Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

Nửa thế kỷ Phạm Duy - Phần 4

Nửa thế kỷ Phạm Duy - Phần 4

Chương 15 - Tình yêu hạnh phúc khổ đau tìm cho ra mái tóc ngây thơ đó
Dòng nhạc này vừa mênh mông lại vừa sâu thẳm, e bơi không xuể, chỉ xin đi một quãng thôi: 1957-1969. Nhưng quãng này lại cũng phải chia ra nhiều chặng để vừa bơi vừa nhìn ngó cảnh vật đôi bờ và nghe nước mát mơn man da, thấm vào thịt, nếu không người bơi sẽ hụt hơi mất.
Tình yêu, chính thực là sự đau khổ. Giáo đầu (prélude) của nó là đau khổ. Khi chưa đạt đến cái hôn thì mong chờ, bứt rứt, thổn thức. Phải chăng đó là đau khổ. Khi được đôi môi trói buộc đời nhau rồi, đã chắc gì hạnh phúc? Đến đôi môi xé rách nụ cười, thì đó, cái vị thanh (postlude) lại cũng là đau khổ. Phần chính của bản nhạc tình, hạnh phúc rất ngắn ngủi. Nó luôn luôn dạo nhạc và kết thúc bằng niềm đau.
Đó là tình yêu thiên thu, tình yêu đi vào nghệ thuật. Từ Cléopatre đến Roméo Juliette, từ Kiều đến Tố Tâm, từ Cỏ Hồng đến Nghìn Trùng Xa Cách ta thấy nét chính của tình yêu là đau khổ, có lắm khi hạnh phúc hiện ra nhưng rất yểu, hạnh phúc vĩnh viễn chỉ tìm thấy trong cái chết. Nguyễn Du đã viết: Tu là cội phúc, tình là dây oan. Ta thử xem cái sợi ''dây oan'' nghiệt này được Phạm Duy mô tả ra sao.
Nhạc tình của Phạm Duy được thấy nở rộ như vườn hoa muôn màu là những bản viết từ 1957 đến 1969. Để hiểu sự thai nghén những nhạc phẩm ấy, tưởng không gì nói rõ hơn lời được ghi lại trong cuốn Ngàn Lời Ca:
''... Trong một cuộc phỏng vấn của người phụ trách chương trình phát thanh VĂN HỌC NGHỆ THUẬT của Đài Sài Gòn là Nguyễn Đình Toàn, tôi có nói là - vào lúc đó - đối với tôi chỉ có ba điều quan trọng: TÌNH YÊU, SỰ ĐAU KHỔCÁI CHẾT. Tôi đã thể hiện ra cả ba vấn đề đó trong những ca khúc, như bài Nước Mắt Rơi chẳng hạn. Giọt nước mắt là ngọt bùi của đôi lứa, là mặn đắng của khổ đau, là tình trinh nữ, là hồn thơ, là đời hoa sớm nở tối tàn, là suối lệ nhỏ nhoi hay biển nước mắt của chúng ta. Có cả nước mắt không mùi và cả nước mắt khô trong một ca khúc ngắn ngủi...''
Ở những bản nhạc tình đầu tay viết năm 1945-46, Phạm Duy đã xuất hiện với bóng dáng của một nhạc sĩ trẻ đầy suy tư qua những bài Chinh Phụ Ca, Nợ Xương Máu, Thu Chiến Trường, Tiếng Đàn Tôi... để sau đó, sự suy tư về mọi khía cạnh của cuộc tình, cuộc sống được biểu hiện nhiều và mang nhiều ý tưởng triết học. Phạm Duy đã dần dà trở thành một người vừa yêu vừa ngẫm nghĩ về tình yêu để thể hiện tình yêu với những khuôn mặt mới chứ không chỉ biểu hiện nó bằng những nét mòn. Ở giai đoạn này Phạm Duy đã làm nhiều người say sưa và ngẫm nghĩ theo nếp nghĩ của anh. Ví dụ bài Tìm Nhau:
Tìm nhau trong hoa nở
Tìm nhau trong cơn gió
Tìm nhau trong đêm khô hay mưa lũ
Tìm nhau khi nắng đổ
Tìm nhau khi trăng tỏ
Tìm nhau như chim mộng tìm người mơ.
Tìm trong câu thơ cổ
Tìm qua tranh Tố Nữ
Tìm trên môi đương ca câu thương nhớ
Tìm sâu trong muôn thuở
Tìm sau lưng bốn mùa
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thu.
Gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời, người ơi!
Gặp nhau, hãy nép hơi im trong hương mới
Gặp nhau trong Nhân Tình đầy Bác Ái, ơi người!
Gặp nhau trong kinh cầu một hồi chuông.
Tìm nhau trong bom lửa
Tìm nhau trong mưa bão
Tìm nhau trên kinh đô xây trong xương máu
Tìm nhau trong thống khổ
Tìm nghe câu than thở
Tìm nhau như góa phụ tìm mộ bia.
Tìm đâu môi em đỏ?
Tìm đâu mây trong mắt?
Tìm cho ra mái tóc ngây thơ đó.
Tìm xem trong kinh sử
Tìm tương lai sáng tỏ
Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu...
Đây là một bản nhạc lấy cảm hứng từ hơi thở của cuộc đời, trong gió mưa của thiên nhiên, trong lửa đạn của chiến tranh. Nhưng qua sự ngẫm nghĩ của nhà nghệ sĩ thì hơi thở, gió mưa, lửa đạn đó không phải là gió mưa, hơi thở bom lửa mà ta thấy, ta sống. Đó là sản phẩm của tưởng tượng, những nét cụ thể nhưng cũng rất trừu tượng. Những nơi ''tìm nhau'' ở đây đều là những nơi mà con người thật không bước chân tới được. Đó là vẻ đẹp của tranh, của mộng, của câu thơ, của môi đương ca câu thương nhớ, của muôn thuở, của sau lưng bốn mùa (chứ không phải bốn mùa) v.v... Những nơi chốn không đến được bằng chân mà chỉ đến được bằng tiếng kinh cầu hay một hồi chuông.
Ta thấy sự tìm nhau rất sầu não, rất cháy bỏng. Nhưng tìm gì? Tìm mây trong mắt, tìm mái tóc ngây thơ (chỉ mái tóc đó thôi), tìm tương lai sáng tỏ... Rồi gặp nhau ở đâu? Gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời, trong vinh dự của đời người, trong cơ khổ của Thế giới, trong nhân tình đầy Bác Ái, trong kinh cầu một hồi chuông... Phạm Duy cứ mãi mãi là kẻ đi tìm cho nên ta vẫn còn thấy những câu hát tìm nhau:
Xưa ta hẹn với nhau
Tìm nhau giữa vô thường
(Đạo Ca số 2)
Lời như tơ như tóc tìm nhau
Giường thơm tho chăn gối tươi mầu
Mảnh gương to rơi vỡ ngày nào
Còn lại bao nhiêu vẫn soi rõ mặt nhau.
(Tâm Ca số 2)
Bây giờ tìm đâu cầu tre lắt lẻo
Qua khúc sông đào tới nẻo người yêu
Câu hát trong chiều, giọng hát tìm nhau.
Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc
(Tị Nạn Ca)
Trong Phạm Duy, sự đi tìm và gặp nhau, không cứ phải là của hai con người mà là của đôi tâm hồn. Nhưng người ta không thể chỉ yêu nhau bằng tâm hồn. Tâm hồn chỉ là một phần lớn hay nhỏ của tình yêu. Nhưng dù lớn hay nhỏ, tâm hồn vẫn không thể thiếu được trong bất cứ một tình yêu nào.
Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng, nhẹ nhàng
Dìu nhau đi chung một niềm thương.
Nhịp chân êm êm thánh thót
Đừng cho trăng tan dưới gót
Chớ để mộng vỡ mơ tàn, dịu dàng
Đừng cho không gian đụng thời gian.
Đưa nhau vào cõi vô biên
Có chim uyên tình thiêng
Hát ru êm triền miên.
Đưa nhau vào chốn không tên
Mặc đời quên
Không bến, không thuyền, hết câu nguyền.
Dìu nhau sang bên kia thế giới
Dìu nhau nương thân ven chín suối
Dắt dìu về tới xa vời, đời đời
Dìu nhau đưa nhau vào ngàn thu.
(Thương Tình Ca)
Đây là đôi tâm hồn dìu nhau đi trên đường vắng, không phải đôi tình nhân dắt nhau đi dưới hàng dương hay trên bờ sông Seine. Đôi tâm hồn ấy dìu nhau đi trên những nơi siêu phàm. Phố vắng ở đây không phải là phố phường mà là sự hoang vắng của lòng người, ánh sáng ở đây không phải là ánh mặt trời hay ánh đèn mà là sự cao đẹp. Đôi tâm hồn dắt nhau về giấc mơ vàng, đi trong niềm thương, đi vào cõi vô biên, vào chốn không tên, sang bên kia thế giới, đến ven chín suối để cuối cùng đến tận ngàn thu.
Bước đi của họ rất êm, rất thánh thót, mỗi bước đi như một dấu nhạc gieo. Vậy đâu là bước chân trần tục. Nhẹ đến đỗi không làm trăng tan dưới gót, đến đỗi thời gian không đụng không gian. Họ dìu nhau đi vào cõi vô biên, có tình thiêng của những đôi chim uyên, có lẽ tác giả muốn nói đó là nơi dành cho những người thanh cao, những mối tình đẹp đã hiển thánh.
Dìu nhau vào những chốn không tên, những bờ sông ngọn suối không thuyền, vào tận cả nơi từ xưa tới nay chưa thấy kinh sử nào nói đến là ''ven chín suối''. Nơi này vừa tìm ra được bởi nhà thần học Phạm Duy. Đó là một vùng đêm nhỏ nhoi như sợi tóc mai mà lại cũng rộng như trùng dương, nằm giữa sống và chết, giữa tiên và quỷ, giữa âm và dương, giữa phước và oan, giữa thanh và tục.
Đôi tâm hồn yêu nhau đã khám phá ra được vùng đất lý tưởng này. Ở đây họ có thể nghiêng tai liếc mắt về cõi Tiên để nghe nhạc Nghê Thường, coi những bầy tiên nữ ca múa. Hay có thể phóng mắt xuống địa ngục để nhìn những đám người rớt khỏi cầu Nại Hà bị quỷ ăn thịt sống kêu la thảm thương. Ở đây đôi tâm hồn sẽ được ''nghỉ ngơi'', tha hồ nhìn mây trong mắt em, nghe trong tiếng đàn của anh hoặc trần truồng yêu nhau giữa trời đất.
Tuy rằng ven chín suối ít ngựa xe, ít bụi bặm nhưng vẫn không vui thích bằng trần gian. Tiên nữ ở trên Thiên đường còn trốn xuống trần để được hưởng mùi tục lụy, ta đang ở trần gian sao lại bỏ đi? Thế là cặp tâm hồn kia trở lại trần gian, nơi có một mùa hạ, một đồi cỏ hồng. Nơi hằng đêm có em đang đi:
Đường em có đi
Hằng đêm gót hoa
Nở những đóa thơ, ôi dị kỳ
Đường êm có khi
Chờ em bước qua
Là nghiêng giấc mơ ước thề.
Ngàn sao sáng xa nhìn em thướt tha
Rụng rơi vướng mây tóc ngà
Đường thơm bóng gầy
Nhạc run lá bay
Hàng cây thiết tha đắm say.
Đường dìu ngang bao ngõ đắng cay
Dừng chân phút dây xong, chia lìa
Đường dài thêm bao nỗi éo le
Dài thêm nắng mưa, thêm ê chề!
Đường em cứ đi
Tình ta cứ xây
Chờ em thoát thai quay đường về
Đường quanh khúc co
Nhịp chân trói vo
Đường duyên ấm vui
Đường mơ!
(Đường Em Đi)
Khi đọc lời ca trên đây, ở ngay mấy hàng đầu, tôi đã cười thầm: Cái ông này lại muốn giành Dương Quý Phi của vua Đường Minh Hoàng và Tây Thi của Ngô Phù Sai đây. Dương Quý Phi đi mỗi bước gót chân nở một đóa hoa sen hồng cho nên có tiếng ''gót sen thoăn thoắt''. Còn Ngô Phù Sai thì muốn ngắm dáng đi của Tây Thi và còn muốn nghe cả bước chân của người ngọc, cho nên cho thợ tìm gỗ quý, đem về lót sàn trong cung điện, để mỗi lần Tây Thi bước đi thì nghe tiếng chân như nhạc, gọi là ''điệp hưởng lang''. Hãy đọc thêm vài câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc nói về những nét đẹp, để thấy trong Đường Em Đi, Phạm Duy tả cái đẹp nội tâm chứ không chỉ cái đẹp hình thể. Cũng như Tìm Nhau, Dìu Nhau, Đường Em Đi là một bài luận về tình yêu đầy suy tư. Chân em bước, đường thơm, lá run, đất nở hoa, nhưng gót chân ấy, đâu chỉ bước trên đường trơn, gỗ quý mà còn phải trải qua những con đường thật trên cõi trần gian. Chúng ta đã bơi một quãng suối tiên khá xa, bây giờ xin trở lại đường ở Sài Gòn thân yêu, với khung trời Đại Học:
Trả lại em yêu, khung trời Đại Học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt
Trả lại em yêu, khung trời mùa Hạ
Ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá
Vài giọt mưa sa hôn mềm trên má
Tóc em thơm nồng, dáng em hiền hòa.
Anh sẽ ra đi về miền cát trắng
Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông
Cơn gió Cao Nguyên, từng đêm lạnh lùng
Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó
Đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ
Đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ
Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về.
Trả lại em yêu con đường học trò
Những ngày Thủ Đô tưng bừng phố xá
Chủ nhật uyên ương, hẹn hò đây đó
Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt...
Trả lại em yêu mối tình vời vợi
Ngôi trường thân yêu, bạn bè cũ mới
Đường buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài
Trả lại em yêu! Trả lại em yêu!
Mây trời xanh ngát.
Đây là bài hát của người Sài Gòn hôm qua hôm qua. Nó là bài hát của người Sài Gòn hôm nay và mãi mãi còn là bài hát của người Sài Gòn, hơn nữa, là bài hát của người Việt Nam. Văn nghệ có giá trị lớn là văn nghệ không có biên cương, không có không gian giới hạn. Bài hát này làm môi gái Sài Gòn tươi thắm làm tim trai Sài Gòn đầy ứ và vỡ toang như... suối tiên. Bài hát này đã biến các cô hàng nước của Sài Gòn thành những tiên nữ với bàn tay ngà có phép vì trong ly nước chanh đường, có môi em ngọt.
Khi đã yêu nhau, người ta không chỉ uống môi em ngọt. Người ta còn cho nhau tất cả.
Cho nhau chẳng tiếc gì nhau
Cho nhau gửi đã từ lâu
Cho nhau cho lúc sơ sinh ngày đầu
Cho những hoa niên nhịp cầu
Đưa tuổi thơ đến về đâu?
Cho nhau nào có gì đâu!
Cho nhau dù có là bao
Cho nhau cho phút yêu đương lần đầu
Cho rất luôn luôn cuộc sầu
Cho tình cho cả niềm đau.
Cho nhau làn tóc làn tơ
Cho nhau cả mắt trời cho
Cho nhau tiếng khóc hay câu vui đùa
Cho chiếc nôi cho nấm mồ
Cho rồi xin lại tự do.
Cho nhau ngòi bút cùn trơ
Cho nhau đàn đứt đường tơ
Cho nhau cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Cho cả nhan sắc Nàng Thơ.
Cho nhau tình nghĩa đỏ đen
Cho nhau thù oán hờn ghen
Cho nhau, xin nhớ cho nhau bạc tiền
Cho cõi âm ty một miền
Cho rồi cho cả đời tiên.
(Cho Nhau)
Phạm Duy - như ta đã thấy - đi trên con đường nghệ thuật của mình đã luôn luôn tránh những vết xe mòn. Thực vậy nhưng bài nhạc trên đã bộc lộ tâm tư và mơ ước của người tình, nhưng không hề dùng tiếng yêu đến một lần. Thế nhưng tình yêu đã được anh diễn tả đến mức tận cùng và gương mặt tình yêu ở mỗi bài một khác.
 Đường Em Đi, đường êm thướt tha, từng bước nở hoa, nhịp chân trói go, cố vượt bao ngõ đắng cay để vui. Ờ Trả Lại Em Yêu thì tình yêu chia tay nhớ nhung từ cao nguyên gởi về khung trời đại học nơi uống ly chanh đường một cuộc tình là một bản tình ca khác cung khác nhịp. Nhạc tình của Phạm Duy có nhiều bài, không có bản nào điệp ý với bản nào. Mỗi bản nhạc tình của anh là một khám phá trái tim con người. Văn hào Elya Erhenbourg đã nói: Mỗi trái tim con người là một kho vàng của nhân loại. Mỗi bản nhạc tình của Phạm Duy là một kho vàng của mọi người.
Chương 16 - Tình đau khổ nước mắt rơi cho tình ra đời...
Từ chặng này trở đi thì niềm đau thấm thiết đã thực sự lên ngôi trong lâu đài tình ái:
Nước mắt rơi cho tình ra đời
Nước mắt theo duyên về xa vời
Mùa Xuân ngời trôi dòng lệ vui nhỏ bé xanh tươi
Nước mắt suôi cho người gặp người
Nước mắt len sau từng nụ cười
Lệ ngọt bùi say đời rủ nhau tìm lối ra khơi.
Nước mắt rơi trên tình trinh nữ
Nước mắt đem hương vào hồn thơ
Cuốn gió theo con thuyền vượt qua những thác mơ
Nước mắt tuôn suốt một đời hoa
Cánh lá rơi, mặn mà tình ngơ
Suối níu sông ra biển bao la, nước mắt ta.
Nước mắt rơi trên đường đã dài
Nước mắt đưa chân về cội đời 

Giọt lệ vàng không mùi ngược trôi về với đơn côi
Nước mắt êm đi vào tuổi trời
Nước mắt khô âm thầm không lời
Vài giọt sầu lững lờ dựa nhau về chết trên môi!
(Nước Mắt Rơi)
Tình nào là tình không nước mắt? Cho nên nước mắt rơi đánh dấu cuộc tình bắt đầu. Buồn đau cũng khóc. Sung sướng vẫn khóc như thường. Người ta thường cho nước mắt màu hồng, Hồng Lệ, Phạm Duy ngược lại thấy nó màu xanh, hoặc màu vàng, Hoàng Lệ, Thanh Lệ. Dù Hồng, Thanh hay Hoàng, nước mắt cũng đều đẹp, Tú Lệ. Tú Lệ cũng là Lệ Sầu hay Lệ Vui. Hành trình của một giọt lệ, như tác giả nói, rất ngắn, chỉ từ khóe mắt đến làn môi, nhưng sức chứa đựng của nó thì vô biên, tác động của nó thì phi thường.
Bạn hãy đọc lại lời ca trên đây, đọc từng câu một thì sẽ thấy hai nét kể trên. Tôi xin nhặt ra một vài nét: Nước mắt theo duyên, (cuốn) trôi mùa Xuân, xuôi cho gặp nhau, len sau từng nụ cười (vui thì vui vậy kẻo mà, ai tri âm đó mặn mà với ai), tìm lối ra khơi, rơi trên tình trinh nữ, đem hương vào hồn thơ v.v... để rồi ở cuối cuộc hành trình ngắn ngủi ấy, trở thành lặng câm, âm thầm không lời... vài giọt sầu dựa nhau về chết trên môi...
Giọt nước mắt này biết đâu chẳng là tiền kiếp của Giọt Mưa Trên Lá. Biết đâu chẳng phải là giọt nước mắt rơi cho giọt mưa ra đời? Vì chính giọt mưa cũng là nước mắt, nước mắt mẹ già, nước mắt vợ hiền sum họp và chia ly, nước mắt trẻ thơ oa oa khóc chào đời. Nước mắt và nước mưa len giữa u tình sầu, trôi ra biển bao la, tuôn suốt một đời hoa và cuốn gió theo con thuyền vượt qua những thác mơ cũng như đã từ lanh lùng trôi theo dòng nước mắt, đưa thuyền về đến bến Mê. Mênh mông lả ơi, đường về xa tắp mênh mông. Chia tay nhau nhé...
... Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời người lên xe về miền quá khứ
Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu
Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt mầu
Sẽ có chẳng nhiều đớn đau
Nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu
Có lũ kỷ niệm trước sau
Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ
Rồi sẽ tan đi mịt mù
Vạt tóc nâu khô còn chút thơm tho
Thả gió bay đi mịt mù
Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà giữ cho người.
Trả hết về người chuyện cũ đẹp ngời
Chuyện đôi ta buồn ít hơn vui
Lời nói, lời cười
Chuyện ngắn chuyện dài
Trả hết cho người, cho người đi
Trả hết cho ai ngày tháng êm trôi
Đường em đi trời đất yên vui
Rừng vắng ban mai, đường phố trăng soi
Trả hết cho người, cho người đi
Trả hết cho ai cả những chua cay
Ngày chia tay, lặng lẽ mưa rơi
Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người
Trả nốt đôi môi gượng cười
Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người:
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người...
Em cứ yên tâm, hãy lên xe hoa, đừng bận bịu. Đêm tân hôn hãy khóc với tân lang. Em chửa yêu ai, mới có mình (Nguyễn Bính). Dĩ vãng của chúng ta, dù ở trước mặt hay sau lưng đều cũng thế thôi. Nó sẽ nhạt màu. Em sẽ quên mau. Còn gì nữa đâu? Khóc dở mà cười cũng dở. Con đường hôm trước, mỗi bước em đi nở hoa dị kỳ nay hoa chẳng còn nở vì em đã rẽ ngang. Đường em đi tuy trời đất có vẻ yên vui trước mặt nhưng sau lưng có ''lũ quỉ kỷ niệm'' nối theo tiễn chân em không dứt. Trong cuộc tình tan vỡ này, bạn thấy không có nước mắt rơi, nhưng không phải là không có nước mắt. Nước mắt của người lên xe hoa và người đứng tiễn chân chảy ngược vào tim, nước mắt cay đắng, nước mắt hận tình. Nói gượng là không có nhiều đớn đau lắm đâu, thì chính là đau thấm tâm can. Nói là sẽ tan đi mịt mù nhưng không bao giờ tan. Nói là còn gì nữa đâu, nhưng chính là còn, còn tất cả! Nói là trả hết cho người nhưng chính là giữ lại hết những gì của người đi. Nói là buồn ít hơn vui nhưng chính thật vui ít hơn buồn, vì có buồn nào hơn cái buồn tình yêu tan vỡ. Trả nốt đôi môi gượng cười nhưng nụ cười tươi thuở nào thì còn đọng lại. Nói là cầu chúc cho người đường dài hạnh phúc, nhưng thực ra lời cầu chúc ấy chỉ gượng gạo lấy có, phủ lên niềm đau tâm can. Riêng người đi thì người chỉ đi phần xác, còn hồn thì ở lại. Chiếc xe hoa chở nàng đi tưởng trời đất yên vui, nhưng không, mưa đang rơi lặng lẽ, những giọt mưa hôn mềm trên má hay nước mắt ai rưng rưng. Chiếc xe cưới, tuy nó sang trọng thơm tho nhưng nàng lại không thấy lòng phơi phới như ngồi xe lam nghèo hèn lắc rung rinh đường quê thuở nào. Tuy xe chuyển đi tới mà nàng ngỡ bánh xe lăn ngược về quá khứ với lũ kỷ niệm đang mọc lên ba đầu sáu tay, hò hét và dằng co kéo níu nàng lui về, với vạt tóc nâu khô bay phất về dĩ vãng, làm cho những cánh xương hoa nằm ép trong thơ, những lá thơ viết hoài không xong, đọc hoài không hết, nay cũng trở mình. Chính là hồn nàng đó.
Để tạm kết thúc chương này, tôi xin nêu ra một điểm đặc biệt trong lời ca của Phạm Duy, điểm ''nhân cách hóa'' sự vật. Thường thường người ta chỉ nhân cách hóa những vật cụ thể. Phạm Duy lại làm ngược tức là nhân cách hóa những vật trừu tượng như lũ kỷ niệm, tình chít khăn tang, dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai... Thường thường, một nét nhân cách hóa gây ấn tượng mạnh gấp ngàn lần đặc tả.
Chương 17 - Tình yêu đau khổ tuyệt vời đôi môi, đôi môi đã quyết trói đời người
Nếu ví nhạc tình Phạm Duy là một dòng sông lớn có nhiều nhánh con thì nhánh nào cũng tươi mát. Còn nếu ví nhạc tình của Phạm Duy là một bầy thiếu nữ thì cô nào cũng có một khuôn mặt đẹp, mười phân vẹn mười, nhưng mỗi khuôn mặt đều có những nét khác nhau: hồn nhiên, ưu tư, lãng mạn, mãnh liệt, trí tuệ xác thịt v.v... Đây là một khuôn mặt đẹp khác trong nhạc tình Phạm Duy:
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi
Ngày đôi ta ca vui tiếng hát với đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những cánh tay đan vòng tình ái
Ngày đó có ta mơ được trọn đời
Tình vươn vai lên khơi tới chín trời mây khói.
Ngày đó có say duyên vượt biển ngoài
Trùng dương ơi, giữ kín cho lâu dài tình đôi
Ở đây Phạm Duy vẫn còn tiết kiệm chữ, dè sẻn không dùng tiếng ''yêu''. Phạm Duy nói bằng những tình cảm, chứ không dùng tiếng yêu. Cách diễn đạt tình yêu ở đây, không giống cách dùng ở các bài đã kể. Nếu Tìm Nhau, Cho Nhau, Thương Tình Ca, Đường Em Đi là sợi dây oan có quá nhiều gút mắc, thì Ngày Đó Chúng Mình là một sợi tơ trơn tru mềm mại, thắt lại mỗi lúc mỗi chặt. Ta chú ý cách đặt câu dài, câu nào dứt ý câu ấy, và mỗi một câu như một bước em đi, mỗi lúc mỗi sâu vào đời anh, cho đến khi đôi môi tìm gặp đôi môi. Nét yêu được Phạm Duy chạm trổ rất kỳ công ở:
Đôi môi đã quyết trói đời người
Những cánh tay đan vòng tình ái...
Ai mà không từng hôn đắm đuối cuồng nhiệt một lần? Ai mà không từng ôm tròn thân mưa móc một lần? Nhưng mấy ai mô tả nổi về cả thể xác lẫn tâm hồn, nói một cách đắm đuối cuồng nhiệt bằng Phạm Duy. Anh chỉ dùng có hai chữ ''trói'' và ''đan''. Trói đời người vào nhau, tình đan lẫn vào nhau, nét yêu được diễn tả mãnh liệt cả xác lẫn hồn. Các hình tượng dùng ở đây (trói và đan) rất tinh vi đã đành lại còn rất khoa học. Lạt mềm trói (buộc) chặt. Chữ trói mạnh hơn chữ buộc. Trói và đan là hai chữ bình dân, nhưng vào tay Phạm Duy nó trở thành thần ngữ. Đến đây, ta mới thấy thêm được một điều: Nghệ thuật cao không phải là nghệ thuật trúc trắc khó hiểu mà chính là cách dùng chữ, đúng chỗ để diễn đạt tối đa cái mình muốn diễn đạt.
Môi mềm, như dây buộc chặt. Động tác hôn say đắm ''đôi môi đôi môi'' còn cho ta thấy nuộc dây đã quấn vào rồi và thắt lại. Về cái hôn, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan có nhận định rằng trong văn xuôi chỉ có nhà văn Vũ Trọng Phụng là người mô tả cái hôn tài tình nhất cả thể chất lẫn tâm hồn mà chưa một văn sĩ Việt Nam nào tả đến thế:
"... Tân từ từ ôm chặt lấy em, hôn vào miệng em, không phải là cái hôn tầm thường nhưng mà một cái hôn đặc biệt, nhờ nó, em và chàng thấy cái ẩm ướt ở miệng nhau thì sung sướng, tựa hồ uống được linh hồn của nhau, một cái hôn đắc thắng của ái tình trước bổn phận mà tiếng trống ngực thình thình điểm khúc khải hoàn ca - một cái hôn nó giống của màn ảnh, do đó em tưởng chừng như đã phó thác cả thân thể em cho người ta vậy. Tờ giấy cam kết như vậy là đã có chữ ký của hai bên rồi. Một cái hôn như thế đã tổng công kích lần cuôi cùng để làm hại nốt một đời đàn bà chỉ còn một số tàn quân đạo đức trong lương tâm...
Nếu ông Vũ Ngọc Phan dám đi ra khỏi cái Viện Mạ Kền Văn Học của Hoài Thanh để nghe hát những câu tả cái hôn trong bài này của Phạm Duy thì không biết ông có còn giữ ý kiến đó nữa không?
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ngày đôi môi thương môi đã xé nát nụ cười...
Chữ ''trói'' thật là tuyệt vời. Chữ ''xé nát'' càng tuyệt vời.
Ngày đó em ra khỏi đời rồi
Và mang theo trăng sao chết cuối trời u tối
Ngày đó có anh mê mải tìm lời
Tìm trong đêm rách rưới cơn mơ nào lẻ loi?
Ngày đôi ta chôn vơi tiếng hát đã lạc loài
Chôn kín tiếng thơ rơi, ngậm ngùi rơi
Ngày đôi môi thương môi đã xé nát nụ cười
Ôi những cánh tay ngỡ ngàng tả tơi
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tìm trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên, gọi hồn người
Trùng dương ơi! Có xót xa cũng hoài mà thôi
Sau đây là một gương mặt khác của tình yêu:
Đừng xa nhau! Đừng quên nhau!
Đừng rẽ khúc tình nghèo
Đừng chia nhau nỗi vui, niềm đau
Đừng buông mau! Đừng dứt áo!
Đừng thoát giấc mộng đầu
Dù cho đêm có không bền lâu.
Đời phai mau, người ghen nhau
Lòng vẫn vẫn cứ ngọt ngào,
Miệng ru nhau những ân tình sâu
Đừng xôn xao, đừng khóc dấu
Đừng oán trách phận bèo
Vì sông xa vẫn trung thành theo
Dù mai sau dắt nhau mà qua cầu
Mồ chôn sâu ánh trăng vàng mái lầu
Đừng xa nhau nhé!
Đừng quên nhau nhé!
Đừng chia nhau núi cao vực sâu.
Đừng xa nhau! Đừng quên nhau
Đừng dứt tiếng ngậm sầu
Đừng im hơi đắng cay rời nhau
Đừng đi mau, để mãi mãi
Là chiếc bóng đậm mầu
Còn theo nhau tới muôn đời sau.
Dù bảo đừng xa nhau, nhưng đã xa nhau rồi. Dù bảo đừng buông mau nhưng đã buông rồi, ngỡ ngàng nào còn níu được nhau. Tình chúng ta chỉ có chừng đó thôi. Nếu chuyện tìm nhau, gặp nhau, yêu nhau, cho nhau là chuyện tự nhiên, thì chuyện xa nhau cũng là chuyện tất nhiên, vì:
Đời luôn là cơn gió
Thay áo cho tình ta
(và)
Làm rơi rụng cánh hoa.
Chương 18 - Nhạc tình đượm màu sắc tôn giáo tình âm dương chan chứa xoay trong vòng tử sinh
Trong chương này tôi sẽ nói tới màu sắc tôn giáo trong Nhạc Tình của Phạm Duy. Không chỉ riêng trong nhạc tình mà trong nhạc nói chung của Phạm Duy, ta nhận thấy rải rác cái màu sắc ấy. Bạn thấy ở ngay những bài đầu tay của chàng nhạc sĩ trẻ, trong Nợ Xương Máu có hình tượng xác chết cụt đầu về trời, trong Tiếng Đàn Tôi có bến Mê, trong Đường Chiều Lá Rụng có đầu thai, v.v... Càng về sau ta càng nhận thấy nhiều về tôn giáo, như ở các bài Hẹn Hò, Tìm Nhau, Thương Tình Ca, Giết Người Trong Mộng, Giọt Mưa Trên Lá, Nguyên Vẹn Hình Hài v.v... Sau đây là một vài đoạn trong bài nhạc tình Chỉ Chừng Đó Thôi:
Khi xưa em gầy gò
Đi ngang qua nhà thờ
Trông như con mèo khờ
Ta yêu em mù lòa
Như Adam khù khờ
Yêu Eva khù khờ
Cuộc tình trinh tiết đó
Nhưng thiên tai còn chờ
Đôi uyên ương dật dờ
Chia nhau xong tội đồ
Đày đọa lâu mới tha
Hoặc trong Một Bàn Tay:
Một đêm kêu lên hơi thở tuyệt vời!
Bàn tay êm ái, ôi bàn tay khoan khoái
Nhạc ru tiếng khóc trần ai
Bàn tay đưa anh đi gặp cuộc đời
Một Xuân bao dung ai cũng là người
Bàn tay vun xới, ôi bàn tay đưa lối
Dọc đời thơ hát đầy vơi.
Bàn tay nào có phép thần vậy? Bàn tay ma dắt lối quỷ đưa đường (Lại tìm những lối đoạn trường mà đi) hay bàn tay thánh thần đưa anh đi gặp cuộc đời, không phải tay phàm.
Trong cơn mưa hè
Tay nào khô héo bắt anh về?
Bàn tay che mắt, ôi còn ngăn câu hát
Bàn tay ám khí u mê
Nhưng tay em về, thơm mùi gỗ quý gỡ anh ra.
Bàn tay nắng lóa, ôi bàn tay khơi gió
Tình trong năm ngón nõn nà.
Bàn tay ám khí u mê là tay quỷ. Bàn tay thơm mùi gỗ quý là tay nàng tiên Giáng Hương. Nhưng khi nàng phá then vàng xuống trần gian nếm mùi tục lụy thì tay nàng năm ngón nõn nà vuốt ve anh, gãi lưng anh, bắt chấy cho anh là bàn tay bằng xương bằng thịt của trần tục:
Bàn tay ôm anh trong cuộc tình đầy
Một Thu sang, tim anh nở tròn ngày
Bàn tay ấm áp, ôi bàn tay bão táp
Bàn tay son vẽ đời đôi
Một mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa Đông khăn tang, mây bỏ đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi...
Đây là bàn tay hư hư thực thực. Ta có thể cầm lấy hôn được nhưng có khi ta lại ngỡ đó chỉ là nắng lóa, là nhạc ru. Bàn tay đã đưa anh ra khỏi lòng người cũng là bàn tay đưa anh thăm thẳm lìa đời và khép làn mi cho anh. Không thấy Chúa và Phật ở đây nhưng ta lại sống trong không khí huyền ảo thường trực của bàn tay Phạm Duy tạo nên. Màu sắc tôn giáo trội hẳn lên ở những bài nhạc tình trong vườn rong ca của anh vừa viết xong. Phạm Duy nói về Hóa Sinh, Cõi Hư Vô, Âm Dương trong năm bài liên tiếp: Người Tình Già Trên Đầu Non, Nắng Chiều Rực Rỡ, Vô Hư, Trăng Già, Rong Khúc...
Tại sao? Chẳng còn ai có thể cứu nổi ta ngoài Trời Phật, trong lúc đồng loại ta coi ta là kẻ thù, giết hại ta chưa đủ còn rước ngoại bang vào tàn sát ta, đày đọa ta chưa thỏa, còn đưa ta cho ngoại bang đày đọa. Chẳng còn ai cứu ta nổi ngoài Trời Phật trong lúc đồng minh phản bội ta mà coi đó như một việc hợp với lẽ Trời, nên họ dửng dưng như không hề biết, không nghĩ tới việc chuộc các tội tày trời ấy.
Những người cao niên xa xứ sống cũng buồn mà chết nơi xứ người lại còn buồn hơn, cho nên muốn sống lâu hoặc muốn tái sinh sống lại cuộc đời trước, cuộc tình trước, như Người Tình Già Trên Đầu Non. Đọc xong lời ca, tôi nghĩ đây là một truyện thần thoại. Truyện kể rằng ngày xửa ngày xưa có một chàng nhạc sĩ trẻ được Tiên ban cho một cây đàn thần, và bảo chàng rằng muốn ước gì được nấy: giàu sang phú quý, v.v... nhưng chàng không ham. Chàng chỉ cầm đàn đi thẳng vào những nẻo đường trần để đàn cho người nghe. Chàng được mọi người yêu mến, được các cô gái ở trần gian lẫn những tiên cô Giáng Hương, Giáng Phượng, Giáng Thu và cả chị Hằng dâng tặng trái tim. Chàng dùng tiếng đàn như lời an ủi những mảnh đời đau buồn, u ám, bất hạnh. Khi đã về già, thành tiên lão, lên non cao để mai danh ẩn tích, nhưng bỗng một chiều, lão đứng trên đầu non, mái tóc bạc phơ ẩn hiện. Giữa đám mây xanh xao chập chờn, lão...
... Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn
Muốn lãng quên trăm năm một đời
Nhưng thế gian mênh mông vời vợi
Người chợt nghe tiếng em chờ đợi
(Gọi)
Người tình già trong lẻ loi
Có nhớ thương... ai.
Trái tim giá lạnh bỗng hồi sinh, người tình già bèn rời đỉnh non:
Lững thững đi trên con đường chiều
Xuống lũng sâu, leo qua ngọn đèo.
Về một miền phơn phớt cỏ nâu
Người tình còn nhớ tuổi son
Cúi xuống hôn bông hoa thật gần
Nghe suối vẫn reo trong hang rì rầm
Người tưởng nghe tiếng em thì thầm
Đợi người tình đã từ lâu
Vẫn khát khao nhau...
Tưởng đã chẳng còn nợ gì nhau nào dè đâu sợi tóc mai vẫn còn vướng vào tim. Người tình già nghe lời người yêu cũ, bỗng chốc hóa:
Thành người tình trẻ ngây
Sẽ đứng lên mê say từng ngày
(Như)
Người từng là nắng mùa Xuân
Đã dắt em đi trên đường trần
Đã vuốt ve em trong Hạ mềm
Người tình già như:
Cành khô bỗng hoa nở tràn
(Và)
Hẹn sẽ leo thế kỷ chơi.
Cuộc đời ngắn ngủi chỉ có hơn ba vạn ngày không chứa nổi mối tình của người già và nàng, cho nên:
Hẹn rằng sẽ về thăm
Lúc đã trăm năm
Sẽ từ khơi, xuống núi vui chơi
Rồi lại từng thế kỷ sau
Cứ hóa sinh theo.
Tư duy của Phạm Duy chống chọi hẳn với thuyết vô thần cho rằng cuộc đời sau cái chết là hết, và chẳng có Trời Phật và ơn trên thiêng liêng. Phạm Duy chẳng phải là tín đồ Phật Giáo hay Công Giáo nhưng sự suy nghĩ của anh đi vào nếp tôn giáo. Tôn giáo coi rất trọng cuộc sống tinh thần, trọng hơn cả cuộc đời hiện tại và cho rằng có cuộc sống sau cái chết.
Người tình già thật đáng yêu. Người đâu phải là một ông Tiên ông Thánh nào. Người là chúng ta, mỗi chúng ta. Đúng ra đó là nỗi ước mơ tái sinh của con người, để sống tiếp cuộc sống trên thế gian. Thuyết nhà Phật là sống gửi thác về. Sống chỉ là cõi tạm, chết mới là thực sự... ''về quê''.
Phạm Duy nhìn đời bằng cặp kính vừa cận vừa viễn:
- Cận là: Cúi xống hôn bông hoa thật gần
- Viễn là: Về một miền phơn phớt cỏ nâu
Nửa thực nửa siêu thực:
- Thực là: Đầu cành khô bỗng hoa nở tràn
- Siêu thực là: Leo thế kỷ chơi...
Cặp kính đỏ là đôi mắt của Phạm Duy. Đôi mắt nhìn nắng chiều rực rỡ hơn nắng bình minh và nắng trưa. Đây lại cũng là một cách tư duy đặc biệt, thường thấy ở Phạm Duy
Nắng chiều hồng tươi hơn nắng trưa
Em có thấy không, nắng chiều rực rỡ
Nắng chiều đối với con người là tuổi già, là ngưỡng cửa của đêm, cũng như tuổi già là làn vạch khu phi quân sự giữa cuộc sống và cái chết:
Từng vạt nắng chói chan
Từng vạt nắng ấm êm
Nắng còn nắng bao la
... Thì mình xin cứ coi
Là nghìn tia nắng rọi
Em có thấy không, nắng đẹp còn đó...
Nắng còn đó vì anh đã ngăn đêm về bằng bàn tay năm ngón nõn nà thơm mùi gỗ quý của em.
Trong chiều đời yêu nhau rất lâu
Đêm đã vì ước nguyện của chúng ta mà chưa đến vội. Hãy yêu nhau nữa. Ta còn yêu, ta cứ yêu. Đây là Thiên Đàng hay ven chín suối thì ta cứ yêu nhau. Ở buổi chiều đời, tình yêu đẹp hơn cả lúc đang trưa hay bình minh. Anh chỉ còn bên em giây phút thôi.
Nếu phải lìa xa thế gian này
(dù chỉ) Còn một ngày (ta hãy) vui muôn nỗi vui
Chớ lịm người, nghe anh sắp qua đời
Chớ lịm người, nghe anh sắp qua đời
(dù chỉ) Còn giây phút thôi
(Anh vẫn) Muôn nỗi vui...
Cái khoảnh khắc âm dương giao hòa mong manh như làn tơ ấy, anh sẽ dùng bàn tay em kéo dài thành vô tận để:
Nghìn Thu, anh là suối trên ngàn
Thành sông anh đi xuống
Anh tuôn tràn biển mơ
Nghìn Thu, em là sóng xô bờ
Vào sông em đi mãi
Không bao giờ biển vơi...
Trong khoảnh khắc âm dương sắp giao hòa ấy:
Em là cõi trống
Cho tình đong vào
Anh là nơi vắng
Cho tình căng đầy
Em là cơn gió
Anh là mây dài.
Trong khoảnh khắc nghìn thu ấy:
Em lặng lẽ ươm mầm
Cành mai, không ai biết
Em âm thầm nở hoa.
Trong khoảnh khắc nghìn thu ấy:
Tình ta biến hóa
Trong từng sát na
Tình luôn lai vãng
Đi, về cõi chung
Tình hư vô đó
Nên gần với xa
Tình ra ánh sáng
Tình về tối đen
Nghìn Thu anh là đã em rồi
Và em trong muôn kiếp
Em đã ngồi ở anh
Nghìn Thu ta bù đắp không ngừng
Phạm Duy trong ba bài kể trên là một Phạm Duy khác với Phạm Duy trong giai đoạn nhạc tình 57-67 một Phạm Duy tái sinh. Ở đây Phạm Duy vẫn suy nghĩ về Tình Yêu nhưng bằng triết lý hay tôn giáo hoàn toàn, một thứ tình yêu chỉ có trong mơ ước trong hư vô, một thứ tình yêu đi vào cõi Thiên Thu, một thứ tình yêu biến hóa trong từng sát na, một thứ tình ra ánh sáng mà về thì tối đen, một thứ tình âm dương chan chứa và xoay trong vòng tử sinh, một thứ tình mà anh là nơi vắng còn em là cõi trống, một thứ tình già mà còn muốn trẻ lại, một thứ tình chiều mà lại đẹp hơn cả bình minh, một thứ tình không có ở thế gian này, chỉ có thể ở tư duy, trong kinh và trong HƯ VÔ.
Nhưng ở Người Tình Già, Nắng chiều, Hư Vô, bạn thấy chân những người tình còn dính một ít đất bụi của trần gian (đi trên con đường chiều, xuống lũng qua đèo) còn thấy giới hạn của thời gian (đời người trong tầm tay, ba vạn ngày), bạn còn thấy cảnh thiên nhiên (tre trúc lung lay, nắng trước hiên) bạn còn được nhìn cơn gió, mây dài, hoa nở, trăng sáng hay mờ, nghĩa là trần gian và vô hư còn ở bên nhau chưa bên nào thôn tính được bên nào, có lấn ranh nhau thì cũng chỉ qua lại, nhưng bên nào vẫn là bên ấy... rồi trở về cho hết cái đong đưa giữa âm và dương. Nhưng ở Rong Khúc, bài cuối cùng trong Mười Bản Rong Ca, ban thấy Người Tình Già chân đã phủi sạch bụi trần, người đã rong chơi những đâu đâu, người đến từ muôn vàn thế giới, không phải thế giới này, người tình già đã sống trên cuộc đời, ngoài cuộc đời, ngoài vòng sinh tử, ở ngoại càn khôn, vẫy tay:
Ta chào trái đất xinh xinh giữa trời...
Tất cả những gì có vẻ như là mọc lên từ mặt đất, có trên mặt đất trong khúc ca rong này - như tuyết, sa mạc, đường, rừng, lửa, mai, nẻo v.v... đều chỉ là trong thần thoại, vì Người Tình Già đến đây đã hóa sinh, không còn bằng xương thịt nữa.
Bạn thấy sau đây, người tình già không còn từ đỉnh núi leo qua đèo để đến với người yêu đang đợi nữa, chỉ biết là người đi nhưng không phải đi bằng chân vì người đi từ nắng trời vui, đi từ muôn ngàn thế giới, đi gặp bình minh, kia mà! Và còn đi thăm những thái dương nữa.
Người Tình Già đã không đi lại đường em đi, có nở những đoá hoa dị kỳ, không đi lên chín tầng mây khói nữa.
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có ta nơi này...
Nơi này là nơi nào? Chẳng ai biết được ngoài người tình già. Đó là đỉnh tình yêu hay cõi sinh mệnh buồn? Là ngàn mai hay ngàn xưa? Là nẻo hồng hay nẻo xanh?
Trong Vô Hư, bạn thấy có hai danh từ lạ: ''đong đưa'' và ''sát na''. Tôi đã đọc hết lời ca của Phạm Duy để hiểu xem cái đong đưa là cái gì thì thấy được hai ''cái'' đong đưa:
Chỉ một chiều lê thê
Ngồi co mình trên ghế
Nghe mất đi tuổi thơ
Chỉ một chiều bơ vơ
Chỉ là chuyện đong đưa
Đời luôn là cơn gió
Thay áo cho tình ta
Cái đong đưa này có thể hiểu được là chuyện tình chỉ là chuyện gió thoảng không có gì chắc chắn nay đổi mai thay như thay áo mơi, áo rách, áo đẹp, áo xấu cho ta. Tất cả như đều có thật, nhưng lại rất mơ hồ. Mơ hồ như lửa hoàng hôn đưa đón chân anh, như miền an tĩnh anh dẫn em vươn tơi, như buổi bình minh anh đã theo em đi gặp...
Cuộc rong chơi của Người Tình Già, tạm dừng ở khóm tre trúc này, cho người giã từ trái đất vì
Người đã nghe vang tiếng gọi càn khôn
Người sẽ quên như có người nơi đó
Người vứt sau lưng những nẻo đường trần
Người vút bay theo những nẻo đường tiên.
Nhưng - một chữ NHƯNG lớn
Nếu mai sau ai gọi người tình (già)
(Anh) sẽ quay lưng bước về nẻo xanh...
Nếu từ:
Thế gian mông mênh vời vợi
Vang lên tiếng em gọi, thì
Anh sẽ quay lưng (bỏ đường tiên)
Bước về nẻo xanh (để cho)
Tình âm dương chan chứa
Xoay trong vùng tử sinh
(ở) nhịp trần gian
Quay cuồng.
Tình âm dương chan chứa
Xoay trong vùng tử sinh
(ở) nhịp trần gian
Quay cuồng.
Quay cuồng.
Một cái ''đong đưa'' khác tìm được thấy trong bài Bên Bờ Sông Seine:
Nước chảy đôi dòng nhưng lòng ta vui
Ta hát say sưa tiếng hát đong đưa
Tiếng ''đong đưa'' đây cũng dễ hiểu. Có thể là khi hát, tác giả nhìn thấy buồm trên sông lắc lư nhè nhẹ mà ngỡ tiếng hát mình cũng bay ra theo nhịp đó, hoặc tiếng hát vờn trong gió, hoặc khi hát tác giả nhớ quê hương mà tưởng tượng ngày còn bé nằm trên võng mẹ ru v.v...
Lại thấy một sự ''đong đưa'' khác ở trong giấc mộng giết người:
Giết người trong mộng đã đi về
Giết người đi, giết người đi!
Giết người như loài bướm đong đưa.
Ở đây, đong đưa có thể được hiểu dễ dàng nhất vì nó đi với bướm. Nhưng trong Vô Hư thì cái đong đưa là cái gì?
Em là cơn gió
Đi về bên nớ
Đi về bên này
Rồi trở về cho hết cái đong đưa
Bên nớ là bên nào, bên này là bên nào, mà đi đi về về? Và sau khi đi, trở về là hết cái... đong đưa? Làm sao cắt nghĩa? Cũng như làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Thôi thì xin cứ hiểu cái đong đưa là cái đong đưa. Cái gì đong đưa là cái đong đưa! Nhưng khi nó hết đong đưa, nó vẫn là cái đong đưa.
Còn một danh từ nữa, SÁT NA. Tôi có viết thư hỏi anh? Anh bảo đó là tiếng trong Kinh Phật. Có nghĩa là một thời gian ngắn bằng một phần tỷ tỷ của một giây. Anh đã đưa Kinh Phật vào Tình Yêu hoặc đem tình yêu nhuộm hương khói Niết Bàn. Không biết anh có phạm tội hay không?
Chương 19 - Trả nợ máu xương đem vinh quang tô thắm nước nhà
Là con người, ai cũng yêu nước. Mỗi người yêu một cách, vì hoàn cảnh, vì trình độ, vì những điều kiện riêng sinh sống xã hội. Người thì cầm súng chống xâm lăng, bảo vệ đất nước, người thì làm thơ ca ngợi anh hùng, gây lòng căm thù đối với quân cướp nước, kẻ thì cày cấy nuôi quân v.v... Ở Phạm Duy, anh đã thực hiện được cả hai việc: vừa cầm súng vừa cầm đàn, anh đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân. Một trong những bài nhạc hùng đầu tiên của anh là:
Ta là gươm tráng sĩ thời xưa
Bên mình chàng hiên ngang một thuở
Xưa nhớ tới người trai chí lớn
Xếp bút nghiên từ chốn thư phòng
Bàn tay xinh ai nhuốm máu hồng
Và nhuốm mầu non sông
Gươm tung lên như gió như mưa
Như muôn nghìn đấng linh hồn xưa
Như bao năm lòng dân đợi chờ
Chuyển sức chàng trai tráng gươm đưa
Ôi nhớ tới hồi thanh kiếm múa
Sức oai linh trừ hết quân thù
Đầu rơi trong muôn tiếng réo hò
Ghi dấu cùng ngàn thu
Đến nay gươm thần chưa hết bén
Ta mong chờ ai người nâng kiếm lên?
(Gươm Tráng Sĩ 1944)
Đó là một hình tượng về lòng ái quốc thời trước 1945 mà có lẽ các bạn trẻ bây giờ hơi khó hiểu bởi vì nó có vẻ phong kiến. Đúng vậy phong kiến đời Trần, đời Lê, đời Lý, nền phong kiến cứu non sông Việt Nam khỏi họa xâm lăng. Đọc lời ca trên, ta cứ tưởng nhạc sĩ là một ông già đi dự hội nghị Diên Hồng, nhưng không, lúc đó Phạm Duy chỉ mới có 23 tuổi đầu. Trong bài Chinh Phụ Ca sau đây, ta lại thấy một Phạm Duy khác trẻ hơn:
Từ chàng ra đi, lưng khoác chiến y
Và hồn nương bóng quốc kỳ
Nàng ngừng con thoi, có khi nhớ chàng
Có muốn gì đâu? Lệ thấm tơ vàng
Chàng ngồi trên yên, mơ bóng dáng em
Mịt mù sau đám khói tên
Bâng khuâng mắt nhìn tay kiếm
Không sao dấu đôi lệ hiền
Từ hồi Thu đi, Đông tới, Xuân về
Lạnh lùng cơn gió đêm hè
Từng hồi canh tan thấy trăng xế tàn
Thao thức phòng loan, một tiếng tơ đàn
Nhạc ngoài biên cương nghe vắng khúc hoan
Bập bùng ba tiếng trống đêm
Không ngưng tiếng rừng xao xuyến
Vang trong tiếng ve kêu rền rền 

Ngày nào bao xa em thấy bay về
Một đàn chim én không nhà
Về làn du phong với mây ráng hồng
Có tiếng diều trong đậu trước khuê phòng...
Ở đây, tình yêu nước và tình yêu lứa đôi quyện lại thành một khối trong tim cặp tình nhân. Với Phạm Duy ta thấy tình yêu tổ quốc là một hạt kim cương có trăm mặt nhỏ (chứ không phải chỉ có một hòn bi trơn tru láng bóng không có khía cạnh. Bài hát này đã làm rung động nhiều trái tim trẻ, nhất là sinh viên, tiểu trí thức. Tình yêu nước pha chút lãng mạn của họ đã được diễn tả rất đúng trong nhạc phẩm. Đã có rất nhiều học sinh kéo nhau ra bưng biền trong thời gian 1945-1950. Chính tôi đã hát bài này và chép nó, chuyển về thành cho các bạn tôi để thúc giục họ ra đi chiến đấu cứu nước nhưng tôi không biết ai là tác giả. Mãi đến năm 1989, đọc cuốn Ngàn Lời Ca mới té ngửa ra.
Rồi nhìn qua song em thấy trước sông
Ngựa hồng âu yếm bước sang
Trên lưng có chàng trai tráng
Mang theo biết bao nhiêu ngày vàng.
(Chinh Phụ Ca 1945)
Nhưng chàng chinh phu của Phạm Duy không chỉ cưỡi ngựa hồng mà trong cuộc kháng chiến cứu nước anh ta đã vụt biến ngay thành một chiến sĩ xung phong bừng bừng sát khí.
Ngày bao hùng binh tiến lên!
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến!
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành
Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Đi là mang mối thù thiên thu.
Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Bước lên đây người Việt Nam
Kèn vang theo tiếng chân đang dồn dập xa xa
Tiếng gào thiết tha
Ngàn lời chính khí đưa
Ầm ầm tiếng thét hòa
Rầm rầm tiếng súng sa trường xa
Hồn say khi máu xương rơi tràn đầy, ngập biên khu
Oán thù khắp nơi
Từng bụi lốc cuốn rơi
Từng giọt máu sáng ngời
Một đường kiếm thép oai hùng đưa
(Xuất Quân 1945)
Và sau những cuộc chém giết tơi bời như vậy, chàng ta rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn, ôm súng ngồi bên gốc cây, lắng nghe mùa Thu đang về trên chiến trường:
Chiều biên khu, vào mùa sang Thu
Không còn nghe tiếng oán thù
Rừng vi vu là lời thiên thu
Ru người chốn phiêu du
Như một nhà triết lý nhìn đời, nhìn chiến tranh từ một khu rừng, từ một góc độ khác với những chinh phu khác:
Ai chinh phu nghe mùa Thu tới
Âm vang trong trời, hồn quê đến với muôn đời
Hề Thu ơi ới
Hề Thu ơi ới
Nghe gió thu tơi bời trong góc trời chiến tranh
Nghe lá thu thương tình bao kiếp người mong manh.
Hề Thu ơi ới
Hề Thu ơi ới
Hương thắm xưa đã về với những người chiến chinh
Bao khúc ca thanh bình vang tới ngàn dâu xanh.
Ở đầu nguồn, dòng nhạc kháng chiến chảy theo dòng nhạc hùng kêu gọi toàn dân đứng lên tận diệt kẻ thù chung. Tôi không thấy có một tác giả nào có tư tưởng về mùa Thu cách mạng như Phạm Duy trên đây, một cái nhìn và một cảm nghĩ khác biệt, nếu không nói là ngược lại trào lưu chung, nếu kết tội nhẹ thì là tư tưởng tiêu cực. Kháng chiến chưa đầy một năm, đã mơ ''câu thái hòa, ngàn dâu xanh'' và ''không còn oán thù''.
Thu đã về với ta
Nhớ tiếc không oán thù
Ta nghe chăng một mùa?
Thu bao la, vang tiếng bom cuối cùng
Còn đây mùa gươm súng
Khi lá hoa bừng sống với non sông
Nhớ tiếc không nát lòng
Ta nghe chăng một mùa?
Thu muôn năm hòa bình
Hề Thu ơi ới
Hề Thu ơi ới
Thu ơi Thu! Ta vỗ súng ca
Ca cho đời, cho Thu với ta
Nơi biên khu, mong nhớ khúc ca
Câu Thái Hòa cho muôn chúng ta
(Thu Chiến Trường 1946)
Dòng tư tưởng đảo ngược này còn được thấy rõ thêm lần nữa trong bài Chiến Sĩ Vô Danh:
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Núi cây rừng
Lắng tiếng nghe hình dáng
Của người anh hùng
Lạnh lùng theo trống dồn
Trên khu đồi nương
Im trong chiều buông
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
Khi ra đi đã quyết chí nuôi căm hờn
Muôn lời thiêng còn vang
Hồn quật cường còn mang đến phút chiến thắng
Sầu hận đời lấp tan
Gươm anh linh đã bao lần vấy máu
Còn xác xây thành, thời gian luống vô tình
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh
Ôi người chiến sĩ vô danh!
Ở đây, chàng trai 24 tuổi Phạm Duy có trái tim và cặp mắt của một ông già suy tư về cuộc chiến và về người chiến sĩ. Phạm Duy đã thấy cái số phận của những người bị khoác cho cái lốt anh hùng và bị đem ra làm vật hy sinh cho ''những làn kiếm thép oai hùng đưa''... Để trở thành những viên gạch xây thành cho các ông tướng ngất nghểnh ngồi nhậu rượu Mao Đài gặm sườn chó và đùi mỹ nhân trong trướng gấm ''mà thời gian luống vô tình''!
Cũng nên nhắc lại lúc đó nhạc hùng kêu gọi toàn dân vùng lên giành độc lập nở rộ như một vườn hoa lửa đỏ rực. Chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao, Thượng Lộ Tiểu Khúc, Lên Đàng của Lưu Hữu Phước, Cách Mạng Tháng Tám của Việt Lang, Đời Sống Mới của Nguyễn Đức Toàn, Xuất Quân của Phạm Duy... Từ Nam Quan đến Cà Mau, lòng người là một biển lửa có thể thiêu rụi quân thù tức khắc. Không có gì khác ngoài tiến lên, phục thù, súng nổ vang, kiếm thép đưa... Phạm Duy đi lẫn trong đội ngũ nhạc sĩ yêu nước đó với điệu kèn đồng Xuất Quân, tay vung gươm tráng sĩ.
Nhưng phía sau một Phạm Duy đó, còn một Phạm Duy khác, một Phạm Duy của Thu Chiến Trường và của Chiến Sĩ Vô Danh. Cái hùng tráng của Văn Cao, của Lưu Hữu Phước, Phạm Duy có, nhưng cái bi ai của Phạm Duy, Văn Cao và Lưu Hữu Phước không có. Điều này làm cho Phạm Duy khác người, đó là tính chất triết học trong tác phẩm Phạm Duy. Anh chàng nhạc sĩ sớm mang kiếng cận thị này đã nhìn sự vật sâu hơn những đồng nghiệp không mang kiếng.
Đằng sau những cuộc chiến đấu cực kỳ say máu kia là gì? Là tro than, là xác xây thành, là những con người vô danh rồi đây đã chắc có ai buồn nhớ tới. Một chàng thanh niên ngồi ôm súng nhìn trời đất, mong thái bình, ước mơ một mùa thu nào khác.
Trong một tâm sự lạ lùng, vào thời đại của nhạc hùng đó, Phạm Duy còn vẽ nên một bức tranh hãi hùng Nợ Xương Máu chưa từng thấy trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Và đây cũng là một ''mặt nhỏ'' khác của tình yêu Tổ Quốc:
Giờ đây xương máu đã phơi đầy đồng
Giờ đây máu hồng đã nhuốm non sông
Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên
Đi lang thang, tiếng cười vang rú
Xác không đầu nào kia?
Cười lên tiếng máu xé tan canh trường:
Nợ nần máu xương, ai đã trả xong?
Lá rụng tơi bời
Đoàn quân tiến qua làng
Từng thanh kiếm đứt ngang
Từng lớp áo rách mướp
Từng cánh tay rụng rời.
Qua làn mây trắng
Đoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường
Như nhắn nhủ người trai mài kiếm dưới trăng
Ai nghe không tiếng cười vang the thé?
Tiếng người la, những tiếng dồn dập ca
Ai lang thang, tiếng cười lên chới với?
Xác không đầu mà vui
Người đi chiến đấu, xác rơi ngoài đồng.
Nợ nần máu xương, ai nấy trả xong!
Một đoàn quân dị thường (toàn những chiến sĩ không đầu) trong một cuộc chiến đấu dị thường (tiến quân về trời) được nhìn và vẽ ra bằng đôi mắt đôi tay dị thường. Có thể nói Phạm Duy nhìn đời và diễn đạt lòng yêu nước từ mọi góc độ, không cứng ngắc, cố định, không theo lối mòn, không giống bất cứ ai. Bất cứ sự vật nào cũng có nội tâm, nếu chỉ diễn tả bên ngoài thì không thể tránh khỏi sai lầm.
Phạm Duy nhìn được sự đau khổ của chinh chiến núp ở đằng sau sự vinh quang của chiến đấu. Phạm Duy biết rõ hơn người khác những niềm vui nỗi khổ của nhân dân, vì đã từng biết từ sự ấm áp của ổ rơm, sự ngọt bùi của củ khoai vùi tro bếp, từ bông lúa, con trâu trở lên tiếng đàn của công chúa ở lầu vàng.
Triết học là từ dân gian. Tự nó đã có, người tinh mắt thì nhặt lấy và đúc thành chữ, người không tinh mắt thì cho nó qua. Thế thôi. Phạm Duy tinh mắt, đã đành. Phạm Duy còn có cả mắt nhìn xa ngàn dặm, nhìn thấu suốt lòng người. Do đó lắm khi ta thấy, như ở trên, Phạm Duy có những suy tư khác người, có khi còn ngược lại, nhưng cái ngược lại của Phạm Duy lại là cái xuôi, cái nghịch lý lại là thuận lý.
Một đoàn người trai hiên ngang
Đeo trên vai nợ máu xương
Một trời Việt yêu dấu
Một nền vinh quang bằng máu...
Ngày nào phơi xác nhớ không?
Thây rơi mênh mông trên khắp phố phường
Thân ôm tường đầu gục đâu
Thây rơi trong đêm khuya lấp chiến hào
(Khởi Hành 1947)
Để thấy sự khác biệt của Phạm Duy và các nhạc sĩ khác thời bấy giờ, tôi xin ghi lại mấy câu hát Mặc Niệm (không nhớ tác giả):
Đêm hôm nay người chiến sĩ thở hơi tàn
Trời u ám trăng mơ màng
Ngoài đồng vắng dế thở than
Chiến sĩ ơi, buồn khôn xiết
Người gọi lòng, ta mến tiếc...
Rằng hay thì cũng thật hay, nhưng tình cảm đó rất thường, còn nói về nghệ thuật thì nó hiền. Cho nên hôm nay chắc không mấy ai còn nhớ bài hát này nữa. Dưới mắt Phạm Duy, người chiến sĩ ''đeo trên vai nợ xương máu'' chứ không phải đeo cái ba lô và súng đạn! Và cái chết của chiến sĩ là ''về trời'', là hóa thành ''bụi hồng tỏa khắp không gian''. Không có một nhạc sĩ nào mô tả cảnh chiến trường, người chiến sĩ, cuộc chiến đấu như Phạm Duy kể từ 1945 cho tới ngày nay.
Ở trên kia bạn thấy chàng chinh phu, chiến sĩ xung phong, chiến binh ở góc rừng... Đó là những ''mặt nhỏ'' của viên hột xoàn yêu nước. Bây giờ thì xin nêu lên một ''mặt nhỏ'' khác. Những bạn cùng lứa tuổi tôi hoặc cao niên hơn có đi kháng chiến, ai cũng biết bài hát bất hủ này:
Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt
Từng ngàn tiếng thanh niên tung gông phá xiềng...
Hào hùng oai võ biết bao nhiêu. Ta thấy lòng yêu nước bừng như lửa thiêng.
Đoàn người trai ra đi miệng hô lớn
Quyết chiến! Quyết chiến!
Chân oai nghiêm đều tiến
Một ngày qua thanh niên giã từ giấc mơ
Phất cờ hồng nhuộm máu đấu tranh cho muôn kiếp sầu...
Quyết chiến, quyết chiến lúc chưa phai tuổi xanh
Tuổi xanh như lúa mai, đời thanh niên sáng tươi...
Đường ta, ta cứ đi, nhà ta, ta cứ xây
Ruộng ta, ta cứ cày đợi ngày
Ngày mai bao ấm no, diệt tan quên Pháp kia
Cười vang ta hát câu tự do
(Nhạc Tuổi Xanh 1946)
Biết bao ý tưởng cao đẹp trong tim người thanh niên bật ra thành lời ca vừa hùng tráng vừa trữ tình, vừa thực lại vừa mộng tương lai. Người hát vừa ngẩng mặt vừa thét vang trời mây mà không lạc giọng và tưởng mình mọc cánh thành thiên thần.
Bạn đã từng hát nhạc tuổi xanh khi tuổi bạn còn xanh, bây giờ chắc tóc đã bạc, hãy hát lên, tóc bạn sẽ xanh trở lại, bản nhạc hay nhất thời kháng chiến chống Pháp. Nếu bạn chưa từng biết cuộc kháng chiến này, xin vẫn hát nó, bạn sẽ hiểu vì sao hồi ấy ta cướp được chính quyền bằng tay không? Bạn còn trẻ quá, càng khó hiểu kháng chiến chống Pháp, hãy hát nó, bạn sẽ thấy lớp cha chú hy sinh không phải là phí uổng. Phạm Duy đã sống với những ý tưởng cao đẹp, với tình yêu tổ quốc vô song của thời niên thiếu và đã diễn đạt nó ra để hiến dâng lại cho dân tộc. Mỗi một bài hát của Phạm Duy như một cột số trên con đường chiến đấu vinh quang giành độc lập cho tổ quốc. Phạm Duy đã đem vinh quang tô thấm nước nhà. Phạm Duy đã nung nấu lòng yêu nước và chí căm thù giặc cho chúng ta.
Nếu anh chết bởi quân thù
Súng kia hoen máu đợi chờ tay em
Nếu cha chết bởi quân thù
Súng kia hoen máu đợi chờ tay con
Nếu tôi chết bởi quân thù
Súng kia hoen máu đợi chờ tay anh
Ra chiến trường kia
Rửa thù, là rửa thù
(Dặn Dò 1947)
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời giặc Pháp có thương dân mình
Trách ai uốn lưỡi cầu vinh
Bán quê hương nỡ quên tình nước non
(Ru Con 1947)
Bạn đã thấy Phạm Duy diễn đạt Tình Yêu Tổ Quốc qua nhiều ''mặt nhỏ'', bây giờ lại xin nêu lên một ''mặt nhỏ'' khác nữa:
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người vợ hiền
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương đàn trẻ nhỏ
(Nhớ Người Ra Đi 1947)
Tình yêu Tổ Quốc nằm trong tình yêu gia đình. Và trong cả tình cảm đối với những ai không cùng chiến tuyến.
Bên tê là phía sầu u
Có người dân Việt gục đầu trên đất tù...
Anh ơi quay súng về đây
Máu người dân Việt còn cần cho luống cày
Tôi mong từng phút từng giây
Sống chẳng oán thù, để chờ anh tới đây
(Gọi Người Bên Kia 1947)
Nhà nghệ sĩ nhân danh luống cày, nhân danh tự do để gọi người bên kia (Phạm Duy đã không dùng chữ ''lầm đường'' như người bên kia vẫn thường dùng cho người bên này). Phải chăng đó là tiếng gọi của đất nước qua trái tim rung động của Phạm Duy mà thành nhạc? Phạm Duy chỉ khẽ gọi, nhưng tiếng khẽ ấy mạnh hơn súng đạn và cùm gông.
Sức người dân Việt còn cần cho luống cày...
Bên kia là đất tù
Bên ni là phía Tự Do
Sống chẳng oán thù
Cái ý tưởng ''sống chẳng oán thù'' đã xảy ra từ Thu Chiến Trường để bùng nổ như mùa hoa bát ngát về sau. Đối với đất nước, Phạm Duy luôn luôn cầu nguyện một câu ''thái hòa'' và ''xóa bỏ hận thù'', ''sống như anh em một nhà, biết thương nhau''.
Các bài hát Hội Nghị Diên Hồng, Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước là những nhạc phẩm biểu hiện tuyệt vời lòng yêu nước Việt Nam. Những bài Việt Nam Việt Nam, Tình Ca của Phạm Duy cũng là sự biểu hiệu tuyệt vời đó, nhưng ngoài ra, Phạm Duy còn vô số ''mặt nhỏ'' khác mà có lẽ tôi không thể kể ra hết nổi. Trong chương này chỉ đề xuất một ít.
Tôi xin nhảy vọt một bước thời gian 20 năm để thấy rằng Phạm Duy diễn đạt Tình Yêu Tổ Quốc bằng một ngày hình tượng và tình cảm tinh vi. Phải chăng đây là sự đau đớn dằng dặc của Phạm Duy khi nói với các con các cháu sau một chuyến đi xa:...
Cha muốn thưa rằng địa cầu xoay nhanh
Sao nước non mình còn nhiều điêu linh?
Ai đã cố tình gây cuộc đua tranh
Đem cháu con mình làm vật hy sinh
Đất nước hai miền, chật chội oan khiên
Người Việt, nước Việt đau thương
Thế giới là thủ phạm lâu năm.
(Kể Chuyện Đi Xa - 1970)
Đó là một sự tổng kết về một hiện tượng, hiện tượng Việt Nam lầm than Phạm Duy đã cảnh tỉnh cả người trong cuộc lẫn người ngoài cuộc (xúi giục, kiếm chác) nhưng người ngoài không nghe đã đành vì họ có bao giờ vì nước vì dân mình, còn người trong cuộc lại cũng không nghe, đó mới lạ.
Họ chỉ thấy vinh quang trước mặt (đã chắc là vinh quang?) Họ không chịu nhìn tro than sau lưng (chắc chắn là tro than). Bây giờ thì càng rõ. Đã rõ, không có vinh quang, chỉ có lầm than.
Trong khi lửa bừng bừng, trong tiếng bom rung đất và đằng sau ánh lửa liên hoan mừng chiến thắng, Phạm Duy ngưng tiếng đàn, Phạm Duy nghiêng tai nghe trong màn đêm thôn xóm.
Cũng như trước kia, vào thời tiền chiến, sau những cuộc truy hoan, Phạm Duy nghe được tiếng chân lầm than trên đường khuya Hà Nội thì bây giờ Phạm Duy nghe ra:
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng o nghèo thở dài
... Ở nơi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
(Quê Nghèo 1947)
Phạm Duy nhìn sâu vào khía cạnh tàn nhẫn của chiến chinh, dù đó là cuộc chiến chinh gì đi nữa thì tro than vẫn cứ là tro than chứ không là lúa gạo. Phạm Duy nâng đàn lên, nước mắt rưng rưng khi em bé mồ côi (cha bị giặc chặt đầu) giật mình trong giấc ngủ trẻ thơ, thấy được cảnh khăn tang cũng hoen tiếng cười trong buổi... chiều khô nước mắt rưng sầu Tan thân thiếu phụ nát đầu hài nhi Phạm Duy nước mắt tràn đầy khi thấy người mẹ có con trai bị giặc chặt đầu bêu cao giữa chợ, tìm nguồn vui ở những chàng trai trẻ khác, trong đó có Phạm Duy:
Mẹ già đi nấu nồi khoai
Bưng lên khói hương mờ bay....
(Bà Mẹ Gio Linh 1948)
Và giữa cuộc chinh chiến mù trời, Phạm Duy chỉ mong mỏi sớm có ngày
Về đây với lúa với nàng
Thay bao nỗi khổ tiếng đàn tôi mừng reo!
(Về Miền Trung - 1948)
Đó là của tấm lòng một người yêu nước. Xin được trả nợ máu xương, đem vinh quang tô thắm nước nhà... nhưng không bao giờ chỉ cười đắc thắng trong vinh quang mà quên khóc ròng vì những nỗi khổ của người dân.
Chương 20 - Mật ngọt quê hương một bản tình cCa
Tôi yêu tiếng nước tôi nhưng không đợi tới tuổi trưởng thành mà ngay từ lúc oa oa khóc chào đời kia. Từ khi chưa biết gì mà đã yêu rồi. Tiếng khóc đó chính là biểu hiện một tình yêu, một tấm lòng yêu nước hồn nhiên của con người vừa sinh ra đã có. Tiếng khóc đó chính là một ngôn ngữ thiêng liêng của dân tộc.
Mẹ hiền ru những câu xa vời nghe man mác tình quê, nghe thổn thức gan vàng, nghe xốn xang tấc dạ.
Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi, tiếng ru muôn đời... Có tiếng nào, có tiếng của ai sống muôn đời. Chỉ có tiếng ru của mẹ, tiếng nói của nước tôi là muôn đời thôi! Mở đầu chương này, tôi xin được nêu ra một hai ý tưởng về bài Tình Ca bất hủ của nhạc sĩ như trên.
Câu chuyện trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Đồng „u kể lại rằng: Một du khách đi xa lâu lắm mới về làng. Bà con xúm lại thăm. Có người hỏi: ''Bác đi khắp nơi, xem cảnh, xem người theo Bác ở đâu đẹp hơn cả?'' Du khách đáp ngay: ''Cảnh đẹp tôi ngắm đã nhiều, nhưng không nơi nào bằng quê hương ta cả.'' Giờ đây sống trong cảnh nước mất nhà tan, phải thất thế ly hương, ta mới thấy câu truyện trên đây vô cùng thấm thía.
Câu chuyện đó làm cho ta nghĩ tới Phạm Duy. Hơn bất cứ ai, Phạm Duy đã rót vào lòng ta những giọt mật ngọt ngào của quê hương. Phạm Duy làm cho ta nhìn quê hương rõ hơn, làm cho ta yêu quê hương hơn lên. Phạm Duy đã tiêm những liều thuốc quê hương vào mạch máu của chúng ta. Lắm khi ta yêu nhưng ta không hiểu rõ vì sao, yêu bằng bản năng tự nhiên không có phân tích, như ta đói ta tìm ăn, ta khát ta tìm uống. Và cũng lắm khi ta thấy cái đẹp nhưng ta không mô tả được nó: tiếng sáo diều, câu hát nhỏ, đôi má xinh, làn môi hồng, tà áo trắng... Phạm Duy đã mô tả hoặc lý giải giùm cho ta. Nhờ thế mà ta yêu, ta gắn bó, ta sống chết với quê hương ta hơn. Và cũng vì thế mà khi ta mất quê hương, ta đau khổ không nguôi, ta không thiết sống nữa bởi ta không thấy đâu đẹp cho bằng quê hương ta!
Yêu quê hương là chuyện dễ. Ai mà chẳng yêu quê hương mình? Nhưng nói lên được tình yêu quê hương là chuyện không dễ. Và chỉ có nghệ sĩ mới làm được việc đó mà thôi. Những nghệ sĩ vô danh đã để lại cho ta vô số tác phẩm như tranh cổ, ca dao, truyện dân gian. Nào quan họ Bắc Ninh, hát cò lả, hát trống quân, hò mái nhì, hò mái đẩy, vọng cổ, kim tiền... Nào là tượng Phật trăm tay, chùa Hương, Tháp Rùa, chùa Thiên Mụ...
Ta kế thừa cái vốn cổ mênh mông và vô giá đó có khi có ý thức, có khi rất hồn nhiên như tiếng khóc chào đời, như nước trong suối, máu trong tim.
Người Việt Nam thường tự hào có bốn ngàn năm lịch sử, điều đó rất chính đáng. Mặc dù quê hương ta nghèo nàn và nhỏ bé, ta vẫn yêu quê hương nhỏ bé của ta, ta vẫn yêu cái đời sống nghèo nàn đó. Vì sao? Vì nó phong phú vô cùng. Đó là đất nước quê hương của ta. Nơi công dân nào cũng làm thơ (Nguyên Vẹn Hình Hài). Và vì chúng ta biết yêu câu hát truyện Kiềulẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta (Tình Ca).
Đôi khi, trong đời sống của chúng ta, phần tinh thần nâng đỡ phần vật chất rất nhiều. Khi lao động vất vả, bà con ta ngồi nghỉ dưới gốc đa, nói chuyện tiếu lâm hay đánh một ván cờ, cảm thấy mệt nhọc tiêu tan. Đêm khuya tát nước, thanh niên nam nữ hát đối đáp nhau, yêu nhau qua câu hò tình tứ, cho nên đôi chân đạp nước như vượt ngàn dặm không biết mỏi. Chính nhờ vào nền văn hóa lâu đời đó mà dân tộc ta sống hùng cường và bất khuất. Lịch sử nước ta là một lịch sử oanh liệt hào hùng, nhưng cũng là một lịch sử chất chứa đau thương.
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. (Tình Ca)
Ta tự hào về quê hương. Phạm Duy, bằng những tác phẩm của mình đã tô điểm cho quê hương thêm phần đẹp đẽ. Một phần lớn tác phẩm của anh dành cho quê hương. Nhưng Phạm Duy không chỉ đưa ta đi tới những gì hùng vĩ nhất của quê hương, anh dắt ta vào luôn những nét nhỏ bé nhất, cơ hồ không ai nhìn thấy.
Muốn mô tả tình yêu, trước hết phải yêu thực sự, yêu ghê gớm, yêu nốc cả máu tim, yêu từ lúc nằm nôi cho đến khi lìa đời, từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mâu. Cũng như máy điện cao thế, muốn truyền điện mạnh cho các nơi, trước hết phải có điện cực mạnh. Điện là Tình Yêu. Biến nó mạnh hơn là sáng tác. Rồi trả nó lại cho cuộc đời. Quê hương ta là nhà máy điện. Phạm Duy bắt điện từ đó chuyển thành luồng điện cao thế, phát trả lại cho quê hương, điện mạnh gấp trăm, ngàn lần. Nói đến sông nước Việt Nam, trong bài Tình Ca bất hủ, Phạm Duy có những câu này:
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long...
Mỗi con sông tượng trưng cho một miền. Sông Hồng quanh năm nước từ nguồn đổ xuống đỏ ngầu. Đã có thi sĩ mô tả nước sông Hồng đỏ nặng phù sa. Hay đấy, nhưng Phạm Duy còn cho màu đỏ đó một tình cảm. Tình cảm chờ mong. Dữ dội hơn nhiều. Sông Hồng chờ mong người về, chờ mong lâu quá nên đỏ lên. Như ta thường nói: mẹ mong con, vợ mong chồng ''đỏ'' con mắt.
Sông Hương mà các vị khác như Nguyễn Văn Thương (Trên Sông Hương), Lưu Hữu Phước (Hương Giang Dạ Khúc), Dương Thiệu Tước (Đêm Tàn Bến Ngự) đã mô tả bằng cả một ca khúc, đến Phạm Duy thì chỉ cần một câu: Biết ái tình ở dòng sông Hương. Là đủ rồi.
Trong bài Tình Ca, ở đoạn giữa, Phạm Duy hát:
Những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi...
Chúng ta hiểu những câu hò giận hờn không nguôi đó là gì? Có thể là:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em lấy chồng rồi anh tiếc lắm thay
Hay là:
Khăn bàng lông cắc mốt, nó tốt như sồng
Anh muốn mua cho em đội, lại sợ chồng em ghen...
Những mối tình không thành nhưng không tan, cho nên ''nhớ nhung hoài'' không nguôi. Chữ ngoại quốc chắc không có chữ để dịch tiếng ''hờn'' và tiếng ''nguôi''. Còn tiếng ''hoài'' là tiếng người miền Nam hay dùng, người miền Bắc dùng chữ ''luôn'', nhưng ở đây Phạm Duy dùng chữ ''hoài'' hay vô tả. Nếu viết nhớ nhung luôn, hay nhớ nhung mãi (không kể chuyện ăn theo với dấu nhạc) thì không thể sánh với nhớ nhung hoài.
Trong một Điệp Khúc, anh hát:
Một yêu câu hát truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta.
Nối liền câu hát truyện Kiều vào tiếng sáo diều, còn cho cả hai thứ đó đều lẳng lơ như nhau. Nghe mãi cũng chẳng thể mòn, nói theo kiểu ca dao:
Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son thếp vàng.
Xin tiếp tục hát điệp khúc của bài Tình Ca:
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên.
Ca dao Việt Nam có bài Mười Thương (hay Mười Yêu cũng thế):
Một yêu tóc bỏ đuôi gà
Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên
Ba yêu má lúm đồng tiền
Bốn yêu răng lánh hạt huyền kém thua.
Trong mười nét đáng yêu đó, Phạm Duy chỉ yêu lấy một, lại là nét chính yếu. Thế cũng đủ rồi. Vì miệng đã xinh, ăn nói lại có duyên, và nói lên tiếng mẹ đẻ yêu quý... thì những nét còn lại cũng không quan trọng lắm.
Tôi đã mê mải đưa các bạn cùng đi vào quê hương (tên một ca khúc khác của Phạm Duy) không phải bằng xe traction chở mìn Claymore (lời ca trong bài đó) mà bằng bánh xe của trái tim. Chỉ bằng một bài hát nhỏ (so với hai bản Trường Ca) là bài Tình Ca, ta đã thấy tất cả Việt Nam nằm trọn trong đó, không sót một nét nào. Từ con sông, tiếng hát, giọng hò đến dãy núi, từ chiếc nôi đến lịch sử trôi, ròng rã tiếng cười tiếng khóc, từ tiếng sáo diều đến truyện Kiều, đến cô gái bên nhà, từ tấm áo nâu của em bé, của mẹ già đến bác nông phu, từ rừng cao đến mũi Cà Mau, từ những anh hùng Lý, Lê, Trần đến những anh hùng của mai sau v.v... Đất Nước, Con Người, Tiếng Mẹ của Việt Nam đã được Phạm Duy thể hiện với đỉnh cao nhất của tình cảm quê hương.
Tác phẩm của anh, do đó không chỉ là để làm ngọt lỗ tai chúng ta. Lời ca, nét nhạc như là những giọt mật ứa ra từ lòng Tổ Quốc và Phạm Duy đã hứng lấy để âu yếm rót vào lòng ta, những khi chúng ta phải mang trong lòng một con tim khô héo.
Ca ngợi quê hương, không có gì hơn nhạc Phạm Duy.
Chương 21 - Con đường cái quan
Khi Hiệp Định Geneve chia đôi nước Việt Nam vào năm 1954, Phạm Duy phản đối ngay lập tức sự chia cắt đó bằng âm thanh. Là một con người luôn luôn suy nghĩ tìm kiếm để sáng tạo cao hơn cái mình đã làm, Phạm Duy chẳng những là một nghệ sĩ cầu tiến mà còn là một người yêu nước. Thể hiện tình cảm của mình - cũng là của cả dân tộc - bằng lời ca tiếng nhạc, Phạm Duy đã đi tiên phong trong vấn đề thống nhất đất nước. Băng tình cảm, bằng thông cảm, bằng ''ngồi gần ngồi gần nhau'' (Tâm Ca số 3) và nếu cần phải dùng khí giới thì phải là ''khí giới Tình Yêu''.
Thống nhất những kẻ bất đồng ý kiến với nhau phải được giải quyết trên căn bản tình yêu đất nước. Yêu đất nước để có thể yêu nhau. Vì nếu đặt tình yêu đất nước thành cơ bản của mọi cuộc giàn xếp thì sẽ đi đến kết quả. Do sự trái ngược ý niệm cho nên đất nước ta đã bị chia cắt một lần dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi bị chia cắt lần nữa vì ý muốn của các cường quốc. Nước ta với hai miền chung sông liền núi mà phải chịu cảnh chồng Bắc vợ Nam, ngày trông đêm đợi. Và sau 75 thống nhất được về mặt địa dư lãnh thổ rồi, thì tình cảm càng tả tơi ly tán hơn bao giờ hết. Đất nước như vậy còn bị chia cắt hơn xưa. Cho nên ta chỉ có và chỉ còn giữ được sự thống nhất trong tình cảm, trong mơ ước, trong ý niệm mà thôi.
Hãy nghe tác giả giới thiệu Trường Ca Con Đường Cái Quan:
''... Trường ca đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau, đi từ ngày lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền được lòng người và đất nước...
Như vậy là ta khỏi phải đi tìm cái ý nghĩa hoặc cái thâm ý của tác giả. Như chúng ta đã biết, qua nhiều tác phẩm bất hủ, Phạm Duy đã từng biểu lộ tình yêu quê hương của mình một cách vô cùng sâu sắc. Nếu Trường Ca Mẹ Việt Nam là một bài thơ phong phú về vần điệu lẫn ý tứ và kiến trúc thì Con Đường Cái Quan là một thiên truyện có nhiều nhân vật, có tính chất kịch và có kết luận hẳn hoi. Nó là một nhạc kịch vậy.
Tôi nói nó có kịch tính là vì nó mang nhiều loại tình cảm, khi buồn thì giận ghét oán thương lẫn lộn, khi vui thì bốc lửa, sảng khoái đê mê, chứ không vui vui buồn buồn chung chung. Nó có quá nhiều nhân vật và cảnh trí.
Mở đầu, ta thấy một cô cắt cỏ than thở cùng lữ khách. Rồi lữ khách cùng đi với hằng trăm người con của Mẹ Âu Cơ và gặp Nàng Tô Thị. Trên đường tiễn lữ khách về xuôi thì có một đám người Thượng du. Sau đó, lữ khách gặp cô lái đò miền Trung du. Rồi dân chúng Thủ Đô Thăng Long hát chào lữ khách. Suốt đoạn này, tình cảm nổi bật là ý chí lên đường khai sơn phá thạch của tổ tiên. Cảnh trí hùng vĩ và rất cổ phong như: biên ải quan san, chiến công chiến sử, núi Vọng Phu, nhà sàn bên đường hoang, thác đổ, quán mới dưới chân đèo, bến sông Thương nước đục, trăng tơ trên năm cửa ô Thăng Long thành, Tháp Rùa, Hồ Gươm, phố cổ mái rêu...
Đoạn giữa là lũ trẻ tung tăng, là mẹ ôm con ru ngủ, là dân làng giã gạo ngày xưa, là cô gái Huế, là chúa Trịnh dắt lính vào đàng trong... Sự xuất hiện của Công Chúa Huyền Trân là một kịch lớn vì nó gánh vác cả một thảm kịch tình yêu. Tình cảm của cả đoạn giữa này là tình yêu nước nhưng pha thêm mầu xót xa ai oán. Cảnh trí phù hợp với tình cảm: Truông nhà Hồ, Phá Tam Giang, đường xa sông rộng, Tháp Hời, canh khuya chùa Thiên Mụ, sông Hương lờ đờ, ruộng nghèo bên cồn cát dưới đèo Hải Vân, đèo Cù Mông...
Đoạn ba, đoạn chót của Trường Ca, có cô gái miền Nam mái tóc xuề xòa và hàm răng xít xa, có dân chúng Tiền Giang, Hậu Giang. Cuối cùng, có toàn thể nhân dân ba miền sum họp. Phù hợp với tình cảm hạnh phúc chan hòa, cảnh trí rực rỡ với nắng chói trong vườn cây trái chín, xóm chuối xóm dừa... Thôn ấp rộn ràng bên kênh đào có cá lội thướt tha, có tiếng chày giã gạo bên bờ ao ấm cúng. Ta có thể hình dung thêm đám cưới của lữ khách với cô gái miền Nam nữa.
Tuần tự từ đầu tới cuối, nhân vật mới, cảnh trí mới, sự việc mới... hiện dần ra như trong một đại nhạc kịch. Chúng ta phải vừa nghe, vừa xem lời trường ca thì mới thấy thích thú hơn. Tôi còn thấy ở trong trường ca này một bài học về lịch sử, học mãi không thấy chán, càng học càng thêm yêu đất nước, càng tự hào về dân tộc ta... Người già nghe để ngẫm nghĩ thêm, lớp trẻ nghe để nuôi chí tiến thủ, trẻ con nghe để biết quá trình chiến đấu sinh tồn của dân tộc, người ngoại quốc nghe để hiểu rõ lịch sử chúng ta. Đây là một công trình nghệ thuật lớn lao được hun đúc bằng tâm hồn dân tộc và sẽ còn sống mãi cho tới khi người Việt Nam thống nhất đươc đất nước bằng cả phương diện: tâm hồn.
Xin hãy theo chân lữ khách, đi lại bước đầu của con đường thống nhất con tim này. Ta thấy cô thôn nữ ngừng tay cắt cỏ, hát ví:
Hỡi anh đi đường Cái Quan
Dừng chân đứng lại
Cho em đây than đôi lời
Đi đâu vội mấy anh ơi?
Lữ Khách trả lời:
Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Khi ta học bài học lịch sử đầu tiên, thầy giáo dạy ta rằng Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra 100 trứng nở ra 100 con. 50 con theo Cha lên núi, 50 con theo Mẹ xuống biển. Thầy dạy truyện thần thoại ta là dòng giống Tiên Rồng. Phạm Duy đã thuộc truyện thần tiên đó nhưng khi đưa vào trường ca thì không phải chỉ làm chuyện sao chép:
Năm mươi người ngược núi rừng
Đã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng
Chữ ''biên ải'' mà Phạm Duy dùng, nghe có vẻ xa thăm thẳm, mờ mờ lớp khói sương của rừng, nhưng lại mang tính chất khai phá, lập quốc, dựng biên cương. Chữ ''khơi chừng'' thì không chỉ mang ý nghĩa sông nước chật hẹp, mà là vươn ra biển khơi, mở rộng biên cương.
Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi! Ơi người ơi!
Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn dường giặc Hán
Tôi chưa về Ải Chi Lăng
Ơi người ơi! Ơi người ơi!
Dưới chiến bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn.
Như vậy là lữ khách đã đồng hóa với người áo vải anh hùng đất Lam Sơn, xua đuổi giặc Hán xâm lăng và con đường ngắn ngủi từ Ải Nam Quan tới Ải Chi Lăng đã được xây bằng biết bao nhiêu xương máu rơi. Mới ra đi mà đã nhớ thương người đầu nguồn, là đồng bào ruột thịt cùng ta vừa dựng nước, là người chinh phụ Việt Nam thủy chung sắt đá, ở nơi địa đầu nước Việt Nam, tên gọi Đồng Đăng, Kỳ Lừa có chùa Tam Thanh. Tô Thị trong trường ca khuyến khích người chinh phụ ra đi, để mình được thành đá (ý này hay vô cùng):
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho (nàng) ngàn năm được sống đời vọng phu
Chinh phu hay lữ khách không còn bận tâm vì Nàng Tô Thị, nên rảo bước về miền xuôi (đoạn này thật bi tráng và trữ tình):

Chinh phu hay lữ khách không còn bận tâm vì Nàng Tô Thị, nên rảo bước về miền xuôi (đoạn này thật bi tráng và trữ tình):
Người về miền suôi đem theo tình người miền núi
Nhà sàn lả lơi đứng bên đường hoang vắng soi
Đưa chân anh qua đồi
Cơm lam đem theo người Lên cao anh ôm trời
Để dòng suối lẻ loi...
Ta lại chợt nhớ tới ''dòng suối tương tư'' của bản Nương Chiều. Phạm Duy đã dùng những câu ca ngắn và nét nhạc đi lên từng cấp, từng cấp... để diễn tả con đường núi quanh co, ngập ngừng, khúc khuỷu để rồi khi lên tới đỉnh cao nhất, nhìn thấy bao la vùng xuôi thì bước chân lữ khách thong dong dễ dàng hơn với lời ca nét nhạc mở rộng.
Đường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi
Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười.
Đường về miền xuôi biết bao đò bao quán mới
Đường dài mà vui à ơi người bạn đường nặng vai...
Khi lênh đênh trên tàu để sang Paris du học, Phạm Duy được tin Hiệp Định Genève được ký kết. Phạm Duy vừa vui vừa buồn. Vui vì chiến tranh chấm dứt, dân tộc thoát khỏi cảnh chết chóc của đao binh, buồn là vì đất nước chia đôi, nhát dao chém ngang thân mình.
Phạm Duy phản đối việc chia cắt đất nước bằng Trường Ca Con Đường Cái Quan. Chúng ta thấy sự phản đối ấy còn tồn tại đến bây giờ trong lòng mỗi chúng ta: âm thanh của bản nhạc. Âm thanh không sờ mó được, nhưng nó dội vào tâm não con người, đánh thức nó dậy để nó nhận ra điều phải quấy hoặc làm cho nó nguội đi nếu nó đang bốc cháy, bốc đồng, hoặc làm cho nó ấm lên nếu nó đang lạnh lẽo.
Thật vậy, ta có thể tìm thấy Phạm Duy ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào, từ Nam Quan tới Cà Mau, trong nắng sớm mưa chiều, trong chớp bể mưa nguồn, khi chiến thắng lúc chiến bại, trong niềm vui nỗi buồn. Phạm Duy tới với ta, trao cho ta ''vũ khí tình yêu quê hương'' để an ủi, thúc giục ta cùng tiến bước.
Trường Ca Con Đường Cái Quan là một mảng nhỏ trong sự nghiệp vĩ đại của Phạm Duy nhưng lại là tác phẩm lớn của Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam trong đề tài ca ngợi Tổ Quốc. Phạm Duy thuộc truyện truyền kỳ lịch sử Việt Nam từ ngày còn đi học trường Nguyễn Du, truyện bố Rồng mẹ Tiên, truyện đẻ ra trăm trứng... những truyện ấy đã thấm sâu vào tâm hồn, có thể nói biến thành tế bào trong cơ thể của nhạc sĩ. Thêm vào đó những hoạt động nghệ thuật từ 21 tuổi tới giờ, nhạc sĩ có dịp đi khắp đất nước Việt Nam, trong hành trình lưu diễn của gánh hát Đức Huy (1943-44) rồi trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khởi đầu từ 1945. Phạm Duy Nam Tiến. Phạm Duy trở ra Bắc rồi lại Nam Tiến lần thứ hai. Kháng chiến toàn quốc, Phạm Duy đi khắp vùng thượng du, trung du và đồng bằng Bắc Việt, rồi lại Nam Tiến lần thứ ba khi từ vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh vượt Trường Sơn vào tới Bình-Trị-Thiên. Chưa một nhạc sĩ nào nhìn thấy rừng núi sông biển, sống với đồng quê thành thị Việt Nam như Phạm Duy cả. Sự kết đọng đó đã đưa thành Con Đường Cái Quan. một con đường trên mặt đất và trong tâm hồn dân tộc Việt Nam. Người Bắc chưa từng vô Nam coi mặt trời khi nghe Con Đường Cái Quan cũng có thể hình dung ra miền Nam với cảnh:
Về Cần Thơ khơi kinh, khơi nước ngòi
Về Hà Tiên ta tiễn Chúa ra đảo khơi
Về Cà Mau ta đốt biết bao lửa vui
Về miền Nam ta theo cơn gió đưa
Về miền quê ta theo cơn gió về
Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa.
Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta...
Con Đường Cái Quan là kết tinh của ý chí thống nhất sơn hà về mặt lãnh thổ và là kết tinh của dân ca Việt Nam. Phạm Duy dùng ca dao và truyện dân gian một phần lớn cho tác phẩm này. Nét nhạc rất giản dị nhưng rất sâu sắc. Hơi điệu bị ảnh hưởng dân ca quan họ, cò lả, trống quân nên dễ đi vào lòng người. Đặc biệt khi lữ khách vào tới miền Nam thì nét nhạc khỏe hơn lên. Bài Nhờ Gió Đưa Về mô tả một miền Nam cường tráng, dồi dào tình cảm qua những hình tượng tuy hoang dã nhưng rất đẹp:
Chiến đấu với sình lầy
Với thú dữ ư tràn đầy
À ơi lũ muỗi đặc dầy như đám mây
Chiến đấu với rừng tràm
Ta như ong từng đàn
Lập cuộc đời trên đất rừng hoang.
Lữ khách cảm thấy một niềm vui lớn khi đến đất miền Nam:
Vào tới xóm dừa
Vào vườn chuối la đà
Ôi là mát lòng ta
Bầu vú sữa tròn
Và mảnh trái thơm ròn
Hương sầu riêng ngọt ngon.
Ngồi trước bài hát, những dòng nhạc hiện lên trước mắt, tôi nghe như cơn gió mát của Cửu Long Giang, của sông rạch miền Nam, tôi thấy như những hạt phù sa ửng lên lấp lánh từ bờ sông Hồng, từ bến sông Hương, tới bãi sông Cửu Long. Quê hương mà nay đối với mình bỗng trở thành Cố Hương!
Năm 1949 Phạm Duy 28 tuổi, tôi 19 tuổi, cả hai đều đi kháng chiến chống Pháp. Kẻ ở Việt Bắc, người ở miền Tây. Thời đó, Phạm Duy đã là cột trụ của âm nhạc rồi. Tôi mới tập tễnh làm thơ. Nay ngồi viết những dòng này bỗng nhớ lại ''cố'' hương thời khói lửa:
Đây quê hương, đó quê hương
Đồng quê lúa chín, cây vườn trổ bông
Tre mành mấy ngọn uốn cong
Sông đầy uốn khúc chảy ôm đường làng
Cheo leo cầu khỉ ai sang
Lơ mơ giọng hát nhịp nhàng võng đưa
Não nùng một tiếng gà trưa
Trâu nằm tư lự, hàng dừa trầm ngâm
Bỗng đâu xuất hiện ''Con đầm'' (1)
Rồi còng cọc đến ầm ầm thả bom
Ngang Dừa (Rạch Giá) 1948
Bây giờ, sau gần 40 năm (2) lặn lội từ Ải Nam Quan, lữ khách đã tới mũi Cà Mau. Đứng ở chót mũi đất nhọn mọc nhô ra biển, nơi nhạc sĩ bị Pháp bỏ tù năm 45, lữ khách nhìn suốt con đường xuyên Việt như một cuộc vạn lý vân trình:
Đường đi đã tới!
Lòng dân đã nối!
Người tạm dừng bước chân vui, người ơi!
Người mơ ước tới
Đường tan ranh giới
Để người được mãi đi trong một duyên tình dài.
Đó là tiếng lòng của nhạc sĩ. Cũng là của toàn dân Việt Nam. Đó là ý chí Việt Nam đời đời bất diệt.
Chú thích:
(1) ''Đầm già'' là loại máy bay thám thính.
(2) Phạm Duy khởi soạn trường ca này năm 1954 và hoàn thành năm 1960.
Chương 22 - Mẹ Việt Nam không son không phấn
Bản Tình Ca hiện lên như một người đàn bà rực rỡ mà không lòe loẹt, khỏe mạnh chứ không thô kệch và dồi dào tình cảm có thể chinh phục mọi trái tim. Người đàn bà ấy cũng hiện thân trong một trường khúc nhan đề Mẹ Việt Nam mà Phạm Duy đã dựng lên 10 năm sau bản Tình Ca.
Nếu Tình Ca là một ca khúc ba đoạn ba điệp khúc thì trường ca Mẹ Việt Nam là một bài hát dài bằng lịch sử nước Việt Nam hay bằng chiều dài của nước Việt Nam. Tình Ca chỉ tổng quát toàn bộ Việt Nam với những sắc thái đặc biệt của nó, thì Mẹ Việt Nam đi sâu vào một nhân vật. Đó là người mẹ Việt Nam và những đức tính của mẹ. Nếu Tình Ca làm ta xúc động với những nét đặc tả thần kỳ thì Mẹ Việt Nam vừa mang những nét ấy lại vừa tạc thêm những nét làm ta kinh ngạc và thán phục tác giả hơn. Điều này xảy ra đến cho tôi khi tôi được đọc lời ca lần đầu và ngay ở những câu đầu:
Mẹ Việt Nam, không son không phấn
Mẹ Việt Nam, chân lấm tay bùn
Mẹ Việt Nam, không mang nhung gấm
Mẹ Việt Nam, mang tấm nâu sồng...
Một thi sĩ Hy Lạp, Ludemit Meleanos, khi tới Việt Nam năm 1962 đã cảm tác một bài thơ cũng hay. Mấy câu đầu như sau:
Việt Nam đất nước biếc xanh
Và dài như một chiếc đàn bầu
Mà cái gảy đàn là cầu Bến Hải.
Lúc đó các thi sĩ miền Bắc mới giật mình vì mình không viết nỗi mấy câu thơ đó! Cũng hay, nhưng nó chỉ mô tả bằng thể ví (comparaison) và chỉ mô tả về hình thể chứ không có nội tâm, thành ra không có chiều sâu mấy. Ta không trách nhà thơ vì ông là người ngoại quốc.
Trần Văn Giầu viết quyển Lịch Sử Việt Nam năm 1946 thì ví đất nước ta hình dáng một cô gái, hai đầu đòn gánh là hai thúng lúa. Hình tượng đó cũng đẹp, cũng gần sát với hình thể nước Việt Nam, nhưng cả hai sự mô tả của Meleanos và Trần Văn Giầu đều không thể sánh với bốn câu mở đầu của Trường Ca Mẹ Việt Nam.
Tôi nhớ lúc tôi vừa đọc xong mấy câu mở đầu của trường ca, tôi buông bản lời ca. Tôi thở dài. Tôi xin chịu. Không có ai mô tả Mẹ Việt Nam nổi đến thế. Mà chỉ trong có 16 chữ! Như thế là quá tài tình vì tả thể chất mà người đọc nhận thấy cả tâm hồn. Tấm áo nâu, rướn mình đi từ núi rừng cao ở bản Tình Ca càng nổi bật ở đây, vì là tấm nâu sồng của Mẹ Việt Nam, là tấm áo nâu mang hồn sông núi. Những ý tưởng cao đẹp tuôn trào ra ngón đàn.
Ở một chương trước của quyển sách này hay ở đâu đó tôi không nhớ nữa, tôi đã bình luận về trường ca bất hủ này, ở đây tôi chỉ xin nêu lên những tư tưởng của tác giả.
Mẹ Việt Nam là kết tinh của những đức tính cao quý có từ những thần thoại ly kỳ của dân tộc:
Mẹ chờ mong ngày trông tháng đợi
Đời thần Trai đội đá vá trời
Với hồn Nữ Oa, mẹ giơ tay đón
Với tình nước non mẹ còn chờ mong...
Mẹ yêu chồng, có khi Mẹ là Châu Long
Trả nợ thay lòng vẫn giữ lòng
Trắng ngần sạch trong
Mẹ là Tiểu Kính Tâm
Lên chùa giải oan
Ôi xót thương trẻ khóc trong vườn
Trẻ con hoang! Ôi Mẹ từ bi
Giọt máu rơi này, mẹ nhận là con...
Các con của Mẹ có nhớ chăng? Mẹ...
... Chôn đáy sông mối hận yêu chồng...
Và Chàng Trương gốc miền Nam Xương...
... Có buồn thương khóc
Rước Mẹ lên nước thiêng sẽ giải oan...
Mẹ xưa...
... Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng
Mẹ trôi trên dòng sông Hát
Nước ngược xuôi đưa Mẹ đi muôn nơi...
Ta thấy tất cả đức tính cao quý đều kết tinh ở Mẹ Việt Nam:
Nữ Oa: chí lớn
Châu Long: đảm đang
Kính Tâm: nhân ái
Thiếu phụ Nam Xương: trinh tiết
Trưng Nữ Vương: anh hùng.
Với sự sáng tạo phi thường, Phạm Duy đã làm tim ta nồng nàn hơn lên với tình yêu Mẹ Việt Nam, một bà mẹ của thần thoại và của dân gian, một bà mẹ có nhiều đức tính cao quý nhất trong các bà mẹ thế giới. Nước Pháp có Jean d'Arc nhưng không có Châu Long, Kính Tâm, Thiếu Phụ Nam Xương, càng không có Nữ Oa. Trung Hoa có Thiếu Phụ Nam Xương, có Nữ Oa nhưng không có Trưng Triệu. Nhờ Phạm Duy, ta thấy được những điều này. Nhờ Phạm Duy, ta hiểu rõ mẹ ta hơn.
Mẹ ta với những đức tính, những vui buồn của một đời lận đận và với những nỗi chua xót của một đàn con trăm đứa...
... Chia đôi dòng nước, chia lìa dòng sông
Chia đôi bờ bến lạnh lùng
Cho Ngưu Lang Chức Nữ ngại ngùng
Nước ân tình đổi thành ra nước căm hờn
Chia sông Gianh phân tranh mộng đồ vương.
Chúng ta hãy nghe Phạm Duy mô tả tiếp Mẹ Việt Nam:
Mẹ chờ mong
Ngày trông tháng đợi
Đợi Thần Trai
Đội đá vá trời
Với hồn Nữ Oa
Mẹ giơ tay đón
Với tình nước non
Mẹ còn chờ mong...
Phạm Duy đã vận dụng dân ca cổ truyền vào nhạc mới, vận dụng ngôn ngữ Việt Nam, hiện đại hóa truyện cổ tích, ca dao, đồng dao, làm hẳn công việc biến cải chứ không phải sao chép. Anh tài tình ở chỗ đồng hóa Mẹ Việt Nam vào Đất Nước Việt Nam. Mô tả Mẹ là một gái quê mang tấm nâu sồng, chân lấm tay bùn rồi lại biến đổi Mẹ thành những người Mẹ trong truyền kỳ lịch sử. Mẹ lại còn được biến hóa ra là lúa xanh rờn, lúa dậy thì, là núi non, là biển cả nữa. Sự chuyển hóa rất hợp lý, vì nghệ sĩ có quyền sáng tác theo ý thích của mình. Molière tạo ra một ông bệnh tưởng, Nguyễn Du tạo ra Nàng Kiều. Cả hai nhân vật của hai tác giả đều được cường điệu hóa (exagéres) nhưng sáng tạo của hai ông rất là hợp lý. Do đó cả hai nhân vật đều rất thực.
Phạm Duy đã nắm được quy luật sáng tạo, và đã sử dụng quyền năng của mình một cách hợp lý và phải chăng (logique et sobre). Lối chuyển hóa trong Mẹ thật là khoa học. Khi giới thiệu trường ca, tác giả viết:
''... Lúc trẻ tuổi, Mẹ Việt Nam được biểu tượng bằng đất mầu tươi tốt. Khi đứng tuổi, Mẹ hiện thân là núi non. Mẹ còn xót xa thương lũ con sông ngòi chia rẽ. Vào lúc tuổi già, Mẹ trở thành biển cả. Nước mắt Mẹ bốc lên trời cao làm mây bay đi, trong khi phù sa được Mẹ gửi vào đất cũ''.
Tuy ví von như vậy, nhưng tất cả vật thể như đất, núi, sông, biển, mây, phù sa... đều chuyển hóa theo một trình tự quá sức hợp lý. Đất trở nên màu mỡ mềm mại, lớn lên thành núi sắt son. Các con chia rẽ thành sông chảy đi mọi ngã. Về già, biển bạc đầu, nước biển bốc lên thành mây, phù sa thì bồi đắp... Cũng như Tản Đà đã lấy cảnh Sông Đà Núi Tản để hàm xúc nước non tổ quốc:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Trường Ca Mẹ Việt Nam này, nghe lên chỉ thấy là oanh liệt, là tha thiết là đại lượng, là bao dung, là cao quý. Sau bài Tình Ca, với Mẹ Việt Nam, Phạm Duy lại rót thêm mật ngọt của quê hương vào lòng ta vậy.
Trong phần III của Trường Ca, phần SÔNG MẸ, Phạm Duy đã nói lên được nỗi bi đát, niềm đau thương của dân tộc ta sau những lúc vinh quang. Có những con sông lịch sử với chiến công oanh liệt như Bạch Đằng Giang thì cũng có những con sông ô nhục như sông Gianh, Bến Hải. Và có những con sông nhuộm màu chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ, tranh giành lẫn nhau:
Sông đỏ như máu tranh đấu sông nâu
Sông nghèo xanh yếu kêu cứu sông giàu
Sông nhuộm vàng mau
Chia nhau uốn khúc khoe mầu
Sông rồng lôi kéo sông rắn đi cắn sông đào.
Phạm Duy đã nhân cách hóa một cách tài tình những vật vô tri, vô giác. Đồng hóa vào Mẹ Việt Nam, những vật thể bỗng như có linh hồn, bỗng trở thành nhân vật.
Trong hoàn cảnh xót xa của chúng ta hiện nay, Phạm Duy đã nói hộ tiếng lòng của chúng ta, tiếng lòng đối với Mẹ Việt Nam. Khi viết bài này, tôi rất ngại phải dở những tập nhạc của Phạm Duy ra, dở những trường ca và vô số những bài khác, vì nó quá phong phú, không biết trích dẫn từ đâu, bài nào cũng có thể minh họa cho tình yêu quê hương cả!
Thật vậy, ta có thể tìm thấy Phạm Duy ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào, từ Nam Quan tới Cà Mau, trong nắng sớm mưa chiều, trong chớp bể mưa nguồn, khi chiến thắng lúc chiến bại, trong niềm vui nỗi buồn. Phạm Duy tới với ta, trao cho ta ''vũ khí tình yêu quê hương'' để an ủi, thúc giục ta cùng tiến bước. Khi ta hát bài Mẹ Việt Nam là ta nghĩ tới một điều tốt đẹp. Ta muốn hứa hẹn với mọi người, với cả ta nữa, một điều gì rất cao cả:
Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!
Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ
Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ...
Và ta cũng muốn hứa với Mẹ, hứa với ta là phải yêu thương nhau như con một nhà, con một mẹ, Mẹ Việt Nam:
Quê ta đẹp lắm Mẹ ơi!
Biển êm sóng lặng, nước nôi hiền lành.
Về đây xây đắp mối tình, tình Việt Nam
Yêu nhà, yêu nước và thương mọi người
Tình tính tang, tang tính tình
Yêu Mẹ già, thương Mẹ ta
Đàn con nhớ, nhớ yêu nhau
Đàn con nhớ, nhớ yêu nhau.
Trong lời tự truyện, tác giả bài Mẹ Việt Nam viết:
''Với Con Đường Cái Quan, tôi muốn đi vào chiều dài của dân tộc. Với Mẹ Việt Nam, tôi muốn đi vào chiều sâu của dân tộc. Và cũng trong cái tật làm bộ ba, tôi dự phóng soạn bản trường ca thứ ba nhan đề Trường Ca Trường Sơn, với ước muốn xưng tụng người Cha Việt Nam và đi lên chiều ca của dân tộc. Nhưng tôi tự nêu ra một điều kiện với tôi là chỉ khi nào đất nước được thật sự độc lập, tự do trong thống nhất thì tôi mới tung Trường ca Trường Sơn ra. Tới nay, trường ca này chưa ra đời được nhưng tôi đã tạm thay thế nó bằng tổ khúc (cũng là một thứ trường ca) Bầy Chim Bỏ Xứ trong đó tôi tới cả chiều cao lẫn chiều xa của dân tộc''.
Đọc những lời trên đây, ta thấy Phạm Duy quả là một người sâu sắc. Tác phẩm của anh bao giờ cũng là kết tinh của sự cảm hứng và sự suy tư. Minh chứng cho điều này là những bài như Giọt Mưa Trên Lá, Đường Chiều Lá Rụng, Dạ Hành... mà tôi đã nói tới. Ở trường ca Mẹ Việt Nam này, sự suy tư của Phạm Duy đạt tới mực siêu. Chỉ đọc lời ca thôi, thì đối với riêng tôi, đã thấy tôi không với nổi.
Ở đoạn trên tôi đã nói Phạm Duy đã chung đúc tất cả những bà mẹ tuyệt vời : Mẹ Nữ Oa, mẹ Trưng Nữ Vương, mẹ Kính Tâm, Châu Long, kể cả bà mẹ vô danh ở Nam Xương nữa... để dựng nên người Mẹ Việt Nam, một người mẹ mà các dân tộc khác không có. Đó chẳng phải là niềm tự hào lớn của chúng ta chăng?
Phạm Duy đã cho đất là Mẹ: ĐẤT MẸ, cho lúa là Mẹ: LÚA MẸ, cho núi là Mẹ: NÚI MẸ, cho sông là Mẹ: SÔNG MẸ, cho biển là Mẹ: BIỂN MẸ. Tuy rất cụ thể mà lại trừu tượng. Tuy trừu tượng nhưng rất cụ thể. Mấy ai làm nổi? Chỉ có bàn tay của phù thủy Phạm Duy.
Đọc lời ca Mẹ Việt Nam, tôi say mê như đọc một bài thơ dài, một tiểu thuyết vừa hiện thực vừa giả tưởng. Sức lôi cuốn của chữ nghĩa Phạm Duy thật là mãnh liệt. Hình tượng khắc họa bởi bàn tay phù thủy thật là vô cùng độc đáo. Mẹ Xinh Đẹp:
Đôi má tươi hồng, má tươi hồng, với bàn tay trắng
Nhỏ người vai lẳn, vú căng tròn, tròn lưng ong
Mẹ nằm phơi gió trăng
Ôi! Mẹ Việt Nam!
Nghiêng mắt xanh chải tóc mây ngàn
Mẹ Việt Nam! Mẹ Xinh Đẹp
Bên bờ đại dương
Mẹ duỗi chân dài chờ mưa tuôn...
... Mẹ cười trong gió sương
Ôi! Mẹ Việt Nam!
Dâng tấm thân nhuộm nắng nâu dòn
v.v... và v.v...
Thực hư, cụ thể và trừu tượng lẫn lộn. Theo lời ca, một họa sĩ nào đó có thể vẽ bằng bút pháp hiện thực, cũng có thể vẽ bằng bút pháp siêu thực. Với ngọn bút của một họa sĩ tài hoa, cách nào cũng có thể đạt tới thành công cao độ cả.
Trong chương 4, LÚA MẸ, Phạm Duy cũng dùng một bút pháp tương tự:
Yêu nhau khi lúa chưa mòng
Thương nhau khi nắng khô đồng
Ôm nhau nghe nước mưa ròng
Chảy vào lòng cập tình nhân.
Thật là phi thường. Bạn hiểu những câu này bằng cách nào? Cách nào cũng tuyệt diệu cả. Trong thời ấu thơ, ta thấy cậu bé mồ côi cha ở phố Hàng Dầu Hà Nội đã được mẹ yêu chiều hơn các anh chị, lại có thêm sự yêu chiều của chị vú. Đã được nằm trên đống lá sen thơm tho khi cả nhà ngồi bóc sen lấy nụ để bán cho người ướp trà... lại còn được nằm ngủ trên ổ rơm cũng thơm tho không kém tại quê nghèo của chị vú, đã ảnh hưởng tới tâm hồn cậu bé. Tình mẹ thắm thiết mà cậu bé thụ hướng ở mẹ đẻ, mẹ nuôi đó sau này sẽ được phả vào những bài hát như Bà Mẹ Quê, Bà Mẹ Gio Linh, Bà Mẹ Phù Sa...
Tình mẫu tử riêng của tác giả dễ dàng liên quan tới tình mẹ chung của dân tộc cho nên những bà Nữ Oa, Châu Long, Thiếu Phụ Nam Xương hiển hiện lồng lộng trong tác phẩm Phạm Duy với những đức tính căn bản như lòng từ bi, sự chung tình, chí kiên nhẫn. Mẹ cũng còn là Núi Vọng Phu, Mẹ hóa đá:
Tóc núi đã phơi xương
Máu nhuộm cả vai non
Ai làm dòng sữa cạn?
Còn SÔNG MẸ? Nghe câu ca dao phổ nhạc mà lòng quặn đau:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê Mẹ mà không có đò!
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, sông Gianh là làn ranh chia cắt đất nước nhưng vẫn có đò. Dù không được tự do đi lại nhưng sự ngăn cách không tàn nhẫn như bây giờ. Bây giờ có đò, quê mẹ ngó thấy đó mà chúng ta không về được! Những người cũng biết yêu quê hương nhưng bị kết tội... nên ''sông không có đường về'':
Ai bảo là không có đò ngang?...
Ai bảo là sông không chờ người sang?

Ai bảo là không có đò ngang?...
Ai bảo là sông không chờ người sang?
Xưa kia ''Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng'' để các con ngày nay được ngẩng mặt lên nhìn trời mà nay thì ai quên lời khuyên của mẹ nên con sông vĩ đại đã rẽ thành trăm nhánh để trở thành Những Dòng Sông Chia Rẽ:
Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông
Chia đôi bên bờ bến lạnh lùng
Cho Ngưu Lang và Chức Nữ ngại ngùng
Chia đôi dòng sông Thương
Nước bên đục bên trong
Nước ân tình đổi thành ra nước căm hờn
Chia sông Gianh phân tranh mộng đồ vương
Chia con sông Bến Hải buồn thương
Nước yên vui từ nguồn
Bỗng gây nên điều buồn
Dòng lệ tuôn thành sông không có linh hồn
Chia anh em vì quên tiếng gia đình
Chia tay chân và cắt đứt ngang mình.
Vì lo âu và đau khổ cho sự chia rẽ của các nhánh sông, vì thời gian chồng chất, Sông Mẹ bạc đầu khi trở thành Biển Mẹ. Một sự ví von thơ mộng và rất khoa học. Phạm Duy không bắt sự vật phải uốn mình theo nét nhạc. Phạm Duy tùy theo sự vật mà nâng nó lên, hoặc xén bớt, hoặc tô thêm cho nó trở thành toàn bích và đúng theo ý muốn của anh.
Hãy đọc vài đoạn lời trong PHẦN IV: BIỂN MẸ để thấy cái tài biến hóa và nhân cách hóa của nhạc sĩ về Biển:
Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương...
... Mẹ hiền không lên bão tố
Mẹ già không đem nỗi khó
Mẹ là mẹ nhà cho mưa với gió hiền khô...
... Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại Mẹ hiền
Gió rít thông reo như kêu con mau trở về Mẹ yêu.
Và cảnh rộn ràng vui tươi :
Buồm căng lộng gió thênh thang thuyền về
Trên sóng trường giang, thênh thang thuyền về!
Thuyền về trên lớp sóng vui
Đàn con về với biển khơi Mẹ già
Mẹ già đang đón chờ ta
Có đàn chim én từ xa về rồi
Quê ta đẹp lắm Mẹ ơi!
Biển êm sóng lặng, nước nôi hiền lành
Mẹ mừng vui vì các con
... Đã biết yêu nhau.
Các con reo mừng bên Mẹ:
Mẹ Việt Nam ơi!
Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ.
Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ
Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới
Chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi!
Chúng ta phải nhìn nhận rằng Phạm Duy đã dâng hiến trọn vẹn trái tim nghệ sĩ cho đất nước. Về mặt nghệ thuật, Phạm Duy đã sống trọn vẹn với đề tài Mẹ Việt Nam. Thuộc lịch sử Việt Nam chưa đủ để sáng tác. Chỉ yêu nước Việt Nam thôi cũng chưa đủ để tạo nên phần nghệ thuật. Phải có tài thể hiện. Đứng về mặt yêu nước thì có khi anh binh nhì yêu nước hơn anh tổng tư lệnh, người dân thường có thể yêu nước hơn nhà nghệ sĩ (đó cũng chỉ là ước lệ thôi) nhưng anh binh nhì không có tài quân sự bằng anh tổng tư lệnh (nếu là tổng tư lệnh đúng nghĩa) và người dân thường không thể diễn đạt tình cảm như nhà nghệ sĩ. Vậy yêu nước và diễn đạt lòng yêu nước thành nhạc để tiêm nó vào mạch máu người dân là hai điều kiện không thể thiếu một, để tạo thành tác phẩm.
Chung khúc VIỆT NAM VIỆT NAM là một khúc hát tuyệt vời về lời ca lẫn âm nhạc. Lời ca không những rất đẹp mà còn rất sâu sắc. Đó là một anh hùng ca bất hủ của dân tộc ta.
Việt Nam! Việt Nam! Nghe tự vào đời
Việt Nam, hai câu nói bên vành nôi...
... Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyền tranh đấu cho đời
Tình Yêu đây là khí giới
Tình Thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người!.

Tiếng Việt Nam là sự rung động mãnh liệt đối với trái tim ta. Chung khúc VIỆT NAM VIỆT NAM như một trái tim hồng treo giữa Việt Nam, như một hạt cát, như một hòn đất thơm nồng, như một đỉnh núi của nghệ thuật ta hát chung khúc VIỆT NAM VIỆT NAM cả ngàn lần trong đời ta. Và mỗi lần hát ta thấy như ta lớn lên, khỏe hơn. Ta cảm thấy như ta uống một ngụm nước phù sa thỏa thuê. Ta nghe như có một mũi tên bắn trúng trái tim ta mà xạ thủ là Phạm Duy.
Phạm Duy kẻ khai sơn phá thạch trong nền âm nhạc Việt Nam, đặc biệt trong lãnh vực nhạc tình yêu, sau hơn nửa thế kỷ (1942-1994), cho đến nay vẫn là ngọn cờ tiên phong trong nền âm nhạc Việt Nam. Và có thể trong tương lai, không có ai giương được ngọn cờ ấy tới nơi cao tuyệt đỉnh như Phạm Duy.
Phạm Duy tạ ơn đời, đời tạ ơn Phạm Duy
Phạm Duy tạ ơn đời trong một ca khúc:
Mang ơn đời chăn vỗ
Dâng cho người yêu góa
Dâng cây đàn bơ vơ
Mang ơn đời nâng đỡ
Dâng nấm mồ thô sơ...

Phạm Duy sống quá nửa cuộc đời trong lòng dân. Biết bao nhiêu chuyện ân tình. Nhưng đó là lòng Mẹ đối với con. Mẹ có bao giờ đòi? Dù vậy những người con có hiếu đều làm một cái gì để đền đáp lại đời. Phạm Duy đã tạ ơn Đời bằng Ngàn lời ca. Phạm Duy tạ ơn Đời bao nhiêu, Đời tạ ơn Phạm Duy bấy nhiêu. Thử nghĩ, nếu cuộc đời này không có Phạm Duy thì sẽ bớt vui hoặc buồn thêm bao nhiêu?
Không có Phạm Duy sẽ không có nhạc kháng chiến với Gươm Tráng Sĩ, Chinh Phụ Ca, không có Xuất Quân, không có Nhạc Tuổi Xanh không có Chiến Sĩ Vô Danh, không có cánh đồng xanh in bóng người thương binh, không có tiếng hát Sông Lô không có Nương Chiều, không có miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, không có thuyền về bến Mê...
Không có Phạm Duy, đời mất mát biết bao nhiêu? Thử nghĩ vắng đi Phạm Duy trong kháng chiến thì nhạc kháng chiến sẽ nghèo đi đến mức nào. Ai là người không hát hoặc không nghe hát Phạm Duy? Phạm Duy có mặt ở hậu phương, Phạm Duy ra tiền tuyến, vào cả vùng địch chiếm... Phạm Duy bỏ Hà Nội ra chiến khu, hát cho Đài Phát Thanh kháng chiến đầu tiên ở Chùa Trầm, Phạm Duy vừa đàn hát vừa viết bài ca, ngâm thơ, diễn kịch... Phạm Duy đi Khu 3, Khu 4, lên Việt Bắc... Phạm Duy ra vào Nam Bộ hai lần, Phạm Duy đi như một chiến sĩ dùng đàn làm súng. Đêm khuya, một mình dở lại cuốn Ngàn lời Ca, đọc lại những bài ca kháng chiến Cách Mạng, thấy bóng chàng nhạc sĩ xông xáo khắp các vùng khói lửa và tôi thấy lại tôi trong cuộc kháng chiến vinh quang của dân tộc. Thiệt vui và cũng thiệt buồn! Phạm Duy đã ca ngợi cuộc kháng chiến đó bằng trái tim của một nghệ sĩ trẻ nhiệt thành, một đứa con yêu quí của nhân dân, của đất nước. Phạm Duy yêu và được yêu nửa thế kỷ qua. Bởi vì nếu không có Phạm Duy, nửa thế kỷ qua đã phải gầy còm trong trang sức và trong tâm hồn. Nếu không có Phạm Duy, thì đã không có tóc sương mẹ già yêu dấu. không có Tình Ca bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, không có vườn rau xanh ngát một mầu của Bà Mẹ Quê, không có gạo Nam gạo Bắc và đòn miền Trung của Vợ Chồng Quê v.v... Không có Phạm Duy sẽ không có Tâm Ca, không có Bé Ca, Hoan Ca, Bình Ca, Vỉa Hè Ca, Tục Ca, không có Tìm Nhau, không có Ngày Đó Chúng Mình, không có khung trời Đại Học, không có Mưa Rơi, không có Giọt Mưa Trên Lá, không có Đường Chiều Lá Rụng...
Không có Phạm Duy, không gian sẽ không vang, tóc em sẽ không bay, môi em sẽ không đỏ, ly chanh đường sẽ kém vị ngọt. Và đời không có ''nhạc kịch nhân gian''. Thiếu Phạm Duy, lòng ta sẽ vắng đi ít nhiều tiếng hát trái tim, mất đi tiếng hát nhỏ, sẽ không có giọng ai khuyến khích những người đang xa nhau nhích lại gần nhau.
Có Phạm Duy ta nhớ mãi một người mang tên Quốc, ta sẽ không quên Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, ta sẽ nhớ mãi rằng ta phải về ôm lấy Quê Hương trong Tự Do. Có Phạm Duy tuổi trẻ tuổi già chúng ta lang thang hải ngoại hay u buồn quốc nội có mười khúc Rong Ca để ngâm nga, nghĩ ngợi về cuộc đời, về nắng sáng nắng trưa. Không có Phạm Duy ta mất nhiều quá. Có Phạm Duy ta được nhiều quá. Với Phạm Duy ta có tất cả Âm Thanh và Trời Đất, niềm vui và nỗi buồn, thất vọng và hy vọng, hoang mang và tin tưởng. Có Phạm Duy ta có Ngàn Lời Ca, mấy vạn chữ nghĩa, những dấu hỏi, những chấm than và những chấm xuống dòng, những dòng nhạc nối liền những dòng chữ triền miên trôi chảy như trường giang để ra đại dương. Nhờ Phạm Duy thế giới hiểu biết ta hơn, nhờ Phạm Duy cây trúc xinh xinh và chiếc áo qua cầu gió bay đi ra làm quen với năm châu...
Đời đã nung đúc nên một Phạm Duy và Phạm Duy đã trả ơn Đời hằng ngày hằng năm hằng tháng bằng tiếng hát của mình. Đời cũng không quên tạ ơn Phạm Duy đã làm cho Đời đẹp hơn và đáng yêu hơn. Con giun nhìn lên trời, con dế ở gốc rạ, lá xanh, lá vàng, con chim con cá, cây tre cây trúc, mặt trăng mặt trời, bà mẹ Gio Linh, bà Mẹ Phù Sa, những anh hùng tuẫn tiết... tạ ơn Phạm Duy.
Những cây cột đèn, những ma quỷ, thần thánh, híppy, Sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, sông Lô và nghìn con sông vô danh tạ ơn Phạm Duy. Những tên mù câm điếc, những người tình già tình trẻ, những ca sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, nhà xuất bản, những cô hàng sách bán băng nhạc cùng các cô bán nước rau má ở Sài Gòn nhớ Phạm Duy...
Những đồng hương ở tận Tân Đảo hay Úc Châu, Bắc Âu băng giá không quên Phạm Duy, mỗi lần Phạm Duy đem tiếng hát lưu vong tới cho họ. Đồng bào quốc nội, dù bị cấm nghe nhạc Phạm Duy hai mươi năm ròng, vẫn nghe nhạc Phạm Duy qua những đợt sóng ngầm và lúc nào cũng coi Phạm Duy như một biểu tượng của Tự Do và lòng Yêu Nước.
Phạm Duy tạ ơn đời hay đời tạ ơn Phạm Duy?.
Việt Nam Việt Nam - Phạm Duy
28 tháng 2, 1994
Xuân Vũ
Theo https://phamduy.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...