nàng
đã phải mỉm cười:
- Cái anh chàng này mới ngỗ nghĩnh chứ! Dạy trẻ viết chữ nôm,
mà còn làm thơ nữa.
Má nàng dần dần nóng bừng. Nàng cất tiếng ngâm nga. Giữa lúc ấy,
Trương công ở ngoài vường cảnh đi tới, đưa cho nàng quyển phóng của Ngọc Dung,
cháu gái nàng:
- Con tính ông đồ Phạm Lý thế này có dở hơi không? Dễ ông đồ
dạy chúng nó làm thơ nôm!
Quỳnh Như mặt tái đi, nhưng ngàng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn
đáp lại cha:
- Dám bẩm phụ thân, có lẽ chữ nôm cũng cần lắm, Thân phụ
không coi mấy khoá trước, triều đình đều dùng chữ nôm để ra thi cống sĩ, bác
sĩ. Muốn cháu Quế mai sau trở nên ông Nghè thì phải dạy nó học chữ nôm ngay từ
bây giờ.
Kiến Xuyên hầu cười:
- Đành rằng thế, nhưng dạy một thằng bé bảy tuổi tô những câu
thơ nôm mà nó không đọc được, thì cũng hơi quá.
Hầu vừa nói, vừa dương mục kính, rồi cầm quyển phóng đọc:
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trong trộm thấy phong quan.
Xui lòng du tử thêm càng,
Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Hầu nói tiếp:
- Đấy, con coi, ông đồ họ Phạm, nguyên thiền sư, một là cuồng
chữ, hai là...
Quỳnh Như lo lắng đứng đợi thân phụ nói dút câu, nhưng Trương
công lảng ngay ra truyện khác và hỏi:
- Con thêu xong cho cha bức riềm màn chưa?
- Bẩm gần xong rồi ạ.
- Con thêu mau cho chóng xong đi, nhé?
Dút lời, Trương công thong thả lên nhà trên, vờ để quên quyển
vở của Ngọc Dung lại bên con gái yêu. Quỳnh Như mở vội ra xem thì ra hai đoạn,
hai bài viết tập, ăn khớp nhau mà chắp thành một bài thơ, một bức thơ tình.
Hồi 46: Kén Rễ
Trương công vừa khoan thai bước vừa ngẩm nghĩ đến việc biến sắp
xảy ra trong nhà mình.
Ông buồn rầu tự nhủ: "nhà ta là một nhà thế phiệt đời đời
khoa giáp xuất thân, không thể nào lại chịu để cho kẻ kia làm nhơ nhuốc được!...
Thà giết chết con gái đi còn hơn!"
Dần dần ông cũng nguôi cơn giận: "Ừ, chẳng lẽ nó theo học
đạo thánh hiền, mà lại bậy bạ được!... Ừ, cho dẫu thằng kia có định tâm gởi thư
trêu ghẹo con ta nữa, những con ta đã thuận đâu?... Phải để ta tra xét đã... Những
hạng công tử sính thơ, gặp nguồn cảm hứng thì họ viết ra những câu tình tứ đó
thôi, vị tất đã để tặng ai... Ta chẳng thấy có thầy khóa viết thơ gởi lên trời
ve vãn con Ngọc hoàng đấy Kiến Xuyên hầu bật cười lên tiếng?
- "Ồ! Tuổi trẻ!... Ngày xưa, chính ta đây thấy gái đẹp,
ta chẳng ngâm vịnh là gì! Chẳng những ngâm vịnh, ta lại còn trêu ghẹo nữa
kìa..." Hầu vui vẻ nghĩ tiếp:
- "Vả lại Phạm Thái cũng là một danh sĩ đời nay. Trí thức
ấy, học vấn ấy, thực xứng đáng với tài mạo con ta... Được, để ta xem... "
Hầu bước vào trong nhà thì vừa gặp Trương phu nhân tiễn chân
một bà khách ra cổng.
Một lát sau, chờ phu nhân trở lại. Trương công cười hỏi:
- Có điều gì vui mừng mà bà hí hửng thế?
Phu nhân cười hỏi lại:
- Đố ông biết việc gì?
- Việc của bà thì tôi còn biết sao được?
Trương phu nhân ghé vào tai chồng thì thầm:
- Ông Phủ Trịnh nhờ mối đến hỏi con Quỳnh Như Cho Cậu TrỊnh
Nhị.
Trương Công thở dài không nói gì.
- Sao! Ông không ưng chăng? ông phải biết ông phủ Trịnh giàu
nhất phủ Kiến Xương...
Trương công cười gằn, ngắt lời:
- Thì nhà ta đã nghèo đói đâu mà cần bám vào nhà giàu, mà phải
thông gia với nhà giàu?
- Vẫn biết thế, vẫn biết mình chẳng cần nương nhờ ai, nhưng
con Quỳnh Như sau này thế nào cũng yên thân đỡ phải vất vả làm lụng.
Trương công gắt:
- Làm gì bà vội vồ lấy người ta thế! Thì hãy để xem thằng Trịnh
Nhị học hành ra sao đã nào.
- Điều đó thì ông chả phải lo. Khoa mới rồi giá đừng xảy ra
việc mưu phá trường thi thì nay nó đã ông cống rồi...
- Sao bà biết? Ý chừng bà mối bảo thế.
- Sao tôi chả biết! Dễ ông tưởng gả con lại không kén chắc.
Tôi cho ngưòi dò la, chẳng những biết sức học của Trịnh Nhị, mà lại còn biết
tính nết cậu ấy nữa kia.
Trương công cắt đoạn câu truyện:
- Được, rồi biết.
Sáng hôm sau Trương công truyền làm một bữa tiệc thực long trọng
rồi cho mời Trịnh Nhị đến dự.
Nhận được thiệp mời Trịnh Nhị hí hửng, vào khoe mẹ (Trịnh phu
nhân vừa ở phủ về được mấy hôm để lo việc hỏi vợ cho con).
- Bẩm thân mẫu, việc xong rồi, Trương tướng công gửi thiệp mời
con đến dự tiệc Trịnh phu nhân vui mừng:
- Thế à? Nhưng con chắc đâu là xong?
- Sao lại không chắc. Con sang đấy sẽ giở hết tài ra, thì thế
nào Trương tướng công cũng phải phục mà bằng lòng gả Quỳnh Như cho con.
- Nhưng con cũng nên cẩn thận, mẹ nghe nói Kiến Xuyên hầu học
rộng tài cao, mà Quỳnh Như vào thơ lỗi lạc. Không khéo bị cha con họ lấn át thì
nhục đấy.
Trịnh Nhị mỉm cười:
- Thân mẫu quá lo xa làm gì thế? Cứ một cái gia tài nhà ta
cũng đủ xứng đáng với cái tài mạc của Quỳnh Như rồi. Vả lại tài nàng là tài của
một người con gái địch sao nổi tài cao, trí rộng của bậc nam nhi như con.
Chàng chắp tay chào mẹ rồi sửa soạn trang sức cực kỳ lịch sự:
Tấm khăn nhiễu tam giang mới quấn rất khéo làm lộ hẳn cái trán cao, chiếc áo gấm
lam thêu kim tuyến thướt tha chấm gót, cái quần lụa ngả mày hồng phớt trùm gần
kín đôi hài thêu. Trước khi ra đi, Trịnh Nhị không quên đánh qua một lượt phấn
gạo rồi đem các bài thơ cổ đã học thuộc lòng ra đọc một lượt.
Xong rồi, chàng thong dong nhẹ bước tới biệt thự Kiến Xuyên hầu.
Đến cổng, chàng gặp một người y phục nhã nhặn vái chào và lễ
phép nói:
- Tướng công tôi mời công tử vào chơi.
Trịnh Nhị trừng mắt nhìn rồi vái chào lại và hỏi:
- Thưa... Thưa ngài, dám xin ngài cho lãn sinh này được biết
quý tính cao danh để lãm sinh được hầu truyện.
Phạm Thái vẫn lễ phép đáp:
- Thưa công tử chúng tôi họ Phạm tên Văn Lý, được Trương tướng
công tìm đến dạy các cậu các cô con quan cố hiệp trấn Lạng Sơn.
Trịnh Nhị có vẻ kiêu hãnh:
- À! Thầy đồ. Vậy mời thầy đi, lãn sinh xin theo.
Phạm Thái cố nén lòng căm tức, ôn tồn nói:
- Thưa lãn tiên sinh, chúng tôi lấy làm...
Trịnh Nhị chau mày, ngắt lời:
- Thầy đồ mà không biết hai chữ lãn sinh ư? Tôi nhún mình mà
tự xưng là lãn sinh, chứ có phải tên hiệu tôi là Lãn sinh đâu.
Phạm Thái vờ giật mình, xin lỗi:
- Chết chửa, chúng tôi vô tình xúc phạm tới công tử, xin công
tử đại xá cho.
Vốn chúng tôi có biết tiếng cụ Lãn ông Nguyễn Hữu Huân, nên
tưởng công tử cũng lấy mỹ tự Lãn sinh. Vậy xin công tử cho chúng tôi rõ quý hiệu,
để chúng tôi được hầu chuyện.
Trịnh Nhị tỏ vẻ khinh bỉ, vờ không nghe rỏ, rảo bước đi vào
trong nhà, đến trước mặt Trương công và Trương phu nhân, lễ phép chắp tay vái:
- Vãn sinh Trịnh Nhị xin cúi đầu lạy trình.
Trương phu nhân vội đứng dậy niềm nở mời chào:
- Mời công tử ngồi chơi.
Rồi phu nhân lảng vào buồng bên để mình Trương công tiếp hai
chàng thiếu niên.
Quỳnh Như thấy mẹ vào, liền hỏi:
- Bẩm mẫu thân ai vừa đến chơi, con coi như người gặp ở chùa
Non Nước ngày nào.
Trương phu nhân cười mắng yêu con:
- Mày nấp nhìn trộm người ta đấy à? Ngày nay chúng mày đáo để
quá. Thời thầy mày làm rể, tao nghe nói đến tên ấy đã đi trốn biệt.
Quỳnh Như tái mặt suýt ngất đi: "Thì ra cái người đọc
thơ cũ nhận là thơ của mình, cái cậu ấm dốc ấy, chính là vị hôn phu của ta
đó!"
- Con sao thế?
- Bẩm thân mẫu, con hơi váng đầu. Nhưng không sao!
- Vậy con đi nằm nghỉ.
- Bẩm được, thân mẫu để mặc con.
Rồi nàng tìm vào ngồi trong xó tối bưng mặt khóc thút thít.
Nàng vụt nghĩ đến mấy câu thơ trong bài "Cầm tháo" của Phạm Thái:
Im ỉm sầu trưởng chín khúc,
Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư,
Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ,
Sầu ai luống khách thơ thâm cùng.
Nàng lau nước mắt rồi lẩm bẩm nói một mình.
"Hay chàng biết rằng ta sắp về tay người khác... Không,
không thể nào thế được, thà ta tự tử cho hết kiếp, chứ bắt ta lấy con người dốt
nát, đần độn ấy thì ta nhất định không nghe".
Nàng lại nghĩ: "Can chi phải khóc lóc, buồn bã. Rõ ta
cũng trẻ con! Với lại đã có gì gọi là chắc chắn!"
Rồi nàng gượng đi trang điểm, vì nàng sợ nhỡ thân phu vào
trông thấy dung nhan tiều tuy mà hiểu thấu lòng nàng chăng. Đoạn nàng đứng bến
cửa buồng nấp sau bức rèm, ghé mắt nhòm ra nhà ngoài.
Lúc bấy giờ vừa bắt đầu vào tiệc. Trương công nâng chén nói:
- Ngày xuân không gì thú bằng uống rượn ngâm thơ. Lão gia
nghĩ thế nên có buổi chén xoàng này mời hai thiếu niên thi sĩ đến chơi cùng
nhau xướng họa cho lão được quên trong chốc lát cái tuổi già nua yếu đuối.
Trịnh Nhị nghĩ thầm: "Rõ Trương tướng công khéo bày vẽ
giở giọng văn hoa. Thì cứ nói phăng là thử tài chú rể này có xong không. Tài tướng
công thì là một mớ tài cổ, ta không lo lắm. Vã dầu ta có kém thì con rể kém bố
vợ, lý ấy là thường. Đến như cái anh đồ đạc kia, chẳng qua là một anh hủ nho,
có hai chữ lãn sinh còn không thủng nghĩa, nói gì làm thơ phú?"
Không thấy ai trả lời, Trương công nói tiếp:
- Thế nào! Hai công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị mỉm cười vì chàng không hiểu sao Trương công lại gọi
thầy đồ kia là công tử. Nhưng Phạm Thái đã đứng dậy chắp tay lễ phép nói:
- Bẩm tướng công, vãn sinh học vấn được mấy nả, mà dám múa
dìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm...
Trịnh Nhị tiếp:
- Sao mà ông đồ giỏi phương ngôn, tục ngữ thế?
Phạm Thái vờ không nghe rõ câu chế riễu, nói luông:
- Nhưng tướng công đã dạy đến, văn sinh đâu dám từ nan.
Tướng công cười:
- Phạm công tử nhún mình lắm?!Văn tài của công tử, lão gia
còn lạ gì?
Trịnh Nhị giật mình: "Chết chưa, thằng này dễ thường đã
xướng hoạ với Trương công nhiều lần rồi chăng!"
- Trịnh công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị cũng đứng dậy trả lời:
- Dạ, xin tướng công cứ đề ra cho.
Trương công nâng rượn mời, rồi nói:
- Còn phải tìm đầu đề ở đâu nữa? Ta đương vui chén với nhau,
chi bằng lấ ngay đề "Ngày xuân uống rượn," mà vịnh một bài Đường luật
thất ngôn bát cú.
Phạm Thái còn đương tìm vần thì Trịnh Nhị đã mỉm cười, nói:
- Dám bẩm tướng công, làm bằng hán tự có được không?
- Cũng được.
- Vậy, vãn sinh xin đọc:
Cẩm giang xuân sắc hội thi ngâm,
Ngọc lũy phù vân biến cổ câm...
Phạm Thái thản nhiên đọc luôn:
Bắc cực triều đình chung bất cải,
Tây sơn khấu đạo mai tương xâm.
Rồi nói tiếp:
- Bẩm tướng công, không ngờ, Đỗ, Trịnh lưỡng thi gia, lời văn
lại giống nhau đến thế! Mà lại hợp lắm! Nhất là hai câu dưới.
Trịnh Nhị cãi:
- Bẫm tướng công, anh đồ này dám hỗn xược trước mặt tướng
công. Bắc chước cổ nhân là một sự thường chứ! Không đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, một
thi sĩ đời nay chỉ viết nên những câu vô vị.
- Vâng, công tử dạy rất phải. Đã là văn nhân thì ai không đọc,
không thuộc Đường thi. Chẳng nói ai, chứ như bỉ nho đây, giá không thuộc Đường
thi, nối điệu sao được với công tử.
Trương công sợ hai người sinh ra to chuyện, liền nói chữa cho
Trịnh Nhị:
- Lão gia coi ra hai công tử cùng đọc rộng, nhớ nhiều. Bài
thơ ấy thực lão gia chưa xem qua, thế mà hai công tử đều biết, đủ rõ học vấn
hai công tử suýt soát nhau. Thôi tranh biện làm gì vô ích, xin hai công tử cạn
chén rồi mỗi người làm một bài thơ nôm chơi.
Trịnh Nhị nhìn Phạm Thái cười nhạt:
- Vậy mời tiên sinh vịnh trước cho, lãn sinh xin hoạ theo.
Phạm Thái ngả đầu, ung dung đáp:
- Xin lĩnh ý.
Rồi quay lại Trương công, chàng chắp tay vái:
- Bẩm tướng công cho phép.
Trương công vui vẽ:
- Xin công tử cho nghe những lời châu ngọc.
Phạm Thái liền đọc:
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
Hơi xuân hây hẩy động rèm dương,
Thổi hợn lăn tăn nước rượu vàng.
Rạng rỡ tiên hoa khoe tử sắc,
Nồng nàn thánh tửu tỏa mê hương.
Đầu xanh trước gió lao đao chuyển,
Tóc bạc sau mây lỏa tỏa vương,
Có rượu có thơ xuân có mãi,
Một năm ba vạn sáu thiều quang.
Kiến Xuyên hầu vỗ đùi khen:
- Hay! Hay lắm1 Có rượu có thơ xuân có mãi. Một năm ba vạn
sáu thiều quang! Hay! Đúng lắm. Công tử làm lão gia trẻ hẳn lại.
Hầu cất tiếng cười vang, cặp mắt nheo, mặt hây hây đỏ. Rồi hầu
thưởng Phạm Thái một chén rượn đầy, Phạm Thái tạ ơn, uống một hơi cạn.
Trịnh Nhị tức uất người, nhưng cũng gượng mời Phạm Thái một
chén rượn nữa, Phạm Thái mỉm cười nói kháy:
- Thưa công tử, tài làm thơ ngu để chẳng bằng ai, nhưng tài uống
rượu thì ít người bì kịp. Công tử ban thưởng, một chén, chứ đến mười chén, ngu
đệ cũng không từ chối?
Chừng để kéo dài thời giờ ra, Trịnh Nhị vịn ngay lấy câu ấy,
đứng dậy nói:
- Dám bẩm tướng công, Phậm công tử đã dạy thế, vãn sinh xin
phép tướng công mừng Phạm công tử đủ mười chén rượu nữa.
Trương công sợ Phạm Thái quá say, liền nói gạt:
- Rượu uống dần ít một mới ngon. Vả hai công tử phải tỉnh mà
làm thơ, chứ say li bì thì còn sao trông rõ cảnh mà ngâm với vịnh?
Phạm Thái đáp:
- Xin tướng công cứ cho phép vãn sinh nhận mười chén rượn mời
của Trịnh công tử.
Rồi chàng quay ra bảo Trịnh Nhị:
- Bỉ nho xin uống thật thong thả, để công tử có đủ thời giờ gọt
dũa bài thơ họa cho được toàn bích.
Trương công nói:
- Phạm công tử cũng nên đọc lại bài tho một lượt để Trịnh
công tử nhớ kỹ lấy vạn Phạm Thái vâng lời cao giọng ngâm, vì chàng biết thế nào
Quỳnh Như cũng nấp đâu đó để nghe. Ngâm xong, chàng ngồi yên, nhấp chén đẻ Trịnh
Nhị được bình tĩnh mà nghĩ thơ.
Nhưng khi chén thứ mười đã cạn. Trịnh Nhị vẫn loay hoay chưa
tìm được vần.
Chàng đánh trống lãng nói với Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, cổ nhân dạy: "Xuất đối dị đối đối
nan", quả không sai. Đối một câu đối, mà cổ nhân còn cho là khó hơn ra một
câu đối, huống nữa lại hoạ một bài thơ. Kể họa bậy, họa bạ, thế nào xong thôi
thì cũng dễ, nhưng họa được một bài nghiêm chỉnh cả từ lẫn ý, mà lại muốn có phần
xuất sắc hơn bài xướng đề thì thực là khó khăn quá.
Trương công muốn giữ thể diện cho chàng mốt chút, gật gù nói:
- Phải lắm, công tử nói phải lắm Vậy công tử bất tất phải họa,
cứ làm ngay một bài thơ khác, hoặc ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, hoặc cổ phong
hay Đường luật bát cú cũng được.
Giữa lúc ấy một đứa thị tỳ ra, dâng lên Trương công một tờ
hoa tiên mà nói răng:
- Dám bẩm tướng công, có người mạn phép tướng công họa giúp
Trịnh công tử một bài.
Trương công chau mày lẩm nhẩm đọc, rồi cười bảo hai người:
- Lời thơ còn non nớt quá!
Phạm Thái xin được ngâm. Kiến Xuyên hầu liền đưa cho chàng
bài thơ hoạ mà hầu thừa biết là tác phẩm của con gái yêu. Phạm Thái đọc thực to
cốt để trêu tức Trịnh Nhị.
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
(họa nguyên vận)
Rực rỡ trời xuân ánh thái dương,
Xuyên qua chén rươu nhuốm màu vàng.
Hoa xuân hn đáo thầm phong nhụy, Men rươu nồng nàn ngát tỏa
hương.
Má phấn say xuân hây ửng đỏ,
Thơ tình thiế uu rươu rối vản vương,
Tìm vần trong rượu vần không thấy,
Chỉ thấy xuân đầy vẻ diệm quang.
- Trời ơi! Hay! Hay quá, hay lấn át hẳn bài xướng! Hay không
tìm được lài mà khen ngợi nữa.
Trương công chữa thẹn cho Trịnh Nhị:
- Công tử khéo chế riễu quá. Thực Trịnh công tử nói không
sai, họa vẫn khó hơn xướng. Đấy, hai công tử coi, trong bài họa vần nào cũng
dùng ép cả: "Vấn vương" nghe sao được? Còn hai chữ "diệm
quang" thực chẳng thoát tý nào.
Phạm Thái đã chếnh choáng hơi men, đứng dậy cải:
- Bẩm tướng công chê bài họa thì vãn sinh không phục. bài ấy
hay, hay lắm. Câu phá mạnh mẽ biết bao, câu thừa tự nhiên lạ lùng. Hai câu thục
tuy không đặc sắc, nhưng cũng chẳng dở. Hai câu luận thì âu yếm quá. Tuy hơi...
chua chát chút đỉnh Còn hai câu kết, trời ơi! Hai câu kết đến Lý Bạch cũng vị tất
đã có hai câu kết ấy. Mà xin tướng công nhận cho điều này: Trong mỗi vế, chữ
"rượu" đều đối với chữ "xuân", thực hợp với đầu đề
"Ngày xuân uống rượu".
Trịnh Nhị tái mặt đi, xừng xộ mắng Phạm Thái:
- Thầy đồ vô lễ quá! Làm gì mà tướng công không nhận ra được,
lại phải nhờ đến thứ thầy. Còn như thầy khen bài thơ họa hay, thì điều ấy chẳng
lạ. Nó cũng na ná như bài thơ của thầy nghĩa là rất tầm thường.
Phạm Thái cười khinh bỉ không thèm đáp rồi thì thầm ngâm lại
bài thơ. Đoạn chàng rót đầy một chén rượu mà mời rằng:
- Vản sinh, xin phép tướng công, tự thưởng một chén rượu, vì
đã có diểm phúc được nghe một bài thơ hay.
Ngôn ngữ cử chỉ của Phạm Thái làm cho Kiến Xuyên hầu càng thấy
rõ tình yêu của chàng đối với Quỳnh Như và càng mong ước cho hai người nên vợ,
nên chồng. Hầu lại ngảnh nhìn Trịnh Nhị nghĩ thầm:
"Tài nữ mà sánh đôi với thằng ngu độn thì thực ngọc quý
để ngâu vầy".
Nhưng Trịnh Nhị đã đứng dậy nói:
- Văn sinh xin đọc, có đoạn nào kém, nhờ tướng công phủ chính
cho.
Rồi chàng cất tiếng ngâm ồm ồm:
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU
Ngày xuân uống rượu ngâm thơ tiên,
Xuân thắm rượu nồng tỏa hơi men,
Liễu yếu trước thềm tha thước lá,
Đào thơ bên cửa thắm màu sen,
Đưa thoi chim én bay vùn vụt,
Xòe cánh bướm vàng lượn chập chờn,
Nhấp chén toan đề bài vịnh cảnh,
Nhưng còn mãi ngắm buổi xuân thiên.
Chàng vừa đọc dút bài, bỗng có tiếng cười thé ở buồng bên vọng
lại. Trương công cố thản nhiên, gật gù khen lớn để Trịnh Nhị không nghe thấy tiếng
cười chế nhạo:
- Hay! Hay! Tuy vần không được chính lắm! Nhưng khuyết điểm
nhỏ nhặt ấy kể chi?
- Bẩm vâng, hay thực mà không thất niêm một câu nào.
Trịnh Nhị tưởng hai người khen thành thực đã vội tự phụ:
- Dám bẩm tướng công, văn sinh quả không hay làm thơ nôm. Có
thì giờ rãnh, văn sinh chỉ tập làm thơ chữ Hán. Rồi vãn sinh xin đem trình Tướng
công tập thơ của văn sinh, để tướng công nhàn lãm.
- Phải đấy! Bây giờ thì mời hai công tử uống rượn đã, mà xin
uống thực say cho.
Hồi 47: Nói Chuyện Văn Chương
Phạm Thái đang ngồi mở quyển Hán để ra câu đối cho học trò nhỏ
thì Kiến Xuyên hầu bước tới ôn tồn hỏi:
- Hôm qua công tử uống rượU say thế mà hôm nay cũng dạy sớm
được?
Phạm Thái vội vàng đứng lên chắp tay vái dài:
- Bẩm tướng công, hôm qua vãn sinh quá chén, có lầm lỡ điều
gì, xin tướng công tha tội cho.
Kiến Xuyên hầu vuốt râu cười ha hả:
- Đã uống thì phải say, say thì phải bỏ sự giữ lễ đi, như thế
mới thú chứ.
Hầu lại cười rồi đột ngột hỏi:
- Công tử đã đọc thơ Mộc Lan chưa, nhỉ?
Phạm Thái hơi chột dạ, đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu. Thì Kiến
Xuyên hầu đã nói tiếp:
- Giá thời nay, người mình cũng viết theo đẻ ấy thì tất đã đổi
lại. Chẳng hạn nói nàng Mộc Lan cải nam trang đi đánh giặc. Khi thắng trận về
triều, gặp một ông trạng nguyên trẻ tuổi, liền phải lòng, rồi bỏ cả chiến bào
mà mặc áo xiêm, rồi cùng trạng nguyên kết hôn. Viết như thế mới có hậu, phải
không công tử?
- Dạ.
Phạm Thái sợ mướt mồ hôi, chân tay run lặp cập, chàng nghĩ thầm:
"Thôi, chắc Trương công đọc qua truyện "Sơ kính tân trang" của
ta rồi. Ta đã dặn Quỳnh Như giữ kín không cho ai xem qua, sao nàng vô ý đến thế
để Trương công vớ được Thế này thì còn gì là thể diện, còn gì là danh dự ta nữa?"
Nhưng chàng cũng đánh bạo đáp lại:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dạy thế, thực là chu đáo.
Nhưng kể bài thơ cổ cũng có nhiều câu khảng khái.
- Thì vẫn khảng khái, hùng dũng. Nhưng thời nay làm gì có hạng
người khảng khái, hùng dũng, phải không, công tử? Một bài thơ đầy ý tưởng uỷ mị
mới tả được những tâm tình uỷ mị.
Rồi hầu cao giọng ngâm:
Vua ban vàng bạc Mộc Lan từ,
Liền cấtLan lên chức thượng thơ,
Nhưng Lan chẳng th ích làm quan thượng...
Thấy Kiến Xuyên hầu ngừng lại, Phạm Thái liền bạo dạn hỏi:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dịch?
- Phải, lão gia cũng vừa ngẫu nhiên nghĩ mà dịch liều một đoạn
ra quốc âm, nhưng được có ba câu đã thấy cạn giòng... Kể nhà vua cũng nông nổi
quá. Mới đem vàng, bạc, cùng chức thượng thư ra thử bụng tráng sĩ thì đã biết
đâu rằng tráng sĩ chỉ thích được một con lạc đà để phi về quê thăm nhà? Sao
không đem một công chứa diểm lệ ra, xem tráng sĩ có coi công chúa quý hơn con lạc
đà không.
Phạm Thái cố lấy giọng tự nhiên đáp lại:
- Bẩm tướng công, thử như thế cũng vô hiệu, vì tráng sĩ chỉ
là một thiếu nữ cải nam trang.
- Đành thế, nhưng nhà vua vẫn tưởng Mộc Lan là một nam nhi có
dũng cảm.
Đến đây, Kiến Xuyên hầu phá lên cười, nói tiếp:
- Kể ra thời nay bọn nam nhi còn thua Mộc Lan nhiều!
Hầu vờ lỡ lời xin lỗi, rồi lại nói:
- Lão già này rõ lẩm cẩm quá. Đương câu truyện van chương lại
nói liên miên đến việc thì thế... À lâu nay công tử có làm được bài thơ nào hay
đọc cho lão gia nghe với.
Phạm Thái chưa kịp trả lời, hầu đã khéo nói lảng, hình như cốt
để chàng quên câu truyện Mộc Lan đi:
- Hay đại khái như bài thơ của Trịnh công tử hôm qua.
Cả hai cùng cười, Phạm Thái tưởng Kiến Xuyên hầu lên nhà trên
đã mừng.
Nhưng hầu chỉ ra đứng ở hiên một lát, rồi lại quay vào hỏi Phạm
Thái:
- Công tữ hẳn đã đọc truyện Thôi Oanh Oanh?
- Bẩm tướng công, vãn sinh mới được đọc bộ Tây Sương ký.
- Cũng được! Tuồng Tây Sương ký còn có phần đặc sắc hơn tiểu
thuyết Thôi Oanh Oanh. Vậy công tử cho biết ý kiến về áng văn ấy.
Lần thứ hai Phạm Thái kinh hãi, nhưng cố giữ nét mặt thản
nhiên:
- Bẩm, văn chương rất hay.
Tướng công như không nghe rõ câu khên ngợi của Phạm Thái nói luôn:
- Bao giờ cũng vậy, loạn thường từ trong nhà loạn ra. Trương
quân Thụy không phải là Thôi phu nhân thì gặp sao được Thôi Oanh Oanh. Đã không
gặp mặt Thôi Oanh Oanh thi thơ từ xướng họa với nhau sao được? Giá Trương quân
Thụy biết tự trọng mà lẳng lặng bỏ ra đi, thì đâu đến nỗi xuác phạm tới danh tự
nhà họ Thôi.
Thấy bọn trò nhỏ đã tề tựu lên học, Trương công mỉm cười gật
chào Phạm Thái, rồi thong thả bước xuống thềm nói tiếp:
- Bỏ ra đi, rồi tùy ý, muốn đi hẳn không quay về nữa cũng được,
hay muốn nhờ mối lái hỏi Thôi Oanh Oanh làm vợ cũng được.
Sáng sớm hôm sau, Phạm Thái cáo biết Kiến Xuyên hầu, xin phép
về quê thăm nhà. Hầu đã thừa biết chàng chẳng còn họ hàng thân thích nào nữa.
Song hầu không đả động gì đến điều ấy, cốt để chàng đi ngay.
Hầu vẫn yêu mến chàng và bằng lòng gả Quỳnh Như cho chàng,
nhưng hầu muốn tránh hẳn sự hiềm nghi.
Chàng vừa đi được một lát thì mụ mối nhà họ Trịnh đã sang nói
chuyện về việc hôn nhân của Trịnh Nhị.
Trương công và Trương phu nhân hỏi ý kiến nhau. Nghe chồng ngỏ
lời muốn gả Quỳnh Như cho Phạm Văn Lý. Trương phu nhân dẫy nẫy, nhất định không
bằng lòng nhận một anh sư phá giới làm rể.
Kiến Xuyên hầu biết Phạm Thái là con Trạch Trung hầu, nhưng
không muốn tiết lộ tung tích của chàng ra với một ai, vì hầu đã rõ chàng đương
bị triều định truy nã. Hầu chỉ mỉm cười bảo phu nhân:
- Bà không ưng Phạm Văn Lý làm rể thì thôi. Nhưng tôi xin bà
đừng vội hấp tấp gả hoài gả hủy cho một gã vô học.
Về các việc, mà nhất là việc hôn nhân trong một gia đình, bao
giờ ý muốn của bà cũng lấn át ý muốn của ông. Dẫu ngày xưa hay ngày nay cũng thế
thôi.
Hồi 48: Khóc Trương Quỳnh Như
Những nếp nhà lợp cói lẵng lẽ dưới sự sầu thảm vừa xảy ra:
Cái chết của Trương Quỳnh Như.
Giữa hôm ăn hỏi linh đình, nàng đã nhờ chiếc giây lưng nhiễu
đưa hồn về nơi cực lạc Trên thửa vườn cao, song song hai ngôi mộ chưa xây. Đó
là nơi yên giấc trăm năm của Thanh Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như vậy.
Trời đã gần tối mịt. Đường làng vắng ngắt kể vãng lai. Bỗng một
ky sĩ phi ngựa tới, ghi cương ở bên cây liễu cạnh mồ, rồi nhảy vội xuống, nằm vật
ra đất khóc thảm thiết.
Người ấy là Phạm Thái, cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng
trưởng kiêm chức quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha trong
rừng gươm dáo, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghĩ lực để
phấn đấu.
Vì người ấy yêu.
Nằm khóc một hồi lâu, Phạm Thái ngồi dậy lau nước mắt, mở đẫy
lấy hương và sáp ra thắp.
Rồi quỳ bên mồ đọc bài điếu văn sau này:
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác bởi vì đâu?
Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lầu trăng rằm!
Lại có điều đau đớn thế! Nhà huyền ví có năm có bảy, mà riêng
một mình nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội, nước voi còn có lẽ. Thương hại thay!
Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đoá. Thân
hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một hếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng
nước Nhược, đính gì không đoái đến cõi phù sinh.
Ví dù hếp mà tiên thù với tục, sao xưa ha vâng mệnh xuống trần
chi? Nay đã nguyện thân này cho vẹn hếp thì cũng trọn ba vạn sáu ngàn ngày cho
đủ lệ: nọ xuân huyên, kia phu tử góp với trần gian không chút bận, rồi sẽ rong
chơi chín suối cớ gì riêng bỗng vội vàng chi?
Ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyện suồng sẽ, những như thân gia ấy,
tình cảnh ấy ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng
thân kia thích nọ, những tình duyên là chừng ấy, cũng là một chút cương thường:
dẫu rằng kẻ đây người đấy, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự!
Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân
duyên: mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận quá ngang tàng tính mệnh.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm; chua xót
cũng vì đâu?
Nay qua nắm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, xùi xụt hai hàng
tình lệ, giải bầy một bức khốc vãn; đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử.
Đọc xong, Phạm Thái vừa khóc, vừa châm lửa đốt bài điếu văn.
Rồi chàng lên ngựa đi.
Hồi 49: Trên Đường Thiên Lý
Hai năm sau.
Một hôm trời đông đã về chiều. Trên con đường thiên lý, một
thiếu niên tráng sĩ buông lỏng cương thong thả cho ngựa đi về phía Nam.
Vẻ mặt chàng buồn rầu, chán nản. Y phục chàng đầy bụi và bùn.
Đến phố phủ Lý Nhận, chàng dừng ngựa trước cửa một tửu quán,
vào đó nghỉ trọ một đêm để mai đi Nam Thành sớm.
Chàng đương ngồi nhắm rượu, đăm đăm suy nghĩ đến những sự biến
cố của một đời vô định thì ở ngoài đường có tiếng ngựa hí.
Rồi theo đêm tối, theo luồng gió lạnh và hạt mưa phùn, một
trang thiếu niên tuấn tú quăng mạnh mình vào trong quán:
- Sắp rượu mau, bớ chủ quán! Ta vừa đói vừa rét đây!
- Dạ!
Nghe giọng nói trong trẻo của khách mới đến người ngồi uống
rượu phải ngửng đầu trông lên, chàng sung sướng cười bảo tửu quán:
- Lấy chén, lấy đũa bát để công tử cùng ngồi uống rượu với ta
cho vui.
Rồi chàng quay ra lể phép nói với người kia:
- Thưa công tử, công tử cho phép tôi được hầu công tử đêm
nay.
Một cái mỉm cười đi theo liền với chữ "đệm" có biết
bao nhiêu nghĩa, khiến người mới đến hiểu ngay. Chàng lại gần thì thầm:
- Hiền huynh!
Người kia cũng thì thầm đáp lại:
- Hiền hữu.
Cơm rượu xong, chủ quán thấy hai người thân mật với nhau liền
hỏi:
- Thưa hai công tử ngủ riêng giường hay cùng chung một giường?
Nhị nương phá lên cười, đưa mắt liếc Quang Ngọc, rồi đáp:
- Ta không quen ngủ chung với ai bao giờ. Nhưng bác quán cứ
đi ngủ trước, để chúng ta bàn luận văn chương, nghe?
- Dạ.
Đêm đã khuya, hai người còn thì thầm nói chuyện. Nhị nương
thuật với Quang Ngọc công việc điều tra của nàng về tung tích Phạm Thái: nào
chàng mê man say đắm Quỳnh Như, náo Quỳnh Như tự vận vì chàng. Quang Ngọc lộ vẽ
căm tức trên nét mặt. Chàng hỏi:
- Vậy bây giờ Phạm Thái ở đâu?
- Thưa hiền huynh, hai năm nay hắn đi biệt tích, chỉ lẻn về
Thanh Nê có hai lần: một lần đọc bài khốc vãn, một lần để nghêu ngao hát bài
triệu linh bên mồ người mệnh bạc.
Quang Ngọc cười chua chát:
- Không ngờ Phạm Thái mà trẻ con được đến thế nhỉ!
- Vâng, Phạm Thái cũng trẻ con như văn thơ của hắn.
Nhị nương mở khăn gói lấy đưa cho Quang Ngọc một tập giấy và
nói tiếp:
- Đây, tác phẩm của anh chàng mê gái: mà ngu hữu đã sưu tầm
được, tuy hãy còn khiếm khuyết nhiều.
Quang Ngọc đọc sơ một lượt, rồi buồn rầu, giận dữ ném tập thơ
xuống giường. Nhị nương thở dài, hỏi:
- Hiền hữu định sao?
Quang Ngọc hỏi lại:
- Định cái gì?
- Việc đảng.
Quang Ngọc ngồi yên lặng giờ lâu, ngẫm nghĩ:
- Vận chưa gặp! Khó lòng quá!
Rồi chàng báo cho Nhị nương biết rằng Trịnh Trực đã bị hành
hình ở Kinh Bắc, Đình Phùng bị bắt giải về Phú Xuân. Tửu quán Bạch Phượng cũng
đã đóng cửa, vì các bạn đồng chí tan tác cả, để nơi hội họp kia phỏng có ích
gì!
- Còn Lê Báo?
- Lê Báo vẫn nương náu ở chùa Yên Tử trấn Hải Dương. Bây giờ
hắn thành thực mộ đạo Phật như một nhà chân tu vậy.
- Thế chúng ta?
- Chúng ta chờ đợi dịp để hành động. Hành động là phận sự của
chúng ta. Không hành động, thì đời chúng ta không còn có nghĩa gì nữa phải
không hiền hữu?
Nhị nương mỉm cười:
- Thưa hiền hữu phải lắm.
Quang Ngọc như mê man nói luôn:
- Hành động! Hành động!
Nhị nương nhìn chàng, buông một tiếng thở dài não nuột.
Sáng hôm sau hai người từ biệt nhau: Nhị nương ngược Bắc
thành, Quang Ngọc xuôi Nam thành hẹn một ngày kia sẽ hội ngộ.
Nhị nương kìm cương ngựa, hỏi với một câu:
- Nhỡ không hội ngộ?
- Cũng chẳng sao? Vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng ở bên
nhau. Một người trong bọn ta làm một việc trái với bổn phận, đã tưởng nghe rõ
tiếng thống trách của bạn đã tưởng nhìn thấy cặp mắt nghiêm nghị của bạn. Mà
khi ta có việc đáng thi hành ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng
tình của bạn rồi. Vậy thì chúng ta có ở xa nhau đâu? Tình bằng hữu của chúng ta
đã thành một sự thiêng liêng.
Nhị nương chắp tay vái.
- Vâng, tình bằng hữu của đôi ta!...
Rồi nàng rẽ cương quay đi.
Qua quãng đường gần một khuỷ sông Đáy, nàng văng vẳng nghe có
ai hát nghêu ngao. Kìm cương ngựa nhìn kỹ, nàng thấy ngồi dưới gốc đê bên bờ
sông, một anh chàng câu cá, đầu đội nón tre đan, vai khoác áo lá.
Cho ngựa thong thả bước tới gần, nàng dừng lại ngắm nghía:
người câu cá đưa hồ rượn lên miệng một hơi rồi ngâm:
Sống ở dương gian đánh chén nhà,
Chết về âm phủ cấp kè kè,
Diêm vương phán hỏi rằng: chi đó?
Be!
Nhị nương đoán chắc là Phạm Thái, nhưng vẫn yên lặng ngồi
trên mình ngựa để chờ xem anh chàng chán đời kia còn làm những trò gì nữa.
Thì Phạm Thái lại cất giọng ngâm:
Đưa lời cho tới cung mây,
Sau này xin gửi cho dây với cùng,
Túi thơ hồng trách ai se mối,
Đến nửa chừng bỗng mới dãn ra,
Căm thay một ả trăng già,
Trêu người chỉ mãi chẳng tha thế này.
Nhị nương giật cương ra roi phi thẳng.
Nghe tiếng động, người câu cá quay lại, cười lớn:
- Mời khách qua đường hãy dừng vó ngựa uống với ta một hớp rượu!Ha
ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu.
Nghĩ một lát, chàng lại nói:
- Ha ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ
nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét