Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022

Allen Ginsberg, hồn thơ biển cả

Allen Ginsberg, hồn thơ biển cả

Một chiều nắng thu 2008, tôi tìm đường đến một nghĩa địa Do Thái ở ngoại ô thành phố Neward. Cách Ground Zero (bình địa của tòa nhà World Trade Center bị phá xập ngày 9/11/2001) của náo nhiệt Dowtown Manhattan chỉ một giờ đường xe điện ngầm và tàu hỏa, sự hoang vắng nơi đây là cả một tương phản. Mình tôi trên con đường bẩn thỉu khó nghĩ là đang ở trên nước Mỹ, mình tôi lang thang trong nghĩa địa Gomel Chesed, với cành hoa hướng dương trong tay - loài hoa gắn với cả đời thơ Allen Ginsberg. Nhưng hóa ra tôi không một mình: trên tấm bia bằng đá thô nho nhỏ đặt nằm ngang sát đất ngay phía trước bia chung của dòng họ Ginsberg, từ bao giờ một cuốn thơ Howl & Other Poems, vài cụm đá vụn của những người hâm mộ đến đây trước tôi…
Thứ bảy ngày 5 tháng 4 năm 1997, sau một thời gian ngắn kịch phát ung thư gan giai đoạn cuối và một cơn đột quị, Allen Ginsberg qua đời trong căn hộ bốn phòng giản dị của mình ở East Village (Làng Đông), khu Lower East Side (khu Hạ, phía đông) của đảo Manhattan, thành phố New York, giữa các bạn thân và người tình già. Tôi đã có dịp đến thăm hai lần căn hộ ấy ít năm sau khi chủ nhân của nó ra đi - nó được giữ lại như một kỷ vật của ông, với chiếc giường nhỏ và tấm thanka treo trên tường để thiền quán. Lần thứ hai, vào năm 2005, căn hộ chỉ còn hai phòng nhỏ. Bob Rosenthal, bạn cũ của thi sĩ và Giám đốc Di sản Allen Ginsberg hiện nay, cho biết là ngân sách eo hẹp không cho phép giữ hết lại cả bốn phòng như trước. 
Irwin Allen Ginsberg sinh ngày 3 tháng 6 năm 1926 tại Newark, bang New Jersey, Hoa Kỳ, là con trai thứ hai của nhà thơ Louis Ginsberg, cha mẹ ông là người gốc Do Thái di dân thế hệ đầu tiên. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của người mẹ Đảng viên Cộng sản Naomi nuôi dưỡng tuổi trẻ ông và còn chảy trong nhiều tác phẩm ông viết sau này: 
"America, lúc còn bé ta đã từng là một người cộng sản, ta không hối tiếc... Khi ta lên bảy mẹ đưa ta đến những cuộc họp chi bộ cộng sản, họ bán cho chúng ta hạt đậu mỗi vé một nắm giá vé một chinh còn diễn văn thì không mất tiền mọi người đều tốt lành và thương cảm thợ thuyền thuở ấy tất cả sao chân thành quá..." (America). 
Vừa tròn 17 tuổi, trên chiếc phà chở anh đi chơi New York, Allen Ginsberg quì xuống phát lời nguyền đầu tiên trong đời: dâng hiến đời mình cho giới cần lao bị áp bức. Để thực hiện tâm nguyện ấy, theo chân người anh trai là Eugene, anh vào khoa luật trường đại học Columbia. Nhưng tại đó, việc gặp gỡ Jack Kerouac và William Burrowghs đã đánh dấu bước ngoặt tư tưởng của anh. "Tôi nhận thức được rằng mình toàn nói qua một hộp sọ trống rỗng... Tôi đã không nghĩ những ý nghĩ của riêng mình, không nói những ý nghĩ của riêng mình" – nhà thơ kể lại.[1] 
Một sự kiện khác có tính quyết định đối với sự nghiệp của anh vào năm 1948: Trong lúc đang nằm dài trên chiếc sofa trong căn hộ của mình ở khu Đông Harlem, Allen Ginsberg trông thấy William Blake (nhà thơ Anh thế kỷ 19 có khuynh hướng thần bí) đọc bài thơ A, Hoa hướng dương, trong một "ảo ảnh ba chiều". Kỷ niệm này, luôn trở đi trở lại trong các bài thơ về sau của Ginsberg, đánh dấu sự dấn thân của anh vào con đường thực nghiệm tâm linh. Từ đó dường như đối với Ginsberg, Thơ chính là con đường để đạt tới ảo giác, linh giác như thế, thậm chí với trợ lực của các chất gây nghiện đủ loại như cần sa, mescalin, LSD, ectasy... 
A.G. nổi danh như cồn từ vụ án Hú năm 1956. Bài thơ dài Hú mở đầu như sau: "Tôi đã thấy  những trí tuệ xuất sắc nhất của thế hệ mình bị huỷ diệt vì điên rồ, chết đói cuồng loạn trần truồng lê lết qua những phố da đen tìm một liều giận dữ lúc rạng đông... Những kẻ nghèo nàn rách rưới mắt trũng say đờ ngồi đơ hút thuốc trong bóng tối siêu nhiên của các căn hộ nước lạnh dập dềnh trôi ngang những đỉnh chóp các thành phố chiêm ngưỡng nhạc jazz..."
Bài thơ lần đầu tiên do chính tác giả đọc đã gây náo động trong một đêm thơ ở Gallery Six, San Francisco, và sau đó nhà thơ Lawrence Ferlinghetti chủ nhà xuất bản City Lights Book (Đèn thành phố) đã in cho ông một tập thơ mỏng 44 trang khổ bỏ túi Howl and Other Poems (Hú và những bài thơ khác). Cảnh sát San Francisco tịch thu cuốn sách, và người xuất bản phải hầu tòa vì tội công bố một "quyển sách dâm ô". Kết quả Ferlinghetti trắng án, còn tên tuổi và tác phẩm của Ginsberg trở nên lừng lẫy. 
Đó là thời kỳ của nước Mỹ bảo thủ những năm 50, khi màn ảnh nhỏ khoe những cặp vợ chồng ngủ riêng giường. Điều thú vị là 40 năm sau, chương trình truyền hình cáp của nước này lại phát cảnh Ginsberg đọc Hú cho lớp trẻ những năm 90 thưởng thức, và bài thơ được dạy trong nhà trường. Ngày nay vào mùa thu hàng năm ở khu Lower East Side, Manhattan, New York đều diễn ra Festival Hú, và năm 2006, kỷ niệm 50 năm tác phẩm được xuất bản, một festival quốc tế Hú với các bản dịch khác nhau đã là một sự kiện văn học ở Đức. Tính đến nay, Hú đã được xuất bản 55 lần với hàng triệu bản và dịch ra 24 thứ tiếng. Không ít người đánh giá đây là tác phẩm lớn nhất của Allen Ginsberg, cũng là một tác phẩm làm thay đổi nước Mỹ. 
Hú là bài thơ tặng Carl Solomon, một người bệnh mà tác giả gặp trong một bệnh xá tâm lý liệu pháp. Bản "anh hùng ca đen/điên" này phơi bầy sự bế tắc cùng quẫn của một thế hệ bị hủy diệt bởi cỗ máy xã hội công nghiệp vô nhân, đồng thời tung ra một thi pháp đầy thách thức: câu thơ tuồn tuột tuôn ra bộc phát dài dặc – theo sát "hơi thở" rất dài của người viết như hơi kèn trumpet tùy hứng của nhạc jazz; sự trở lại "tính xướng âm" như nhà thơ Kenneth Rexroth gọi hay khuynh hướng "đi từ tiếng nói đến tiếng trò chuyện, đến tiếng ngân nga, hay ngân nga với hơi thở dài, đến chiều hướng hát thơ theo lối thi sĩ trung đại, chiều hướng xuất thần" như chính tác giả nhận định[2]; ngôn ngữ trần trụi thậm chí tục tĩu, "bẩn"; hình ảnh siêu thực phi lý nhưng thực ra được cắt dán từ những chi tiết rất thực trong cuộc sống của tác giả và bè bạn. 
Chính sự kiện Hú, cùng với tiểu thuyết Trên đường (On the Road) của Jack Kerouac, đã tạo nên một "thế hệ beat" huyền thoại những năm 1950 và 1960 từ một nhóm bạn ham mê văn chương nghệ thuật và yêu nhau. (Allen Ginsberg, Jack Kerouac, William  Burroughs, Neal Cassady, Peter Orlovsky...) "Beat" là danh từ đa nghĩa do Jack Kerouac sử dụng đầu tiên, có nghĩa là "sự vắt kiệt sức, sự toàn phúc, cảm hứng nhạc jazz”)[3]. Thế hệ vỡ mộng trước một xã hội trưởng giả nô lệ cho vật chất và một chủ nghĩa tuân phục bảo thủ, đã "đột phá", "đào bới" một văn hoá riêng cho mình, một trong những nhân tố sẽ dẫn đến cao trào "phản văn hóa" (counter-culture) ở Mỹ thập niên 1960. Mặt trái của thứ "văn hóa nhóm" (subculture) ấy là ma túy, buông thả tính dục. Mặt phải của nó, bao quát hơn, là tinh thần tự do, nhân quyền, yêu hòa bình, yêu thiên nhiên, là tình người chân thực, là khao khát giải phóng tâm hồn bằng con đường tâm linh. 
Hú cũng là cơ hội quyết định cho chàng trai phải kiếm sống bằng đủ mọi nghề tạm bợ từ rửa bát đến tìm hiểu thị trường để nuôi hồn thơ trở thành người sống chỉ để làm thơ và bằng thơ. Cảm hứng và thi pháp của Hú sẽ được Allen Ginsberg tiếp tục trong trường ca Kaddish khóc thương người mẹ thân yêu bị bệnh tâm thần của mình. Nếu Hú là lịch sử cùng quẫn của một thế hệ, thì Kaddish là lịch sử bi ai của một thân phận, cả hai đều hoành tráng hiện thực thời đại và thăm thẳm nhân văn muôn đời. Phải nói rằng, sự nghiệp thơ 50 năm của tác giả thật đồ sộ, nhưng những gì ông viết về sau, theo cảm nhận riêng của tôi, khó lòng vượt qua hai bản trường ca máu thịt những năm 1950 ấy.
Năm 1991, trả lời phỏng vấn báo The Associated Press - nơi 40 năm trước, chàng trai Ginsberg từng làm chân sai vặt trong tòa soạn – nhà thơ nhắc lại những năm 50, thời kỳ của "bệnh hoang tưởng, nghi ngờ, sợ hãi hoàn toàn, kẻ giầu cướp bóc người nghèo mà mồm lại than phiền về người nghèo...", thời kỳ của "những xúc động giả mạo bị thị trường hóa, cơ giới hóa". Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, hầu như tự nhiên một thanh niên có đời sống nội tâm mạnh mẽ, giàu lý tưởng như Allen Ginsberg sẽ trở thành một nhà hoạt động xã hội tích cực, bằng thơ và bằng những hoạt động thực tiễn.[4] Ông công khai cảm tình với những người Cộng sản và chiến sĩ công đoàn. (Trong tiểu thuyết Trên đường, Jack Kerouac xây dựng một nhân vật mang tên Carlo Marx có hình bóng ông). Ông luôn luôn "về phe" những kẻ yếu, những kẻ bên lề, những nhóm thiểu số. Ông đấu tranh cho các quyền của giới đồng tính ái mà ông là thành viên: "Tôi làm thơ, bởi vì các tế bào di truyền và nhiễm sắc thể của tôi hướng đến các chàng trai chứ không phải đến các cô gái" (Ngẫu hứng Bắc Kinh). (Tôi muốn mở ngoặc ở chỗ này vì bất chợt nghĩ đến một nhà thơ lớn của chúng ta có lẽ cũng mang "các tế bào di truyền và nhiễm sắc thể” tương tự. Khác nhau là nhà thơ Mỹ công nhiên bày tỏ, ca tụng và mô tả tình yêu cuồng nhiệt của mình chi tiết đến… “kinh hoàng”, nhà thơ Việt thì vẫn ẩn mình trong những vần thơ luyến ái dị giới được thi vị hóa theo thói quen tiền chiến. Một thí dụ hay cho văn học/ văn hóa so sánh. Mặt khác, hai ông lại rất giống nhau ở tấm lòng yêu cuộc sống thắm thiết, khát khao tình cảm, sợ hãi sự cô đơn). Ông bảo vệ quyền sử sụng LSD và cần sa trong khi chống lại các công ty sản xuất thuốc lá, "thuốc kích thích chính thống" như ông gọi. Ông là người phát ngôn quan trọng của phong trào phản chiến những năm 1960, không chỉ một lần bị bắt giam vì những cuộc biểu tình.(Chiến tranh Việt Nam có chỗ khá sâu đậm trong thơ Ginsberg không chỉ trong những năm 1960, 1970, mà tận cuối đời những năm 1990, ta vẫn thấy ông nhắc đến đường mòn Hồ Chí Minh, hay viết cả một bài thơ về người cựu chiến binh vô gia cư lang thang bị ám ảnh bởi cái chết của những người đàn ông và đàn bà Việt Nam). Ông viết và tổ chức nhiều cuộc biểu tình ngồi chống sản xuất vũ khí hạt nhân. Cả một tập thơ mang tên Plutonian Ode (Tụng ca Diêm vương/Tụng ca chất Plutoni), cùng với những tập Planet News (Tin tức hành tinh) và The Fall of merica (Sự suy vong của nước Mỹ) trong đó có nhiều bài phê phán chính sách của chính quyền Mỹ, đặc biệt là tính chất đế quốc hiếu chiến, đại diện quyền lợi của tập đoàn công nghiệp quân sự, cũng như tính chất "nhà nước cảnh sát" của nó. 
Năm 1965, giám đốc FBI (Edgar Hoover) xếp ông trong "danh sách nguy hiểm cho an ninh". Ông cũng có chuyện với một số chính quyền độc tài khác ngoài nước Mỹ như Czechoslovakia, Cuba… Công khai bày tỏ một cách mạnh mẽ quan điểm chính trị của mình trong đời và trong thơ, Allen Ginsberg là một tấm gương cho mọi người cầm bút trong thời đại này nay. 
Từ một “kẻ đi tìm cái mũi màu vàng hoe cho Chân lý” như ông tự nhận ngay hồi còn trẻ (Trở về Quảng trường Times…), Allen Ginsberg trở thành "guru" (đạo sư) của phong trào "phản văn hóa" có ảnh hưởng trong thanh niên Mỹ một thời với tinh thần "quyền lực của hoa" (Flower-power) - thuật ngữ do ông sáng tạo. Ông cũng là cầu nối phong trào "beat" thập kỷ 1950 và phong trào "hippy" nổi tiếng với khẩu hiệu "make love not war" (làm tình chứ không làm chiến tranh) thập kỷ 1960. Ginsberg có sức lôi cuốn rất kỳ lạ, cái mà người phương Tây gọi là "charisma" - thường thấy ở những thủ lĩnh tôn giáo và chính trị. Sức mạnh ấy đã bộc lộ ngay từ cái đêm ông đọc Hú như mê sảng khiến cả đám cử tọa phát cuồng 50 năm trước, lại có nhiều dịp tỏ rõ trong những cuộc tuần hành chính trị sau này mà ông thường ở hàng đầu, lắc chuông đồng và hát những câu thần chú.[5] Ông từng được hàng vạn sinh viên Tiệp Khắc bầu làm Vua Tháng Năm trong ngày hội truyền thống và rước đi trên đường phố Praha giữa cả trăm ngàn người phấn khích. Trên con đường đi tìm các con đường thần bí và tâm linh khác nhau để tự giải thoát khỏi nỗi ám ảnh của bất lực, hư vô và kháng cự sự phi nhân của xã hội công nghiệp, Allen  Ginsberg và các bạn mình đã gặp tư tưởng Phật giáo. Phải nói ngay rằng Phật giáo mà ông gặp là dòng Phật giáo Tây Tạng mà tính thần bí và hùng tráng của nó hình như rất hợp với người Âu Mỹ, và đặc biệt với riêng ông, không lặng lẽ thấm nhuần như Phật giáo Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Á. Không ít bài thơ của ông trộn lẫn những phát hiện về Phật pháp với thứ "hiện sinh beat" quen thuộc. Ông còn thực tập thiền định bằng những bài thơ theo hướng dẫn của vị sư tăng Tây Tạng Tsulgrim Gyatso. Bài thơ ngắn sau đây viết ngày 20 tháng 8 năm 1991 bắt đầu bằng tình trạng mê loạn của đời sống chay theo vòng luân hồi (samsara): "Vô lượng những giao kèo tivi thịt thị trường chứng khoán tít lớn nhật báo đời sống ái tình Đại  đô thị" và kết thúc là sự chứng ngộ cảnh giới an tịnh của Pháp thân (dharmakaya): "Sớm muộn cũng buông trôi yêu ghét khinh khi, đi dạo công viên nhìn trời, ngồi trên gối, đếm sao trong óc, trỗi dậy và ăn" (Big Eats). Ông đã cùng thầy của mình là nhà sư Tây Tạng Chogyam Trungpa lập ra một Viện nghiên cứu và tu tập Phật giáo đầu tiên ở Phương Tây, mang tên Viện Naropa tại bang Colorado, trong đó có "Trường Thơ thoát xác" mang tên Jack Kerouac. Tại nhà riêng, ông mở đầu mỗi ngày bằng việc toạ thiền, sau đó là một ly trà chanh nóng. Bữa ăn sáng của ông là "chao nấm tỏi tây bí đông trộn". Chắc một tâm hồn nóng bỏng như Allen Ginsberg khó lòng đạt đến cảnh giới an tịnh (bài thơ ngắn dẫn ở trên chỉ là "một bài tập thiền" mà thôi), vả lại, một khi đã đạt tới, thì ắt sẽ vô ngôn, làm gì còn thơ! 
Lại nữa, như không ít người đã nói, đối với người nghệ sĩ, sự đi tìm còn quan trọng hơn sự tìm thấy. Chân thành hay không mới là vấn đề. Làm thơ như một biện pháp tự thanh lọc để đạt đến giác ngộ, thì quả Allen Ginsberg là người đầy chân thành! Chân thành cũng là nguyên tắc thi pháp đầu tiên và cuối cùng của ông. "Làm thơ là viết lên giấy tất cả những gì đến trong đầu. Tất cả những gì đủ mạnh, đủ sống động để mình phải nhớ". "Cứ ngây thơ. Ngay thẳng. Chân thành. Công khai những gì trong đầu mình, tức là hiến cho đời sự thể hiện một tinh thần trung bình nhưng khác biệt hẳn những thể hiện giả tạo bị các phương tiện truyền thông và chính phủ nhào nặn, khác biệt hẳn việc sản xuất hàng loạt những hình ảnh tạo ra thị hiếu giả mạo về tình cảm và về con người" [6]. (Lại xin mở ngoặc liên hệ đến câu khẩu hiệu mà Xuân Diệu hay hô to trong những buổi họp thơ hay nói chuyện thơ những năm 1970: "Chân chân chân! Thật thật thật!", cố ý đối lại kiểu "công nghệ làm thơ" của một đồng nghiệp nổi danh cùng thời). 
Và nếu như Phật pháp có vạn pháp, có vạn con đường để đi đến giác ngộ, thì sao lại không thể nói Allen Ginsberg đã "ngộ" theo cách của mình khi ông thấy "Thượng đế là Tình yêu", ông "không từ chối/ cái tấm thân nặng 38 yr. 145 lb. đầu/ tay & chân bằng thịt này" (Vì sao Thượng đế là Tình yêu hả Jack?), khi ông thành thực vô cùng phơi bày thất tình lục dục, khi ông thấy mình là tất cả những gì trong và ngoài mình: "Ta là Ta, là Cha Mắt Cá sinh ra đại dương, là con sâu trong chính lỗ tai mình, con rắn quấn quanh cây/ Ta ngồi trong tâm trí cây sồi và náu mình trong bông hồng…" (Kết thúc), khi ông coi Từ bi là điều cốt yếu của đạo đức, khi ông "chấp nhận bản thân, tha thứ bản thân, yêu thương bản thân" để "chấp nhận, tha thứ, yêu thương người khác".[7] Bob Rosenthal đã nói một câu chí lý: "Allen Ginsberg dạy ta hít vào thuốc độc và thở ra rượu tiên". Phải chăng đó chính là tinh thần "Niết bàn ở ngay cõi Ta bà", “Phiền não là Bồ đề” của Phật pháp? 
Trong lời tựa cuốn di cảo thơ Death & Fame (Cái chết & Danh vọng) xuất bản sau khi Allen Ginsberg qua đời, nhà thơ Robert Creeley đã mượn một câu của Whitman: "Chạm vào cuốn sách này là chạm vào một con người". Có thể nói toàn bộ thơ Allen Ginsberg là những trang nhật ký đời sống toàn diện của con người ông trong suốt 50 năm trưởng thành. Một cuộc đời không ngừng sôi động, sống hết mình, yêu hết mình, phản ứng hết mình trước những vấn đề của đời sống xã hội chính trị - Mỹ và toàn cầu, không ngừng đi tìm lời gỉải cho những khắc khoải tâm linh, không ngừng thám hiểm những khả năng của ý thức. Vì thế thơ Allen Ginsberg rất phong phú về nội dung và giọng điệu, bút pháp. Từ nổi loạn thét gào, phiêu lưu tính dục đến chiêm nghiệm Phật pháp, từ những đau đáu siêu hình về sự hữu hạn của đời người và tìm kiếm bản lai diện mục đến nhục cảm khôn nguôi, từ cảm thức thần bí, thi pháp siêu thực đến châm biếm, đả kích và bình luận chính trị, từ các bài ca (rag, ballad, blue) đến những suy nghĩ về thơ, từ ngôn ngữ “vỉa hè” tục tĩu đến các khái niệm thần học và những từ "tự tạo". Thơ ông là một biển cả, lúc cuồn cuộn bão tố, lớp lớp sóng bạc đầu, khi mơ mộng, trầm tư, xa vắng, khi khao khát điên cuồng, lúc nhớ nhung da diết, khi hoang mang và lang bang - những con sóng không biết về đâu, khi ám ảnh cô đơn tận cùng trong vũ trụ và vĩnh hằng, vời vợi nỗi buồn nhân thế… Dù nói về điều gì, theo giọng nào, dù lắm lúc dài dòng, rắc rối, đại ngôn, ồn ào, sống sít, các dòng thơ của ông đều là những con sóng có sức đập phá và lôi cuốn không thể cưỡng, vì chúng đầy năng lượng sống, năng lượng cảm xúc, năng lượng phát trong từng chữ. Sau một thời gian học hỏi nhiều bậc thầy, từ Blake, Whitman, W.C. William, đến Apollinaire, Lorca, gần nhất là người bạn thân thiết Jack Kerouac…[8] và vật lộn để tìm giọng nói riêng, ông đã đi đến khẳng định cho mình "phương pháp viết bộc phát, sao chép ý thức tức thời", "giống như những nhạc công jazz hốt nhiên LÊN CƠN và chơi man dại". Rõ nhất ở hình thức câu thơ rất dài chứa đựng "một diễn ngôn – hơi thở - ý nghĩ". Lối viết hoàn toàn phù hợp với nguồn năng lượng vọt trào của ông.[9] Cũng vì thế, trong các hoạt động thơ, Allen Ginsberg là một nhà trình diễn không biết mệt và đầy phấn khích. Một chị bạn Mỹ kể với tôi: hồi cô còn đi học, nhà thơ đã đến trường đại học của cô nói chuyện, đọc thơ, và... trong cơn hứng khởi, ông trút bỏ quần áo, giữa tiếng reo hò của sinh viên và bị các nhân viên lôi cổ tống ra ngoài! Về cuối đời, Allen Ginsberg ngả nhiều sang loại thơ gần gụi ca khúc. Năm 1977 ông đi lưu diễn cùng nhóm Dylan's Rolling Thunder Revue và ứng tác nhiều bài thơ. Ở tuổi lục tuần Allen Ginsberg còn biểu diễn và đọc thơ tại những câu lạc bộ đêm ở Manhattan. Hoạt động cuối cùng của ông là đọc bài thơ rock châm biếm chính trị Ballad của những bộ xương trên nền nhạc của Paul Mc Cartney và Philip Glass để thu đĩa (1996). Tính trình diễn của thơ Allen Ginsberg đã là một nguồn hứng quan trọng của khuynh hướng "thơ trình diễn" (performance poetry) rất thịnh hành ở Mỹ trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX.       
Allen Ginsberg được không ít ngưởi, trong đó có nhà thơ kiêm ca–nhạc sĩ huyền thoại của nhạc pop Mỹ Bob Dylan, coi là nhà thơ có ảnh hưởng nhất đối với thơ Mỹ sau Walt Whitman. Hơn thế, ông còn đóng góp nhiều vào việc tạo nên diện mạo nghệ thuật, âm nhạc và chính trị của nước Mỹ suốt 50 năm qua. Thơ ca bung phá và tinh thần xung kích của ông về giải phóng chính trị, tính dục và tâm linh đã tạo cảm hứng cho vô số nhà thơ, nhạc sĩ và nghệ sĩ tạo hình, nghệ sĩ biểu diễn ở nhiều châu lục, đóng góp vào việc hình thành cách nhìn thế giới của vài thế hệ Mỹ Âu. Trong số các nhân vật lừng danh chịu ảnh hưởng của ông, có thể kể từ nhà văn sau trở thành tổng thống Vaclav Havel của Czech đến nữ nghệ sĩ trình diễn Yoko Ono (vợ John Lennon) và Bob Dylan... Allen Ginsbeng ra đi sau khi đã ở đỉnh cao của thành công. Ông được tặng giải National Book Award năm 1973 (cho cuốn thơ Sự suy vong của nước Mỹ), được bầu vào Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Hoa Kỳ, được Bộ trưởng Văn hoá Pháp tặng huy chương Hiệp sĩ Văn học Nghệ thuật, và ngay trước khi ông mất, cả nước Mỹ và Tây Âu tưng bừng kỷ niệm thượng thọ ông cùng với sự hồi sinh các huyền thoại về thế hệ Beat. 
Ngày 18 tháng 2 năm 1997, tức là chỉ ít lâu trước khi lâm trọng bệnh, Allen Ginsberg gửi cho tôi một lá thư viết tay (handwritten letter) - trước đó ông liên lạc với tôi qua người trợ lý là Peter Hale. Ginsberg cảm ơn về số báo Văn học nước ngoài với nhiều bài thơ của ông được dịch, và gửi tặng tôi một loạt tác phẩm mới nhất của ông, cả sách và đĩa CD ông đọc thơ và thơ phổ nhạc. Ông hỏi thăm nhà thơ Vũ Hoàng Chương còn sống không, có khoẻ không?  (ông kể tháng 5 năm 1963 ông tới Saigon, đã gặp thi sĩ này, ông nhớ cả tên tập thơ của họ Vũ: "Nouveaux Poemes" Tân Thi, NXB Nam Chi"). Allen Ginsberg rất vui lòng để tôi lo xuất bản thơ của ông bằng tiếng Việt, ông còn nhắc tôi dịch phần II của bài thơ dài Wichita Vortex Sutra (Wichita xoáy lốc kinh) phê phán chính quyền Mỹ về cuộc chiến Việt Nam... [10]
Sau nhiều năm ấp ủ và chờ đợi (một bối cảnh thuận lợi cho việc công bố thơ Allen Ginsberg), cuối cùng, trong chuyến lưu trú của tôi tại Hudson Valley, New York vào mùa thu năm 2008 do hai tổ chức Omi International Arts Center và Ford Foundation Hà Nội tài trợ, bản thảo  tập thơ dịch Allen Ginsberg đã được hoàn tất. Ngoài phần chủ yếu do mình thực hiện, tôi mời ba người bạn của tôi có duyên với thơ Allen Ginsberg là Hoàng Ngọc Biên (người chủ trương tập san Trình Bày ở Sài Gòn đã in thơ Ginsberg đầu tiên), Nguyễn Đỗ và Phạm Xuân Nguyê n (đã cùng tôi giới thiệu Ginsberg trên tạp chí Văn học nước ngoài thời Đoàn Tử Huyến chủ trì). Mong hương hồn ông phù hộ cho chúng tôi thực hiện được công việc khó khăn này...
Chú thích:
1. Bài phỏng vấn Allen Ginsberg đăng trên tờ Magazine littéraire, số 341, tháng Ba/1996, tr. 85-112.
2. Trò chuyện với James MacKenzie năm 1982, "Big Sky Mind: Buddhism and the Beat Generation", 1995.
3. Mặc dù chính Allen Ginsberg và Jack Kerouac luôn luôn phủ nhận sự tồn tại của một nhóm/phong trào "beat" như giới báo chí và phê bình đặt để, và nhấn mạnh tính độc lập của từng cá nhân tác giả trong đó.
4. Ngay từ thời học sinh, Ginsberg đã thường xuyên quan tâm đến chính trị. Năm 15 tuổi anh dã viết cho báo New York Times phản đối đường lối đứng ngoài cuộc của chính phủ Mỹ trước cuộc xâm lăng đầu tiên của phát xít Đức, mà theo anh đã là một nguyên cớ làm nổ ra Thế chiến II
5. Các biên niên sử Hoa Kỳ còn ghi một chuyện thú vị về cuộc biểu tình phản chiến khổng lồ ở Oakland-Berkeley năm 1965. Khi gang côn đồ cưỡi môtô khét tiếng hung bạo Hell's Angels tuyên bố sẽ phá cuộc biểu tình mà chúng coi là "thân Cộng", AG đã một mình đến tận nhà tên trùm để thuyết phục, kết quả là hắn từ bỏ ý định vì mến phục ông.
6. Như chú thích 1
7. Thư gửi nhà thơ và nhà phê bình Richard Eberhart (18/5/1956), trong đó ông diễn giải về tác phẩm Hú, khẳng định tính tích cực của nó: đó là "sự khẳng định" những trải nghiệm cá nhân về mọi thứ, từ Thượng đế đến tính dục, ma túy, sự phi lý…
8. Xem phần chú thích của Hú
9. Thư gửi anh ruột tác giả, luật sư và nhà thơ Eugene Brooks (26/12/1955)
10. Trong lần gặp gỡ mới đây tại New York, Peter Hale kể rằng khi nhận được thư tôi xin phép xuất bản bản dịch thơ ông tại Việt Nam, ông đã reo lên: "Thế là ta đã có người dịch tiếng Việt!" Thêm một chứng cứ về tấm lòng của ông giành cho Việt Nam.
Sài Gòn 4/1997
Hoàng Hưng
Nguồn: In trên Tạp chí Thơ 2008  
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...