Bút nghiên 1
PHẦN I - CHƯƠNG I
- Tâm ơi, về Thầy bảo kia kìa!
Đương ở trên cây ổi, nghe có tiếng gọi, Tâm vội tụt xuống gốc
cây, chị Tâm đã dọa:
- Chết a. Thầy đang tìm đấy a! Cho chết, về mau! Có Thầy Đồ sắp
sửa mổ bụng mày!
Tâm khép nép về đến cửa. Thầy Tâm bảo:
- Con về chào Thầy Đồ đi, mai sang thầy dạy học. Mau ngoan.
Tâm chắp tay vái chào, rồi đứng tựa vào tường và giương mắt
nhìn ông khách. Khách là một ông Đồ đến ngồi dạy học ở làng, bạn với ông Lý Tưởng,
thầy Tâm. Mỗi bận ông Đồ đến chơi, ngồi nói chuyện hàng giờ, Tâm phải đứng hầu
điếu đóm và việc vặt. Tâm cho là thường.
Nhưng hôm nay, Tâm thấy khác, ai cũng đều chăm chú đến mình,
như đã bàn nhau cái gì ấy. Làm cho Tâm bẽn lẽn đứng lùi dần nép vào xó cửa. Chị
Tâm bưng nước lên, nhìn thấy vội hỏi:
- Sao không đứng ra ngoài kia nào?
Tâm lẩm bẩm:
- Thèn thẹn bỏ bố đi ấy!
Rồi Tâm cứ đứng yên lắng tai nghe hai người nói chuyện với
nhau. Thầy Tâm nói trước:
- Tôi định mai làm lễ ‘’vỡ lòng’’ cho cháu, rồi sang nhờ bác
dạy hộ. Cháu nó nghịch lắm. Bác cứ đánh cho. Ông Đồ hỏi:
- Cháu năm nay lên mấy?
- Nó lên sáu, đẻ tháng hai, nên hồi Tết định ‘’vỡ lòng’’ cho
cháu, nhưng sợ tháng bào thai (tháng còn ở trong thai), mà để đến sang năm lên
bảy thì lại kiêng tuổi thần đồng.
- Được bác ạ, cho nó học sớm ngày nào hay ngày ấy. Nó cũng đã
cứng rồi. Để chơi rong lêu lỏng nó nghịch ngợm hư thân đi, sau này khó bảo.
- Vâng, bác dạy phải lắm, thế mai chúng tôi sửa lễ rồi mời
bác sang tác thành cho cháu.
- Vâng, mai tôi xin sang.
Ông Đồ đứng dậy ra về. Ông Lý Tưởng tiễn chân ra đến cổng,
lúc giở về, thấy Tâm còn đứng dựa tường ông cười bảo:
- Cho đi chơi hết ngày hôm nay, mai phải đi học.
Tâm chạy ra vườn, nhưng không thiết gì chơi nữa, trong bụng vừa
buồn vừa lo. Buồn sẽ không được mỗi ngày nô đùa chạy nhảy, leo cây này, trèo
cây nọ, tìm hoa kiếm quả về tế đình và chia phần. Lo không biết đi học rồi ra
thế nào, học là một việc rất khó, bài không thuộc, ông Đồ cứ lấy roi mây mà vụt
cho thì chết! Tâm rất bối rối, thẫn thờ, Tâm chạy ra thăm cái đình của Tâm làm ở
sau nhà. Cái đình bằng hai hòn gạch dựng và lợp một hòn gạch nằm ngang. Ở
trong, trên hòn gạch để làm bệ, một cái chén con đựng tro lổng chổng mấy que
hương, là nơi thờ thánh. Bên ngoài bát hương nhỏ ấy bày một củ khoai lang nướng.
Tất cả lễ vật tế buổi trưa mà làng chưa chia phần. Tâm ngồi xuống cúi đầu nhìn
vào đình với một vẻ thành kính rõ rệt. Tâm băn khoăn nghĩ mà lo rồi đây mình đi
học, con Vân, con Tẹo bên hàng xóm có quét tước cúng tế ở đình cho được chu đáo
không, không thì thánh giận cho chết! Tâm chán ngán, lững thững ra đứng ở gốc
cây bưởi tay vịn cành mà chân không muốn trèo lên như mọi bận! Vừa lúc ấy chị
Tâm đang hái chè liền đấy trông thấy Tâm vội reo lên:
- A! A! A! Tình tính tang! Mai có đứa bị mổ bụng nhét chữ
vào! Vỡ lòng là mổ bụng nhét chữ vào!
Tâm càng thêm lo sợ cứ vẩn vơ chỉ chực khóc, vội chạy sang hỏi
thím ở nhà bên cạnh. Bà thím lại cười nói oang oang:
- Thôi chết, thế là hết nô đùa! Ngày mai ông Đồ đến, ông ấy mổ
bụng ra như mổ bụng con gà ấy, rồi ông ấy nhét cả quyển sách vào.
Làm cho Tâm sợ hết hồn, không biết làm thế nào mà tránh được,
cứ quẩn vào với Mẹ. Chúng nó cười, chúng nó chế, chúng nó nói xấu. Tâm không nhịn
được òa lên khóc. Mẹ Tâm chửi toáng lên rồi thì dỗ mãi Tâm mới nín, nhưng Tâm vẫn
nắc nõm lo hoài.
Đến lúc Thầy về khuyên giải và đánh những đứa nói láo, Tâm
hơi yên bụng, rồi Tâm thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau, Tâm không ngủ trưa nữa. Tâm dậy sớm để mà lo. Ở
dưới nhà, người ta đồ xôi và làm thịt gà. Trên nhà trần thiết sang trọng như một
ngày có giỗ vậy. Thầy Tâm đã đặt một cái án thư ở giữa nhà, trên bầy hai cái ống
hương, ba cái dài sơn và một cây đèn dầu nam, Thấy bảo đấy là thiết lập bàn thờ
Đức Thánh. Biết vậy! Mâm xôi trắng muốt với con gà béo vàng, ngẩng mỏ ngậm chiếc
hoa hồng đã đặt trên bàn coi rất ngon.
Nhưng Tâm không dám nghĩ đến ăn. Vì ông Đồ đã đến, Tâm còn mải
sợ lưỡi dao của ông. Người thế mà ác! Sao lại hay mổ bụng trẻ con. Tâm tấm tức
nghĩ vậy. Trông trên bàn khói hương nghi ngút, cứ cuồn cuộn lên rồi lại tỏa lan
ra, Tâm thấy trong lòng càng thêm nao núng, lại cả đĩa muối và con dao sáng
loáng kia nữa.
Thôi chính họ mổ bụng thật rồi. Càng nghĩ Tâm càng bối rối
hãi hùng, biết cầu cứu vào đâu bây giờ. Mọi khi có việc gì là chạy ngay đến với
Mẹ hay làm nũng với Cha. Nhưng chuyến này chính Cha Mẹ chủ tâm làm thế thì đành
chịu, chứ biết kêu ai? Thôi cũng liều, có đau rồi cũng phải khỏi, đã chết đâu
mà sợ!
Tâm chăm chăm nhìn ông Đồ từng ly từng tí. Ông lễ bốn lễ trước
bàn thờ, vái rồi quỳ, chắp tay giơ lên ngang trán miệng lâm râm khấn. Đoạn ông
cầm bút vẽ ngoằn ngoèo bốn cái bùa trên tờ giấy trắng, để lên bàn thờ, quỳ khấn
nữa, sau rốt, ông lại lễ bốn lễ. Rồi ông đem đốt tờ giấy, lấy than hòa với nước
lã đưa cho Tâm uống. Như một bệnh nhân mong chóng khỏi bệnh uống thuốc một vẻ
ngon lành, Tâm mạnh dạn uống một hơi hết cả chén. Ông Đồ bảo Tâm vào lễ bốn lễ,
Tâm không rụt rè làm theo lời ngay. Rồi ông Đồ lấy ở trên bàn thờ xuống một cái
bút mới, đĩa son vừa mài sẵn và một quyển sách mới đóng có cái bìa đánh nhựa
cây dầy cồm cộm. Ông nằm soài xuống giường, hai gối giáp vào bụng, hai chân
song song soải đều về bên phải. Ông dí ngòi bút vào mồm nhấm nhấm cái đầu nhọn
rồi chấm vào đĩa son lấy ra viết những chữ đỏ lên trên giấy trắng ngà ngà. Viết
xong, ông bắt Tâm 4 ngồi xếp bằng xuống chiếu, trước bàn thờ, hai chân gập lại
và ông chỉ tay vào từng chữ bảo Tâm học:
- Thiên tích thông minh (Giời phú cho thông sáng).
- Thánh phù công dụng (Đức thánh giúp cho có công nghiệp ích
dụng ở đời).
Tâm chăm chăm nhìn nét chữ và học rắn rỏi, được ông Đồ khen:
- Thằng bé học bạo dạn lắm, tất sau nầy học được!
Đương học, Tâm sực nhớ đến con dao vội ngước mắt nhìn lên bàn
thờ thì xôi gà và dao đã chuyển đi cả rồi, Tâm lại cắm đầu học.
Mâm cổ đã đặt lên giường, Thầy Tâm, Bác Tâm và ông Đồ đã khề
khà rượu. Tâm vẫn ngồi học tiếng to và trong, rất rõ ràng. Mọi người đều khen
Tâm ngoan ngoãn mạnh bạo hơn các trẻ khác. Có ngờ đâu, chỉ vì sợ mổ bụng Tâm mới
được như vậy, Bác Tâm đã ngấm hơi rượu, oang oang nhủ Tâm:
- Cố học đi cháu ạ, cố học giật lấy cái ‘’cử nhân’’ để rồi
làm tiên chỉ làng này mà ăn thủ lợn!
Ông Đồ thêm:
- Học thi đỗ làm quan, tước lộc vua ban thầy cũng được nhờ.
Rồi mọi người cùng cười. Ông Đồ cho Tâm nghỉ đi ăn cơm. Tâm
lanh lẹn gấp sách lại, đứng dậy toan đi ngay xuống nhà thì ông Lý Tưởng đã gọi
dừng lại bắt xin phép và mời mọi người đã. Tâm chắp tay nói một câu đã quen:
- Con xin rước Thầy Đồ, Bác với Thầy mời rượu, con xin phép
xuống nhà ăn cơm ạ!
Ông Đồ ưỡn ngay người lên, xoa tay vào đùi ra vẻ bằng lòng lắm,
nói:
- Ừ, cho đi xuống, tốt lắm!
Tâm đã ra đến cửa. Nhưng cái ý nghĩ con dao mổ bụng chưa
thoát hẳn. Tâm lại giở lại rón rén, ngập ngừng, ông Lý liền bảo:
- Sao chưa đi ăn cơm? Con quên cái gì thế?
Tâm chấp tay run sợ ấp úng nói:
- Thưa Thầy Đồ, có phải mổ bụng không ạ?
Mọi người đều phá ra cười rũ rượi. Cả những đầy tớ đứng hầu đấy,
những người ở nhà dưới không hiểu gì cũng phải chạy cả lên xem. Im tiếng cười,
ông Đồ mới ôn tồn nói:
- Ai bảo con thế? Không phải đâu, Vỡ lòng là làm lễ Đức Thánh
Khổng Phu Tử rồi bắt đầu học, vì chữ là của Ngài. Một chữ của Thánh là một gánh
vàng nên đi học là phải trình Ngài trước, chứ có phải mổ bụng đâu.
Còn ông Lý mắng bâng quơ:
- Quân ranh, chỉ nói láo cho em nó sợ. Thôi xuống ăn cơm đi
con!
Thế là xong. Thế là thoát nạn! Nào chị, nào thím, nào hàng
xóm, nào người nhà, họ chỉ nói láo dọa trẻ con để Tâm sợ hoảng hồn chứ làm gì
có mổ bụng? Tâm vui vẻ xuống nhà và vui vẻ ăn cơm. Bây giờ Tâm không lo nữa.
Tâm lại thích đi học kia. Chị Tâm bây giờ lại chế lối khác:
- Ê, lêu lêu! Tam tự kinh là rình bú mẹ.
- Nhân chi sơ là sờ vú mẹ.
- Tính bản thiện là miệng muốn ăn.
Tâm nguây nguẩy cãi:
- Không phải thế kia! đồ nói điêu!
CHƯƠNG II
Quá trưa, Tâm được đưa đến nhà trường. Nhà trường là nhà ông
Cựu Mẫn, cựu Lý Trưởng, ở giữa làng. Qua cái cổng ngan tức là cái cổng có mái lợp,
có hai cánh gỗ, qua cái sân lát gạch là vào đến trường. Nhà trường là một cái
nhà gỗ lợp gianh dài năm gian, ba gian có chuồng cửa bức bàn, còn hai gian bên
là cửa sổ. Ở gian giữa kê bàn thờ, trên có cỗ ỷ và các đồ thờ sơn son thếp vàng
chói lọi. Ngoài che một bức rèm khâu dính bằng hai đôi câu đối vóc người ta mừng
khi ông cựu làm Lý Trưởng. Trước bàn thờ, một bộ trường kỹ quang dầu bóng lộn.
Gian bên trái kê một cái giường giải chiếu hoa, trên để cái tráp sơn đen bóng,
một đĩa son, một ống sứ đựng bút, một cái gối, một cái khay chén, một ấm nước,
một cái roi mây dài đườn đượt nằm ngang trên giường: Đấy là chỗ ông Đồ ngồi. Ở
gian bên, một dẫy phản kê liền nhau sát tận vách, chạy suốt từ cửa sổ trước đến
cửa sổ sau để học trò ngồi. Đằng gian bên phải, cũng một dẫy phản kê sát nhau
như vậy.
Tâm đến sớm nhất, ông Đồ chỉ Tâm ngồi vào góc phản liền với cửa
sổ sau. Tâm ngồi xếp bằng gọn ghẽ, định thần ngắm nghía mọi nơi.
- Lạy thầy ạ!
- Lạy thầy ạ!
- Lạy thầy ạ!
- Lạy thầy ạ!
Những học trò lục tục đến chắp tay lên ngực vái chào. Chúng
ngồi vào chỗ, giở sách vở, mở cái ống tre dốc ra nào bút, nào mực...Lấy nghiên,
đồ ít nước vào mài mực, rồi nằm soài liền nhau rất thẳng thành hai hàng châu đầu
vào nhau cắm cúi viết. Tâm cũng nằm soài tô những nét son của ông Đồ viết ở vở.
Tâm lóng ngóng hai lần đánh rơi cây bút rây nhẹt cả mực ra vở, rồi dần dần quen
đi! Tâm cố hết sức tô cho kín nét ngang, nét sổ, nhưng sao vẫn trật ra ngoài...
Học trò đến đông đủ nằm đặc cả phản, nói chuyện ồn ào. Thỉnh
thoảng có đứa nói đến Tâm, buông một câu bâng quơ để chòng ghẹo. Tên nào viết
xong thắp bút lại bỏ vào ống tre đậy nắp, đút nghiên xuống gầm giường rồi bước
qua những đứa khác, đem vở lên cho ông Đồ chấm.
Ông lấy bút son khuyên những chữ đẹp, sổ những chữ xấu rồi
phê điểm. Đứa nào viết xấu lắm là y như bị những roi mây vào đít vào đầu. Có đứa
bôi bẩn quá không thể trông được phải dần tay kêu giời kêu đất, lạy lấy lạy để
mà cũng không được tha. Úp bàn tay xuống để người ta lấy cán dùi hay chuôi dao
mà đè lên trốc dần đi dần lại. Ai mà chả đau, ai mà chả khiếp! Tâm mới đi học
chưa phải đòn như thế mà sợ quá đi mất, không dám nhìn ông Đồ.
Đấy là dẫy học trò trẻ con bé như Tâm giở lên đến mười một mười
hai. Còn dẫy phản đằng gian cùng bên kia, toàn học trò lớn đang cắm cổ viết,
tha hồ nói chuyện, ông Đồ mặc kệ không lại nơi họ. Tự nhiên Tâm ao ước được nhớn
như những anh học trò ấy để được tụ họp với họ, xa con mắt và cái roi của ông Đồ.
Học trò viết lách đã xong tất cả, xếp gọn vở lại rồi ngồi dậy
mở sách ra học. Chúng thi nhau kêu rõ to để chóng thuộc, ồn như cái chợ. Tâm vẫn
‘kêu’’ hai câu học ban sáng. Nhưng mãi nhìn xem chúng nó học, Tâm quên ngay đi
mất, Tâm lo sợ không dám hỏi ông Đồ, vội phải bẹo thằng Bích ngồi cạnh để hỏi,
thằng Thân ngồi bên này thấy vậy liền chỉ tay lên mọi chữ bảo:
- Học đi ‘’Thiên tích thông minh. Thánh phù công dụng’’.
Thằng Bích gọi giật:
- Tâm ơi Tâm! Nó bảo láo đấy, mày phải đòn mày chết. Cái thằng
Thân kia chỉ bảo láo nó thôi! Đây mày nghe tao dạy:
- Thiên tách thông manh, thành phò chỏng gọng!
Giữa lúc ấy, véo véo hai roi mây vụt xuống lưng một tên học
trò ngồi gần đấy, tên ấy quằn quại, hai tay xoa lưng, mặt nhăn nhó, nước mắt chạy
quanh, thằng Bích lại nhanh nhẩu nói thêm:
- Đấy mày mà học sai cũng phải đòn như thế, thằng Mẫn nó học
chữ nọ sọ chữ kia, thầy đánh đấy.
- Thằng Bích nó xúi dạy đấy, đừng nghe!
Thằng Thân nói vậy rồi lại ngửa mặt gào chữ.
Sợ không dám đến hỏi ông Đồ, Tâm băn khoăn không biết nên tin
đứa nào. Định hỏi đứa khác nhưng chúng còn mãi học, Tâm lẩm bẫm nghĩ một lúc:
- À phải rồi có ‘’gáy phò thì mới nằm chỏng gọng’’.
Rồi Tâm cũng cố đỏ mặt gào:
- Thiên tách thong manh ư! Thánh phò chỏng gọng.
Chợt ông Đồ gọi:
- Tâm! Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng chứ!
Tâm giật nẩy mình, vừa học bé tiếng lại vừa chửi:
- Mẹ mày Bích ạ, Mẹ mày xui ông!
Thằng Bích khì khì cười rồi thè lưỡi nhăn mặt nạt lại Tâm.
Ông Đồ trông thấy cầm roi vụt đánh vèo một cái, thằng Bích rẩy người lên, mặt
sa như cái thớt, ngồi khóc ti tỉ.
Mặt giời đã lặn. Sắp tối đến nơi, gà đã về đặc sân sắp sửa
lên chuồng. Học trò gấp sách lại, cắp lên nách, tay cầm ống bút, tay cầm
nghiên, đi ra cửa vái chào ông Đồ:
- Lạy thầy, con về!
- Lạy thầy, con về!
Rồi ùa nhau chạy tản mát như đàn chim sẻ tản về các lối.
Sáng hôm sau, Tâm đến trường, đã đông đủ học trò. Buổi học sắp
sửa bắt đầu. Học trò vây quanh giường ông Đồ vòng trong vòng ngoài. Những đứa
bé ngồi sát, để sách lên giường còn các trò lớn đứng quanh quẩn ở ngoài. Một đứa
mang đĩa son ra bể lấy nước mài đã về, để đĩa son lên giường. Mầu son đỏ tươi
phủ kín đĩa lố nhố những bông bọt nổi lên trông rất đẹp. Hòn son nhẵn thín nằm
gọn lỏn ở giữa đĩa như hòn núi giả trong cái bể con. Ông Đồ cầm lấy bút, dầm
ngòi vào nghiên son lấy ra chấm sách, tay ông thoăn thoắt điểm rất nhanh. Thỉnh
thoảng ông sổ một cái ngắn, hay khuyên tròn nhỏ như cái cúc. Một chồng sách cao
để trước mặt ông phút chốc đã hết. Đoạn ông viết mấy bài mới cho những đứa trẻ
mới học. Rồi buổi học bắt đầu. Đứa ngồi gần chỉ tay vào sách, đứa đứng ngoài
chĩa sách vào, chúng thi nhau hỏi, tranh nhau hỏi, đứa nọ cướp lời đứa kia:
- Thưa thầy chữ gì đây?
- Bẩm thầy câu này nghĩa là gì?
Ông Đồ ngoảnh đi ngoảnh lại, miệng nói, tay chỏ luôn luôn
không ngớt, lắm lúc mồm bắn cả nước bọt ra. Tâm thỉnh thoảng trố mắt nhìn ông Đồ
và lũ học trò có cảm tưởng đứng nhìn một đàn chim con thấy mẹ về, nghểnh cổ đòi
ăn vậy. Thế mà có đứa hỏi ba bốn lần mới được một câu. Lác đác vài đừa ở xa đến
trễ, ông Đồ ngừng lại, chấm sách, trong khi học trò vẫn học ồn ào.
Tâm may được ngồi gần ông Đồ, học bài mới, ông chỉ tay bảo
luôn không phải hỏi, Tâm rang rảng học:
- Thượng đại nhân, thánh ất dĩ, hóa tam thiên, thất thập sĩ.
Nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử, giai tác nhân, khả tri lễ dã (đại ý nói: Vị thánh
nhân ngày trước dạy ba nghìn học trò được bảy mươi người tài giỏi. Lũ chúng
bây, bây giờ còn nhỏ, lên bảy lên tám tuổi, học mà làm điều nhân, như thế khá
là biết lễ vậy).
Bỗng có tiếng roi đập luôn mấy nhát xuống giường ra hiệu
im. Tất cả đều thôi học và lặng lẽ ngoảnh mặt ra cửa. Một người đàn bà tất tả
vào láu táu thưa:
- Bẩm lạy thầy, thằng Bân nhà cháu trốn học lười lắm, lại
ương ngạnh nữa về nhà bảo không nghe, cháu đã lôi lại được đây. Xin thầy đánh
cho nó chừa, chúng cháu được nhờ.
Tâm trông ra thấy thằng Bân đang khóc sướt mướt trong tay mẹ
nó. Còn ông Đồ thì mặt đỏ bừng, mắt ông long lên, ông bảo bà kia rằng:
- Được bà cứ về, để nó đấy tôi.
Rồi ông sai ba đứa học trò lớn lôi thằng Bân vào nọc căng xác
ra. Một thằng đè đầu, một thằng kéo hai chân, một thằng giữ quặt hai tay lên
lưng. Bân nằm như con ếch ở dưới đất, mông đít trật ra để nhận lấy những roi:
Vút! Vút! Roi cứ luôn luôn vút xuống đít, những cái lằn roi nổi lên như những
con đỉa đui! Bân quằn quại khóc không ra tiếng nữa. Cả trường đều im lặng, ai nấy
đều sợ hãi, nhất là Tâm. Khi ông Đồ vụt đã mỏi tay và đã thay hai roi rồi, Bân
chì còn ức ức không nói được câu ‘’Lạy thầy con xin chừa’’ ông thầy mới thôi
đánh, cho Bân đứng dậy, bắt lễ bốn lễ rồi mới cho về chỗ ngồi. Bân chập choạng
đứng lên như người say rượu, lễ xong bò về xó nhà, còn nức nở khóc mãi.
Học trò lại bắt đầu học:
- Thưa thầy chữ gì đây ạ?
- Bẩm thầy chữ minh nghĩa là gì?
Ông Đồ bảo:
- Minh là sáng. Thông minh là thông sáng.
Chúng lại thi nhau hỏi, ông Đồ lại mỏi mồm bảo. Trong trường
lại ồn ào như chim vỡ tổ. Tâm cũng cố học, nhận lấy bài mới:
- Thượng đại nhân, Thánh ất dĩ...
Tâm chợt nhớ hôm rằm tháng giêng vừa rồi đi xem hát chèo, bọn
phường chèo cũng học bài như thế, mà sao chúng học vần vần là kia, Tâm hãy còn
nhớ. À, phải rồi, hay là chúng học cả nghĩa. Tâm cũng thuận mồm học theo:
- Rước Vua đi trước là Thượng đại nhân, quần thần theo sau
thánh ất dĩ, hai bên thủ thỉ là nhĩ tiểu sinh, quan viên tế đình khả tri lễ dã.
Mọi học trò và cả ông Đồ đều phá ra cười.
Ông Đồ hỏi Tâm:
- Ai bảo mày thế?
Tâm sợ tái mặt thưa:
- Bẩm thầy con học nghĩa.
- Nhưng ai dạy mày?
- Bẩm thầy con học phường chèo!
Lại một chập cười nữa, một tiếng roi đập mạnh xuống giường, hết
thẩy đều im. Ông Đồ nghiêm trang dõng dạc nói:
- Từ đây hễ chữ nào không biết phải hỏi. Không được học láo.
Hễ học sai là mười roi này, nghe chưa?
Tâm run run thưa:
- Lạy thầy, vâng ạ.
CHƯƠNG III
Hôm sau, Tâm đền trường được học sang bài mới, bài bắt đầu
trong sách Tam tự:
Tam tự kinh
Nhân chi sơ
Tính bản thiện
Tính tương cận
Tập tương viễn
(Sách ba chữ
Người chưng xưa
Tính vốn lành
Tính cùng gần
Tập cùng xa) - dịch theo nghĩa của các ông Đồ bảo trẻ.
Tâm học ngoan ngoãn rõ ràng, ai cũng phải chú ý. Tâm cẩn thận
từng tí, không dám sai thú điều gì thầy bảo. Mối lo sợ của Tâm cứ mỗi lúc mỗi
tăng, khi thấy những trẻ bị đòn phạt. Nhất là những đứa không thuộc bài bị phạt
‘’luồn khố’’. Một đứa nhất đứng dạng cẳng, ở dây lưng buộc thõng xuống hai quả
sung hay hai quả cà. Đứa bị phạt phải ngồi xuống ngẩng mồm đớp hai quả, rồi
chui đầu sang bên kia, trong khi đứa thứ nhất cầm roi vụt mạnh vào lưng vào đít
và hỏi:
- Từ rày mày có thuộc bài không?
- Bẩm có ạ.
Chui đi chui lại hai lượt, đớp quả hai lượt, và bị đánh hai
lượt, thế là xong cái tội ‘’luồn khố’’. Thực là nhục nhã, thực là xấu hổ. Đi học
mà như vậy thà chết quách đi, học làm gì? Tâm nghĩ thế nên quyết chí học thật
thuộc, thật giỏi, không để bao giờ bị phạt. Nghĩ vậy nên về đến nhà Tâm mang
ngay sách ra học rang rảng:
Tam tự kinh
Nhân chi sơ
Tính bản thiện
Tâm vừa học thì chị Tâm vin ngay lấy câu ấy mà chòng:
- Tam tự kinh là rình bú mẹ, sắp sửa vào bú mẹ bây giờ.
- Nhân chi sơ là sờ vú mẹ, mân mê để mà bú.
- Tính bản thiện là miệng muốn ăn, suốt ngày chỉ vòi ăn.
Tâm một mực cãi:
- Không phải thế kia! Không phải thế kia! Nhưng tất cả người
nhà, đầy tớ, bà thím, bà bác đều hòa với chị Tâm mà chế giễu, Tâm không chịu được,
chửi toáng tất cả, rồi òa lên khóc, bỏ không học nữa. Tâm khóc ti tỉ mãi. Ông
Lý Tưởng đi đâu về chị Tâm lại và hỏi đầu đuôi, đánh cho chị Tâm một trận, rồi
bế Tâm đi ngủ.
Sáng hôm sau Tâm tới trường, bài không thuộc, nghĩ đến tội
‘’luồn khố’’ mà lo. Tâm cố học nhẩm mãi mà vẫn không thuộc. Đến lúc ông Đồ gọi
lên đọc, Tâm cứ đứng đực người ra. Ông Đồ nghiêm nghị trừng mắt bảo:
- Thế chữ mày để đâu cả?
Cuống quít, thầy hỏi, Tâm vội đáp:
- Bẩm thầy chữ con để ở nhà ạ!
Cả bọn học trò phá lên cười. Tâm thẹn quá cúi gầm mặt xuống,
tay mân mê cuộn gấu áo.
Nhưng xấu hổ nhất đối với Tâm có lẽ là lần đầu tiên phải quét
nhà! Nhà trường mỗi ngày phải hai lượt quét, buổi sáng và buổi chiều. Công việc
ấy giao cho những đứa bét ở lớp trẻ con. Buổi sáng thì bài học, buổi chiều thì
chữ viết. Đứa nào học quên mất nửa bài thì phải luồn gầm giường để soi móc cho
sạch.
Tâm đã quyết chí học bài nào cũng thuộc nên luôn một tháng
không lần nào bị phạt. Chữ tô đẹp, bài học thuộc. Tâm chỉ nhận được những lời
khen lào lao. Nhưng học ròng rã luôn một tháng giời không được nghỉ ngày nào,
chỉ lo với sợ, Tâm đã thấy chán, nhớ những buổi nô đùa thỏa thích khi trước,
Tâm buồn rầu than thở cho số phận học trò. Ai đời, đi học cặm cụi mãi suốt ngày
đêm vào sách vở mà vẫn phập phồng lo sợ, không lúc nào rảnh thì có khổ không?
Khổ hơn bác cu Tẹo đi cày, khổ hơn con ở đun bếp thổi cơm, chăn trâu cắt cỏ!
Chúng còn có lúc rỗi, có lúc chơi, và hết việc hôm nay không lo gì đến ngày
mai! Tâm thì cứ phải lo nối nhau mãi mãi...
May sao, hôm mùng tám tháng tư ngày ‘’ Bụt sinh Bụt đẻ’’ ở
chùa và ở đình làng, người ta bày đàn lễ ‘’cầu mát’’ tiễn quan ôn, nhà ông Cựu
Mẫn đến lượt ‘’đương cai’’ các học trò đều được nghĩ cả ngày!
Tâm mừng quá, sáng tinh sương, Tâm đã chạy ra đình xem đàn,
và thuyền rồng, voi ngựa mũ mã, hình nhân. Tâm mãi chơi suốt cả ngày, chỉ về ăn
cơm bữa trưa. Tối lại lên chùa xem ‘’tắm Phật’’. Khuya về mệt quá, Tâm đi ngủ
ngay, không nhìn đến bài.
Sáng hôm sau, Tâm ở nhà ra đi, ngần ngừ mãi để chờ gặp đàn
ông cho may. Nhưng rủi thay, lúc ra đến ngã ba lại gặp ngay cô đĩ Tít, Tâm vừa
tức và càng thêm sợ. Đến trường, tuy học bài mới mà Tâm vẫn mở lại nhẩm qua bài
cũ. Nhưng vẫn không thuộc. Đến lúc đọc, Tâm chỉ đọc lõm bõm được mấy câu, rồi
tay mân mê cuộn áo, mắt cứ chớp chớp trông lên sà nhà! Ở ngoài chúng nó reo:
- A ha, thằng Tâm không thuộc.
Ông Đồ trừng mắt hỏi:
- Tại sao mày không thuộc?
Hôm qua lại mãi chơi phải không. Hai ngày một bài mà ngắc ngứ.
- Bẩm thầy không ạ.
- Thế sao không thuộc?
- Bẩm tại con gặp cô đĩ Tít.
Học trò đều cười, ông Đồ cáu, vụt Tâm một roi và hỏi:
- Mày nói láo, gặp cô ấy làm sao lại không thuộc bài?
Tâm sụt sịt giơ cánh tay lên mặt thưa:
- Bẩm thầy, con học kỷ rồi, nhưng gặp cô ấy dông, nên đến lúc
đọc lại quên mất.
Mặc dầu, Tâm cũng bị phê chữ ‘’liệt’’ vào sách như thường và
phải quét nhà luồn gầm giường! Đến lúc sắp tan, lũ học trò giục:
- A ha! Thằng Tâm phải quét nhà. Sao không đi lấy chổi quét
đi mau lên?
Tâm còn đứng ngần ngại thè lưỡi chửi lại bọn học trò. Tưởng
bé mọn, ông đố tha cho cái phạt khó nhọc ấy, nhưng thằng cu Tạo, xưa nay vẫn bị
quét nhà luôn, đứng lên thưa:
- Bẩm thầy thằng Tâm nó không quét nhà!
Ông Đồ đang cắm đầu viết vội mấy quyển vở tô, ngẩng lên hỏi:
- Sao thằng kia lại không đi quét nhà? Hay muốn phải đòn?
Cuống quít, Tâm vội chạy xuống nhà dưới lấy cái chổi lên phe
phẩy quét từ đầu đằng kia lại. Ở nhà, Tâm không phải quét thế bao giờ nên cầm đến
cái chổi, tay cứ luống cuống quét chỗ nọ tạt sang chỗ kia. Lại thêm chúng nó
kéo đàn chạy theo sau, hạch sách từng ly từng tí, bắt rúc hẳn vào gầm giường, bắt
soi hẳn vào chân phản. Rồi ở ngoài chúng nó khúc khích cười. Tâm loay hoay hì hục
mãi mới ra khỏi một gầm giường, mặt đỏ bừng, mũi thò lò chảy ra. Tâm đứng ngay
người lên, trông cái nhà rộng năm gian mà chán, quét đến bao giờ cho xong. Tâm
nghĩ:
- Thế này ỉa vào đi học nữa!
Nhưng chúng nó lại giục, Tâm lại khom lưng cấm đầu quét. Lâu
lâu học trò tản mát về dần. Còn mấy đứa ranh mãnh ở lại để trông coi Tâm quét
nhà cho sạch. Đến mãi trưa rặt. Tâm mới quét xong, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm cả
áo, cắp sách ra đến cổng, trông thấy người nhà đứng đón, Tâm òa lên khóc, mấy đứa
trẻ cùng về thấy vậy, được thể reo:
- Ê, ê, ê! Lêu Lêu, có đứa bị chui vào gầm giường! Quét nhà
chui gầm giường, a, a!
Tâm tức quá, vừa khóc vừa phát khùng:
- Ông ỉa vào, ông không đi học nữa! Xem chúng mày còn chế vào
đâu nữa!
CHƯƠNG IV
Cuối tháng tư. Ngoài đồng những bông lúa đã là là trĩu xuống,
đổ màu vàng nhạt. Lác đác đã có người gặt. Trường cũng sắp nghĩ mùa để ông Đồ về
nhà trông gặt và để cho ông chủ, ông Cựu Mẫn dọn nhà dựng lúa.
Hôm nay là hai mươi tháng tư, buổi học cuối cùng đã định vào
hai mươi nhăm, nhưng đã có đứa xin nghỉ từ hôm rằm. Nhất là bọn học trò nhớn,
phần nhiều nghỉ về đi gặt thuê. Ở trường, buổi học có vẻ rời rạc. Những đứa
tinh nghịch ranh mãnh đã vắng cả rồi. Học nghĩa xong sớm, vì thưa người dễ học,
bọn học trò túm năm tụm ba nói chuyện bàn về nghỉ mùa, về tết Thầy Đồ, Tâm cũng
mon men lại gần nghe lỏm. Thằng Bích trông thấy Tâm đến, vội gọi lại:
- Tâm ơi Tâm, bao giờ mày nghỉ mùa?
Tâm cười đáp lại:
- Tao à, tao bao giờ trường nghỉ, tao mới nghỉ.
Thằng Bích có vẻ buồn rầu nói:
- Tao hết ngày hôm nay, tao phải nghỉ rồi!
- Sao mày nghỉ sớm thế?
- Tao nghỉ sớm để giữ em cho mẹ tao đi gặt thuê nhà ông Bá
Nghị lấy tiền tết Thầy Đồ.
Thằng Cân, thằng Bân đều nói vào:
- Tao cũng vậy. Học hết ngày hôm nay là tao nghỉ, chỉ có thằng
Tâm, thằng Chắt, thằng Ngọc với cậu Quý, con ông Bá là được học mãi thôi nhỉ,
vì nhà họ khá.
Tâm không hiểu, liền hỏi:
- Lại phải tết ông Đồ nữa kia à? Tết thế nào?
Thằng Bân lau láu gắt:
- Mày ngu lắm. Không tết thì thầy lấy gì mà tiêu pha ở nhà.
Này nhé, ông Lý Cựu nuôi cơm Thầy Đồ cho bốn anh ấy học một năm may hai quần,
hai áo dài và ba áo cộc. Còn học trò ngoài như chúng ta, mỗi đứa một năm bốn
quan tiền và mồng năm ngày Tết tùy tâm được thế nào hay thế. Tiền công thì bắt
đầu nghỉ mùa tháng năm, Thầy Đồ lấy một nửa tức là hai quan, thầy đã mặc cả trước.
Thằng Thân nói xen vào:
- Thế là còn nhẹ đấy nhỉ chúng mày nhỉ? Bên ông Đồ Tiến đằng
cụ chỉ Hai, mỗi đứa mỗi năm những ba quan với hai thùng thóc. Mà ông Đồ bỏ đi
đánh tổ tôm luôn, bảo ban chẳng ra gì cả!
Bây giờ Tâm mới hiểu đi học phải góp tiền như thế để đền công
Thầy Đồ. Tâm là người biết nghĩ, biết lo rất sớm, Tâm vẫn vơ nghĩ đến công cha
mẹ đã nuôi mình, may quần áo cho mình mặc, mua giấy bút cho mình đi học, giết
gà đồ xôi làm lễ vỡ lòng, lại luôn luôn lễ vật biếu xén ông Đồ và ông chủ, biết
bao phí tổn vì mình:
- Mình phải chăm học thế nào cho bõ cái công ấy.
Nhưng nghĩ lại, theo óc non nớt của Tâm, Tâm thấy đi học là
vô ích, vừa khổ thân mình vừa khổ cha mẹ nên Tâm quyết chí thôi học, Tâm nghĩ bụng:
- Thế thì đi học làm gì? Thà ở nhà nghịch còn hơn.
Song Tâm còn hoài nghi những lời nói của các bạn. Về nhà, Tâm
vội hỏi ngay mẹ cho chắc ăn:
- Mẹ ơi! Nhà ta có phải tết Thầy Đồ à?
Bà mẹ thực tình đáp:
- Có chứ, mai chờ thầy con về thầy con vào tết Thầy Đồ và nói
lại cả với ông Lý cự nữa.
- Có phải mỗi đứa mỗi năm phải nộp bốn quan tiền không hở mẹ?
- Ừ, bốn quan tiền và ba cái Tết: Tết mồng năm, Tết cơm mới
và Tết cả.
- Thế thì con không đi học nữa, mẹ ạ. Con đi học mất nhiều tiền
quá!
Bà mẹ mắng yêu:
- Ranh con, đừng láo!
Tức thì Tâm bỏ chạy ngay ra vườn nhảy nhót mong ôn lại những
giờ phút khi xưa...
Buổi chiều, Tâm nhất định không đi học nữa. Mẹ Tâm thì ngọt
mãi và nói:
- Không đi học rồi chịu khổ suốt đời. Đấy như chú cu Thìn làm
thuê cho nhà ta ấy. Chữ nhất là một không biết, nên ai người ta cũng bắt nạt được.
Vậy cố mà đi học con ạ, cha mẹ không ngại tốn công khó nhọc đâu, chỉ mong cho
con ra người hay. Còn học thầy, thì phải giả công thầy chứ. Chữ thánh những
gánh vàng, người ta lấy mỗi năm bốn quan, có thấm vào đâu, con...
Rồi bà đọc luôn bài thơ truyền tụng để khuyên con:
Đen thời dùng mực, đỏ dùng son,
Cố học cho hay, con hỡi con!
Cái bút cái nghiên là của báu
Câu kinh câu kệ ấy mùi ngon!
Vàng mua chừa để, vàng bay hết
Chữ bán dư ăn, chữ hãy còn
Nhờ phận một mai nên kẻ cả
Bõ công cha mẹ mới là khôn!
Nhưng Tâm vẫn còn ngần ngừ chưa muốn đi học. Bà nóng tiết rút
ngay cái roi tre ở cửa bếp và dọa:
- À thằng này giỏi, mày không nghe lời bà, phải roi mới chuyển
được mày. Bé không vịn, nhớn gẫy cành, có cắp ngay sách đi học không nào?
Bà cầm roi đập mạnh xuống phản, Tâm vội vơ lấy sách chạy một
mạch đến trường. Bà mẹ ở nhà cười khanh khách nói với hàng xóm:
- Xưa nay chìu nó quen, ra nó nhờn. Cầm đến roi, cu cậu đi
ngay tức khắc!
Nhá nhem tối hôm hai mươi bốn, gió phe phẩy đuổi tan cái nóng
ban ngày. Trên nền trời xanh thẳm, đã lốm đốm mấy ngôi sao lấp lánh như cúc bạc
đính lên bức thảm xanh. Ông Lý Tưởng với Tâm cùng một tên người nhà đội một cái
quả đỏ đi lại nhà ông Cựu Mẫn. Đến nơi, nhà đã lên đèn. Tên người nhà đặt cái
quả lên cái bàn cao ở giữa bộ trường kỷ, mở nắp ra. Trong có hai quan tiền kẽm
nằm song song và một cái thủ lợn với một bình rượu, ông Đồ ra ngồi ở trường kỷ
mời ông Lý Tưởng cùng ngồi. Ông Cựu Mẫn ở nhà dưới cũng lên tiếp chuyện, nói ba
hoa một lúc về mùa màng, gặt hái rồi ông Lý Tưởng đứng lên chắp tay nói:
- Thưa Thầy Đồ và cụ Cựu, thằng bé cháu nhà tôi may được sang
đây nhờ thầy chỉ bảo và quấy quá cụ Cựu, thật là cái ơn to lắm. Nay nhân Thầy Đồ
sắp về nghỉ mùa, chúng tôi gọi là có chút quà lễ mọn lòng thành đến tết thầy và
cụ Cựu. Tôi nói tình thực, xin thầy và cụ Cựu thứ lỗi cho...
Ông Đồ và ông Cựu đều nói:
- Tôi không dám, ông dạy quá vậy!
- Cháu nó bé dại, tôi không dám cho đi chung vào với các ông
kia. Vậy nên phải đi riêng thế này. Hai quan tiền này xin kính dâng Thầy Đồ.
Còn cái lễ mặn này gọi là tết thầy và cụ Cựu cho phải phép. Xin hai cụ vui lòng
nhận cho.
Ông Lý Tưởng nói xong ngồi xuống. Ông Đồ vui vẻ tiếp lời:
- Chỗ tôi với ông Lý, ông cho thế nào tôi cũng xin bái lĩnh.
Còn đây tùy ông Cựu.
Ông Cựu Mẫn cười khà khà nói:
- Ông Lý chỉ khéo bày vẽ, chỗ tôi với ông, ông cho ăn miếng
giầu là đủ, nhờ Giời và Phật Thánh phù hộ, tôi mời được cụ đồ về đây, các ông
có lòng mến cho các cháu đến học là quý. Tôi chỉ mong đông thêm trẻ học để cụ đồ
được rộng món tiêu, nay ông Lý bày đặt tết nhất thế này, tôi không bằng lòng
đâu!
Ông tết Thầy Đồ rồi, còn phần tôi, tôi xin đa tạ, ông mang về,
làm thế mang tiếng ông ạ!
Ông Lý Tưởng lại phải nói:
- Xin Thầy Đồ và cụ Cựu xét lại cho chúng tôi được yên lòng.
Kể nhà cụ Cựu đây chả thiếu gì, nhưng chỗ nhờ vả, gặp mồng năm, ngày tết mà
không có cái gì lại hầu, trong bụng chúng tôi lấy làm hổ thẹn. Vậy xin cụ lấy
lòng độ lượng mà nhận cho.
Ông Đồ cũng nói thêm vào:
- Thôi cụ Cựu ạ, ông Lý ông ấy đã nói thế, cụ cũng nên thể tất
một chút cho ông ấy bằng lòng.
Ông cựu Mẫn bấy giờ mới quả quyết:
- Vâng, Thầy Đồ và ông Lý dạy như thế, tôi xin tuân.
Hai quan tiền đã vào tráp ông Đồ, cái thủ lợn với chai rượu
đã đưa xuống nhà dưới, tên người nhà mang quả không cùng với Tâm chào ông Đồ và
ông Cựu Mẫn rồi ra về. Ngồi nói chuyện hồi lâu nữa, ông Lý Tưởng đứng lên xin về.
Ông Đồ và ông Cựu cố mời ở lại. Ông cựu nói kháy:
- Ông Lý này, ông mà về, tôi sai người mang giả lễ ông đấy!
Ông Lý Tưởng nói một cách rất khiêm tốn:
- Quả thật nhà tôi bận lắm, giá không, ở lại hầu Thầy Đồ và cụ
là phải. Nhưng mùa màng đến nơi, công việc bề bộn, nhà cháu lại vừa gặt mấy mẫu
lúa sớm, nên cần phải về ngay cho họ đập.
- Vâng, thế thì ông về tôi không dám giữ. Ông mời giầu đã!
Ông Cựu vừa nói vừa bưng đĩa giầu lên trước mặt ông Lý Tưởng.
CHƯƠNG V
Nghỉ mùa rồi, nhà lại bận gặt nhiều, Tâm tha hồ chơi nghịch.
Gặt đang đông, trên những tấm ruộng thênh thang trong cánh đồng
bát ngát một mầu vàng ối, lố nhố những người nhấp nhô gặt lúa, tiếng hái đưa
ngang từng túm lúa, soèn soẹt ngọt như bổ cau...những đàn châu chấu bị động vè
vè bay sang tấm ruộng chửa gặt...một vài cô thợ gặt hát lên vồng vộng...Những
thợ gánh lội vào ruộng lấy những lúa cắt rồi để trên trốc dạ, lượm thoăn thoắt
thành đon đặt lên bờ bó lại. Rồi sóc đòn càn vào ngang bó gánh chạy te te về
làng, những bông lúa cứ rung rinh theo nhịp bước và kêu rào rào.
Tâm được theo mẹ ra đồng coi gặt thích lắm, năm nay Tâm cứng và
đã đi học nên mới được đi, Tâm chăm chú xem người ta làm việc gì. Mấy hôm đầu
Tâm còn ngồi trên gò, nhờ thợ gặt bắt hộ châu chấu, nhưng dần dần mạnh bạo và
quen biết thêm nhiều người, Tâm chạy cả xuống ruộng để bắt lấy và ‘’mót’’ những
bông lúa sót lại trên ruộng rạ....Thật là sung sướng nhất đời. Hôm nào nắng
quá, ông Lý không cho Tâm đi, Tâm ở nhà cậy đất dẻo về nặn kiệu, nặn tượng và nặn
nồi chõ để đồ xôi tế đình. Tâm lại hội họp những trẻ con hàng xóm lại nặn thi
pháo. Đem hòn đất dẻo nặn thành hình cái nồi, trôn cho rõ mỏng rồi vặt úp xuống
đất tức thời cái pháo nồi ấy kêu đánh bốp một cái, thủng trôn ra. Kêu càng to
thì thủng càng rộng. Những cái không nổ bị thua phải bẹo đất ra vá vào chỗ thủng
ấy...Lắm lúc, Tâm lại đổi trò chơi, lấy lá chuối cuộn làm kèn thổi toe toe. Cuộn
xong rồi, Tâm nói một câu thường lệ trước khi thổi:
- Kèn kèn cuống cuống, mày ra bờ muống, mày khóc ba tiếng,
cho kèn tao kêu, kèn tao không kêu, tao lấy đỉa đói tao bêu đầu này!
Hễ kèn kêu thét lên, là cả bọn cùng cười vang.
Ông Lý Tưởng thấy con mãi nghịch quá sợ để lãn canh (lười
quen) lúc đi học khó bảo, ông bắt về đem sách ra học ôn cho khỏi quên. Tâm cũng
vui vẻ về học lại quyển ‘’Tam tự kinh’’ Và mấy tờ đầu quyển ‘’Sơ học vấn tân’’
mới học được. Tâm gọi đứa em bé và mấy đứa hàng xóm sang Tâm dạy học, Tâm chỉ
tay và đọc lên cho chúng nó học theo:
Sơ học vấn tân
Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa
Khi chúng đã học theo rồi, Tâm bắt chước ông Đồ giảng nghĩa:
- Này, chúng mày nghe: Hỗn mang chi sơ là ăn hổn lằm nó chốc
mép mọc mang ra như mang cá trê ấy, nghe không?
Cả bọn không hiểu, ùa nhau cười. Tâm tức mình đập xe điếu xuống
giường dọa im, làm y như ông Đồ vậy. Những người nhớn quanh đấy thấy vậy đều
phì lên cười, và bảo nhau:
- Cậu bé ranh mãnh và lém lỉnh quá!
Làm cho Tâm thẹn đỏ mặt bỏ chạy đi chỗ khác.
Nghỉ đã một tháng mười ngày rồi. Hôm nay là mồng sáu tháng
sáu. Mùa màng xong tất cả. Người ta đương bắt đầu ngả cấy. Ông Đồ đã đến. Học
trò lại đi học nhưng chưa được đông đủ, vì còn nhiều đứa phải ở nhà giúp việc vặt
trong nhà.
Tâm phải đi học, trong lòng cũng buồn, tiếc những lúc nô đùa.
Nhưng đã quen với lề thói nhà trường Tâm không quá bỡ ngỡ sợ sệt như trước nữa.
Sự học có phần khó lên. Vì Tâm bắt đầu phải học nghĩa và kể nghĩa như những đứa
khác. Học chữ thuộc mặt rồi, lại phải học nghĩa để mà kể, Tâm hỏi nghĩa rồi
dõng dạc học:
- Vũ vương phạt trụ là Vũ vương đánh người trụ!
Tâm nhìn ra rằng hễ khuyên son phải gọi là ông, tức là những
người đáng kính trọng, nét son chấm bên trái mặt chữ chỉ người, những người tầm
thường hay gian nịnh. Và những sổ ngắn là tên nhà, tên đất hay tên họ. Nên Tâm
học mau thuộc. Học thuộc thông đâu đấy, Tâm ngồi im xem chúng nó kể, bắt chước
giọng của chúng nó, cài giọng kể thong thả rõ ràng và ngân nga như hát. Đứa nào
kể xong cũng ngân một tiếng ‘’ạ’’ rồi nói:
- Bẩm thầy con hết rồi ạ.
Ông Đồ‘’ừ’’ một tiếng rồi giảng nghĩa, giảng từng câu một cho
đến hết bài, cứ theo cái nghĩa trong bài, ông đọc lại, thỉnh thoảng, ông nói rộng
ra tí chút, song mồm ông đọc thao thao như nước chảy, học trò theo không kịp,
tay cứ chăm chú cầm giấy để chực mở sang trang. Mỗi người đều kể một lượt như
thế, nên số học trò càng đông thì buổi học càng tan muộn. Mà ít, cố nhiên, học
trò được về sớm...
Tâm nghĩ mình bắt chước được cả rồi, đến lượt ê a lên giọng:
- Xin thầy con kể ạ.
Rồi Tâm ngắc ngứ ư a, đọc hết bài cho đến lúc nói:
- Bẩm thầy con hết ạ.
Ông Đồ không ‘’ừ’’, ông bảo:
- Thong thả chứ nào, làm gì mà như đi ăn cướp ấy, ư a ư a mãi
như chó nhai vã mắm. Bắt chước chúng nó mà kể chứ!
Rồi ông mới dẫn giảng đến bài. Ông cũng dẫn lượt đi như những
đứa khác. Tâm ngồi ngơ ngác, như vịt nghe sấm, trố mắt nhìn ông Đồ cho đến lúc
xong Tâm lôi sách, rẽ đám học trò ra ngoài, nói với lũ thằng Bích rằng:
- Tao cố bắt chước như chúng bây mà sao cấm được, cứ phải ư
a, mà đọc như người học ấy, chẳng hay tí nào!
Thằng Bân nói:
- Cho còn là ăn hại cơm giời, uống hại nước sông, con ạ. Kể
khổ lắm, chứ dễ đấy à!
Học luôn ba tháng rưỡi giời, đã sắp sửa đến vụ gặt mùa tức là
vụ tháng mười. Những tấm ruộng cấy lúa sớm, lúa thường tân, đã gặt rồi. Gọi là
thường tân theo đúng cái nghĩa của nó là nếp cái mới, tức là cái lúa nếp để làm
cơm mới vậy.
Ở các đình chùa, người ta đã làm lễ cơm mới. Trong những tư
gia đã mua hồng cốm, thịt rượu đi tết nhau. Trên những cánh đồng phẳng phiu đến
tận chân tre các làng xanh biếc, làn lúa sắp chín rung rinh lướt theo chiều gió
bốc lên mùi thơm phưng phức như cốm non, thỉnh thoảng đưa. Một vài nhà đã gặt lỏi
về ăn...
Ở nhà ông Lý Tưởng, các bố mẹ học trò và những học trò lớn đến
đông đủ, ngồi rải rác khắp ba gian nhà. Sau lượt trầu nước thường lệ, ông Lý Tưởng
lấy địa vị là người chiêu tập buổi hội họp này đứng lên nói trước:
- Xin trên các cụ, các ông và đông đủ các anh em đây định
cho. Đến hai mươi này Thầy Đồ về nghỉ, ta phải có thế nào để tiễn chân thầy chứ!
Tức thì nhao nhai lên ai cũng muốn nói trước. Người nói thế
này, kẻ nói thế khác, huyên thuyên ồn ào, Một cụ già gắt:
- Kim chỉ phải có đầu chứ, kẻ cả nói trước, đàn em ngồi mà
nghe, có gì không phải thì nói sau, chứ cá mè một lứa thế không được!
Mấy người đều nói:
- Vâng, cụ dạy chính phải, xin cụ chỉ định.
- Không, tôi nói thế thôi, còn cái việc cắt định phần các
ông, tôi không dám.
Lại đến lượt ông Lý Tưởng. Ông đứng lên nói rành mạch:
- Bẩm trên các cụ, dưới đông anh em cả. Năm nay được mùa to,
chúng ta cũng nên nghĩ tết ông Đồ kha khá. Ròng rã suốt một năm giời mới có bốn
quan tiền công đã nhất định vào tháng năm và gần Tết rồi. Vậy tôi bàn với các cụ
và anh em nên bổ mỗi người nửa quan. Tất cả bốn mươi nhăm người, vị chi hai
mươi hai quan rưỡi. Hai mươi quan ta để tiền, còn hai quan rưỡi ta mua cốm hồng
và lễ vật gì đấy, đến hai mươi đem hẳn đến nhà thầy. Có thờ thầy mới được làm
thầy...
Một người nói:
- Có con ông ngày sau mới được làm thầy, chứ con chúng tôi
thì nước gì?
Ông Lý có vẻ không bằng lòng nói:
- Các ông nói khi quá, chứ con tôi vắt mũi chưa sạch đã mong
gì làm thầy người ta.
Ông Xã Tân đẻ ra thằng Bân, nói tiếp:
- Ông Lý nói phải đấy, phương ngôn có câu: ‘’Muốn sang thì bắc
cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy’’. Chúng ta cũng phải nghĩ đến
công thầy tử tế. Nhưng nửa quan thì khi nặng cho những người nghèo như tôi chẳng
hạn. Vậy xin các cụ bớt đi tí chút. Còn cái lễ tết ông chủ nữa kia mà.
Mấy ông cụ nói theo:
- Phải đấy, bác Xã nói phải, ta nên châm chước thế nào cho
nhè nhẹ thì hơn.
Hồi lâu, ngã ngã, cả bọn đều đồng ý về số tiền nhất định là nửa
quan, để mười sáu quan tiền, còn chia đôi mua lễ Tết ông Đồ và ông Cựu Mẫn. Và
sau rốt cử những đứa đi tiễn ông Đồ về đến tận nhà. Khi các người đã về rồi,
Tâm nằng nặc đòi với ông Lý đến hai mươi, cho đi xuống nhà ông Đồ. Ông Lý cười
bảo:
- Khốn, nhưng đi từ sáng đến trưa mới đến nơi, không biết ông
có cứng chân đi được! Rồi đến nửa đường lại nheo nhéo đòi về!
CHƯƠNG VI
Mùa Đông đã đến từ lâu. Những ngày mưa phùn gió bấc kéo dài
liên tiếp làm cho cái nhà quê phẳng lặng buồn tênh lại càng thêm tiêu điều ảm đạm.
Những làng mạc như lu mờ thấp bé xuống, mà cánh đồng mông mênh bát ngát hình
như cao lên, giãn ra và bao trùm tất cả. Cảnh tượng giống như lúc trời chiều dần
dần đi vào đêm tối.
Giời rét, người co ro trong những áo bông, áo đụp! Và chân
tay nhiều khi nứt nẻ đau buốt đến xương! Thỉnh thoảng được ngày có mặt giời
xinh tươi trong sáng giữa nền giời quang đãng, là người ta nô nức tắm giặt, tiếng
đổ nước nồm nồm và tiếng vỗ giặt quần áo bôm bốp truyền từ cầu ao nọ đến cầu ao
kia vang dậy.
Tâm chưa nhận rõ được ngày tháng. Nhưng hàng năm Tâm thấy hễ
tiết giời rét mướt như thế là gần Tết rồi. Vì hễ Tết là Tâm được ăn nhiều thứ
ngon: Giò, mộc, nem, bánh và được mặc áo đẹp, đi mừng tuổi được tiền nữa. Năm
nay đã đi học rồi, nên Tâm lại càng mong chóng Tết. Gió bấc đã nhiều lần từng
cơn lạnh buốt giục giã ngoài hiên. Tâm khấp khởi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi mẹ, dễ gần Tết rổi nhỉ?
Bà mẹ âu yếm:
- Đã Tết thế nào con, còn lâu lắm. Cứ cố học cho giỏi đi, hễ
bao giờ Tết, mẹ bảo con!
Và đến trường, Tâm lăm le đố các bạn:
- Tao đố mày còn mấy ngày nữa là Tết nào?
- Còn non một tháng nữa chứ mấy!
- Nhưng là bao nhiêu ngày kia?
- Mày dở lắm, non một tháng là hai mươi ngày đấy. Hôm nay đã là
mồng tám tháng chạp rồi còn gì?
Tâm nghĩ bụng:
- A ha! Còn có hai mươi ngày nữa là đến Tết!
Và từ đấy Tâm cứ nhẩm tính từng ngày một!
Lòng mong mỏi của Tâm đã thỏa. Ngày hai mươi hai, ông Đồ về
nghỉ. Hai mươi ba nhà Tâm quét dọn bàn thờ sạch sẽ, trên bàn thờ ông công, bày
thêm cỗ mũ tám đầu rồng, mười hai mắt kính và hai tai xanh điểm đổ chổng ngược
lên như hai con thỏ. Ngày chạp ông công, Tâm được ăn một bữa ngon lành no nê!
Mà Tâm vẫn nhớ rằng đến ngày chạp ông công thì còn bảy ngày nữa là Tết.
- Còn bảy ngày nữa là Tết, sướng quá.
Tâm nghĩ vậy rồi vui vẻ chạy đi chơi hàng xóm. Quang cảnh nhà
quê đã dần dần náo nhiệt vì Tết. Người đi chợ đông lên. Các công việc làm vội
vàng, mau hơn. Ở đầu cầu ao mỗi nhà đã chễm chệ một cuộn lá dong để gói bánh.
Rồi những tiếng lợn bị chọc tiết kêu í éc ở mọi xóm, tiếng
giã giò chí chát ở mọi nhà cùng tiếng lên bột bánh gai thùm thụp đã làm rõ ràng
cái cảnh Tết rồi, không ai còn dõi Tâm được nữa! Ba mươi Tết, cây nêu dựng sừng
sững giữa sân, câu đối đỏ lòm trước cửa càng làm cho Tâm hớn hở mừng khôn xiết.
Sáng sớm mồng một, tràng pháo của nhà vừa nổ, Tâm vội vàng
choàng dậy giụi mắt rồi ra mắc lấy áo dài mới nhuộm màu giãi bùn mặc vào diện
cái quần vải mới may trắng bốp. Tâm nghiêm trang đi đến trước mặt ông bà Lý Tưởng
chúc mừng năm mới:
- Con chúc mừng thầy mẹ sang năm mới mạnh khỏe sống lâu và
giàu bằng mười năm ngoái!
Ông Lý khen:
- Tốt lắm, thầy cũng chúc cho con năm nay học giỏi hơn những
trẻ khác. Năm nay con lên bảy rồi phải chăm chỉ mà học nhé. Đây thầy mừng tuổi cho
con một tiền này.
Bà Lý cũng cho một tiền nữa, Tâm vui sướng nhận lấy tiền ra
khoe với chị:
- Tôi có những hai kia, để mua thắt lưng đỏ.
Đến nửa buổi, cơm nước xong rồi, ông Lý với Tâm đem giầu đi lễ
và mừng tuổi các nhà thân thuộc. Đi đến nhà nào, Tâm cũng thấy ông Lý nói:
- Năm cũ đã qua, bước sang năm mới, tôi đến mừng tuổi cho ông
bà sống lâu mạnh khỏe, giầu có bằng năm bằng mười năm ngoái.
Và ai cũng xoa đầu Tâm, cho Tâm tiền rất nhiều, nhiều hơn mọi
năm. Người nào cũng bảo:
- Năm nay cậu đã là học trò cắp sách đi học, không bé bỏng
như năm trước nữa. Tôi mừng tuổi để cậu mua giấy này.
Tâm sung sướng quá và bụng bảo dạ:
- Ra, đi học có lợi thật!
Hôm mồng bốn, Tâm mải đang nô đùa ở sân đình chợt có người
nhà ra tìm về. Tâm mải vui, phát khùng lên mắng tên đầy tớ:
- Về làm gì, ông không về.
- Không về ông nhà đánh chết, ông cho tôi ra tìm ngay anh về
ông bảo.
Tâm ngần ngại đành phải theo về. Đến nhà, thấy ông Lý đang ngồi
xếp bằng trên sáp, Tâm được yên lòng, Tâm chỉ sợ có việc gì đến, làm Tâm phải
đòn thì chết! Ông Lý sai Tâm lấy nghiên mài mực Tâm vâng theo ngay, ông Lý mở
tráp ra lấy tờ giấy hoa tiên đỏ tươi và một ngọn bút mới, ông bảo Tâm:
- Hôm nay tốt ngày, thầy với con khai bút nhé.
Tâm không hiểu hỏi:
- Khai bút là thế nào hở thầy?
- Khai bút là sang năm mới phải chọn ngày tốt, giờ tốt, bắt đầu
viết lên tờ giấy hoa tiêu hay tờ giấy đỏ, rồi dán lên cột hay sà nhà. Sau viết
gì mới được viết. Ngộ chưa khai bút mà cứ viết thì dông suốt năm, đi học thì chịu
dốt, mà làm việc thì cũng hỏng. Ngộ gặp phải giờ xấu, còn sinh ra ốm đau, bệnh
tật, tai vạ bất kỳ nữa. Con nghe chưa? Phải cẩn thận đấy.
- Bẩm vâng ạ!
Rồi ông Lý nằm xuống, dầm ngòi bút mới vào nghiên mực, lấy ra
viết một dòng dài ở giữa tờ hoa tiên. Viết xong ông ngoảnh lại bảo Tâm:
- Con chưa viết được, thầy viết cho một chữ bút, còn để phần
con một nét sổ. Tâm cầm bút run run ấn toẹt lên tờ giấy rồi kéo dài xuống trông
rõ một vệt mực to tướng. Xong Tâm cầm bút, giương mắt nhìn ông, ông cau mày bảo:
- Thôi!
Rồi ông cầm lấy tờ giấy ngắm nghía. Sau cùng nói:
- Thôi cũng được, vào trong nhà lấy tí bánh chưng ra đây.
Tâm lấy mang ra. Ông Lý dính một ít vào đầu tờ giấy đem dán
lên sà nhà. Cơn gió nhẹ lướt qua cửa sổ thổi bay cong tờ giấy là là. Tâm vui mừng
thoát nạn, chạy xuống nhà dưới.
CHƯƠNG VII
Mồng tám tháng giêng, Tâm mãi vui với trẻ hàng xóm, rủ nhau
leo lên cây bắt tổ chim. Chị Tâm đi tìm khắp cả không thấy, đứng bờ ao réo ngậu
lên:
- Tâm ơi Tâm, ớ Tâm ơi! Ở đâu thì về!
Ở trên cây sung bên bác Xã Cán, Tâm thưa một cách gắt gỏng:
- Ơi! Đây chứ đâu mà ngậu lên thế!
Trông theo tiếng thưa, thấy Tâm đang bám chặt lấy cành sung
như con mèo ngồi rình chuột, chị Tâm dọa:
- Giỏi nhỉ! Trèo cây! Tao về tao bảo thầy cho mày!
Tâm vội tụt xuống cây, đấu dịu hỏi:
- Nhưng gọi về làm gì đã nào?
- Có cậu ở trên Mỹ Lý xuống chơi, thầy sai gọi mày về.
- Cậu nào thế chị?
- Cậu Đồ Trí ấy mà!
Nghe đến đấy, Tâm hơi rùng mình, hai tay phủi bụi áo, rụt rè
đi về. Tâm tin rằng mỗi bận ông Đồ nào đến là Tâm cũng phải gọi ra để khảo chữ.
Con mắt người ta cứ trừng trừng nhìn Tâm, hễ Tâm nói sai là y như họ cười mỉa
mai để rồi khi họ về, thế nào Tâm cũng bị mắng đáo để. Tâm bị mấy lần như vậy
nên hễ nói đến ông Đồ nào là tự nhiên Tâm thấy sợ vẫn vơ. Nhất là nay đến lượt
cậu đồ mình, một ông Đồ đã nổi tiếng là dữ đòn. Tâm khép nép về đến sân, rón
rén ngập ngừng bước ngắn bước dài, Tâm chực chạy xuống bếp, tiếng ông Lý đã gọi
giật lại:
- Đi đâu về đấy? Chỉ giỏi chạy thôi. Mau lên vào chào cậu đi
nào.
Tâm bước lên hè, chắp tay vái chào:
- Thưa cậu xuống chơi ạ!
Ông cậu mĩm cười nói:
- Ừ, cháu vào đây cậu bảo.
Tâm rón rén lại gần giường, ông cậu hỏi:
- Cháu học đến sách gì rồi?
Tâm ngẩn người nghĩ bụng ‘’Đã biết mà’’, và nói:
- Bẩm con học đến sách ‘’Ấu học ngũ ngôn thi’’.
- Đọc một đoạn cậu nghe nào.
- Bẩm cậu con đọc:
Ấu học ngũ ngôn thi
Thiên tử trọng hiền hào
Văn chương giáo nhĩ tào
Vạn ban giai hạ phẩm
Duy hữu độc thư cao!
- Nghĩa là gì?
- Nghĩa là Sách ấu học ngũ ngôn thi. Ngôi thiên tử trọng kẻ
hiền hào, văn chương dạy lũ mày, muôn bậc đều phẩm dưới. Bui có đọc sách là
cao!
- Ngôi thiên tử là ai?
- Bẩm là đức vua ạ!
- Ừ, đức vua ngài cao xa lắm. Ngài ở tận kinh kia. Thế lũ mày
là lũ nào?
- Lũ mày là lũ trẻ con nô nghịch ngoài đường.
Ông cậu lắc đầu, làm Tâm lè lưỡi chữa thẹn. Ông nói:
- Không phải! Lũ mày là lũ học trò như mày ấy. Muôn bậc đều
phẩm dưới. Bui có đọc sách là cao, là nghĩa làm sao?
- Là các bậc như bậc hèn nhà ta đều thấp cả. Chỉ có cái giá đựng
sách để đọc là cao hơn!
Ông cậu không nhịn được, cười ha hả nhìn Tâm đang luống cuống
đỏ mặt, cả ông Lý Tưởng cũng cười ngặt nghoẽo. Ông cậu thong thả bảo:
- Mọi bậc là mọi nghề, như làm ruộng, thợ mộc, thợ rèn, thợ
sơn, cho chí người dệt vải, người đi cầy đều thấp kém cả. Chỉ có người đọc sách
là cao quý. Đọc sách tức là đi học. Đi học biết chữ, đi thi đỗ làm quan, áo
xanh áo đỏ, mũ cao áo dài, võng lọng vua ban, thật là sung sướng danh giá hơn
người...Mãn triều chu tử quý, tận thị độc thư nhân. Đầy triều những vị quan áo
đỏ, áo tím đều là những người chịu đọc sách cả. Đấy cháu hiểu chưa. Đi học được
quý trọng như vậy, cháu có thích học không?
- Bẩm cậu, con có thích ạ!
- Tốt lắm, cháu cậu ngoan!
Ông Lý nói thêm vào bảo Tâm:
- Năm nay cậu ngồi ở làng Vân Trung, tao nói với cậu cho mày
theo học nhé, cậu cũng như thầy, đi với cậu học được nhiều, có phần mau giỏi
hơn. Mày có bằng lòng đi à?
Tâm ngần ngại chưa biết giả nhời ra làm sao. Ông cậu liền nói
tiếp:
- Cháu đã bảo cháu thích đi học nên thầy cháu mới nói với cậu
đem cháu đi, kẻo để cháu ở nhà không có người rèn cặp, đuểnh đoảng lắm. Đấy
cháu xem nghĩa thế nọ, cháu xọ ra thế kia cả. Vả lại đi với cậu lại có cả thằng
Dũng nhà cậu nữa. Hai anh em đi với nhau có bạn vui đáo để, Cháu cứ bằng lòng
đi cháu ạ!
Nghe giọng âu yếm của cậu, Tâm đã bớt sợ, nay lại thấy được
đi với anh Dũng. Tâm được yên lòng và Tâm hiểu rằng bất cứ việc gì những người
trên đã cho là phải có lợi, thì dù mình có không muốn cũng không xong, Tâm hiểu
lắm. Tâm biết phận mình, đành lòng theo phận nên ngập ngừng thưa:
- Bẩm thầy con bằng lòng ạ
Trong khi ông Lý hớn hở tươi cười, ông cậu khen:
- Ngoan lắm, cháu ngoan lắm. Không như những trẻ khác. Cháu bằng
lòng đi học xa ngay như thế, sự học của cháu sau này mới khá, mới hơn người. Thằng
Dũng mà lúc mới đi với cậu cũng khóc mãi, đánh cho ba roi mới chịu đi. Cháu Tâm
của cậu đáng khen lắm.
Tâm được khen, trong lòng vui sướng vô cùng. Và cả nhà đều
vui mừng sắm sửa cho Tâm đi theo học.
Cậu Tâm, ông Đồ Trí là một tay nho học khá vùng ấy. Ông đi
thi đã vào đến Tam trường (đi thi được vào đến kỳ thứ ba). Năm nay ông bốn mươi
hai tuổi. Nhưng ông vẫn mải miết học để đi thi, mong mỏi chiếm lấy cái cử nhân.
Ông thường lên tập văn Quan Đốc Học tỉnh nhà và bên Quan Nghè Phạm. Ông là một
người có đức vọng ở vùng nên ai cũng mến, nhiều nơi tranh nhau đến rước đi ngồi
dạy bảo con em. Năm nay ông Chánh Tổng Vân Trưng cần phiền đến rước ông, ông bằng
lòng nhận với ba miệng cơm chín và mỗi đứa học trò đồng niên: Sáu quan tiền, ba
cái tết ngoài. Ông mặc cả ba miệng cơm chín là ý ông muốn đem Tâm đi, kèm với
thằng Dũng cho vui. Và ông chiều lòng bà Lý Tưởng, em gái ông, muốn gửi gấp cho
con được học đến nơi đến chốn, vì xem ra nó học được. Rồi nhà Tâm sẽ đem tiền gạo
nuôi Tâm qua cho bà đồ Trí. Như thế hai đằng cùng lợi. Nên việc cho Tâm đi học
thu xếp chóng vánh lắm.
Mười tám tháng giêng. Một ngày tốt lành chọn để làm lễ khai
trường. Buổi sáng hôm ấy, mặt giời qua ngọn tre độ hai ngũ, ông Đồ Trí cùng mấy
người khách lạ mang tráp và gánh tủ sách đến. Ông Lý đon đả đi têm giầu rót nước
mời khách. Bà Lý bận rộn thắt lại cái dây quần, xốc lại cái cổ áo cho Tâm.
Bà giở cái khăn gói ra xét xem quần áo đã đủ cả chưa. Được một
lúc, ông Đồ đã giục:
- Mau mau, ta đi kẻo lại trưa.
Rồi cả bọn đứng lên. Ông Đồ đi ra, người cắp tráp và người
gánh tủ theo sau, tiếng chào vang cả lên. Chú cu Thìn ngồi xuống cho Tâm vào
vai cõng. Bà Lý còn dặn nữa:
- Con ngoan mà học nhé. Tiền mẹ cho con, mẹ đưa cả cho cậu giữ
hộ, con muốn mua gì con cứ bảo cậu. Mấy hôm nữa mẹ cũng xuống đấy, con ạ!
Ra đến cổng, ông chú, bà bác, mọi người trong họ dồn đến. Ai
nấy một lời, nói tíu tít:
- Tâm đi học, ngoan nhỉ, cố chăm học cho giỏi nhé! Này thím
cho một tiền này!
- Cháu đi học chăm chỉ, ông Đồ dạy thể nào cháu cũng chóng biết
hơn ở nhà. Đây chú chỉ có hai mươi đồng cho cháu lấy may.
- Cháu theo ông lên đấy học ngoan nhé. Đừng nhớ nhà. Bác túng
lắm chả có gì cho cháu cả.
Bà lý Tưởng lủng bủng:
- Cái bà ấy rõ khéo ghét! Người ta đã lo nó nhớ nhà lại còn
nhắc đến!
Ông bác Tâm mãi nói chuyện với ông Đồ, giờ mới chạy đến, xoa
đầu Tâm:
- Con cố theo ông đi học, đỗ lấy cái cử nhân về ăn thủ lợn
làng này, con ạ! Học giỏi về bác thưởng nhé!
Rồi cả bọn phải giãn ra để cho Tâm đi, Ông Lý cũng theo đưa
chân đến tận trường. Qua cánh đồng lúa xanh rờn, theo mấy bờ ruộng ngoằn ngoèo,
hai bên cỏ mọc mơn mởn, rồi leo lên con đê, con đê to bằng cái sân cao hơn nóc
bếp và thẳng tắp dài vô tận...
Chồm chồm ngồi trên lưng chú cu Thìn, Tâm đang hồi hộp vì
tình quyến luyến của người trong họ, mong mỏi cho mình học giỏi, thì nay tầm mắt
được trông ra cảnh ngoài mới lạ, Tâm mãi nhìn, quên tất cả, tâm hồn thấy lâng
lâng khoái trá. Những đình miếu, mái cong cong dưới khóm cây bù dù...Một vài
cây gạo cao vọt lên trên lũy tre xanh trông như cái cây đèn dầu trên bàn thờ...Mấy
con thuyền buồm giương thẳng lặng lẽ tiến trên mặt sông, dòng nước chảy lững lờ...Và
xa xa tận bãi bên kia, ruộng dâu xanh, xanh biếc rung rinh theo chiều gió xuân
lả lướt...Một người cưỡi ngựa vượt qua, tiếng vó ngựa nên đường lộc cộc, đi xa
Tâm còn trông rõ cái đuôi ngựa lòe phất phới và cát bụi mù bay...Toàn là mới lạ,
lạ mắt, lạ tai...Tâm như say sưa với cảnh...thì đã đến nơi.
- Đến nơi rồi, các ông nhỉ? Chú cu Thìn hỏi.
- Phải làng Vân Trung đây rồi!
Làng Vân Trung ở liền ngay con đê ‘’quan lộ’’ trên bờ sông
Đáy. Một làng bé nhưng giầu, với nhà ngói mái san sát như bát úp với những vườn
cau dư trăm gốc, ngọn lá xanh xanh cao vượt lũy tre xanh, người ta nhận biết tự
đằng xa. Ở trên đê, rẽ vào một con đường rộng và phẳng, ngoắt về bên phải một
quãng dài là đến cổng nhà ông Chánh, một cái cổng ngói quét vôi trắng toát cao
đồ sộ với hai cánh lim rất dầy. Qua cổng đến dẫy tường hoa cao ngất, rồi vào
sân gạch rộng, bước lên cái nhà ngói năm gian, trông to hơn đình làng Tâm.
Trong nhà bày biện rất lịch sự. Trên sà, ba bức đại tự thẳng hàng chói lọi. Ở
giữa, bức sơn son chữ vàng, hai bên, hai bức sơn then chữ bạc. Năm gian, treo
năm bức y môn đỏ thêu kim tuyến và viền chân chỉ hạt bột. Mỗi cột một câu đối
sơn đen bóng nhoáng, chữ khảm sà cừ. Ở tường treo những tờ tranh Tâu thủy mạc...Ghế
vuông ghế dài bằng gụ đen bóng như sừng và chạm trổ rất công phu trông lóa cả mắt...Cái
gì cũng lạ cả...Tâm mải ngắm nghía không nghĩ gì đến người ta trò chuyện ở
chung quanh. Bỗng thấy mọi người rào rào đứng dậy. Các khách khứa ở trên giường
đều đứng xuống đất cả. Ở giữa nhà, trên cái sạp chân quỳ chạm mặt hổ phù, ngất
ngưởng một cái yên thư sơn đỏ chói chạy chỉ vàng. Trên yên thư bầy đôi ống hương,
đôi cây nến và ba chiếc đài rượu, thảy đều bằng đồng óng ánh. Một bên, cái mâm
đồng đựng mâm xôi đầy và một bên cái sỏ lợn to tướng để đầy lợp cả một cái mâm
khác. Ở giữa, hai chai rượu và một đĩa đựng chẽ cau chục quả với một lá giầu.
Hai ngọn nến đang cháy rung rinh tươi đỏ...
Ông Đồ đặt nắm hương châm vào ngọn nến, Lửa ngọn nến tỏa ra mất
hẳn đi, bốc khói lên, rồi bùng cháy lên ngùn ngụt. Ông Đồ vội nhấc nắm hương
ra, vẩy một nhát cho tắt lửa, đầu bó hương chỉ còn là một nắm đỏ ngòm, khói lên
nghi ngút. Ông cắm thằng tắp vào cái bát hương đầy gạo đặt sau ba cái đài. Khói
hương vút thẳng lên cao rồi cuồn cuộn tỏa tan dần ra khắp nhà, đượm mùi thơm
ngào ngạt...Ông Đồ vuốt thẳng tà áo chắp tay lễ bốn lễ, quỳ lâm rân khấn rồi
ông lễ bốn lễ nữa lui ra. Các học trò lần lượt vào lễ, nhớn trước bé sau. Bốn
người một, đứng thành hàng chữ nhất, mắt trông thẳng, chắp tay giơ lên quá
trán, vái xuồng lần lượt quỳ hai gối, phủ phục đầu giáp chiếu rồi ngẩng ngay
người lên, hất tay vịn gối phải đứng dậy đều tăm tắp. Như thế bốn lượt, rồi lui
về bên trái. Bên kia bọn người khác vào, sì sụp mãi cho đến khi hết mặt học
trò, bên phải không còn người nào nữa. Sau cùng đến Tâm và Dũng, hai đứa còn ngần
ngại, ông Đồ giục:
- Dũng với Tâm vào lễ đi chúng con, lễ Đức thánh phù hộ cho học
giỏi! Mau lên.
Tâm, Dũng rón rén vào đến chiếu. Tâm luống cuống lễ chuệnh
choạng và có lúc soài như con ếch. Ở ngoài chúng nó khúc khích cười. Tâm xấu hổ
mặt đỏ bừng lên, nóng ra cả mình. Nhưng mà rồi cũng phải xong. Hai đứa lui ra,
lẩn vào đám học trò.
Thế là xong lễ khai trường.
Buổi học bắt đầu ngay khi ấy, bắt đầu lấy lệ nên hấp tấp vội
vàng rồi tan ngay. Ông Đồ đi uống rượu với các người có con đến học và góp tiền
làm lễ khai trường này. Họ ăn uống trò chuyện rất vui vẻ. Tâm và Dũng được các bạn
dắt đi chơi khắp nơi.
CHƯƠNG VIII
Đã năm ngày rồi. Năm ngày ở nơi xa lạ, được ông Đồ dung túng
cho chơi, được nhà chủ hết sức chiểu chuộng và được các anh em đưa xem những
nơi vui đẹp, Tâm không nghĩ gì đến nhà cả. Sáng dậy súc miệng xong là một chiếc
bánh gai hay bánh mật đấm miệng, rồi lại một quả chuối hay một quả cam. Ê a học
mấy tiếng, đã có quà chợ đưa lên: Nào bánh đa, nào bánh hú, nào kẹo vừng. Lúc
nào thức ăn cũng ngập miệng, ăn cơm toàn với giò chả, cá thịt, ngon hơn ở nhà
nhiều. Ăn xong lại được các bạn dẫn đi chơi, ra đình, ra miếu, trèo cây hái
hoa. Và vui nhất là được xuống thuyền lênh đênh ra giữa sông, nghe sóng vỗ oằm
oặp với mái chèo đập nước nồm nồm. Tâm đã mãi vui chơi quên cả nhớ nhà. Và người
ta cũng mừng dần dần Tâm sẽ vui vẻ học tập.
Nhưng buổi chiều hôm nay, mây vẩn cuồn cuộn xám bầu giời, gió
bấc từng cơn rền rít ngoài lũy tre ủ rũ, mưa bay phơi phới như cát bụi tung giời
làm đầm đìa lá cây và nhớp nháp đường ngõ. Tâm thấy lòng thao thức lạ. Mọi cảnh
vật ở đây đều đã quen quá thành thường và đáng ghét. Tâm nao nao nhớ đến nhà,
nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ em, nhớ mọi người thân thích quen thuộc, nhớ hình ảnh quyến
luyến, mến yêu. Tâm nhớ tha thiết, nhớ não nùng, vẩn vơ mong ước có đôi cánh
như con chim giời bạt gió mà bay bổng về nơi quê nhà thân yêu! Mặt bịn rịn, đôi
mắt đỏ hoe, Tâm tưởng tượng đến cây sung ở ngoài bờ ao rườm rà cành lá, đến cái
chái bên đồng mà Tâm thường làm đình ở đấy, đến em Tâm bập bẹ học nói, đến lũ
trẻ hàng xóm đang nô rỡn vắng mình, đến chị Tâm hay trêu chòng mình và ganh ăn
với mình...Tâm thầm than cho thân phận tự dưng bị đem bỏ ở giữa đám người xa lạ!
Tâm muốn khóc òa lên! Chung quanh chúng bạn đều tíu tít vui vầy với cha mẹ, anh
em, chỉ riêng mình bơ vơ hiu quạnh! Biết đên bao giờ mình lại được xum họp như
họ. Sự cảm xúc đến mạnh quá, khiến nó thấm thía quá, nó ăn sâu vào cõi lòng
Tâm, nó tràn ngập cả tâm hồn, Tâm ngồi thừ ra sau nhà, không thiết làm gì cả,
không thiết học, không thiết đi chơi, không thiết nô đùa, không thiết ăn những
thứ ngon lạ mà bà chủ sai đem đến cho. Tâm ghét tất cả. Họ là kẻ thù, họ thương
chi mình!
Trong khi ấy ông Đồ Trí sai học trò ra thi dỗ và khuyên giải
Tâm. Chúng múa may làm trò, chúng rủ đi chơi, chúng cầm tay lôi dậy, Tâm cứ một
mực lắc đầu quay mình đi, chẳng nói chẳng rằng, miệng ứ ừ, choài chân ngồi phệt
xuống. Lũ kia bỏ về. Đến lượt Dũng ra, hấp tấp nói:
- Tâm ơi Tâm, đi về học, không thầy tao ra đánh chết, lêu lêu
đi học còn nhớ nhà!
Tâm rươm rướm nước mắt, phát khùng chửi:
- Mẹ mày Dũng ạ!
Dũng tức tối chạy về thưa:
- Bẩm Thầy, thằng Tâm nó chửi con đấy!
Ông Đồ cau mày, học trò cười khúc khích! Bà Chánh (tức bà chủ
nhà) đi qua thấy vậy cũng rẽ vào dỗ Tâm, bà nói rất ngọt ngào:
- Con về đằng nhà đi, không học thì chơi, chứ đừng ngồi đây,
Thầy Đồ tức mình, thầy ra đánh chết. Con muốn mua gì bảo mợ, mai mợ đi chợ mua
cho. Rồi mợ nhắn mẹ con xuống rước con về chơi mấy hôm nhé.
Bà cầm lấy tay Tâm lôi đứng dậy và nói tiếp:
- Nào đứng lên đi về nào, bảo ngoan.
Nhưng Tâm vẫn lắc đầu, co mình kéo lại ngồi phịch xuống. Bà tức
mình lủng bủng:
- Gớm, của đâu mà khó bảo thế!
Một tên học trò nhỏ tung tăng chế:
- A ha! Lê lêu đi học nhớ nhà!
Mẹ giận mẹ mắng về nhà vụng cơm!
Tâm phần vì buồn, phần vì tức quá, òa lên khóc hu hu. Ông Đồ
cầm roi, lộp cộp đôi giày gỗ đi ra quát:
- Tâm, về ngay học đi nào! Muốn chết đòn à? Nhẹ không ưa, ưa
nặng.
Tâm vẫn ti tỉ khóc. Ông Đồ nóng tiết giơ thẳng vọt vụt ba roi
quắn đít lại. Tâm giẩy nẩy lên, hai tay xoa đít, miệng kêu rối rít.
- Ối giời ơi! Con lạy cậu! Ối giời Con lạy thầy! Con chết mất,
hu hu...ư! Con...chết mất!
Ông Đồ lại quát:
- Thế mày đã chừa nhớ nhà chửa? Có về ngay học đi nào?
- U hu!...Bẩm thầy con chừa rồi ạ! Con xin...xin về...u hu!
Bà Chánh thấy tiếng khóc và tiếng Thầy Đồ quát vội chạy lại
xin hộ Tâm:
- Thôi xin thầy, thầy tha cậu ấy bận này, bận sau cậu ấy chừa!
Rồi bà quay lại bảo Tâm:
- Tôi đã bảo không nghe, nói ngọt không ưa, ưa roi vọt kia!
Thôi đứng lên, ra đây tôi lau mặt cho.
Tâm hu hu khóc, theo bà ra bể nước mưa. Bà lau chùi sạch sẽ
cho Tâm rồi dẫn về đến phản học. Ông Đồ nghiêm nghị bảo Tâm:
- Bặt ngay đi và học đi nào!
Tâm nức nở sụt sùi cố cất tiếng học:
- Ức! Xuân du...ức phương thảo địa! Hư...Hạ...ức...thưởng lục...u...hà
tri!
Từ hôm phải mấy roi lằn nổi như con trạch, Tâm sợ hết hồn
không dám cưỡng nhời một lần nào, trong bụng, Tâm vẫn âm thầm chán ghét sự học,
Tâm buồn lắm. Không học thì chịu kém phải đòn luồn khố xấu hổ không thể nào chịu
được! Nên vẫn phải học...chứ trong tự đáy lòng, Tâm có được tên chí mà học đâu,
Tâm vẫn thao thức nhớ nhà. Có khi, sau buổi học, Tâm lẽn ra đầu làng, một mình
ngồi trên đường đê trông về những núi xanh xanh tít mù xa qua những lớp lũy tre
xanh thẳm và cây cối bù rù...Tâm đăm đăm nhìn và tưởng tượng:
- Kìa làng ta kia rồi. Mọi người đang làm lụng. Mọi trẻ đang
nô đùa! Ước gì ta có cánh mà bay về rồi lại bay xuống!
Hễ có một người quen nào qua chơi đây, lúc ra về, Tâm cũng
theo ra đến tận đầu làng, và đứng trông theo cho mãi khi dẫy làng đằng kia che
mất bóng người. Nhiều lần như thế, ông Đồ thường không nỡ đánh, tìm ra một kế rất
diệu để giữ Tâm ở nhà. Một hôm Tâm đang bần thần ở gốc cây gạo đầu đình, một
người to lớn đi qua liền quát hỏi:
- Thằng bé này con nhà ai mà đứng đây?
Tâm sợ hãi nói:
- Bẩm ông, tôi là cháu ông Đồ ở trong ông Chánh.
- Ở trong ông Chánh sao ra đây? À thằng này trốn học. Con ai,
cháu ai tao cũng túm cẳng, tao vất xuống sông cho mất giống lười!
Tâm khóc thét lên, cắm cổ chạy một mạch về trường! Từ đấy Tâm
không dám một mình thơ thẩn ngoài đường nữa. Những buổi chiều tà và những ngày
mây đen thảm đạm, Tâm buồn rầu nhớ nhung não nuột, chỉ đành vơ vẩn ở xó nhà. Tâm
bứt những chiếc hoa sặc sỡ, nhặt những chiếc lá úa vàng về bẻ thành hình vuông
vắn để ở khe cửa sổ làm đình. Khi tan học, khi ra đi giải, Tâm lẩn lút đến khe
cửa chắp tay lâm râm cầu khẩn thánh phù hộ cho Tâm được vui vẻ, khỏi nhớ nhà và
viết đẹp, học giỏi. Lòng mong mỏi của Tâm chỉ có vậy. Về việc học, cố nhiên,
không mấy khi Tâm bị quở trách và chê bai. Còn sự nhớ nhung lâu cũng nguôi
nguôi dần trong tâm trí của câu thư sinh bé nhỏ.
Nhưng mỗi lần về thăm nhà xuống, lại là mỗi lần khóc sướt mướt,
mỗi lần nhớ thắt ruột là mỗi lần phải đòn nên thân! Mà Tâm vẫn không tài nào chừa
được, nỗi buồn thiu nó phát đâu tự đáy lòng Tâm! Lại ủ rũ mất đến mấy ngày. Tâm
muốn kêu gào giời đất mà minh oan cho thân phận học trò.
‘’Bé bỏng đã phải xa nhà theo học, mỗi năm được độ vài tháng ở
nhà. Rồi càng nhớn đi học càng xa, về thăm càng ít, xót xa thay cái cảnh một
mình nơi đất lạ! Rồi còn đi thi nữa. Thi đỗ phải ra làm quan. Thành ra cái đời
học trò thật là khổ sở. Suốt đời phải lang thang thiên hạ, xa nơi yên ấm thân yêu,
xa cha mẹ vợ con, anh em thân thuộc! Thế thì họ làm khổ nhau chi, bắt nhau phải
cơ cực vì đi học! Ước gì sau này đi thi không đỗ! Ta được về ngay nhà chăn trâu
cầy ruộng như chú cu Thìn, như bác Xã Năm!...’’
Cái ý tưởng ấy cứ quyến luyến Tâm mãi, và sau, mỗi khi ở nhà
xuống trường, nó lại biểu quát rất mãnh liệt. Cho mãi đến năm mười ba tuổi, hiểu
rõ giá trị của sự học, cái ý tưởng ấy mới tiêu tan như mây khói, mà nhường chỗ
cho cái lòng ham muốn không bờ bến những phút vinh quang trên bực thang khoa cử.
CHƯƠNG IX
Mặc dầu Tâm vẫn nhớ nhà và chán ghét sự học như vậy, nhưng nhờ
ở roi vọt và hình phạt ở người ngoài làm Tâm sợ, Tâm vẫn tiến tới mau hơn những
trẻ khác.
Hơn sáu tháng theo ông Đồ Trí, Tâm đã viết buông được và theo
đúng được lề luật của lớp học trò nhỏ. Mỗi ngày kể nghĩa xong, đọc bài hôm trước,
rồi buổi chiều viết bài học tối, lại viết một tờ chữ phóng để thi hơn kém.
Ngày nào cũng như ngày nào, không hề thay đổi. Mỗi tháng hai
kỳ hoc ôn nhằm vào ngày rằm và mồng một. Lớp học trò nhớn, mỗi tháng có một kỳ
ôn định vào ngày nào tùy tiện không nhất định. Tuy mỗi đứa học sách khác nhau
và không bài nào giống bài nào, nhưng đến kỳ ôn đều phải đưa sách lên ông Đồ
phê định đâu là vi chỉ (hết). Phần nhiều bắt đầu từ kỳ ôn trước cho đến cách
bài mới một vài tờ.
Đến ngày ôn, buổi học náo nhiệt hơn hẳn ngày thường. Học trò
không phải học nghĩa. Đọc bài hôm trước xong rồi, chúng quây quần lấy giường
ông Đồ. Đĩa son mài đỏ thắm, chưa dùng gì đến, những bọt sủi cứ lặn dần dần và
dồn cả nước xuống tụ quanh hòn son nhẵn thín. Đứa nào cũng muốn đưa sách cho
ông Đồ chấm trước. Ông Đồ cầm lấy mỗi quyển sách, tay mở luôn luôn đều đều từng
tờ một, xem chừng đến gần bài học hôm qua ông tìm đoạn nào cách, ông phê chữ
‘’y sóc kỳ’’ hay ‘’y vọng kỳ’’ tùy theo ngày ôn vào mồng một hay ngày rằm, rồi
ông quẳng sách ra giả. Đứa có sách cầm lấy lách ra cho những đứa khác len vào.
Như thế quanh giường ông Đồ thưa dần, thưa dần cho đến khi chấm hết. Sau đó học
trò ôn lại một mạch từ đầu cho đến cuối xem có chữ nào quên. Hễ quên là phải lại
hỏi ông Đồ ngay. Ồn ào một lúc, rồi buổi học tan, sớm hơn mọi ngày nhiều. Buổi
chiều không có gì khác, công việc cũng như ngày thường.
Sáng hôm sau, học vội vàng buổi nghĩa, rồi đến lúc ‘’hỏi
ôn’’. Học trò lại đứng quây kín giường ông Đồ, tay đứa nào cũng cầm sách mở sẵn
lăm lăm đưa ông Đồ hỏi. Ông nhận sách, lật qua mấy tờ, đọc một câu trong ấy, đoạn
ngửng nhìn tên học trò có sách. Tên này nhắc lại câu ông vừa hỏi, rồi đọc một
tràng dài nữa. Ông Đồ mở qua mấy tờ hỏi sang câu khác, Tên học trò vớ ngay lấy
câu ấy đọc một thôi nữa. Lại mở mấy tờ, lại một câu thầy đọc trước, lại một
thôi trò đọc sau! Hết ba câu, mà được trơn tru cả, Thầy Đồ phê cho chữ ‘’Ưu
mác’’, có một nét mác rất dài, nghĩa là tốt thượng hạng (hợp với chữ Excellent
của Pháp) Ba câu được cả, nhưng đọc hơi ngắc ngứ một tị được phê chữ ‘’Ưu’’ cộc,
với một nét mác ngắn, (hợp với chữ Très bien). Ba câu ngắc ngứ nhiều được phê
chữ Bình dài có một nét sổ rất dài (hợp với chữ Bien của Pháp). Ai vừa vừa được
phê Bình cộc (Assez bien). Ai hơi khá được chữ Thứ (Passable). Tên nào phải phê
chữ ‘’Liệt’’ nhỏ, người ta gọi là ‘’Liệt mắt cua’’, kém quá thì bị chữ ‘’Liệt’’
to tướng tức là hợp với chữ ‘’Nul’’ ở trong tiếng Pháp.
Cứ lần lượt hỏi như thế, đứa nào xong, nhặt sách lèn ra, đứa
khác đưa sách vào. Hỏi hết lượt, rồi các học trò lại vác sách lại cho ông Đồ xếp
thứ tự để định thưởng phạt. Thỉnh thoảng có kỳ thưởng ngọn bút, thoi mực hay một
vài chục giấy. Còn phạt thì kỳ nào cũng có. Những đứa bị phê liệt thẩy đều bị
phạt, quét nhà, luồn khố, chui gầm giường. Ngoài ra còn phải chịu đánh nữa vì
ông Đồ đây rất dữ đòn. Tùy chữ ‘’Liệt’’ to, nhỏ học trò phải chịu số roi bao
nhiêu đấy. Nhưng ông Đồ không đánh, ông giao roi cho những đứa được ‘’ưu’’ phải
làm việc. Vô phúc những tên nào nể bạn mà cái roi mây giơ cao đánh khẽ nó giáng
xuống đít một cách nhẹ nhàng. Gặp đứa nào như thế, ông Đồ sai nọc ngay đứa ấy
ra, ông nắn nắn uốn cái roi mấy lượt, rồi thẳng tay vụt như mưa giáng xuống mấy
chục roi kiểu mẫu. Thật là điếng người! Cho nên những đứa nhất nhì, tay cầm roi
vụt, mắt vẫn phải lấm lét nhìn trộm ông Đồ, sợ cái roi nó phản mình thì khốn, vạ
người lại trút cả vào thân. Chỉ chết các anh bị ‘’liệt’’ thật là tê liệt! Những
roi vụt mỗi lúc một mạnh thêm, một cay ác, một gớm ghê! Bởi vậy đứa nào cũng sợ,
hễ đến kỳ ôn là chăm chăm học lấy được, học suốt ngày, học cả đêm, học cho lầu
trơn như cháo. Thế mà vẫn còn phấp phỏng, ngộ nhỡ quên một cái thì sao! Và
trong số học trò ấy sợ nhất là Tâm, một đứa xưa nay chúa nhút nhát!
Một hôm, Tâm vừa lách qua lớp rào người quanh giường ra
ngoài, mặt sị như quả thị, băn khoăn vừa mở mấy tờ sách, vừa nói với mấy đứa bạn
ra trước đang ngồi học:
- Kỳ ôn nay, tao gặp đoạn lắm chữ khó quá chắc chắn là, không
khéo lại liệt mất, chúng mày ạ!
Một thằng nói:
- Sợ đếch gì? Anh ạ (vì Tâm là cháu ông Đồ nên được kính trọng,
cả trường ai cũng gọi là anh) cứ học mãi phải thuộc, chia ra từng đoạn một mà học.
Thằng khác:
- Cần gì học! Anh khi nào thầy nỡ đánh.
Thằng khác nữa:
- Mày có mà biết! Con cháu thầy, thầy càng đánh dữ! Đấy cậu
Dũng đấy, hơi một tí là phải đòn! Anh Tâm thử không thuộc xem!
Một thằng khác vừa lấy được sách chạy ra thêm vào cho vui câu
chuyện:
- Cho anh Tâm không thuộc một lần, để anh ấy bị ‘’liệt’’ anh ấy
bị đòn, chứ riêng chúng mình chịu đòn mãi à. Tao biết chắc mai anh Tâm thế nào
cũng tụt xuống bét kia mà!
Rồi quay lại Tâm, nó nói với vẻ đắc ý:
- Này anh Tâm ạ, tôi như anh, tôi không học kỳ ôn này nữa,
khó bỏ mẹ đi ấy. Học khổ thân mà chưa chắc đã thuộc. Thà chịu một trận đòn cho
rõ mùi đời còn hơn! Thôi gấp sách lại, anh ạ!
Những nhời nói của các bạn càng làm cho Tâm bối rối thêm.
Nuôi một nỗi lo ngay ngáy trong lòng. Tâm không còn đủ bình tĩnh mà học, nên
càng kêu mỏi miệng, bốn mươi tờ sách ôn vẫn cứ bập bõm không trôi. Tâm không
nghĩ gì đến chơi, đến nghĩ. Tâm chỉ ngồi học lẩm bẩm ở trong mồm, học như nuốt
đi, học như vồ lấy!
Thế mà đến sáng hôm sau, lúc học nghĩa bài mới xong rồi, Tâm
ngồi nhẩm lại, vẫn trúc trắc quên hoài! Tâm sợ run lên và tự hỏi:
- Tại sao học thế mà mình vẫn không thuộc?
- Tại mồm thằng Chính độc địa, hôm qua nó bảo mình thế nào
cũng liệt? Ta phải đi đốt vía nó!
- Hay tại sáng sớm hôm nay, đi ra đồng sớm gặp ngay cái đĩ ở?
Chứ tối qua mình đã thuộc rồi kia mà?
- Hay tại số mình ngày hôm nay nhất định phải chịu hình phạt,
trăm đường số vẫn chẳng tránh khỏi nào! Biết vậy mình cứ theo nhời thằng Chính
cho xong, học gạo mãi khổ thêm!
Tâm vừa nhẩm vừa vẩn vơ nghĩ vậy, nên chẳng lợi gì mà chỉ
thêm có hại đến cho mình, Tâm không kịp nhìn lại bài nghĩa vừa học, ông Đồ gọi
lại kể. Tâm ngắc ngứ ư a mãi mới kể hết hai tờ giấy học trò. Trước khi dẫn
nghĩa, ông mắng tàn tệ, mắng mất mặt mất mũi vì bài nghĩa không thuộc, Tâm tủi
thân nước mắt vòng quanh, mặt đỏ bừng, mũi sụt sịt len lén đi ra tránh vẻ giận
lôi đình của ông Đồ.
Thì cuộc hỏi ôn đã bắt đầu, Tâm càng thêm cuống cuồng! Nhưng
cũng cố trấn tĩnh mang sách vào. Qua ba lượt đọc ngấp ngừng lúng túng, Tâm được
phê ‘’thứ cộc’’, Tâm mừng quá, đánh rơi cả sách, thở mạnh một tiếng nhẹ nhõm,
loạng choạng bước ra ngoài hớn hở khoe với các bạn:
- May quá chúng mày ạ! Tao được thứ cộc. Hút chết! Thật hút
chết, anh Minh ạ!
Minh là một người học trò nhớn của ông Đồ, vui vẻ, dễ tính, lại
chiều chuộng Tâm, hay bảo bao Tâm, nên trông thấy, Tâm vội khoe ngay.
Minh mỉm cười nói:
- Được có thứ cộc mà mừng cuống lên. Ngộ người ta ưa bình cả
thì sao?
Tâm ngẩn người ra:
- Nhưng cũng thoát phải đòn!
Quả nhiên, tan cuộc hỏi ôn, chúng nó được ưu, bình và bình thứ
cả. Lẽ cố nhiên Tâm thứ cộc bị bét, phải quét nhà trường, cái nhà năm gian rộng
mông mênh. Tâm lẳng lặng đi lấy chổi lên quét, ngẫm nghĩ:
- Rõ số đen, không tài nào tránh khỏi đen!
Đang hì hục soi, ông Đồ hỏi:
- À, hôm nay thằng Tâm quét nhà có phải?
Học trò thưa:
- Bẩm thầy vâng ạ.
Ông Đồ quát:
- Sao thằng Tâm học không thuộc? À! À!
- Dạ bẩm thầy con có thuộc đấy ạ!
- Có thuộc sao lại bét?
- Bẩm thầy tại...
Tâm ngần ngừ, ông Đồ quát:
- Sao?
- Bẩm thầy, tại số con hôm nay đen ạ!
Cả bọn học trò cười. Ông Đồ trừng mắt mắng:
- Số, không học đổ tại số! Mày liệu cái hồn mày đấy!!!
Tâm lặng im thui thủi quét.
Ở đời, việc dù khó, dù đáng sợ đến đâu, lâu lâu cũng phải
quen, phải thường. Dần dần Tâm đã quen với việc học ôn rồi. Tâm coi như không,
không có chi là kinh khủng nữa. Nhưng cái sợ ấy vừa qua, lại tiếp ngay đến cái
lo khác: Tâm phải viết ám tả! Học đã khá khá, viết đã đúng chữ, học trò phải viết
ám tả để tránh sự nhiêu khê cho cả thầy giáo và học trò? Viết ám đây theo đúng
nghĩa đen của nó là gấp sách lại và viết tầm những câu mình đã học trong bài.
Viết ám tả lợi cho học trò vì được nghĩ lâu và tốt thêm chữ. Lệ viết chỉ có hai
mươi chữ hay bốn mươi chữ là cùng!
Buổi nghĩa tan, học trò mang vở ra, lấy nghiên mài mực, mở
sách xem qua một lượt cẩn thận, rồi mang sách lên trình ông Đồ. Ông đọc một câu
ở trong bài, gấp sách lại và xếp thành chồng ở bên ông. Tên học trò nhẩm cái
câu vừa đọc ra nằm xuống viết, vừa viết vừa đọc, để nhớ ra những chữ nối sau.
Lúc, lúc lại ngừng bút đếm. Đếm đủ số đã định, dù dở câu cũng bỏ đấy. Rồi ngồi
dậy đọc lại. Đọc đi đọc lại xem có chữ nào mất, xong rồi đưa lên ông Đồ chấm,
tính điểm để định hơn kém.
Mỗi chữ mất trừ hai điểm, chữ hỏng, sai trừ một điểm, chữ dưới
nhẩm lên chữ trên trừ hai mươi điểm. Điểm tính số hai mươi. Tên nào được cả hai
mươi điểm là ưu mác. Rồi thứ tự xuống Bình, Thứ. Tên nào không đủ điểm bị phê
chữ ‘’ Bất cập’’, phải Bất cập là đáng xấu nhất, vừa phải lau bàn ghế vừa phải
‘’ luồn khố’’.
Tâm sợ nhất cái tội ‘’luồn khố’’ nên những buổi đầu, Tâm học
càng cẩn thận lắm. Vừa học nghĩa xong, chưa kịp kể, Tâm đem bài cũ ra học lại lầu
như cháo trơn. Một đứa bạn nói:
- À, anh Tâm hôm nay viết ám tả, thảo nào học ghê quá!
Một đứa khác:
- Này anh Tâm ạ. Học thuộc vừa chứ. Học thuộc quá, nó lú mất
đấy. Có khi nghĩ không ra đâu!
Tâm không nghe, vẫn cứ học. Rồi đến lúc kể nghĩa xong, bắt đầu
giờ viết ám tả, chúng bạn đã đưa cả sách lên rồi và giở về viết, Tâm mới đem
sách lên vừa đi vừa đọc lại. Ông Đồ cầm lấy sách, mở tờ nọ sang tờ kia, Tâm chớp
mắt, đỏ mặt, trong lòng hồi hộp.
Ông Đồ đọc một câu, gấp sách lại, quẳng lên chồng bên cạnh.
Tâm nhanh nhẩu đọc lại, nhảy cững qua mấy đứa học trò đang nằm viết, về chỗ
mình hăm hở viết. Nhưng viết đến nửa chừng, Tâm bổng ngồi đực ra, quên ngay mất
một câu, Tâm đếm đi đếm lại, mới được có mười lăm chữ. Tâm ngồi dậy, đọc to những
chữ vừa viết, rồi ngồi thừ ra, cắn bút, nghĩ mãi không ra, mắt đỏ, tai nóng bừng,
nước mắt chạy vòng quanh, sắp chực khóc! Chợt may mắn sao, trí thông minh đến
giúp đỡ, Tâm nhớ ra được cái câu đang mong mỏi ấy. Tâm rú lên như một anh nhịn
đói hai ngày vớ được cơm.
- Có thế chứ! Có thế chứ! Chả nhẽ học thuộc thế mà ‘’dặn’’
mãi không ra.
Rồi Tâm nằm xuống hí hoáy viết. Một lúc sau Tâm vác vở đưa
lên trình ông Đồ. Ông cầm lấy xếp vào chồng vở rồi rút sách ném giả Tâm, Tâm mở
sách ra, vừa đi xuống vừa lẩm bẩm đọc. Về đến chỗ thì đọc vừa xong, Tâm ném phịch
sách xuống phản, ngồi phệt xuống, vỗ tay đánh đét một cái vào đùi và kêu lên rằng:
- Thôi chết rồi! Hỏng hai chữ, mất hai chữ, đảo ngược một chữ!
Có chó không!
Một tên học trò hỏi:
- Sao? Sao? Mất nhiều không?
Tâm nhắc lại:
- Hỏng hai chữ, mất hai chữ, đảo lộn một chữ!
Một đứa bạn khác nói:
- Như thế được mười hai điểm, không bét đâu mà sợ. Còn chán
thằng hỏng!
Học trò đã để cả vở lên rồi. Ông Đồ chấm. Tay ông cầm bút son
ngoăn ngoắt quặc chữ mất, vòng chữ lộn và chấm lên mặt chữ hỏng rồi phê điểm.
Những vở cứ đều đều vất ra. Tâm cầm lấy vở của mình ra xem: Thập nhất điểm, thứ,
chữ son còn đỏ thẫm. Thằng bạn đứng gần ghé nhìn vào vở Tâm và nói:
- Thứ mác, không sợ anh ạ, anh còn hơn thằng Tài, nó thứ cộc.
Tâm thở mạnh, nhẹ nhõm hẳn người!
CHƯƠNG X
Sự học càng ngày càng khó thêm. Ông Đồ thấy Tâm học được,
theo kịp những đứa đã học lâu, ông cứ dần dần bắt Tâm theo những môn khó ở nhà
học. Thành thử tâm trí Tâm không lúc nào được nghĩ ngơi, thư thả, ngoài mấy độ
nghỉ mùa và nghỉ tết. Óc lúc nào cũng phải làm việc, lòng lúc nào cũng phải lo
âu!
Tâm đã quen với học ôn và viết ám tả. Học ôn Tâm được ưu
luôn, và viết ám tả ngày nào Tâm cũng nhất nhì. Tiếng Tâm học giỏi đã lan truyền
đi khắp cả. Nhưng Tâm còn bé dại chưa lấy thế làm vui mừng cho lắm, Có mừng Tâm
chỉ mừng là thoát khỏi quét nhà, phải đòn và luồn khố. Thế thôi.
Nhưng mà người ta có để Tâm yên ổn với nỗi vui mừng đơn giản ấy
đâu. Cái luật ở đời là phải tiến, tiến mau chừng nào hay chừng ấy. Nên vừa thư
thư được ít ngày, Tâm đã phải tập làm câu đối. Tập làm câu đối xong làm thơ,
làm bằng nôm thành thuộc, rồi làm bằng chữ, ông Đồ bảo vậy. Ông giảng cho Tâm
biết thế nào là chữ nặng, chữ nhẹ: Những chữ chỉ người, chỉ loài vật, chỉ vật
là chữ nặng. Những chữ phụ trong câu như chữ chi dã, giả, hồ, nhị, vân vân là
chữ nhẹ. Còn một hạng chữ không nhẹ không nặng, nó thường chỉ công việc làm,
người ta gọi là chữ thường, đại để như chữ quy (là về), khứ (là đi).
Ông Đồ nói tiếp:
- Làm câu đối phải đối chữ nặng với nặng, nhẹ với nhẹ. Như
sông phải đối với núi, giời phải đối với đất. Vậy cây cau, mày đối với gì, cây
cau cũng là chữ nặng...
Tâm ngẫm nghĩ nhìn cây cau, nhìn các bạn, nhìn ông Đồ, rồi
nhìn ra bờ ao, thấy cây dừa tầu lá tua tủa cũng giống cây cau, liền đối ngay:
- Bẩm thầy cây cau đối với cây dừa ạ!
Ông Đồ lắc đầu:
- Không được, thất luật rồi. Làm câu đối phải hiểu luật bằng
trắc. Phải đem chữ bằng đối với chữ trắc. Đây cây cau, cây cau bằng mà đối với
cây dừa, dừa dưa bằng, thất luật, hỏng! Phải đối với cây quít, quít quịt trắc,
chẳng hạn...Vậy từ đây, trước khi đối, phải đánh vần bằng trắc đã, nghe chưa!
- Bẩm thầy vâng ạ!
Tâm sực nhớ đến câu chuyện cái anh chàng ngày trước mà người
ta kể lại cho nghe: ‘’Một anh chàng dốt muốn lấy con gái một ông nhà giầu trong
vùng. Cái ông này lại hay ra câu đối. Anh không biết làm thế nào, bên hàng xóm
có người học trò, anh bèn sang tỏ thật nỗi lòng, người học trò bảo anh cứ đi, để
mình làm đầy tớ theo hầu giúp đỡ. Hai người cùng nhau đi. Người học trò dặn anh
đủ điều. Đến nơi, người ấy còn dặn lại một lần nữa:
- Hễ người ta ra câu đối tức cảnh, anh thấy cảnh ở đấy có gì
lạ và linh hoạt, anh lựa mà đối ngay, tôi ở ngoài hùa thêm vào. Anh lại phải nhớ
điều này: Hễ câu đối về cảnh, mắt tôi trông ngang, về tình, mắt tôi trông xuống...
Vào đến nơi, ông nhà giầu lên tiếp, biết rõ ý định của anh
kia rồi, ông liền ra câu đối:
- Cây cau!
Anh kia trông người học trò, thấy mắt nhìn ngang biết là câu
đối tức cảnh, liền trông ra sân, thấy con cua đang bò lộm ngộm, đối ngay:
- Con cua!
Ông nhà giầu lắc đầu:
- Ừ, cây cau bằng mà của cua bằng thất luật, sổ toẹt!
Anh học trò cãi:
- Bẩm cụ cậu con đối hay lắm đấy ạ!
Ông nhà giầu:
- Anh nói lạ, hay ở chỗ nào?
- Bẩm cụ, ra cây cau, nhất trụ kinh thiên (một cột vút giời),
cậu con đối với con cua, bát túc chỉ địa (tám chân trỏ đất) thật hay vô cùng,
khuyên trần cả hai bên.
Ông nhà giầu chịu. Anh dốt kia đắc thắng giở về’’
Tâm nghĩ bụng mình rõ dại, giá đối ngay thế lại hóa hay.
Hôm sau, Tâm lại phải gọi lên thử xem đã hiểu luật lệ đối đáp
chưa. Ông Đồ nhìn Tâm hỏi:
- Mày đã hiểu nhẹ, nặng, bằng, trắc, chưa?
Tâm nhanh nhẩu đáp:
- Bẩm thầy con đã hiểu.
- Được, hễ hiểu sai và thất luật là phải đòn nghe không?
- Bẩm thầy vâng ạ.
Rồi ông Đồ ra chữ Thánh, Tâm đối chữ Thần, ra chữ Gia (nhà),
Tâm đối chữ Quốc (nước), ra Phụ tử (cha con), Tâm đối Quân thần (vua tôi).
- Được lắm.
Ông Đồ gật gù ra câu nữa:
- Nhân tâm
Tâm lẩm bẩm:
- Nhân tâm là lòng người. Nhần nhân bằng tầm tâm bằng. Hai chữ
bằng cả.
Rồi Tâm đứng đực người ra suy nghĩ tìm tòi, mãi không đối được.
Ông Đồ giục:
- Mau lên chứ, những câu hai, ba bốn chữ...chỉ phải đánh bằng
trắc chữ cuối cùng thôi.
Ngay lúc ấy, một tên học trò, ý chừng muốn xui Tâm đối với địa
diện (mặt đất) hay địa thế gì đấy, nháy Tâm và lấy ngón tay chỏ xuống đất, Tâm
trông theo ngón tay thấy một bãi cứt gà, liền lẩm bẩm:
- Tầm tâm bằng, cứt cựt trắc, được!
- Bẩm nhân tâm đối với kê cứt ạ!
Mọi học trò đều phì cười. Ông Chánh, chủ nhà, ngồi trên trường
kỷ, chăm chú xem từ nãy đến giờ, cũng phải bật cười và nói chêm vào:
- Nhân tâm là lòng người mà đối với cứt gà thì xấu lắm, sổ toẹt!
Ông Đồ đỏ mặt hung hăng vụt Tâm ba roi giữ thể diện và mắng
chữa:
- Thằng này đốc hư rồi, học một ngày một đổ đốn đi. Tao lại tống
cổ về với bố mẹ mày cho xong.
Tâm sụt sịt khóc đi về chỗ ngồi.
Và mấy hôm sau, cứ buổi chiều, Tâm theo đúng lệ, phải làm năm
câu đối. Không phải gọi lên đối ứng khẩu như trước nữa, Ông Đồ ra câu đối vào vở,
mỗi câu đối viết vào một dòng, Tâm đem về nghĩ đối được câu nào viết ngay xuống
dưới dòng ấy. Được tha hồ nghĩ, tha hồ mở sách tìm tòi. Chiều hôm sau mới chấm.
Câu nào hay lắm thì khuyên to, khuyên đến hai ba khuyên. Chữ
nào đối chọi lắm, khuyên trần cả hai bên. Câu hay vừa, được khuyên nhỏ. Câu thường,
điểm điểm mấy cái. Câu hỏng sổ một cái dài. Câu nào hỏng lắm sổ toẹt hai ba
nhát!
Hễ tất cả những câu ra đều bị sổ toẹt cả là ‘’Bất cập’’ thế
nào cũng bị luồn khố và phải một trận đòn tối tăm mắt mũi. Còn phải mỗi câu bị
là ba roi mây giơ thẳng cánh!
Tâm đã dạn dần, Ngày nào Tâm làm được trôi chảy và tin chắc thế
nào cũng không đến nỗi sổ. Tâm múa tay vui mừng và hớn hở khoe với các bạn cái
câu tìm được hay và đối chọi. Nhưng ngày nào gặp câu khó quá, tìm nghĩ mãi
không ra, Tâm đối liều đối lĩnh vào đấy, rồi vội bỏ đi chơi ít, tặc lưỡi một
cái và nghĩ bụng:
- Đếch vào! Muốn ra thế nào thì ra, chạy chơi cái đã!
Sự ham chơi của tuổi trẻ dần dần thắng được sự sợ hãi của roi
vọt. Nhưng mà đây chỉ là tạm bợ trong thời gian ngắn ngủi.
CHƯƠNG XI
Tâm đã lên mười tuổi. Nghĩa là đi học đã được 4 năm rồi. Bốn
năm giời theo học, tâm hồn đã nhiều khi có những trạng thái lạ lùng. Có những
lúc bồi hồi cảm xúc. Có những lúc vui mừng hớn hở, có những lúc thao thức nhớ
nhung...Nhưng chưa lúc nào Tâm thấy mình say sưa ham học, Tâm chịu khó học, chẳng
qua vì bắt buộc, vì sợ phải đòn, sợ luồn khố, sợ xấu hổ. Thỉnh thoảng, được mọi
người khen lao, Tâm thấy thinh thích. Nhưng cái lúc thinh thích ấy không thể bù
lại được những nỗi lo âu buồn nản. Trong lòng Tâm vẫn nặng trĩu một vẻ bực tức
ngấm ngầm, nhớ tiếc cái lúc nô đùa thỏa thích khi thơ ấu!
Ai đời, một đứa trẻ bé bỏng như thế này, đang tuổi hay ăn
chóng nhớn để đi chơi, người ta lại bắt học lấy học để, học ngày học đêm, để rồi
sau đi thi đỗ làm quan. Thi đỗ làm quan thì có lợi gì cho đứa trẻ. Tâm thường
nghĩ vậy. Đến năm nay, đã lên mười tuổi và nhờ học nhiều sách vở, hiểu nhiều
nghĩa lý hơn, Tâm đã có vẻ người nhớn một ít, Cái ý nghĩ nông cạn non nớt kia
đã nhường chỗ những nguồn tư tưởng sâu sắc xa vời!
Cái đời học trò, Tâm chưa ham thích cho lắm, nhưng Tâm mong mỏi
được như những ông trạng đời xưa: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh,
Nguyễn Trực, mà ông Đồ thường kể lại trong lúc chiều tối nhá nhem. Ở trong lòng
cậu bé mười tuổi đã bắt đầu nẩy mầm cái sự ham muốn vinh quang.
Nhất là tự đầu năm nay, ông Đồ Trí đi ngồi chỗ khác. Đã đem
Tâm đến một thổ ngơi thuận tiện cho sự nẩy nở ấy. Tâm đến nơi với tất cả sự vui
mừng của một người được chung quanh hoan hỷ đón chào. Họ thì thầm nhau để lọt
vào tai Tâm những mẫu chuyện có thể làm đỏ mặt sung sướng cả đến những người rất
lạnh lùng:
- Bé mà bé hạt tiêu đấy nhé! Học giỏi nhất trường Vân Trung đấy.
Học hơn cả những đứa học đến bảy tám năm rồi!
- Học qua cả tứ thư, ngũ kinh rồi. Bây giờ sắp học sử!
- Câu đối giỏi đáo để, Thầy Đồ ra là đối liền!
- À, tao biết rồi, cái anh tao nghe nói đâu nhân tâm đối với
kê cứt chứ gì? Thế thì chả giỏi!
Tâm nghe thấy cũng phải mỉm cười, nhưng cũng không hại cho vẻ
sung sướng vẫn còn lộ trên hai má đào đỏ hồng, Tâm phấn khởi, càng vui vẻ chăm
học tập hơn.
Một hôm với các bạn mời đi thăm khắp làng, gặp một ông kỳ mục
là tay hay chữ học nhiều, ông bắt Tâm đứng lại và hỏi:
- À, cậu có phải là cậu Tâm? Tôi thấy Thầy Đồ và nhiều người
khen cậu hay chữ lắm, thế cậu học đến sách gì rồi?
- Bẩm ông, con đương học Kinh Thư!
- Tứ Thư học chưa?
- Bẩm Tứ Thư học rồi ạ.
- Sử (sử đây là sử Tầu) học chưa?
- Bẩm ông, sử con học hết Hậu Hán sang đến Tấn rồi. Thầy con
bảo học Ngũ Kinh đã, rồi hãy học tiếp Sử sau.
- Tốt lắm, cậu đối hộ tôi câu này nhé: ‘’Đệ tử nhập tắc hiếu
xuất tắc để’’
Tâm ngẫm nghĩ, rồi đối ngay:
- Bẩm con xin đối là ‘’Thánh nhân an tư nguy, phú tư bần’’
Ông Kỳ Mục khen:
- Được lắm. Cậu làm thơ chưa?
- Bẩm ông, con chưa biết làm, thầy con chưa dạy làm.
- Cậu học giỏi thật, người ta đồn không sai, nhưng phải học
làm thơ chứ, về bảo Thầy Đồ dạy đi nhé. Thôi chào cậu nhé.
- Con không dám. Kính chượng (tiếng chào các bậc bề trên) ông
ạ!
Tâm giở về với mối băn khoăn trong lòng, không biết có nên
nói với ông Đồ hay đừng nói. Nói với ông dạy làm thơ, rồi ngộ khó khăn không
làm nổi, học không nổi, lúc ấy ông Đồ mới mắng nhiếc cho, đánh đập cho, rõ là xấu
hổ, ê chề, rõ là xin dây mà tròng cổ. Dại gì!
Nhưng mà không học, ra đường gặp người thắc mắc, người ta bắt
làm thơ không làm được, có phải rõ dơ, mất cả tiếng tăm. Đằng nào cũng tội. Tâm
còn phân vân như thế để nghĩ vài ngày đã. Thì ngay chiều hôm sau, ông Đồ đã gọi
Tâm lên bảo rằng:
- Năm nay đã nhớn, mày phải tập làm thơ, rồi làm luận, làm
phú nữa.
- Bẩm vâng ạ!
Tâm giả nhời ngay vậy, trong bụng không lo như mọi khi trước,
phải tập món gì mới, và cũng không mừng, vì chưa hiểu ông sẽ bắt bẻ thế nào.
Tâm thản nhiên lắm. Có phải Tâm đã băn khoăn, sửa soạn với ‘’vấn đề’’ này đã
hơn một ngày rồi không? Nó không vụt đến bất thình lình đập ngay vào óc Tâm như
những kỳ trước. Cho nên Tâm bình tĩnh được mà đợi công việc đến. Ông Đồ nói:
- Bây giờ hẵng tập làm thơ nôm đã, làm thơ nôm thành thuộc,
khỏi thất niêm, thất luật đúng biền ngẫu rồi thì làm thơ chữ. Thơ chữ cũng vậy.
- Bẩm thầy vâng ạ.
Rồi ông Đồ lấy bút viết bài thơ ‘’Người bồ nhìn’’ của Vua Lê
Thánh Tôn ra vở để làm mẫu.
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ
Một lòng vì nước há vi dưa!
Xét soi trước mặt đôi vòng ngọc
Vùng vẫy trên tay một lá cờ
Dẹp giống chim muôn xa phải lánh
Rẻ quân cầy cuốc, gọi không thưa
Mặc ai chen chúc đường danh lợi
Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.
Rồi ông Đồ giảng:
- Bài thơ này là thơ thất ngôn bát cú đường luật. Phép làm
thơ phải hiểu vần và luật bằng trắc. Bài tám câu có năm vần, bài bốn câu có ba
vần! Thơ mà sai vần thì không đọc được. Luật bằng trắc có hai thể, thể bằng và
thể trắc. Thể bằng bắt đầu hai chữ bằng, thể trắc hai chữ trắc. Cứ hai câu với
nhau đúng điệu bằng trắc, là đúng luật, sai điệu là thất luật. Bốn chữ đầu ở
câu tam, câu ngũ, câu thất không cùng một thể với bốn chữ đầu câu nhị, câu tứ,
câu lục và tất cả câu cuối cùng không cùng một thể với câu đầu là thất niêm.
Chữ đầu và chữ thứ ba ở mỗi câu, chữ thứ năm ở câu nhất nhì
không cần đúng điệu bằng trắc người ta gọi là nhất tam bất luận và ngũ bất luận.
Tuy không cần nhưng nếu đọc lên khó nghe, người ta gọi là khổ đọc, thì lại phải
đổi cho đúng điệu. Hiểu niêm luật bằng trắc thế rồi, lại cần phải rõ cách xếp ý
tứ. Câu thứ nhất là câu phá đề mở đầu bài và bao quát cả ý trong bài. Câu thứ
nhì là thừa đề, nối xuống bài. Hai câu tam tứ là thích thực, giải thích rõ ràng
đầu bài. Hai câu ngũ lục là tổng luận bàn rộng đến bài. Hai câu cuối là kết luận,
kết thúc cái ý trong bài lại...Những bài thơ ngũ ngôn hay thất ngôn dài quá tám
câu gọi là trường thiên hay hành. Các thể thơ đều tương tự nhưng chịu khó nhận
kỹ là làm được ngay. Như bài thơ này là thơ thể trắc, vần bằng:
Đoạn ông Đồ chỉ tay vào bài thơ cho Tâm hiểu:
Đây này, trắc trắc bằng bằng, trắc trắc vần. Bằng bằng trắc
trắc bằng vần, Cứ thế mà suy là biết ngay. Còn thì thể bằng, vần bằng như bài vịnh
thú nhàn’’ của Cụ Trạng Trình.
Ông Đồ cầm bút viết:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dù ai vui thú nào!
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chỗ lao xao,
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!
Tâm chăm chú nghe nhời ông Đồ, chăm chú nhận hai bài. Tâm vui
thích lẩm bẩm luôn trong mồm. Bằng bằng trắc trắc, bằng bằng trắc trắc. Tâm gật
gù thỏa thích như một người mới khám phá ra một điều gì quan trọng.
Mấy hôm sau, ông Đồ hỏi Tâm:
- Thế nào thằng Tâm đã hiểu luật thơ chưa? Tao ra thử một bài
làm xem nhé!
Tâm ngập ngừng nghĩ ngợi rồi thưa:
- Bẩm thầy vâng ạ! Ông Đồ trông ra sân thấy hai con gà sống
đương chọi nhau, ông liền lấy làm đề: ‘’Hai con gà chọi nhau’’ và bảo:
- Cả anh Chấn, anh Chi, anh Lịch cũng phải làm thi xem nào. Vần
được tha hồ chọn.
Chấn, Chi, Lịch là ba anh học trò nhớn và xuất sắc nhất ở trường.
Tâm nằm ngẫm nghĩ mãi, viết rồi lại xóa, viết lại xóa ba bốn lượt. Mãi sau mới
viết thành bài đưa lên trình ông Đồ:
Hai con gà sống chọi nhau hoài
Con nhớn dai, con bé cũng dai
Vỗ cánh cong đuôi, chân đạp ngược
Xù lông, chúi mỏ, mắt nhìn xuôi
Toạc mào, gảy cựa mà không chán
Trễ cánh què chân, cũng chửa thôi
Hùng hổ cướp mồi thành tự hại
Tranh nhau chi mãi! hỡi gà ôi!
Ông Đồ xem qua rồi lắc đầu nói:
- Về luật thơ thì đúng, nhưng ý tứ sai cả. Con gà chọi nhau mắt
nó nhìn ngang thẳng ra đằng trước, chứ có nhìn xuôi đâu.
Tâm cãi:
- Mắt nhìn ngang thì sai vần mất.
- Ấy thế mới hỏng. Mà ý nghĩ tầm thường quá. Xù lông, chúi mỏ,
toạc mào, gảy cựa, trể cánh, què chân, cướp mồi toàn là chữ khó nhọc cả. Phàm
muốn làm thơ hay, ý phải đặt cho cao, chữ phải dùng cho thanh tao nhẹ nhõm, khẩu
khí cao xa, thì sau mới mong ra người được, chứ tư tưởng tầm thường thì còn
mong gì.
- Đây, tất cả các anh đều nghe tôi kể lại cái tài mẫn tiệp và
cái chí to tát của cổ nhân ngụ trong câu thơ câu đối cho mà nghe. Tả cái chổi
mà người ta hạ thế này:
Lời chúa vân truyền đến ngọc giai
Sai làm lệnh tướng quét trần ai
Một tay vùng vẫy giời tung gió
Bốn cõi tung hoành đất sạch gai
Có rõ ra khẩu khí thiên tử không? Bài ấy của Vua Lê Thánh Tôn
đấy.
‘’Ông Lương Hữu Khanh ngày xưa khi còn trẻ tuổi hàn vi phải
đi kiếm ăn để học. Một hôm qua một bến đò, gặp vị hòa thượng cùng sang. Ông
nghèo rách rưới lại lanh chanh xuống trước, có vẻ vô phép. Vị hòa thượng mắng,
ông cãi lại và tự nhận là học trò. Vị hòa thượng kia bảo:
- Đã là học trò phải làm một bài thơ tức cảnh chuyến đò.
Ông làm ngay:
Một bầu kinh sử, níp kim cương
Ngươi, tớ cùng sang một chuyến ngang
Đám hội, nhà chay, ngươi đủng đỉnh
Lầu rồng, gác phượng tớ nghênh ngang!
Ngươi sao chả nhớ nhời Hàn Dụ?
Tớ vẫn còn căm chuyện Thủy Hoàng
Qua chuyến đò này rồi lại biết
Ngươi về thờ Phật, tớ thăng quan.
Hòa thượng không giận, còn thưởng cho oản chuối và một quan
tiền nữa. Thơ người ta như thế, chứ chúng bay chùi mỏ với xù lông!
Nói đến người thợ ruộm mà người ta viết:
Thiên hạ Thanh hoàng giai ngã thủ
Triều đình Chu tử tổng ngô môn.
Thì hay biết mấy. Rõ ra cảnh anh thợ ruộm mà là cảnh một đức
vua! Người ta cứ xem ở câu văn mà đoán được cái sự nghiệp của mình. Ngày trước
ông Huyện Thanh Trì gặp một người học trò vào xin tiền. Ông thấy là học trò, liền
ra cho câu đối, hẹn đối được mới có tiền. Ông ra rằng:
- Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư (trì là
ao, thanh là trong, ngư là cá)
Người học trò đối ngay:
- Sông Ngân Hà nước bạc phau phau, vịt nằm ấm áp (hà là sông,
ngân là bạc, áp là vịt)
Câu đối thật hay vô cùng, chọi từng chữ một.
Ông Huyện phải thưởng một lạng bạc và khen:
- Ông ngày sau sự nghiệp hơn tôi nhiều: ‘’ông, vịt nằm ấm áp,
thanh nhàn lắm. Tôi, cá lội ngắc ngư nên còn vất vả, lật đật mãi, cá đã ngắc
ngư là cá ở nơi đồng cạn’’...
Quả nhiên ngày sau người học trò đỗ Tiến Sĩ, làm quan rất dễ
dàng.
Đấy chúng mày xem, ở một câu đối mà người ta biết rõ mình như
vậy, há không nên cẩn thận sao?
Hay hơn nữa, có câu đối của ông Bảng Bòng. Hồi còn nhỏ, nhà
nghèo, phải gọi ra đắp đường, ông làm đã cẩn thận, nhưng sức yếu, vẫn bị bọn
lính coi hạch sách và đánh đập. Ông kêu tướng lên, ông Huyện Phú Thị cũng đi
coi đường, vừa qua đấy, thấy kêu chạy lại hỏi duyên cớ làm sao:
- Tôi là học trò yếu ớt mà các anh ấy cứ đánh.
Bọn lính bẩm ngay:
- Bẩm quan lớn, nó cứ vừa làm vừa nghịch, học hành gì nó, bé
bằng cái mắt muỗi lại cứ ương.
Ông Huyện mắng qua bọn lính rồi bảo ông:
- Mày đã nhận là học trò, tao ra cho mày một câu đối, hễ
không đối được, tao nọc đánh năm chục roi nhé.
- Bẩm vâng. Nhưng tôi đối được thì sao?
- Thì tha cho không phải đắp đường.
- Vâng, xin quan lớn ra cho.
Ông Huyện Thị đọc:
- Ông Huyện Thị sức đắp đường Bòng, buổi hồng thủy (nước lụt)
muôn dân trông cậy.
Ông đối ngay:
- Thằng bé quít rắp mong Bảng nhãn, tranh đỗ đầu thiên hạ mới
cam.
Đem toàn tên cây đối chọi với cây, mà chí khí lại to tát. Ông
Huyên khen mãi và bảo bọn lính:
- Thằng bé này sau hơn ta nhiều. Ông thưởng cho ít tiền rồi
cho về.
Chúng mày nên theo đấy mà làm gương. Phải để ý nghĩ cho cao,
bắt chước những danh nhân đời trước, rồi tìm những chữ thật chọi mà đẹp đẽ viển
vông thì bất cứ thơ hay câu đối cũng đều hay cả.
Vua Đường Thái Tôn bảo: ‘’Thủ pháp ư thượng, cận đắc vi
trung, thủ pháp ư trung, bất miễn vi hạ’’.
Thật vậy, bắt chước những người cao, còn được là vừa vừa,
không phải chọi lại là kẻ kém cõi.
Chúng mày phải ngẫm nghĩ kỹ câu ấy mà tu tỉnh thân đi...
Tâm và mọi học trò nhớn đều im lặng nghe lời thầy khuyên và tự
hẹn mình cố học tập, suy nghĩ, bắt chước sao cho khỏi uổng phụ nhời thầy bảo
như rót vào tai!.
1/6/2017Chu Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét