Thơ nôm Nguyễn Trãi (1) có câu:
"Giậu thưa thưa, hai khóm cúc
Giường thấp thấp, một nồi hương".
Giường thấp thấp, một nồi hương".
Nồi hương đặt bên giường? Đọc rồi thắc mắc, thử tìm.
Ngoài đời, không thấy. Trong sách ta, thoạt tìm cũng không thấy.
Đã chập chờn nghĩ hay cụ Ức Trai tạm mượn nó trong sách Tàu, nhưng lại gạt
ngay: thơ Quốc âm thi tập có rau muống, mồng tơi, dọc mùng, bèo, củ ấu,
khoai, núc nác v.v..., có thả, ương, cấy, phát, cuốc, vãi, vun v.v..., Nguyễn Trãi
tả cảnh quê mình thực lắm, lẽ nào lại đi rước vào thơ một cái nồi "made
in China"!
Nồi hương có xuất hiện trong văn thơ Việt chỗ nào khác nữa
chăng, chuyện hãy tạm để đấy.
Năm 1293, sứ nhà Nguyên Trần Phu sang Thăng Long, trinh sát
văn hóa mấy tháng liền, mắt thấy tai nghe tới đâu ghi ghi chép chép tới đó,
thành sách An Nam tức sự. Sách có chỗ kể: "Bên cạnh giường bao giờ
cũng có một cái lò đốt lửa rừng rực (...) để tránh khí ẩm bốc lên". (2)
Chắc chắn sứ Tàu chỉ chép những chuyện phổ biến ở nơi đi sứ
mà hiếm hoặc không có ở Tàu, tức những chuyện lạ đối với người Tàu. Cái lò đặt
bên cạnh giường đích thị là lò Việt Nam.
Trần Phu qua sau Tết, đất Bắc đã bớt lạnh, nhưng cái
"rét nàng Bân", "rét tháng ba, bà già chết cóng", rét của
những đợt gió mùa đông bắc khiến tổ tiên ta thích có một cái lò "rừng rực"
đặt bên cạnh chỗ nằm của mình. Nằm bên lửa vẫn là cách chống rét của đồng bào
thiểu số ở miền cao cho đến tận bây giờ. Người Kinh đời Trần còn giữ tục ấy,
không biết lặng lẽ bỏ nó đi lúc nào...
Sẵn lò sẵn lửa, nếu đặt luôn lên đấy một cái nồi hương thì vừa
được ấm vừa được thơm! Liệu có phải chính cái thứ lò "đập" vào mắt Trần
Phu hơn trăm năm sau đã nấu nồi hương đặt bên cạnh giường Nguyễn Trãi chăng?
Mùi thơm tức là mùi... đẹp. Từ lúc có tâm hồn, biết thích cái
Đẹp, mũi nhân loại luôn hóng những thứ mùi thơm.
Ở ta xưa kia, muốn thân thể đầu tóc thơm tho thì nấu nước có
bỏ cỏ thơm, rễ thơm, lá thơm vào mà tắm, gội. Còn nếu muốn làm không gian quanh
mình có mùi dễ chịu thì hoặc thắp vài nén hương hoặc, cầu kỳ hơn, gầy một lò
hương, tức bỏ trầm vào lư mà đốt.
Thắp hương với đốt trầm có gốc Tàu? Dù sao, người Việt Nam vốn
có một cách gây thơm thứ ba, chắc chắn của riêng mình.
Côn Sơn, khoảng giữa thế kỷ 15...
"Ở thế nhiều phen thấy khóc cười". Nguyễn Trãi chán
thấy, bèn xin được thôi ở.
"Rũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm".
"Rũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm".
Ra khỏi triều đình, giũ bụi khỏi áo, rồi giơ tay áo lên mà đứng
trên mây bay về rừng thông như một ông tiên!
Tiên về núi thì
"Dầu phải dầu chăng mặc thế
Đắp tai biếng mảng sự vân vân".
Nghe chi "sự vân vân" nữa, phải quá.
Đắp tai biếng mảng sự vân vân".
Nghe chi "sự vân vân" nữa, phải quá.
Trong "con am" thanh vắng, kẻ ở ẩn khi ra sân xem
hoa nở, khi vào cạnh giường thăm nước trong nồi hương đang sôi riu riu. Ngắm đẹp
ngửi thơm, sao khỏi sinh thơ. Thơ sinh hễ đắc ý:
"Ngâm được câu thần, dửng dửng ca".
Ca rằng:
"Giậu thưa thưa, hai khóm cúc
Giường thấp thấp, một nồi hương
Vượn chim kết bạn non nước quạnh
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường"...
Giường thấp thấp, một nồi hương
Vượn chim kết bạn non nước quạnh
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường"...
Chỉ kết bạn với vượn với chim, chỉ gẩy đàn, đọc sách, xem
hoa, ngửi hương, nhưng ngày tháng trên non của Nguyễn Trãi dĩ nhiên rồi cũng
không được "trường".
Bao nhiêu năm sau ngày kẻ thích nằm thơm rời hẳn chốn "bụi
lầm" thì cái nồi hương mộc mạc đặt bên giường người Việt nó cũng chán đời
mà thôi "ở thế"?
Trở lại với chuyện tìm nồi ta trong sách ta. Hàng mấy trăm
năm sau Nguyễn Trãi, cái nồi hương nó có vào thơ Việt Nam lần nữa đấy.
Trong Kiều.
"... Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương". (3)
Lần này, hương là hương lòng, không phải hương sả, hương
chanh. Có lẽ đến cách nay khoảng 200 năm thì cái nồi cũ kỹ ấy đã "lìa giường"
lâu rồi. Nguyễn Du đưa nó vào thơ, như thể đun chút hương lòng cho nó!.
Chú thích:
(1) Xem Nguyễn Trãi toàn tập.
(2) Trần Phu, An Nam tức sự, Lê Mạnh Hùng trích dịch, tạp
chí Thế Kỷ 21, Mỹ, 7-2001.
(3) Câu 1930.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét