Dấu ấn truyền thống qua "Thơ thơ" và
"Gửi hương cho gió" của
Xuân Diệu
Trong Phong trào thơ mới, Xuân Diệu được biết đến như một nhà
thơ mang dáng dấp Tây phương. Đã từng “ăn sâu bén rễ” trong tâm thế tiếp nhận của
nhiều thế hệ người Việt nhận định nổi tiếng của Hoài Thanh: “Xuân Diệu mới nhất
trong các nhà Thơ mới” (Thi nhân Việt Nam). Nhưng "Thơ thơ" và
"Gửi hương cho gió" - hai tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ca của
Xuân Diệu - không chỉ có cách tân mà có cả kế thừa, vừa khoác lên mình bộ “y phục
tối tân” vừa nhuần nhị bản sắc truyền thống Đông phương. Những bài thơ đặc sắc
nhất trong hai tập như Đây mùa thu tới, Thu, Thơ duyên, Buồn trăng, Nguyệt cầm,
Lời kỹ nữ… đều có sự kết hợp tài tình, khéo léo hai phẩm tính cổ và kim, dân tộc
và hiện đại. Nói cách khác, vốn liếng truyền thống quý báu đã là một phần không
thể thiếu trong hành trang nghệ thuật của Xuân Diệu. Khi được tiếp sức bởi một
hồn thơ có lối tư duy hiện đại và giàu sáng tạo, nó như được hồi sinh, toả
sáng, góp phần đắc lực vào thành tựu rực rỡ của một chặng đường thơ được coi là
hoàng kim của cả một đời thơ.
Đọc "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió", ấn
tượng bao trùm không gian thơ Xuân Diệu là thiên nhiên tạo vật và con người
tương giao hoà hợp, cảnh sắc đất trời và lòng người như có cùng giai điệu.
Duyên của đất trời làm nẩy nở duyên lứa đôi:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
Con đường nhỏ nhỏ lá xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
(Thơ duyên)
Bên cạnh lối cảm nghĩ, nói năng, cách đặt câu lựa chữ có nhiều
“lung lay” do sự xô đẩy của luồng tư tưởng quá mới mẻ, dồi dào, thơ Xuân Diệu vẫn
gợi được một cái gì đó gần gũi, thân thuộc, rất Việt Nam cả trong tâm hồn và
ngoại cảnh:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hẹn để ngày mai sẽ mát.
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn cứ nhạt?
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi!
(Tặng thơ)
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
(Cảm xúc)
Những câu thơ của Xuân Diệu cho thấy ông đã ít nhiều chịu ảnh
hưởng của quan niệm “Tam tài” - một dòng tư tưởng chi phối mạnh mẽ đến thi pháp
thơ ca Trung đại bằng hệ hình: Thiên - Địa - Nhân hợp nhất. Cùng với thời gian
“tứ thời” vô hạn, không gian “tứ phương” trong thơ Xuân Diệu có lúc tưởng chừng
như vô cùng tận nhưng vẫn được đặt trong tương quan với con người - một tiểu
ngã đơn côi giữa đại ngã vũ trụ: Bốn bề ánh nhạc biển pha lê/ Chiếc đảo hồn
tôi rợn bốn bề/ Sương bạc làm thinh khuya nín thở/ Nghe sầu âm nhạc đến sao
khuê (Nguyệt cầm). Đành rằng Xuân Diệu từng say mê đón nhận thuyết hô ứng
của phương Tây và đã rất thành công khi tạo nên một thứ thơ kết hợp cả hương vị,
màu sắc, âm thanh (Huyền diệu, Hoa đêm…). Song, trong bức tranh thơ chung của
Xuân Diệu, thuyết hô ứng dù mới mẻ vẫn chưa thể thay thế mô hình “Thiên - Nhân
nhất thể”, chưa xoá mờ bản sắc phương Đông trong rất nhiều bài thơ đặc sắc của
cả hai tập (Cảm xúc, Nụ cười xuân, Vì sao, Thu, Chiều, Thơ duyên, Tặng thơ, Mơ
xưa…), chưa làm mất đi cái “dáng dấp yêu kiều, vẻ đài các rất hiền lành, cái cốt
cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam đã quyến rũ ta” (Hoài
Thanh - Thi nhân Việt Nam).
Trong thế giới thơ trữ tình, sự lựa chọn hệ thống mô típ,
hình ảnh thể hiện đặc điểm thi pháp và kiểu tư duy của nhà thơ. Đó đồng thời
cũng là những yếu tố lập nên phong cách. Về lĩnh vực này, Xuân Diệu khá gần gũi
truyền thống. Viết về thiên nhiên, bức tranh bốn mùa trong thơ Xuân Diệu vẫn là
hình bóng của nhóm “tứ quý”: xuân, hạ, thu, đông - mai, đào, cúc, trúc…
những mô-típ tài tử - giai nhân, những người thanh quý - tài sắc theo cách nói
của Xuân Diệu đã là một kiểu nhân vật trữ tình có xuất xứ từ trong thơ văn cổ
điển. Ngay một số phát ngôn của cái tôi tác giả - cái tôi chủ thể cũng không xa
lạ với mỹ học tiếp nhận của người Việt:
Nghiệp tài tử nghìn xưa đông lắm chắc,
Chúng tôi hùn làm một kiếp đa duyên.
Cảm nếp trán của người lo sáu khắc,
Thương năm canh nước mắt những ai phiền.
(Lời thơ vào tập Gửi hương)
Những hiện hữu của thiên nhiên: trăng, gió, mây trời trong
thơ Xuân Diệu vẫn là những mẫu mực cho sự kết hợp giữa cảm quan vũ trụ Đông và
Tây, giữa ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ pháp và sắc thái tượng
trưng của Đường Thi Trung Hoa.
Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ,
Thương ai không biết, đứng buồn trăng.
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió,
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.
(Buồn trăng)
Đặc biệt là những dòng chữ “lạ lùng” diễn tả cái khí lạnh của
một đêm thu, không chỉ bởi khí trời mà là cái lạnh của ánh trăng, của tiếng
đàn: đàn trăng. Nó là tập hợp của nhiều cảm giác, từ cảm giác thực đến
siêu cảm giác, từ cảm nhận trực tiếp đến những liên tưởng xa xôi, là một thực
thể sinh động về sự phối kết tài tình giữa cổ điển và hiện đại, Đông phương và
Tây phương:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
(Nguyệt cầm)
Ngay đến sự xuất hiện của “người đẹp” với những điểm nhấn là
đôi mắt và cặp má hồng cũng vẫn rất thân thương, gần gũi với cảm thức Á đông,
hiền hòa và ấm áp:
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,
Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
(Thu)
Là một nhà thơ uyên bác, có trình độ và am hiểu sâu Hán học,
bên cạnh một số bài thơ mang tên Cảm xúc, Nguyên đán, Nhị hồ, Viễn khách,
Nguyệt cầm, Lưu học sinh, Đa tình, Hy Mã Lạp Sơn…, ngôn từ thơ Xuân Diệu có khá
nhiều từ Hán Việt được sử dụng hợp lý, tạo nên sự đa sắc cho bảng màu ngôn ngữ:
khởi sự, vô biên, hoài xuân, ly biệt, đa mang, vô hình, nhân sinh, ân ái, ái
tình, vô tâm, tài tử, đa duyên, sáu khắc, năm canh, riêng tây, giai nhân, kỹ nữ,
đoạn trường, dung nhan, lữ cô, phong nhã, nhân gian, thiên di, phản trắc, hư
vô, ý nhi, vô tình, sơn khê, trinh bạch, thiết thạch, nguyên tiêu, tiên tri, vô
định, vạn kiếp, giang hà, phong cảnh, vô minh, cô liêu, thiên đường, hoan lạc,
xuân tâm, trinh nữ, dương quan, cung nữ, biên thuỳ, tà dương, lữ hành, thiên
thu, sơn hà, tà huân, niên hoa, đa tình, phong lưu, công tử, suy hưng, tạo hoá,
vũ trụ, nhật nguyệt, vạn kỷ, vương giả v.v... và v.v… Thế giới nhân vật của Thơ
thơ và Gửi hương cho gió cũng biểu thị khá rõ rệt tâm thức hoài
cổ của cảm hứng thơ. Sự hiện diện của những thiên tình sử Kim Trọng - Thúy Kiều,
Phạm Thái - Quỳnh Như, Đường Minh Hoàng - Dương Quý Phi, Tiêu Lang - Lộng Ngọc…
những địa danh A Phòng, Cô Tô, Chiêu Dương, Hậu Đình, Cung nhà Tần…, những tứ đại
mỹ nhân gắn với tên tuổi của các bậc vua chúa, làm điêu đứng, thậm chí là gây
nên những tấn bi kịch cho các triều đại phong kiến Trung Hoa như Tây Thi, Điêu
Thuyền, Tần Nữ Dương Phi… cho thấy Xuân Diệu rất có ý thức trong việc khai thác
và vận dụng các điển tích, điển cố. Theo nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, qua trường
hợp bài Mơ xưa, ông đã tìm được hàng chục kết nối liên văn bản với kho
tàng văn thơ truyền thống: từ hạc đến tiên, từ chim phượng đến hoa
cúc, từ nỗi “sen còn chung một đế” đến “cây cũng chắp liền cành”, từ “gió liễu
chiều” đến “nước mắt hàng dương”, từ “cung nữ” đến “thi sĩ”, từ “ca oanh” đến
“múa yến”, từ “xuân” đến “thu” v.v… lần lượt, tỉ mỉ qua 38 dòng thơ, nhà nghiên
cứu đã có những đối sánh thú vị với Tô Đông Pha, Khuất Nguyên, Đào Uyên Minh, Bạch
Cư Dị, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh, Đỗ Mục…, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn,
Nguyễn Công Trứ, Tản Đà… Chọn Xuân Diệu, một hiện tượng điển hình của Thơ mới để
tìm hiểu cách “đọc” văn học truyền thống của nhà thơ, Trần Nho Thìn đã lý giải
khá thuyết phục mối quan hệ giữa tiền đề truyền thống với những nỗ lực cách tân
của trào lưu thơ ca lãng mạn (*). Điều đó cách
nghĩa vì sao khi viết về Xuân Diệu, mặc dầu luôn khẳng định những sáng tạo mới
mẻ, Hoài Thanh vẫn không quên lưu ý đến cái “tình đồng hương vẫn nặng”, “cái
tinh thần cố hữu của nòi giống” của người thơ.
Về thể thơ, hai tập thơ của Xuân Diệu sử dụng nhiều nhất
là thơ 7 chữ có nguồn gốc từ thất ngôn truyền thống. Mỗi bài thơ được chia
thành nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu ngay ngắn. Vần và nhịp có nhiều thừa kế thi pháp
cổ điển, 4 câu 3 vần:
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà.
Buồn ở sông xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
(Thu)
Nhịp thơ cũng thường là 4/3 hoặc 2/2/3 như cách phân bổ của
thất ngôn bát cú và tứ tuyệt:
Mây biếc về đâu/ bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng/ cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng/ giang thêm cánh,
Hoa lạnh/ chiều thưa/ sương xuống dần
(Thơ duyên)
Thể lục bát khá hiếm hoi, cả 2 tập chỉ 7/104 bài. Tuy nhiên vẫn
có thể nhận ra điệu hồn lục bát dân tộc qua sự trầm lắng của cảm xúc và sự mềm
mại, uyển chuyển của ngôn từ. Đó là thứ lục bát “quý tộc”, gần với mỹ cảm của
Nguyễn Du và khá xa cách với ca dao:
Nghe chừng gió nhớ qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ.
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Êm em chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn…
(Chiều)
Mặc dầu Xuân Diệu được đánh giá là thành công hơn cả ở thể
thơ 8 chữ (có nguồn gốc từ cổ phong, hát nói) với Lời kỹ nữ, Phải nói, Giục
giã, Mời yêu… nhưng thơ 7 chữ của ông đậm nét truyền thống hơn. Nhiều bài
thơ trong hai tập trở thành nổi tiếng là một phần nhờ vẻ đẹp cổ kính ấy (Nụ cười
xuân, Trăng, Huyền diệu, Nhị hồ, Đây mùa thu tới, Ý thu, Thơ duyên, Nguyệt cầm,
Buồn trăng, Thu…). Theo thống kê của chúng tôi, tỉ lệ thơ 7 chữ nhiều hơn cả:
49/104, trong khi đó thơ 8 chữ là 37/104. Thơ 5 chữ lại càng ít ỏi 5/104 bài.
Và so với Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, thể thơ này của Xuân Diệu không mấy
đặc sắc. Hồn cốt của ngũ ngôn truyền thống có lúc đã bị pha loãng: Cho
lòng xin chút hương/ Cho lòng xin chút lửa/ Cho lòng xin chút thương/ Cho lòng
xin chút nữa… (Chiều đợi chờ). Ngắn nhất là bài thơ chỉ có 2 câu:
Mưa dầm - thu dưới nguyệt
Máng chảy - suối trần nhà
(Mười chữ)
Tuy thế, tinh thần, sự đúc đọng của ngũ ngôn được biểu thị phần
nào khi ông tìm về một khía cạnh của thơ văn cũ qua mô thức biệt ly, đưa tiễn:
Mắt nghẹn nhìn thâu dạ;
Môi khô hết níu lời…
Chân dời, tay muộn rã…
Kẻ khuất… kẻ trông vời…
Buổi chiều ra cửa sổ;
Bóng chụp cả trời tôi!
Ôm mặt khóc, rưng rức;
Ra đi là hết rồi.
(Viễn khách)
Còn lại, thơ 5 chữ của Xuân Diệu dường như chỉ là hình thức,
là số lượng của từ vị trên mỗi dòng thơ.
Cuối cùng, một trong những thủ pháp truyền thống được Xuân Diệu
sử dụng nhiều nhất và có tần số văn bản cao nhất, đó là các hình thức đối.
Nhờ phép tắc mang tính qui phạm này, câu thơ Xuân Diệu dù mới mẻ và hiện đại vẫn
luôn có được ngữ điệu nhịp nhàng và ý nghĩa thanh toát. Nó thể hiện sự am tường
của nhà thơ về kỹ thuật trữ tình cổ điển, là cơ sở để thứ âm điệu trầm bổng du
dương trong thơ Xuân Diệu thăng hoa, lan toả.
Về phương diện này, Xuân Diệu đã rất gần gũi với truyền thống
khi ông tiếp nhận rộng rãi các cách thức đối của thơ ca dân tộc từ đối thanh đến
đối ý, đối ngược đến đối xuôi, từ đối cách cú đến đối câu và tiểu đối. Hơn 80%
tổng số các bài thơ trong cả hai tập sử dụng phép đối đã cho thấy đây là một hiện
tượng đáng lưu ý, một dấu hiệu thi pháp nổi bật của nhà thơ. Không còn bị trói
buộc trong những lề luật gò bó của thơ cũ, các hình thức đối ở thơ Xuân Diệu có
phần linh hoạt, phóng khoáng hơn. Câu thơ trở nên hài hoà và nhịp nhàng cả lời
lẫn ý.
Đối đoạn (còn gọi là đối cách cú) là một phương thức
đối mới được Xuân Diệu vận dụng nhiều và có sáng tạo trong thơ. Cách đối này
không tự nhốt trong khuôn khổ của trật tự từ, số từ, loại từ… mà vẫn đảm bảo sự
chặt chẽ của tình, ý. Tứ thơ không bị “loãng”, cảm xúc và nhịp điệu bài thơ
trôi chảy, liền mạch:
Cô hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa;
Để tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; - thế cũng vừa.
(Vì sao)
Chỉ là gió, nhưng lòng tôi thả bướm,
Thêm phất phơ cho hơi thở vừa hiền;
Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên…
Chỉ là tình; nhưng tôi rất mê man
(Chỉ ở lòng ta)
Cứ thế, lời gợi lời, ý đối ý đã tạo nên những tương xứng hài
hoà rất cần thiết cho từng bài thơ: “Các chữ đi tiếp với nhau thì phải hứng đỡ
lấy nhau, tương xứng với nhau” (Xuân Diệu). Sự kết nối mạch lạc giữa ý và lời,
sự cân bằng nhịp điệu giữa khổ thơ này với khổ thơ kia, đoạn trên và đoạn dưới
trong các bài Cảm xúc, Vì sao, Huyền diệu, Chỉ ở lòng ta, Giục giã, Đa
tình, Tình mai sau… chính là nhờ hình thức đối này.
Đối câu được coi là kiểu đối phổ biến nhất trong thi ca
cổ điển dân tộc. Kế thừa quy tắc truyền thống này, Xuân Diệu đã tạo cho câu thơ
độ kết lắng, chặt chẽ và đúc đọng. Điều đó cho thấy nhà thơ mới của chúng ta rất
am tường về âm thanh, từ loại, về sự tương xứng và “kỹ thuật pha màu” trong
ngôn ngữ, đặc biệt là “cái ý thức nền tảng về kỷ luật ngôn từ”. Người đọc đã
không khỏi ngạc nhiên khi bắt gặp trong thơ ông những vế đối rất chỉnh:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt
(Lời kỹ nữ)
Mái tranh tàng đỡ rét một đêm sương,
Vò nước lã mát xoàng đôi buổi nắng.
(Chỉ ở lòng ta)
Hiu hắt nhẽ bốn phương trời vò võ,
Lạnh lùng chăng sầu một đỉnh chon von
(Hy Mã Lạp Sơn)
Và rất nhiều những câu thơ khác nhờ phép đối mà những cặp câu
đi song đôi có được sự tương phản (nếu là đối ngược) hoặc tương đồng (nếu là đối
xuôi) về mặt ý nghĩa và hợp lý về cấu trúc âm thanh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
(Thơ duyên)
Tay ái ân du khách hãy làm rèm
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng.
(Lời kỹ nữ)
Thắm tuyệt vọng hai hàng bông phượng lửa
Thê lương đời như trải mấy binh đao.
(Hè)
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
(Xuân không mùa)
Khác với đối câu, đối chữ (còn gọi là tiểu đối)
thường diễn ra trong phạm vi của từng câu thơ. Với Xuân Diệu, đây thực sự là một
hiện tượng đặc biệt lạ thường. Ông đã thực hiện phép đối này trên tất cả các loại
từ, ở tất cả các thể thơ với mặt bằng ngôn ngữ vô cùng rộng lớn và một tần số
văn bản cao chót vót.
Thơ 4 chữ:
Trăng
thu, gió hè
Đổi bờ, thay đê.
Thơ 5 chữ:
Hoa
nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết.
Thơ lục
bát:
Mây
dàn rộng, gió dàn mau
Nẻo chừng đã khuất, lòng đau còn chờ.
Thơ 7 chữ:
- Hiển hiện hoa và phảng phất hương
- Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn
- Phong cảnh trăm năm, buồn vạn đời
- Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà v.v...
Thơ 8 chữ:
-
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu
- Phút gần gũi cũng như giờ ly biệt
- Tôi ưng đùa, người hãy cợt thản nhiên
- Bằng lời riêng, nơi cuối mắt đầu mày.
- Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
Ở thể hỗn hợp, phép đối rơi vào câu nào, ông ứng biến theo
đơn vị số từ trong câu. Riêng với những câu thơ 9 chữ hiếm hoi, nhà thơ ngắt
thành 3 vế đều đặn:
- Nửa câu nói, một chút cười, đôi tiếng thở.
- Hình ngực nở, nụ cười tươi, màu tóc láng.
Đó là những tìm tòi xét theo đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất của mỗi
câu thơ. Nhưng trong phạm vi toàn bài, để tránh sự rời rạc mà phép tiểu đối có
thể gây nên, Xuân Diệu một lần nữa lại tìm cách liên kết chúng thành 2 câu, 4
câu, 6 câu như những nhịp chẵn đều đặn:
2
câu:
Thôi
hết rồi! còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm.
(Tương tư chiều)
Tơ liễu giong gần tơ liễu êm;
Bướm bay lại sánh bướm bay kèm.
(Rạo rực)
4 câu:
Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ
Hương mới thắm bền ghi như thiết thạch
Sương nguyên tiêu, trời đất cũng chung mờ.
(Tình thứ nhất)
6 câu:
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài.
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
(Giục giã)
Rõ ràng là phép đối trong thơ Xuân Diệu được sử dụng ở tất cả
mọi cấp độ và với mật độ dày đặc. Những bài thơ đặc sắc như Cảm xúc, Vội
vàng, Xa cách, Lời kỹ nữ, Mời yêu, Chỉ ở lòng ta, Tặng thơ, Xuân không mùa, Hoa
đêm… luôn có sự cân đối, hài hoà giữa các vế trong từng câu, giữa các câu
trong từng đoạn như một dòng chảy liền mạch của cảm xúc và âm điệu. Đặc biệt,
có một số bài từ lúc mở đầu cho đến khi kết thúc là sự xen kẽ, thay thế, di
chuyển liên tục các hình thức đối:
Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ,
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lói;
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự.
Không chỉ riêng phép đối, các yếu tố hình thức khác như nhịp,
vần, thanh, điệu… cũng được Xuân Diệu vận dụng một cách sáng tạo trên cơ sở
truyền thống. Chính vì vậy, dù góc tiếp cận và cách đọc khác nhau, “cộng đồng
diễn giải” vẫn có chung cảm nhận là thơ Xuân Diệu “cực kỳ du dương”, tiêu tao,
réo rắt, là “một sự tuyệt tác của nhạc cảm”… Để đạt đến hiệu ứng thẩm mỹ đó,
Xuân Diệu, ngoài khả năng thẩm âm tinh tế còn có biệt tài sử dụng một nghệ thuật
hoà âm rất mực điêu luyện bởi kết hợp được những giai điệu quyến rũ của cả cổ
nhạc và tân nhạc.
Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) là
hai tác phẩm đã làm rạng danh tên tuổi của Xuân Diệu trên thi đàn lãng mạn
1932-1945. Là một gương mặt sáng giá, một vận mệnh thi ca tiêu biểu cho cả thế
hệ thi nhân tiền chiến, thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 ở những
bài thành tựu nhất luôn có sự gặp gỡ, giao thoa văn hoá Đông - Tây, nhuần nhị,
hài hòa giữa truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại.
Trên hành trình nửa thế kỷ của đời thơ Xuân Diệu, Thơ
thơ và Gửi hương cho gió là hai tập thơ lưu giữ nhiều dấu ấn
truyền thống và chắt lọc được nhiều nhất tinh hoa của thơ cổ điển Việt Nam. Sau
1945, dưới sự chi phối của quan điểm sáng tác “chân chân chân, thật thật thật”,
Xuân Diệu đã gắng gỏi mở lòng để đón nhận hơi thở của ca dao, của văn chương
bình dân nhưng không mấy thành công… Cái cốt cách, phong điệu tài hoa, sang trọng,
đài các của người thơ dễ hoà nhập hơn với tố chất uyên bác, tài tử của thơ ca
bác học. Chính vì vậy, bước vào thế giới nghệ thuật của Thơ thơ và Gửi
hương cho gió, chúng ta đã bắt gặp một tâm hồn Việt và một lối kiến trúc thơ Việt
ở vào thời điểm nhiều ý nghĩa của tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc.
Chú thích:
(*) Xem Trần Nho Thìn: Nhà thơ lãng mạn “đọc” văn học phương Đông
truyền thống: Xuân Diệu với bài Mơ xưa. Tiếp nhận văn học nghệ thuật
- NXB Đại học Quốc gia. H. 2013, Tr. 509.
14/3/2016
Lý Hoài Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét