Đất rừng phương Nam 2
Chương 8
ĐI CÂU RẮN
Má nuôi tôi là một người thuộc khá nhiều chuyện cổ tích và biết
hầu hết mọi cung cách làm ăn của những người nông dân nghèo ở khắp mọi vùng Nam
BỘ. CÓ điều
là trong tất cả những mẩu chuyện bà kể, chuyện nào cũng pha
đượm ít nhiều tính chất thần bí, và bà tin tưởng một cách ngây thơ ở "mệnh
trời". Dù vậy tôi cũng
thích nghe, thích gợi cho má nuôi tôi kể để tôi nghe say
mê...
Thằng CÒ còn giống mẹ ở chỗ hay mê tín dị đoan. NÓ là một đứa
chúa sợ ma! Bao giờ nghe kể chuyện trong lúc ban đêm, mặc dù đã lớn tuồng như vậy
mà lúc nào nó
cũng nhảy vào lòng má, ngồi rụt lại như một đứa trẻ con.
Tía nuôi tôi hiền lành, ít nói. ông thường ngồi lặng lẽ đánh
những sợi dây gai hoặc giũa lưỡi câu, miệng không rời cái tẩu thuốc lá hình thù
kỳ dị làm bằng một gốc ớt
hiểm rừng.
Má nuôi tôi kể cho chúng tôi nghe đủ thứ chuyện. Từ những
chuyện "Cá bống hai hang, cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu "rất
ngây ngô, trẻ con, sang chuyện săn nai, săn khỉ qua rừng, qua chuyện cuộc đời
chú VÕ Tòng - con người kỳ dị mà tôi đã được gặp một đêm tối ở bờ sông - đến
chuyện ma cá sấu, ma cọp, ma nam... mà người nghe yếu bóng vía, dù là người lớn
đi nữa, cũng không dám bướt ra xa nhà đi đái. Dáng như chuyện nào thằng CÒ cũng
đã nghe mẹ kể rồi. NÓ chẳng chú ý mấy, chỉ hong hóng, chực nghe bà quên mất một
đoạn nào đó, thì lập tức chen vào bổ sung ngay, rồi lại nheo mắt nhìn tôi như
muốn nói: 'thấy chưa, má tao còn không nhớ bằng tao'
vì Mày ở chợ vô đây, rồi còn phải học tao nhiều!" Cái thằng
đen trũi, cổ dài ngoằng như cổ cò ma, nhiều lúc tỏ ra "ta đây" một
cách khinh khỉnh, dễ ghét. Ngoài mặt tôi từng tỏ ra không phục, nhưng trong bụng
tôi vẫn chịu là nó khôn ranh, hiểu biết hơn tôi nhiều. NÓ dạy tôi cách hiểu các
thứ bẫy, đặc tính của nhiều con thú, và nó đã dắt tôi đi gần thuộc hết các lối
ngoắt ngéo trong rừng
- Tía ơi? Để con dắt thằng An đi câu rắn một bữa nghe tía!
Một buổi chiều, đột nhiên thằng CÒ hứng lên, đề nghị với bố
như vậy. Tía nuôi tôi bị con cá ngát đâm vào bắp chân, hôm nay chân còn sưng tướng,
chưa đi được. ông
hỏi:
- Đi không có tao, thằng An thì chưa biết gì, liệu một mình
mày có làm nên trò trống gì không đấy? Thôi, để lúc khác con ạ!
Má nuôi tôi liền can thiệp ngay:
NÓ làm được mà? ông thì lúc nào cũng chê ỏng chê eo thằng bé.
Để không có ông, coi nó có làm được không?
Thằng CÒ nhướng mắt nhìn tôi. Thế là hai đứa tôi bắt tay ngay
vào việc chuẩn bị cho buổi câu đêm.
Chúng tôi dắt con Luốc đi dọc theo mé nước, rình đập những
con cá thòi lòi biển. Những con cá thòi lòi to bằng ngón chân cái, cặp mắt ốc
nhồi mọc trên dầu giống như hai hột mồng tơi, hễ nghe bước chân chúng tôi đến gần
là y như chúng giương cái kỳ ngũ sắc trên lưng thành một cánh buồm, phóng ngay
trên mặt nước. Giống cá gì mà tinh như qủy Bay trên mặt nước như cá thia lia, lặn
cũng giỏi, bơi cũng giỏi còn nhảy trên bờ thì thật không thua gì một con ếch. Vậy
mà rốt cục hai đứa cũng đập
được gần mười con. Riêng phần con Luốc, nó cũng rình chộp được
năm sáu con. Vậy là tàm tạm đi khoản mồi câu rồi.
Tía nuôi tôi đi cà nhắc đến ngồi trên một gốc cây cắt ngang
giống như một cái đòn sù sì đặt bên cạnh bếp lửa, xem chúng tôi chuẩn bị mồi
câu. Thằng CÒ muốn chúng
minh lời khen của má, hay cố 'biểu diễn" cho tôi phục nó
thì không biết, mà nó làm coi thạo lắm. NÓ dùng hai ngón tay banh họng con cá,
nhét vào họng mỗi con một
quả ớt hiểm chín.
- Ê nướng đi mậy, An? - nó bảo tôi.
Làm sao nướng đây?
- Lấy cái que xiên bụng nó, kê lên than nướng chứ còn làm
sao? Nướng mồi mà cũng không biết!
NÓ vót nhọn đầu cái que, xóc ngang con cá mồi, trao cho tôi.
Tôi đặt lên than hồng một chốc, con thòi lòi ngậm quả ớt bèn nhe mồm ra, lưng vểnh
cong; từ trong họng
con cá vàng rộp đó mỡ bắt đầu chảy ra, nhiểu xuống than cháy
nghe xèo xèo. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái:
- Eo ôi Thơm quá!
Thằng CÒ cười lớn:
- Mình ngửi mùi cá nướng còn phát thèm, huống gì con rắn?
ừ thứ mồi này nhậy lắm Đêm nay, hai đứa bay ít ra cũng kiếm
được năm bẩy con cỡ bắp chân... Cái thứ mồi nhái sống gặp nước bơi lom xom thì
chỉ tổ quện cá lóc tới phá mất? - tía nuôi tôi cười hà hà. Khói thuốc lá vón
quanh đôi mắt to, sáng lóng lánh. ông vui vẻ nói tiếp: - Thằng An mới ra nghề
đêm đầu tiên, đừng có xách giỏ về
không đây, con ạ
ông kéo thúng gai đến bên chân, cầm lên vuốt từng sợi gai,
sau đó lại rút cái giũa giắt bên vách ra giũa lại những chiếc lưỡi câu lụt. Tôi
hỏi:
- Tía không đánh gai lại cho săn à, tía?
Thằng CÒ cười hì hì:
- Vậy mà mày cái gì cũng khoe giỏi? Tưởng cái gì trong sách của
mày cũng có Hử Tía ơi, đừng bày cho nó nghe tía!
Tía nuôi tôi vỗ vỗ đầu thằng Cò:
NÓ không biết thì phải bảo cho nó chứ. CÓ ai mẹ đẻ ra không học
mà biết được!
ông cầm một cuộn gai ước chừng bốn năm mươi sợi, to như cổ
tay tôi, toàn là những sợi gai rời nhau, dài hơn thước, thong thả buộc chùm hai
đầu lại, một đầu buộc
vào chiếc lưỡi câu có ngạnh rất sắc. ông vừa cuốn chùm gai
vòng quanh cổ tay làm như bộ con rắn quấn, vừa giảng giải.
- Rắn không có tay có chân, nhưng nó khỏe nhờ sức quấn của
xương sống. Con trăn bắt nai, quấn con mồi siết chặt mãi, bao giờ mềm, giập hết
xương, nó mới nuốt.
Thứ rắn rằn ri cóc, có con to cỡ bắp vế, ở dưới nước nó còn
khỏe hơn con trăn! Khi mắc câu, nó cuốn dây câu và vặn mình xoay vòng siết lại
mãi, dây to đến mấy cũng phải đứt Nhưng loài vật làm sao khôn hơn người được!
Đây An, con xem đây! Toàn là những sợi gai rời. Hễ bắt đầu quấn thì gai mới bắt
đầu săn. Càng quấn càng săn Một
lúc, thấy chưa đứt, nó bèn xoay ngược lại. Tức thời cuộn gai
lại tháo ra. Cứ thế quấn và tháo ra suốt đêm, chùm gai câu vẫn trơ nguyên,
không đứt một sợi?
Khi tía nuôi tôm tôi kiểm tra tất cả những cuộn gai và ướm
xong từng lưỡi câu rồi, ông bèn bảo chúng tôi đi dằn bụng cho no, kẻo thức
khuya mau đói lắm. Chúng tôi ăn
cơm xong thì má nuôi tôi đã ôm nõ, đèn soi, mác và một cái giờ
tre to tướng bỏ xuống xuồng rồi.
Tôi chạy ra, hỏi:
- Cần câu đâu, má?
- ối cần kéo gì, con?
Thằng CÒ bật cười lớn:
- Cần câu gởi bà Thủy ở ngoài sông. Ra ngoải lấy.
Thằng CÒ giục tôi đi, nhưng tôi chưa muốn đi. Tôi cứ luẩn quẩn
theo má nuôi tôi hỏi đủ thứ, như: khi rắn mắc câu rồi thì làm sao bắt, rủi bị
nó cắn có làm sao không?
Tía nuôi tôi bảo:
- Cứ đi đi CÓ thằng Cò, đừng ngại. NÓ sẽ bảo cho...
Và ông bưng cái'mẻ hun( đốt trấu để lấy khói xua muỗi) đặt xuống
nước mũi xuồng
ngước mắt lên trông ánh chiều sắp lụn:
- Đi bây giờ, ra đến chỗ câu thì vừa?
Tôi ngồi bơi mũi, thằng CÒ ngồi bơi lái. Nước từ trong rừng U
Minh theo các con lạch nhỏ đổ ra kênh, chảy ào ào như một thứ nước màu cà-phê đặc,
cuồn cuộn thoát
ra sông.
Bây giờ, mặt trời đã lặn vào những đám mây đỏ thẫm cuối dải rừng
xa. Xuồng chúng tôi lướt qua một quãng sông, hai bên bờ lau sậy mọc rậm rịt.
trước mắt tôi dần
dần mở ra một mảng trời vàng rực. ánh sáng lấp lánh màu bụi
vàng kim loại tỏa thành những đường dài rẽ quạt chạy tháng lên không. Một bầy
cò nối đuôi nhau bay theo hình mũi tên, trông mệt mỏi vội vàng, những đầu cánh
trắng nặng nề nhún lên nhún xuống quạt gió lướt đi cứ như vương vướng những tia
vàng hấp hối khiến chúng không bay mau được. Xuồng vẫn trôi băng băng.
Một lúc lâu, qua khỏi cánh đồng ngập tím một màu hoa lục
bình, chúng tôi bắt đầu chui vào vòm cây đen thẳm như một cái hang. Trời đã tối,
những cành lá dại đan nhau thành một tấm trần kín mít, không để một tia sáng nhỏ
lờ mờ của một bóng sao nào lọt xuống được. Tối như bưng mắt. Cái mẻ hun đặt trước
mũi xuồng cứ phả khói mù mịt khiến tôi gần như ngạt thở. Tôi khom người chồm tới,
thổi phù phù mấy cái vào những dầu củi ngún lem nhem. Lửa phụt nháy lên những
ngọn mảng như lụa đỏ,
chao qua chao lại. ánh lửa soi sáng hai bên cành lá rậm rịt,
vụt kéo trở về những mảng màu xanh lục, đỏ, vàng, lốm đốm của những hình hóa lá
bị nhấn chìm trong bóng tối đen ngòm. Tôi vừa thấy mình đỡ hãi hơn một chút, bỗng
kêu lên:
- Ý? Cái gì như rắn... Nhiều quá, CÒ ơi
- Rắn đâu mà rắn, mậy? BỘ rắn tới nạp mạng cho tụi mình hả?
- Ơ! Ờ không phải!
Tôi đã kịp nhận ra. Rễ cây mốc thếch quấn vào nhau trông như
những nùi rắn đang chen nhau lặn xuống nước, đầu khuất dưới nước rồi mà khúc
mình còn mắc trên bờ. Một tiếng tiu... u... ụt nổi lên đột ngột, vang dội cả
khu rừng. Con chim ụt to tướng, lông rằn rục, từ trong bóng tối chập chờn lao
vèo ngang qua đầu chúng tôi, luồng gió từ đôi cánh rộng quạt ra một mùi tanh, lờm
lợm, ngửi thấy phát buồn nôn. Tiếng "u... u... ụt" của con chim đêm
kinh tởm vọng rền trên mặt nước như đuổi theo sau lưng chúng tôi, càng làm cho
chiếc xuồng như sợi hãi trôi nhanh.
- Chắc con chim ụt đánh hơi mồi rắn của mình, hắn ra muốn
nhào vô xuồng kiếm chác hở mấy, Cò? -. tôi nói vu vơ cho đỡ tẻ.
- Tao biết đâu được!
-'Cò', mà không biết được "chim" à?
- Không bỡn đâu nhá! đừng có nói lảng. Tại mày nên bây giờ mới
chỉ đi tới đây. Không thì xuồng đã ra tới sông lâu rồi
Tôi lặng thinh, không dám ừ, cũng tại mình cứ luẩn quẩn theo
bên ba má nuôi hỏi linh tinh, chứ như đi sớm hơn, có lẽ bây giờ đỡ phải sợ rừng
tối. Bụng tôi cứ hồi hộp như thế nào ấy. Sợ không ra sợ, lo không ra lo.
Vì tôi ngồi bơi mũi cạnh mẻ hun, xông hơi lửa nóng một lúc,
nên mồ hôi vã ra ướt cả trán. Muốn thò tay vào ngoài be xuồng vốc nước lên rửa
mặt mà không dám. Tay
tôi cứ thò xuống lại rụt lên mấy lần.
Cái gì lóc bóc như cá ăn vậy, Cò?
- Tôm tít búng đấy, chứ có rắn đâu mà sợ mấy? Thằng nhát quá!
Tôi nghe nó nói, có phần vững bụng hơn, bèn thò tay xuống
khoát nước lên rửa mặt. ừ, cá ăn tía thì nghe phải giống như nồi com sôi kia.
Má nuôi tôi có kể rồi, bà còn
dặn tôi phải chú ý đề phòng. Cá trê đi từng đàn, bơi đặc cả
nước, quẫy móng lách tách lục ục như nước cơm sôi, lăm tăm một quãng dài trên
sông. Đi chài mà gặp cá ăn tía, quăng chài xuống, khi kéo lên nếu gặp loại chài
cũ bở bở, có thể dứt tung chài. nhưng nguy hiểm nhất là rắn. Rắn hổ đất cứ bơi
theo trên mặt nước để ăn bọt nhớt cá. ĐÓ là những con rắn đang luyện nọc, cắn
ai thì có trời xuống cứu...Má nuôi tôi nói nhưvậy.
Chúng tôi đã ra khỏi vòm cây tối đen ban nãy. Vài ngôi sao le
lói mọc lưa thưa. Bờ tràm khô đứng im lìm dưới ánh sao xanh biếc. Cành cây trắng
ngoằn ngoèo như đám bạch xà ngóc cổ lên trời hứng uống mù sương trong chuyện đời
xưa. Dòng sông đen ngòm, ghê rợn. Cây cối hiện hình ma quái, ẩn ấn hiện hiện
trong lớp sương giăng bàng bạc. Cây đọt chiếc tròn tròn như ngôi mộ. Cây tràm
quấn dây tơ hồng như người đàn bà bồng con đứng xõa tóc, tay vẫy vẫy. Cây dừa
nước, lá nhọn hoắt
như hai hàng gươm giắt dài theo sống lá tu tủa, chĩa mũi nhọn
lên đe dọa trời. Ban ngày trông chẳng ra làm sao. Đêm tối, nhìn cái gì cũng đâm
ra sờ sợ.
Muỗi vu vu từ bờ bay ra đuổi theo xuồng như những đám mây.
- Bơi ngược gió lên cái vịnh trên kia đi, An! Không thì nó...
thằng CÒ chưa nói hết câu đã phun nước miếng phèo phèo.
NÓ chui vô miệng mày hở
- ụa... ụa...
Tao hỏi nó chui vô mấy con rồi?
Thằng CÒ ư... ư... khạc nhổ rồi phun tiếp liền mấy cái, không
đáp. Hai tay nó mắc giữ cây giầm kìm lái, nó cởi trần mà lại không thể buông giầm
để dùng tay đập muỗi được thành ra người nó cứ phải uốn éo, vặn qua vặn lại cho
muỗi đỡ đốt. Tôi gác giầm mũi lên xuồng, chạy đến vuốt vuốt khắp mình cho nó.
Eo ôi, hai bàn tay nhớt nhợt, ướt đầy máu.
- CỐ chịu đựng vài trăm thước nữa - thằng CÒ cười hì hì. Hàm
răng nó trắng đều như hạt ngô non, ánh lên trong đêm tối.
Xuồng bơi ngược nước nghe ồ ồ, đi chậm như rùa. Hồi lâu mũi
xuồng từ từ rẽ vào bờ, lủi vô một đám nước dừa tối đen. Thằng CÒ đứng lên đằng
sau lái, cầm giầm chống
xuồng đi len lách trong những lùm dừa nước có những chiếc bẹ
khô ai đốn từ đời nào, nhô lên chơm chởm. Một lát sau, tôi sốt ruột quá bèn hỏi:
Tới chỗ câu chưa, mậy?
Tới rồi. Tao còn chọn chỗ nào ngon sẽ xuống mồi. Đây thôi. Được
rồi.
NÓ cho xuồng đậu lại bên một tàu lá mọc nghiêng nghiêng:
- Thôi, sắp sửa mồi đi Thắp đèn lên.
CÓ đây
- Mày coi tao làm đây, coi mà bắt chước '
NÓ với tay kéo tàu lá dừa quặt xuống, buộc chùm gai vào giữa
sống lá. Tôi soi đèn, tay cầm con mồi. NÓ làm thoăn thoắt, coi bộ thành thạo lắm.
Con mồi câu bị 1 lưỡi câu móc suốt từ đầu đến gần chót đuôi, còn chừa ra một tí
đuôi cho rắn dễ nhầm. NÓ kéo cong tàu lá xuống, vừa đủ cho mồi treo lơ lửng
cách mặt nước non gang
tay.
Biết để làm gì không? Thế này thì cá lóc hết phương chồm lên
phá mồi. Hì hì! Mày chống xuồng thay tao, để tao ngồi mũi buộc câu cho.
Tôi giảu môi hứ một tiếng:
- Không. Để tao buộc. Tao buộc được... Tưởng thứ gì khó kia
NÓ ngẫm nghĩ một chốc:
- Thôi được? cho mày làm thử một cái thôi nhá!
Tôi cười cười:
- ừ mà hễ chừng có rắn mắc câu, tao sẽ giao cho mày bắt'
Hơn chục con mồi đã xuống rồi. Thằng CÒ thở ra một hơi dài
khoan khoái: -
- Vái trời phật cho trúng bữa câu!
- Lần nào cũng khấn thế à?
- Không. Vì bữa nay có mày. Trúng một bữa câu, để cho mày thấy,
mày lác mắt chơi vậy mà... Thôi, bây giờ ta ngủ đi.
NÓ nói xong, lập tức chui vào nóp. Tôi ngồi bên mẻ hun, quạt
cho đỡ muỗi. Hơi nước bốc lên lành lạnh. Im lặng quá. Không có một tiếng hạc
sành kêu cho đỡ buồn.
Lâu lắm mới có bầy cá heo lục ục lẹc ẹc bâu dưới lườn xuồng
ăn rêu. Rồi bầy cá cũng lội đi. Chỉ còn tiếng lách bách của hai bàn tay tôi đập
muỗi.
Thằng CÒ cựa quậy rốt roạt trong nóp rồi chui ra:
- Mày không ngủ hử Ngồi đãi muỗi sao, An?
- Không.
Sao coi mày buồn vậy?
Tao nhớ nhà... - Tôi thở ra, không nói nữa.
Thằng CÒ tiu nghỉu, bèn nói lảng.
- Mày đừng sợ nhá! Để chừng bắt được con rắn bự, tao bẻ răng
nó cho mày coi. ờ, mà muỗi nhiều đa?
NÓI xong, nó lần lưng móc ra một cái vỏ diêm. NÓ rút ra một
que, đút vào phân nửa, đoạn nó đóng bao diêm lại.
Một tay cầm vỏ diêm, một đầu cầm đầu que diêm phía ngoài, nó
bắt đầu kéo ra kéo vô nghe két... két... kít... kít...
- Làm cho muỗi sợ. NÓ tưởng dơi. Hì... hì...
Tôi cũng cười theo nó và lần mò tới ngồi bên, coi trò chơi lý
thú của nó bầy ra. Quả thật, muỗi nghe két... két... kít... kít, sợ gặp đàn
dơi, vo ve dần bay đi hết. Tôi ngồi dựa vào lưng thằng CÒ một lúc, thiu thiu buồn
ngủ thằng CÒ ngáp một hồi, tay buông cái vỏ bao diêm ra. Hai thằng ôm nhau nằm
còng queo giữa xuồng.
Đầu canh hai, trăng từ từ mọc lên bên kia dải rừng, to như một
cái nong. Tôi mở mắt ra, sờ tay thấy sương thấm ướt khắp người. Trong lớp sương
đục nhờ nhờ, vầng trăng
đỏ như một cái lòng đỏ trứng khổng lồ. Càng lên cao, trăng
càng bé lại. Nhìn qua be xuồng, thấy nước gợn lăn tăn... Tôi vừa thiu thiu chợp
mắt lại, bỗng nghe thằng cò vụt nhổm dậy:
Dậy mau! DẬy mau? Dính một con rồi
- Tao vừa thức đây mà. CÓ thất cái quái gì đâu
- Mày biết cái con khỉ gì? - NÓ quát tôi.
Tôi lập tức đánh diêm thắp ngọn đèn soi. Tay tôi run quá, tim
cứ đập thình thình. Thằng CÒ ấn cây giầm vào tay tôi, ra hiệu cho tôi chống xuồng
tới NÓ cầm cái mác
trong tay, một tay đưa đèn lên soi phía trước. ồ, kia rồi?
Tàu lá dừa nước bị ai kéo cứ dập lên dập xuống, làm nước bắn
tung tóe. Tiếng dây câu nghiến kìn kịt trong tiếng lá dập xuống nước nghe kinh
quá
Tôi kêu oái một tiếng, đứng chết sững Một con rắn rằn ri cóc
to cỡ bắp chân ngươi lớn đang vung vẫy uốn mình lên quấn lấy chùm dây câu. Cái
miệng nó há ra, đầy răng chơm chởm. chỗ ngạch lưỡi câu mắc bên mép, máu chảy giọt
giọt xuống nước. Mỗi lần con rắn vặn mình cố siết cho đứt chùm dây câu, da nó nở
ra, vồng lên như gai mít. Thằng Cò buông mác, thò tay nắm đuôi con rắn. Con rắn
tháo ra, quấn một khúc vào tay thằng Cò. Thằng CÒ chộp ngang lưng con rắn, bàn
tay nó bé quá tuột ra vì không nắm hết. Con rắn càng gồng mình siết chặt cổ tay
thằng Cò. MỒ hôi tươm ra ướt trán, chảy ròng ròng xuống má, nó bậm môi, cứ mặc
thế, ngửa người ra
sau lôi nguyên con rắn mắc câu vào xuồng.
- Coi chừng nó cắn chết à, Cò - Tôi thè lưỡi nhích ra xa.
Cắn quái gì nữa! Mà thứ rắn này cắn cũng như chó cắn thôi.
Đưa miệng giỏ lại đây, mau mau đi Tôi kê miệng giỏ hứng con rắn. Thằng CÒ ghé
răng cắn chót đuôi con rắn một cái, con rắn đau quá vội tháo khỏi cổ tay thằng
Cò, tuột gọn vào lòng giỏ
Thằng cò một tay đậy nắp, một tay chụp cái mác chặt hai đầu sống
lá Cả khúc sống lá chùm dây câu và con rắn đảo lộn, quẫy soạn soạt trong giỏ.
Hì.. hi... Da con này lột ra phơi, bán bộn tiền. Mai chúng
mình bảo má nấu nồi ca-ri ăn chơi?
Con rắn to nhưng cái đầu nó chỉ bé bằng quả bàng thôi. hai
con mắt đục lừ lừ nhìn ngọn đèn soi. Thằng CÒ hé nắp giỏ chộp cổ con rắn tháo
lưỡi câu ra, lôi khúc sống
lá dính chùm dây câu ra khỏi giỏ rồi thong thả đậy nắp, gài
chốt lại. '
- Để tao thử con rắn cho mày coi - nói xong nó thọc một ngón
tay vào mắt giỏ gãi gãi lên lưng con rắn. Khi con rắn quay ngoắt lại toan mổ vào
ngón tay thì thằng
CÒ đã rụt ngón tay ra rồi.
- Cu cậu bị ớt cay, sưng cả miệng đấy, mày thấy không? Vậy,
mình mới dễ bé răng. Mà nó cũng chẳng cắn mổ gì được nữa...
Tàu lá đằng kia rung lên sàn sạt. Thằng CÒ reo lên:
- Sướng rồi? Dính một con nữa rồi!
Tôi chụm chân nhẩy đồm độp trên xuồng, làm chiếc xuồng
nghiêng qua lắc lại tí nữa là chìm.
- ấy là nhờ mình buộc chùm dây câu vào sống lá, phải không
Cò? Chứ đến cần câu to bằng cật tre đi nữa thì nó nhổ lên và lôi đi tuột, mày
nhỉ!
Con này của mày đó, An nhá? Của mày buộc câu mà.
- Ừ tao làm cũng được, khó gì mấy Nhưng mà.. con này mày cứ bắt
nữa đi, CÒ ạ. Để tao xem mày bắt vài trận nữa đã. Chừng có con khác mắc câu,
tao bắt thử cho
mày coi, có được không
Tàu lá đang bị kéo ghì xuống nước bỗng bật tung trở lên.
Thôi chết cha tôi rồi, An ơi! Mày buộc làm sao mà nó mới kéo
có mấy cái đã tuột luốc rồi!
Tôi không biết nói ra sao, tay buông giầm rơi xuống xuồng cái
độp, nhìn theo những giọt nước từ trên tàu lá đổ xuống ròng ròng, tiếc ngẩn tiếc
ngơ.
Chương 9
ĐI LẤY MẬT
Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng
không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất
ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. ánh sáng trong vắt, hơi gợn một
chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm
giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.
Tía nuôi tôi đi trước, bên lưng lủng lẳng chiếc túi da beo,
lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc lâu lâu, ông vung tay
lên một cái, đầu con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mấu
cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt
ra một bên để lấy lối đi. Thằng
CÒ đội cái thúng to tướng, trong thúng đụng một vò nước, mấy
gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc
nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi
đã bơi xuồng đi mượn của nhà đi ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc
chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây
Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi và thằng CÒ đi ăn ong đây. Mấy
hôm trước, má nuôi tôi đã kể ti mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng
tôi vẫn chưa hình dung
được ăn ong ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách
giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái
niệm chung chung về xã
hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy
thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày
nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những
con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi
thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.
Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà.nuôi ong trên thế giới
ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi
nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe
vừa rồi.
Thôi, dừng lại nghỉ một lát Bao giờ thằng an đỡ mệt. ăn cơm
xong hẵng đi! - tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.
Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng
sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi dâu? Chúng tôi đã bơi xuồng
đi từ lúc gà vừa gáy rộ
canh tư. thằng CÒ thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của
nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là
Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc
lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng
CÒ bưng vò nước ra,
ngửa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực Bỗng nó đặt vò nước
xuống, thúc vào lưng tôi.
ĐỐ mày biết con ong mật là con nào Hỏi xong, nó đưa tay trỏ
lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng
quá. Một tiếng lá rơi lúc nào cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá chim
chóc chẳng nghe con nào kêu.
Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi
không nghe chăng?
Cao quá đầu tôi một với tay, có những châm chấm đen không
nhúc nhích. ĐÓ là ruồi xanh đang bay đứng. óng ánh lướt những lá bông súng dưới
vũng kia là con chuồn
chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài Bé như hạt khế, cứ
lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi
tôi là điệu bay của con mối cánh.
- Chịu thua mày đó? Tao không thấy con ong mật đâu cả.
Thằng CÒ nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay
sang tôi:
- Bây giờ mày cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh châm
cao kìa! ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. NÓ tới liền bây giờ!
Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy
thì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:
- ĐÓ con thấy nó chưa?
- Thấy rồi!
Tôi kêu khe khẽ. ờ, phải rồi Phải hết sức tinh mắt, thính tai
mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con. hai con... ba con...
Rồi một đàn mười mấy
con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng
xanh cây lá, có một. cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên nhũng
ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng
kêu eo... eo... eo... eo... Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không
thể nào nghe được.
Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. ăn xong, bấy giờ bóng nắng
mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang
tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ tỏa lên phủ mờ những
bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng
ban mai dần dần biến mất. Chim hót. líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây
ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỳ nhông nằm
ươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa
vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Con luốc động đậy cánh mũi, rón rén
mò tới. Nghe động tiếng chân
con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chấn,
to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc
cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu
xanh lá ngái.
Chúng tôi tiếp tục đi tới một cái tráng rộng. Giữa vùng cỏ
tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay
lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng
tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt...
Những con chim nhỏ bay vù
vù kêu liu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống
phía sau lưng chúng tôi.
Chim đẹp quá, CÒ ơi! - tôi tặc lưỡi, kêu lên.
Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!
- Ơ đây chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.
Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp "sân
chim" thì mày sẽ biết...
NÓ nói cách lơ là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi Tôi
muốn hỏi về cái "sân chim", nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái
gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt,
bèn im im đi tới.
Lội qua mấy vũng lầy sâu quá gối, chúng tôi đã đến chỗ lấy mật.
Tía nuôi tôi ngồi xuống, dáng rất ung dung. ông tháo miệng
túi da beo ra, bỏ cái tẩu vào. Rồi ông xé mảnh giấy nhật trình cũ, cuộn một điếu
thuốc lá to bằng ngón chân
cái bật lửa lên đốt hút.
- Sắp lấy mật đa, này An! - thằng CÒ trỏ điếu thuốc lá to tổ
bố đang cháy như cây đuốc kia, bảo tôi.
Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. NÓ cũng không thèm chú
ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi lại còn khoát tay ra hiệu
bảo tôi đi thật khẽ. Tôi nhìn theo ngón tay nó trở lên một kèo ong gác trên cây
tràm thấp. TỔ ong kia rồi
Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua.
tôi lại hỏi:
- Sao biết nó về cây này mà gác kèo?
Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày
nghe đó? - nó chành môi ra cười hì hì, trông cái miệng thấy ghét quá.
Tôi ngắm nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao
nhiêu ong, dần dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể.
" Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết
bao nhiêu nhánh? Biết con ong sẽ đóng tổ Ơû cây nào, nánh nào? CÓ phải bạ chỗ
nào nó cũng gởi mật đâu
Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! - Má
nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây
bình bát dại mọc quanh hè,
ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: - Gió thổi có hạng, cây tốt
cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều
hoa, mình mới định chỗ gác
kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. ĐÓ
là những chỗ "ấm", cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít
khi có những dấu chân người đi bắt rắn, nguờỉ đi đốn củi lội đến..
Kèo là gì, hở má.
- Ờ kèo cũng là nhánh tràm thôi. NÓ to cỡ cổ tay mang nhiều
nhánh con tua túa vào quãng giữa Mình chặt lấy một khúc dài hơn thước tây, một
đầu có cái nhánh con
dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây cây
nào vừa kín, vừa im, có ít. nhiều bóng nắng kia.
Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật
cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải rửa bớt(chặt
bớt) những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa
tháng mười một.. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa
chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô
khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kỵ,
nó không bao giờ đóng tổ đâu...
- Coi bộ cũng không khó lắm hở má?
Má nuôi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười
theo. Bà dặng hắng, nói:
- Chẳng dễ đâu. con ạ! Nhiều nguời trở thành "dân ăn
ong" đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi
lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.
Ủa! Tại sao vậy, má?
- Định không đúng chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao?
Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.
Tía nuôi tôi đã đi lần tới, đứng phía trên hướng gió. ông hít
một hơi cho điếu thuốc đỏ lên, và từ từ đưa đầu khói cháy lại gần tổ ong. Quả
thật Thảo nào người ta hay nói "như ong vỡ tổ"! Ong vỡ tổ là lúc này
đây. không biết cơ man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một
vầng đen như cái chiếu.
Bỗng thằng CÒ kêu "oái" một tiếng hai tay vò trán
lia lịa
CÓ ong sắt, tía ơi! NÓ đánh con một vết đây nè'
Tôi nhanh trí ngược hướng gió chạy ra xa để tránh bầy ong, và
nhân thể bứt vội vàng một nắm cỏ tranh và sậy khô đưa lại cho tía nuôi tôi:
- Tía ơi, đốt nó đi, tía?
Tía nuôi tôi mỉm cười, khoát khoát tay:
Đừng? Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác...
Tía nuôi tôi mở túi da beo, lấy vôi bôi chỗ vết ong đốt trên
trán cho thằng Cò. Đoạn ông mở gói giấy, lấy ra cục a nguỵ - cái thứ thuốc dẻo
quánh, màu vàng. xỉn mà tôi
đã thấy dạo trước - véo một miếng gắn vào đầu một cọng sậy
ông bảo tôi bật lửa lên, rồi đốt cháy miếng thuốc.
Khói vị thuốc bốc hôi quá Tôi chóng mặt ọe ọe luôn mấy cái tưởng
đã nôn rồi. Tía nuôi tôi cầm cọng sậy có gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên kê
vào gần tổ ong. Bầy ong hoảng hốt nối nhau bay mất không còn một con.
Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái tàn ong sáp trắng to bằng
chiếc nón, nặng chĩu những mật vàng. Tía nuôi tôi rướn. chân lên, gượng nhẹ đỡ
nhánh kèo xuống. ông
vắt mật vào cái gùi của tôi, còn sáp thì ném vào cái thúng của
thằng Cò, thấy tôi vét một tí mật dính chỗ miệng gùi đưa lên mũi, thằng CÒ cười
hì hì:
Cho mày ăn thả cửa? Cứ uống no đi. Chỉ sợ mày say không đi được
thôi. Mặt nó nhăn nhó, mấy vệt vôi trăng trắng bôi vào giữa trán dúm dó lại coi
như mặt hề.
- Mày có thấy khỉ ăn ớt chưa hở Cò? - tôi hỏi nó.
- ờ? Cho mày cười tao... Chốc nữa, trời xui đất khiến, gặp
con ong lỗ nó táng cho mày một vệt, rồi mày sẽ biết.
Từ sáng sớm đến lúc gần về chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm
mươi kèo ong. Mật đầy cả hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn
cảm thấy nhẹ tênh, và
tiếc cái gùi bé quá.
Một tổ nữa kia, tía ơi!
- Thôi để mai. Chà, năm nay mật trúng lắm? Sáng mai phải mang
vài thùng thiếc nữa mới lấy hết mật. Mình mới lấy chưa được nửa số kèo đã gác
mà! - tía nuôi tôi
vừa nói vừa đưa bàn tay dính đầy mật ra cho con chó săn liếm.
Chúng tôi tháo gùi, đặt đồ lề xuống bên một gốc cây.
Cần phải nghỉ, ăn cơm cho lại sức trước khi trở về...
- Tía ơi! Ở đây có gấu không, tía? - tôi hỏi.
- Rừng này không có gấu đâu. Con sợ à?
- Không! con hỏi thế thôi. Gấu nó hay ăn mật lắm. CÓ gấu, nó
sẽ lấy hết mật của mình chứ!
- ừ, nhưng mà ăn mật thì chẳng lo. ăn làm sao hết được mật rừng
U Minh này? Chỉ lo... nó ăn con ong thôi!
- Gấu cũng án con ong à?
- Không. Những con khác kia. Chuồn chuồn này, bọ ngựa này, nhện
này... và còn bao nhiêu thứ chim chóc khác nữa Cả con ó rằn cũng ăn ong. Chỉ
vài con ó rằn là
có thể ních trụi một tổ ong ấy!
- Thế ong không đốt họng nó à?
- Đốt thế nào được? Chim ó khôn lắm. Đớp một cái vào mỏ, là
nó lừa lựa cắn nát cái kim Ở đít ong ngay? Còn như con chuồn chuồn thì nó chộp
ngang cổ ong, bộ răng khoẻ như hai lưỡi kéo thép của nó xén đầu con ong làm cho
đầu rơi tức khắc, nó không ăn hai cánh đâu, chỉ nhai nuốt khúc mình thôi?
Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ
ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có một điều khác là không phải ngẫu
nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho
chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, ngươi La Mã
xưa kia nuôi ong trong những cái tổ
bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hạng lỗ con vòng
quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một
cái ống có hai cái loa
hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật
trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây.
Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài,
xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi Châu người ta đục ruỗng ruột một
khúc thân cây, vít kín hai
đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng
một đoạn dây nhỏ có mấu, Ở xứ Tây âu, tổ ong lại lợp bện bằng rơm đủ kiểu, hình
thù khác nhau...
Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như
vùng U minh này cả
Những con ong vẫn nối nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt
chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo
rằng đó là vũ điệu báo hiệu cua loài ong.
- Tía ơi' Ong chỉ lấy mật chung quanh dây thôi à?
- ờ, có khối hoa trong rừng này? Con thấy không, hễ con ong
lượn một vòng trước khi đáp xuống, là báo hiệu nơi khai thác gần đây, còn nó lượn
hình số 8 là báo hiệu
nơi khai thác Ở xa đây...
Sao tía biết? tôi ngạc nhiên, trố mắt hỏi.
- Để ý xem lâu ngày thì biết.
- Thế mà con nghe người ta nói rằng con ong lượn hình tròn là
báo hiệu chỉ đường bay đến nơi lấy mật còn nó lượn hình số 8 là báo hiệu đến chỗ
lấy phấn hoa.
- Bậy? Bậy! Nhầm rồi. NÓ chỉ báo hiệu nơi khai thác gần hay
xa thôi. Còn lấy phấn hoa nhồi sáp hay lấy mật gì thì cũng là lấy thôi. Quan trọng
đối với con ong là đường bay xa hay gần biết chưa?
Tôi ngẩn người ra một lúc lâu...
- Ê bộ mày còn nhớ nhà sao mà buồn vậy, An? - thằng CÒ vừa giở
nắm cơm ra vừa hỏi tôi.
- Không, tao choáng váng một chút, thôi mà? - tôi đáp.
Tía nuôi tôi nhìn lên bóng nắng, bảo:
- Thôi liệu dằn bụng đi... rồi còn về, các con.
Chúng tôi ngồi an cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng
nghiêng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh
đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bồ đề. Lâu
lâu, vài ba trái quá vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi
Chương 10
TRONG LỀU NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÔ ĐỘC GIỮA RỪNG
Quá đỏ đèn một chút thì xuồng chúng tôi về đến nhà. Má nuôi
tôi nghe giầm khua dưới bến, cầm đèn bước ra, con Luốc chưa kịp phóng lên bờ,
tôi đã bô bô khoe với
má nuôi tôi:
Mật nhiều lắm má ơi, ra đây mà khiêng Má nuôi tôi ừ, một tiếng,
soi đèn ngó xuống xuồng.
chúng tôi ì ạch khiêng hai gùi mật và thúng sáp ong lên nhà rồi,
mà vẫn không thấy bà tỏ vẻ gì quan tâm đến kết quả chuyến thu hoạch của tía con
chúng tôi lắm. Tôi
tiu nghỉu ngồi xuống chõng, bao nhiêu câu sắp sửa kể cho má
nuôi tôi nghe về chuyện đi lấy mật lý thú ngày hôm nay tan biến đi đâu mất cả.
Chú VÕ Tòng có đến tìm ông đấy - má nuôi tôi nói với tía nuôi
tôi - Chú không chờ được, đã về từ chập tối. CÓ chuyện gì vậy, ông
Nào có gặp chú đâu mà biết?
ắt có chuyện gì quan trọng. Cứ thấy bộ mặt của chú thì tôi
đoán như vậy. Tôi gạn hỏi mấy lần, chú cứ ậm à âm ừ Cha chả, chú nhặt được Ở
đâu một cái quần tây, ống ngắn ngủn mặc chí tới nửa ống chân lại còn đeo lưỡi
lê nữa chứ
Tía nuôi tôi cười khà khà, gật gù:
- Hôm nọ tưởng chú nói đùa, hóa ra thật! Bà thấy chú có mang
súng ống gì không
Có Chú dặn tôi, hễ ông về thì bảo ông lên nhà chú chơi. ắt có
việc gì đấy. Khổ quá, cứ dặn đi dặn lại mãi. Tôi hỏi có chuyện gì hệ lắm không
thì chú lại bảo chẳng có việc gì
- CÓ thể là...
- Việc gì thế ông?
Tôi đã biết đâu. Để gặp chú xem đã..
- Thôi mặc các ông. Tôi chẳng hơi đâu... Chuyện gì cũng bô lô
ba la nói hết với mọi người, mà vợ con trong nhà hỏi đến cứ ậm à ậm ừ...
Má nuôi tôi bấy giờ mới quay sang hỏi thằng CÒ về vết ong đốt.
Bà nướng một củ gừng, bảo nó nhai nuốt và trùm mền lại cho nó ra mồ hôi.
- May mà không gặp ong lỗ, thằng An nhớ coi chừng dưới chân
dưới cẳng đấy
- Con biết rồi - tôi đáp.
Đạp nhầm tổ ong lỗ, nó đốt cho một vết thì thấy tám ông trời?
Mày cười ư? NÓ đốt trâu còn phải rống, chạy cong đuôi đãy con ạ.
Tía nuôi tôi bảo má nuôi tôi:
Bà liệu thổi nắm cơm bây giờ đi. Nghỉ ngơi một chốc khoảng nửa
đêm tôi đi đấy. Chà mật con nhiều lắm... Đi sớm một chút, ghé qua nhà chú VÕ
Tòng xem có chuyện gì
- Sáng mai hẵng đi, tía à? - thằng CÒ đã trùm mền kít mít còn
hé thò đầu ra, nói lắp bắp.
Sốt rồi phải không - Tía nuôi tôi hỏi - Con Ở nhà thôi. Ngày
mai chưa đi được đâu. Để thằng An đi với tía thôi?
Khuya đêm đó, hai tía con tôi bơi xuồng ra đi, Thằng CÒ phải Ở
nhà nên nó bèn kiếm cớ gỡ. NÓ cứ rịt con Luốc lại không cho theo tôi: nó bảo
không cho nó đi thì phải để
con Luốc Ở nhà choi với nó cho có bạn!
Xuồng ra tới sông, tôi hỏi tía nuôi tôi:
- Không đi lối cũ sao, tía?
Lên nhà VÕ Tòng đã. Rồi cũng có kênh đi tắt ra chỗ lấy mật
hôm qua. Kênh rạch chằng chịt trong rừng, đi lối nào chẳng được.
Chúng tôi lặng lẽ bơi xuồng đi rất lâu. Tới đã thấm mệt và bắt
đầu buồn ngủ. Tía nuôi tôi nghe tôi ngáp, bảo tôi cứ ngủ đi, để một mình ông
bơi cũng được. Tôi vừa đặt
giầm lên xuồng, chưa kịp chui vào nó thì đôi mắt đã díp lại rồi
Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt rá, thấy
xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng
người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú VÕ Tòng rồi!"
Tôi ngồi dậy, giụi mắt trông lên. ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua
khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi
bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu
"ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú VÕ
Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!"
- Vào đây An! - tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con
vượn bạc má ngồi vắt veo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi
tôi và chú VÕ Tòng ngồi
trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một
cái bếp cà-ràng lửa cháy riu riu, trên cà-ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung
kín mít.
Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng còn bày trên nền đất
ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt chéo lên nhau.
- Ngồi xuống đây, chú em! - Chú VÕ Tòng đứng dậy, lôi một gộc
cây trong tối đặt bên bếp lửa..
Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ
đã lâu không giặt (chiếc quần linh Pháp có những sáu túi) Bên hông, chú đeo lủng
lẳng một lưỡi lê nằm
gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi dã tả. Lại còn thắt
cái xanh-.tuya-rông nữa chứ
Tôi không sợ chú VÕ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên Ở
bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười
thế nào ấy.
Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá Ở miệng
ra.
Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi.
Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà
- Chú VÕ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay
tôi.
con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..., Ở phía
trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm
phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa
mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. Trên vách lều đóng đầy mồ hóng
đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi cái treo lủng láng cạnh những
đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân dọc xâu từng đôi một, gác
trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa
ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy
kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn
không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi
lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa vậy.
*
Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã
một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều Ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã
sống đơn độc một
mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn
nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một buổi trưa gã đang ngủ
trong lều, có con hổ
chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất
thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa,
cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa,
hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con
hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm
nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt
gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do
đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão
đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, Ở tận một vùng xa lắm. Gã
cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt.
Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, qúy
vợ hết mực bèn liều
xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua
ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy
trộm măng tre của
hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất
xã ấy cứ vung ba-toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ
đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi! " Lưỡi dao
trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong
lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống
hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách
dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ
tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ
khi gã còn ngồi trong khám
lạnh.
Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ
xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một
tiếng rồi cười nhạt
bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã
mang tên võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội.
Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên người gã, và gã
trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những
năm gã Ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm
sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã,
nhưng tuyệt nhiên VÕ Tòng
không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu
năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã Ở
cái tính tình chất phác
thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề
nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả
quyết, nói một cách
chắc chắn như vậy...
Chú VÕ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa.
Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu
ngón tay nghe tưng...
tưng " rồi lại đặt xuống.
Chú VÕ tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho
tía nuôi tôi, và nói:
Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên
chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng Ở xa
cũng bắn được mà!
Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì
kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy Tách một tiếng,
chết ngay thằng giặc Pháp
râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết
gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại
thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra
mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi
xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. May sao cái thây thằng râu
xồm còn nằm thẳng cẳng để, đợi tôi đến lột hộ bộ quần áo ka-ki...
Hê... hê... hê! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì
chết như thế ấy... cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ
xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu
cho anh em lính đằng mình.
Trong giọng nói bỡn cợt của VÕ Tòng có pha đượm một nói buồn
chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi
bùi ngùi.
Chú em cầm hộ!ọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - chú VÕ
Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.
Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi xổm xuống cạnh bếp,
tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì đang sôi cuồn cuộn, đen
nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một làn khói mỏng xanh xanh,
mùi hăng hắc. VÕ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón lấy mấy hạt muối trong lọ
tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen nhánh đang sôi, hạt muối nổ
tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi.
được rồi đấy? - chú VÕ Tòng nói xong, bỏ nốt những hạt muối
còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.
Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung quanh nồi thuốc. Bây
giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn, cầm từng chiếc tên
nhúng đầu nhọn vào nồi
thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn nhiều lớp vào đầu mũi tên.
Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú tiếp tục cầm một chiếc tên
khác, đua lên nheo mắt
ngắm, nắn nắn lại cho thật ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc
để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người thợ săn áo thuốc tẩm thuốc độc vào
đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám thở mạnh.
Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi mũi tên tre đã tẩm
thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn thấy không còn dính
tay, chú VÕ Tòng
chọn ra hai muối chiếc giắt vào một bao tên làm bằng ống nứa
khô.
Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ? Nhưng thuốc này có
thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi ngay lập tức đấy.
Đau mấy cũng khỏi?
Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không thể nín được buột
miệng nói:
- Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột bị lở loét gì mà
nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ?
VÕ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi còn lớn:
= Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà.. những người nghèo, những
người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dầy lắm?
Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài 'tiếng chim rừng
ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú
VÕ Tòng trao chiếc nỏ và
ống tên thuốc cho tía nuôi:
Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi qúy anh
Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này
mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi
không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn
trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị
đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả
không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm
một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn
chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi,
Tía nuôi tôi dập đập tay vào lưng chú VÕ tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
CÓ gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng.
Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con
nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào
chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - chú VÕ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
Chương 11
RÙNG CHÁY
Tía con chúng tôi bơi đi, ước độ hai nghìn thước thì bị cạn
không bơi được nữa, phải dùng sào chống xuồng lướt trên mặt bùn xắp nước..
Năm nay mùa khô sớm đấy? Mọi năm, dạo này nước còn ngập ngang
bụng, tía nuôi tôi vừa nói vừa nhướn người thọc mạnh chân sào xuống tận lớp đất
sét cái, hai tay nắm chặt đầu sào đẩy xuồng trườn tới.
Chống đi một lúc nữa, gặp cái lung còn nhiều nước, tía nuôi
tôi bảo tôi vác đồ lề lên bờ, rồi ông nhận xuồng chìm xuống nước và vớt lục
bình, vớt rong phủ lên để xuồng
khỏi bị nẻ nắng..
Quanh co trong rừng, chẳng biết đâu là đâu, thế mà chỉ chừng
một giờ sau tía nuôi tôi đã dắt tôi ra đúng chỗ bụi cây tra chúng tôi ngồi nghỉ
ăn cơm chiều bữa trước...
Những ngày nắng ráo như hôm nay, rừng khô hiện Lên với tất cả
vẻ uy nghi tráng lệ của nó trong ánh mặt trời vàng óng. Những thân cây tràm vỏ
trắng vươn thẳng lên
trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rũ phất
phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá Xanh rờn đã bắt đầu ngả
sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng dưới mặt trời, tiếng
chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng. Trên các
trảng rộng và chung quanh những lùm bụi thấp mọc theo các lạch nưóc, nơi mà sắc
lá còn xanh, ta có thể nghe tiếng gió vu vù bất tận của hàng
nghìn loại côn trùng có cánh không ngớt. bay đi bay lại trên
những bông hoa nhiệt đới sặc sỡ, vừa lộng lẫy nở ra đã vội tàn nhanh trong nắng.
Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loài hoa rừng không tên tuổi đằm vào ánh
nắng ban trưa, khiến con ngươi dễ sinh buồn ngủ và sẵn sàng ngả lưng dưới một
bóng cây nào đó, để cho thứ cảm giác mệt mỏi chốn rừng trưa lơ mơ đưa mình vào
một giấc ngủ chẳng đợi chờ.
Tôi đã ngủ một giấc dài nhưvậy, sau khi tía con chúng tôi đã
lấy mật đầy vào hai thùng sắt tây. Cái gùi bé của tôi cũng vừa chất vun ngọn những
bánh sáp trắng muốt mà tôi đã tỉ mẩn vắt thành những cục tròn tròn như trứng ngỗng..
Tôi ngồi tựa lưng vào một thân cây lá rậm xùm xòa, lơ mơ nhìn
những làn tơ nhện mỏng tang rung rung trong ánh nắng. Trong vắng lặng mệt mỏi của
rừng đã xế
chiều mọi thứ tiếng động chung quanh tôi đều nghe như không
rõ rệt, đều bị ngân dài, đùng đục không một chút âm vang, một thứ vắng lặng mơ
hồ rất khó tả. Tôi còn đang chăm chú nghe tiếng quạt cánh của một con ong vàng
mà không thấy nó đâu, thì bông nghe tiếng động cơ gào rú chuyển động rung trời.
Ba chiếc tàu bay của giặc Pháp bay vút qua bên trên khu rừng
chúng tôi đang lấy mật. Chúng bay rất thấp, là là trên ngọn cây, khi tôi vừa kịp
nghe thì chúng đã tới rồi.
Ba con cồng cộc đen sì ấy vòng ra bờ sông, lượn trở lại, đảo
mấy bận như vậy rồi bỗng nhiên nối nhau bay đi mất. Một hồi lâu, lại nghe tiếng
động cơ, và từ trên
những chòm mây thật cao, chúng thình lình xuất hiện ra, đâm bổ
xuống. Lửa chớp chớp. Súng liên thanh nã đạn xuống rừng nghe inh tai chát óc. Rồi
hàng loạt bom
nổ ầm ầm, chuyển động cả một vùng rừng ban nãy còn lặng phắc
như tờ. Đất dưới chân tôi rung rinh như chực sụp xuống.
Ì ì. ì ì Ba chiếc tàu bay phóng pháo to tướng sơn màu trắng
bay chậm rì rì thành một dọc dài, trông rõ hơn cả hiệu cờ ba sắc dưới cánh, lừ lừ
tiến đến.
- An ơi? Nằm xuống mau. NÓ thả cái gì đen đen xuống kia. NÓ
thả... - tía nuôi tôi chưa nói dứt câu, vội đẩy tôi nằm gí xuống cỏ. Tôi đã có
kinh nghiệm lúc còn chạy tản cư Hai khuỷu tay tôi chống xuống đất đỡ bộ ngực
lên, đầu cúi gằm xuống trước, tôi dán sát thân mình vào đất như con thằn lằn. Nếu
có bom nổ gần cũng khỏi bị dội tức ngực vì sức chấn dộng. Phụt... Phựt... Phụt...
Tiếng gì vậy? Sao không nghe tiếng nổ
- Chắc là bom lép, đừng ngóc đầu dậy nghe con - tía nuôi tôi
vừa bảo tôi như vậy; trong lúc tôi chưa kịp ngóc đầu lên thì bỗng nghe tía nuôi
hét một tiếng gọi: An ơi
chưa bao giờ tôi nghe ông kêu to như vậy, một thứ tiếng kêu rụng
rời, đầy khủng khiếp kinh hoàng.
Giặc đốt rừng, con ơi! - tía nuôi tôi tay vớ chiếc nỏ, tay
lôi tôi nhỏm đậy.
Một màn khói đen cuồn cuộn dựng lên trên dãy rừng chạy dài
theo sông. Mùi dầu bay tới chỗ chúng tôi khét lẹt.
lửa đỏ đã bốc lên, vượt khỏi những cây tràm cao nhất ngoài
phía bờ sông. Tiếng động cơ vẫn gào rú khủng khiếp trên đầu chúng tôi. Chúng
không bắn nữa... Chỉ nghe tiếng phụt... phụt... Lửa cháy khắp bốn phía rồi.
Tiếng sậy nô lép bép nghe gần lắm. Gió quạt hơi nóng rừng rực
đến tận chỗ chúng tôi.
Làm sao khiêng hai thùng mật, tía ơi! - tôi tiếc của, kêu
lên.
- Chạy thoát thân đã - tía nuôi tôi vất cái nón đang đội trên
đầu xuống, tay chỉ cầm chiếc nỏ lôi tôi chạy ngược hướng gió, nơi ngọn lửa bắt
đầu tràn đến chúng tôi
Lửa dầy ở đó... Đừng về phía đó, tía ơi
- Thoát ra mau. Cố lên. May ra thì còn kịp...
Tía nuôi tôi thở hổn hển, vừa chạy vừa lôi tôi. Khói xông vào
mắt cay xè, không mở ra được.Tôi cứ nhắm mắt chạy theo tía nuôi tôi, tay tôi nắm
bàn tay ông chặt cứng,
không dám lơi ra. Hốt nhiên, tôi nghe có nhiều tiếng chân chạy
dồn dập trên đất, như tiếng giầy khua.
- Tía ơi, Tây đuổi sau lưng nhiều quá?
Tây đâu mà Tây. Cứ chạy đi!
Mặc cho tía tối quát, tôi vẫn cứ ngoái đầu trông lại. Trời
ơi, không phải Tây. Trong khói mù nhô ra một con heo đầu đàn, cao gần bằng con
bò, lông gáy dựng ngược,
mũi ngước lên thở phì phì làm cho hai cái nanh dài chỗ khóe
mép vươn ra như lai lưỡi dao găm. Rồi vun vút tràn đến một bầy heo rừng, con lớn
con bé tranh nhau chạy,
sống lưng nhấp nhô tràn tới như một đàn heo mục. Nai co giò
phóng bay qua những lùm cây thấp. Hươu, chồn, bông lau, cáo, mèo... tất cả những
con thú bốn chân trong rừng đều nhắm mắt.nhắm mũi tranh nhau chạy. Thỉnh thoảng
một vài con gì không biết cứ chạy đâm bổ vào người chúng tôi. Chân tôi đạp lên
một khúc lưng con vật gì trơn trơn, lảo đảo chúi tới trước. Một con trăn gió uốn
lưng trườn tới, đầu cất cao hơn ngọn sậy, ngoằn ngoèo lướt hút vào bụi cây trầm
um tùm. Lâu lâu lại gặp một con rắn to phóng ngược hướng gió, chắn ngang đường
chúng tôi. Tía con tôi phải chạy tránh chúng, cũng có lúc cứ mặc kệ, nhảy bừa
qua, bất chấp cả những đầu phồng mang dẹt đét đang lắc lư phun nọc phì phì.. Khỉ,
vượn, nhọ nồi cuống quít kêu lúc théc trên cây. Một con vượn bạc má bồng con nhảy
xuống đất, cố chạy theo vết chúng tôi
An ơi! Gắng chạy nghe con - tía nuôi tôi không ngớt động viên
tôi. Nhưng hai chân tôi cứ khuỵu xuống.
Tía nuôi tôi lôi tôi chạy một lúc nữa. Lội qua hai cái lạch
nước khá rộng, thì hai tai tôi đã nghe bùng bùng, mắt hoa lên. Trời đất quay cuồng
chung quanh. Tôi cảm thấy mang máng rằng lúc tôi gục xuống một bờ cỏ, tía nuôi
tôi đã vực tôi cõng lên lưng. Cả người tôi bị xốc lên xốc xuống dữ tợn, rồi tôi
không còn biết gì nữa.
Chương 12
CHẠM TRÁN VỚI HỔ
Lúc tôi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên một đám lá khô,
dưới gốc cây sung rậm, lá che kín trời. Gió thổi làm những cành sung đong đưa,
để lọt xuống một
vài tia sáng xanh yếu ớt của những vì sao leo lét. Chim rừng
kêu buông rơi từng tiếng một, từ một nơi xa thẳm nào. Không biết độ mấy giờ.
Nhưng đêm chừng như
khuya lắm.
Tía nuôi tôi thấy tôi cựa mình ngồi dậy, ông vội vàng đưa tay
ra đỡ tôi nằm xuống:
- Con đã khỏe lại rồi đó. Cứ nằm nghỉ đi con. Đừng ngồi dậy dễ
bị choáng đầu lắm!
- Đây là đâu vậy tía?
- Xa lắm. Mình vào gần tới đầm lầy rồi!
- Lửa tắt chưa tía?
Còn cháy. Nhưng xa lắm. Con cứ vững bụng. Chỗ này, lửa không
cháy tới đâu. Còn khát không con?
Khát lắm tía ơi!
- Con đã uống nhiều nước rồi đấy! Vì mệt quá, con bị ngất
thôi. Chẳng sao đâu. Để tía đi lấy nước cho con...
- Gần hay xa vậy tía?
- Đằng kia thôi. Con cứ nằm đây mà
Trong ánh tối lờ mờ, tía nuôi tôi mò mẫm cởi chiếc túi da beo
bên lưng ra, đưa vào tay tôi. Rồi ông đứng dậy bước sột soạt khuất dần trong
bóng tối. Tôi ngồi phắt lên,
buộc ngay chiếc túi da beo vào lưng y như tía nuôi tôi.
Bàn tay nắm chặt cán dao găm, tôi nhìn thẳng về hướng ông vừa
đi. Rừng khuya im ắng quá. Tiếng côn trùng tỉ tê tận những chỗ mông lung nào,
lâu lâu hốt nhiên im
bặt đi một lúc, càng làm cho bầu không khí vắng vẻ trở nên im
lặng một cách đáng sợ. Hồi lâu, bỗng nghe có tiếng chân giẫm sột soạt trên lá
khô. Tôi vừa mừng, vừa
sợ
- Tía về đấy hở tía? - tôi vụt hỏi to lên.
- ờ, tía đây. CÓ nước rồi đây, An ạ? - tía nuôi tôi vừa táp vừa
đi dò từng bước đến chỗ tôi đứng. Hai tay ông bưng một chiếc lá môn đựng đầy nước.
Tới kề miệng vào chiếc lá, uống ừng ực một hơi. Nước ngọt lắm,
chỉ hơi có chút vị bùn và phảng phất mùi cỏ, nhưng tôi uống vào tới đâu thấy
mát rượi tới đó.
Tía nuôi tôi nhồi thuốc lá vào tẩu, bật lửa lên đốt hút một
hơi dài, ông đặt chiếc nỏ lên đùi, vừa ngồi hút thuốc vừa cầm một nhánh cây nhỏ
quơ qua quơ lại đuổi muỗi
chung quanh. Tôi nằm xuống đống cỏ, chân tay mình mẩy đau nhức
như dần. Tôi lơ mơ nhớ lại trận cháy rừng khủng khiếp vừa qua. Không biết má
nuôi tôi, thằng cò
mà cả con Luốc nữa... ở nhà có xảy ra chuyện gì nguy hiểm
không? Đêm nay, tía con chúng tôi còn chưa về, chắc má nuôi tôi và thằng CÒ ở
nhà lo lắm... Tôi vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, bỗng nghe tía nuôi tôi gọi
"An! " một tiếng cộc lốc bàn tay ông nắm lấy tay tôi lôi phắt dậy.
Trèo lên cây sung mau đi, con
Cọp hở tía? - tới vụt tỉnh hẳn, hỏi ngay.
ừ mau đi. Nghe tiếng con chim lệnh kêu rồi?
Tôi ôm cây sung trèo lên. Mọi ngày tôi trèo nhanh như sóc,
nhưng giờ đây tay chân cứ trượt mãi không bám vào t.hân cây trèo lên được. Tía
nuôi tôi đưa bàn tay lên dỡ gót chân tôi, để tôi lấy tựa. Tôi trèo bên trên,
ông trèo bên dưới Gần tới một chạc ba ông rướn người lên để tôi đạp chân vào
hai vai ông, đu người thốc lên. Tôi đã có thể lần trên các nhánh cây, leo cao một
mình được rồi tía nuôi tôi ngồi lại chỗ chạc ba, tay cầm nỏ đưa mắt nhìn quan
sát.
chúng tôi vừa ngồi yên chỗ trên cây thì nghe tiếng con chim
thiêng vẳng tới. Boong... bong... krooi... loói
Boong... boong... boong... k.ruồi... kroói... Tiếng con chim
lệnh kêu một hồi dài, cả rừng im bặt. Tôi bám chặt hai tay vào một cành cây. Tiếng
boong... boong... kroói...
krooi... âm vang rất xa như một thứ tiếng ngân vang kìm loại,
một thứ tiếng đồng tiếng sắt xé tan màn đêm, làm thức tỉnh và kinh hoàng tạo vật.
" NÓ bay kêu chỗ nào, có cọp tới ngay chỗ đó. NÓ là con
chim ma dắt đường? Những oan hồn bị cọp ăn, nhập vào con chim, đưa đường cho cọp
đi tìm bắt người khác...
CÓ hồn khác tới thay thế thì những oan hồn kia mới đi đầu
thai được?" Má nuôi tôi đã bảo như vậy. Thằng CÒ vốn sẵn sàng tin ngay mọi
thứ chuyện ma qủy, vậy mà không hiểu sao bận đó là lần thứ nhất tôi nghe nó cãi
má nuôi tôi:
- Bịa đấy! Làm gì có! - Thằng CÒ cười cười, vênh mặt lên. -
Con cọp nào lại không ăn thịt sống? NÓ ăn nhiều thịt quá, thịt thối mắc trong
chân răng, làm cọp ta đau
nhức. Hễ nằm đâu là nó há họng cho con chim đó mổ thịt lôi
ra. NÓ là con chim bẩn, chuyên ăn thịt thối, ăn giòi bọ trong miệng cọp. Con cọp
đi đâu, con chim theo đó như con nhông con sáo đi theo trâu vậy, chứ có gì mà sợ
nó?
Má nuôi tôi nổi giận ngay:
Nè, trứng chẳng khôn hơn vịt đâu. Mày học cái sách nào đó của
ai mà toan dậy khôn tao thế, hử Cò?
Thằng Ch chẳng những không cãi, mà còn nhe răng cười hì...
hì:
- Chú VÕ Tòng bảo con vậy đó, má à!
- ôi thằng cha đó thì trời cũng không sợ. Cọp vật hắn không
chết thì hắn còn sợ ai nữa! Nói cứ ngang như cua.
Dầu thế nào mặc lòng, nó cũng vẫn là con chim "báo hiệu
của Thần Chết Tiếng boong... boong... krooi... kroỏi... vang dội trong rừng
khuya có một ma lực đáng sợ,
khiến tôi nghe một lúc bỗng nổi gai ốc khắp người. Khi gần
khi xa, tiếng chim hình như cứ lảng vảng trong khu rừng này, chẳng chịu bay đi.
- Tía ơi, lên đây với con! - tôi gọi khẽ thôi, chẳng dám gọi
to.
ừ tía lên ngay - tía nuôi tôi đeo nỏ vào lưng, trèo lên chỗ
tôi ngồi. ông cởi chiếc khăn bịt đầu ra, vòng ngang bụng tôi, buộc mắc vào
nhánh cây. - Thế cho khỏi ngã,
con ạ?
- Lửa còn cháy dữ quá, hở tía?
- ừ còn cháy nhiều...
Xa lắm, ánh lửa còn bùng lên nhiều chỗ. CÓ chỗ trông rõ cả ngọn
lửa bốc cháy trên đầu ngọn cây. Một vùng chân trời rực đỏ. Xa xa có những bầy
chim lượn vòng trên
cao, kêu hu nu. CÓ lẽ chúng đang ngơ ngác không tìm về dọc
nơi rừng xưa tổ cũ, nên cứ lượn mãi giữa trời kêu bi thiết đây chăng
Bây giờ bụng đói cồn cào, tôi mới tiếc hai thùng mật và gùi
sáp ong non... Đói cũng chẳng sao. Chỉ lo mất lối về Tôi lạỉ nhớ tới cái địa
bàn có cây kim lúc nào cũng quay quay chỉ về phương bắc... Nhưng đã có tía nuôi
tôi thì còn lo gì chuyện lạc rừng Chà, lúc này mà có con luốc ở đây thì mình
cũng không đến nỗi sợ lắm... Tôi đang mơ mơ màng màng, bỗng giật nảy người.
Không có chiếc khăn an toàn của tía nuôi tôi buộc tôi vào cành cây, có lẽ tôi
đã rơi xuống đất.
Tiếng Boong...! Boong...! Tron i... Kroó i...! kêu vang dội
ngay sát dưới chân tôi. Tía nuôi tôi nạt một tiếng cọp, tiếng nạt dội vang rừng.
Con chim vụt bay mất. CÓ một mùi khét lẹt và tiếng chân sột soạt trên lá ở ngay
dưới gốc cây.
Tôi quên mất cả đói, quên mất chuyện lạc rừng, cứ hồi hộp
nhìn vào tất cả những chỗ nào có bóng tối đáng nghi ngờ. Bỗng nhiên tôi nhớ
ngay đến một đêm, má nuôi tôi ngồi đan giỏ bên bếp lửa đã kể cho chúng tôi nghe
một câu chuyện về lửa cọp Đừng tưởng không có ma. Mấy mươi năm về trước, có vợ
chồng nhà nọ dắt đứa con
trai chống thuyền vào rừng đốn củi. Thuyền đi dưới rạch, con
cọp đi theo trên bờ, trong khi đó người vợ cứ đòi dừng thuyền lại cho mình lên
bờ đi đại tiện. Người chồng và đứa con hãi quá, phải khua thùng thiếc ầm ĩ, hò
hét đuổi cọp đi Một chốc sau lại thấy nó lẽo đẽo theo thuyền, mà người đàn bấn
thì cứ nằng nặc đòi nhảy lên bờ. Người chồng phải lấy dây trói vợ lại. Khi họ tới
chỗ lấy củi, bấy giờ người chồng mới tháo dây, cởi trói cho vợ. Và người vợ
cũng thôi, không thấy buồn đi đại tiện nữa? Cả ba người lên bờ nhặt củi từ sáng
đến trưa, chẳng việc gì. Tưởng là cọp đi rồi Ai ngờ vào lúc mặt trời gần lặn,
con cọp bỗng xồ ra cắn đứt cuống họng người đàn bà. Người chồng và đứa con vung
rựa xông vào cướp thây, chém trúng con cọp mấy nhát, nó mới chạy đi. Trời tối đến
nơi, mà bấy giờ nước triều cũng xuống cạn sát lạch, không đẩy thuyền ra được.
"Con cọp này sẽ trở lại xé nát thây vợ ta thôi' SỐ vợ ta đã đứt cũng đành.
Lẽ nào nỡ để chết rồi mà thi thể chẳng giữ được vẹn toàn?" Người chồng
nhìn xác vợ buồn rầu nghĩ vậy. Chôn thì cọp đến móc mả. Để dưới thuyền tất nó sẽ
nhảy xuống phá thuyền. Anh ta đành buộc thừng rút xác vợ treo lên cây mắm khô
giữa khoảng đất trống, chờ sáng mai nước triều lên, sẽ đưa xác vợ
xuống thuyền chở về mai táng. Hai cha con đốt một đống lửa to
tướng dưới gốc cây mắm khô, trước khi trèo lên một cây khác ngồi chờ bình minh
tới. Con cọp cứ quanh
quẩn kêu "béo... béo... " trong những lùm bụi chung
quanh. Về khuya, sương xuống mịt mù, đống lửa mỗi lúc lụi dần rồi tắt hẳn.
Trong ánh trăng xanh lạnh ngắt,
người chồng thấy con cọp cứ chạy vòng quanh gốc mắm, lâu lâu
lại đứng dựng hai chân sau lên như người, còn hai chân trước thì với với cào
cào gốc cây mắm khô. Mỗi lần nó đứng lên, cái thây ma treo trên cành cây lại cười
hắc...hắc..."
Tía nuôi tôi đang xe gai bên chõng, nghe thế bèn dừng lại,hừ
một tiếng:
- Bà khéo nhát trẻ con! Xưa nay, chuyện cọp theo bén cái thây
nó vồ thì có. ừ, mang thây về nhà rồi nó cũng theo kêu "béo... béo...sát
bên hè suốt đêm. Còn cái
chuyện thây ma cười cũng có. Nhưng sự thật thì không phải vậy!
- CÓ mà lại không phải Vậy ông cứ nói 'không" có dễ nghe
hơn chăng - má nuôi tôi hứ một tiếng, ngó sang phía khác, không muốn nghe lời
tía nuôi tôi giải thích.
- CÓ chớ nhưng không phải cái thây ma cười. Mà có giống chim
khắc ăn đêm,thường đáp trên cây khô bắt tắc kè, bắt thằn lằn, hoặc bắt chuột.
Tình cờ nó đáp đúng cái
cây có treo xác người. Thấy cọp chồm lên, con chim kêu
"khắc.. khắc... thì mình cho là thây ma cười. NÓ kêu hệt như tiếng cười vậy.
Người yếu bóng vía đi rừng ban đêm, nghe con chim khắc kêu, có khi sợ vãi cứt
ra quần đấy.
- Thế tại sao biết có con cọp trên bờ, mà người đàn bà cứ đòi
nhảy lên nộp mạng cho nó? Không phải đã tới số rồi à - má nuôi tôi vẫn chưa chịu
thua. còn vặn lại.
- Lúc bấy giờ, có bà ở đó à? ĐÓ là người ta bịa, người ta
thêm nhân thêm nhị cho câu chuyện có vẻ thật, dễ tin...
- ông không tin tbì mặc ông. Tôi cứ tin.
Bà cứ tin thì tùy bà! Nhưng đừng có tập cho con cái nó quen sợ
hãi nhưng chuyện vô lý như vậy
Má nuôi tới lặng lẽ cúi xuống đan giỏ, không nói gì nữa.
Không biết có phải vì tốt nhịn mà má nuôi tôi không cãi nhau với tía nuôi tôi nữa
hay không? Nhưng câu chuyện hấp dẫn của má nuôi tôi đã bị chấm dứt đột ngột ở
chỗ đó, làm thằng CÒ và tôi tuy không tin nhưng đứa nào cũng ức...
Tía nuôi tôi vẫn ngồi trên một chạc cây, tay cầm chiếc nỏ.
Tôi thấy sương bất đầu thấm lạnh trên vai áo.
Tía ơi!
- Gì thế, con?
- NÓ ngồi dưới gốc cây đó
ừ, tía, tía thấy rồi... Đừng sợ, con ạ?
Trong bóng tối đen ngòm phủ kín một vùng rộng dưới gốc cây
sung, có vài mảng sáng lỗ chỗ. ở một chỗ sáng xanh nhờ, có một cái đuôi cọp vẫy
qua vẫy lại. Con cọp
núp khuất đâu trong bóng tối, chỉ thấy khúc đuôi của nó thôi.
Bắn nó đi, tía. - tôi nén giọng run run giục tía nuôi tôi
- NÓ không phóng lên tới chỗ này đâu. Mặc kệ nó con à.Tôi bỗng
nhớ đến chú VÕ Trang với tất cả tấm lòng trìu mến và kính phục vô hạn. Trong đầu
óc tôi bây giờ chỉ có hình ảnh chú ấy như anh hùng xuất chúng thôi.
Nhất là nồi thuốc đen nhánh sôi ục... ục... trên bếp lửa,mũi
tên có tẩm thuốc từ nồi thuốc đó đang nắm chắc trong tay tía nuôi tôi đây mà.
Tôi không còn sợ con vật đang ngồi rình chúng tôi ngay dưới gốc cây sung như
lúc nãy nữa.
- Chết cha mày, con cọp! - tôi quát to lên một cách bất ngờ.
Con cọp giật mình phóng soạt ra tận ngoài một lùm xa. Bấy giờ
trống ngực tôi mới bắt đầu nổi lên,vì khoái trá cũng có, vì mừng cũng có, mà có
lẽ là cái sợ chưa tan
hết cũng có.
- Sao hồi nãy tía không bắn cho nó một phát tên?
- Chỉ còn có ba phát thôi, con à! Rơi mất hết mười bảy chiếc
lúc tía cõng con chạy đi. CÓ lẽ bị vướng cành cây, tía không hay.
- Vài hôm nữa mình lại về xin chú VÕ tòng, lo gì?
Tía đang lo nghĩ về chú ấy nãy giờ đây. Ngôi lều của chú chắc
chắn đã bị thiêu hủy rồi...
- Thế tại sao tía không bắn?
tía đã nói là còn có ba phát thôi mà. Chưa cần lắm thì mình
chưa dùng. Còn đề phòng thứ nguy hiểm hơn...
còn gì nguy hiểm hơn cọp hở tía?
thằng Tây chứ còn gì nữa.
Tía nuôi tôi chỉ đáp gọn lỏn như vậy rồi ông lặng lẽ thở dài.
Chương 13
CÁI CHẾT CỦA VÕ TÒNG
Ba hôm sống trong rừng. Ban ngày hái trái bình bát tìm mật
ong ruồi ăn đỡ dạ; ban đêm chúng tôi trèo lên những cây to, tìm chạc ba tựa
lưng thật vững, buộc người
vào cành cây, ngủ đến sáng. Tía nuôi tôi nóng lòng sốt ruột cứ
độ nửa buổi lại trèo lên một cây thật cao xem lửa ở các khu rừng đã cháy lụi hết
chưa.
CÓ thể đi lần ra hướng bờ sông được rồi đấy con ạ!
Đi lối nào bây giờ, tía?
- Lối nào cũng tới. Nước trong rừng bao giờ cũng đổ ra sông.
Cứ men theo bất cứ con lạch nào, theo hướng nước chảy của nó thì đi tới sông
thôi...
Tía con tôi dắt nhau lội theo những khe nước chảy, đến gần hết
một ngày hôm sau nữa mới thấy những rặng cây quen thuộc lờ mờ hiện lên trong làn
hơi nước, báo hiệu dòng sông êm ả của xứ rừng U minh đang trôi qua nơi đó.
Chúng tôi giẫm chân lên những lớp tro dầy còn nong nóng, tìm dò mãi mới đi tới
chỗ cái lung còn nước, nơi tía nuôi tôi đã nhận chiếc xuồng hôm nọ. Chung quanh
tôi, đen hắc một màu cây cối đã cháy thành than.
Những con rùa, con cần đước bò qua trảng cỏ trốn chạy không kịp,
bị lửa đốt cháy còn trơ lại những cái mai như nồi đất úp lổm ngổm trên tro tàn.
Một khối than khổng lồ còn giữ nguyên hình gốc cây, đang âm ỉ bốc khói bên cạnh
chỗ chúng tôi giấu xuồng. Lục bình, rau mác dưới lung bị lửa táp cháy rụi lớp
lá bên trên, phần chìm
dưới nước thì bị nước nóng luộc chín cả. Xác cá, tôm, xác rắn
trương phình trên mặt nước phủ đầy tàn tro, bốc lên một mùi thối khắm nhức cả
óc.
Tôi cởi truồng lội xuống lung, vớt lớp xác lục bình cháy queo
trong chiếc xuồng ngâm nước, vứt lên bờ rồi lắc xuồng tát nước ra.
May quá, nhờ phòng nắng nẻ be mà chiếc xuồng của tía con mình
khỏi cháy, tía nhỉ! - tôi lội mò dưới nước tìm nhặt đủ cả: giầm, sào, ván sạp,
không mất món nào.
Chúng tôi hì hục chống chiếc xuồng theo con lạch cạn, đi lần
ra hướng bờ sông. Từ ngoài rặng cây xa lắc chỗ bờ sông, vang lên một tràng súng
liên thanh pập... pập... và sau đó còn nghe rõ ràng tiếng súng trường bắn loạn
xạ một hồi lâu.
CÓ thể giặc đã đổ bộ vào xã mình rồi, con ạ? - tía nuôi tôi
lo lắng.
- Làm sao bây giờ, tía?
Về nhà xem ra sao, chứ làm sao cái gì!
chúng tôi lại lặng lẽ chống xuồng đi. Hai bên bờ lạch xám
ngoét một màu tro. Ngôi lều của chú VÕ Tòng lấp dưới một lớp than màu tro, nếu
không có những khúc cây tràm xếp lên nhau làm bậc. thang còn chìm ở mé nước thì
tôi không thể nào nhận ra dấu vết. của ngôi nhà cũ.
Xế chiều hôm đó, chúng tôi mới ra đến bờ sông. Khu rừng bên tả
ngạn vẫn còn đương xanh rờn, soi bóng những cây tràm bạc thếch trên dòng nước lờ
đờ. Tôi nhảy xuống sông tắm qua loa rồi trèo lên xuồng mặc quần áo. Tía nuôi
tôi không giục tôi một tiếng nào cả, cũng không lấy thuốc lá ra hút. ông ngồi
êm ru, mắt đăm đăm nhìn
xuống dòng nước. Phút yên lặng trầm mặc bất ngờ của ông lây
sang tôi tức khắc. Mấy hôm nay, nóng lòng sốt ruột bao nhiêu thì bây giờ khi sắp
về đến nhà, tôi lại như
muốn kéo dài thời gian ra, như muốn đi chậm lại bấy nhiêu.
Không biết có phải đó là bản năng hèn yếu của con người, trong phút giây nào đó
bỗng bất ngờ nổi lên, khiến
mình trù trừ, như sợ phải sớm chứng kiến quang cảnh đau lòng
có thể xảy cho những nguội thân yêu nhất của mình chăng
Một lúc sau, không ai bảo ai, tía con chúng tôi mỗi người cầm
lấy cây giầm của mình bơi đưa chiếc xuồng qua sông. Mặt sông vắng ngắt. Dòng
sông như thẫm lại và rộng thêm ra. Một thứ không khí lặng lẽ chết chóc, rờn rợn
trùm lên mặt nước.
Đã trông thấy một đám người láo nháo bên kia bờ sông, dưới
ánh mặt trời tà. Chúng tôi quạt mạnh tay giầm, đưa xuồng rẽ nước lao nhanh về
hướng ấy. Từ bờ phía đó, một chiếc tam bản hai chèo đang chèo ra, ngược lên
dòng nước; khi nhận ra chúng tôi, người đàn ông đứng sau lái bèn vung tay la
lên..
Bác Hai đó hả? Bác ơi, giặc bắn chết VÕ Tòng rồi. Vừa đem được
xác về lúc nãy...
Tía nuôi tôi kêu "Trời' một tiếng. ông đứng nhổm lên lái
xuồng hỏi bằng giọng run run:
- Vậy chú có gặp... bà nhà tôi và tháng CÒ ở đâu không?
- Bình yên. Bình yên cả. Tôi vừa gặp bác gái ban trưa đây Tội
nghiệp, bác khóc sưng cả mắt. Cứ lo trận cháy rừng...
Tía nuôi tôi thở phào một tiếng. Bấy giờ, tôi mới khua giầm hời
to:
Giặc ở trên tàu bay bắn xuống hở chú?
Người đàn ông đang chèo chiếc tam bản trố mắt nhìn qua xuồng
chúng tôi một lúc rồi mới nói:
- Không hay biết gì cả à? Giặc vào đóng bốt tại Cây Dừa rồi.
- Chú đi đâu đó? tía nuôi tôi hỏi..
- Đi nhắc hàng(Mua quan tài) cho VÕ Tòng đây. Bác lên vuốt mắt
ông ấy thử coi... Tội nghiệp, chết rồi mà cặp mắt vẫn không chịu nhắm lại...
Lát nữa, tôi sẽ quay về ngay thôi.
- Nhanh tay lên, con? tía nuôi tôi giục.
Tôi có cảm giác như tự chiếc xuồng đang lao nhanh vào bờ, chứ
không phải do mình đang dốc lực bơi đi. Tôi chưa kịp buộc xuồng vào một gốc cây
thì tía nuôi tôi đã nhảy phóc lên, chạy đến chỗ đám người xúm xít đứng vòng
quanh trên một bãi cỏ.
Khi tôi lên tới nơi, lách qua mấy ngươi đứng bên ngoài, chen
được vào trong thì thấy tía nuôi tôi đang qùy xuống bên cái thây đắp bằng mấy
tàu lá chuối, hai bàn chân người chết ló ra ngoài mé lá; vết bùn đóng trên mấy
đầu ngón chân hãy còn ướt. Lão Ba Ngù mặt đăm chiêu, đứng phía sau đầu người chết
có cắm mấy nén hương cháy. Thấy tôi, lão hất hàm một cái, dường như ra ý hỏi
mày cũng ở đây à? rồi lão lại đứng lặng yên trở về cái dáng thiểu não và bộ mặt
rầu rĩ ít thấy có ở lão xưa
nay. Tía nuôi tôi run run đưa bàn tay to lớn đẫm đầy mồ hôi
ra cầm một tàu lá chuối nhấc lên. Đôi mắt chú VÕ Tòng vẫn mở trừng trừng như
lúc còn sống, ngồi bên nồi
thuốc ở giữa lều một đêm khuya. BỘ ngục to lớn bị đạn bắn thủng
năm sáu lỗ, máu đọng đen sì trên những vết thương càng làm nổi bật lên bảy chữ:
"Ninh thọ tử, bất
ninh thọ nhục" bằng quốc ngữ xâm một cách nắn nót theo lối
cổ tự, giữa hình một quả tim có con rồng cuộn khúc bao quanh. Con người bị áp bức
ấy, lúc sống đã ưỡn
ngực mình ra cho anh em bạn tù cùng khổ thích vào da thịt những
chữ xanh để nêu lên một phương châm sống:
"Thà chịu chết. quyết không chịu nhục'' giờ đây đã nằm
xuôi tay trên bãi cỏ, nhưng đôi mắt hãy còn chưa chịu khép lại
Tía nuôi tôi nhìn vào mặt cái xác, khấn to, như gọi hồn người
chết về chứng chiếu lời mình.
- VÕ Tòng ơi? Vong hồn chú sống khôn thác thiêng cho tôi vuốt
mắt chú nhắm lại đi. Đừng để bà con thấy thêm đau lòng...
Bàn tay tía nuôi tôi từ từ đặt lên đôi mắt dại đờ.
Chung quanh im phăng phắc. Tía nuôi tôi để yên bàn tay như vậy
khá lâu, và khi ông từ từ vuốt mí mắt xuống thì đôi mắt của người chết vừa rồi
mở trừng trừng quả nhiên đã khép lại.
Mọi nguùì ồ lên một tiếng và bấy giờ tiếng thì thào mới bắt đầu
nổi lên. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Không hiểu sao những lời khấn vừa rồi lại có
thể "ứng nghiệm, lạ lùng như vậy được.
Lão Ba Ngù đưa tay quệt một giọt nước mắt, cúi xuống đắp tàu
lá chuối lên mặt cái xác. Theo lời những người chung quanh thì lão là người độc
nhất chứng kiến cái chết anh dũng của VÕ Tòng. Sau khi chiếc ca nô địch chạy
qua, còn chưa khuất lái, lão đã lặn ngay xuống sông vớt xác VÕ Tòng lên, và mặc
cho máu me còn đầm đìa rỏ
xuống uớt cả người, lão cứ thế vác đi một quãng mới gặp xuồng
gọi chở về đây. Còn như sự thể đã diễn ra như thế nào thì không nghe ai nói. Dường
như mọi người đều biết cả rồi. Chỉ còn tía con chúng tôi mới đến là còn chưa
rõ.
Người đàn ông chèo chiếc tam bản trên sông lúc nãy đã quay về,
chở theo một cái "hòm". Trên tam bản còn thấy có ông chủ nhiệm thôn bộ
Việt Minh vai đeo khẩu
súng hai nòng, và một anh thanh niên mặc quần đùi, cởi trần,
dáng chừng là người theo phụ giúp việc khiêng vác.
Huyệt mả đã đào xong gần ngay đất. Cuộc nhập quan cũng hết sức
giản đơn và nhanh chóng. Người ta đặt xác vào quan tài, và mọi người chung
quanh đứng cúi
đầu vĩnh biệt người anh hùng của xã lần cuối, trước khi đóng
nắp áo quan. Không một tiếng khóc. Không một bài điếu văn nhỏ, hoặc một người
nào đó đứng ra nói mấy lời về cái chết anh dũng cua người còn nằm đây. ĐÓ là điều
làm cho tôi xốn sang, bứt rứt không chịu nổi. Trên những gương mặt sạm đen dãi
dầu nắng gió của họ, tôi không tìm ra một nét nào là biểu hiện của bi thương.
Cho dù là dáng vẻ bề ngoài, một sự bi lụy thông thường bao giờ mà chả cần có ở
một đám đưa ma? Trên những gương mặt bất động dường như chạm bằng đá kia, chỉ
có những cặp mắt là chói ngời, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mắt họ.
Khi quan tài đặt xuống, ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh là
người ném hòn đất xuống đầu tiên, rồi bước ra ngoài nhường chỗ cho người khác.
Mỗi người cầm một hòn đất bước đến bỏ vào huyệt mả. Trong lúc ai nấy đang loay
hoay lo lấp huyệt, bỗng nghe đoành... đoàng... hai tiếng nổ bên tai. ông chủ
nhiệm thôn bộ Việt Minh đã bất thần bắn lên hai phát súng chào không dự định
trước. Một tay ông cầm khẩu ca-líp đui hai nòng bốc khói xanh, một tay giơ lên
trước huyệt, bộ ria đen nhánh rung rung:
- Chú VÕ Tòng! Đồng bào sẽ trả thù cho chú
Tất cả những cánh tay nhớp nháp bùn đất của người đứng chung
quanh huyệt mả cùng giơ tay thẳng lên trời.
HỌ gào lên như tiếng súng vừa nổ bất thình lình: "Trả
thù! ". Hồi âm từ trong rừng xanh vọng lại hai tiếng "Trả thù?"
âm vang trên mặt sông chiều đỏ rực một màu máu.
Bầu không khí nhiễm đặc mùi thơm nồng của khói thuốc súng như
rung lên, và sự im lặng lại trở về xâm chiếm đầu óc tôi, một chú học sinh bé nhỏ
sống ở thành phố,
chưa từng bao giờ trông thấy một cuộc tống táng tràn đầy phẫn
nộ như vậy.
Những người còn nấn ná sau cùng bên ngôi mộ mới đắp xong là
lão Ba Ngù, tía nuôi tôi và tôi. Khi thấy lão nhận lời mời "về ở chơi vài
bữa, của tía nuôi tôi mà không
một lời từ chối, tôi lập tức thấy cái tính không khách sáo của
lão thật là đáng yêu biết chừng nào.
Vào khoảng hơn bẩy giờ tối hôm ấy thì chúng tôi về đến nhà.
Tôi không chú ý đến sự mừng rỡ của má nuôi tôi và thằng Cò. Cả những câu hỏi đầy
âu yếm và lo lắng của
bà, tôi cũng chỉ nghe có một bên tai và trả lời qua loa cho
xong về trận cháy rừng. Tôi đang nóng lòng sốt ruột, muốn nghe lão Ba Ngù kể lại
cái chết của "người đàn ỏng
cô độc giữa rừng'l mà lão là người độc nhất được chứng kiến.
Thế mà lão lại ngồi uống trà nhâm nhi với tía nuôi tôi và nói những chuyện con
cà con kê gì ở đâu đâu. Sự hy sinh anh dũng của chú VÕ Tòng có làm cho má nuôi
tôi buồn thương giây lát, nhưng dầu sao cái việc chồng con vừa thoát chết trong
trận cháy rừng về tới nhà, và sự có mặt của một ông khách vốn là chỗ có đôi
chút quen biết trước với chồng mình - mà tất cả đều chưa ăn uống gì - khiến bà
bấn lên trong việc lo cơm nước đãi khách một cách vui vẻ.
Nghe má nuôi tôi bảo thằng CÒ bơi xuồng sang xóm bên mua thêm
rượn, và tiếng vịt bị cắt tiết kêu cạp... cạp sau bếp, tôi càng yên trí ngồi
hóng chuyện bên tía nuôi tôi. Tôi giành cho mình cái quyền được nghỉ ngơi sau mấy
ngày vất cả, và tự thấy mình như một người con trai lớn có thể đường hoàng cùng
ông bố ngồi tiếp chuyện với
khách vậy.
- Chúng nó bắt được tôi trong lúc tôi có hơi quá chén, anh
Hai ạ - lão Ba Ngù e hèm mấy tiếng, cười cười nhìn bố nuôi tôi. CÓ bao giờ lão
nhận là lão say đâu - chẳng là tôi đưa vợ con tản đến ở nhờ nhà một người bà
con ở Kim Quy Đá Bạc, vừa quá giang xuồng về đến xã này thì gặp giặc đổ bộ vào.
Cái thằng chủ xuồng chết tiệt, nó mới cùng uống rượu với mình, thế mà lúc nguy
biến, nó đạp xuồng nhảy lên bờ chạy tháo mạng, bỏ mình nằm trơ như con lợn quay
cho giặc xách đi mới nhục chứ! Chúng nó dắt tôi về tới một ngôi miếu khá lớn...
- Ngôi miếu chỗ cây dừa, gần ngã ba sông - tía nuôi tôi gật
gù vừa như hỏi lại vừa như kết thúc cho xong câu ngắc ngứ của ông khách lề mề.
- Phải rồi. Đúng là chỗ đó! Chà chà, nó đã bắt nhiều người ở
đó rồi. Đang đắp phòng tuyến đóng bốt mà!
Chúng nó vứt cho tôi một cái xẻng rồi ra lệnh cho tôi đào đất
CÓ một thằng mặt gà mái, khom lưng xúc đất, bảo khẽ tôi:
Làm cẩn thận nghe ông nội! NÓ vừa mới đánh mấy người suýt chết
đó.
Lúc bấy giờ, tôi có say đâu? Nhưng không biết tay chân xều xạo
cầm xẻng gục tới gục lui thế nào, mà một thằng Việt gian cầm roi gân bò vẫy vẫy
tôi lại "Chà. Mày
muốn thử tấm da bò trên lưng lão à? Thôi thôi. Cái trò này đối
với lão chẳng ra mùi đâu" Tôi nghĩ như vậy và sẵn sàng chịu cho nó quật một
trận. Thằng Việt gian lùn
tịt ngóc lên nhìn bộ mặt vênh váo của tôi, nó hỏi:
- Ở xã nào"
- Ở đâu Còn ở đâu nữa... ở ngay đây thôi? - tôi đáp liều mạng
như vậy.
- Tưởng nó nện tôi rồi chứ. Nhưng mà không. Không những không
động đến cái lông chân của tôi, mà nó còn toét mồm ra cười, móc thuốc lá cho
tôi hút. Lại đánh diêm cho tôi châm lửa cẩn thận! '
- SỐ của ông tới rồi. Biết chưa? - nó nói như quát, bộ nó tưởng
tôi điếc hay sao ấy?
À hóa ra nó còn đùa chơi, nó còn cho mình một điếu thuốc trước
khi đem bắn mình đây. Nói có hai bên vai làm chứng, thật tình thì tôi có hơi ớn
xương sống, rùng mình một cái, nhưng tôi không sợ nó. "Bắn lão à? Được. Cứ
hút cho hết đã. Thong thả đã, vội gì. Trước khi người ta vĩnh biệt cõi đời để
không bao giờ trở lại gặp mặt vợ con bạn bè nữa, thì việc gì mà phải vội!
" Tôi nghĩ như vậy Thằng Việt gian đứng chéo chân, mặt như hai ngón tay
chéo, nheo mắt nhìn tôi hút hết điếu thuốc một cách
kiên nhẫn, đầy soi mói. Cái lưng gù gù cua nó càng khom tới
thực giống như con mèo rình chuột. Không biết nó phục tôi hay rủa tôi. '
- A-lê? Đi. - nó quát. '
Chắc mèm nó bắn mình rồi? Tôi sắp sẵn mấy câu khẩu hiệu hô
trước khi chết cho đúng tư thế một người chiến sĩ Ha... ha... mỗi thước đất là
một chiến hào, mỗi người
dân là một chiến sĩ mà! Chắc nó đem bắn mình ở ngoài mé sông
kia. Hóa ra nó dắt tôi vào miếu, đến chỗ thằng Tây đang ngồi uống rượu trên một
cái bàn thờ mới chớp đâu về Thằng việt gian xì xồ nói gì một lúc với thằng Tây.
Rồi thằng Tây thân hành rót một cốc rượu đưa tận tay tôi, ra hiệu bảo tôi uống.
Mẹ kiếp, 'rượu gì mà nhạt thếch
. SỐ ông đưa tới chỗ có bạc xài. Lại có rượu uống thả của rồi
đấy, ông nội ạ. Thằng Việt gian đập đập khẽ cái roi vào lưng tôi, nói giọng mơn
trớn.
Rồi chúng nó dỗ tôi làm chỉ điểm! Mả cha nó, hồi nãy nghĩ nó
sắp đem bắn mình, tôi không chút nao núng. Sao giờ nghe chúng nó nói thế, tôi lại
phát nổi gai ốc đầy
mình? Tôi tỉnh lại ngay tức khắc. Trời ơi, bây giờ tôi mới biết
những thằng rượu chè be bét, những thằng trác táng trụy lạc, giặc coi như là
dân "bồ bịch, của nó đấy! Thằng Việt gian trải một tấm bản đồ ra bàn, hỏi
tôi: đây là con kênh gì gì, con rạch gì gì, xóm này là nhà ai, nhà ai... Cha chả,
mình đã lỡ nói mình là dân xã này, mà bảo không biết thì nó đánh tan xác. Tôi cứ
gật bừa chứ nào có biết trời trăng gì đâu? NÓ đưa cho tôi một cái giấy xanh
xanh, bảo tôi quấn lại như đẩu đũa nhét vào lưng quần, hễ có bị Tây nào khác bắt
thì cứ móc đưa ra. Bảo gì tôi cũng gật. NÓ rót thêm cho tôi cốc rượu nữa, và
nhét vào túi tôi một trăm đồng bạc, dặn rằng "Hễ thấy có Việt Minh, có du
kích ở đâu thì lập tức về báo ngay cho quan lớn biết.
Sẽ hậu thưởng. Nhớ chưa?" Tôi gật gật... Ra khỏi miếu chừng
trăm thước, tôi vạch quần đái một bãi rồi chuồn một mạch không quay mặt lại. Chỉ
sợ nó theo gọi lại chụp
hình thì sớm về chầu ông vải.
Tôi móc cái giấy xanh xanh ra cầm tay, định hễ gặp người nào
đằng mình thì lập tức trình ra. Lội hết xóm này qua xóm khác mà chẳng gặp ma
nào. Tôi cầm cái giấy trên tay như cầm cục lửa. Những muốn xé nát, vứt đi Rủi bị
thanh niên tự vệ bắt trước khi mình đưa ra cho họ, thì chết oan hơn một ngàn bà
thị Kính?
Trời xui đất khiến, may sao lại gặp đúng ông chủ nhiệm thôn bộ
cùng đi với VÕ Tòng, VÕ Tòng tôi cũng quen, còn ông chủ nhiệm thì hồi đưa ông
Huỳnh Tấn xuống Thới Bình, tôi cũng có gặp ổng. Tôi bèn chìa cái giấy ra và kể
hết mọi nỗi cho họ nghe, lại đưa cả một trăm đồng bạc ra cho ông chủ nhiệm bỏ
vào qũy ủng hộ kháng chiến. ông chủ nhiệm có khen tôi là mưu trí, trung thành,
nhưng cũng chê tôi là... như vậy coi không được Nhưng bây giờ sự tình đã lỡ rồi,
ông bảo. tôi cứ giữ cái giấy xanh xanh ấy, cứ ra vô bốt như thường, có tin tức
gì thì báo cho anh em biết. Tôi nói "Lạy ông! ông có bắn thì bắn, chứ tôi
không trở vô đó nữa đâu. Dứt khoát là không trở vô. Còn VÕ Tòng thì chỉ nghe,
chứ không nói năng gì. Nhưng tôi sợ chú ấy hơn ông chủ nhiệm thôn bộ mới lạ chứ
Chà, mấy cái chữ "Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục" xâm trên ngực chú,
cứ như là chửi cha tôi không bằng! được cái ông chủ nhiệm không rầy lâu. Nói sơ
chút vậy đủ hiểu thì thôi.
Đánh úp vào miếu thì mình không đánh nổi. Lính đằng mình rút
xuống Năm Căn từ tám hoánh nào rồi...
Chúng nó như một luồng dịch, bây giờ mình sức yếu phải tạm thời
lánh ra, rồi sau sẽ bọc sau lưng chơi du kích với chúng nó... Đó, đại khái ba
người chúng tôi bàn nhau
như vậy. Theo ý ông chủ nhiệm thì nên rình mấy thằng lính đi
đốn cây mà bắn tỉa, chớp súng trước. CÓ súng mới làm ăn được. Nghe có lý lắm,
còn theo ý VÕ Tòng thì phải,,khử" cái thằng'việt gian đã thuộc rành đường
đất xứ rừng này trước. Giết thằng đó, thì bọn giặc co lại trong đồn thôi. Nghe
cũng có lý lắm. Hai người cứ cãi nhau.
Sau cùng, ông chủ nhiệm bảo tôi 'biểu quyết". Tôi hỏi,,Biểu
quyết là cái gì?" ông nói: Theo ý kiến ai thì giơ tay lên. Bên nào đông
thì làm theo ý kiến đó?" Hai ông đều giơ tay của mình lên. Bây giờ tới
phiên tôi. Hễ tôi đi theo ai thì người đó thắng. Chà, chưa bao giờ tôi thấy
mình quan trọng và oai như vậy. Nhưng mình theo người này
thi mất mặt người kia, thật khó quá? tôi bèn giơ cả hai tay
lên, mỗi tay ngả về một phía. ông chủ nhiệm lăn bò ra cười. Tôi cũng cười. Chỉ
có chú Võ Tòng là không cười.
Ba người chúng tôi dắt nhau đi phục kích ở bờ sông. Phơi nắng
suốt hai ngày mà không thấy thằng lính nào mò tới. Ca-nô nó cứ chạy phình...
phình.. ở khúc sông
trên kia ngã ba. CÓ lẽ vì chúng tôi phục kích chỗ xa quá....
Ngày hôm sau nữa, ông chủ nhiệm bận đi mượn thêm tay súng của
xã bên, chỉ còn có tôi và VÕ Tòng...
Lão Ba Ngù kể tới đây bèn dừng lại, quấn thuốc lá châm vào
kéo mấy hơi dài. Lão cúi mặt xuống một lúc; khi lão ngẩng lên, hai giọt nước mắt
long lanh hai bên khóe mắt từ từ chảy dài xuống má, đọng lại ở chòm ria. Lão
cũng không đưa tay lên chùi. Lão lại tiếp tục kể, giọng hơi thấp xuống:
- VÕ Tòng dắt tôi lội rừng, lên chặn đầu ca-nô ở khúc sông
trên ngã ba. Chỗ khúc sông ngoắt có cây ngừa gie nhánh ra sông đấy'
- Nơi đó trống trải quá - tía nuôi tôi thở dài.
- ờ hai bên bờ. sông không có lùm bụi cây cối gì...
Nhưng VÕ Tòng cương quyết "phục" chỗ đó. Chú bảo
tôi là thế nào cũng làm ăn được. Bọn giặc sẽ không ngờ. Chú mang nỏ, trèo lên
ngồi trên nhánh gì ra gie ra sông, núp trong mấy đám tầm gởi. Tôi thì nằm trong
bờ, vạch cỏ chui xuống như con rùa, chỉ ló đầu lên quan sát thôi. Quá trưa mà
không thấy ca nô nó chạy qua. Hai hôm trước nó đều ra buổi sáng. Tôi đã toan gọi
VÕ Trang về thì chợt nghe tiếng ca-nô nổ máy phình phình. Chưa tàn nửa điếu thuốc,
nó đã tới. Mà không phải từ đằng miếu tới. Đêm qua nó đi đâu. bây giờ mới trở về
đây? VÕ Tòng lập tức xoay người lại tôi Chỉ thấy rung rung một cọng lá, và ở đầu
cọng lá ló ra một mũi tên tẩm thuốc độc đen sì.
Tôi đã trông rõ từng thằng trên ca-nô. Một tiểu đội cả thảy.
Tám thằng giặc, ba thằng ngụy. Chúng nó đều cởi trần, da phơi nắng đỏ như cua
luộc, thằng nào cũng đội một cái nón vải rộng vành màu cứt ngựa. Thằng Việt
gian lùn tịt ngồi Ở mũi ca-nô, mũ vải bò tụt xuống cái lưng gù gù trong thật
đáng ghét. Tôi kêu vùa đủ cho chú
nghe:
Cái thằng lùn đầu trần đấy! NÓ đấy?
- ừ!
Chú chỉ nói, có một tiếng. Thằng ngụy thủ cây trung liên đầu
bạc ghé nòng súng lên đùi, ngồi chỗ be móc thuốc ra. đốt hút. Đúng là ở chỗ này
trống trải, nó không đề phòng vả lại cũng sắp về tới đồn chúng nó rồi mà. chiếc
ca-nô ào ào rẽ nước tiến đến. Tôi chớp mắt mấy cái. Không thấy một cọng lá rung
mà mũi tên bay từ lúc nào
đã cắm đúng giữa cổ họng thằng Việt gian nghe cái phực.
NÓ ngã ngửa vào khoang. Mũi tên thứ hai bắn cắm vào vai một
thằng Pháp râu xồm. Thằng giặc già từ từ nhổ mũi tên ra, ném xuống sông cười hô
hố. NÓ đưa bàn tay
lông lá lên lau dòng máu ròng ròng chảy xuống bên vai chưa
lau sạch, đầu nó đã quay quay chúi chúc xuống như con bò bị búa tạ đập vào giữa
sọ. Kể nghe thì lâu, chứ sự việc diễn ra nhanh như chớp, anh Hai ạ? Ca-nô vẫn
chạy.
Đã chạy qua khỏi cây ngừa rồi. Bấy giờ, chúng mới bắn loạn xạ
vào hai bên bờ. Đạn véo véo bay qua đầu tôi, còn VÕ Tòng thì vẫn ngồi ngang
nhiên trên cành cây vô sự.
Tôi chờ cho nó chạy xa một quãng thì đứng lên gọi VÕ Tòng về.
Ai ngờ đâu còn một chiếc nữa đã phình... phình... ló mũi ra chỗ khúc sông
ngoài. Một thằng Tây đội kê-pi vàng rực vai đeo ga-lông(cầu vai có quân hiệu)
chớp chớp ánh kim tuyến, ngồi bên cạnh con đàn bà mặc quần áo nhà binh đang đưa
ống nhòm ngắm tới trước. Thằng này ít ra cũng là quan hai. Mấy hôm trước không
thấy có mặt nó trong đám này?.
Chòm tầm gửi rung rung trên nhánh cây ngừa, rồi trở lại im
lìm không động đậy. Tôi hồi hộp quá. Cách chừng ba tầm tên nữa thì ca nô nó lọt
vào vòng phục kích của
chúng tôi. Bỗng con mụ đàn bà buông ống nhòm tụt xuống ngực,
trỏ vào chòm tầm gởi nói xì xồ gì đó. Thằng Tây đội kê-pi vớ khẩu tiểu liên
trên tay một thằng lính
ngồi dưới khoang, đưa lên ngắm. Chòm tầm gởi đu đưa mấy cái.
Trời đất qủy thần ơi, VÕ Tòng từ từ ló lên giương cánh nỏ. Tôi muốn thét lên mà
lưỡi cứ líu lại. Bắn ngay
nó một phát tên, rồi nhào xuống sông lặn tuốt có phải êm
không Lại không bắn, còn chờ gì nữa hỡi trời! Thằng sĩ quan Pháp vẫn chưa nổ
súng. Chiếc ca nô đã tới gần
lắm rồi. Con mụ đàn bà bỗng quát lên một tiếng, vỗ tay vào
lưng thằng Pháp. Lập tức, tôi thấy cánh tay phải của thằng giặc rung rung. Tai
tôi không còn nghe tiếng súng nó bắn ra nữa, chỉ thấy làn khói trắng như sợi chỉ
phụt phụt ra từ họng súng tiểu liên. Chú VÕ Tòng từ trên cành cây rơi xuống nước.
RÕ ràng là thằng giặc thoát chết vì khoảng cách giữa nó và chú VÕ Tòng còn
ngoài một tầm tên. Nó đã xuống tay trước chú. Bấy giờ tôi không còn biết sợ hãi
là gì nữa, cứ nhô đầu lên coi chú VÕ Tòng có mệnh hệ gì không. Chiếc ca nô chạy
qua xóa những vệt máu mà tôi chắc rằng phải đỏ cả mặt nước kia... Anh Hai ơi
anh có biết con mụ đàn bà ấy là ai không? NÓ là con vợ thằng Tư Mắm ngày trước
vẫn thường lui tới bán dừa khô bí rợ trên chợ Chắc Băng đấy!
Bàn tay lão Ba Ngù đấm xuống mặt bàn một cái rầm, cốc chén nảy
bật lên. Ngọn đèn chao qua chao lại, khiến tôi có cảm giác như bốn bức vách nhà
lung lay vì một sức
chấn động dữ dội.
Tôi đưa tay chụp cái đèn, giữ cho nó khỏi đổ. Bàn tay tôi chạm
vào cái thông phong rát bỏng. Tôi bỗng nhớ tới bàn tay ngón búp măng của con mụ
đàn bà đẹp một cách
dễ sợ đã dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi. quán dì Tư
Béo mà tôi đã từ chối không nhận. Chính bàn tay con mụ gián điệp ấy đập vỗ vào
lưng tên giặc Pháp, xuống lệnh khai hỏa giết chết chú VÕ Tòng.
Tía nuôi tôi ngồi lặng đi một lúc lâu. Cơm canh đã dọn ra bàn
rồi mà ông vẫn ngồi yên như một khúc gỗ. Dáng như trong đôi mắt ông đăm đăm
nhìn sững vào ngọn đèn,
đang hiện lên quá khứ xa xăm của người bạn cùng khổ, giữa nơi
cuối đất cùng trời này.
Khi nghe má nuôi tôi giục ông mời khách ăn cơm, ông mới thong
thả đứng dậy. ông bước đến bên bức vách rút ra ba mũi tên trong chiếc ống nứa
ra, để nằm ngang ở trên đĩa, đặt lên bàn thờ. Rồi ông rót một chén rượu đặt bên
cạnh ở ba mũi tên thề, và thắp nguyên cả một bao hương cắm vào bát tro.
Tuyệt nhiên không hề thấy có một nét biến đổi trên sắc mặt
ông. Cả một hơi thở mạnh cũng không nghe thấy...
Chương 14
MŨI TÊN THÙ
Tội nghiệp cho hai ông già, ngày nào cũng dắt nhau ra đi từ
trời còn mờ đất, có khi đến tối mịt mới về. Má nuôi tôi lo lắm: Nhưng bà biết
rõ chồng mình hơn ai cả. Khi
ông đã quyết một sự gì rồi, thì lời khuyên can và những giọt
nước mắt của bà không thể làm mềm được ý chí của ông Tốt hơn hết là nên im lặng.
Sau cái trận phục kích bất ngờ, chết mất tên Việt gian đưa đường
lợi hại và một thằng Pháp, bọn địch phát quang cây cối dọc ngã ba sông có hơn
nghìn thước, bắn
chết ba người đàn bà đi thuyền trên sông giữa ban ngày, và yết
bảng tại ngã ba rằng: Ai nộp một cái đầu Việt Minh. sẽ được lĩnh một nghìn đồng.
Đồng thời chúng
cũng ra sức mua chuộc: mỗi người dân bị chúng ruồng bắt về đồn
đắp phòng tuyến trước khi được thả về đều được phát cho ba thước vải, một số
thuốc ký ninh và hai
bao thuốc lá "gô-loa" cùng một cái giấy
lách-xê-pát-xê
Lão Ba Ngù ở chơi với tía nuôi tôi hơn một tháng mới từ giã
trở về Chắc Băng. Không biết có phải lão buồn vì công lặn lội của mình chẳng
đem lại một kết quả gì, hay bởi con mụ vợ Tư Mắm đã theo thằng quan ba trở ra
chợ Rạch Giá - thế là mất đối tượng chính - nên lão nản lòng bỏ đi chăng. Tía
nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm ra ít
nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn.
Nhiều khi cả mấy ngày không về nhà. CÓ về nhà thì lại thắp
hương cắm lên bàn thờ rồi lại ngồi uống rượu khan một mình.
Một số người ở xung quanh đồn giặc đã lục tục trở về nhà cũ.
Cả ba bốn ngôi quán cà phê, hủ tiếu cũng vừa dựng lên. Tía nuôi tôi đã mấy lần
mò ra quán cà phê, lần
nào cũng trở về với bộ mặt rầu rầu khiến cho thằng CÒ và tôi
không dám nói chuyện to tiếng.
Một hôm, tía nuôi tôi cầm rựa đi đốn ở đâu về mấy gốc tre
già. ông vứt tre xuống sân, bảo thằng CÒ đi mua rượu. Người ông thay đổi hẳn,
chân tay nhanh nhẹn, vui
vẻ hoạt bát lên như ngày trước. ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng
mũi tên, ban ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa ông châm từng mũi tên lên tay,
cân xem có vừa sức
nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc của ông không...
Ba hôm liền, ngày nào cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ mang
tên, dắt con Luốc di vào rừng.
Chẳng thấy bắt được con chồn con cáo gì, mà ngày nào cũng lặn
lội cho mệt! má nuôi tôi làu bàu nói như vậy
Tía nuôi tôi chỉ cười. Nụ cười hồn hậu trên gương mặt khoáng
đạt mà tôi thấy ở ông lần đầu tiên nơi xóm chợ Ngã Ba Kênh, lại trở về với ông.
Dứt khoát không phải tía nuôi tôi đi săn con chồn con cáo gì
đâu. CÓ thể là ông đi tập bắn nỏ đấy thôi! Mà một người thông thạo nghề rừng
nghề biển như ông, thì việc
sử dụng cánh nỏ chỉ như một trò chơi, ông cần gì phải tập. Vậy
thì tía nuôi tôi đi đâu? Làm gì?.
Ý nghĩ ấy cứ nung nấu trong đầu tôi, càng thôi thúc sự tò mò
dậy lên trong tôi rất mãnh liệt. Phải theo coi ông làm gì? Thế là tôi mò vào rừng.
Theo dấu chân ông, tôi đi
tìm khắp nơi nhưng không thấy. Đã trở về, bỗng con chó Luốc từ
trong một bụi cây chạy ra xoắn lấy tôi. Tôi vội ôm con chó, vuốt ve cho nó đừng
sủa. Và con Luốc dắt
tôi chạy băng qua một khoảng đất lầy, đến một cái bàu rộng.
Tôi gí mõm con chó xuống đất, núp trong một bụi sậy ngó ra bàu. Tía nuôi tôi cởi
trần, đang loay hoay bơi
trong một đám rều. ông nhặt lục bình, rau mác phủ kín thân
người, rồi giương nỏ, chống hai khuỷu tay lên hai khúc bẹ dừa nước thả giữa đám
rều, giữ thăng bằng trên
mặt nước, không động đậy. Khi mặt bàu đã trở lại phẳng lặng,
và một cái lá lục bình cũng chẳng thấy còn rung nữa, thì từ trong đám rều nghe
vang ra một "tiếng tách
rất khẽ của cánh nỏ bật dây. Chiếc tên bay ra, cắm phập vào một
bẹ dừa nước cắm ở mấp mé ven bờ, mà đám rều không mảy may động đậy. Tôi không đếm
rõ, nhưng ước chừng sáu bảy chiếc tên đã cắm đầy bẹ dừa nước, cách mặt nước khoảng
một tấc, đều tăm tắp như ta cầm từng mũi tên và ghim vào vậy. Tôi hãi quá. Vừa
hãi vừa
kính phục. Muốn gọi tía nuôi một tiếng. Nhưng sợ ông mắng,
tôi len lén dắt con chó đi một quãng mới thả nó ra và lẳng lặng trở về.
Tôi không hề lộ ra chút gì tỏ rằng mình biết chuyện tập bắn của
ông. Hôm sau, tía nuôi tôi gọi tôi ra sân bảo khẽ:
- Con đi với tía ra bốt đi?
Tôi đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục kích bắn giặc; ông
đã gọi tôi theo, hẳn là ông tin cậy tôi hơn thằng CÒ Bụng mừng rơn, tôi nói
luôn:
Tía đưa cho con cái dao găm!
ông cười cười, vỗ tay lên đầu tôi:
Đi chơi thôi mà. Việc gì phải mang dao.
Thấy tôi đứng ngớ ra, ông cúi mặt khẽ trong tai tôi:
Hồi trước, con có biết mặt vợ thằng Tư Mắm... Con đi với tía,
coi phải đúng là nó không?
Tự nhiên hai chân tôi nhảy dựng lên một cái. Giờ phút đợi chờ
của tía nuôi tôi đã đến rồi. Thảo nào trông ông khác hẳn. Tôi lập tức hiểu ngay
việc chuẩn bị của ông từ
mấy hôm nay.
- Đi tía! Con làm sao quên con gián điệp khốn nạn ấy được -
tôi phấn khởi nói như vậy. - Nhưng mà... nó cũng nhớ mặt con đấy, tía à?
Không lo. Con thấy nó mà nó không thấy con đâu, đừng sợ.
Thế là hai tía con chúng tôi bơi xuồng ra đi. Đến xóm nhà gần
đồn, tía nuôi tôi giấu xuồng vào một bụi ô rô rồi dắt tôi lên bộ. Chúng tôi đều
đi tay không. Rủi gặp một
thằng lính nào thì lấy gì chống trả? Tới vừa đi vừa lo, mắt cứ
dao dác ngó chung quanh. ông vỗ vào vai tôi một cái mạnh:
- Đi đường hoàng, con ạ! Làm như mình là dân ở xóm này vậy. Đừng
dao dác... CÓ gặp chúng nó, để tía liệu lời ứng phó.
Trời chưa tối. Nhưng con đường trước đồn vắng tanh. Lác đác một
vài nhà đã thắp ngọn đèn kiểm tra treo trước cửa. Chúng tới đi ngang qua ngôi quán
cuối cùng, rồi tạt xuống mé sông ngồi đấy.
Nếu có ai hỏi, con cứ nói là chờ xuồng quá giang, nghe chưa?
- ông dặn tôi như vậy và ung dung móc thuốc lá trong túi ra nhồi vào tẩu, bật lửa
lên châm hít mấy hơi
dài.
Đã ngồi rình mà còn hút thuốc Tôi hơi bực với tía nuôi tôi,
nhưng không dám phản đối. Từ chỗ chúng tôi ngồi cách đồn giặc không đầy ba trăm
thước. Chắc chắn là bọn lính trên chòi đã thấy chúng tôi rồi. CÓ lẽ tía nuôi
tôi cố ý đốt thuốc lên hút, để chúng nó ngỡ chúng tôi là người trong quán ra ngồi
chơi. Bên kia bờ sông, cây cối bị
san bằng mặt đất, một con mèo chạy cũng thấy rõ. Mặt trời sắp
lặn chiếu ánh vàng nhợt nhạt lên mặt đất trần trụi bên ba bờ, và hồi quang từ mặt
nước hắt lên tường
vôi trắng bệch của ngôi đồn một màu không tên gọi, một thứ
màu đặc biệt khó tả nhưng nó gợi cho người ta nghĩ ngay đến mùi tanh nhớt cá..
Quái, mọi hôm giờ này nó đã ra rồi kia mà? - Tía nuôi tôi vừa
lẩm bẩm nói xong, thì ông đã nén giọng kêu khẽ trong cổ: NỔ đây rồi.
Từ trong đồn, một dáng người đàn bà tóc phi dê ưỡn ẹo đi ra,
vai quàng chiếc khăn tắm biển xuống tận gối.
Trông rõ cả đôi quai dép trắng dưới chân. Con mụ ngửa cổ ra
sau, lắc lắc mớ tóc rồi đưa bàn tay túm gọn vào gáy trước khi trùm chiếc mũ cao
su lên. Thoạt trông dáng đi ưỡn ẹo như hình rắn luồn, thấy bàn tay đưa lên vén
tóc, tôi biết ngay là nó rồi. Bàn tay búp măng rất đẹp, không thể nhầm lẫn Bởi
nó quay lưng về phía chúng tôi, lại phi dê tóc, nên tôi còn phải chờ xem cẩn thận
đã. Đến khi nó xoay người bỏ chiếc khăn quàng xuống trụ cầu nước, nhìn bộ mặt
trông nghiêng nửa bên của nó, thì tim tôi đập rộn lên:
- Đúng nó rồi, tía à! Suýt nữa thì tôi kêu to lên.
Xem cho kỹ!
Đúng là nó mà!
Con gián điệp phơi nguyên cái thân hình lồ lộ của nó, chỉ có
ba mụn che chỗ kín và bộ ngực. NÓ vung tay vung chân khởi động chừng nửa phút rồi
gieo mình xuống
nước.
- Chắc chắn là nó, chứ con? - Tía nuôi tôi hỏi lại cẩn thận.
Chắc'..
- Thôi về, con!
Tía con chúng tội vừa đứng lên đi mấy bước, thì có một thằng
ngụy trên chòi gác la lên:
- ê! Mấy thằng nào trong quán ra rình coi bà lớn tắm đó? Coi
chừng ông lớn bắn bỏ mẹ đa?
Chúng tôi cứ thản nhiên đi. Đi một quãng thật xa, bấy giờ tôi
mới thấy rờn rợn nghĩ lại lúc mình ngồi ở bờ sông.
Về nhà đừng nói gì với má con biết, nghe không? -. tía nuôi
tôi cứ dặn đi dặn lại, bảo tôi có đến ba bốn lần chỉ mỗi câu ấy.
Đêm đó, cả nhà ngủ đã lâu rồi. Tôi giật mình thức dậy, vẫn thấy
tía nuôi tôi ngồi cầm cái tẩu lăn lăn trên bàn tay, bên gốc cây tràm trước sân.
Trưa hôm sau, khoảng hai giờ chiều, tía nuôi tôi đã xách nỏ, mang ống tên ra
đi, không quên lấy cái dao găm trong chiếc túi da beo ra đeo thật chặt bên
hông.
Má nuôi tôi hỏi:
ông đi đâu mà không cầm theo chiếc nón đội vậy?
Tía nuôi tôi đáp ngắn ngủi:
- Ra ngoài xóm một chốc thôi
Con Luốc ve vẩy đuôi chạy theo. Tía nuôi tôi quay lại bảo tôi
giữ con chó, đừng cho nó theo. Tôi biết ông đi đâu rồi. Tôi ôm con chó nhìn
theo cái lưng trần chắc nịch của
tía nuôi tôi, thấy rất vững tin, nhưng đồng thời cũng có một
cái gì nôn nao hồi hộp cứ dâng lên trong lòng khiến tôi dưng dưng muốn khóc.
Tôi đi ra đi vào, bụng nóng như lửa đốt. Tai cứ hướng về phía
đồn. Những tiếng súng vu vơ ngoài đó, mọi ngày tôi không thèm chú ý, giờ chỉ
nghe tiếng nổ xa lắc ở đâu
cũng đủ làm tôi bàng hoàng lo sợ. Má nuôi tôi hỏi gì, tôi
cũng chỉ ậm à ậm ừ. Thằng CÒ rủ tôi đi đâm cá, tôi cũng không đi. Đến bữa cơm
tôi lùa nuốt vội một bát, rồi
lén dắt con chó đi. Tay tôi cầm cái mác, con chó đủng đỉnh chạy
theo sau. Tôi băng rừng ra tới bờ sông, đi về hướng đồn giặc. Mặt trời gần lặn
thì tôi đã trông thấy bức tường vôi trắng xóa và cái chòi gác cao lêu nghêu bên
kia sông. Tôi núp trong những bụi cỏ, lúc thì đi lúc thì lom khom bò tới. Đến
chỗ chúng phát trụi sát mặt đất, không ló ra được nữa, tôi đành nằm xuống ngóng
qua đồn. Con chó tinh khôn cũng nằm sát một bên tôi không động cựa gì cả.
Mắt tôi dán trên mặt sông trước ngôi đồn giặc, theo dõi từng
đám rều từ trên kia theo nước trôi xuống. Lỡ tía nuôi tôi núp trong một đám rều
lưới qua rồi, mà con gián
điệp khốn kiếp chưa ra tắm thì sao? Bây giờ tôi không lo sự
nguy hiểm xảy ra cho tía nuôi tôi, mà chỉ lo con qủy cái không ra tắm. Mắt tôi
lại nhìn ra cửa đồn. "Nó sẽ ra...
NÓ sẽ ra... Rồi nó sẽ ra... " Tôi lẩm bẩm như vậy một chốc
thì quả nhiên nó ra thật. Vẫn như chiều hôm qua, nó lại ngửa đầu ra sau, vén
tóc trùm chiếc mũ cao su lên. Nó lại cởi chiếc khăn tắm đặt lên trụ cầu. NÓ đã
bắt đầu khởi động rồi kia! Một thằng Tây từ trong đồn đi ra, có con chó béc-giê
to tướng theo sát bên chân. Con gián điệp quay lại cười hắc hắc, nói lí nhí gì
đó trước khi gieo mình lao xuống nước. Hai tay tôi nắm hai bụi cỏ cứ run lên.
Con chó béc-giê sủa oang oang khi thấy một đám rều trôi qua ngang đồn. Tôi phải
vỗ vỗ vào lưng con Luốc, gí mõm nó xuống, không thì nó cứ chờn vờn chực đứng
lên sủa chửi lại con chó xấc xược kia.
Con gián điệp vẫn bơi lên ngụp xuống chung quanh chỗ cầu nước.
Một đám rều nữa lại trôi tới. Con chó béc giê lại sủa. Nghe rõ cả tiếng thằng
giặc suỵt suỵt mắng con chó. Đám rều thứ ba trôi tới, bé hơn hai đám trước,
trôi lờ đờ, coi bộ chậm chạp. Đúng là tía nuôi tôi đang núp trong đám rều này.
Tôi vừa nghĩ như vậy thì nghe tiếng hét thất thanh của con mụ "vợ Tư Mắm".
NÓ quẫy đùng đùng như con cá mắc câu, cánh tay với với bám trụ cầu. Con chó
béc-giê chồm chồm trên cẩu, sủa ra sông dữ dội. thằng Tây lôi con mụ kia lên cầu,
vừa chỉ vừa hét:
Việt Minh? Việt Minh!" Con gián điệp còn dốc hết lực giơ
cánh tay chỉ ra đám rều trôi trên sông trước khi ngã xuống giãy đành đạch. Đèn
rọi lia như chổi quét trên sông. khắp bốn phía đồn. Súng đủ các cỡ bắn ra như
chấu. Thằng giặc Pháp cầm khẩu tiểu liên đuổi theo bờ sông, ria xuống đám rều.
Đạn đỏ ngời nẩy trên mặt nước như thia lia. Lại thêm năm sáu thằng ngụy trong đồn
cầm súng tủa ra.
Tôi bất chấp cả đạn. bắn vèo vèo bên tai, xách mác đứng dậy
chạy đi. Thằng giặc chạy bên kia bờ, tôi chạy bên này bờ. Giá tôi có khẩu súng
trường trong tay, thì tôi
đã nổ cho nó một phát rồi. Máu dồn lên nóng cả mặt. Tôi che
tay lên mồm hô lớn: "Xung phong! " Con Luốc cũng bắt đầu sủa oang
oang, hỗ trợ cho tiếng hô vang rền của tôi Thằng giặc Pháp cầm súng. đuổi theo
đám rều bên kia bờ, nghe tiếng thét xung phong của tôi vụt co người lại như bị
điện giật. NÓ quay lưng tháo chạy về đồn.
Tôi cứ chạy theo đám rều, gọi: "tía ơi, tía hời!"
mà không nghe tiếng đáp. Đám rều mỗi lúc một trôi nhanh.
Tôi ngồi xuống bờ sông, khóc nấc lên. Hồi lâu, bỗng nghe tiếng
chân đi sột soạt đến gần. Con chó đứng bên tôi ve vẩy đuôi, lao về phía chân
người đi tới.
- Thằng An đấy hả con? - giọng tía nuôi tôi vọng ra từ trong
bóng tối.
Tôi mừng cuống lên, chạy đâm vào người tía nuôi tôi, làm ông
suýt ngã.
- Tía có sao không, tía? - tôi vừa hỏi vừa đưa tay sờ khắp
người ông xem có máu chảy không.
Chẳng việc gì, con ạ. Tía lặn xuống tới đáy sông, làm sao nó
bắn trúng được. Con ra đây bao giờ
- Tía di một lúc thì con đi theo. Con lo quá
Tôi cảm thấy bàn tay tía nuôi tôi sờ soạng đặt lên vai tôi và
từ trên vai tôi, bàn tay to lớn ấy dần dần mò xuống nắm chặt bàn tay tôi.
- Cám ơn con. Tía cám ơn con!
Con Luốc sấn vào bên chân chúng tôi, vướng không đi được. Tôi
co chân tống nó một cái, nó mới chịu lui ra. Tiếng súng moóc-chê trong đồn bắt
đầu bắn ra, nổ ầm ầm vào những khu rừng chìm kín trong đêm. Nghe tiếng súng bắn
nhiều chừng nào, tôi càng khoái chừng nấy.
-Vì thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện giết một con
đàn bà!
Đột nhiên, tôi bỗng có cảm giác như mình đang nghe câu nói ấy
vẳng ra từ một câu chuyện cổ xa xưa nào.
27/12/2003 Đoàn Giỏi
27/12/2003
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét