Hồi 13: Quần Sư Tụ Hội
Luôn mấy hôm chùa Tiêu Sơn làm lễ dâng sao. Khách thập phương
kéo đến rất đông. Mà sư các nơi đến họp giảng kinh cũng nhiều lắm. Hai chữ
"dân sao" đem dùng vào chùa Tiêu Sơn thật đúng vì đêm, người ta đứng ở
các ruộng thấp chung quanh, ngước mắt nhìn lên chùa thấy quả đồi đã thành một
chòm sao "tua rua" lấp lánh bên những khóm lá đen um của mấy cây thị
cao ngất. Vì thế, ngoài khách đến lễ, lại còn khách đến ngắm cảnh chùa nữa, tối
nào cũng người lui người tới rầm rập quá nữa đêm chưa ngớt.
Nhưng lễ dâng sao chỉ là một cớ để các tráng sĩ đảng Tiêu Sơn
tụ hội đó mà thôi Tan đàn được một hôm thì chư tăng bắt đầu vào làm lễ thiền định.
Suốt một ngày một đêm, mấy trăm sư nhịn ăn và chỉ uống nước lã, để được tĩnh
tâm trí mà nghiền ngẫm đến chân lý của đạo nhiệm mầu. Trong khi ấy, các cổng chủa
đóng chặt, không để một người trần tục nào lui tới.
Hôm đó, ai đến Tiêu Sơn tất đã được mục kích một cảnh tượng rất
oai nghiêm và cảm động.
Trên chùa, một dẫy chiếu giải kín năm gian. Các nhà sư chia
ra hai hàng, ngồi xít vào nhau, mỗi người tay cầm một quyển sổ trong có chứa những
ý riêng của mình để đem ra bàn.
Một hồi chuông gióng giả trong không.
Đối với nhân dân quanh vùng thì đó là hồi chuông bắt đầu vào
lễ tĩnh tọa. Và những người thực mộ đạo nghe thấy tất chắp tay vào ngực mà thì
thầm tụng niệm bài kinh sám hối.
Nhưng kỳ thực, đó chỉ là một hồi chuông khai mạc hội đồng bí
mật. Mấy trăm thiền sư ngồi xếp bằng trên chiếu, lặng lẽ cúi đầi, trông rất có
vẻ trầm tư mặc tưởng.
Dút hồi chuông, Quang Ngọc ngồi giữa, giáp lưng vào tường, đứng
dậy nói:
- Nam vô a di đà phật!
Mọi người đáp lại:
- Nam vô a di đà phật!
Quang Ngọc chờ cho ai nấy im lặng, rồi nói tiếp, tiếng nghe
sang sảng:
- Đây là nơi tu hành. Anh em ta chỉ ẩn núp dưới bóng từ bi để
lam việc lớn. Vì thế Ngọc này đã cùng anh em đồng chí khai mạc hội đồng bằng một
câu niệm phật, tức là để dâng lời tạ tội chân thành lên đức Phật tổ Như Lai.
Chàng ngừng một phút đưa mắt nhìn mọi người:
- Bây giờ đến việc của chúng ta: việc lớn, việc nước, Những
người đến bàn việc trọng đại ấy họp ở đây không phải là cách thiền sư nữa. Ngững
người ấy chỉ là một bọn đồng chí đã thề với nhau tôn phò nhà Lê. Ngững người ấy
đã cử Trần Quang Ngọc này lên chức đảng trưởng, lên ngôi minh chủ, thì trong
lúc này Ngọc tôi không còn là Phổ Tĩnh thiền sư mà chỉ là Trần Quang Ngọc, tôi
trung của nhà lê.
Chàng chỉ một cái hộp đỏ bên trái:
- Đây là ấn tín anh em giao cho. Cái mệnh lệnh độc đoán của
nó, hẳn anh em đã rõ.
Rồi trỏ thanh kiếm đặt bên phải:
- Đây là thanh bảo kiếm anh em giao cho. Cái sức mạnh quả quyết
của nó, anh em chẳng còn lạ. Hôm nay anh em ta họp nhau ở đây vì một việc khẩn
cấp. Trước khi bàn đến việc ấy tôi xin trình bày với anh em tình hình của đảng.
Quang Ngọc tra xét các sổ sách rồi lại nói:
- Về binh khí, hiện nay ta có năm mươi cây hoả mai cướp được
của các huyện, các đồn, một trăm hòm đạn, thuốc đạn, mồi, hai nghìn thanh mã tấu,
hai nghìn ngọ dáo trường, hai nghìn tay cung, nỏ, một nghìn thanh kiếm. Ngựa
thì mới có ba chục con thôi. khí giới như thế kể cũng hơi ít đấy, nhưng thắng bại
là nhờ về lòng dũng cảm cửa quân đội hơn là nhờ về sự công hiệu của khí giới.
"Về quân đội, thì hiện nay trong hạt Kinh Bắc này, ta đã
có hơn một nghìn.
Hơn một nghìn quân ta phải chống nổi một vạn quân của Quang
Toản.
"Về dân tình đối với đảng ta thì anh em hãy nghe tờ
trình của Phạm quân đi quyên giáo các nơi về"
Quang Ngọc mở một tờ ra đọc:
"Nhân dân hạt Kinh Bắc rất mến tiếc nhà Lê. Họ bảo bọn
Tây Sơn là lũ thoán nghịch. Có người lại không nhận nhà Tây Sơn là giống Annam
nữa. Coi họ như một bọn giặc dị chũng ở phía Nam (để đối với bọn giặc tàu ở
phía Bắc về thờ đức Thái tổi khai quốc). Hễ nhà nào mà Thái biết là bậc trung
nghĩa, ngỏ lời quyên tiền, thì họ vui lòng giúp ngay. Vì thế trong có nửa
tháng, mà Thái thu được vào quỹ một món tiền lớn là năm mươi lạng bạc"
Quang Ngọc nói tiếp:
- Anh em coi, ta tuy mới có hơn một nghìn tinh binh nhưng lúc
ta khởi sự, số người theo ta không phải là ít. Còn như về vấn đề tài chính, thì
anh em không phải lo ngại điều gì. Hiện giờ trong quỹ có tới hơn vạn lạng bạc. ấy
là không kể số binh lương đã có nhân dân sẵn lòng cung đốn.
"Sau khi đã tỏ bày tình hình của đảng với anh em, minh
chủ tôi xin hỏi anh em một câu rất quan hệ. Mà mục đích cuộc tụ hội này cũng chỉ
có thế. Vậy xin anh em lưu ý đến câu hỏi ấy, suy nghĩ kỹ càng, rồi ai có ý kiến
gì hay, mà đem ra bàn với bạn đồng chí. Câu ấy là:
"Ta đã nên khởi sự chưa?"
Quang Ngọc ngồi xuống, một làn không khí bình tĩnh bao bọc lấy
mấy trăm vẻ mặt nghiêm túc, trầm hùng. Ai nấy đều cho câu hỏi kia có liên can tới
vận mệnh của nước, nên không dám trả lời hấp tấp.
Một lúc sau, một nhà sư mạnh bạo đứng dậy. Một người nhìn xem
ai thì chính là Lê Báo. Không để cho chàng kịp thốt ra được nửa lời, Quang Ngọc
giơ tay ra hiệu bảo im rồi ôn tồn nói:
- Hiền đệ nên nghe ngu huynh, hãy nhường cho anh em đồng chí
bàn trước đã.
Việc là việc nước, há phải việc riêng của anh em ta?
Lê Báo hằn học ngồi xuống nhưng không dám cãi.
Một người đứng lên, thân thể cao lớn, mặt đen trán rộng. Có
tiếng thì thầm:
"Nguyễn Đoàn Yên Thế!" Đoàn hắng dặng hai, ba lần rồi
nói:
- Minh chủ đã hỏi, tôi xin quả quyết thưa rằng: Nên... Xem
như đức Thái tổ ta khởi nghĩa ở Lam Sơn, binh sĩ khéo lắm được dăm trăm người
theo. Thế mà nhờ về tướng tài, nhờ về bền trí, đã lấy lại được giang san...
Một người cãi lại:
- Lam Sơn địa thế hiểm trở dễ giữ, chớ như đất Kinh bắc ta...
Đoàn ngắt lời ngay:
- Tôi xin hiến đất Yên Thế, Hữu Luông. Thực là một nơi rừng
sâu gò hiểm. Ta tiến có thể lấy Kinh Bắc dễ như chơi, ta lui có thể ẩn núp
trong mạn rừng núi Thái Nguyên, Bắc Cạn. ấy là chưa kể sau này ta có thể dụ được
bọn Thổ, bọn Thái ở vùng ấy theo ta. Mà tài đánh giặc của dân Thái thì tôi đã
được rõ. Vậy xin minh chủ cứ quả quyết cho. Nên khởi sự lắm. Ta mà bỏ mất cơ hội
này, sợ sau không thể có nữa.
Nguyễn Đoàn vừa ngồi xuống thì một người khác đứng dậy liền.
Người này trái ngược hẳn với Đoàn, thân thể nhỏ nhắn, da trắng, mắt phượng, cử
chỉ khoan thai, lời nói nhỏ nhẻ:
- Thưa minh chủ, tôi là Hoàng Cân, tiểu tự Song Văn, người
huyện Văn Giang, xin dâng lên minh chủ cùng anh em đồng chí mấy lời thô thiển
như sau: Tôi nghe quân Tôn Sĩ Nghị năm xưa đông hơn mười vạn, từ lưỡng Quảng
kéo sang như mây bay như gió cuốn, khiến bọn Văn Nhâm không dám đánh phải lui
ngay. Thế mà quân Tây Sơn ở Nghệ an vừa kéo ra là toàn thắng, như thế đủ biết
người ta mãnh liệt là nhường nào...
Lê Báo hung hăng đứng dậy quát mắng:
- Song Văn giỏi thực! Dám múa mép tưng bốc quân Tây Sơn!
Quang Ngọc vội gạt:
- Lê hiền đệ không được vô lễ? Đẻ Hoàng quân bàn việc.
Hoàng Cân mỉm một nụ cười, nhìn Lê Báo rồi nói tiếp:
- Vậy tôi thiết tưởng dẫu binh đội ta có nhiều gấp mười nữa,
cũng chưa chọi nổi quân Tây Sơn chứ đừng nói hơn một nghìn vội. Bây giờ chỉ nên
hết đảng cho một ngày một to thê, rồi sau này hãy liệu...
Một chuỗi cười khanh khách đáp lại lời Song Vân. Quang Ngọc
nhìn xem ai thì là Bùi Thành Giang tự Tiểu Kiếm Sinh, người đất Lục Nam. Người ấy
có tiếng nghịch ngợm, vì say rượu lỡ giết mất một viên phân trí, nên phải trốn
đến tu ở chùa MỘ Thổ. Quang Ngọc nghe tiếng Giang cười có vẻ mỉa mai, liền hỏi:
- Vậy Bùi Tiểu Kiếm cho biết ý kiến.
- Xin minh chủ cùng anh em đồng chí tha cho đệ cái tội hay cười.
Nhưng lời bàn của Song Văn làm cho đệ không nhịn cười được. Mỹ tự là Song Văn,
thì thực là xứng đáng với cái tính nhút nhát của con nhà văn ấy. Nhưng này bác
Song Văn, bác bảo quân Tây Sơn mãnh liệt, là quân Tây Sơn nào vậy? Nếu quân Tây
Sơn của Quang Huệ thì ngày nay còn đâu nữa mà đáng sợ? Mà nếu quân Tây Sơn của
Quang Toản, của Bùi Đắc Tuyên thì lại càng không đáng sợ lắ. Nhiều mà làm gì,
quân ô hợp thì nhiều mà làm gì?
Hoàng Cân cũng chẳng vừa, mỉm cười đáp luôn:
- Nhưng nào phải quân ô hợp. Ai bảo Bùi quân rằng đó là quân
ô hợp?
- Tôi bảo.
Lê Báo đứng dậy nói tiếp:
- Tôi cũng nói thế. Đứa nào có giỏi thì cãi đi.
Sợ mấy người kia lớn tiếng quá, hoá đánh lộn nhau, bất đắc dĩ
Quang Ngọc phải rút thanh bảo kiếm ra đứng lên nói:
- Ai làm mất trật tự cuộc đàm phán này hãy trông lưỡi kiếm
đây.
Phạm Thái cũng đứng lên phân giải:
- Cả hai phái chủ chiến, chủ hoà đều có lý. Vì ta nên cất
quân lắm chứ, chẳng thế, ta họp nhau để làm gì nửa? Nhưng trước khi cất quân,
ta hãy xem xét, so sánh tình thế bên ta với bên địch đã nào. Cứ kể nghe minh chủ,
nghe đảng trưởng của ta đọc bảng thống kê ban nãy thì ta ở vào cảnh trứng chọi
với đá, thực đấy. Nhưng tôi hỏi anh em, liệu quân Tây Sơn có đem toàn lực ra má
chống với ta được không?
Không thấy ai trả lời, Phạm Thái quay lại hỏi Hoàng Cân:
- Đại huynh đã biết tình thế quân Tây Sơn đấy chứ?
Hoàng Cân ngượng nghịu cúi đầu đáp khẽ:
- Chưa!
- Thế Bùi đại huynh?... Cũng chưa?... Vậy thì cãi lý với nhau
làm gì? Thiết tưởng muốn biết nên đánh hay chưa nên đánh, thì ít ra cũng biết
tình thế bên địch đã Vậy đệ xin giúp nhị vị đại huynh điều ấy, vì nhờ trời đệ
biết.
Mọi người đều nhìn Phạm Thái, tỏ ý kính phục. Chàng ung dung
nói tiếp:
- Kẻ cừu địch ghê gớm nhất của Tây Sơn cố nhiên không phải là
bọn ta (chàng mỉm cười) cùng là bọn Lê thần nghĩa dũng. Cũng không phải ở Bắc tới,
vì Tây Sơn xưng thần với nhà Thanh rồi. Nhưng cò phía Nam? Hẳn anh em đã biết
phía Nam có Nguyễn ánh là tay chẳng vừa, càng thua càng hăng.
"Mười năm trước đây khi còn Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh thua
trận không còn mảnh giáp chạy trốn sang Xiêm. Thế mà chỉ hai năm sau, năm Đinh
Vị, đã có đủ sức về lấy thành Gia Định rồi. Ngày nay toàn đất Gia Định rộng bằng
mấy trấn Bắc Hà, đã lọt vào tay Nguyễn ánh. Không những thế, Nguyễn ánh lại còn
mộ binh lính rất kíp cùng là giao thông với một nước lớn nào đó ở phương tây,
luôn luôn đem chiến thuyền, đến đánh phá Qui Nhơn. Hiện giờ, hai bên giữ nhau
găng lắ, mà cũng chưa biết bên nào thắng bên nào bại. Vậy thì cái sức mạnh của
Tây Sơn ở ngoài Bắc này ta không lấy gì làm sợ.
Lê Báo vui mừng reo lớn:
- Vâng có thế.
- Anh em đã biết tình thế bên địch ra sao, vậy tôi bàn thế
này: Một mặt ta cứ sửa soạn binh khí mộ thêm đảng viên; một mặt ta ra công dò
la tin tức bên địch: hễ khi nào bị Nguyễn ánh đánh cho đại bại ở phía Nam, là
ta khởi sự. Hơn nữa, xin cho người vào Nam hẹn Nguyễn ánh họp sức cùng đánh,
thì thiết tưởng việc lớn làm gì chẳng xong.
Có tiến ai bẻ:
- Nhưng lúc bấy giờ trừ được cái nạn Nguyễn kia biết đâu lại
không bị cái nạn Nguyễn nọ?
Hồi 14: Cái Trống Lớn
Quang Ngọc quay ra nhìn rồi vui cười nói:
- Trời ơi, xuýt nữa tôi quên bẵng thân vương.
Ngưòi vừa bắt bẻ Phạm Thái là Trịnh Đán con thứ Trịnh Bồng.
Sau khi Trịnh Bồng rời bỏ chùa Long Tiên núi Chúc Sơn để về tranh nhau ngôi
chúa với Trịnh Lệ, giết các chi nhánh họ Trịnh trốn tránh trong hạt Chương Đức,
đán mới qua sông Nhị Hà lánh sang trấn Kinh Bắc đến tu ở một ngôi chùa nhỏ tại
làng Phú Cẩm. Sau nhờ có Phạm Thái giới thiệu. Trịnh đán xin nhập đảng Tiêu
Sơn.
- Xin thân vương cho biết tôn ý.
Trịnh Đán hắng dặn hai ba lần rồi nói:
- Nay không còn phải lúc bàn về lịch sử, việc gì đã qua là đã
qua, mà việc gì...
Lê Báo vốn không ưa họ Trịnh, riễu cợt nói tiếp:
- Mà việc gì chưa đến là chưa đến.
Quang Ngọc quắc mắt, mắng:
- Lê hiền đệ coi thường lệnh của ta thực. Đây không phải là
nơi để cho ai nói đùa hết.
Rồi ý chừng muốn tránh sự phá ngang của Lê Báo, Quang Ngọc bắt
chàng ra ngay sân chùa để ăn năn tột lỗi... Nhìn thanh bảo kiếm rung rung ở tay
ông đảng trưởng oai nghiêm, Lê Báo không dám trái lệnh, cúi đầu, thong thả đứng
dậy đi ra.
- Xin thân vương tha thứ cho cái tính lỗ mãng của xá đệ.
Trịnh Đán mỉm cười:
- Những bực anh hùng ái quốc thường có tính nóng nẩy như vậy.
Có hề gì điều ấy, quí hồ ai ai cũng một lòng yêu nước là được rồi. Tôi nói thế
là vì tôi nhớ tới những trang lịch sử của ta: Không có lòng yêu nước thương dân
mà chỉ nghĩ đến quyền lợi của một mình mình, của một đảng mình, thời dẫu có lên
làm vua chúa nữa cũng chẳng ra gì, huống chi nhiều khi còn phạm thêm cái tội rước
voi về giầy mo...
Ngừng một lát đưa mắt nhìn hai hàng tráng sĩ Trịnh Đán nói tiếp:
- Đấy anh em ngẫm mà xem. Họ Hồ thấy nhà Trần hèn yếu liền cướp
ngôi. Nếu nhà Trần biết mình không đủ sức trị dân nữa mà chịu đi, thì có xong
không. Lại không thế. Lại đi rước quân Minh về. Khốn nạn! Chỉ trông cậy vào người,
để chiếm đoạt giang san chẳng coi dân nước ra gì, để đến nỗi trong mười năm,
trăm họ bị giầy xéo. Khác giống thì ai người ta thương hại mình kia chứ!
"Gần đây, vì việc lập chúa, quận Huy bị giết. Giá vua
chúa cùng quần thần biết tìm mưu kế mà trừ bọn kiêu binh quá hống hách kia đi,
thì rồi cũng êm. Khốn nỗi họ lại chia ra đảng phái, họ chỉ nghĩ đến thù riêng của
họ. Rồi tên Chỉnh nham hiểm, phản nghịch kia vào Nam rước ngay được anh em Tây
Sơn ra để định trả thù cho thầy mình là quận Huy. Họ trả thù họ đấy? Họ chặt đầu
mình, rõ đáng kiếp, họ cướp lấy nước mình, đuổi vua chúa mình đi.
Đán hắng dặng rồi lại nói:
- Vậy anh em ta trông đó làm gương, chỉ nên tin ở sức mình là
hơn. Nếu mình chưa đủ sức thì hãy đợi. Mà liệu không bao giờ đủ sức thì thôi đi
đừng kháng cứ người ta nữa.
"Chứ đi rước kẻ thù nọ về đánh kẻ thù kia thì kẻ nào mạnh
hơn nó chiếm lấy nước, mà vua chúa mình vẫn hoàn không có chỗ nương thân.
"Không những thế, dân gian lại còn bị lầm than nữa là
khác. Tôi nói tóm: Ta chỉ nên trông cậy vào sức ta, chứ đừng tưởng mong nhờ ai
hết. Tôi đã nói mấy lời thô thiển, xin minh chủ cùng anh em lượng xét".
Phạm Thái đứng dậy quay về phía Quang Ngọc:
- Xin đảng trưởng cho phép ngu đệ đáp thân vương một câu:
Thưa vương, lời bàn của thân vương rất đích đáng. Nhưng ta có mong nhờ hẳn vào
ai đâu. Ta chỉ lợi dụng sự cạnh tranh của hai bên mà thôi.
Sau khi đã bàn bạc cùng nhau đủ các lẽ, sau khi anh em đã xin
đảng trưởng cho phép Lê Báo lại vào dự nghị, thì kế hoạch của đảng Tiêu Sơn định
đoạt như thế này:
Một là cử những nhà sư có tài biện luận giả danh đi khuyên
giáo khắp các trấn để truyền bá chủ nghĩa phò Lê và quyên tiền, rủ người vào đảng.
Hai là chọn một thuyết khách cho vào Gia Đinh hội nghị với Nguyễn
Vương, hứa sẽ chờ dịp tốt tiếp ứng khởi binh để cùng phá Tây Sơn mà tôn phò nhà
Lê.
Ba là hơp nhất với đảng "Lê thần nghĩa dũng", đảng
trưởng đảng ấy hình như Đào Phùng hiện đương trốn tránh và bị tróc nã.
Quang Ngọc vừa bàn được ba điều, bỗng ngừng bặt, ngoài sân
chùa có tiếng ngựa hí và tiếng người ồn ào:
- Biến rồi!
Lê Báo rút kiếm đứng dậy:
- Để tôi ra xem...
Phạm Thái cũng lạnh lùng đứng dậy đi theo rồi ghé mắt nhòm
qua khe cửa.
Bỗng chàng phì cười:
- Tưởng gì, chứ một anh ky binh vào kia thì để một mình tôi
ra cũng đủ rồi.
- Nhưng cứ nên phòng bị cẩn thận thì hơn, biết đâu nó không
có phục binh.
Giữa lúc ấy, người khách lạ đi lại gần yên lặng dụi tắt bó đuốc
cầm ở tay, (vì trời tối đã lâu) rồi gọi cửa:
- A di đà phật! Ngu muội đến dự lễ.
Phạm Thái vui mừng mở mạnh cánh cửa ra nói:
- Trời ơi! Hiền tỉ đến trễ quá!
- Nhị Nương xin chịu tội. Nhưng có việc khẩn bách, nguy kịch
lắm.
Mọi người đều nhớn nhác hỏi:
- Việc gì thế? Việc gì mà dữ dội thế?
- Hoàng Phi.
- Trời ơi! Sao? Lê hoàng phi sao?
- Bị bắt?
- Bị giết?
- Bây giờ đâu?
Nhị Nương để cho ai nấy hỏi xong, rồi thong thả nói:
- Cũng chưa rõ rồi ra sao. Chỉ biết trong lúc bí, ngu muội dấu
hoàng phi vào...
Nhị Nương đưa mắt nhìn mọi người, như sợ trong đám có lẫn một
vài thám tử của bên địch. Quang Ngọc vội đỡ lời:
- Hiền muội cứ nói, không lo ngại. Anh em trong đảng Tiêu Sơn
chúng ta toàn là bậc anh hùng hảo hán cả.
- Vậy ngu muội giấu hoàng phi ở trong đền Phú Mẫn.
- Đền thờ ông Nghè phải không?
- Vâng.
Phạm Thái bỗng phá lên nói:
- Khá đấy! Tôi biết hiền tỉ giấu hoàng phi ở đâu rồi.
Ai nấy đua nhau hỏi:
- Ở đâu? - Ở đâu?
Nhị Nương cũng hỏi:
- Vâng, ở đâu?
Phạm Thái vẫn cười:
- Trời ơi! Chị tôi giỏi quá... Ở trong cái trống chứ gì?
Tuy vậy vẫn chưa ai hiểu. Quang Ngọc liền bảo Nhị Nương thuật
lại đầu đuôi, thì câu chuyện như thế này:
Mấy hôm trước có một người thiếu nữ ở phố Từ Sơn đến chùa Ngô
Xá xin làm tiểu Người ấy trông vẻ mặt sáng sủa nhanh nhẹn và ăn nói lại dịu
dàng, nên sư trưởng yêu mến ngay. Hỏi sao đi tu, thì người ấy nói giận nhà, ép
gả vào nơi không xứng đáng, nên đành đến ăn mày cửa phật để quên hết nỗi trần
duyên.
Sư trưởng thương tình cho ở chùa, nhưng chưa nhận cho quy y.
Vả theo nhà chùa thì có khi sau mấy tháng, người xin tu hành mới được dự lễ thế
phát. Sư trưởng còn xem tính nết tín nữ có thực thành tâm mộ đạo và có chịu nổi
những sự khổ hạnh không đã.
Theo lệ thường, cách dăm hôm Nhị Nương lại quẩy gánh nồi đất
xuống chủa Ngô Xá thăm hoàng phi mà sư trưởng đặt cho cái đạo hiệu là Phổ Bác
thiền ni.
Vừa đến sân nhà chùa, nàng đã để ý ngay đến người thiếu nữ. Sống
cái đời giang hồ kiếm hiệp, lúc nào cũng như bị vây bọc ở giữa đám gian nguy, lừa
dối, Nhị Nương không thể không ngờ vực cử chỉ nhu mì và ngôn ngữ đo đắn của người
mới đến xin tu.
Nàng liền tìm cách làm quen với thiếu nữ, hỏi dò liên miên
chuyện nhà cửa, rồi mời mua cho vài cái nồi. Đoạn nàng gánh hàng ra ngay không
vào thăm hoàng phi nữa, vì như có tâm linh báo trước cho nàng biết sắp xảy ra
chuyện chẳng lành.
Nàng còn lang thang ở bờ ruộng thì đã thấy thiếu nữ ở chùa ra
đi. Đến gần, nàng vui cười chào hỏi:
- Sao cô lại về?
Người kia ấp úng đáp:
- Tôi xin phép sư trưởng về qua nhà... có tý việc cần...
Nhị Nương càng ngờ:
- Cô ở tận đâu?
- Tôi ở đàng kia.
Thiếu nữ vơ vẩn trỏ tay về phía trước mặt rồi hỏi:
- Còn cô, cô đi đâu?
- Ấy, tôi cũng đi lang thang, bán rong... Thế mà lắm hôm may
mắn gặp khách mua đông đáo để. Với lại tôi muốn cùng đi với cô cho vui.
Đến Từ Sơn, hai người chia tay nhau, Nhị Nương chỉ kịp vội
vàng quăng gánh nồi đất vào hàng Ngỗng, rồi lại chạy đi theo dò người thiếu nữ
bí mật kia ngay...
Thế là không do dự nữa, Nhị Nương quay về hàng Ngỗng cải nam
trang, nhảy phắt lên mình ngựa - con ngựa của một công tử thường ở trọ trong
hàng, mà công tử ấy cố nhiên là Nhị Nương.
Phóng nước đại một mạch về tới chùa Linh Quang làng Ngô Xá,
Nhị Nương quấn quýt hỏi:
- Hoàng phi đâu? Hoàng phi đâu?
Sư trưởng hỏi lại:
- Phổ Bác thiền ni ấy ư?
- Chứ còn ai nữa! Mau mau, nguy đến nơi rồi!
Vừa nói, nàng vừa chạy thẳng vào buồng hoàng phi xốc bà đặt
lên mình ngựa ra roi. Đến chợ Phú mẫn quay đầu trông lại thì ở gần lối rẽ vào
làng Ngô Xá, cát bụi bay mù mịt. Nàng lền xuống ngựa dẫn hoàng phi vào ẩn trong
đền ông Nghè bên cạnh chợ.
Phạm Thái nghe Nhị Nương thuật đến đấy, ngắt lời:
- Vậy hiền tỉ giấu hoàng phi vào trong lòng trống rồi chứ?
- Vâng, tôi chợt nhớ một lần trước mặt tôi, hiền đệ đã mở cái
cửa nách ở tang trống để chui vào trong giấu những giây má quan trọng.
Song Văn kinh ngạc hỏi:
- Giấu được người vào trong lòng trống, thì hẳn cái trống ấy
to lắm.
Quang Ngọc đáp:
- Phải, to lắm. Hoàng quân không nghe nói đến cái trống thờ
ông Nghè bao giờ?
- Thưa không.
- Cái trống ấy, trực kính bề mặt đo được đến hơn ba thước mà
bề cao đến một ngũ rười, nguyên là của hoàng đé ban thờ ông Nghè không biết từ
đời nào, vì chữ khắc ở tang lâu năm đã mòn, nhẵn thín, mà người làng Phú Mẫn
Sơn lại có tới bốn, năm lần rồi.. Nhưng hãy nói đến việc cứu bà hoàng phi đã.
Phạm Thái!
- Dạ.
- Việc này phải hiền đệ đi mới xong.
Lê Báo đứng lên nói:
- Thưa đảng trưởng, ngu đệ xin đi cho, cứ để Phạm đại huynh ở
lại mà bàn việc lớn Quang Ngọc biết tính Lê Báo hay nóng nẩy liền phỉnh một
câu:
- Kể Lê hiền đệ hay Phạm hiền đệ đi thì cũng thế thôi. Nhưng
Phỗ Chiêu đã thông thuộc miền ấy thì vẫn hơn. Vậy anh em hãy nghe: Chúng ta nên
thêm điều này vào ba điều ban nãy.
Nhị Nương hỏi:
- Ba điều gì thế?
- Hiền muội đến trễ nên không biết. Nhưng không sao. Hãy bàn
đến việc cần kíp hơn đã. Ba điều trên kia rồi sau thuật cho Nhị Nương nghe. Bây
giờ Nhị Nương cùng Phạm Thái hãy đến ngay Phú Mẫn cứu Lê hoàng phi. Còn điều thứ
tu ta nói đó là: Cứu được hoàng phi thoát nán, Phạm Thái phải đưa ngay ngài lên
Lạng Sơn. ở đó bọn trung thần nhà Lê rất đông, mà biên giới, có sao trốn sang Tầu
cũng dễ. Chứ ở vùng này, họ nhẵn mặt ngài rồi, thực khó lòng mà trốn tránh, ẩn
núp được lâu, thế nào cũng đến bị bắt mất thôi.
Phạm Thái cúi đầu lĩnh mệnh rồi yên lặng cùng Nhị Nương ra
đi. Chư tăng cũng giải tán, ai về chùa nấy, để sắp sửa theo đuổi công việc truyền
bá chủ nghĩa phò Lê.
Hồi 15: Ai Lên Xứ Lạng Cùng Anh
Một buổi sáng mùa xuân, trên con đường Kinh Bắc, Lạng Sơn.
Bấy giờ còn sớm lắm, nên đường rất vắng và hai bên ruộng dân
quê ra làm việc đồng áng cũng chưa đông.
Đạp cỏ sương, bốn người lữ khách rảo bước: Hai nhà sư, một
công tử và một chú tiểu quẩy hành lý theo sau. Trong hai nhà sư thì một người lực
lưỡng, vạm vỡ, một người bé nhỏ xinh xắn, mắt sáng, môi son, lông mày lá liễu.
Thực là một trang nam nhi tuấn tú. Tuy về dung nhan có kém nhà sư ấy đôi chút,
chàng công tử cũng là người rất đẹp trai, với cặp mắt phượng long lanh, đôi
lông mày bán nguyệt với hai má trắng hồng và cái miệng cười có duyên.
Sự đó chẳng có chi lạ vì nhà sư và công tử chỉ là hai thiếu
phụ cải nam trang:
Lê hoàng phi và Nhị Nương cùng với Phạm Thái lên trấn Lạng
Sơn.
Tối hôm trước, lúc Phạm Thái và Nhị Nương về tới Phú Mẫn thì
đêm đã khuya, các cửa đều đã đóng kín. Nhị Nương đằng hắng hai tiếng ra hiệu. Tức
thì một người núp trên gác tam bảo trèo xuống, thuật lại cho nàng biết rằng sau
khi lục lọi khắp các chùa, các đền quanh vùng và không thấy gì, quan quân đã
cùng Thị Lợi - tên người con gái đi báo - kéo nhau về Từ Sơn. Phạm Thái nghe
nói vui mừng, đến một khe cánh cửa lách tay vào khẽ nâng lên. Cánh cửa từ từ mở
ra.
Chàng liền cùng Nhị Nương bước vào đền, sau khi thám tử đã
leo lên gác tam quan đễ hễ thấy động thì ra hiệu báo.
Trong đền im vắng và tối om. Le lói trên bàn thờ một cây đèn
dầu nam, ngọn nhỏ bằng hạt thóc. Phạm Thái lại khêu cao bấc lên, rồi lần vào hậu
cung tìm một cây sáp mà chàng vẫn giấu ở đó để khi nào cần đến thì dùng.
Một làn ánh sáng chiếu rọi mấy gian đền. Không một tiếng động
nhỏ, không một tiếng mọt kêu. Lặng lẽ như chứa bao nhiêu bí mật của ban đêm.
Phạm Thái nhìn Nhị Nương:
- Quái! Hình như hoàng phi không có đây.
Nhị Nương không đáp, lo lắng đi lại gần cái trống khổng lổ đặt
trên sàn và chiếm vừa chật một gian đền rộng. Nàng gõ vào tang trống. Không
nghe thấy tiếng trả lời Hai người kinh hoảng nhìn nhau: Rồi Phạm Thái quả quyết
mở cái cửa nách bí mật ở tang trống và ghé vào gọi:
- Tâu hoàng phi, tâu lệnh bà!
Vẫn không có tiếng trả lời. Chàng liền đưa cây sáp vào phía
trong nhìn kỹ một lượt. Chỉ thấy ngỗn ngang những giấy tờ. Chàng quay bảo Nhị
Nương:
- Nguy rồi, hiền tỷ ạ, hoàng phi không có ở trong.
Hai người còn nhớn nhác nhìn quanh thì hoàng phi đã đến bên.
Phạm Thái và Nhị Nương phục xuống tạ tội. Hoàng phi đỡ dậy mà rằng:
- Từ nay hai em đừng lạy như vậy. Chị không muốn thế. Hai em
coi chị đã là quá lắm rồi, chị đã ơn lắm rồi. Sung sướng gì mà còn rở rói lễ
vua tôi, hai em làm chị tủi nhục lắm.
Nhị Nương sụt sịt đáp lại:
- Để lệnh bà vất vả, gian truân thực là tội ở lũ bất trung
này...
- Chị đã bảo không được nói đến vua tôi vội mà lại. Chờ khi
nào lấy lại được nước hãy hay, chứ bây giờ đang lúc trốn tránh mà các em cứ kêu
chị là hoàng phi với lệnh bà lỡ ra khổ đến chị mà lụy đến cả các em.
Nhị Nương hỏi hoàng phi sao không nằm ở trong lòng trống, thì
bà đáp lại rằng ra ngoài cho được khoan khoái, vì ở trong ấy khó thở lắm. Không
ngờ vừa ra được một lúc thì nghe có tiếng người mở cửa, bà vội núp ở sau một
cái cột giáp tường.
Rồi bà thuật lại cho hai người nghe việc khám xét lúc ban chiều:
- Ta nằm trong lòng trống, không dám thở mạnh. Nhị Nương đi
được một lát thì bọn họ đến, rầm rầm, rộ rộ, lục soát các nơi, bắt thủ từ mở cả
hậu cung ra coi.
Có hai người đứng tựa tang trống nói chuyện. Người nọ bảo người
kia: "Quái! rõ ràng có kẻ trông thấy chúng nó vào đây?" Người kia
đáp: "Thế này thì tức lắm nhỉ ? Vừa nói vừa đấm mạnh một cái vào mặt trống,
tiếng kêu inh tai, làm chị giật mình kinh hãi. Lúc quay ra người ấy nói: Hay
chúng nó ẩn trong này." Hắn lại đấm vào mặt trống một cái nữa mạnh hơn. Rồi
cả hai cùng cười phá lên. Đoạn, họ kéo nhau đi. Một lúc sau nghe thấy trong đền
yên tĩnh, chị mới hoàn hồn. Bây giờ thì ngủ được một giấc, người đã dễ chịu,
nhưng mà đói lắm, vì từ sáng đến giờ chưa có một hột cơm trong bụng.
- Tâu lệnh bà...
- Thưa chị!
- Thưa chị, em đã nghĩ đến điều ấy. Đây, oản chuối mời chị
xơi. Em lại đem theo cả một thứ này mà chị không ngờ.
Vừa nói, Nhị Nương vừa mở khăn gói nâu ra. Trong có mấy bộ quần
áo của sư ông, và đủ các đồ phụ thuộc. Còn oản chuối, bánh gai thì có rất nhiều.
Ba người cùng ngồi ăn. Đoạn, Nhị Nương mời hoàng phi đi nghỉ
một lát để lấy sức, vì sắp sửa phải dùng sức. Hoàng Phi hỏi tại sao, thì Phạm
Thái nói chàng lĩnh mệnh đảng trưởng đưa bà lên Lạng Sơn.
- Ồ! lên được Lạng Sơn thì dẫu chết chị cũng lấy làm sung sướng.
Ngày theo quân vương sang Tàu, đến đây chị lạc đường. Chị vẫn ao ước được sang
Trung Quốc với quân vương. Bây giờ hai em lại đưa chị lên Lạng thì sau này chị
có thể trốn sang Tàu được. Ơn ấy chị biết lấy gì đền lại hai em cho xứng đáng.
- Lạy chị, chị nói chi ân nghĩa cho em thêm tủi nhục. Nhưng
chỉ một mình Phạm xá đệ được lệnh hộ giá mà thôi.
Hoàng Phi tỏ vẻ kinh ngạc:
- Em không đi! Như thế sao tiện?
Chính Phạm Thái cũng nghĩ đến chỗ không tiện ấy, vì ngắm thấy
hoàng phi vừa trẻ vừa đẹp quá đỗi, mà mình chỉ là một nhà sư tạm thời, hơn nữa,
một tráng sĩ dội lốt thầy tu. Vẫn biết không khi nào mình phạm vào tội bất
chính được, nhưng không tiện thì vẫn là không tiện. Chàng liền nói:
- Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy chí phải.
Rồi quay sang bảo Nhị Nương:
- Hiền tỷ nên đi theo hầu lệnh bà.
- Nhưng chưa có thượng lệnh.
- Được hiền tỷ cứ ở lại đây nghỉ một lát với lệnh bà cho đỡ mệt.
Ngu đệ đi Tiêu Sơn cho. Chỉ chốc nữa là ngu đệ trở về.
Giữa lúc Phạm Thái sắp nhảy ngựa để đi Tiêu Sơn một chú tiểu
tiến vào đền, vai quẩy một gánh hành lý.
Hỏi đến có việc gì thì chú nói Phổ Tỉnh thiền sư cho lại giục
Phổ Chiêu cùng Nhị Nương phải ngay đêm nay lên đường đưa hoàng phi tới Lạng
Sơn.
Phạm Thái cả mừng, đua chú tiểu vào trong đền bái yết hoàng
phi. Nhị Nương bảo Phạm Thái:
- Đảng trưởng nghĩ chu đáo đến hết mọi việc.
- Truyện! Chẳng thế mà lại là đảng trưởng!
Thế là ngay lúc ấy, hoàng phi và ba người khởi hành.
Đi được một lát thì gà ở các làng bắt đầu gáy sáng và khi đến
cầu Dọi thì mặt trời mới mọc, ánh sáng đỏ rực trên đỉnh dẫy núi Neo. Hoàng phi
kêu mỏi, vì bà không quwn đi xa. Nhị Nương đỡ ba vào nghĩ trong cầu và mỉm cười
nói:
- Sư ông cố gượng đi bộ đến sông Cầu, sang bên Đạo Ngạn đã có
ngựa.
Phạm Thái cũng khẽ nói:
- Sang đến bên kia sông thì không cần phòng bị lắm.
Ở trong cầu đã có hai người buôn vải ngồi nghỉ. Một người
chào hỏi:
- A di đà phật! Chư tăng ở đâu đến đây? Có phải ở mạn Yên Phụ
không?
Phạm Thái đáp:
- A di đà phật! Bần tăng ở nơi xa, qua vùng này khuyên giáo để
chữa chùa.
Người kia lại hỏi:
- Vậy nhà sư không biết hôm qua ở chợ Phù Mẫn có xẫy ra sự
gì?
- Không.
- Nghe đâu tối hôm qua quan quân đánh đuổi một toán cướp ở đấy.
Hôm nay có lẽ thế nào quan hiệp trấn cũng đem binh lính về tróc nã.
- Thế à? Ghê sợ nhỉ!
Ba người đưa mắt nhìn nhau, lo sợ.
Phạm Thái lại hỏi:
- Sao bác biết?
- Ấy, tối hôm qua chúng tôi ngủ ở nhà trọ nghe người ta nói
chuyện với nhau như thế, chả biết có đích xác không?
- Chào bác ngồi nghỉ, chúng tôi đi thôi.
Phạm Thái đứng dậy, hoàng phi và Nhị Nương cũng đứng dậy
theo. Rồi, tuy còn mỏi mệt, ai nấy đều cố dấn bước cho mau thoát khỏi nơi nguy
hiểm. Và họ rẽ đường tắt đến bến Cổ mễ, chứ không đi qua thành Kinh Bắc.
Đến nơi, Phạm Thái trông sang bờ sông bên kia thì thầm bảo
hoàng phi và Nhị Nương:
- Đã có ngựa chờ ở Đạo Ngạn. Mà từ đó trở lên Lạng Sơn, việc
canh phòng không ngặt quá đâu.
Nhị Nương đáp:
- Chắc người ta chả ngờ đâu hoàng phi đã rời hạt Từ Sơn, Đông
Ngàn.
Bỗng có tiếng gọi:
- Mấy nhà sư sang đò phải không?
Tưởng là lái thuyền, Phạm Thái trả lời liền:
- Phải, bác có thuyền cho chúng tôi thuê chăng?
Người kia gắt:
- Ai là lái đò? Muốn sang ngang hãy vào trình cậu tuần đã.
hoàng phi còn đương ngơ ngác nhìn Phạm Thái thì người ấy đã
nói tiếp:
- Đễ cậu khám hành lý. Lệnh trên truyền xuống ngặt lắm, các
người phải biết.
- Nhưng chúng tôi toàn là kẻ tu hành.
- Mặc! lôi thôi mãi. Lại mau!
Chẳng đừng được, bốn người phải theo chú lính tới một cái đồn
nhỏ, ngoài cổng treo một cái biển lớn đề ba chữ "Tuần Giang Nha." Thấy
hoàng phi có vẻ mặt sợ hãi, Phạm Thái khẻ bảo:
- Không lo. Lệ thường vẫn khám xét như thế.
Một người ở trong đồn đi ra. Tên lính lễ phép nói:
- Bẩm cậu, mấy người này qua sông vào xin phép cậu.
"Cậu là người đường trong, trước làm lính theo vua Tây
Sơn ra Bắc, nay được bổ chứx tuần giang đội trưởng để canh phòng thuyền bè gian
phi. Những nơi đồn lũy quan trọng cẩn mật như thế, nhà Tây Sơn thường giao cho
người Quảng Nam coi giữ, cũng như trước kia họ Trịnh kén ưu binh ở tỉnh Nghệ An
dùng làm quận túc vệ.
Sau khi đã khám xét khăn gói, tay nải, cậu tuần đã nhìn thấy
Nhị Nương:
- Thầy này cũng sang sông?
- Thưa vâng.
- Vậy tín bài đâu đưa xem?
Hoàng phi tái người. Nhưng Nhị Nương rất bình tỉnh thản
nhiên, thò tay vào bọc rút ra một cái thẻ đưa cho viên đội trưởng mà nói rằng:
- Thưa đây.
Viên kia đọc:
- Nguyễn Đức Minh, người làng Đông Phủ, huyện Đông Ngàn, phải
không?
- Thưa vâng ạ.
- Vậy cặp chỉ xem có đúng không?
Nhị Nương đưa bàn tay trắng trẻo, mềm mại cặp ngón trỏ và
ngón giữa và tờ giây.
- Thôi được rồi. Cho đi?
Ra đến ngoài hoàng phi hỏi Nhị Nương:
- Tín bài kiếm ở đâu thế?
- Phổ Bác nên cẩn thận hơn một chút. Sang bên kia sông đã hẵng
hay.
Rồi lẳng lặng bốn người cùng xuống thuyền sang ngang.
Hồi 16: Sông Nước
Thuyền ra tới giữa sông, Phạm Thái trợn mắt nhìn người lái
đò, trong lòng áy náy lo sợ. Vì giòng nước chảy xiết, đáng lẽ phải hết sức chèo
mau để vượt qua, thì người ấy chỉ giữ tay lái cho thuyền trôi xuôi.
- Ông lái!
- Dạ.
- Chúng tôi sang ngang kia mà.
- Phải, tôi biết. Nhưng quý hồ thuyền đậu vào bờ là được, chứ
gì?
Phạm Thái đoán chừng chú lái muốn sinh sự, giở thói bóc lột.
Chàng nghĩ thầm: "Nếu quả thế thì thằng cha này giỏi thực! Nhưng đến bọn
cướp ở bến đò Lũ, ta còn trị nổi, nữa là thứ mày!..." Thuyền vẫn trôi
phăng phăng. Không những thế, thỉnh thoảng chú lái lại còn bẩy thêm một mái
chèo nữa...
- Ô kìa! Sao thế này?
Nghe hoàng phi nhớn nhác hỏi, người lái đò lễ phép đáp:
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà cứ yên lòng.
Ba người đưa mắt liếc nhau khiếp sợ, nguồi trơ như phỗng đá.
Bỗng Phạm Thái thò vào trong bọc rút thanh đoản đao. Thấy vậy, Nhị Nương cũng
tay trái cầm võ kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm. Hoàng phi đăm đăm nhìn, không hiểu
sao kẻ kia lại dò biết được tung tích của mình... Nhưng người lái thuyền vẫn
bình tỉnh, thản nhiên.
- Nếu nhà ngươi không vẻ lái cho thuyền vào bờ, thì ta thề rằng
nhà ngươi không thể sống mà về được với vợ con tối nay.
Vừa nói, Phạm Thái vừa dữ tợn, quả quyết giơ đoản đao lên.
Người chở thuyền không đổi sắt mặt, buông mái chèo ra mà cười phá lên, khiến
thuyền không lái chồng chềnh ở giữa giòng sông:
- Phạm Thái giỏi đấy! Nhưng ta không có vợ, con hay chưa có vợ
con thì đúng hơn.
Nhị Nương và hoàng phi nhìn nhau kinh hãi Nhưng Phạm Thái yên
lặng tươi cười, tra đao vào vỏ giấu trong áo cà sa, rồi ôn tồn bảo người lái
đò:
- Không cần có thông minh gớm ghiếc mới đoán được rằng tôn
ông đây chẳng phải là một chú lái tầm thường. Vậy tôi xin hỏi: Tôn ông muốn gì?
Người lái đò vói vội lấy mái chèo giữ cho thuyền đi thẳng rồi
cười lớn mà đáp răng:
- Ta muốn biết Phạm Thái tức Phạm Phụng, tức Phổ Chiêu thiền
sư đã giết được bao nhiêu bạn đồng nghiệp của ta ở bến đò Kim Lũ?
Phạm Thái cũng cười:
- Nghĩa là tôn ông muốn trả thù cho bạn lục lâm chứ gì ? Bần
tăng đây xin sẵn lòng nghênh tiếp, nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng bần tăng vẫn không tin như thế.
- Không tin cái gì kia chứ?
- Không tin rằng tôn ông theo nghề trộm cướp. Bần tăng đoán
già rằng, tôn ông phi là thám tử của triều đình, thì là một tay hảo hán, sống một
đời tự do ngang dọc. Nếu thực tôn ông là thám tử, thì bần tăng thương hại cho
cây đoản đao của bần tăng quá, vì thế nào cũng đâm trúng họng tôn ông, nhất tôn
ông lại biết lai lịch của bần tăng đây, mà xin thú thực cùng tôn ông, xưa nay
chưa có kẻ thù nào biết lai lịch của bần tăng mà thoát chết được. Còn như nếu
tôn ông là tay anh hùng hảo hán thì xin mau mau cho biết đại danh, để bần tăng
thờ là quý hữu.
Hoàng phi nói thầm bảo Nhị Nương:
- Quái! Chị trông người này không quen nhưng nghe tiếng nói,
thì hình như đã gặp nhiều lần.
Người lái đò vẫn cười, rồi hất hàm hỏi Phạm Thái:
- Biết bơi không?
- Ái chà! Khá nhỉ! Ý chừng chú lái có dã tâm muốn chọc thủng
thuyền chăng?
Ta can, vì nhà ngươi bị dìm chết ở đáy sông mất.
- Nhưng còn hoàng phi?
- Đã có công tử đây phò giá. Ngươi không cần phải lo hộ.
Lúc bấy giờ thuyền trôi đã được một quãng xa. Người lái đò liền
bắt mạnh cho mũi thuyền rạt vào vãi sậy bên vệ sông. Nhị Nương rút phắt kiếm ra
thét:
- Sao lại đưa chúng ta vào đây?
Người kia vẫn không đổi sắt mặt, ôn tồn nói:
- Tra kiếm vào vỏ!
Nhị Nương kinh ngạc, nhìn Phạm Thái, chàng bảo:
- Cứ tra kiếm vào vỏ xem hắn làm trò gì.
Người lái đò lẳng lặng cắm sào, rồi sụp xuống lạy hoàng phi:
- Đào Phùng xin khấu đầu làm lễ.
Hoàng Phi vui mừng không kịp giữ gìn:
- Trời ơi! em Đào Phùng! Thảo nào chị cứ ngờ ngợ. Nhưng mặt
mũi em gớm ghiếc thế kia?
Đào Phùng quay ra hỏi Phạm Thái:
- Đạo hiệu của hoàng phi là gì?
- Phổ Bác thiền sư.
- Bạch thiền sư, chẳng có gì lạ hết. Nhân được nếm mùi kìm
chín ở phủ Từ Sơn trong ít lâu Phùng này đã nhận thấy ích lợi của thứ hình phạt
ấy...
Phạm Thái vội kêu:
- Trời ơi! Dễ thường Đào quân dùng kìm đốt xém da mặt chăng?
- Thưa Phạm đại huynh, khi người ta làm một tôi trung thì người
ta không cần có bộ mặt đẹp cho lắm. Huống chi mặt kẻ ngu si này lại bị bên địch
biết nhẵn. Vậy thì có ngần ngại gì mà không vạc nó đi. Bây giờ Đào Phùng không
còn là Đào Phùng nữa, mà chỉ là Nguyễn Phác làm nghề chở thuyền.
Ba người lấy làm khiếp phục cái cách trá hình phi thường của
Đào Phùng, hoàng phi hỏi:
- Nhưng cớ sao, ban nãy em làm cho chúng ta lo sợ vì những
ngôn ngữ, cử chỉ khả nghi của em?
Đào Phùng cười:
- Em xin lỗi thiền sư... Đó là em thử xem Phạm Thái có thực
là đấng anh hùng như người ta đồn đại không? Nếu không thì...
- Nều không thì sao?
- Thì em bắt Phạm Thái ở lại, để em tự đảm nhận lấy cái trọng
trách phò giá hoàng phi lên trấn Lạng.
Phạm Thái kinh ngạc:
- Sao Đào quân biết ngu đệ phò giá hoàng phi lên trấn Lạng?
- Làm một đảng trưởng thì cái gì mà không phải biết? Ta còn
biết nhiều.
Chẳng hạn Quang Ngọc muốn đảng ta hợp nhất với đảng Tiêu Sơn.
Nhưng ta thiết tưởng cứ để hai đảng, mà cùng hành động thì vẫn lợi hơn.
Phạm Thái đăm đăm nhìn Đào Phùng.
- Có lẽ lắm. Nhưng ngu đệ xin khuyên hiền hữu hãy để việc ấy
vào một bên.
- Bây giờ thì ta yên tâm rồi. Phạm quân có thể đương nổi việc,
nhất lại có Nhị Nương trợ lực.
Nhị Nương cười ròn như nắc nẻ:
- Ông mà không phải là Đào Phùng thì tôi quyết tặng ông một
lưỡi kiếm cho ông lộn cổ xuống sông, hết kiếp. Nhưng bây giờ thì ông đưa chúng
tôi đến bến chứ?
- Bất khả? Sáng nay một toán quân vừa sang sông để đi thủ trấn
Lạng Sơn.
Vậy nên ở dốn lại cho bọn kia đi trước vài hôm đã. ấy chỉ vì
thế mà Phùng này phải đón xa giá ở bến để giữ lại.
Hoàng phi cười:
- Em Đào rõ khéo nói kiểu cách. Làm gì có xa giá kia chứ.
Nhưng em định để chị ở đâu?
- Bạch thiền sư, ở dưới chân núi Yên Xá, cách đây độ một dặm
nữa thôi.
Hoàng phi nhìn Phạm Thái như để hỏi dò ý kiến. Rồi không thấy
chàng nói gạt, liền nhận lời và bảo Đào Phùng chở thuyền đưa về nhà.
Một lát sau, thuyền đậu bên cạnh một bãi sậy um tùm. Một con
đường nhỏ lách giữa đám lá rậm đưa quanh co đến chân núi. Năm người leo tới một
dinh cơ khá rộng, làm chênh vênh trên sườn núi đất thoai thoải.
Chủ gọi người nhà bảo giết gà thết khách, và xin lỗi các vị
thiền sư, vì không biết làm cơm chay. Nhưng các thiền sư cũng vui lòng nhận lời
dùng cơm mặn.
Hồi 17: Một Nhà Ẩn Sĩ
Hoàng phi, Phạm Thái và Nhị Nương ở lại nhà Đào Phùng hai
hôm. Trong hai hôm ấy, mấy người luôn luôn nói chuyện với nhau về binh thư và
chiến lược. Có khi lại rủ nhau lại ngọn núi Yên Xá để đấu võ. Đào Phùng lấy làm
phục võ nghệ của Phạm Thái và Nhị Nương lắm.
Hôm thứ ba, bốn người từ biệt lên đường. Đào Phùng nói nên đi
tắt đến Hoàng Mai, rồi từ Hoàng Mai đi tắt lên Lạng Thượng. Nhưng bốn con ngựa
lại đã để chờ sẵn ở Đạo Ngạn. Đào Phùng liền cùng Phạm Thái và chú tiểu chở
thuyền ngược lên đó, để đem ngựa về, một mình Nhị Nương ở nhà hộ vệ hoàng phi.
Vào buổi trưa ba người trở về, mỗi người cười một con ngựa,
Phạm Thái kèm thêm một con.
Nhưng khi đi đến sân, thì một cảnh tưởng ghê gớm bày ra trước
mắt: bốn cái thây lực lưỡng nằm sóng sượt ở bên mấy gốc thông. Phạm Thái hốt
hoãng:
- Hoàng phi đâu? Thôi chết rồi!
- Hoàng phi ở đây!
Nghe tiếng Nhị Nương đáp lại Phạm Thái mới hết lo, chạy vội
vào trong nhà, nói với hoàng phi:
- Để lệnh bà khiếp sợ, thực tội hạ thần to lắm.
Hoàng phi cau mày:
- Chỉ vì các em không nghe lời chị, cứ luôn miệng lệnh bà, với
tâu, với hạ thần nên mới xảy ra cái hoạ tày trời này. May mà có Nhị Nương dấy,
chứ không thì cũng chưa biết chừng chị còn sống mà ngồi đây. Chỉ thương Đào
quân có bốn tên người nhà bị Nhị Nương giết mất cả... Rõ thật Đào quân làm ơn
nên oán...
Đào Phùng lại phục xuống đất khóc xin chịu tội. Xong chàng
quay ra hỏi Nhị Nương:
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao, thưa quý nương?
Nhị Nương liền thuật lại cho hai người nghe:
- Mấy tên kia biết rằng trong bọn khách của chủ chúng nó có
bà hoàng phi.
Nhân thấy Đào Phùng, Phạm Thái ra đi, ở nhà chỉ còn hoàng phi
với một chàng công tử nhỏ, xinh xắn như con gái, chúng liền bàn cùng nhau ra
tay bắt nộp quan lĩnh thưởng. Chẳng ngờ chàng công tử bé nhỏ lại có võ nghệ cao
cường, chỉ đưa bốn mũi kiếm là bốn đứa hoá bốn cái thây ma.
Đào Phùng cười ha hả, nhưng tiếng cười có giấu nỗi buồn vô hạn:
- Thực đáng kiếp cho bốn thằng phản chủ? Chúng là bốn tên
thuyền chài, ngu đệ tuy dùng, nhưng mà cũng nơm nớp lo sợ, vì thế trong câu
truyện, khi có chúng đứng hầu, ngu đệ vẫn phải giữ gìn. Nhưng không biết sao
chúng nó lại hay rằng Phổ Bác thiền sư là hoàng phi?
Đào Phùng ngẫm nghĩ một lát, rồi như chợt hiểu, chạy lại soát
quần áo bốn đứa vừa bị giết thì trong hầu bao một thằng có một tờ giấy chữ đầy
những dấu son đỏ chói. Đào Phùng kêu:
- Đã biết ngay mà! Một tên thám tử.
Vừa nói, chàng vừa đạp mạnh vào cái xác, rồi gập tờ giấy bỏ
vào bọc.
Cả năm người cùng có vẻ lo lắng, suy nghĩ Hoàng phi nhìn xuống
chân đồi:
Con sông cầu lượn khác chảy về phía đông, giòng nườc lấp lánh
dưới ánh trời trưa. Bổng bà buông một tiếng thở dài, chán ngán.
Đào Phùng cúi đầu tạ tội:
- Để lệnh bà sợ hãi, kẻ hạ thần thực đáng chết.
Hoàng phi như không nghe thấy gì hết, cặp mắt tuôn hai giòng
lệ. Rồi bà thổn thức bảo Nhị Nương và Phạm Thái:
- Hay thôi, ta đừng đi Lạng Sơn nữa hai em ạ.
Nhị Nương an ủi:
- Tâu lệnh bà, không bao giờ ta nên nản lòng. Ta phải...
Không để cho Nhị Nương dứt câu, hoàng phi tiếp luôn:
- Vì, các em ạ, chị còn sống đến ngày nay là chị mong ước mai
sau được gặp hoàng đế... Nhưng hoàng đế thăng hà rồi các em ơi, thì chị còn sống
làm gì nữa, thà chị thác đi để dưới suối vàng được cùng hoàng đế tương kiến...
Bà bưng mặt nức nở khóc. Phạm Thái nói:
- Nhưng hoàng đế hiện còn sống, sao lệnh bà lại nói gở thế?
- Không, đích thực hoàng đế thăng hà rồi. Đêm hôm qua chị nằm
mộng thấy hoàng đế khóc mà bải chị rằng "ái khanh ơi, đôi ta ngày nay đã
âm dương cách biệt. Ta không hề oán giận điều gì, ví dù có ở dương thế ta cũng
chẳng hy vọng được cùng ái không hội ngộ." Rồi hoàng đế tả những cảnh khổ
sở, những nỗi gian nan, các em để chị chết cho được gặp mặt hoàng đế ở dưới cửu
tuyền, chứ chị sống thêm một ngày là thêm một ngày đầy đoạ ở dương gian...
Đào Phùng, Phạm Thái và Nhị Nương xúm lại khuyên giải, lâu dần
hoàng phi cũng ngôi nguôi.
Nhị Nương nói:
- Vì lệnh bà tưởng nhớ hoàng thượng quá nên hoá mộng đó thôi.
chứ vừa có người ở bên Trung quốc về nước nói hoàng thượng hiện đóng ở Tràng An
chờ binh cứu viện của nhà Thanh.
Nhị Nương bịa đặt ra tin ấy, để yên lòng hoàng phi mà thôi. Kỳ
thực, các yếu nhân trong đảng Tiêu Sơn thừa biết rằng vua Chiêu Thống không chịu
nỗi những sự nhục nhã, những sự khinh mạnh của người Tàu đã chết rồi, chết theo
hoàng tử đã ba năm trước. Nếu trong các tờ hịch, các mật thư gửi cho nhau họ vẫn
còn dùng niên hiệu Chiêu Thống là chỉ cốt để khỏi náo động lòng các đảng viên
và nhân dân các nước đang mến tiếc nhà Lê. Vả họ cho rằng nước không thể một
ngày không vua được, mà vua Quang Toản nhà Tây Sơn thì họ nhất định không công
nhận là ông vua chính thức của nước Việt Nam. Vì vậy trong khi chưa tìm được một
người trong hoàng tộc để tôn lên ngôi hoàng đế, đảng Tiêu Sơn tạm phải coi như
vua Chiêu Thống hãy còn sống, để làm trụ thạch cho công cuộc khởi nghĩa của đảng
Phạm Thái bỗng dục:
- Tâu lệnh bà, bây giờ sang giờ Mùi rồi, ta phải đi kíp, thì
tối nay mới có thể tới Lạng Giang được.
Đào Phùng bàn:
- Lệnh bà nên nghỉ lại Hoàng Mai, sớm mai hãy lên Lạng Giang
thì hơn. Như thế lệnh bà đỡ nhọc mệt mà ngựa lại được nghỉ ngơi dưỡng sức.
Ai nấy còn đương suy nghĩ thì Đào Phùng lại nói luôn:
- Tôi xin có thư giới thiệu của Phạm hiền hữu, một nhà ẩn sĩ ở
Hoàng Mai tên là Phạm Quảng Văn. Người ấy đậu tiến sĩ về cuối đời Cảnh Hưng,
văn chương lỗi lạc, chỉ vì tính cương trực nên không được chúa Sâm trọng dụng.
Vả ông ta cũng không thích ra làm quan, bỏ về làng dạy học, lấy sự chơi núi
cao, sông rộng, uống rượn, ngâm thơ làm thú. Ngày bà hoàng phi họ Đặng mưu việc
phế lập muốn tìm vậy cánh cho Trịnh cán để chống nhau với Trịnh Khải, cũng đã
nghĩ đến ông Nghè trẻ tuổi ấy, mà đòi ông ta về triều, vì có ông Ngô thì Nhậm đậu
cùng khoa với ông ta tiến cử. Nhưng ông ta không ưa những sự âm mưu ám muội,
nên cáo ốm ở lỳ nhà Hiền hữu nên đến chơi ông ta, vì ông ta không những có văn
tài, mà về binh lược, ông ta cũng khá lắm. Khi xưa quận Nhưỡng đóng binh ở Hải
Dương cũng có mời ông ta đến tham nghị. Ông ta tấy Nhưỡng có tính phản trắc, biết
không làm nổi việc lớn nên vừa đến ông ta đã về ngay. Từ đó tới nay, ông ta
không nghĩ đến việc nước nữa, cho rằng vận nhà Lê đến thì mạt, dẫu có tài
Trương Lương, Gia Cát cũng không thễ cứu vãn nổi, nên đành chịu khoanh tay phục
tòng thiên mệnh mà thôi.
Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng:
- Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh?
Chỉ biết một ciệc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng... Tránh sự
gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật
lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ,
nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống, có đáng kể chi. Thưa hiền hữu,
tôi không phục Phạm Quảng Văn một chút nào.
- Nhưng, thưa hiền hữu Quảng Văn rất tự phụ thông phép tuoán
Thái ất. Ông ta bảo ông ta biết chắc chắn rằng vận nhà Lê hết rồi.
Phạm Thái cả cười đáp:
- Bây giờ giá Triệu Nghiêu Phụ tái sinh bảo tôi như thế, tôi
cũng không tin kia mà. Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh. Bằng
không thì chết. Mà cái chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ
ẩn sĩ trong xó tối.
- Những kẻ ẩn sĩ có đợi cái chết già ở nơi nhàn dật đâu? Họ
chỉ đợi thời mà thôi Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm
cười bảo Đào Phùng:
- Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế.
Phạm Thái và Đào Phùng cất tiếng cười vang:
- Khảng khái thay lời nói của quý nương!
Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má hoàng
phi đẫm lệ.
Chưa kịp khỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói:
- Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi, thì các em nên thôi đi, đừng
hành nữa mà mất công vô ích.
Phạm Thái cúi đầu đáp:
- Tâu lệnh bà đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động.
Còn sự thành, bại cùng sự sống, chết, không nên để trí nghĩ quá.
Nhị Nương cũng nói:
- Vả lại, tâu lệnh bà, phép toán Thái ất đã lấy gì làm đúng.
Xin lệnh bà cứ vững lòng tin cậy cho.
Hoàng phi cười gượng:
- Chị thực kém em nhiều lắm. Vậy bây giờ ta lên đường thôi chứ?
Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Tâu lệnh bà, đi Lạng Giang thì không kịp. Mà đến nhà cái
ông ẩn sĩ Hoàng Mai thì thực không nên. Vậy Đào hiền hữu ơi, hiền hữu mau sắp
cơm nước hầu lệnh bà xơi, mai chúng tôi hãy hộ giá đi sớm.
Đào Phùng vui mừng toan gọi người nhà, nhưng trông ra sân,
chàng bỗng giật mình nhớ đến bốn cái xác, Nhị Nương cũng nhìn theo và hiểu ý
chàng?
- Không hề gì. Việc bếp nước đã có ngu muội.
Nàng mỉm cười nói tiếp:
- Giết nhà bếp của đại huynh thì cố nhiên phải làm bếp thay
chứ. Được cái việc bếp nước em cũng khá thạo. Hỏa đầu quân Nhị Nương đây.
Mọi người cười rộ lên, quên hẳn câu chuyện buồn rầu.
- Nhưng trong khi Nhị Nương này làm cơm thì xin đại huynh
cùng hiền đệ chôn cất cho mấy người chết.
Phạm Thái lẩm bẩm:
- Rõ khéo! Một người giết, hai người khác phải chôn!
Hôm ấy mãi sang giờ Thân mới có cơm trưa. ăn xong, mọi người
ngồi bàn về hành trình. Đào Phùng đã nhiều lần đi Lạng Sơn nên rất thông thuộc
đường lối, vẽ phác ra một bức bản đồ, ghi những nơi có thể nghĩ lại được. Đoạn
chàng hỏi Phạm Thái:
- Hiền hữu lên Lạng Sơn phen này đã có chủ định gì chưa?
Phạm Thái đáp:
- Kể thì tôi vâng lời đảng trưởng, hộ giá Hoàng phi đến trấn
Lạng Sơn, rồi lại trở về ngay. Nhưng nếu gặp việc quan trọng mà cần ở lại thì
tôi cũng ở lại.
Phạm Thái nói thế là vì chưa tin hẳn bụng Đào Phùng, không muốn
lộ sự bí mật trong đảng. Kỳ thực chàng lên Lạng Sơn còn có một mục đích khác,
khẩn yếu hơn.
Nguyên Phổ Tĩnh thiền sư có một người đồng chí trẻ tuổi, hiện
lĩnh chức trấn thủ trấn Lạng Sơn, là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thu, người
làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam. Đã nhiều lần Thanh Xuyên hầu cho mang thư về mật
xin Phổ Tĩnh cử lên Lạng một người có đại tài để lập một chi đảng ở đó. Phổ
Tĩnh ngỏ lời với Phổ Chiêu muốn cắt Chiêu đương việc ấy. Vậy nay nhân dịp hộ
gia hoàng phi lên Lạng, Phạm Thái sẽ ở luôn đó, nói là để giúp việc sư trưởng
chùa Tam Thanh, nhưng kỳ thực để giúp Trương Đăng Thu về việc phục hưng nhà Lê.
Trương làm trấn thủ ở một trấn nơi biên thuỳ khẩn yếu, dưới quyền có tới năm,
sáu nghìn binh lính tinh nhuệ Khi lâm đến đại sự sẽ dụ theo để chiếm cứ ngay lấy
trấn làm nơi sào huyệt của đảng, việc ấy thật dễ như trở bàn tay.
Quang Ngọc cũng thấy rõ sự lợi ích ấy, nên hôm đảng viên đảng
Tiêu Sơn tụ họp, chàng không đem việc lập chi đảng ở Lạng Sơn ra bàn, sợ nhỡ việc
ấy tiết lộ ra ngoài đảng thì Trương Đăng Thu sẽ bị hại, hay ít ra cũng bị cách,
và như thế, đảng Tiêu Sơn đến có ngàn cũng chẵng làm nên trò trống gì, vì sức mạnh
của đảng sau này sẽ trông vào một quân đội lớn như quân đội Lạng Sơn.
Hồi 18: Sấm
Sáng sớm hôm sau, bốn người lên đường, Phạm Thái nhường hoàng
phi cưỡi con ngựa trắng giống ngựa thổ Bắc Kạn, thân nhỏ thấp và bốn chân tuy
hơi thô, nhưng rất thẳng và vững. Còn ba con kia sắc tía, bờm dài, đuôi dài,
trong khi chạy, cổ cất thẳng và những lúc người cưỡi kìm cương đứng lại, thì bốn
vó nhỏ thon của nó luôn luôn cuốc xuống đất và mũi nó hục hặc thở phì hơi. Đó
là hạng chiến mã, giống Lạng Sơn ky sĩ phải có vẽ tốt, cương cứng mới trị nổi,
tay non sẽ bị vật ngã liền.
Song song đi hàng đôi và buớc một trên con đường đất đầy cỏ
xanh ướt, bốn con ngựa thỉnh thoảng gặp vũng nước động ngầm dưới cỏ sau trận
mưa tối hôm trước, làm cho nước vọt tung toé lên. Mưa bay đã tạnh hẳn. Nhưng tiết
trời mỗi lúc một thêm giá, nhất là gió bấc thổi lại càng mạnh khiến ai nấy chân
tay lạnh buốt. Nhị Nương bèn dừng lại ở một cái quán bên đường để uống bát nước
chè tươi nóng và mở khăn gói lấy chiếc áo cà sa nâu dầy đưa hoàng phi mặc trùm
ra ngoài cho đỡ rét.
- Nam mô a di đà Phật! Hẳn nhà chùa đi đường xa.
- Sao cô hàng biết?
- Vì thấy nhà chùa cưỡi ngựa. ở vùng này ít khi có các sư ông
cưỡi ngựa đi qua.
Hoàng phi lo lắng nhìn Nhị Nương. Phạm Thái thản nhiên đáp lại
cô hàng:
- Phải, bần tăng nay đi ngựa cũng là một sự bất thường.
Nguyên Phổ bác thiền sư - vừa nói vừa trỏ hoàng phi - khi tới Kinh Bắc thì mỏi
mệt quá, không đi được nữa, may gặp công tử đây - chỉ Nhị Nương - là chỗ bạn
tâm giao, công tử liền bỏ tiền ra mua mấy con ngựa để cùng đi cho vui.
- Nam mô a di đà phật! Thật công tử có lòng quý hóa! Nhưng
chư tăng đi tận đâu?
Nghe cô hàng hỏi tỉ mỉ, Phạm Thái đưa mắt liếc Nhị Nương có ý
bảo thầm phải coi chừng, vì biết đâu cô hàng ta không là một tay thám tử. Chàng
cho rằng nếu đảng Tiêu Sơn biết dùng những hàng cơm, hàng nước làm nơi dọ thám,
thì triều đình cũng chẳng dại gì mà không biết dùng. Chàng tin sự phỏng đoán của
chàng là đúng, khi thoáng nghe có tiếng bẻ nứa ở trong buồng bên đưa ra. Chàng
nghĩ thầm: "Thế nào cũng có thằng ghé mắt nhìn qua bức phên liếp
kia?" Tức thì chàng đứng dậy giục giã mọi người lên ngựa, và bảo ai nấy
cùng ra roi phóng nước đại, phi về phía Lạng Giang. Mãi khi vượt qua làng Bái một
quãng xa và sợ hoàng phi mệt nhọc, chàng mới kìm cương ngựa lại. Nhị Nương hỏi:
- Cớ sao hiền đệ vội vàng như thế?
Phạm Thái vẫn còn ngó lại phía sau:
- Hiền tỉ không ngờ vực điều gì?
- Ngờ vực thì có ngờ vực, nhưng cần gì phải quá hấp tấp đến
thế?
Câu nói bình tĩnh của một người thiếu phụ khiến Phạm Thái lấy
làm tự hổ thẹn về cử chỉ của mình. Chàng nói chữa:
- Nhưng mà tế ngựa một lúc trong người cũng thêm ấm được một
chút, có phải thế không, tâu lệnh bà?
Hoàng phi mỉm cười an ủi:
- Phải đấy. Nhưng chị đã dặn các em chỉ nên gọi theo đạo hiệu
của chị mà thôi Các em nên biết tai vách, mạch rừng, ta phải phòng bị luôn mới
được. Vậy từ giờ trở đi bất cứ chỗ đông người, hay ở chỗ vắng, chị là Phổ Bác
thiền sư còn công tử thưa công tử tên họ gì tôi quên bẵng mất rồi.
Nhị Nương cười lớn, cố làm bộ dạng đàn ông thò tay vào bọc lấy
tín bài mà nói răng:
- Bạch thiền sư tôi cũng quên bẵng mất, để còn phải tra cứu lại
mới được.
Rồi nàng cầm tín bài đọc:
- Nguyễn Đức Minh, hăm nhăm tuổi, người làng Đông Phú, huyện
Đông Ngàn... Có thế mà mãi không thuộc.
Mọi người cười rộ.
Có tiếng đâu đó cười theo. Ai nấy kinh ngạc nhìn nhau. Một
người tuy đầu râu đã bạc, nhưng còn vẽ tráng kiện, da dẻ hồng hào, cười lừa từ
bên sườn đồi đi xuống, gọi:
- Có phải Chiêu đấy không?
Phạm Thái nhìn Nhị Nương, mà trong lòng lo sợ, bất giác thò
tay vào bọc rút dao. Người kia nói tiếp luôn?
- Có phải Chiêu Trung... Con quan Bạch Hạc Hầu... đó không?
Phạm Thái nghe giọng lè nhè thì đoán biết rằng ông già say rượu
và lầm Nhị Nương với ông Chiêu nào đó... Tức khắc chàng tra kiếm vào vỏ, vui mừng
đáp lại:
- Dám xin lão trượng cho biết quý tính đại danh để lũ bần
tăng được hầu chuyện.
Ông lão như không nghe rõ lời Phạm Thái, cho lừa bước lại gần
bên Nhị Nương mà nói rằng:
- Công tử đi chơi đâu với chư tăng thế?... lại rủ nhau lên Lạng
giăng nhắm rượn với thịt cầy chứ gì ! Cho lão phu đánh chén với nhé?
- A di đà phật!
Câu niệm phật của hoàng phi khiến ông già quay lại ngắm
nghía, rồi nói:
- Chẳng hạn như sư ông đây vừa trẻ tuổi vừa đẹp trai... đẹp
hơn con gái đấy, mà bảo giới được tửu, giới được sắc thì lão phu... xin cam
đoan chừa rượn... chừa làm thơ... chừa tuốt... Chư tăng cùng công tử chắc cho
lão già lắm rồi... Kỳ thực lão mới năm mươi nhăm tuổi... Đầu lão bạc, râu lão bạc...
là vì lão lo buồn nhiều quá lo buồn về việc... việc nước...
Hoàng phi mỉm cười đáp:
- Lão trượng lo buồn việc nước mà rượu cứ chén tì tì được!
- Ấy uống để quên. Nhưng về nhà lão chơi đã. Lão ra đón công
tử từ sáng, vì chắc thế nào công tử cũng qua đây.
Nhị Nương lễ phép xuống ngựa đáp:
- Thưa lão trượng, lão trượng nhầm rồi. Tôi có là ông chiêu
ông ấm nào đâu.
Tôi là... là Nguyễn Đức Minh người huyện Đông Ngàn đây mà?
- Thế à? Thế ra công tử không phải ông Chiêu Trung, con quan
Bạch Hạc Hầu là bạn đồng khoa với lão phu. Nhưng không sao cứ về chơi đánh chén
đã! Lâu nay lão phu không có tri kỷ... uống rượu một mình buồn lắm!
Phạm Thái có vẻ ngẫm nghĩ. Bỗng chàng hỏi ông lão:
- Dám hỏi tôn ông, tôn ông có phải là Phạm tiên sinh đâu tiến
sĩ về đời Cảnh Hưng không?
Ông lão dương mắt đăm đăm nhìn Phạm Thái:
- Không, tôi họ Trần, chứ không phải họ Phạm, tuy tôi có đậu
tiến sĩ, nhưng thưa chư tăng cùng công tử, cái tiến sĩ ngày nay không quý bằng
một bình rượu ngon, hay một cái đùi chó thui vừa chín tới.
Dút lời, ông lão cất tiếng cười oang oang tỏ cho mọi người biết
rằng mình còn khỏe mạnh chẳng kém gì trai trẻ. Rồi ông ta nói tiếp:
- Ý chừng các ngài muốn hỏi thăm ông thầy số tướng thiên văn,
địa lý Phạm Quảng Văn người làng Hoàng Mai?
- Vâng.
- Còn tôi đây chỉ là Trần Lý người trấn Sơn Nam.
Ông ta giơ tay trỏ lên một trái đồi:
- Nhưng không sao, xin mời chư tăng cùng công tử cứ đến chơi,
nhà lão phu kia rồi.
- Vậy xin vâng.
Năm người cho ngựa và lừa đi buớc một leo lên đồi. Bỗng một đứa
trẻ nằm ngửa phơi nắng trên lưng trâu vỗ bụng mà hát rằng:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Nhị Nương hỏi Trần Lý:
- Thế nghĩa là gì, dám thưa lão tiên sinh?
Phạm Thái nói:
- Trẻ chăn trâu nó hát nghêu ngao còn tìm hiểu nghĩa làm gì
cho mệt trí.
Trần Lý suy nghĩ đọc nhẩm lại bốn câu ca vừa lắng tai nghe được:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Bỗng ông ta cười phá lên, bảo mọi người:
- Sấm rồi! câu sấm rồi! Thôi lại anh nào trong đám trung thần
nhà Lê đặt ra đó thôi Mà biết đâu lại không chính anh Phạm Quảng Văn là tác giả
câu hát ấy.
Bấy giờ bốn con ngựa và lừa của chủ nhân đã leo đến một nếp
nhà tranh làm ở một nơi đất bằng, rộng độ hai sào, chung quanh trông thông cùng
dương liễu, Trần Lý xuống lừa mời:
- Rước chư tăng với công tử vào chơi...
Rồi quay sang tiểu đồng:
- Chú Thiện! pha nước uống nhé?
Một câu bé đầu đội trái đào, chừng mười bốn, mười lăm tuổi chạy
ra, chắp tay nói:
- Thưa thầy, có ông tú Mỹ Cầu đánh cá ở đầm Phan Trì được hai
con chép lớn, đem đến biếu thầy.
Trần Lý cất tiếng cười ha hả:
- Hay! Hay lắm! Quý khách đến chơi, nhà lại có người cho cá
ngon...
Ông quay ra nói với Phạm Thái:
- Cá chép đầm Phan Trì có tiếng là ngon lắm đấy bạch hai sư
ông.
Nghiễm nhiên Phạm Thái hỏi lại:
- Nhưng lão tiên sinh có rượu ngon không?
- Rượu ngon thì không thiếu, chỉ lo chư tăng cùng công tử
không có sức uống.
Vậy chú Thiện, chú đi tìm cho thầy anh trò nào khéo làm gỏi đến
giúp thầy một tay nhé. Chả mấy khi có gỏi tươi như thế này để thết các vị thiền
sư. Nhưng đun nước pha trà ngay đã, các quý khách chắc hẳn rét lắm đấy.
Người nào người ấy tìm gốc thông buộc ngựa rồi đi vào trong
nhà ngồi nghĩ
- Chú đừng quên lấy thóc cho ngựa các quý khách ăn nhé?
Một lát sau, thiểu đồng bưng nước lên. Bà hoàng phi uống luôn
hai chén chè tươi nóng và thơm, thấy trong người ấm áp dễ chịu, mỉm cười nhìn
Nhị Nương.
Nhưng Nhị Nương giữ vẻ mặt tư lự, hỏi Trần Lý:
- Thưa lão tiên sinh, tôi vẫn không nghĩ ra được nghĩa huyền
bí của câu sấm lúc nãy?
Trần Lý cười lớn:
- Thì làm gì có sấm, sét kia chứ. Tôi đã bảo họ đặt ra đẻ xui
giục lòng dân mà thôi Họ cố làm cho câu hát lờ mờ, huyền bí, khiến ai đọc đến
cũng phải đoán ra một nghĩa riêng. Thí dụ câu hát này chúng ta thử cùng nhau
tán lấy một nghĩa mà xem. Câu đầu:
"Mặt trời sắp lặn sau đèo "
Thì ta có thể cho là phương tây. Mặt trời sắp lặn chả là
phương tây thì còn là gì.
Còn như đèo thì ta có thể cho là núi. Vậy câu đầu tức trỏ
"Tây Sơn ". Hơn nữa, hai chữ "sắp lặn " lại là sắp mất. Tóm
lại sáu chữ ấy chỉ nghĩa "nhà Tây Sơn sắp mất ". Kế đến hai câu sau:
"Hỡi người hếam củi hãy theo vào rừng
Đem dao cùng búa cùng thừng"
Thì có lẽ chẳng có nghĩa gì, mà chỉ là hai câu đưa đẩy. Nhưng
ta có thể tán rằng "người hếhm củi " đây là trung thần nghĩa sĩ, và
"theo vào rừng " là theo nhà Lê.
Và trong chữ Lê cũng có chữ dao. Câu sau rốt:
"Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to."
Thì hẳng có nghĩa là diệt Tây Sơn. Vì "cao nhỏ " là
tiểu, ngột: hai chữ tiểu, ngột chắp lại thành chữ Quang, Quang đây không là
Quang Trung, Quang Toản thì các ngài còn bảo Quang gì? Đó là tôi giảng theo ý
riêng của tôi. Công tử cùng chư tăng giảng theo một nghĩa khác. Cũng không ai cấm.
Dút lời, ông ta cười ha hả. Phạm Thái và Nhị Nương phục Trần
Lý lắm. Chủ nhân lại nói tiếp:
- Câu sấm ấy kể cũng tầm thường. Mà sấm như thế, một lúc tôi
có thể đọc vài chục câu, chẳng hạn:
"Ra đầm đánh cá về xơi,
Béo thời là gỏi, gầy tới kho tương ".
Cả năm người cùng cất tiếng cười vang. Trần Lý nói:
- Biết đâu tán rộng ra, câu ấy lại không có nghĩa thế. Nhưng
kìa ai đến chơi!
Một người chống gậy từ trên đồi đi lên.
Ai nấy nhìn xuống; Phạm Thái hỏi Trần Lý:
- Có phải Phạm Quảng Văn đấy không, thưa lão trượng?
- Không phải.
Vừa nói, ông lão vừa đứng dậy chạy vội ra sân:
- Xin kính chào quan Bạch Hạc Hầu! May mắn cho đệ biết bao,
hâm nay lại được đại nhân chiếu cố đến chơi.
Người mới tới tuổi đã cao lắm, vào khoảng gần bảy mươi, đứng
lại thở rồi mỉm cười bảo Trần Lý:
- Tôi đến đây xin hiền hữu tha lỗi cho cháu Trung. Sáng nay
tôi có chút việc cần phải nhờ đến cháu đi giúp, nên cháu không lại hầu hiền hữu
được... Xin để khi khác cháu đến tạ tội.
Bạch Hạc Hầu vái chào nói tiếp:
- Thôi, lại xin cáo từ hiền hữu tôi về.
Trần Lý giữ thế nào cũng không được, đành phải tiễn khách xuống
chân đồi, rồi trở lên lắc đầu phàn nàn:
- Ông lã thật thà quá! Đi năm sáu dặm đường, trèo hai, ba quả
đồi chỉ cốt báo cho mình biết rằng ông Chiêu Trung không đến chơi được.
Hoàng Phi khen:
- Người thủ tín đến thế.
Nhị Nương nói:
- Nhưng bạch sư ông sao không sai người nhà đi?
Trần Lý cười:
- Ấy, Bạch Hạc Hầu vẫn có tính quá cẩn tín như thế đấy. Một lần,
chúng tôim ấy anh em hẹn hôm sau lên họp nhau uống rượu làm thơ ở trên ngọn đồi
Phúc Long. Chẳng may đêm hôm ấy, mưa như tầm tã, rồi sáng hôm sau vẫn chưa tạnh.
Tưởng chẳng còn ai đến họp nữa, mà tôi cũng không đến. Có ngờ
đâu Bạch Hạc Hầu sắn quần chống gậy mà tới nơi.hẹn. Sau về, cụ ốm mất gần nửa
tháng, chúng tôi phải cắt nhau đến phục dịch thuống thang cho cụ.
Phạm Thái phàn nàn:
- Thế thì câu nệ quá nhỉ!
Người nhà bưng mâm gỏi lên. Chủ bèn mời khách vào dự tiệc.
Riên chú tiểu giữ lễ không dám ngồi. Trần Lý cười nói:
- Bày vẽ, đời này không nên kể tôn ti trật tự gì nữa! Chỉ có
hai hạng người:
Người anh hùng với người... không anh hùng. Vậy thì xin lỗi
hai sư ông cứ gì là tiểu mà không phải bực anh hùng.
Phạm Thái quên hẳn mình đương mặc bộ áo cà sa cả tiếng cười
vang, nói lớn:
- Khảng khái thay lời của lão anh hùng Trần tiên sinh. Vậy
chú Thận, sư ông xá lỗi cho phép chú được hầu rượu lão tiên sinh cùng quý công
cử đây.
Rồi năm người cùng ngồi lên giường uống rượu trò chuyện vui vẻ.
Nhưng Nhị Nương vẫn không quên đưa mắt ra bảo Phạm Thái phải giữ gìn, chớ nên
quá chén.
Hồi 19: Đả Lôi Đài
Xong tiệc rượu Trần Lý say mềm, nằm vật ra ngủ.
Nguyễn Đức Minh liền viết mấy chữ cảm tạ để lại rồi cùng hai
sư ông và chú tiểu lên ngựa ra đi, trông về phía Lạng Giang thẳng tiến.
Đến bến Lạng lại phải vào đồn trình viên tuần giang xin phép
sang sông. Lần này hàng lý bị khám xét kỹ hơn, và mỗi người phải cung khai lý lịch
rành rọt hơn.
Viên tuần giang hỏi vặn mãi về mấy con ngựa; nào những mua ở
đâu, mua của ai, giá bao nhiêu tiền, vì sao đi tu mà cũng có tiền mua ngựa, mà
cũng biết cưỡi ngựa. Nhị Nương phải hết tài ngôn luận, đem hết giọng phong lưu
công tử ra ứng đối mới thoát được. Nàng không quên lòe viên tuần bằng những lời
khoác lác, khoe khoang, nói quen thân với quan đại đô hộ nọ, quan đại đổng lý
kia, thường uống rượu làm thơ với quan thị lang này, quan tư vụ khác, khiến
viên tuần giang hơi chột dạ, mà cái ý tưởng muốn đánh thuế của nhà chuà một con
ngựa tốt cũng dần dần biến mất trong khối óc làm tiền của ngài.
Vì thế nên chùng chình mãi, bốn người mới sang sông được, và
khi đến Lạng Giang thì mặt trời đã xế bóng.
Lạng Giang tuy chỉ là một phủ ly, song vì ở giáp giới miền
trung du và thượng du - nhất ở hạt ấy, hai nòi giống lại bắt đầu gặp nhau, -
nên xưa nay vẫn là nơi rất trọng yếu, về mặt tuần phòng cũng như về mặt thương
mại. Về mật tuần phòng không những binh lính nhiều gấp đôi những phủ lỵ khác,
mà ngoài số bộ binh và ky binh ra, lại có một đội chiến thuyền đóng ở sông
Thương nữa.
Còn thương mại thì rất phồn thịnh, vì đó là nơi giao dịch sản
vật, hàng hóa của các dân Thổ, Mán vá dân Annam.
Vừa bước tới đầu phố Nam môn, bọn Phạm Thái nhận thấy ngay điều
đó. Tuy lúc bấy giờ đã về chiều mà người qua lại vẫn còn tấp nập. Những bộ y phục
màu chàm luôn luôn xen lẫn với những bộ y phục màu nâu. Chỗ này mấy chục người
Thổ ở chợ về đi theo sau một đàn bò bán còn thừa lại. Chỗ kia, những người
Annam, từng tốp một, gánh muối ở thuyền lên nơi nhà trọ để sáng hôm sau đem ra
chợ bán.
Tiếng cười đùa vui thú, tiếng gọi nhau vào hàng cơm, tiếng
cãi cọ om sòm, thực là huyên náo.
Trước một tửu quán, bốn người dừng ngựa. Tò mò đứng ngắm một
đám đông.
Ở giữa đám ấy có tiếng thanh la inh ỏi. Bỗng tiếng thanh la
ngừng lại, rồi bọn người đứng xem dãn ra một chỗ. Bốn người ngồi trên mình ngựa
thấy tiến đến gần một người Thỗ, thân thể vạm vỡ, cao lớn. Người ấy chắp tay,
cúi đầu chào, lễ phép nói bằng tiếng kinh rất sõi:
- Bạch chư tăng, thưa công tử, chúng tôi xin ra đón các ngài
vào xem.
Đáp lại câu mời, Nhị Nương thò tay vào bọc, bốc một nắm tiền
đồng đưa cho người kia mà truyền rằng:
- Làm trò đi. Hay, ta thưởng thêm sau.
Bọn Thổ có tất cả ba người: hai người đàn ông và một thiếu nữ
rất đẹp, luôn luôn ngước mắt ngắm phía nhà sư và mỉm cười một cách rất có ý
nghĩa. Thoạt tiên chúng cho con chó làm trò. Con vật theo tiếng hát ê a chui
qua những cái vòng tròn bằng mây. Rồi đến lượt con khỉ và con cừu: con khỉ lộn
múa trên lưng cửu rất giẻo và nhanh nhẹn. Phạm Thái ý chừng quên bẵng rằng mình
là sư, trở người con gái hỏi:
- Còn cô kia không biết làm trò gì?
Cô Thổ nhoẻn một nụ cười kháu khỉnh, đáp lại:
- Em chỉ biết yêu nhà sư thôi.
Khán giả đứng quây tròn chung quanh, cười vang lên, khiến cặp
má Phổ Bác thiền sư dần dần ửng đỏ. Thấy vậy bọn làm trò cũng cười theo, và nói
tiếng Thổ với nhau điều gì.
Bốn người cười ngựa toan quay đi thì bọn kia khẩn khoản mời ở
lại xem diễn võ. Họ múa rất đẹp và rất khỏe, khiến Phạm Thái và Nhị Nương phải
tấm tắc khen hoài. Đoạn, họ thách khán giả có ai giỏi vào đấu võ với họ. Nếu
đánh được họ, họ sẽ hiến hết số tiền thu được. Nhưng trước khi tỉ thí họ hãy
xin đi thu tiền đã. Muốn coi đấu võ, công chúng chẳng hà tiện, ném tiền soang
soảng vào cái thau mà cô gái Thổ giơ ra. Chẳng bao lâu đã thu được già nửa chậu
tiền đồng.
Song vẫn không ai dám vào đọ sức với bọn họ. Có lẽ vì ngắm
thân thể hai người đàn ông Thổ lực lưỡng to lớn mà ai nấy sợ hãi chăng? Một người
làm trò nói ý chừng để nuốt trôi số tiền vừa thu được:
- Không có ai vào đấu với chúng tôi thì chúng tôi đấu với
nhau để các ngài coi vậy Hai người cùng nhau đi một bài quyền. Đoạn, người thiếu
nữ đứng chống tay vào hai bên sườn, ngạo nghễ nhìn công chúng, nói:
- Không ai dám đấu võ với hai anh em, nhưng em đây hẳn có tay
địch thủ!
Không ai trả lời. Nàng liền đưa mắt nháy Phạm Thái mà hỏi rằng:
- Thế nào, bạch sư ông! Nều sư ông mà hạ nổi em thì em xin
thình nguyện nhận sư ông làm chồng.
Khán giã cười vang. Nhưng họ kinh ngạc xiết bao khi họ thấy
nhà sư thong thả xuống ngựa, và khoan thai bước lại gần người con gái. Ai nấy
im lặng, chờ xem.
Phạm Thái đưa mắt nhìn chung quanh mình rồi dằn từ tiếng bảo
người thiếu nữ:
- Bần tăng tiếc rằng sự tu hành bắt buộc các nhà sư không được
có vợ. Vậy nếu cô nương bằng lòng nhận điều này thì bần tăng xin thí võ với cô
nương ngay...
Mọi người thì thào:
- Ồ! bí mật nhỉ! nhà sư mới ngộ nghĩnh làm sao chứ!
Cô gái Thổ không khỏi chột dạ, se sẽ đáp:
- Vâng, điều gì xin sư ông dạy cho biết.
- Là nếu tôi đánh ngã cô nương thì tôi có quyền muốn gả cô
cho ai mặc ý.
Cô kia còn do dự thì người anh đã giục: "Cứ nhận lời đi,
không thua đâu mà sợ".
Hai người cùng nhau đấy quyền. Nhưng thiếu nữ địch sao nổi Phạm
Thái, chưa đưọc ba hợp đã ngã chổng quèo vì một cái đá móc của bên địch.
Những người đứng xem, reo mừng ầm ĩ:
- A... a! Nhà sư đắc thắng!... Nhà sư được rồi!... Bạch sư
ông gả cô ấy cho tôi nhé?
Cô Thổ xấu hổ lóp ngóp bò dậy ra đứng phía sau con chiên, thở
hổn hển.
Nhưng một người trong hai người đàn ông bước lại gần bên nhà
sư mà rằng:
- Võ nghệ nhà sư cũng khá đấy!
Phạm Thái mỉm cười:
- Muốn biết khá hay không, nhà ngươi chỉ việc tỉ thí. Bần
tăng vẫn còn đử sức để đấu với nhà ngươi.
Khán giả hò la:
- Ồ phải đấy! đấy vỏ đi!... Hai người đấy võ đi!...
Một cái kiệu khiêng qua. Vị công tử ngồi trong vén màn bảo
phu kiệu đứng lại, rồi khi hỏi biết đầu đuội câu truyện liền truyền rằng:
- Ta treo giải một nén bạc đấy... Vậy đấu võ đi.
Phạm Thái liếc mắt nhìn gã kia, trong lòng căm tức. Người làm
trò cung kính đáp lại:
- Thưa công tử, tối lấy làm tiếc rằng trời tối mất rồi. Kể đấu
võ với một người tầm thường thì chỉ trong nháy mắt là xong. Nhưng đối với sư
ông đây thì tất phải lâu, ít ra cũng mươi, mười lăm hiệp mới phân thắng phụ, mà
trời lại tối rồi. Chẳng lẽ đốt đuốc lên mà đánh nhau. Vậy xin công tử đến sáng
mai.
Thực ra trời đã nhá nhem tối. Vả Phạm Thái cũng không muốn
lĩnh thưởng của gã kia, liền nhận lời đợi đến hôm sau sẽ cùng người làm trò thử
sức. Nhị Nương nói đùa:
- Nhưng còn tiểu thư chưa thấy sư ông định phận ra sao. Nào
ai có diễm phúc được cùng cô kết duyên?
Cô làm trò ngước mắt nhìn chàng niên thiếu ngồi trên mình ngựa
mỉm cười một nụ cười rất có duyên. Nàng ao ước và đinh ninh rằng thế nào nhà sư
cũng gán mình cho chàng công tử, bạn của nhà sư. Vì thế, nàng tấp tểnh mừng thầm
đứng đợi Nhưng Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Hãy chờ đến mai. Bần tăng đấu võ với võ sĩ đây xong đã rồi
hãy hay.
Dút lời chàng mời hoàng phi cùng Nhị Nương vào trong quán nghỉ
trọ. Chủ quán ban nãy cũng đứng xem nhà sư đấu võ, nên tỏ vẻ kính phục lắm vội
vàng đi sắp mậm rượu. Trong khi ấy, người đầy tớ và chú tiểu giắt ngựa đi tàu.
Sáng hôm sau vừa thức giấc, Phạm Thái đã vội vã giục hoàng
phi và Nhị Nương lên đường. Nhị Nương nhắc truyện đấu võ thì chàng gạt ngay:
- Chúng ta há gì một sự tỉ thí hão huyền mà nhãng bỏ việc lớn
đương theo đuổi được chăng?
Không thấy Nhị Nương đáp lại, chàng nói tiếp luôn:
- Không phải ngu đệ sợ thua mấy thằng bán võ ấy đâu, - mà có
thua phỏng đã sao? - nhưng ngu đệ chỉ e mất thời giờ vô ích, trong khi ở Tiêu
Sơn đại huynh đang lo lắng về hành trình của chúng ta.
Hoàng phi vẫn muốn mau tới Lạng Sơn để được nghe ngóng tin tức
vưa Lê ở bên Tàu ra sao, liền phỉnh luôn Phạm Thái một câu:
- Sư ông bàn rất phải. Người anh hùng không hề tức khí sằng,
nhất lại không bao giờ để lòng hiếu thắng chiếm đoạt tâm hồn mình đến đổi làm
lơ cả việc lớn.
Vậy mục đích của ta là đi Lạng Sơn. ĐỌ tài đọ sức với bọn thất
phu kia làm gì?
Tha hồ cho chúng nó ở lại mà khoe khoang, khoác lác với quần
chúng, chúng nó làm giảm giá trị sao được một bậc nhân tài, một vị anh hùng như
Phổ Chiêu thiền sư?
Được hoàng phi ca tụng, Phạm Thái sung sướng đỏ cả mặt, và
suýt nữa toan phục xuống tạ ơn, nếu không nhớ đến thân thế bọn mình là một bọn
tòng vong đương ở trong một hàng cơm đông người lui tới.
Bốn người liền gọi chủ quán tính toán tiền ăn tiền trọ rồi ra
đi, mặc cho hắn đứng khúc khích cười chế nhạo.
Hồi 20: Vua Chiêu Thống
Năm hôm sau, bốn người đến Lạng Sơn và theo Phạm Thái đi thẳng
đến Kỳ Lừa thăm sư cự chùa Tam Thanh. Sư cụ đạo hiệu Phổ Mịch thiền sư là bạn đồng
chí của Phạm Thái và là một đảng viên trong đảng Tiêu Sơn.
Hàn huyên dăm câu rồi hai người hỏi nhau đến việc đảng. Vô
tình không biết có hoàng phi đứng trước mặt Phổ Mịch buột miệng nói:
- Về vùng trấn Bắc như thế cũng có thể hy vọng lắm. Còn ở
đây, từ khi cái tin Hoàng đế thăng hà đưa về nươc các bật sĩ phu xem chừng đều
có ý chán nản...
Thiền sư bỗng ngừng bặt vì thấy Phổ Chiêu ra hiệu bảo im
ngay. Nhưng đã quá chậm rồi. Hoàng phi nấc lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất.
Nhị Nương vội nâng dậy đật lên giường và gọi mãi mới tỉnh. Thấy bà khóc thảm
thiết và luôn miệng kêu "Bệ hạ", Phạm Thái lại gần khẽ nói:
- Tâu lệnh bà nên bình tĩnh.
- Ta cần gì. Ta cố sống đến ngày nay là chỉ vì hy vọng mai
sau được gặp mặt Hoàng thượng. Nhưng nay Hoàng thượng thăng hà rồi, thì ta chỉ
còn một thác mà thôi - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy thế sao được! Vì nào chỉ có một
mình Thánh thượng? Còn thái hậu, vâng còn Quốc mẫu, sau này ai người phụng dưỡng
ngài?
Và xin lệnh bà tha tội cho, Hoàng thượng mất tuy là một sự
đau đớn. Vì Hoàng thượng mất còn tìm được người trong hoàng tộc kế vị, chứ
giang sơn mất vào tay người khác, mới là mất hẳn. Vậy xin lệnh bà tĩnh tâm cho,
đừng làm náo động lòng thần dân. Nhất lại ở chốn biên thành này, binh lính cùng
thám tử của ngụy triều đông như kiến cỏ, nay lệnh bà khóc lóc ầm ỹ, nhỡ đến tai
bọn họ, thì không những một mình lệnh bà bị khổ nhục, mà đảng trung thần phục
quốc cũng đều vì lệnh bà mà phải ly tán mất. Xin lệnh bà nghĩ kỹ mà lượng xét
cho.
Hoàng phi lau nước mắt ôn tồn đáp lại:
- Đạ tạ thiền sư, không có lời dạy bảo của thiền sư thì suýt
nữa tôi đã làm lỡ cả việc lớn.
Bà liền cố gượng khuây nói chuyện với Phổ Mịch, cốt để hỏi về
mọi sự đã xảy ra ở bên Tàu. Phổ Mịch sợ hải khép nép:
- Tâu lệnh bà, vì lệnh bà cải trang, bần tăng không biết, đã
xúc phạm tới lệnh bà.
- Điều ấy không hề gì. Vả từ nay tôi thực đã trở nên một người
tu hành, một nhà chân tu. Vậy xin sư cụ cứ gọi tôi là Phổ Bác cho tiện.
Dùng thiền trà xong, hoàng phi cố nài Phổ Mịch thuật lại cho
biết tình cảnh bọn bầy tôi tòng vong ở nước người sau khi Hoàng thượng thăng
hà. Phổ Mịch nói:
- Điều ấy, bần tăng không được tường. Nghe đâu vua Càn Long
đày mỗi người ở một nơi...
Hoàng phi thương hại phàn nàn:
- Trời ơi! Sao lại còn bị đày nữa! Tội tình gì mà bị đày như
thế?
- Họ bị đày ngay khi còn sinh thời Tiên đế, vì vua Càn Long
không muốn bọn họ được gần đấng Tiên đế, sợ họ thúc giục Tiên đế xin quân đem về
nước lo sự phục hưng.
Hoàng phi thốt ra một câu mắng nhiếc:
- Quân khốn nạn!... Vậy thế thì ta không còn mong gì nhà
Thanh giúp binh nữa đấy.
Phạm Thái đáp:
- Tâu lệnh bà, ta cũng chăng nên mong cậy gì ở họ. Trước kia
họ cho Tôn Sĩ Nghị mang quân sang ta, tuy miệng nói là cứu giúp, nhưng kỳ thực
chỉ cốt chiếm cứ nước Nam mà thôi. Nhà Minh xưa giúp nhà Trần, cái gương xâm lược
ấy ta đã quên rồi sao?... Chỉ nên trông vào sức mình là hơn cả...
Phổ Mịch nói tiếp:
- Tâu lệnh bà, Phổ Chiêu thiền sư nói rất phải. Họ chẳng nhân
nghĩa gì đâu. Cứ xem cách tàn nhẫn họ xử với một ông vua mất nước với đám bầy
tôi tòng vong cũng đủ rõ tâm địa họ không ra gì. Ai đời thủa một ông vua láng
giềng gặp bước loạn ly lánh sang nhờ vả mình, mà coi người ta không bằng một
viên thượng thư! Bần tăng nghe Trần Thiện mo hắn phong cho Tiên đế chức tả
lĩnh, ban cho áo mũ quan tam phẩm. Cái tin ấy làm bần tăng thâm ruột tím gan.
Vua mình nó còn khinh thường như thế không trách các quan đi hộ giá, nó đày mỗi
người một nơi... Việc này chỉ tại thằng Kim Giản xui nên cả. Tâu lệnh bà, chẳng
ai ngu như bọn Lê Quỳnh, Phạm Như Hùng, Hoàng Tịch Hiếu không biết cư xử cho phải
đường. Thấy nó lãnh đạm với mình thì mình phải hiểu chứ, ai lại để Thánh thượng
đi lại cầu cạnh mãi rồi ra quỳ bên đường dâng biểu lên vua Thanh xin binh, nhất
lại nhờ tên đô thống Kim Giản đưa vào hầu. Thầy trò chúng nó đã bàn định cùng
nhau rồi. Chúng nó sợ bọn Tây Sơn như sợ cọp, còn dám ho he gì nữa mà mong
ngóng chúng nó cứu giúp? Vua Thanh có cho thằng Kim Giản ra dỗ ngon dỗ ngọt,
đánh lừa tam tứ phen, nào là chỉ cho đất Thâm Châu, nào là sắp phong làm quốc
vương ở đất Tuyên Quang. Chỉ thương hại Nguyễn Văn Quyên vì lòng trung quân mà
bị bọn chó má nó ném chết ở trong vườn Viên Minh.
Hoàng phi rơm rớm nước mắt hỏi lại:
- Chắc cao tăng biết nhiều về mọi việc ở bên nước láng giềng.
Vậy dám xin cao tăng làm ơn thuật lại cho nghe.
- Tâu lệnh bà, bần tăng quả mắt không trông thấy, nhưng tai
được nghe Trần Thiện kể lại. Câu truyện đau lòng lắm, thiết tưởng lệnh bà chẳng
nên biết làm gì thêm khó chịu. Chẳng qua nhà Lê ta đến vận suy, nên tình cảnh
vua tôi sinh ra như thế Hoàng phi cố giữ nét mặt thản nhiên:
- Xin cao tăng cứ cho biết.
- Việc đã xảy ra thì có can hệ gì. Đối với người đeo đuổi việc
lớn, chỉ có việc hiện tại với tương lai là đáng kể. Vậy xin cao tăng cứ thuật lại
hầu lệnh bà nghe rõ đầu đuôi Phổ Mịch ngồi ngẫm nghĩ một lát, như để sưu tầm mọi
điều trong trí nhớ, rồi kể rằng:
- Hồi cuối năm ngoái, một hôm bần tăng đi tới cửa động Tam
Thanh, bỗng gặp một người hành khất, quần áo rách rưới, dườing như đứng chờ ai.
Người ấy vái chào bần tăng, thì thầm xưng tên là Trần Thiện. Bần tăng giất
mình, vì hôm tiễn thánh giá vượt biên giới sang Tàu, chính mắt bần tăng trông
thấy trong bầy tôi có ông Trần Thiện. Ngày nay ông ta về nước, chắc có sự biến
cố chi đây. Bần tăng liền thắp đuốc mời Trần quân vào chơi trong động nói chuyện.
Thì ra Trần quân trá hình kẻ hành khất trèo non, vượt suối về nước chỉ để báo
tin cho thần dân biết rằng Hoàng thượng đã thăng hà, và đã lập Duy Khang kế
nghiệp.
Hoàng Phi ngơ ngác hỏi:
- Duy Khang là ai vậy?
- Tâu lệnh bà, là Lê duy Vượng, con nuôi của đấng Tiên đế.
Hoàng phi có vẻ lo sợ:
- Thế hoàng tử?
- Hoàng tử...
Phổ Mịch ngần ngại đưa mắt nhìn Phạm Thái, Nhị Nương trù trừ
đáp:
- Tâu lệnh bà, Hoàng tử lên đậu đã qua đời.
Nhị Nương kinh hãi nhìn hoàng phi, chắc thế ngào nghe tin
thái tử mất, bà cũng chết ngất đi. Nhưng không, bà vẫn giữ thản nhiên.
Có lẽ sự thống khổ đã đến cực điểm làm cho bà nghẹn ngào
không khóc được lên tiếng. Hay lòng căm tức vua tôi nước Tàu lấn át cả sự thống
khổ ? Cặp mắt mơ mộng xa xăm, bà ngây người, nhắc đi nhắc lại:
- Lên đậu!... Hoàng tử lên đậu! Lên đậu! Mất rồi!
- Tâu lệnh bà, có lẽ phần bực tức bị người Tàu khinh mạn, phần
buồn phiền vì hoàng tử qua đời. Nên Hoàng thượng mắc bệnh nặng ngay, rồi qua
năm sau, năm Quí sửu, Ngài thăng hà.
Cặp mắt Hoàng phi vẫn mơ mộng xa xăm:
- Ngài thăng hà! Ngài thăng hà!
- Vâng, Ngài thăng hà đã được hơn bốn năm nay.
Hoàng phi rùng mình như có cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn.
Nhưng bà cố định thần mà hỏi rằng:
- Trần Quân có thuật cho cao tăng nghe cái giờ lâm chung của
bệ hạ không?
- Tâu lệnh bà, Trần quân thuật rất tường tận.
"Hôm ấy, Thánh thượng biết rằng sắp qua đời, liền gọi bảo
Như Tùng. Lê duy Vượng đi nấu nước thơm để Ngài tắm. Khi đã lau mình mẩy sạch sẽ,
Ngài truyền lấy triều phục mặc vào cho Ngài rồi ngài nằm thẳng trên giường,
quay mặt về phía Nam, miệng lẩm bẩm khấn khứa rất lâu. Hai người tôi - Trần Thiện
với Như Tùng - quỳ ở một bên giường, trong lòng lo sợ, đau đớn..."
Nhị nương hỏi:
- Bạch cụ, còn ai nữa không, hay chỉ có hai người ấy?
- Chỉ có hai người ấy, Những người khác đã bị đày cả đi các
nơi. Hoàng ích Hiểu bị đày ra Y lệ, Lê Hân ra Phụng Thiên, Quốc Đống ra Cát
Lâm, Việt Triệu, Văn Chương ra Nhiệt Hà.
Hoàng phi thở dài nguyền rủa:
- Cha đời quân Mãn Thanh! Thế rồi sao nữa, bạch cụ?
- Tâu lệnh bà. Thánh thượng vẫn tỉnh lắm. Ngài bảo Trần Thiện
lấy giấy bút thảo tờ di chiếu, lập Duy Khang, tức Như Tùng Lê duy Vượng lên kế
nghiệp, giữ hương hoả hoàng phả, phụng thờ đức hoàng thái hậu.
Đọc xong, Thánh thượng cười chua chát nói tiếp: "Hương
hoả của trẫm chắc cũng chẳng còn mấy?"
Trong phòng yên lặng, lạnh lẽo. Hai người tôi vẫn quỳ bên giường.
Bỗng Thánh thượng nắm lấy tay Trần Thiện mà rằng:
"Các người theo trẫm trên con đường khốn quẫn, cùng trẫm
nằm gai, nếm mật mong có ngày lấy lại giang san... Ngờ đâu trẫm gặp phải vẫn nước,
vận nhà chẳng ra gì, đến nỗi không giữ nổi được xã tắc, phiêu bạt quê người...
Nay trẫm chết là linh hồn trẫm được yên... Trẫm thương các ngươi không biết còn
đeo cái khổ, cái nhục đến đời thủa nào."
Trần Thiện khóc mà tâu rằng:
"Muôn tâu Thánh thượng, vua tôi có ngờ đâu gặp phải bọn
quyền gian đánh lừa như thế này để đến nỗi Thánh thượng âu sầu căm tức là long
thể mang đau, Hạ thần xin thề rằng, nếu Bệ hạ có mệnh hệ nào, thì kẻ hạ thần
xin tận tâm báo được thù này..."
Hoàng thượng cười và an ủi:
"Thôi, không nên trách người ta làm gì, chỉ nên trách
mình mà thôi. Vả ngày nay, vận mệnh nhà Lê ta đã hết, các ngươi dẫu có chống chọi
đi nữa có lẽ cũng không ăn thua gì. Ta chỉ ước mong có một điều sau này các người
được về nước."
Bấy giờ các ngươi mang hài cốt ta về, phụ táng vào sơn lăng
liệt thánh, để tỏ bụng ta; các ngươi nên nhớ kỹ điều ấy, cùng là truyền báo cho
các quan ở xa được biết.
Trần Thiện, Như Tùng khóc nức nở vâng mệnh.
Thánh thượng nằm nghỉ một lát, rồi lại nói:
"Khi trẫm bị quân Tây sơn đuổi, kịp bỏ chạy sang đây, đến
cửa Nam quan thì thấy lạc mất hoàng phi. Trong mấy năm nay trẫm hằng lo lắng chẳng
biết hoàng phi trốn tránh nơi đâu hay đã bị quân giặc hại mất rồi. Nếu sau này
về nước, các ngươi còn có gặp Hoàng phi, thì xin vì trẫm trông coi cho tử tế.
Trẫm nhờ Trần Thiện trao cho hoàng phi cái nhẫn này, Hoàng phi đeo ở tay chắc lại
nhớ đến trẫm, mà biết rằng ở nơi đất khách quê người trẫm không bao giờ quên kẻ
chung tình."
Phổ Mịch ngừng kể, xin phép đứng dậy mở hòm lấy ra cái nhẫn
vàng trổ lưỡng long chầu nguyệt đưa nộp Hoàng phi.
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn này, Trần Thiện sợ thất lạc đã gửi bần
tăng giữ giúp, nay bần tăng xin dâng lên lệnh bà.
Hoàng phi ứa nước mắt đỡ lấy vẫt kỷ niệm của người xưa, đeo
vào ngón tay mà lẩm bẩm:
- Bệ hạ! Bệ hạ!
Nhị nương ghé vào tai Hoàng phi nói thầm:
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn ấy, xin lệnh bà gói lại cất đi, đeo
vào tay như thế, sợ có nguy hiểm.
Hoàng phi khóc nức nở:
- Từ nay ta còn sợ gì nguy hiểm tới thân ta nữa. Ta sống đến
nay chỉ mong mỏi có ngày được gặp long nhan, nhưng nay... ta chỉ còn lấy cái
thác đền lại ơn tri ngộ của Hoàng thượng.
- Thiết tưởng lệnh bà càng nên giữ gìn quý thể để mai sau,
khi rước hài cốt Hoàng thượng về nước, còn được nhìn thấy cùng là trông nom việc
mai táng trong sơn lăng liệt thánh.
Hoàng phi vụt tỉnh ngộ:
- Em nói rất phải. Chị đợi đến ngày ấy hãy xuống cửu tuyền hầu
Thánh hoàng cũng không muộn.
Rồi quay lại hỏi Phổ Mịch:
- Hoàng thượng thăng hà vào năm nào, ngày nào, giờ nào, bạch
cao tăng?
- Tâu lệnh bà, bần tăng đã biên chép cẩn thận. Thánh thượng
thăng hà giữa giờ Dần, ngày mười sáu, tháng mười, năm Quý sửu. Ngài thọ hai
mươi tám tuổi.
Hoàng phi lấy bút chép lại ngày tháng vào một mảnh giấy, gập
lại bỏ vào bọc và phàn nàn:
- Chẳng biết mấy năm nay, có ai nhớ ngày húy ky Hoàng thượng
mà cúng giỗ không?
Phổ Mịch đáp:
- Tâu lệnh bà, thế nào ở bên Bắc Quốc, Duy Khang chẳng đèn
nhang thờ phụng Tiên đế. Còn như ở bản sơn môn đây, thì năm năm vẫn nhớ ngày
húy, lập đàn cầu nguyện lên vong linh Tiên đế.
- Đa tạ cao tăng, cao tăng đừng quên hoàng tử nhé!
- Xin vâng... Nhưng bây giờ thì rước lệnh bà xơi lưng cơm
chay cho đỡ đói.
Liền bảo các chú tiểu sắp cơm, trong khi hoàng phi và Nhị
nương ngồi sụt sịt thì thầm nói chuyện.
Hồi 21: Thanh Xuyên Hầu
Thanh Xuyên hầu, Trương Đăng Thụ là một trang thiếu niên tuấn
tú, con quan Kiến Xuyên hầu, người làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam.
Kiến Xuyên hầu làm thượng thư bộ lễ thời chúa Trịnh Sâm. Khi
Sâm mất, Khải và Cán chia ra hai phe đánh cướp nhau ngôi chúa, thì hầu chán nản
cáo quan về làng, Trương Đăng Thụ hồi đó đang làm hiệp trấn Lạng Sơn.
Kịp khi Tây Sơn dứt nhà Lê, vua Chiêu Thống qua trấn Lạng
sang Tàu, Thụ xin hộ giá tòng vong, nhưng vua truyền ở lại xem xét tình hình
trong nước và để sau này làm nội ứng cho quân cứu quốc ở ngoài đưa vào. Thụ ép
lòng nhậm chức cũ, đợi xem Tây Sơn xử trí ra sao. Chàng nghĩ thầm: "Dù có
vì thế mà bị hại, thì cũng là một cách báo đền ơn vua".
Triều đình Tây Sơn có rõ điều ấy chăng? Chỉ biết rằng vua
Quang Trung săn sóc đến bọn bầy tôi nhà Lê một cách tha thiết, chu đáo. Ai đi
trốn thì tìm về cho làm quan, ai ở chức cũ thì cất nhắc lên chức trên, còn những
người nào nhất quyết từ chối không chịu nhận quan tước thì đẽ mặc ý về quê an
cư lạc nghiệp, không phiền nhiễu tới. ĐÓ chỉ là một chính sách thu phục nhân
tâm, có chi lạ.
Cũng vì thế mà Trương Đăng Thụ đương ở chức hiệp trấn được nhắc
lên chức trấn thủ. Nhưng ta đừng vội tưởng đó là sự khoan hồng của nhà Tây Sơn.
Trong chính giới, không có cai gì người ta làm vì tình cảm hết, ở đời nay hay ở
đời Tây sơn cũng vậy. Trước kia, Trương Đăng Thụ còn ở chức hiệp trấn thì tuy
dưới quyền quan trấn thủ nhưng bao binh lực chốn biên thuỳ đều ở trong tay
mình. Nay được thăng chức trấn thủ tức là bị tước hết binh lực. Vả viên hiệp trấn
mới lại là một tướng thân tín của vua Tây Sơn từ Quảng Nam theo vua ra Bắc, và
một số đông binh lính mới lại là người đường trong, trung thành với nhà vua, với
triều đình Vậy thì quan trấn thủ Trương Đăng Thụ thực chẳng khác một tên tù
giam lỏng, tuy vẫn được quan hiệp trấn và các viên liêu thuộc rất tôn trọng.
Trương Đăng Thụ cũng thừa hiểu, nhưng phải vờ trung thành với
triều đình mới, dù ngày đêm vẫn lo mưu khởi nghĩa để phục hưng nhà Lê.
Một hôm lòng buồn bực, trí chán nản, Thụ đến vãn cảnh chùa
Tam thanh, và nhận thấy sư cụ Phổ Mịch là một bậc cựu thần nhà Lê. Hai người liền
đem tâm sự ra kể lể. Lúc bấy giờ sư cụ mới bỏ lòng khinh bỉ Thanh Xuyên hầu, vì
trước kia vẫn tưởng lầm rằng hầu ham công danh, phú quý, bỏ vua theo giặc.
- Sư cụ, - xin cứ xưng hô như thế cho tiện - sư cụ ngờ oan
cho Thụ này, thật chẳng có gì là quá đáng. Thời này, ai đã dễ mà tin hẵn được
ai? Bậc trung thần nghĩa sĩ, anh hùng khảng khái thì ít, mà đồ siểm nịnh ham
danh vụ lợi thì nhiều.
Những hạng siểm nịnh ấy, tôi có trách đâu. Cái chí bình sinh
của họ ở chổ vinh thân phì gia, thì họ cứ việc mà theo cái chí lớn ấy cho kỳ tới
mục đích, nào ai cấm đoán, mà nào ai bảo sao... Tôi chỉ trách riên bọn bầy tôi
nhà Lê ngoài miệng leo lẻo những chữ trung quân, ái quốc, phò Lê diệt tặc, mà
trong lòng chứa đầy sự ham muốn cho mình, cho vợ con mình. Tôi chẳng cần kể tên
bọn họ ra đây, vì chính tôi cũng đương ở một điạ vị vừa khả nghi vừa khó xử...
Nhưng sư cụ thử nghĩ xem, lúc phò thánh giá, bọn kia nói những gì khảng khái biết
bao? Thế mà bây giờ tôi chỉ biết mấy thằng trong đám nghĩa binh xưa đang dự vào
những chức trọng yếu trong triều... Sư cụ đừng ví họ với tôi. Tôi chỉ là một
tên tù giam lỏng mà thôi, không có quyền binh gì trong tay. Chứ bọn họ - bọn đồng
chí xưa của ta - thì trái hẳn, nay họ chỉ hô một tiếng là đầu chúng ta rụng, họ
chỉ vẫy tay một cái là cả một hạt bị tàn phá. Công to của họ đối với triều đình
Tây Sơn là đã hoặc dụ hàng, hoặc chém giết hàng trăm hàng nghìn bậc cựu thần
nhà Lê. Tôi đây hẳn là cái gai trước mắt bọn họ, họ chỉ chờ dịp bứt đi mà thôi.
Phổ Mịch hết lời an ủi Thụ, rồi đem công việc đảng Tiêu Sơn
ra bàn. Thanh Xuyên hầu cả mừng mà rằng:
- Tôi vẫn nghe đất Kinh Bắc có nhiều bậc anh hùng. Bây giờ mới
biết rằng một đảng lớn mới thành lập ở đấy. Thực là đại phúc cho nhà Lê ta!...
Nhưng có phải dư đảng của Nguyễn Đoàn không?
- Không, đảng trưởng đảng Tiêu Sơn là Phổ Tĩnh thiền sư.
Nhưng mới có cựu quân sư của Nguyễn Đoàn nhập đảng.
- Phạm Thái phải không, bạch sư cụ?
- Chính Phạm Thái, thế ra ngài biết cũng tường tận lắm nhỉ.
Từ hôm đó thỉnh thoảng Trương Đăng Thụ lại đến vãn cảnh động
- chàng không ra luôn, sợ gợi lòng nghi ky của viên hiệp trấn. Nhưng sau chàng
nghĩ được một diệu kế là vờ ham mê đạo Phật, mua đủ cách thứ kinh về xem, rồi
đoạn sách nào không hiểu, lại thân ra chùa Tam Thanh hỏi sư cụ.
Viên hiệp trấn thấy vậy chỉ cười, cho trấn thủ là người mê
tín đạo Phật và không đáng đề phòng cẩn mật lắm như triều đình đã có lệnh:
"Phải, còn có việc gì, chẳng xem kinh Phật thì làm cái gì?" Viên hiệp
trấn lấy làm đắc chí, tâu luôn mấy điệp sớ về triều, kể tình trạng sự thay đổi
tâm tính của Thanh xuyên hầu.
Nhưng trong khi ấy Phổ Mịch và Trương Đăng Thụ vẫn được bình
tĩnh cùng nhau bàn quốc sự. Rồi nhờ Phổ Mịch giới thiệu, Thụ xin vào đảng Tiêu
Sơn và biên thư xin Phổ Tĩnh phái Phạm Thái lên trấn Lạng để cùng hai người lo
toan việc lớn.
Hồi 22: Tâm Sự
Bấy giờ vào quá giờ Tý. Dẫy nhà thấp lụp xụp mái lơp ngói kiểu
tàu nằm ngủ dưới ánh sáng yên lặng của trăng tà. Gần đấy, về phía tây bắc, mấy
quả núi đá Kỳ Lừa lù mù lấp lánh trong sương. Đứng bên bờ sông Kỳ Cùng trông
sang, cảnh ấy hiện thành một bức tranh thủy mạc Tàu chấm phá trên nền lụa màu
vàng ám khói.
Cách xa hẳn dẫy phố, bên con đường nhỏ rẽ vào động Tam Thanh,
một toà nhà cao rộng hơn, nhưng cùng làm theo một kiểu kiến trúc. Một bức tường
xây bằng đá ong, trên ngọn có cắm mảnh sành vỡ, bao bọc nơi dinh cơ ấy, trông
như một cái thành quách nhỏ vậy, tuy xung quanh không có hào. Trong vườn nhô
lên những đám lá cây thưa nhặt, thấp thoáng trong trăng, khiến cảnh thâm u lặng
lẽ kia bớt vẻ buồn tẻ, lạnh lùng.
Đêm đã khuya, thế mà một nhà sư trẻ tuổi còn lần mò đến gõ cổng
nơi biệt thự. Sau một hồi chó sủa inh ỏi, có tiếng hỏi ở phía trong:
- Ai! Ai đến khuya thế?
- Tôi.
- Tôi là ai mới được chứ?
- Tôi đây mà! Bần tăng đây mà!
Tiếng mắng đuổi chó, tiếng lách cách mở then rồi cánh cổng từ
từ hé. Người bên trong cất tiếng run run, se sẽ hỏi:
- Có phải Phổ Bác thiền sư đấy không?
Người đứng ngoài cũng se sẽ trả lời:
- Phải.
- Trời ơi! Sao đêm hôm khuya khoắc mà lệnh bà lặn lội...
Hoàng phi sợ hãi vừa quay đầu nhìn phía sau lưng vừa thì thầm:
- Im!
- Sao thế, tâu... bạch sư ông?
Hoàng phi bước vội vào:
- Đóng cổng lại đã. Hình như có bóng người theo sau.
Rồi hai người cùng đi vào trong nhà.
Độc giả hẳn đoán biết người vừa ra đón tiếp Hoàng Phi là Nhị
nương. Nhưng sao Nhị Nương lại đến ở đây?
Nguyên biệt thự này, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu dựng lên
đã dăm năm nay, dùng làm nơi nghỉ mát để thỉnh thoảng đến đọc sách, ngâm thơ,
di dưỡng tinh thần những khi nhàn hạ, rảnh việc quan. Nhất từ ngày ngài ham khảo
cứu đạo Phật, thì ngài càng năng lui tới nơi đó để được cùng sư cụ Tam Thanh
thuyết minh nghĩa mầu nhiệm của kinh Phật.
Kỳ thực, lập ra lớp riêng, Trương Đăng Thụ chỉ có một mục
đích hưng Lê, hội họp anh em đồng chí để bàn việc lớn chống chọi với Tây Sơn.
Hai tháng trước Hầu có ngỏ lời nhờ Phổ Mịch thiền sư tìm cho
một người tin cẩn thông chữ nghĩa để vừa trông nom nhà, vừa biên chép kinh Phật,
cùng văn thơ.
Nhân gặp giữa lúc Phạm Thái và Nhị nương phò giá Hoàng phi
lên Lạng, sư cụ liền đem Nhị nương ra giới thiệu là một người cháu họ tên gọi
Nguyễn Đức Minh.
Thế là đương đóng vai phong lưu công tữ, Nhị nương đã đổi ra
đóng vai quản gia tại biệt thự quan trấn thủ. Trong khi ấy Phạm Thái ở lại tạm
trụ trì một ngôi chùa gần Tam Thanh và Hoàng phi đến trú ở chùa Tiên, có đầy tớ
tinh cẩn chủa Thanh Xuyên ăn mặc giả làm tiểu ở trông nam hầu hạ luôn bên mình.
Ham nay chừng có điều khẩn thiết hay nguy kịch muốn ngỏ cùng
Nhị nương, Hoàng phi bỏ chùa lần tới đây chăng? Chính Nhị nương cũng đoán thế
nên vừa vào trong phòng, nàng đã lo sợ thì thầm hỏi:
- Tâu lệnh bà, có việc gì quan trọng thế?
- Không, chả có việc gì quan trọng cả, nhưng hôm nay không biết
sao, chị nóng ruột quá.
Nhị nương thở dài:
- Lệnh bà làm tôi giật mình kinh hoảng, tưởng đã xảy biến. Mà
tôi cũng vậy, tâu lệnh bà, lòng tôi cứ xót như bào, đêm nay không sao nhắm mắt
ngủ yên được.
Tôi đương một mình tản bộ ngoài vười thì nghe có tiếng lệnh
bà gọi cổng.
Hoàng phi buồn rầu nói:
- Em ạ, từ hôm nghe tin hoàng đế thăng hà, hoàng tử qua đời đến
nay, chị sinh ra mê sảng luôn. Động nhắm mắt là lại thấy haòng thượng về đứng
bên giường.
Có khi muốn tránh những giấc mơ đau lòng, chị đã thức suốt
đêm tụng kinh niệm Phật, cầu cho vong linh thánh thượng cùng hoàng tử.
Nhị nương nghe Hoàng phi nói, chỉ ngậm ngùi thở dài. Rồi nàng
hỏi:
- Mấy chén thuốc tôi lấy hầu lệnh bà, lệnh bà đã xơi chưa?
- Cám ơn em, chị uống cũng thấy dễ chịu, nhưng sốt ruột thì vẫn
còn sốt ruột.
Hôm nay vì chị đứng ngồi không yên về nỗi sốt ruột, nên chị
phải vội đến thăm em để nói chuyện cho khuây khỏa.
Nhị nương chợt nghĩ đến con sông Kỳ Cùng:
- Nhưng ai chở thuyền hầu lệnh bà sang ngang?
- Vẫn có anh lái đò của sư Phổ Mịch đỗ thuyền ở bến. Chị nói
sư cụ cho tìm, nên người ấy vội vàng chở ngay. Nhưng còn em, vì cớ gì mà em
cũng băn khoăn không ngũ?
- Tâu lệnh bà, tôi cũng không hiểu vì cớ gì mà đêm nay tôi lại
nóng ruột quá thế Tôi lo đã xảy ra sự gì bất trắc ở Tiêu sơn, nên có tâm linh
báo cho biết như vậy Tôi muốn một hai hôm nữa về thăm đảng trưởng cùng anh em đồng
chí, nhưng lại e lệnh bà ở đây một mình...
Hoàng phi vội đỡ lời:
- Nếu em về thì chị cũng về. Chị ở đây gần Trung quốc là nơi
hoàng đế thăng hà, lòng chị đau thương không rứt. Vì thế chị cũng muốn về Bắc để
được nhất tâm niệm Phật mà quên đau khổ.
Ngừng một lát không thấy Nhị nương đáp lại. Hoàng phi nói tiếp:
- Nhưng chị thấy em cũng khổ sở thì chị lại muốn quên nỗi thống
thiết của chị đe để an ủi em. Hình như em có điều gì dấu chị?
Nhị nương vẫn ngồi im. Bỗng Hoàng phi nghe thấy nàng nức lên
một tiếng.
Bà vội cầm lấy tay nàng, ôn tồn khuyên bảo:
- Chị em ta cùng gặp một cảnh ngỗ, tưởng em chẳng nên giấu chị
một điều gì.
Đấy em coi, xưa nay có một ý nghĩ gì mà chị không ngõ cho em
biết?
Nhị nương lặng lẽ để bàn tay trong tay Hoàng phi rồi thong thả
nói:
- Thưa chị - vì lệnh bà đã cho phép tôi được kêu lệnh bà là
chị...
Hoàng phi vui vẻ ngắt lời:
- Phải, chị muốn em gọi chị là chị, như thế vừa thân vừa kín
đáo.
- Thưa chị, tâm sự của em, em chưa ngỏ cùng ai. Nhiều khi đêm
khuya thanh vắng, gồi một mình em lấy làm tự thẹn về những ý nghĩ bất chính của
em. Vì, thưa chị những ý nghĩ ấy thật là bất chính. Em xin cứ thực tình dể hầu
chị nghe:
"Từ ngày em rời bỏ tỉnh Nghệ, mang tấm thân phiêu bạt đi
khắp đó đây, em đã tự thề với em rằng em còn sống một ngày nào, thì đời em, em
hoàn toàn hiến cho sự báo thù cha, cho sự trả ơn chúa. Cũng vì thế mà em dấn
mình vào nơi nguy hiểm, đi tìm thầy học võ, tìm bạn đồng chí để gây thế lực.
"Thế rồi một đêm em gặp Trần Quang Ngọc, cùng nhau lập đảng
Tiêu Sơn".
Hoàng phi kinh ngạc:
- Vậy ra chính em đã cùng Quang Ngọc, sáng lập đảng Tiêu Sơn?
- Vâng, sau khi em cùng chàng giết được tên ác tăng tu hành ở
chùa Tiêu Sơn.
Rồi một ngày, đảng một thêm đông, một ngày em một thêm mến phục
Quang Ngọc, mến vì nết, phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng ngoài sự mến
phục ra, không có gì nữa. Quang Ngọc coi em như một đảng viên khác bên nam giới
mà thôi, còn em thì mải mê man trong cuộc hành động... em không bao giờ để lòng
em...
Nhị nương im bặt như lấy làm hổ thẹn về lời thú tội của mình.
Hoàng phi thở dài đáp:
- Thế thì em đáng thương lắm. Chị hiểu em rồi. Em ạ, chị em
mình muốn khảng khái, muốn hiến thân cho việc lớn đến bực nào mặc lòng, cũng chẳng
bao giờ thoát khỏi được ra ngoài vòng thường tình nhi nữ. Nhưng em ơi, nặng chữ
tình thì có phạm tội gì đâu. Mà theo đuổi việc lớn thì sao lại không được có
tình?
Nhị nương ngập ngừng:
- Nhưng... thưa chị, Quang Ngọc đã mặc áo cà sa.
- Không em ạ, Quang Ngọc tuy mình mặc áo cà sa, mà vẫn giữ một
linh hồn một trang hiệp sĩ. Sống tạm trong tấm áo kẻ tu hành để làm việc lớn
không phải hoàn toàn là kẻ tu hành. Đã không phải là kẻ tu hành, thì em có thể
mong được mai sau...
Nhị nương bỗng ngồi ngay lại, nói dắn dỏi:
- Tạ ơn chị. Không, thưa chị, không bao giờ ta được nhu nhược.
Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của
đảng trưởng. Thưa chị, em nhất định không bao giờ chịu để ngữ "nhi nữ tình
trường, anh hùng khí đoản" lại không đúng nghĩa đối với cả những hạng người
theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc?
Hoàng phi cảm động khen một câu:
- Em nghĩ rất phải.
Hồi 23: Cái Cũi Người
Nhị nương nóng ruột, thực không phải vô cớ nếu ta tin có sự
viễn truyền tư tưởng.
Mà sao lại không có?
Thực vậy, ở Tiêu Sơn, anh em đồng chí rất mong mỏi Nhị nương,
vì gặp nhiều sự nguy biến, và cần phải có tài do thám của Nhị nương để phá sự
do thám khốc liệt của triều đình.
Trong mấy tháng trời, nhà ngục thất phủ Từ Sơn không đủ chỗ
giam tội nhân, đến nỗi đã phải dựng thêm một nhà nữa. Mà sự bắt bớ và tra tấn vẫn
tiến hành, sự canh phòng thì rất cẩn mật. Viên phủ tri đã xin thêm lính trấn về
và lại mộ thêm lính dõng nữa. Hình như sau khi quân giặc luôn hai lần náo động
phủ đường, viên phủ tri lấy làm căm tức lắm, thề răng thế nào cũng báo thù lại
một cách đích đáng.
"Muốn báo thù phỏng có khó gì? Viên phủ tri vẫn ngẫm
nghĩ thầm, rồi lập tức kén những tay tài giỏi, tài về ngôn ngữ giảo quyệt, và
giỏi đủ cả các môn võ hiểm để phòng thân. Một mặt cho bọn ấy đi khắp các làng,
các xóm trong dân quê do thám, một mặt dùng tiền để dụ những học trò nghèo hay
chữ mà họ đóan chừng thuộc đảng Lê thần.
Cố nhiên có nhiều kẻ túng đói giả danh là thuộc đảng nọ đảng
kia ra tâng công khai man hết điều này điều khác, mục đích chỉ cốt được lĩnh tiền
thưởng. Rồi vì thù riêng cũng có, vì người ta xui dục cũng có chúng nó cung
khai ra toàn những người hoặc có chút danh vị, hoặc có chút tư bản. Nào người
này đã nhiều lần oa trữ Phạm Thái, nào ở nhà kia họ thấy cái áo lụa của bà
Hoàng phi. Trí tưởng tượng của họ đem đến cho họ chẳng thiếu gì tang chứng. Nếu
xét ra tang chứng ấy không có, thì hắn là kẻ tàng nặc đã tiêu hủy đi rồi, tội
càng nặng. Nhưng tội nặng ấy cũng sẽ được tiêu hủy, nếu tội nhân có đủ trí
thông minh trong khi nói chuyện riêng với viên phủ tri hay viên phân suất ở nơi
nhà tư.
Thôi thì tiếng kêu khóc của bọn bị tra tấn chẳng ngày nào là
không làm rung động lòng dân đối với hai viên quan đã lên đến cực điểm. Đi đâu
cũng nghe thấy lời ta thán, thì thầm với nhau, trong khi cặp mắt nhớn nhác nhìn
trước nhìn xem có ai nấp đâu đó nghe trộm. Phòng bị như thế mà co lkhi cũng
không thoát đấy. Một lần một người bị bắt lên phủ, vì một câu khí khái hão nói
riêng với vợ ở trong phòng kín. Người ấy kinh ngạc thú nhận, nhưng nhờ về một
thứ mà ai cũng có thể đoán ra, người ấy được tha ngay. Sự thám thính có hiệu quả
ghê gớm như thế làm cho nhân dân hạt Từ Sơn sinh ra nao núng, ngờ vực. Cha con,
anh em, vợ chồng cũng không dám tin nhau nữa.
Kể ra, tuy sự do thám có kết quả mà viên phủ tri cũng chỉ biết
bắt giam những người ra mặt hay ngấm ngầm phản đối triều đình Tây Sơn. Còn những
người ấy thuộc đảng nào vẫn chẳng sao dò ra được. Cách lập đảng bí mật, tính
kín đáo và chí gan liều của các đảng viên làm cho sự tra khảo mất hẳn hiệu nghiệm.
Chẳng thế mà chưa một lần nghe đọc đến tên đảng Tiêu Sơn, tuy trong đám tội
nhân bị giam có rất nhiều đảng viên: Ba nhà sư bị bắt đương đi phát hịch và đến
hơn chục người ở ngoài tăng già.
Giữa thời bắt bớ nhộn nhịp ấy, một buổi chiều bốn người lực
lưỡng, y phục nai nịt gọn gàng khiêng đến phủ Từ sơn một cái củi lớn nhốt một
thiếu niên dõng sĩ vẻ mặt tuấn tú, thân thể vạm vỡ. Người ấy mặc có một cái quần
vải thô; cái khăn nhiễu tam giang đội vụng che không kín hết cái đầu chơm chởm
tóc mọc cứng như cỏ ruộng mới cắt. Mình mẩy cởi trần và mang đầy những vết
thương còn rớm mau.
Thấy bốn người khiên cái cũi xồng xộc đi vào cầu treo, lính
canh cổng giữ lại hỏi:
- Đi đâu?
Bốn người đặt cái cũi xuống đất, nói vào hầu quan có việc rất
khẩn cấp.
- Nhưng việc khẩn cấp là việc gì mới được chứ? Mà các chú nhốt
con gì ở trong cũi thế?
Thật ra mắt chú lính cũng hơi kèm nhèm, nên đứng đằng xa nhìn
thấy vật đen lục đục trong cũi, chú ta đoán già ngay rằng bọn kia đi săn bắn được
con hươn nai khiêng đến biếu quan. Không nghe thấy trả lời, người lính lại hỏi:
- Ừ, các chú biếu quan con gì thế?
- Người!
Chú lính kinh hãi:
- Người! Biếu người!
Bấy giờ chú mới lại gần ngắm nghía kẻ bị nhốt trong cũi:
- Ấy này! ăn cắp, ăn trộm gì mà các chú đánh người ta máu me
thế kia?
- Nhờ cậu vào trình quan cho, rằng chúng tôi khiêng đến nộp
quan một tội nhân rất quan trọng.
Chú lính gắt:
- Nhưng người ấy là ai mới được chứ?
- Phạm Thái!
Tức thì mặt người lính tái hẳn đi. Rồi người ấy ấp úng:
- Phạm... Thái. Người bị nhốt trong cũi là Phạm Thái?
Người nọ bảo người kia, nhắc đi nhắc lại hai chữ Phạm Thái.
Chỉ trong chốc lát, cái tên ghê gớm ấy truyền ở cửa miệng khắp mọi người trong
phủ. Đến nỗi người lính canh cổng chưa kịp vào trình báo, hai viên phân phủ và
phân suất đương nguồi nói chuyện ở công đường đã tất tả chạy ra cổng:
- Đâu? Phạm Thái đâu?
Ai nấy đứng giãn ra. Người lính lại gần giơ tay trỏ bọn
khiêng cũi mà nói răng:
- Bẩm ông lớn bốn tên này vừa đem nộp.
Cặp mắt ngờ vực của viên phân phủ đăm đăm nhín thẳng vào mặt
bốn người:
- Chúng mày bắt được Phạm Thái? Bộ chúng mày bắt nổi Phạm
Thái?
Một người trong bọn lễ phép lại gần, vái dài, trả lời:
- Bẩm hai ông lớn, Nguyễn công tử chúng tôi sắp đến hầu hai
ông lớn. Công tử chúng tôi cho chúng tôi khiêng tội nhân đến nộp trước, rồi xin
lại sau.
Đoạn, người ấy thuật rất rành mạch cuộc chiến đấu của Nguyễn
công tử với Phạm Thái; Nguyễn công tử ở Sơn Nam, lên ngoạn du trấn Bắc vì nghe
tiếng miền Bắc có nhiều thắng cảnh, mà số anh hùng hào kiệt lại rất đôgn. Công
tử là người võ nghệ cao cường, văn chương lỗi lạc, nhưng không hề khinh xuất sự
thủ thân bao giờ. Vì thế đi đâu cũng có một bọn bốn kẻ dõng sĩ theo liền bên hộ
vệ đề phòng sự công kích bất thần.
Buổi trưa hôm nay vừa sang qua bến đò Kim lũ thì gặp một người
tự xưng là Phạm Thái đêm theo dăm tên bộ hạ ra cản đường đòi tiền mãi lộ. Nghe
hai chữ Phạm Thái, Nguyễn công tử chẳng nói chẳng rằng, xuống ngựa rút kiếm
xông vào đánh liền. Phạm Thái cũng rút dao ra nghênh địch.
Nghe người khiêng mình kể chuyện, Phạm Thái ở trong cũi luôn
mồm lớn tiếng chửi rủa. Đến nỗi viện phân suất cáu tiết phải đạp mạnh vào cũi
mà mắng răng:
- Im ngay! Tên giặc cỏ!
Rồi quay lại bảo người kia kể nốt câu truyện.
- Bẩm hai ông lớn, võ nghễ Phạm Thái, người ta ca tụng quả
không ngoa.
Công tử chúng tôi phải dùng mưu mới đánh ngã được hắn. Mưu ấy
là giả thua để Phạm Thái đuổi theo, rồi bất thình lình quay lại đánh miếng đà
đao.
Một tiếng chửi lớn ở trong cũi bay ra:
- Đồ khốn nán! Đồ cắn trộm! Còn khoe mẽ gì!
Viên phân phủ lại bên cũi ghé mắt nhìn qua khe chấn song.
Phân suất vội vàng kêu:
- Ngài đứng xa ra một tý.
Người kể chuyện lễ phép thưa:
- Ông lớn không ngại. Chúng tôi đã trói cẩn thận chân tay hắn
rồi.
Quả thật chân tay người bị nhốt đều nặng trĩu những giây thừng.
Phân suất ngắm nghía, mỉm cười hỏi:
- Khốn nạn! Mình mảy bị đầy những vết thương như thế kia có
đau không?
Phân phủ trù trừ:
- Có lẽ hãy để đến mai. Bây giờ gần tối rồi trông không rõ,
ta hãy cứ tống cái cũi vào ngục thất đã, như thế chắc chắn hơn.
Quả thực, câu truyện chiến đấu kể dềnh dàng mất đến quá nửa
giờ, nên lúc đó trời đã sặp tối Phân phủ liền cho khiêng cũi Phạm Thái vào ngực.
Bốn người nhà Nguyễn công tử cùng xin theo xuống trại ngồi chờ chủ sắp đến.
Hồi 24: Nguyễn Công Tử
Phân phủ xuống lệnh mở tiệc ăn khao. Một tiếng dạ ran. Tức
thì nào cai, nào lính đem trát quan đến làng sở tại bắt lý trưởng đi mua trâu,
bò, dê, lợn. Rồi một lát, sau khói rơm thui súc vật bốc lên um cả một góc
thành. Tiếng cười reo vang đông tưởng như quan quân vừa thắng trận về.
Mà kể bắt sống Phạm Thái cũng là đại thắng rồi tuy không phải
chính tay mình bắt giặc. Một người quấy nước chọc trời bấy lâu nay, xuất quỷ nhập
thần chẳng còn ai dò ra tung tích, thế mà bỗng có người bỏ cũi đem nộp, thì phỏng
còn tin gì khiến hai tên viên quan và binh lính phủ Từ Sơn mừng hơn nữa! Thôi từ
nay tha hồ ngủ kỹ, đương đêm không còn nghe thấy phi báo: Phạm Thái quấy rối
vùng nọ, tống tiền vùng kia.
Vào khoảng cuối giờ Tuất, có tiếng trống báo, rồi tên lính
canh cổng vào trình rằng một viên tướng trẻ tuổi cười ngựa đến trước cổng thành
tự xưng là Nguyễn Thiêm, người bắt giải Phạm Thái, và xin ra mắt hai quan. Phân
phủ mừng rỡ, truyền lập tức đón công tử vào dự tiệc.
Ngài cùng phân suất thân ra tận cổng nghinh tiếp. Nguyễn
Thiêm xuống ngựa vái chào:
- Kính lạy nhị vị đại nhân, Nguyễn Thiêm xin ra mắt nhị vị đại
nhân.
Phân phủ và phân suất đáp lễ rồi khẩn khoản mời khách vào
công đường dự tiệc Nhưng khách cung kính vội gạt:
- Xin nhị vị đại nhân tha lỗi. Thiêm này chỉ xin đến chào nhị
vị đại nhân rồi lại phải đi ngay có việc cần.
Phân suất hấp tấp trả lời:
- Không được, thế nào cũng phải mời công tử dự tiệc. Vâng, ăn
mừng hôm nay cho bỏ những buổi lo lắng.
Nguyễn Thiêm nửa giọng mỉa mai, nửa giọng thật thà:
- Có làm gì cái thằng giặc cỏ ấy mà lo lắng.
Rồi làm như mình nói hớ, chữa liền:
- Với lại cũng vì nó khéo lẩn lút, chứ nếu không thì thoát thế
nào được với hai ngài? Hôm nay vì tôi may nắn cũng có mà vì nó khinh địch cũng
có, nên mới tóm được nó đem nộp hai ngài.
Phân suất cười khoái lạc, giọng tự phụ:
- Phải, nó rất tài lẩn lút, nếu không thì thoát sao khỏi tay
tôi?
Phân phủ lại ân cần mời mọc hai lần nữa. Nguyễn Thiêm mới chịu
nhận lời theo hai người vào trong phủ. Tức thì phân suất ra lệnh cho lính đi bắt
phường chèo về hát mừng.
Tiếng dạ ran. Rồi chỉ một lát sau đã thấy hai tên lính dẫn về
một gánh hát đông tới hơn hai chục người vừa kép vừa đào.
Thiêm khen:
- Giỏi nhỉ! Sao chóng thế?
Một tên lính chắp tay lễ phép thưa:
- Bẩm ba ông lớn, chúng con vừa đi được một quãng thì gặp bòn
này đương tiến đến phố phủ, định ngủ trọ một đêm để mai đi Kinh Bắc sớm. Chúng
con lập tức giải nộp.
Thiêm quay ra hỏi:
- Hát có khá không, anh trùm?
Một người thưa:
- Bẩm ông lớn, chúng con thường hát hầu cụ lớn trấn thủ nghe.
Thiêm mỉm cười:
- Thế thì hẳn là khá. Các chú người ở đâu?
- Bẩm, chúng con toàn người tứ chiến họp nhau lại thành phường.
Riêng con, người làng Phù Lưu nhưng đi phiêu bạt kiếm ăn đã có hơn mười năm
nay.
- Phù Lưu, người làng Phù Lưu thì hẳn hát khá.
Phân phủ nói:
- Thôi, anh em bảo nhau xuống trại ăn uống, rồi còn đóng trò
chứ. Ái chà! Làm gì mà lắm hòm thế? Những sáu cái.
Nguyễn Thiêm đỡ lời:
- Thưa ngài, bọn này chừng hát được, mà dễ thường nhiều xiêm
áo lắm đấy.
Bấy giờ tiệc rượn đã bày ra linh đình ở công đường. Ngoài sân
trước, hai hàng chiếu giải dọc, cỗ bàn có gần trăm mâm. Phân phủ mời Nguyễn
Thiêm vào ngồi bàn giữa. Khách, chủ nhường mãi nhau chỗ chính toạ. Về sau phân
suất phải đứng lên vì phân phủ mời hộ:
- Có bữa tiệc hôm nay là nhờ ở tài của công tử. Công tử chẳng
nên từ chối để làm phiền lòng quan lớn tôi.
Nguyễn Thiêm nể lời hai người mới chịu ngồi xuống mà nói nhún
rằng:
- Tôi tài hèn, trí thiển. lại còn ít tuổi mà được hai ngài
quá hậu đãi, chẳng biết sau này có đền được cái ơn tri ngộ cho xứng đáng không.
Vậy xin nâng chén rượn nồng chúc hai ngài trường thọ.
Phân phủ và phân suất cũng nâng chén rượn chúc oang oang,
hình như ai nấy đều vui mừng rằng trừ được Phạm Thái tức là trừ được mối lo cho
tất cả mọi người, cho nhân dân cũng như cho quan quân, nhất là cho quan quân.
Rượn uống được dăm tuần, Nguyễn Thiêm đầu hơi lão đảo say, đứng
dậy nói trong khi yến ẩm nên có cuộc vui. Phân phủ tưởng chàng nhắc đến hát
chèo liền gạt:
- Xin tan tiệc hãy hát chứ?
Nguyễn Thiêm cười ha hả:
- Không, thưa nhị vị đại nhân, không, không phải hát chèo.
Ngày xưa các bậc đế vương, công khanh khi dự yến đều có âm nhạc. Nhưng thiết tưởng
âm nhạc không phải thứ để bậc anh hùng tiêu khiển. Tôi xin hiến cái trò chơi
này thú hơn, vui hơn, mà mạnh mẽ hơn.
Nguyễn Thiêm ngừng lại đễ cười một dịp nữa, rồi nói tiếp:
- Thứ trò chơi ấy đại khái như thế này: đóng một cái cọc ở giữa
sân, rói một người vào cọc, rồi mỗi lần uống cạn chén rượn lại đánh một tiếng
trống cái, lại cầm dao sắc sẻo một miếng thịt... người.
- Sẻo thịt người bị trói?
- Chứ còn thịt ai? Bây giờ chỉ còn việc kiếm một người để
trói vào cọc. Người ấy tôi xin hiến...
Ai nấy lắng tai nghe. Nguyễn Thiêm đưa mắt nhìn một vòng rồi
dõng dạc tiếp luôn:
- Người ấy là Phạm Thái.
Mọi người vỗ tay hò reo:
- Bắt Phạm Thái trói vào cọc. Bắt Phạm Thái sẻo thịt!
Phân phủ vội đứng dậy bảo quân lính im ngay rồi lớn tiếng nói
rằng:
- Thưa công tử, kể tù nhân của công tử thì công tử có quyền
xin điều ấy thực.
Song tội nhân lại là tội nhân của triều đình, nên ta phải nộp
triều đình đã, sau này hết hắn vào hình phạt tùng sẻo hay hình phạt gì nữa,
cũng là tùy ở triều đình, bọn ta có phải là nhà pháp luật đâu, mà sân công đường
bản nha có phải là nơi pháp đình đâu?
ông khách lặng thinh, có ý ngồi suy nghĩ và không được hài
lòng.
Phân suất tính tình nông nổi, hấp tấp nói:
- Đại nhân nói rất hơp ý tôi. Vả lại ta còn phải nộp tội nhân
về triều để lĩnh thưởng chứ. Việc này đâu phải là một việc tầm thường. Bắt được
Phạm Thái há phải một việc dễ dàng mà phần thưởng há lại không xứng đáng sao?
ít ra là đại nhân thăng đến chức trấn thủ mà tôi đây nhẩy đến chức hiệp trấn. ấy
là chưa kể vàng bạc, vóc nhiễu hoàng đế ban cho đấy. Vậy thì ta khờ dại gì mà
giết Phạm Thái đi để mua vui trong chốc lát, cái vui vô ích thay!
Phân suất nói trúng ngay vào ý nghĩ của phân phủ. Nhưng kẻ võ
biền vô học kia không biết sửa sang lời nói cho có văn vẻ, khiến phân phủ lấy
làm ngượng về nỗi ông bạn đồng thành quá lỗ mãng và thật thà.
Liền chữa thẹn cho ông ta và cả cho mình nữa:
- Thưa công tử, công tử chưa biết tính quan phân suất đấy. Chỉ
được cái hay nói đùa... Ý nghĩ một đàng lại nói đi một nẻo để pha trò cho vui.
Chứ công tử còn lạ gì anh em chúng tôi, làm việc chỉ biết hết bổn phận, trên vì
vua, dưới vì dân, còn ngoài ra có cần một thứ gì nữa đâu?
Nguyễn Thiêm cười cười nói nói:
- Vâng, vâng đại nhân dạy rất phải. Vậy xin theo ý nhị vị đại
nhân hãy để cho Phạm Thái sống thêm ít ngày, tuy tôi vẫn thích cái hình phạt
tùng sẻo.
Phân phủ rùng mình nhìn ông khách lạ, yên trí rằng ông ta hẳn
là một tay tử thù của Phạm Thái.
Tiệc kéo dài đến mãi giờ Hợi. Lúc đó từ quan đến lính, ai ai
cũng say mềm.
Chỉ trừ bọn phường chèo sợ có giọng rượu, hát không được, nên
xin ăn cơm riêng ở dưới trại.
Chờ khi các mâm bàn dọn dẹp xong xuôi, anh trùm phường lên
xin hát. Quan truyền lấy liếp quây buồng trò ngay ở sân công đường. Một lát sau
tiếng trống chầu, tiếng trống hát nổi lên. Nhưng trong bọn lính có nhiều kẻ đã
say quá đã tìm một xó kín nằm vật ra ngáy như bò. Còn anh nào cố đứng lại xem
thì cũng ngủ gà ngủ vịt, đầu gật như mấy cái máy chầy giã gạo.
Rồi đến lượt phân phủ. Nhờ phân suất ngồi lại tiếp khách hộ,
ngài xin đi nằm một lát. ông khách vui vẻ mời ngài tự tiện. Mà sao chàng vẫn khỏe
khoắn và tỉnh táo như thế! Phân suất cố mở to cặp mắt lim dim ra để nhìn chàng
giơ thẳng tay vụt trống chầu, lòng tự nhủ thầm: "không trách nó bắt nổi Phạm
Thái! Càng uống, càng thức, nó càng tỉnh!"
Trong lúc ai nấy đương mơ mơ màng màng, bổng một tiếng pháo nổ.
Tức thì chàng công tử cầm chầu vất dùi trống, lanh lẹ rút kiếm thí cho phân suất
một nhát.
Tiếng hét ầm ĩ vang thành. Nhưng đó không phải tiếng của các
tướng chèo nữa. Những tướng giả ấy đã trở nên thực cả: cũng thực những binh khí
họ cầm trong tay khi ra múa may dưới sân khấu.
Họ vừa chém giết bọn binh lính đương mê ngủ, vừa tiến về phía
chổng phủ mà bốn chàng khiêng cũi cùng chủ tướng của họ, tức người bị nhốt
trong cũi, đã mở toang từ bao giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét