Chúng ta bắt gặp một Nhất Linh đang đau khổ, dằn vặt trên con
đường đi tìm lý tưởng và hạnh phúc hay một Thạch Lam vừa mơ mộng vừa
hiện thực tỉnh táo thì không thể thiếu đi một Khái Hưng, con người sôi nổi lạc
quan với những ảo tưởng trong nỗi buồn man mác, xao xuyến và băn khoăn.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 là sự hội tụ và tỏa
sáng của những gương mặt tài năng cùng với sự xuất hiện của trào lưu lãng mạn,
điều này đã giúp cho văn học lúc bấy giờ mang trên mình một bộ mặt mới, đó là
giải phóng và đề cao cái Tôi cá nhân mà trước đây vẫn chưa có ai hay tác phẩm
nào làm được.
Đôi nét về cuộc đời và phong cách sáng tác của Khái Hưng
Nhà văn sinh năm 1986, gốc ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo thuộc
tỉnh Hải Dương, bút danh Khái Hưng được ghép từ các chữ cái của tên thật là Trần
Khánh Giư. Khái Hưng đã nói về bút danh của mình rằng:
“Tên thật của tôi là Trần Khánh Giư, hai chữ Khánh Giư, sắp
theo lối anagramme thành ra Khái Hưng, chứ không có gì lạ.”
Ông xuất thân trong một gia đình quan lại, cha giữ chức Tuần
phủ và kết hôn với năm bà vợ nên có nhà nhiều dòng dõi con cháu. Khi lớn lên,
Khái Hưng theo học chương trình Pháp ở trường Trung học Albert Sarraut tại Hà Nội,
ông còn có tài hội họa nhưng chẳng mấy chốc đã từ bỏ.
Sau này ông đã dừng lại việc học của bản thân khi vừa đỗ tú
tài I rồi về Ninh Giang mở bán đại lý dầu hỏa. Trải qua nhiều thăng trầm thì cuối
cùng Khái Hưng quyết định trở lại Hà Nội rồi làm giáo viên giảng dạy tại trường
tư thục Thăng Long và tại đây ông đã cuộc gặp gỡ với Nhất Linh.
Tuy nhà văn sinh ra trong một gia đình quan lại và cha vợ là
Tổng đốc Bắc Ninh nhưng Khái Hưng lại lựa chọn cho bản thân một cuộc sống tự lập,
vừa đi làm vừa viết báo.
Theo ông mà nói thì nghề văn, nghề báo như là một nguồn sống
cao quý để bản thân có thể dâng hiến nỗi niềm và tâm tư một cách trọn vẹn vào
trong đó.
Chân dung nhà văn Khái Hưng.
Trong quãng thời gian này, ông đã làm việc với tờ báo thương
mại của Chu Mậu, một nhà buôn có thế lực dùng báo làm phương tiện để quảng cáo
cho nhãn hàng may mặc của mình.
Tuy nhiên, Khái Hưng vẫn chưa tìm được “mảnh đất” để bộc lộ
được hết tài năng mà bản thân có nên ông đã chuyển sang viết cho tờ báo Phong
Hóa từ số một đến số mười ba do Phạm Hữu Ninh, hiệu trưởng trường Thăng Long chủ
trương.
Sau này, trong lúc Nhất Linh đang thương lượng với Phạm Hữu
Ninh về việc mua lại tờ báo Phong Hóa thì ông tình cờ đọc được một bài khảo luận
đăng trên tờ Văn học tạp chí với bút danh Bán Than. Ngay lập tức, Nhất Linh đã
nghĩ đến đồng nghiệp của mình là Khái Hưng.
Và quả thật không sai, hai con người đã nhanh chóng có một cuộc
gặp gỡ, tuy có sự chênh lệch về tuổi tác nhưng những tâm hồn đồng điệu ấy đã trở
thành đôi bạn trong cuộc sống, nghiệp dĩ và cả văn học. Nhất Linh đã viết trong
lời đề từ của tác phẩm Đoạn tuyệt rằng:
“Tặng Khái Hưng, tác giả Nửa chừng xuân, nhà văn cùng quan niệm
với tôi về xã hội hiện thời.”
Năm 1932, Nhất Linh chính thức chủ trương tờ báo Phong Hóa,
hơn một năm sau Tự Lực văn đoàn được thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất
Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Đây chính là cột mốc lớn trong sự nghiệp sáng tác
của ông.
Là một trong những cây bút chủ chốt của Tự Lực văn đoàn, người
ta thường ví văn của Khái Hưng như hoa thơm trong vườn thượng uyển. Ông viết
nhiều thể loại như kịch, truyện ngắn, truyện dài, phê bình văn học nhưng thành
công nhất có lẽ là tiểu thuyết.
Ông để lại cho đời không ít tác phẩm và chúng ta không thể phủ
nhận được sự ảnh hưởng của Khái Hưng lúc bấy giờ. Việt Nam giai đoạn 1932 -
1945 dấy lên yêu cầu đổi mới nền văn học, theo dòng chảy của tự nhiên ấy thì
các thi nhân đã chuyển mình và hướng ngòi bút của bản thân đến gần hơn với con
người.
Bên cạnh trào lưu văn học hiện thực, phê phán một xã hội mục
rữa và thối nát thì trào lưu văn học lãng mạn nổi lên như một sự đan xen giúp
cho cuộc sống ấy bớt đi ít nhiều khắc nghiệt. Khái Hưng là một trong những cây
bút có hai yếu tố trên kết hợp và hòa quyện.
Khi Tự lực văn đoàn được thành lập thì trên tờ Phong hóa đã
công bố chín tôn chỉ và một trong số đó cũng chính là quan niệm và phong cách
sáng tác của Khái Hưng:
“Trọng tự do cá nhân.”
Văn chương Khái Hưng được chia làm hai phần là văn học cổ điển
và văn học châu Âu cấp tiến, nói như nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn học
dân gian Việt Nam Vũ Ngọc Phan thì ông là văn sĩ của thanh niên Việt Nam cũng
như Alfed de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa.
Chính điều này đã khiến cho các tác phẩm của ông đều có sự giải
phóng cái Tôi cá nhân đồng thời qua đó nhà văn lên án chế độ phong kiến hủ tục,
quan liêu. Để khi đến với tiểu thuyết của Khái Hưng, chúng ta có thể một lần nữa
khẳng định lại được giá trị trong sáng tác về cả hai khía cạnh là nội dung lẫn
nghệ thuật.
Ông thường xây dựng những mối tình buồn sầu đến thảm thương
trong đa phần các tác của mình và trong truyện dài Nửa chừng xuân, Khái
Hưng đã viết:
“Ái tình là bông hoa thơm không bao giờ kết quả.”
Khi đến với tập truyện ngắn Anh phải sống cũng vậy,
ông đã dịch những câu thơ từ tập thơ của Félix Arvers để dành cho nhân vật Văn
Châu Linh, đó là một mối tình không bao giờ hé môi của của chàng thi sĩ:
“Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
- Tình tuyệt vọng.”
Một tình cảm bị đè nén suốt năm năm, Văn Châu Linh nhìn người
mình yêu cứ thế mà kết hôn với bằng hữu thân thiết nhất. Không những thế ở phần Sóng
gió Đồ Sơn, Bạch Tuyết được Văn Hải đem lòng yêu say đắm mà viết thư rằng:
“Thưa Bạch Tuyết tiểu thư. Từ khi được giáp mặt hoa đào, ngày
đêm tôi âu sầu tưởng nhớ. Đã nhiều phen mượn giọt mực đen, tờ giấy tím để giải
tỏa tấm gan vàng với người mắt xanh.”
Chàng thi sĩ đã phải lòng người con gái đó kể từ buổi đầu gặp
mặt, mỗi ngày anh đều đứng trước cửa nhà hàng để liếc trộm dung nhan của nàng.
Nhưng ngặt nỗi, Bạch Tuyết lại không chịu đồng ý mà cứ trêu đùa tình cảm ấy,
Văn Hải cảm thấy trái tim mình thật khổ sở, sau mấy năm trời vẫn đơn phương mãi
một bóng hình.
Bìa tập truyện Anh phải sống của Khái Hưng.
Anh dần quen với nỗi mất ăn, mất ngủ, bỏ ngay cả việc học trước
mắt và cuối cùng thì Văn Hải đã nhận ra rằng, ái tình chính là một lời vĩnh biệt
làm tan nát lòng người.
Hay trong Đợi chờ, vì Phụng có hứa với Linh mỗi năm sẽ về
vườn cam rám đỏ dưới luồng gió heo may để cùng nhau tái ngộ nên anh đã chờ mãi,
năm nào cũng ở đó mong ngóng đến rạo rực cả lòng làm man mác cả linh hồn vạn vật.
Trên ngọn đồi xa có làn mây bạc cùng Linh đợi người năm ấy, lòng anh tựa vạn vật
âm ỉ mong ngóng mùa Xuân về.
Và trong số những tác phẩm trên thì không thể không điểm đến Hồn
bướm mơ tiên, tác phẩm đầu tay của Khái Hưng và cũng là của Tự Lực văn đoàn. Đó
là một cuốn tiểu thuyết lý tưởng kể về câu chuyện tình lãng mạn, tuyệt vời và
bay bướm tựa như các truyện ngắn của nhà văn Ivan Tourgueniev.
Tác phẩm đầu tay Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng.
Cuốn sách mang giá trị nghệ thuật cao, tâm lý nhân vật được
thể hiện sâu sắc qua sự đấu tranh, giằng co giữa tình yêu và lòng mộ đạo ở nội
tâm một người đệ tử xuất gia và Hồn bướm mơ tiên chính là phát súng đầu
tiên trên văn đàn, đánh dấu sự mở đầu cũng như bành trướng của các cây bút có lối
viết lãng mạn, mơ mộng lúc bấy giờ:
“Yêu nhau trong linh hồn trong lý tưởng.”
Đó là khi Ngọc ở chùa Giáng Long được hơn mười ngày, mối quan
hệ giữa chàng và Lan, một chú tiểu giả trai ngày càng thân thiết, gần gũi. Hữu
cảnh sinh tình âu cũng là điều tất yếu, ở đây đã có mối tình chớm nở trong trái
tim của Ngọc:
“Phải tay thần Ái tình mới có cho bày trí một cảnh u ám, buồn
rầu nên cảnh dịu dàng ngộ nghĩnh thật, lên ở chùa mới biết yêu, mới biết yêu là
có thú vị.”
Để rồi yêu nhau thì lại hơn mười phần phụ nhau, muốn lên chùa
thoát tục nhưng vì bản tính con người khó mà xóa bỏ nên người ta gọi đó là ái
tình, là linh hồn bất vong bất diệt.
Qua ngòi bút của Khái Hưng thì Lan và Ngọc chính là hai con
người thể hiện cho hai thế giới hoàn toàn đối lập. Ngọc đại diện cho người trần
tục nên đối với chàng thì tình yêu mới là quan trọng. Khi tình cảm ấy dần nhen
nhóm trong tim thì Ngọc đã có một sự tranh đấu giữa lương tâm và tội lỗi.
Bìa cuốn sách Hồn bướm mơ tiên.
Còn Lan là người tiêu biểu cho sự xuất thế nên con người ấy
cho rằng tình yêu là cái ảo tưởng của hạnh phúc, sự thể hiện của chốn trầm luân
và nó chỉ là một sự nhỏ nhen so với lòng bác ái của Đấng từ bi:
“Trên đời chỉ có lòng bác ái mới là đáng kể.”
Khái Hưng rất thành công trong việc đi sâu vào tình cảm con
người, ông tập trung khái quát những gì đẹp đẽ nhất từ tận sâu đáy lòng của họ.
Trải qua bao truân chuyên và vượt ra khỏi giới hạn của bản thân để rồi phần kết
truyện, Ngọc đã nói rằng:
“Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân
loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đình tôi là hai linh hồn đôi ta, ẩn núp dưới bóng
từ bi Phật tổ.”
Đối với Khái Hưng mà nói thì yêu chính là luật chung của vạn
vật, là bản tính của Phật giáo, con người yêu nhau là yêu từ trong gốc rễ
của linh hồn.
Cũng vì thế nên văn của Khái Hưng luôn hướng đến cuộc đời với
những gì đẹp đẽ nhất, Hồn bướm mơ tiên là cuốn sách mở đầu trào lưu
văn học lãng mạn trong tiểu thuyết và cũng là định hướng cho ngòi bút của
ông.
Một tài năng chưa bao giờ kết thúc
Khái Hưng luôn để nhân vật của mình sống giữa hai sự đối cực,
bên cạnh Hồn bướm mơ tiên thì Nửa chừng xuân cũng là một
minh chứng cho điều trên.
Cuốn sách mang trên mình sự lãng mạn tiến bộ, đấu tranh cho
quyền sống cá nhân, phê phán đại gia đình phong kiến đồng thời tố cáo bọn quan
lại và địa chủ trọc phú ở vùng nông thôn.
Tác phẩm viết về một mối tình trong thời kỳ chuyển mình của
xã hội nước ta, đó là sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới, từ xung đột đến những
nhân vật trong đó sẽ làm nổi bật lên được ngòi bút của Khái Hưng. Hàn Thanh tán
tỉnh Mai làm vợ bé trong khi mối quan hệ giữa Mai và bà Án, mẹ của anh có sự
xung đột.
Cuốn sách Nửa chừng xuân của nhà văn Khái Hưng.
Đó là cuộc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc lứa đôi ngoài lễ
giáo phong kiến, cuộc đấu tranh giữa cũ và mới ấy đã có lúc khiến các nhân vật
trung tâm đi vào phía đối lập rõ rệt. Như lúc Huy nói thẳng vào mặt bà Án lúc
bà lên Phú Thọ khuyên Mai về làm vợ bé cho Huyện Lộc:
“Thưa cụ, cụ tức là cái biểu hiện, tứa là một người đại diện
cho nền luân lý cũ. Mà tâm trí chúng cháu thì đã trót nhiễm những tư tưởng mới.
Hiểu nhau khổ lắm, thư cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng
một nguồn, cùng chảy ra bể, nhưng mỗi đàng chảy theo một phía dốc bên sườn, gặp
nhau sao được.”
Mai là cô gái hiếm có trong buổi đương thời, nàng giàu lòng vị
tha và mang trên mình một khuôn mẫu Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Tuy vậy nhưng
nàng vẫn được xem như một nạn nhân của xã hội phong kiến chỉ biết đem cái nhân
hậu, cái thanh cao ra mà chống đỡ chế độ đa thê đến cùng.
Cuộc đời Mai một phần nào đó rất giống với nhân vật Thúy Kiều
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, cả đời nàng chỉ biết thờ hai chữ hy
sinh, hy sinh cho gia đình và cả mối tình đầu mặc dù hạnh phúc của bản thân đã
kết thúc ở tuổi nửa chừng xuân.
Hàn Thanh hay bà Án đều là hiện thân cho chế độ luân lý cũ, họ
nhanh chóng bị đào thải vì đó là quy luật của tự nhiên, cái mới sẽ chiếm chỗ và
thay thế nó. Anh từng nói với Mai rằng, anh hiểu, anh yêu, anh trọng cái giá trị
tự do cá nhân nhưng Lộc lại bị khuất phục trước uy quyền của lễ giáo.
Hình ảnh bìa cuốn sách Nửa chừng xuân.
Nửa chừng xuân có một tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn còn rụt
rè, đó là nỗi tâm tình và giải thoát bản thân hướng đến hạnh phúc đích thực.
Khái Hưng đã tài tình đưa cái mới vào nếp sống cũ mà không làm mất đi tính chất
nguyên bản của nó, họ biểu trưng cho tình yêu được lý tưởng hóa, đề cao tự do
hôn nhân.
Không chỉ dừng lại ở đó, Khái Hưng còn là người có trí óc
sáng tạo không ngừng. Khi viết Tiêu Sơn tráng sĩ, ông đã phóng tác nó từ Hoàng
Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái và Sơ kính tân trang của
Phạm Thái để từ đó viết lên những trang văn mang đậm lý tưởng anh hùng của những
thanh thiếu niên xông pha ra chiến trận.
Ở tác phẩm còn phảng phất cái không khí nghĩa hiệp của những
tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc như Tam quốc chí hay Thủy Hử, còn
phải kể đến đến sức ảnh hưởng từ Ba người ngự lâm pháo thủ của
Alexandre Dumas.
Từ đó chúng ta có thể thấy được, Khái Hưng đã rất khéo léo,
tài tình khi kết hợp những yếu tố ảnh hưởng của phương Đông và phương Tây để
thành công xây dựng nên một cuốn tiểu thuyết “anh hùng nghĩa sĩ” theo kiểu Việt
Nam.
Tác phẩm Tiêu Sơn tráng sĩ.
Nhân vật của Khái Hưng luôn được đặt trong sự lựa chọn mang
nghĩa cực đoan.
Một là họ phải chịu đựng mà sống ngay cái đích chắc chắn hay
khuôn khổ nhất định mà theo Nửa chừng xuân thì đó là suốt đời làm nô
lệ hoặc sẽ trở thành “những con lợn không có tư tưởng” để rồi tồn tại và biến mất
không một dấu ấn.
Hai là họ sẽ biến thành kẻ trác táng và phóng đãng, sống theo
tiếng gọi của Đời mưa gió, tràn đầy tự do, bản lĩnh và cá tính. Những con
người đó luôn sống cho mình, vì mình và đi ngược lại với dòng chảy của chúng
nhân.
Tiểu thuyết Khái Hưng luôn truyền bá những triết lý và tư tưởng
tinh thần của xã hội. Băn khoăn là một tác phẩm như thế, nhà văn
Dương Nghiễm Mậu đã nhận xét về cuốn sách rằng:
“Có thể nói đây là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam thuộc trường
phái “tiểu thuyết mới”.
Khái Hưng bắt đầu từ việc tiếp thu sự mô phỏng nhóm thơ la
Pléiade rồi dùng các thủ pháp trong văn học Pháp như phương thức để phát triển
cái riêng của bản thân. Ông hướng ngòi bút đến cái đẹp về kẻ mạnh, kẻ giàu, kẻ
có quyền, kẻ thắng trong các cuộc cạnh tranh cướp đoạt.
Bìa sách Băn khoăn của Khái Hưng.
Đối với Thanh Đức, nhân vật chính của truyện thì đồng tiền là
trên hết, là sự vạn năng bởi lẽ nó mua được người đẹp một đêm, mỏ vàng, nhà cửa,
nhân nghĩa và cả phẩm giá con người. Điều này đã khiến cho Hoàng, người anh họ
của Đức đã phải thốt lên rằng:
“Kim tiền! Trời đất ơi! Kim tiền! Kim tiền làm cho người ta
quên hết ghét, yêu, thù, tức chỉ để nghĩ đến nó, chỉ nhớ đến nó, chỉ chạy theo
nó. Kim tiền vạn tuế!… Sống mãi trong cái xã hội này một ngày kia tôi điên thật!”
Cùng quay lại với Hồn bướm mơ tiên, cuốn sách phảng phất
không khí của truyện Nôm Việt Nam thế kỷ XVIII là Quan Âm Thị Kính. Ở đó
có một tình yêu luôn được giác ngộ bởi trái tim bác ái và giàu lòng hy sinh, từ
đó kích thích một sự cao thượng trong đại gia đình nhân loại.
Đồng thời Hồn bướm mơ tiên còn truyền bá tư tưởng
Phật giáo, cái tên còn gắn với một bài thơ đầy cảm hứng Phật giáo của Lê Thánh
Tông:
“Gió thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lần sự đời.”
Những tác phẩm của Khái Hưng bất kể là thể loại nào đều có đủ
sức để chứng minh được tinh thần giá trị xã hội, ông đem hết tinh lực, tài trí
ra sức làm việc cho đời, bênh vực cái mới, cái tiến bộ đồng thời lên tiếng phá
bỏ đi những quan niệm khắt khe và lạc hậu.
Tuy nhiên không phải tác phẩm nào của ông cũng đều nằm trong
phạm trù chủ nghĩa lãng mạn. Với sự sáng tạo nghệ thuật, giới hạn giữa hiện thực
và lãng mạn trong văn Khái Hưng luôn có phần nào mờ nhạt để từ đó nhà văn có thể
khắc họa rõ nét hơn hình ảnh những con người và cả xã hội.
Kịch ngắn Một em bé khổ sở của Khái Hưng.
Khái Hưng hay Tự Lực văn đoàn đều như một ngọn cờ nhân văn lớn,
dẫn đầu ở thời kỳ ấy. Đó là những trang viết đấu tranh đòi quyền sống cho lớp
người đói khổ và sự vươn lên, gào thét đòi giải phóng cái Tôi cá nhân ra khỏi
khuôn khổ cũng như chuẩn mực của xã hội lúc bấy giờ.
Ở con người ấy có một lòng yêu nước tha thiết nhưng vì đi sai
đường bày tỏ nên cuối cùng lại trở thành phản động. Khái Hưng mất nhưng danh
thơm vẫn còn, thế giới văn nhân nghệ thuật ghi đậm nét tên người. Chúng ta sẽ
luôn nhớ trong lòng một nhà văn Khái Hưng với những gì tài hoa và đẹp đẽ nhất.
Minh Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét