Bài Lorca
ĐÔI LỜI VỀ THƠ LORCA
"Con họa mi Andalusia đã bị sát hại!" Tiếng
kêu ấy truyền đi khắp các trung tâm văn hóa châu Âu một ngày mùa thu năm 1936
báo hiệu mở màn cuộc tàn phá nền văn minh nhân loại. Sau đó là Guernica...
là Ban Lan... là chiến tranh thế giới...
Federico Garcia Lorca, nhà thơ lỗi lạc của Tây Ban Nha, là một
trong những nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa phát xít. Bị bọn tướng lĩnh phản bội
nền Cộng hòa bắt giữ ngày 17-8-1936, thi thể anh được tìm thấy trong đống xác
15.000 người bị bắn ngày 19-8 trên miệng một vực sâu ở ngoại vi thành phố. Granada của
đời anh, của sự nghiệp anh, nơi anh sinh ra, nơi anh về để nhận cái chết thảm
khốc. "Nếu có ngày, nhờ Trời, tôi được vinh quang, thì vinh quang ấy phân
nửa là thuộc về Granada, nơi đã tạc nặn nên cái tạo vật tôi: thi sĩ bẩm
sinh không thể cái hồi".
Granada là một trong bốn thành phố lớn (1) của xứ Andalusia ở
miền Nam Tây Ban Nha, xứ sở của những nàng Carmen, những điệu nhảy và bài hát
mê cuồng, của những hội đấu bò tót làm máu đập thành tiếng trên vạn đôi môi, của
những rặng ô-liu ngăn ngắt, những vườn cam và hoa nhài ngát hương đêm hè khiến
"những người đang ngủ bỗng khát thèm từ bao lơn nhảy xuống". Xứ sở đặc
hữu sự giao hoà hai nền văn minh Đông - Tây: nơi đây đã từng là "một trong
những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" mà người Ả-rập xây dựng nên, còn để
lại bao dấu tích trong kiến trúc, trong nghệ thuật, trong hồn người, để lại
trong không gian một cái gì mơ hồ, xa xăm, huyền bí...(2)
Sinh ra ở một làng quê gần thành Granada (3), trong một
gia đình nông dân bậc trung thuộc một dòng họ lâu đời, nhà thơ thừa hưởng ở người
cha tâm hồn gắn bó với đất đai, thiên nhiên, ở người mẹ trí thông minh và những
năng khiếu nghệ thuật (4). Tuổi thơ anh hoàn toàn "thôn dã" với
"những đàn cừu, đồng ruộng, bầu trời, sự cô tịch" như về sau anh kể lại.
Đến năm 1909 gia đình anh mới dọn lên thành phố, và ở Granada thủ phủ xưa của xứ
Andalusia, Lorca đã trải qua thời cắp sách ở bậc trung học và đại học. Một sự
việc rất có ý nghĩa: ở khoa luật của đại học Granada, anh sinh viên Lorca đã gặp
được một người thầy, một người anh tinh thần, một người bạn lớn, đó là giáo sư
Fernando de los Rios, một nhà lý luận về chủ nghĩa xã hội, một niềm vinh dự của
nền đại học Tây Ban Nha lúc đó, và sau này là bộ trưởng giáo dục trong chính phủ
mặt trận bình dân.
Mùa xuân năm 1929, theo lời khuyên của giáo sư, Lorca lên
Madrid trú ngụ ở cư xá sinh viên, nơi đang mở rộng cửa đón nhận những tư tưởng
triết học và mỹ học mới mẻ nhất của thời đại. Chính ở đây Lorca đã bắt đầu tình
bạn với Salvador Dali - họa sĩ, Bunuel - nhà điện ảnh, Rafael Alberti, Pedro
Salinas - nhà thơ... Và chính ở nơi đây, thi tài của anh đã được khẳng định và
chào đón trong nhiệt thành của những người bạn trẻ. Bạn bè anh kể lại: Lorca có
một sức quyến rũ lạ lùng, từ con người anh với phong độ thanh quý, vẻ vui hoạt,
đôi mắt u tối nhưng lại tươi cười, nước da màu đồng, giọng nói như đồng,
"một cái gì như chớp lóa trong thể chất, một năng lượng luôn luôn chuyển động,
một niềm vui, một sự bộc phát mãnh liệt, một vẻ trìu mến hoàn toàn siêu việt.
Con người anh kì diệu, màu nâu, kêu gọi sự toàn phúc"
(Pablo Neruda), đến kỳ tài ngẫu hứng của anh về nhạc, về họa, về sân khấu, về
thơ, cả sáng tác lẫn thể hiện (trước khi học văn và luật, Lorca đã say mê âm nhạc,
anh còn là một họa sĩ có nét vẽ duyên dáng, là một người chơi dương cầm đặc sắc).
Từ những đêm thơ nhạc trong khuôn viên cư xá sinh viên, tiếng
tăm nhà thơ trẻ Andalusia vang ra khắp thủ đô. Giữa làng thơ Madrid
lúc đó đang ồn ào những khuynh hướng thâm nhập từ Paris, đặc biệt là trường
phái siêu thực - mà biến dạng của nó tại các nước nói tiếng Tây Ban Nha có tên
gọi là "sáng tạo chủ nghĩa" (créationnisme) hay "cực đoan chủ
nghĩa" (ultraisme) - giữa lúc nhiều người ầm ĩ kêu gọi "Âu hoá Tây
Ban Nha", mà để chống lại, nhà thơ lớp cũ Unamuno bèn xướng lên điều ngược
lại "Phi hoá châu Âu" - thơ Lorca nổi bật lên xu hướng trở về khai
thác dân ca, tìm lại những truyện thơ trữ tình và lịch sử còn lưu truyền trên
miệng người dân quê tỉnh lẻ. Thế hệ thơ anh đã tìm thấy ở anh người mang sứ mệnh
đẹp đẽ: Tìm lại tâm hồn Tây Ban Nha đang có nguy cơ bị quên lãng, nối kết cái
truyền thống với cái thời đại.
Tập thơ đầu tay của Lorca ra đời năm 1921 đã báo hiệu sự hình
thành thi tài, phong cách và hướng đi của anh. Nhưng phải đến những bài thơ
sáng tác từ năm 1921 trở đi (sau này được tập hợp trong tập "Thơ và bài
hát") mới định hình cái giọng hót riêng quyến rũ của con "hoạ
mi Andalusia". Thời gian này Lorca say mê tìm tòi, ghi chép, thu
thanh dân ca, đến nỗi có người bạn gọi anh là "chàng hát rong thời trung cổ".
Năm 1922, anh cùng với nhạc sĩ Manuel de Falla tổ chức hội Cante Hondo ở Alhambra (nơi
có cung điện quốc vương Ả-rập của vương quốc Granada xưa). Cante
Hondo (có nghĩa là bài hát sâu trầm) là loại dân ca độc đáo của miền Andalusia.
Qua hội này, anh đã khai thác được hàng trăm bài Cante Hondo với "lời ca
say đắm", "giai điệu cũ xưa", tha thiết và ám ảnh như tiếng
"một con hoạ mi mù ca hót". (Người giật giải thưởng của hội là một
ông cụ 73 tuổi!). Chính đây là khởi nguồn những bài thơ tuyệt vời mười năm sau sẽ
ra mắt trong tập "Thơ về những làn điệu Cante Hondo" trong đó những
thể dạng chủ yếu của loại dân ca này (Séguidilla, Soléa, Saéta, Petenera) được
nhân cách hóa, được diễn tả trong thế giới thích hợp với từng thể, có các nhân
vật và phong cảnh khác nhau.
Năm 1924 anh bắt tay viết những bài romance hiện đại. Romance
là thể thơ có nguồn gốc từ lâu đời ở các nước dùng ngôn ngữ La-tinh, nhưng đặc
biệt phát triển ở Tây Ban Nha, đó là những bài ca dân gian kể chuyện lịch sử,
chuyện anh hùng hiệp sĩ hay tình yêu. Năm 1928, Tập romance gi-tan ra đời đã
thành công một cách phi thường. Tên tuổi nhà thơ trẻ vượt biên giới quốc gia (tập
thơ được dịch ra 20 thứ tiếng), đồng thời nhiều bài romance lại quay về thâm nhập
các làng quê Tây Ban Nha và được lưu truyền như những bài dân ca, đặc biệt là
trường hợp bài Cô nàng ngoại tình. (Sau này trong khi đưa đoàn kịch La Barraca
đi lưu diễn các miền quê, Lorca đã có dịp được những cô gái làng đọc cho nghe từng
đoạn trong những romance của anh). Tập romance gi-tan được coi là tập thơ phổ
biến rộng rãi nhất trong thơ ca hiện đại Tây Ban Nha.
Lorca đã giải thích tên tập thơ của mình: "Tôi đặt tên tập
romance này là "gi-tan", bởi vì trong đó tôi ca hát xứ Andalusia, mà
chất gi-tan là biểu hiện thuần tuý nhất, đích thực nhất của xứ sở ấy".
Người gi-tan ở Tây Ban Nha, cũng như người digan ở Nga, người
Bohemien ở Tiệp, Pháp... có gốc Ấn Độ, làm thành những cộng đồng du cư độc đáo
của châu Âu. Và có lẽ chính ở vùng Andalusia, họ đã tìm thấy quê hương,
cây ghi-ta và những vũ điệu của giống người lang bạt đầy quyến rũ đã làm nên
linh hồn của xứ này. Sau Tập romance gi-tan, người ta gọi Lorca là "nhà
thơ Gi-tan". Được gọi thế anh cảm thấy thích thú, có lúc anh còn nửa hư nửa
thực gợi ra một giai thoại về "nguồn gốc gi-tan" bí mật của mình.
Xứ sở Andalusia đã cho Lorca giọng điệu đích thực để
hát về nó. Trong một bức thư gởi nhà thơ Guillen, Lorca viết: "Tôi chỉ muốn
nói với anh rằng tôi ghét giọng đàn sáo réo rắt. Tôi yêu giọng con người, chỉ
giọng con người mà tình yêu phơi trần, giọng con người nổi bật lên giữa những
phong cảnh giết người".
Những phong cảnh giết người có sức cuốn hút mãnh liệt. Phải
chăng cái dữ dội của "cánh đồng dựng đứng dưới hai mươi mặt trời, những
dòng sông chồm lên", cái đau đớn của "rặng Morena mạn sườn nhỏ
máu", cái "hoang vu lượn sóng" hấp dẫn ta với vẻ đẹp nghiêm trầm,
bạo liệt đầy nam tính?
... Và nổi lên, trần trụi, giọng con người
Con người thơ Lorca "miệng đầy nắng và đá lửa", rên
lên, kêu lên nỗi khao khát đốt cháy cơ thể, "làn áo và thịt da hoá thành
huyền đen thẫm", mê cuồng như một điệu ca không biết “đi về đâu với tiết tấu
không đầu”, nhức nhói như có "một mũi lao cắm xuống bật kêu thành tiếng"
giữa hai hàm răng. Khao khát sự sống đến khắc khoải, thơ Lorca luôn đối mặt với
cái chết. Cái chết như hiện diện mọi lúc, mọi nơi. Nó "rình rập từ trên ngọn
tháp Cordoba", nó ở trên mũi dao nhọn run rảy "giữa lòng ngã tư nơi
phố phường rung lên như sợi dây", cái chết ám ảnh như định mệnh khắc nghiệt
điểm giờ chàng đấu bò tót Ignacio:
"Tất cả mọi đồng hồ đều chỉ năm giờ
Ôi năm giờ chiều tăm tối!"
Với bài thơ dài Than khóc Ignacio, Lorca đã đạt đến mức bi
tráng sâu thẳm và vang dội vào bậc nhất trong thơ ca nhân loại nói về cái chết:
"Ignacio lên từng bậc thang
Cõng trên lưng cái chết.
Tìm kiếm bình minh
Mà bình minh không có
Tìm bóng đích thực mình
Mà giấc mơ đánh lạc
Tìm thân mình khoẻ đẹp
Mà thấy máu nở tuôn..."
Từ cuộc tranh chấp vĩnh hằng không thể hòa giải giữa sự sống
- cái chết, những khao khát không bao giờ thoả mãn, những cái đích không bao giờ
đạt được... sự bất lực của phận người sinh ra nỗi buồn chất chứa thơ anh, nỗi
buồn có trăm biến dạng: Thất vọng, ưu phiền, xa vắng, đắm chìm, cô tịch... Có
điều nỗi buồn Lorca không hề có sắc màu bi luỵ yếu hèn. Nó là tiếng kêu đau đớn
của kiếp người vút lên như "cây cầu vồng đen" trước cái trơ trơ nhẫn
tâm của trời xanh, của núi xa im lặng. Nó lành mạnh như "nỗi ưu phiền màu
đen" của cô gái gi-tan "chạy theo hạnh phúc". Nỗi buồn đầy cám dỗ
và ám ảnh, hiệu quả của những nhịp điệu và ảnh hưởng có màu sắc ma thuật phối hợp
một cách kì tài vẻ duyên dáng bay bướm với sự sâu xa máu thịt của những năng lượng
kín thầm.
Trong một bài nói chuyện về nghệ thuật, Lorca đưa ra khái niệm
duende để so sánh với vai trò của "nàng thơ" và "thiên thần"
trong sáng tạo nghệ thuật. Theo anh, "thiên thần" bay cao phía trên đầu
người, ban ân sủng cho con người đón nhận một cách thụ động. "Nàng
thơ" thì mách bảo, gợi nguồn cảm hứng và nhà thơ như nghe thấy những tiếng
nói mơ hồ... Song, cả "thiên thần" và "nàng thơ" đều ở bên
ngoài nhà thơ, đem đến cho anh ta ánh sáng và hình thức. Còn duende, đó là cái
phải đánh thức từ trong tận cùng sâu thẳm của máu ta, nó đốt cháy máu ta, nó
"vứt bỏ thứ hình học êm đềm ta học được, nó đập vỡ các bút pháp", nó
là "quyền lực chứ không phải cấu trúc, cuộc chiến đấu chứ không phải tư
duy", nó là cái mà Goethe đã nói đến: "Quyền lực bí mật mà mọi người
đều cảm thấy nhưng không triết gia nào giải thích được", nó là "tinh
thần của đất". Và Lorca cho rằng nghệ thuật của Tây Ban Nha là nghệ thuật
của duende.
Thực ra thơ anh nhiều lúc đạt đến sự hòa hợp của cả “thiên thần”,
“nàng thơ” và duende. Trong Tập romance gi-tan và Than khóc Ignacio, sự thuần
khiết của hình thức, những cấu trúc có trí tuệ thật hài hòa với cảm xúc cuồn cuộn,
chất bi thương, chất nhục cảm, sức ám thị của từ ngữ, và cả một cái gì có tính
cách linh thị, ảo giác.
Dõi theo tiến trình thơ anh, ta thấy Lorca có xu hướng ngày
càng muốn đi xuống chiều sâu hồn người, như mũi dao nhọn vào sâu những lớp thịt
đau đớn để tìm đến tận "gốc rễ của tiếng kêu". Nhà thơ đã từng tâm sự:
"Bây giờ tôi làm một thứ thơ mở toang mạch máu..."(1) Thấy được tiến
trình ấy ta dễ dàng đón nhận sự đột biến trong thơ anh vào những năm 1929-1930,
đột biến khiến nhiều người ngỡ ngàng đến mức không nhận ra Lorca hoặc có người
- vô tình hay cố ý - còn không muốn nhắc đến khi nói tới Lorca mà họ chỉ quen
như "con chim hoạ mi Andalusia" và chỉ như thế mà thôi. Đó là trường
hợp những bài thơ trong tập Nhà thơ ở New York.
Giữa năm 1929, Lorca theo giáo sư cũ của mình là Fernando de
los Rios sang New York, và sống đời sinh viên trong trường đại học Columbia.
Thành phố "dây thép và bùn nhơ" gây chấn thương sâu xa cho con chim
hoạ mi Andalusia. Chất nhân bản, chất bản năng của Đất phản ứng mạnh mẽ với
nền văn minh công nghiệp của Thép - Ximăng. Nhưng khác với trường hợp Essenin,
nỗi khắc khoải giết người không giết được Lorca, mà lại làm bùng lên một hoả diệm
sơn thơ đầy tinh thần phản kháng (sự phản kháng - tự vệ của Lorca mạnh đến nỗi
ngay trong sinh hoạt ở đại học, anh từ chối nói tiếng Anh, và luôn tìm cơ hội để
phổ biến những bài dân ca của quê mình). Sự phản kháng này không hề mang dấu mặc
cảm tự ti của công dân một nước nhược tiểu trước bộ máy đồ sộ của cường quốc lớn
nhất, mà là tiếng thét sang sảng của một công dân thế giới hiện đại, con người
vừa đặt chân tới New York đã chào Hudson là "dòng sông lớn của ta" y
như một người đồng hương, một người bạn ngang tầm với Walt Whitman. Con người
đó, chỉ sau vài tuần lễ, đã đủ sức dựng lên hình ảnh sừng sững ma quái của một
nền văn minh bệnh hoạn, mất gốc, ngự trị bởi đồng tiền và máy móc. "Điệu
nhảy những bức tường khuấy động miền đồng cỏ Và châu Mỹ ngạt thở vì máy móc với
lệ tuôn"
"Khi trăng lên Những dòng dọc sẽ quay làm rối bầu trời Một
thế giới đầy kim sẽ vây bọc trí nhớ .Và những quan tài sẽ chở đi những ai không
việc làm"
Đó là nước Mỹ đang bước vào thời kì khủng hoảng kinh tế. Nạn
nhân của nó là "những đứa trẻ" bị "những đồng bạc như đàn ong giận
dữ cắn xé tan tành", những "phụ nữ chết chìm trong dầu mỡ",
"những người loạng choạng vì chứng mất ngủ như thể vừa đắm chìm trong máu
ngoi lên".
Chính cái xã hội phi nhân đó đã gây cho Lorca cơn ác mộng triền
miên, anh cảm thấy mình sống trong một thế giới ngột ngạt, bị ma ám, thế giới của
những nghĩa địa, của những người chết rồi vẫn chưa yên, thịt da như chịu sự
hành hình dai dẳng muôn đời. "Trong nghĩa địa xa vời có một người chết.
Than vãn suốt ba năm Vì đầu gối còn mang một phong cảnh khô cằn Và đứa trẻ sáng
nay chôn khóc la dữ dội..."
Chủ đề cái chết trong tập thơ này được đào sâu triệt để, với
một sự quằn quại tìm kiếm có tính chất một cuộc nổi loạn bản thể học, khiến tập
thơ nhiều lúc mở ra những vực thẳm khôn dò, đe dọa dẫn nhà thơ đến bế tắc đen tối,
hư vô. Song, điều đáng chú ý là, ở bất cứ bài thơ nào, sự nổi loạn bản thể học
cũng gắn như hình với bóng với sự phản kháng xã hội.
Cái xã hội phi nhân khiến anh căm giận và anh bộc lộ thái độ
rất dứt khoát:
"Tôi biết làm gì đây: sắp xếp lại những phong cảnh?
Sắp xếp lại những mối tình sau đó sẽ thành
những tấm hình, những mẩu gỗ và những bụm máu?
Không, không. Tôi tố cáo!"...
Anh phẫn nộ kêu gọi sự trừng phạt và mơ ước "một đứa trẻ
da đen thông báo cho lũ người da trắng của thế giới vàng ngày đăng quang của
lúa".
Lorca dành những tình cảm nồng thắm cho Người Đen, những con
người của khu Harlem mà anh hằng lui tới, của điệu jazz u uất, cuồng nhiệt mà
anh thấy rất gần gũi điệu Cante Hondo của xứ sở anh:
"Người Đen! Người Đen! Người Đen! Người Đen!
Máu không lối thoát, trong đêm của anh đêm bị lật nhào
Máu không sắc đỏ. Máu giận dữ dưới làn da,
Mãnh liệt trong ngạnh dao găm và lòng cảnh vật".
"Ôi! Harlem, bị cải trang!
Ôi! Harlem, bị một đám y phục không đầu đe dọa!"
Có lẽ trong tập thơ này ta thấy nhà thơ đã hoàn toàn bị chi
phối bởi duende, những câu thơ vọt thẳng từ cõi thẳm sâu của tiềm thức thành luồng
phún xuất, phá vỡ tiết điệu nhịp nhàng được trí tuệ kiểm soát trong thơ anh trước
đó; những tiếng thét rợn gáy, những ảnh tượng hãi hùng và nhiều lúc phi lý, tối
tăm như những gì đè nặng lên ta trong những cơn ác mộng.
Cuộc "Mỹ du" đã ảnh hưởng quan trọng đối với cuộc đời
và sự nghiệp của Lorca những năm sau đó. Trở về trước, anh còn bị ám ảnh bởi
"ấn tượng của lạnh lùng và tàn bạo... Không ở đâu trên thế giới người ta cảm
thấy mãnh liệt như ở đấy sự vắng mặt hoàn toàn của tinh thần... quang cảnh khủng
khiếp, mà không có sự hùng vĩ". Có phải đó là một lí do khiến cho, khi nền
cộng hòa được lập nên mùa xuân 1931, Lorca đã lao vào những hoạt động văn hoá
sôi nổi với sự ủng hộ của chính quyền? Anh thành lập đoàn kịch mang tên La
Barraca dưới sự bảo trợ của bộ giáo dục, đi lưu diễn khắp nơi với mục tiêu phổ
biến cho đông đảo quần chúng những vở kịch hay nhất trong kho tàng văn hóa cổ
truyền của đất nước. Anh say sưa viết kịch, và có những vở như Lễ cưới đẫm máu
ca ngợi tình yêu tự do đã thành công rực rỡ ở cả trong nước lẫn nước ngoài. Anh
đi nói chuyện về nghệ thuật khắp nơi. Vài tháng trước những biến cố đau thương
dẫn đến cái chết của nhà thơ cũng như của nền cộng hòa, trong một cuộc phỏng vấn
báo chí, anh tuyên bố một dự định sáng tác những vở kịch có nội dung xã hội
theo một cách nhìn xã hội chủ nghĩa.
Lorca bặt tiếng vào giữa tuổi 37, lúc tài năng qua nhiều thử
thách, đang bước vào thời kì chín trái. Cả đất nước Tây Ban Nha sau đó cũng bặt
tiếng dưới nền độc tài. Nhưng trong sự im lặng triền miên đó, những tiếng hát của
con hoạ mi Andalusia lại vang lên ở khắp nơi trên thế giới, sự cám dỗ, ám ảnh của
thơ anh như tăng thêm gấp bội bởi hào quang sự tuẫn tiết của anh.
Ở miền Bắc Việt Nam, 10 năm trước đây tên Lorca mới bắt đầu
được truyền đi trong giới yêu thơ, cùng với một số bài thơ chép tay dịch từ tiếng
Pháp và tiếng Nga, tuy ít ỏi nhưng cũng đã đủ để "mê hoặc" và gây ra
một sự nóng ruột đón chờ ngày nhà thơ được giới thiệu đầy đủ công khai.
Bây giờ, được nhiều bạn bè khuyến khích, tôi mạnh dạn tập hợp
những bài dịch từ 10 năm trước ở Hải Phòng, giữa những trận oanh tạc của máy
bay Mỹ (tài liệu chỉ có quyển Seghers mượn của anh Phùng Quán và quyển
Gallimard II của anh Việt Phương mà Trúc Thông đưa cho tôi, lúc đó thật là những
"của quý hiếm") rồi gấp rút bổ sung những bài mới để làm thành tập
này.
Nói là "dịch", thật ra, tôi chỉ dám gọi việc mình
làm là "chuyển tiếng Việt". Vì dịch một thứ thơ như Lorca mà ý tưởng
bao giờ cũng tan trong âm điệu và tán xạ qua lớp lớp ảnh tượng chất chồng, sung
mãn, giàu chất siêu thực và trừu tượng, lại thông qua một ngôn ngữ trung gian -
tuy đó là những bản dịch được coi là xuất sắc và tiếng Pháp gần gụi với tiếng
Tây Ban Nha như anh em ruột - thì sự thất bại phải cầm chắc trong tay. Nhưng,
có thể nào, một tâm hồn đồng điệu đủ sức vượt qua những trở ngại quá lớn ấy, để
bắt được cái âm hưởng sâu xa của nguyên bản và tái tạo trong một ngôn ngữ khác
những rung vang tương tự? Sự mạnh bạo thể nghiệm của người "chuyển ngữ"
ở đây chỉ có thể coi như biểu hiện của lòng mến mộ và nỗ lực đáp ứng bước đầu một
nhu cầu đã chín trong giới yêu thơ nước nhà.
Chú thích:
(1) Granada, Sevilla, Malaga, Cordoba.
(2) Vào đầu thế kỷ thứ VIII, đế quốc Ả-rập xâm lăng chiếm đoạt
Tây Ban Nha. Đến cuối thế kỷ đó, những thủ lãnh Ả-rập ở Cordoba tuyên
bố độc lập với đế quốc và năm 929, chính thức thành lập vương quốc Ả-rập Cordoba. Song đến 1031, vương quốc tan rã thành nhiều tiểu quốc,
và do đó, bị những người Ki-tô giáo phản công chiếm lại, dần dần
cho đến năm 1492 thì người Ả-rập bị quét sạch khỏi bán đảo.
(3) Lorca sinh ngày 5/6/1898 ở làng Fuente Vaqueros.
(4) Lorca là tên của người mẹ nhà thơ, cũng là tên một thành
phố có nhiều dấu tích pha trộn hai nền văn minh Do Thái và Ả-rập. Có
nhà nghiên cứu gợi ý: Phải chăng do nơi mẹ, nhà thơ mang trong
máu một nguồn gốc phương Đông xa xôi khiến thơ ông giàu ảnh hưởng của
Kinh Thánh, chứa đựng niềm sầu xứ kín thầm và tràn đầy tưởng tượng,
nức hương thơm?.
(1) Thư gửi nhà thơ Colombia.
Bệnh viện Nguyễn Trãi hè 1982 Hoàng HưngNguồn: In trong Thơ Federico Garcia Lorca, Sở VHTT Lâm Đồng, 1988
Bệnh viện Nguyễn Trãi hè 1982
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét