Khảo luận về kiến trúc
“Yama/ Diêm vương đã ban cho chúng ta một nơi an trú trên trần
gian. Quả vậy, Yama cai quản trần gian và chính Ngài bảo trợ cho kẻ phụng hiến
một nơi an trú trên trần gian này” [Satapatha Brahmana, VII. I. 1.3] (Kramrisch
1976: 2)
‘Ngôi đền/ Kalan Champa là tác phẩm nghệ thuật toàn
bích: Chân-Thiện-Mỹ. Chân là sự hiện hữu bằng vật chất và cấu
trúc của ngôi đền; Thiện là hình tượng chư thần được thể hiện và thờ
phượng tại ngôi đền; Mỹ là vẻ đẹp hoàn hảo về kiến trúc và điêu khắc
của ngôi đền’. Nghệ thuật kiến trúc của [các] vương quốc cổ Champa/ Chiêm
Thành[1] mà chúng ta có thể khảo sát chủ yếu
là kiến trúc Ấn Độ giáo và Phật giáo[2]. Đó là những đền-tháp bằng gạch nung dựng
rải rác dọc đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam, từ phía nam Đèo Ngang, Quảng
Bình đến Bình Thuận, và một vài ngôi đền ở Tây Nguyên. Niên đại của những ngôi
đền-tháp này trải dài từ thế kỷ thứ 7/8 đến thế kỷ thứ 17/18. Theo văn bia, phần
lớn những đền-tháp trước thế kỷ thứ 7/8 được dựng bằng gỗ, nhưng sau những cơn
binh lửa, những ngôi đền này đều bị thiêu hủy, cho đến khoảng thế kỷ thứ 7/8 mới
xuất hiện những ngôi tháp xây bằng gạch nung và sa thạch. Chỉ đền-tháp thờ phượng
chư thần mới được xây bằng gạch đá, còn nơi trú ngụ của những tu sĩ Bà-la-môn,
những người chăm nom, bảo vệ và phục dịch tại đền thờ thì bằng gỗ nên chẳng còn
để lại dấu vết gì. Hiện nay, theo kiểm kê của chúng tôi, chỉ còn lại 24 nhóm đền-tháp
tính từ tỉnh Quảng Bình cho đến tỉnh Bình Thuận, được phân bố như sau: Quảng Trị: Hà Trung (1 tháp); Thừa Thiên-Huế: Liễu
Cốc (2 tháp), Mỹ Khánh (1 tháp), Linh Thái (1 tháp);
Quảng Nam: Mỹ Sơn (68 tháp), Đồng Dương[3] (1 tháp), Bằng An (1 tháp), Chiên
Đàn (3 tháp), Tháp Lạng (2 tháp)[4], Khương Mỹ (3 tháp); Bình Định: Thốc
Lốc/Phú Lốc (1 tháp), Cánh Tiên (1 tháp), Bánh Ít/Tháp Bạc (4
tháp), Thủ Thiện (1 tháp), Dương Long (3 tháp), Hưng
Thạnh/Tháp Đôi (2 tháp), Hòn Chuông/Bà Chằng (1 tháp); Phú
Yên: Tháp Nhạn (1 tháp); Khánh Hòa: Pô Nagar Nha Trang (5
tháp); Ninh Thuận: Hòa Lai (2 tháp), Pô Kloong Garai (3
tháp), Pô Ramê (2 tháp); Bình Thuận: Pô Đam/Pô Tằm (5 tháp),
Phú Hài (3 tháp); Đắk Lắk: Yang Prong (1 tháp). Trong bài này, chúng tôi chủ yếu bàn về kiến trúc đền-tháp Ấn
Độ Giáo (Hindu) của Champa, sẽ lần lượt khảo sát chi tiết về những đặc tính của
ngôi đền chính hay kalan trong kiến trúc Chàm, thảo luận về bình đồ
căn bản của đền-tháp; về kỹ thuật xây dựng đền-tháp; hoặc về địa thế chung nơi
ngôi đền tọa lạc; và sau cùng, bàn về cách phân chia nhóm tháp, sự phân loại về
phong cách nghệ thuật và niên đại của từng nhóm đền-tháp. Theo văn bia Champa dựng tại các di tích chính như Mỹ Sơn và
Pô Nagar, chúng ta biết rằng, vì phí tổn rất tốn kém cho nên hầu hết đền-tháp
Hindu giáo đều được xây dựng và sinh hoạt dưới sự bảo trợ của hoàng gia. Nhà
vua cũng cúng hiến đất đai để thờ tự ngôi đền như đã được nhắc đến trong minh
văn của đức vua Bhadravarman, hay Phạm Hồ Đạt và Fan Hu-da trong thư tịch cổ của
Việt Nam và Trung Hoa, trị vì vào khoảng năm 380-413 (Đào Duy Anh 1957: 128)[5], chính đức vua là người đã tạo dựng ngôi
đền đầu tiên tại thánh đô Mỹ Sơn vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4 CN (Gozio
2004:2-4 [Bia C72]). Những khu thờ tự chính của hoàng gia cũng được trùng tu bởi
các đại quan trong triều, như một văn bia của Pô Nagar Nha Trang nêu lên rằng,
vào đầu thế kỷ 9, đại tướng Senapati Par đã cho dựng một tiền đường/mandapa tại
khu thánh đô này (Gozio 2004: 52-4 [Bia C51, C2]). Nhìn chung, nghệ thuật kiến trúc Champa được các nhà lịch sử
nghệ thuật nhận định rằng- những hình tượng điêu khắc phong phú bằng sa thạch
trang trí trên tháp kết hợp với những mô-típ hoa văn trang trí đa dạng chạm trổ
trên tường gạch đã mang lại cho đền-tháp Champa một mỹ cảm tinh tế; bằng nghệ
thuật trang trí điêu luyện, người Chàm đã khéo tạo cho nền kiến trúc tôn giáo của
họ một vẻ đẹp hoành tráng và trang nghiêm. Vẻ đẹp của đền-tháp Champa được bộc
lộ qua những kiểu thức kiến trúc đa dạng, những kiểu cách hoa văn phong phú, kết
hợp với truyền thống kỹ thuật xây dựng độc đáo được cải tiến liên tục qua nhiều
thế kỷ đã đạt đến hoàn thiện (Parmentier 1948: 58-75). Thật vậy, bằng một kỹ
thuật xây gạch điêu luyện, người Chàm đã tạo dựng được những ngôi tháp gạch kỳ
vĩ nhất trong vùng Đông Nam Á, đặc biệt, những công trình được xây dựng từ thế
kỷ 11 đến 13. Những đặc tính của ngôi đền/ kalan trong kiến trúc Champa Quan niệm kiến trúc Champa chịu ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ.
Đó là một tổng thể bao gồm một ngôi đền chính, tiếng Chăm gọi là kalan, kết
hợp với những đền thờ nhỏ, những công trình phụ và những bờ tường thấp bao
quanh. Kalan tượng trưng cho ngọn núi thần thoại Meru, cái trục
của vũ trụ, trung tâm hoàn vũ; bao quanh núi Meru là các thiên thể và
những đại dương được tượng trưng bằng những ngôi đền nhỏ và những bờ tường thấp[6].Kalan chính là nơi trú ngụ của chư thần. Thân tháp được
giải thích như một hang động và mái tháp mang hình tượng ngọn núi (shikhara) đều
là nơi an ngụ lý tưởng của thần linh. Các bức tường phía bên ngoài tháp được chạm
trổ cầu kỳ đến từng chi tiết; ngược lại, các bức tường bên trong tháp không hề
được trang trí; nội điện đơn giản chỉ để bày một bàn thờ. Hầu hết kalan đều xoay mặt về hướng Đông - hướng của
thần linh, hướng mặt trời mọc, mở đầu cho sự vận hành của vũ trụ. Riêng tại Mỹ
Sơn, do địa hình của một thung lũng hẹp tượng trưng cho một mandala[8], nên những kalan ở đây vừa xoay
về hướng đông vừa xoay về hướng tây; và một kalan duy nhất có hai cửa
lớn trổ về hai hướng đông-tây là Mỹ Sơn A-1. Ngoài ra, còn một nhóm tháp
riêng biệt dựng trên sườn núi, có kalan xoay về hướng nam-hướng về
phía biển, đó là nhóm Pô Đam/Pô Tằm ở miền Nam vương quốc (Trần Kỳ Phương
2008a: 15-6). Chánh điện (garbhagrha) của kalan là một
căn phòng hẹp, đây là nơi linh thiêng nhất của ngôi đền, bài trí một bàn thờ đặt
linh tượng của chư thần hoặc linga ngay tại trung tâm nội điện. Ngẫu
tượng được đặt trên một cái bệ yoni có vòi luôn luôn xoay về phương bắc
gọi là snàna-droni[9], cái bệ này dùng để thoát nước thánh tẩy
khi làm lễ tắm ngẫu tượng. Khi hành lễ, linga được bọc một cái bao gọi
là kosa, bằng hợp kim, vàng/bạc, trên bao đó có gắn hình đầu thần Siva, gọi
là mukhalinga; những đầu tượng Siva bằng hợp kim này đã được phát hiện một
số cái trong những năm gần đây, chúng đều là những kiệt tác của nghệ thuật Chàm
(Lafont 1996: 49; Hồ Xuân Tịnh 1998:10; Lobo 2005: 88-95). Hình tượng mukhalinga bằng
sa thạch hiện vẫn được thờ trong chánh điện của ngôi đền Pô Kloong Garai. Còn
ngẫu tượng của thần Siva bằng đá thờ trong chánh điện, thì, trong khi hành lễ
cũng được mang y phục và đồ trang sức bằng kim loại quý; một bộ trang sức gồm
mũ miễn, hoa tai, vòng đeo cổ, ngực, tay và chân… bằng vàng đã được phát hiện
tại Mỹ Sơn năm 1903 trong ngôi tháp nhỏ C7, bên cạnh kalan C1- nơi thờ
ngẫu tượng thần Siva trong tư thế đứng, là một ví dụ tiêu biểu cho nghi thức
này (Boisselier 1963: 138-9; Baptiste et al. 2005: 195-6).Trong chánh điện còn có thêm một cái hầm vuông ngay dưới bàn
thờ, để rút nước thánh tẩy trong khi hành lễ, như ở kalan Mỹ Sơn B-1
và F-1; hoặc một lổ thoát nước thánh ra ngoài tháp gọi là soma-sutra như
ở kalan Pô Nagar Nha Trang, kalan Mỹ Sơn A1, Mỹ Sơn C7,
Chiên Đàn,… Chung quanh bàn thờ có một lối hẹp để đi vòng theo chiều kim đồng
hồ khi hành lễ (pradakshina-patha). Còn ở những di tích Phật giáo như
Đồng Dương, bàn thờ được đặt sát vào tường phía tây của chánh điện, tín đồ hành
lễ ngay phía trước bàn thờ. Trong chánh điện thường dựng thêm một cái tán bằng gỗ có bốn
cột trụ để che lấy bàn thờ, như ở kalan Pô Kloong Garai và Pô Rame hoặc
chỉ còn lại bốn chân đá tảng vuông như ở tháp Mỹ Sơn C7. Người Chăm ở Nam Trung
bộ ngày nay gọi cái tán gỗ này là janùk. Chánh điện xây rất kín, không có
cửa sổ nên bên trong rất tối, vì thế trong ba vách tường phía trong đều có ô nhỏ
hình tam giác để đặt đèn. Các bức tường bên trong chánh điện có khi được nới rộng
hoặc được đục khoét lởm chởm cho giống một hang động, nơi cư ngụ được ưa chuộng
của chư thần[10]; vết tích của sự đục khoét này còn thấy
rất rõ ở hầu hết những kalan như Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An,
Bình Lâm, Thốc lốc, Cánh Tiên, Dương Long, Hưng Thạnh. Chánh điện được giữ kín
đáo bằng một khung cửa đá có hai cánh cửa bằng gỗ quý, ngày nay, những bộ cánh
cửa gỗ này còn thấy ở kalan Pô Nagar Nha Trang, Pô Kloong Garai và Pô
Ramê; còn ở những di tích khác, đôi cánh cửa gỗ đã bị mất, chỉ còn lại những lỗ
mộng tròn trong khung cửa đá như ở ngôi đền Mỹ Sơn C1, Dương Long, Hưng Thạnh.
Nối liền với chánh điện về phía cửa chính, là một tiền điện/tiền sảnh
(vestibule) hẹp và dài, thường đặt một cặp tượng bò thần Nandin, nằm chầu vào
chánh điện, ngày nay còn thấy ở kalan Pô Kloong Garai và Pô Ramê. Tiền
điện/tiền sảnh hẹp dẫn vào chánh điện u tối tượng trưng cho lối dẫn vào hang động,
từ ánh sáng dần vào bóng tối, là nơi an ngụ của chư thần. Mặt khác, tiền điện/tiền
sảnh hẹp còn dẫn tín chủ từ một thế giới phức tạp vào một nơi đơn giản để dễ
dàng tự thanh tịnh trong nghi thức hòa nhập với đấng linh thiêng.Trước cửa vào tiền điện/tiền sảnh có hai trụ cửa bằng sa thạch
được chạm trổ công phu. Những trụ cửa này có hình tròn, hình bát giác hoặc hình
tứ giác chạm trổ hoa văn cầu kỳ, tùy theo thời kỳ nghệ thuật mà thay đổi cách
trang trí. Người Champa có truyền thống ghi khắc văn bia lên những trụ cửa đá
này mà ngày nay còn thấy ở Pô Nagar Nha Trang, Pô Kloong Garai, Hà Trung. Trước
cửa vào có bậc cấp bằng đá; hai bên bậc cấp có hai thành bậc cũng bằng đá, mặt
ngoài của thành bậc trang trí nhiều hình tượng khác nhau; trước bậc cấp bao giờ
cũng có một phiến đá mỏng dẹp hình bán nguyệt chạm trổ những cánh sen
(moonstone). Trên hai trụ cửa đặt một mi cửa/lanh-tô (lintel) chạm trổ hoa
văn; trên lanh-tô có một tấm lá nhĩ/tym-pan (tympanum) bằng sa thạch hình ô-van
(ovale) thể hiện hình tượng vị thần được thờ trong kalan. Hầu hết, những
tym-pan đều là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao, được chạm trổ
hoàn chỉnh; một trong những đề tài được ưa chuộng để thể hiện trên tym-pan là
hình tượng thần Siva múa điệu vũ trụ Tandawa. Hình tượng của thần Siva,
đấng Huỷ Diệt, được đặt trên cửa vào là để hộ trì cho ngôi đền được thanh
tịnh, tránh sự xâm phạm của các thế lực hữu hình cũng như vô hình đến chốn
thiêng liêng. Đế-tháp tượng trưng cho thiên giới;Thân-tháp tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi tín chủ
tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần
linh hoặc để tâm thức được thăng hoa;Mái-tháp tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần
quần tụ. Đế-tháp chạm trổ hình tượng hoa lá; động vật như voi, sư tử;
hoặc các đấng hộ trì ngôi đền đứng trong những vòm cung nhỏ trang trí hình tượng kala-makara;
hoặc những hoạt cảnh trong thần thoại, vũ nữ và nhạc công thiên tiên. Đế-tháp từ
thế kỷ thứ 11 trở về sau thường được lắp ghép bằng sa thạch như kalan Mỹ
Sơn B1; hoặc ốp quanh bằng sa thạch như Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bánh Ít/Tháp Bạc.
Những hình tượng chạm trổ quanh đế-tháp biểu hiện những hoạt cảnh trên thiên giới
là quê hương của chư thần. Thân-tháp trang trí những hàng trụ-áp-tường (pillastre), và
giữa-trụ-áp-tường (inter-pillastre). Thông thường có năm trụ-áp-tường, cái
chính giữa bị che khuất bởi một cái cửa- giả-lớn (false door) ở mỗi mặt tháp. Cửa-giả-lớn
của kalan là một công trình rất công phu với hệ thống vòm cuốn (torana) độc
đáo, nghệ thuật chạm trổ tinh xảo làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của đền-tháp
Champa. Trong cửa-giả-lớn bao giờ cũng có hình tượng chư thiên đứng hộ trì cho
ngôi đền (lokapala) với gương mặt thành kính, hai tay chắp trước ngực
cầm một đóa hoa sen. Trên ba cửa giả có ba tấm tym-pan bằng gạch hoặc bằng đá
thường thể hiện hình tượng nữ thần Laksmi, vợ của thần Visnu, nữ thần
của sắc đẹp, sự trù phú và hưng thịnh; ngài là đấng hộ trì để cho ngôi đền luôn
luôn được sung mãn. Chân-tháp nằm tiếp giáp đế-tháp, mỗi trụ-áp-tường ở phần
chân-tháp đều có vật-trang-trí-chân-tháp thường có hình ách-bích/xì-bích nhiều
lớp; hoặc trang trí vòm cuốn nhỏ chạm trổ hoa lá. Cóc-ních (cornice) tiếp giáp
với mái tháp được cấu tạo thành những đường gờ, chạm trổ công phu bằng những đường
diềm trang trí hoa lá. Mỗi góc cóc-ních đều có vật-trang-trí-góc thể hiện hình
tượng thiên nữ apsaras, thủy quái makara, hoặc hình ngọn lửa thiêng
cách điệu thành nhiều kiểu thức khác nhau qua từng phong cách nghệ thuật. Bốn
góc cóc-ních trên mái-tháp có bốn tháp-góc thể hiện một điện thờ nhỏ được trang
trí công phu. Sự lập đi lập lại nhiều lần những mô-típ trang trí phức tạp
trên những bộ phận to nhỏ của một ngôi đền Champa tượng trưng cho những chu kỳ
vô tận của thời gian và của kỷ nguyên vũ trụ cũng như vô lượng kiếp tái sinh của
con người; và chính nơi đây, qua ngôi đền, tín chủ bày tỏ lòng chí thành và hướng
vọng đến sự giải thoát tối thượng được cứu độ bởi thần linh. Mái-tháp có ba tầng, một chóp-tháp và một đỉnh-tháp, càng lên
cao càng thu hẹp lại biểu tượng cho ngọn núi. Mỗi tầng mang hình dáng của một
ngôi đền nhỏ với đầy đủ những bộ phận chính như trụ-áp-tường, cửa-giả-nhỏ,
chân-tháp, cóc-ních,... Trên các tầng tháp trang trí ngẫu tượng và vật cưởi của
ba mươi ba vị thần trong Ấn Độ giáo như ngỗng thần Hamsa, chim thần Garuda,
bò thần Nandin, voi, sư tử... Tại tầng thứ nhất, thứ hai và thứ ba của mái
tháp, trên mỗi góc cóc-ních của mỗi tầng đều có bốn tháp-góc; mỗi tầng tháp tượng
trưng cho một tầng trời nơi cư ngụ của chư thần. Trên tầng thứ ba là chóp-tháp;
chóp-tháp là một phiến đá lớn hình bát giác, tứ giác hay hình tròn, trên đó chạm
mặt nạ Thần Thời Gian (Kala), rắn thần Naga hoặc bò thần Nandin,
như ở Mỹ Sơn, Chiên Đàn, Pô Kloong Garai, giống các shikhara ở miền bắc Ấn
Độ, chóp-tháp này gọi là amalaka. Đỉnh-tháp là khối đá nhọn có bốn cạnh, đặt trên chóp-tháp; phần
dưới của đỉnh-tháp trang trí những cánh sen, tượng trưng cho ngọn núi
thiêng Kailasa, chốn an ngụ của thần Siva; đỉnh-tháp thường được bọc
bằng vàng hay bạc để làm tăng thêm vẻ đẹp rực rỡ uy nghi của ngôi đền. Đỉnh-tháp
là nơi cao nhất của ngôi đền, mang hình tượng đoá sen (padma) tượng
trưng cho sự giải thoát tối thượng; tính siêu việt không-thời gian; là cột trụ (yupa) biểu
tượng cho hạnh nguyện của nhà vua và hoàng tộc; là nơi ngôi đền phóng toả năng
lực huyền bí của nó vào vũ trụ mang theo tâm thức hướng thượng của tín chủ; đỉnh-tháp
cũng chính là cái trục của vũ trụ; là nơi hòa nhập tiểu ngã cá nhân (Atman) vào
đại ngã vũ trụ (Brahman).Bình đồ căn bản của đền-tháp Champa Nhìn chung, một phức hệ đền-tháp Champa khoảng từ thế kỷ 10
trở về sau bao gồm những công trình như:- Ngôi đền chính kalan- Tường bao (antarmandala)- Tháp cổng (gopura)- Tháp Nam/Tháp Lửa (kosagraha)- Tiền đường (mandapa)Một kalan ở trung tâm. Đối diện với kalan là
một tháp-cổng (gopura) có hai cửa trổ về hướng đông-tây. Trước tháp-cổng
là một tiền đường (mandapa), loại nhà dài, mái ngói có nhiều cửa sổ
và hai cửa chính mở về hướng đông-tây, đây là nơi để tĩnh tâm, cầu nguyện, múa
hát thiêng, cầu kinh, chuẩn bị lễ vật… trước khi vào hành lễ thánh tẩy tại kalan.Mandapa trong kiến trúc Champa có ba loại: (1) loại
không có tường bọc kín mà chỉ sử dụng những hàng cột lớn bằng gạch hoặc đá để
chống đỡ mái ngói, như ở Pô Nagar Nha Trang, Đồng Dương; (2) loại có tường bọc
kín và trổ nhiều cửa sổ như ở Mỹ Sơn D1, D2; (3) loại dùng những hàng cột gỗ để
đỡ mái, như ở Pô Kloong Garai. Mandapa được xây dựng theo hai kiểu thức sau:
(a) gopura-mandapa-kalan (mandapa không có tường bọc kín);
(b) mandapa-gopura-kalan (mandapa có tường bọc kín)[13]. Một công trình đặc biệt trong kiến trúc Champa, đó là về phía
trước hoặc phía Nam của kalan, bao giờ cũng có một kho lễ vật (kosagrha) hay
còn gọi là Tháp Nam, đây là một kiến trúc bằng gạch, mái cong hình thuyền; có một
hoặc hai phòng; cửa chính luôn luôn mở về hướng bắc-là hướng Thần Tài Lộc Kuvera;
và hai cửa sổ có chấn song con tiện bằng sa thạch ở hai đầu đông và tây. Ngôi
tháp này cũng dùng để nấu thức ăn cúng dâng cho chư thần, ngày nay người Chăm ở
Ninh Thuận, Bình Thuận gọi các ngôi tháp này là ‘tháp lửa’. Ngôi ‘tháp-lửa’
này tượng trưng cho kho báu và sự trù phú của vương quốc. Cũng có giải thích
cho rằng ngôi ‘tháp lửa’ dùng để giữ ngọn lửa thiêng của Thần Lửa Agni để hành
lễ tại kalan. Ngoài ra, tại Mỹ Sơn, còn có một công trình đặc biệt, đó là
Tháp B6, được dựng đối diện với Tháp-lửa B5, bên trong B6 có một cái bể cạn
hình bầu dục bằng sa thạch để chứa nước thiêng khi làm lễ thánh tẩy tại kalan B1[14]. Đây là công trình duy nhất dựng tại
đây, nó giúp khẳng định kalan B1 là trung tâm của thánh địa. Bao quanh kalan, những điện thờ nhỏ và những công trình
phụ là bốn bức tường bao (antarmandala) bằng gạch, cao trung bình khoảng
2.5 mét, vuông vức, nối liền nhau khép lại ở chổ tháp-cổng. Trong kiến trúc Ấn
Độ giáo những bức tường bao này tượng trưng cho những dãy núi bao bọc các đại
dương chung quanh ngọn núi vũ trụ Meru là ngôi đền chính trong nhóm.
Bên ngoài tường bao thường xây thêm tháp-bia để dựng bi ký. Riêng tại Mỹ Sơn, chung quanh kalan A1 còn có
sáu ngôi miếu (kết hợp với hai cửa chính) thờ tám vị thần hộ trì bát phương
thiên giới (astadikpàlakas) trấn giữ các phương đông, tây, nam, bắc,
và đông-bắc, đông-nam, tây-bắc, tây-nam, mỗi vị được thể hiện ngồi trên một con
vật tuỳ thuộc (vahana) riêng của các ngài (tháp A2-A7); và tại nhóm
B, có bảy ngôi miếu thờ bảy vị thần tinh tú (saptagrahas) là Nhật,
Nguyệt, Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ (tháp B7-B13) trấn ở các phương chung quanh
ngôi đền chính B1 (Trần Kỳ Phương 2005a: 660-3; 2008a: 42-4).Ngoài những tổng thể to lớn như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Pô Nagar
Nha Trang; và những nhóm tháp riêng biệt như Bánh Ít/Tháp Bạc, Cánh Tiên, Pô
Kloong Garai, Pô Ramê; đặc biệt, trong kiến trúc đền-tháp Champa còn có những
nhóm gồm ba kalan dựng sát bên nhau như Hoà Lai, Khương Mỹ, Chiên
Đàn, Hưng Thạnh/Tháp Đôi, Dương Long. Trong 24 nhóm tháp còn tồn tại, chỉ có
năm nhóm ba kalan. Tất cả những nhóm ba kalan đều được tạo dựng
trên đồng bằng hoặc trên những gò đất thấp. Những nhóm ba kalan thường được xây dựng trong một
giai đoạn kéo dài nhiều thập kỷ. Chẳng hạn, nhóm Hoà Lai được xây từ cuối thế kỷ
thứ 8 và hoàn tất vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9; nhóm Khương Mỹ được xây từ đầu
thế kỷ thứ 10, hoàn tất khoảng cuối thế kỷ thứ 10 và tiếp tục tu bổ vào những
thế kỷ sau; nhóm Chiên Đàn được xây từ nửa sau thế kỷ thứ 11 và hoàn tất khoảng
giữa thế kỷ thứ 12; nhóm Hưng Thạnh được xây vào cuối thế kỷ thứ 12; nhóm
Dương Long được xây từ cuối thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13 và có lẽ được tu bổ cho
đến cuối thế kỷ 15 (trước 1471). Mặc dầu đền thời với nhóm ba kalan được xây dựng
cho đến tận thế kỷ 13 nhưng chỉ có hai nhóm Hưng Thạnh và Dương Long là xây
cùng một thời. Hiện tượng này cho thấy, mãi đến cuối thế kỷ thứ 12, đền-tháp
Chàm chỉ được xây với một ngôi đền chính kết hợp với những đền thờ phụ, để rồi
sau đó chúng mới được phát triển thành những nhóm ba kalan. Tại các nhóm
tháp Mỹ Sơn A, B, C, chúng ta có thể quan sát tổ hợp của những ngôi đền chính
được bổ sung bằng các ngôi đền phụ (Trần Kỳ Phương et al. 2005b: 22).
Đó là bình đồ cơ bản của tổ hợp đền-tháp Chàm trước khi xuất hiện nhóm ba kalan. Chúng
chứng minh rằng, có hai kiểu đền- tháp với điện thờ đơn: (1) một kiểu với
những đền thờ nhỏ hơn xây sát cạnh ngôi đền chính; (2) và một kiểu với
với những đền thờ phụ có kích thước nhỏ hơn. Dần dần những kiến trúc phụ
này phát triển không ngừng cho đến khi chúng được xây lớn hơn cho cao bằng với
những ngôi đền chính, vì vậy dẫn đến sự xuất hiện của nhóm ba kalan. Cho đến khoảng cuối thế kỷ 12, những nhóm ba kalan mới
được xây đồng thời vì chúng nhận được những ảnh hưởng của kiến trúc Khmer thời
Angkor. Như vậy, trong quá trình phát triển từ những nhóm đền-tháp đơn bao gồm
một ngôi đền chính với những đền thờ phụ - từ thế kỷ 10 trở về trước; rồi, tiến
tới một nhóm ba kalan - từ thế kỷ 10 trở về sau, cho thấy rằng
trong quá trình tiến hóa của mình, kiến trúc Champa đã tiếp nhận thêm những ảnh
hưởng của các nền nghệ thuật láng giềng, chẳng hạn, của nghệ thuật Java trong
thế kỷ 10; và của nghệ thuật Khmer trong thế kỷ 12-13. Về kỹ thuật xây dựng đền-tháp Champa Đền-tháp Champa được xây theo kỹ thuật truyền thống của kiến
trúc tôn giáo Ấn Độ, đó là những công trình xây theo bố cục hàng ngang kết hợp
với các hàng trụ theo đường thẳng; tính kiên cố của công trình được nhìn thấy bởi
những hàng trụ-áp-tường theo chiều dọc kết hợp với các lanh-tô bằng đá hay bằng
gạch theo chiều ngang. Phương pháp liên kết các bức tường bằng kỹ thuật corbel,
trong kỹ thuật này, những viên gạch được xếp chồng lên với nhau từng hàng một,
thành những đường gờ-giật-cấp, nhô ra từng cấp một theo chiều ngang, tạo nên một
khoảng trống giữa hai bức tường, rồi được thu hẹp dần dần cho đến khi nó có thể
khép kín lại bằng một hàng gạch cuối cùng ở nơi cao nhất. Xử dụng phương pháp
vòm-giật-cấp (corbel) đã đem lại cho đền-tháp Champa một vẻ đẹp bề thế và mạnh
mẽ phô bày qua những hàng trụ-áp-tường theo hàng dọc và các lanh-tô theo hàng
ngang. Trong lòng tháp, nhờ sử dụng kỹ thuật vòm-giật-cấp, người Champa đã tạo
cho ngôi đền một không gian rộng rãi, vòm phía trên được tạo nên bởi những đường
gờ giật cấp theo chiều ngang trông rất ngoạn mục. Khác với phương pháp
vòm-bán-nguyệt (arch), có một viên đá/gạch chốt trên đỉnh vòm (keystone),
được xử dụng phổ biến trong kiến trúc La Mã cổ điển, dành cho những kiến trúc
có kích thước lớn; kỹ thuật vòm-giật-cấp của kiến trúc Ấn Độ dễ dàng tạo cho đền-tháp
Champa một không gian nội thất thoáng đãng, tiện nghi cho việc thờ phượng dù chỉ
là những kiến trúc thấp nhỏ (Trần Kỳ Phương et al. 1997: 60-3;
Shige-eda 1999: 218-30; Trần Kỳ Phương et al. 2005b: 21). [Minh họa #2 và
#5]Minh họa #5: Tháp Mỹ Sơn B5, thế kỷ thứ 10, tiêu biểu
cho kiểu thức cấu trúc vòm-giật-cấp của nội thất ngôi đền Champa. (Theo Trần
Kỳ Phương & Shige-eda Y., 1997. Champà Iseki [Di Tích Champà].) Đền-tháp Champa xây bằng gạch nung, ghép với những mảng trang
trí và chịu lực bằng sa thạch như đỉnh tháp, chóp tháp, khung cửa, trụ cửa,
lanh-tô, tym-pan, cóc-ních, đường diềm, vật-trang-trí-góc, đế tháp. Gạch của
người Chàm, thông thường, được nung nhẹ lửa nên không cứng lắm (ngoại trừ một
ít viên bị nung thành sành/già lửa vì lý do kỹ thuật, thỉnh thoảng đã được tìm
thấy ở một vài di tích như Mỹ Sơn, chẳng hạn), gạch có nhiều kích thước khác
nhau, khoảng 30cm x 20cm x 10cm. Có thể, gạch Chàm được nung bằng một kiểu lò nửa
âm-nửa dương (?) như nhân dân địa phương vẫn còn truyền tụng. Những ngôi tháp gạch
không thể nhìn thấy mạch hồ vữa kết dính đã đứng vững cả ngàn năm phơi sương
gió là bằng chứng sinh động về tài năng sử dụng gạch của cư dân Champa. Tường
ngoài của những ngôi tháp này chỉ bị mưa nắng gió cát bào mòn dần chứ không thể
tách rời những viên gạch.Theo nhiều giả thuyết đáng tin cậy, xưa kia, cư dân Chiêm
Thành/Chàm (urang Campà) đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân miền
Trung ngày nay gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus
Roxb., để kết dính những viên gạch lại với nhau khi kết cấu tường tháp cho
nên, mạch vữa kết dính giữa những viên gạch rất mỏng, nhiều khi không thể nhìn
thấy bằng mắt thường, vì vậy, đã nẩy sinh nhiều cách lý giải khác nhau cũng như
không ít những câu chuyện huyền bí xung quanh kỹ thuật xây dựng tháp gạch của
người Chàm (Hardy 2009: 3-8). Cây dầu Rái được trồng thành rừng, tại miền
Trung, thân cây tròn, to và thẳng có tán lá rậm; nhựa của cây này có thể khai
thác hàng năm với dung lượng lớn; có độ kết dính rất chặt và bền; hoàn toàn
không thấm nước. Loại nhựa cây này rất dễ sử dụng, đem trộn dầu Rái với đất sét
khô hay bột gạch, chúng sẽ thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng. Tường tháp
rất dày, khoảng từ 01 mét đến 1,5 mét; trong ruột tường thường xây độn bằng gạch
vụn được kết chặt lại bằng dầu Rái, chỉ hai lớp vỏ ngoài của tường là được xây
bằng gạch vuông vắn và được mài láng sau khi xây; sau khi tường tháp được xây
xong, những nhà điêu khắc mới khởi công chạm trổ trực tiếp những kiểu thức hoa
văn lên tường gạch; sau hết, người Chàm quét phủ lên một lớp dầu Rái để bảo vệ
mặt ngoài của tường tháp để tránh sự tác hại của mưa nắng. Ngày nay, Dầu Rái vẫn được xử dụng rất phổ biến bởi cư dân ở
miền Trung Việt Nam, đặc biệt, trong kỹ thuật đóng ghe thuyền, họ thường dùng Dầu
Rái trộn với vôi nung từ vỏ nghêu sò trét lên vỏ hoặc các kẻ hở (chỗ nối các
mãnh gỗ ghép lại với nhau) của ghe thuyền để chống thấm nước.Theo những kết quả xét nghiệm hoá học về chất kết dính trong
kỹ thuật xây dựng đền-tháp Champa gần đây nhất, thì, người Chàm đã dùng một loại
nhựa thực vật lấy từ địa phương để kết dính những viên gạch lại với nhau; và gạch
để xây tháp được nung với nhiệt độ trung bình khoảng dưới 850 độ C[15]. Nếu so sánh những loại nhựa thực vật có
độ kết dính bền nhất hiện được xử dụng bởi cư dân tại miền Trung Việt Nam,
chúng tôi nghĩ giả thiết cho rằng người Chàm xưa đã dùng dầu Rái trong kỹ thuật
xây dựng đền-tháp của họ là có tính thuyết phục nhất[16]. Gạch xây tháp được nung ở những nơi không xa chỗ xây dựng đền
thờ để tiện việc chuyên chở, vết tích của những nơi lấy đất sét để nung gạch hiện
vẫn còn thấy tại những vùng gần di tích, chẳng hạn như ruộng Ô Vuông ở tại làng
Mỹ Sơn gần di tích Mỹ Sơn. Đá sa thạch cũng được khai thác tại những nơi không
xa di tích Mỹ Sơn; về phía tây-bắc của di tích này, tại làng An Hòa, vẫn còn dấu
vết khai thác sa thạch từ ngày xưa mà hiện nay cư dân địa phương vẫ tiếp tục
khai thác. Đền-tháp từng được tu bổ liên tục từ thế kỷ này sang thế kỷ
khác, đặc biệt sau những cơn binh lửa như văn bia thường đề cập đến (Gozio
2004: 136-43). Các vương triều Champa sau khi lên ngôi thường xây dựng thêm hoặc
tu bổ lại các đền thờ của các triều vua trước để tỏ lòng kính ngưỡng tiền nhân
và kế tục cầu nguyện chư thần hộ trì vương quốc. Thông thường, ngôi đền chỉ được
trùng tu phần tường bên ngoài, còn bên trong lại được giữ nguyên trạng. Trong
khi trùng tu lại những ngôi đền cũ, người Chàm có truyền thống sử dụng lại những
vật liệu của các công trình trước, đặt biệt là những vật liệu bằng sa thạch[17]. Có những nhóm tháp được xây dựng và tu bổ trong nhiều thập kỷ,
khi tu bổ những ngôi đền cũ, các phần trang trí thường được mô phỏng lại, cho
nên có những mô-típ trang trí giống nhau được xử dụng phổ biến qua nhiều thế kỷ;
trái lại, kỹ thuật xây dựng thì được phát triển khác nhau trong một thời gian
ngắn hơn. Vì vậy, nghiên cứu sâu về kỹ thuật xây dựng đền-tháp Champa sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn quá trình tiến hóa của nền kiến trúc này qua từng giai đoạn
nghệ thuật; và dễ tiếp cận hơn với niên đại tương đối chính xác của từng công
trình.Theo truyền thống Ấn Độ giáo, các tín chủ là hoàng gia Champa
bảo trợ toàn bộ chi phí cho các công trình tôn giáo, kể cả việc nuôi dưỡng những
hiệp thợ chuyên nghiệp - đó là những nhà kiến trúc và điêu khắc, để xây dựng đền-tháp.
Những hiệp thợ này hoạt động rộng rãi trong khắp vương quốc, vì thế, chúng ta
có thể thấy kỹ thuật xây dựng hoặc kiểu thức trang trí tương tự tại những di
tích chính của cả hai miền Nam và Bắc vương quốc. Có những công trình được xây
dựng liên tục trong nhiều thập niên như những đền-tháp tại Mỹ Sơn, Chiên Đàn,
Dương Long, Pô Nagar Nha Trang. Kiến trúc tôn giáo Champa không có truyền thống sử dụng rộng
rãi chất liệu sa thạch hoặc đá, nên khác với truyền thống xây dựng của các
vương quốc láng giềng. Kiến trúc Champa nổi bật với kỹ thuật xây dựng gạch (hoặc
kết hợp giữa gạch và sa thạch) trong khi kiến trúc Khmer và Java nổi bật với kỹ
thuật xây dựng đá, chẳng hạn Angkor Vat và Angkor Bayon ở Cambodia và Borobudur
hoặc Prambanan ở Indonesia. Sự khác biệt về vật liệu xây dựng hàm chỉ sự khác
biệt về kỹ thuật xây dựng cũng như về sự phân công nguồn nhân lực cho những
công trình xây dựng. Sự khác biệt giữa hai xu hướng kiến trúc– kỹ thuật xây dựng
gạch và kỹ thuật xây dựng đá- có thể được giải thích một cách cơ bản dựa trên
những hình thái kinh tế đặc thù được thích ứng trong từng nền văn minh một của
các vương quốc cổ ở Đông Nam Á.Kỹ thuật xây dựng đá của Khmer và Java là kỹ thuật của những
xã hội thiên về nông nghiệp được hình thành trên những bình nguyên rộng lớn như
ở Cambodia (Dumarcay 2003: 46-63); hoặc trên những đồng bằng trù phú với đất
nham thạch (núi lửa) của đảo Java, Indonesia (Tjahjono 1998: 62-9). Trong những
xã hội thiên về nông nghiệp này, vua chúa có khả năng trưng tập được một nguồn
nhân lực lớn để phục vụ cho các công trình xây dựng trong một thời gian dài: nó
được xử dụng để tạo dựng các công trình bằng sa thạch hoặc vật liệu đá tùy theo
yêu cầu của các giới cầm quyền. Cư dân Champa, trái lại, là những cộng đồng gắn bó với hải
thương (Southworth 2004: 209-33). Trong một xã hội thiên về thương mãi, khả
năng trưng tập một nguồn nhân lực lớn để xây dựng các công trình tôn giáo thì rất
bị hạn chế. Vương quốc Champa nằm trên con đường hải thương quốc tế, người Chàm
sở hữu một vùng duyên hải dài hơn một ngàn cây số; nền kinh tế của Champa chủ yếu
dựa vào hoạt động ngoại thương ở các cảng-thị và trao đổi hàng hóa miền ngược
và miền xuôi (Tran Ky Phuong 2010: 206-15); vì vậy, người Chàm bận bịu quanh
năm với công việc ngoại thương hoặc trao đổi hàng hóa nội thương. Hơn nữa, nền
nông nghiệp của vương quốc này không mấy phát triển vì đất trồng trọt rất hạn hẹp
chỉ dựa vào những cánh đồng nhỏ của các thung lũng ven sông ở miền Trung ngày
nay. Chúng ta cũng có thể lưu ý rằng, ở những vùng hạ lưu của các dòng sông lớn
hơn như sông Thu Bồn, Quảng Nam hoặc sông Côn, Bình Định nơi có những đồng bằng
rộng hơn gắn liền với các cửa biển lớn như Cửa Đại (Hội An) hoặc Cửa Thị Nại
(Bình Định), thì, một số lượng đền-tháp to lớn hơn được xây dựng lên ở những
vùng đó như là kết quả của dân số đông đảo hơn mà những vùng kinh tế nông nghiệp
này có thể cung cấp được. Điều này chứng tỏ rằng mỗi khi có khả năng trưng tập
được một nguồn nhân lực cần thiết, vua chúa Champa lập tức chú trọng đến việc bảo
trợ xây dựng những công trình tôn giáo đồ sộ hơn.Nhìn chung, một xã hội thiên về nông nghiệp khả dĩ cung cấp một
nguồn nhân lức lớn hơn và bền vững hơn một xã hội thiên về thương mãi; đặc biệt,
trong mùa nông nhàn sau mỗi vụ thu hoạch, mà, với phương thức sản xuất cổ truyền
mỗi năm chỉ có một mùa lúa nên xã hội này có thể cung cấp một nguồn nhân lực
phong phú hơn. Để xây dựng nên những công trình kiến trúc đá đòi hỏi tập
trung nguồn nhân lực lớn để cắt đá, vận chuyển đá và kết cấu đá. Trong khi, để
xây dựng một công trình gạch thì không đòi hỏi một lực lượng nhân công lớn như
vậy: một số lượng nhân công vừa phải, tập trung trong một thời gian khả hữu, có
thể xây nên những tháp gạch kỳ vĩ, chẳng hạn, nhóm tháp Dương Long, cao 42 mét,
là nhóm tháp cao nhất của Champa và cũng là những kiến trúc Hindu bằng gạch lớn
nhất ở Đông Nam Á (Trần Kỳ Phương 2009: 170-3). Bên cạnh sự khác biệt về vật liệu và kỹ thuật xây dựng, mỗi
truyền thống nghệ thuật cổ của Đông Nam Á đều có riêng những cá tính đặc thù rất
đa dạng. Có thể phân biệt sự khác biệt đó khi so sánh về cách xử lý bố cục
mặt bằng và khái niệm không gian cũng như mô thức (mode) của từng khu đền-tháp.
Bố cục mặt bằng (ground plan) kiến trúc gạch Champa thường là những bố cục hình
vuông đơn giản, trong khi, bố cục mặt bằng kiến trúc đá của Khmer hoặc Java rất
phức tạp với nhiều kiểu thức và bố cục đa dạng. Mô thức không gian kiến trúc
Champa dựa trên những khối vuông riêng rẽ đơn điệu, trong khi, mô thức không
gian kiến trúc Khmer và Java rất phát triển và kết hợp được nhiều hình thái
phong phú và dị biệt. Sự khác biệt về cách bài trí không gian và kiểu thức kiến
trúc phản ảnh sự khác biệt về tâm thức nghệ thuật được hình thành bởi ‘tri thức
tập thể (collective intelligence)’ của từng tộc người và từng xã hội đặc thù ở
Đông Nam Á (Dumarcay 2003: 10). Về địa thế của ngôi đền Champa Theo kinh Brhat Samhita của Ấn Độ giáo: “Chư
thần thường vui đùa ở những vườn cây gần sông, núi, suối nguồn và trong thị
thành ở những khuôn viên vui vẻ” (Kramrisch 1976: 2). Vì thế, địa điểm
để xây dựng đền thờ Champa thường được chọn ở những nơi sau: (1) hoặc trong một
thung lũng kín đáo như Mỹ Sơn; (2) hoặc nơi bình địa bên cạnh những giòng sông
lớn như tháp Bằng An, Khương Mỹ, Bình Lâm, Thủ Thiện; (3) hoặc giữa đồng bằng
như Đồng Dương; (4) hoặc trên những ngọn đồi gần cửa biển như Pô Nagar Nha
Trang, Phú Hài, Linh Thái; (5) hoặc trên ngọn đồi ven sông như nhóm Bánh
Ít/Tháp Bạc, Tháp Nhạn; (6) hoặc trên những ngọn đồi biệt lập giữa đồng bằng
như Thốc Lốc, Pô Kloong Garai, Pô Ramê; (7) hoặc trên sườn núi như nhóm Pô
Dam/Pô Tằm; (8) hoặc ngay trên bờ biển như tháp Mỹ Khánh; (9) hoặc trên đỉnh núi
cao như tháp Hòn Chuông/Hòn Bà[18] (Minh họa số 8); (10) hoặc trong
hang động như Động Phong Nha Quảng Bình, Động Tàng Chơn - Ngũ Hành Sơn, Đà
Nẵng. Nhìn chung, hầu như đền-tháp Champa được xây dựng ở mọi địa
hình, nơi mà, theo tín ngưỡng Ấn Độ giáo, thì, địa điểm được chọn để xây dựng
ngôi đền đều gắn liền với một huyền thoại riêng của nó; chẳng hạn, việc thần
linh báo mộng, hoặc chư thần giáng thế, hoặc tạ ơn một vị thần sở tại, hoặc
đánh dấu nơi chiến thắng kẻ thù. Tuy nhiên, việc chọn lựa một địa điểm nơi có nguồn Nước
Thiêng để tổ chức nghi lễ tế tự là một điều quan trọng, nên những địa điểm kề cận
sông ngòi luôn luôn được chú ý để chọn nơi dựng đền thờ. Giòng Sông Thiêng cũng
tượng trưng cho nữ thần Ganga, vợ của thần Siva. Hơn nữa, những giòng
sông lớn và cửa biển ở miền Trung Việt Nam như sông Thạch Hãn (Quảng Trị); Thu
Bồn (Quảng Nam); Trà Khúc (Quảng Ngãi); Sông Côn (Bình Định); Sông Ba (Phú
Yên); Sông Cái (Khánh Hoà); Sông Dinh (Ninh Thuận); Sông Cái/Cà Ty (Bình Thuận)
lại giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Champa, nên, hầu
hết đền-tháp Champa đều được chọn để dựng bên cạnh những giòng sông lớn chảy ra
các cửa biển nơi gắn liền với những cảng-thị là những trung tâm thương mại[19]. Những ngọn Núi Thiêng tượng trưng cho vị Đại Sơn Thần là thần Siva cũng
giữ vai trò quan trọng trong việc chọn địa điểm để xây dựng đền thờ; chẳng hạn,
ngọn núi thiêng Mahaparvata/Hòn Đền Núi Chúa trong châu Amaravati tại Mỹ Sơn
(Quảng Nam); ngọn núi Mò O/Maha trong châu Vijaya, nay thuộc huyện An Nhơn
(Bình Định); ngọn Lăng-già-bát-bạt-đa/Lingaparvata hay núi Đá Bia tại đèo Cả
(Phú Yên); ngọn núi Đại An trong châu Kauthara, nay thuộc huyện Diên Khánh
(Khánh Hoà); ngọn núi Chà Ban trong châu Panduranga, nay thuộc huyện Ninh Phước
(Ninh Thuận)[20]. Ngoài ra, những ngọn đồi độc lập tọa lạc
trên một bình địa được chọn để xây dựng đền thờ, tự thân chúng cũng được xem
như một ngọn núi thiêng[21]. Chú thích:[1] Trong khảo luận này chúng tôi xử
dụng thay đổi danh xưng Champa và Chiêm Thành tùy theo ngữ cảnh. Danh xưng
Champa (Campà) xuất hiện trong văn bia Chàm bằng tiếng Phạn (Sanskrit) vào thế
kỷ thứ 7; còn danh xưng Chiêm Thành xuất hiện trong thư tịch cổ của Trung Hoa
và Việt Nam từ thế kỷ thứ 8 trở đi. Chúng tôi cũng xử dụng danh xưng Chàm khi đề
cập đến Champa/Chiêm Thành; và, danh xưng Chăm để chỉ cộng đồng dân tộc Chăm ở
Nam Trung Bộ hiện nay.[2] Tác giả xin chân thành cám ơn
The Toyota Foundation và The Southeast Asian Studies Regional Exchange Program
Foundation (SEASREP) đã tài trợ để tác giả có thể nghiên cứu điền dã các di
tích Chàm tại Trung Việt Nam trong những năm 1993-7; và tại các di tích kiến
trúc lịch sử ở Đông Nam Á trong những năm 2005-7.[3] Đồng Dương là tổng thể kiến
trúc Phật giáo đồ sộ nhất của vương quốc Champa với nhiều kiến trúc to lớn được
xây dựng trên một chiều dài khoảng 1400 mét theo trục đông-tây, vào khoảng cuối
thế kỷ thứ 9 (875), nhưng vì bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên nay chỉ
còn lại một khung cửa đá và một phần tường của ngôi đền chính; tuy nhiên, trong
lòng đất của di tích này còn ẩn dấu rất nhiều tác phẩm quý giá, vào năm 1978,
nhân dân trong vùng đã phát hiện được một pho tượng hợp kim đồng cao 114 cm,
đây là một kiệt tác của nghệ thuật Phật giáo thế giới, pho tượng này hiện được
bảo quản tại Bảo Tàng Điêu khắc Chăm-Đà Nẵng. Phần lớn tác phẩm điêu khắc độc
đáo của di tích Đồng Dương hiện được trưng bày tại Bảo Tàng Điêu khắc Chăm-Đà Nẵng.[4] Di tích Tháp Lạng mới được phát
hiện và khai quật trong năm 2002 bởi Bảo tàng Quảng Nam, cách nhóm tháp Chiên
Đàn khoảng 500 mét về phía nam, bao gồm một tháp cổng (gopura) và một
tiền đường (mandapa), chỉ còn phần đế tháp cao khoảng 01 mét.[5] Thảo luận về mối liên hệ giữa
vương hiệu của đức vua Bhadravarman được đề cập lần đầu trong văn bia Mỹ Sơn
C72 và vương hiệu Fan Hu-da hoặc Phạm Hồ Đạt trong sử sách Trung Hoa và Việt
Nam, chúng ta có thể dựa vào trích dẫn sau đây của Charles Higham: “Christie đã
cân nhắc việc trích dẫn danh hiệu này (Bhadravarman), ông ghi chú rằng theo sử
liệu Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6, đó là sách Thủy Kinh Chú, ở cửa đông của kinh
đô Lâm Ấp dẩn vào một con đường thoáng mở bên cạnh đó có đặt một tấm bi ký mang
tên Hu Da[Hồ Đạt]. Ông đã giả định đây là Trung Hoa hóa tiếng Chàm hudah, nghĩa
là rực rỡ. Phục nguyên tiếng Phạn là Bhadra” (Higham 1989: 300). Tấm bi ký
theo khảo tả của Thủy Kinh Chú có khả năng là bia Hòn Cục/Hòn Cụp (Gozio 2004:
5 [Bia C147]); Parmentier 1918: 387; Zolese 2009: 197-8). Hiện nay, vào mùa khô
khoảng tháng 7-8, ta vẫn có thể nhìn thấy tấm bia này có hai giòng chữ lớn được
khắc trên một kè đá sát bờ sông Thu Bồn, ở phía nam chân cầu đường sắt Chiêm
Sơn, cách Trà Kiệu 4.5 km về phía tây-bắc và cách Mỹ Sơn 11km về phía đông-bắc,
nay thuộc làng Chiêm Sơn Tây, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, ở
tọa độ N15º49.900 và E108º11.800. [6] Theo thần thoại Ấn Độ, núi Meru
có năm ngọn, có nhiều tinh tú bay quanh, nó có một chiều cao khổng lồ được các
tu sĩ Bà-la-môn ước tính chừng 1.344.000 ki-lô-mét. Chân núi Meru được bao bọc
bởi bảy dãy núi được chia ra bởi bảy đại dương nơi mà những con thuỷ quái
Makara đùa giỡn. Bên kia, về phương nam, trong đại dương thứ tám là thế giới của
chúng ta, gọi là Jambudwipa/Diêm-phù-đề, tại trung tâm của nó có hồ Anavatpa, từ
hồ này có bốn giòng sông vĩ đại chảy đi khắp thế giới. Trong cùng một đại dương
có ba lục địa được cư trú bởi những sinh vật có hình dáng kỳ lạ với đầu hình
tròn, hình bán nguyệt hay hình vuông. Sau hết, tại một khoảng cách cân đối lạ
thường là cái vòng đai của vũ trụ, đó là dãy núi Chakravan, được cấu tạo bằng
đá thạch anh (Dumarcay 1986: 89).[7] Ngôi đền Ấn Độ giáo thuở sơ
khai chỉ là một bàn thờ yoni-linga bằng đá, sau đó làm thêm một hàng
rào bằng cây gỗ bao chung quanh; rồi đến giai đoạn kế tiếp là dựng một cái chòi
bằng tranh lá hay bằng gỗ để che bàn thờ; về sau, trong những thời kỳ phát triển
nó mới trở thành một đền thờ có tường vách bọc kín mang hình dáng ngọn
núi shikhara (Michell 1988: 184, fig. 106). Trong kiến trúc đền thờ Champa, quá trình chuyển hoá
này được chứng minh với ngôi đền đầu tiên ở Mỹ Sơn dựng bằng gỗ, thờ linga của
thần Bhadresvara, dưới triều vua Bhadravarman, khoảng cuối thế kỷ thứ 4/5 được
đề cập đến trong văn bia của Bhadravarman; mặc dầu đến khoảng thế kỷ thứ 7/8,
những kiến trúc ở Mỹ Sơn đã xử dụng gạch nung, nhưng, những ngôi đền được dựng
trong các thế kỷ này không có tường cao như những kiến trúc về sau, vì, ngôi đền
quan trọng Mỹ Sơn E1, dựng khoảng đầu thế kỷ thứ 8, là một chứng cứ rõ
ràng để tìm hiểu những kiến trúc bằng gạch và đá thuộc thời kỳ đầu của kiến
trúc Champa. Kalan Mỹ Sơn E1 là một ngôi đền dựng bằng gạch và đá
nhưng không có tường bọc kín, vì tường gạch rất thấp, cao khoảng 2,5 mét; ở bốn
góc bên trong tháp có bốn chân đá tán vuông và bốn cột trụ bằng gỗ để chống
một bộ mái hoặc bằng ngói hoặc bằng gỗ, điều này chứng tỏ cho đến thời kỳ
này người Chàm vẫn chưa xử lý được kỹ thuật xây mái tháp bằng phương thức corbel/vòm
giật cấp; tuy Mỹ Sơn E1 là ngôi đền có cột và sườn mái bằng gỗ, nhưng kỹ
thuật xử dụng đá trong công trình này đã rất thành thạo, vì, những tác phẩm
điêu khắc bằng sa thạch thuộc ngôi đền này đều là những kiệt tác trong nghệ thuật
Champa [Đài thờ Mỹ Sơn E1, ký hiệu: 22.4; và tấm fronton thể hiện Visnu
Anantasayin, ký hiệu: 17.8, hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu Khắc Chăm-
Đà Nẵng] (Tran Ky Phuong 2005b: 132-9). Sau ngôi đền Mỹ Sơn E1, người
Chàm đã bắt đầu xử dụng kỹ thuật xây mái bằng phương pháp corbel cho
những ngôi đền có kích thước nhỏ như tháp Mỹ Sơn C7 hoặc ở nhóm tháp Pô Dam tại
miền Nam vương quốc trong thế kỷ thứ 8. Từ khoảng giữa thế kỷ thứ 8 trở đi, kỹ
thuật xây tháp bằng phương pháp corbel được xử dụng rộng rãi trên các
công trình có kích thước to lớn hơn trong kiến trúc đền-tháp Champa như có thể
thấy ở nhóm tháp Phố Hài, Hòa Lai, Mỹ Sơn F1, v.v... (Xem chi tiết thảo luận
trong Trần Kỳ Phương 2011: 277-99)[8] Mandala/Mạn-đà-la trong tư tưởng Ấn
Độ là một đồ hình huyền thuật tượng trưng cho vũ trụ, hoặc vuông hoặc tròn.
Bình đồ bố cục hình vuông của ngôi đền Ấn Độ giáo dựa trên đồ hình này mà hình
thành gọi là Vatsupurusa-mandala/Mạn-đà-la của hiện thể con người vũ tru [Minh
họa #1] (Kramrisch 1978: 46-50; Michell 1988: 71-3, fig. 28).Minh họa #1: Con người vũ trụ/mahapurusha trong bố cục
hình vuông thể hiện mandala của ngôi đền Hindu. (Theo George
Michell 1988, The Hindu Temple.) [9] Cái vòi của yoni hay snàna-droni phải
luôn luôn được đặt xoay về phương bắc, dầu cho ngôi đền trổ cửa chính về
hướng đông hay tây, vì, theo triết thuyết Ấn độ giáo, mỗi phương được quy định
vào một trong năm nguyên tố hay ngũ đại để cấu thành vũ trụ là đất, lửa, nước,
gió, chân không/địa, hỏa, thủy, phong, không. Theo đó, trung tâm thuộc
về chân không; phương đông thuộc gió; phương tây thuộc đất; phương nam thuộc lửa;
phương bắc thuộc nước. Vì thế, cái vòi để thoát nước thiêng của yoni/snàna-droni phải
luôn luôn được đặt xoay về phương bắc là phương thuộc nguyên tố nước (Lobo
1992: 178-9, cat. 114; Kreisel 1987: 46-7; Kramrisch 1981: 183).[10] Những trường hợp các mặt tường
bên trong ngôi đền được đục khoét lởm chởm, thô nhám cho giống một hang động rất
phổ biến trong kiến trúc Ấn Độ giáo (Michell 1988: 69-70). Rất tiếc, trong thời
gian gần đây, do thiếu kiến thức về kiến trúc cổ Champa nên một số đền-tháp đã
bị các cơ quan có thẩm quyền trong khi gia cố hoặc trùng tu các di tích Champa
cho xây kín phần tường trong lòng tháp bằng gạch và xi măng, vì họ lầm tưởng rằng
những phần đục khoét trên tường bên trong tháp là những phần bị huỷ hoại bởi thời
gian hoặc bởi con người. Những trường hợp này có thể thấy ở các tháp Bình Lâm,
Thốc Lốc, Thủ Thiện tại tỉnh Bình Định (Tư liệu điền dã của tác giả, 2001-5).[11] Theo quy ước của Ấn Độ giáo,
trong đền thờ, màu trắng được xử dụng bởi tập cấp tăng lữ Bà-la-môn (Brahmanas);
màu đỏ được xử dụng bởi tập cấp chiến sĩ quý tộc (Kshatryas); còn màu vàng
và màu đen được xử dụng bởi các tập cấp thấp như thợ thủ công (Vaishyas) hoặc
hạ tiện (Shudras) (Michell 1988: 78).[12] Theo quan niệm kiến trúc Ấn Độ
giáo, hình vuông của Bình đồ/mặt bằng ngôi đền tượng trưng cho sự chuẩn mực về
kích thước của vũ trụ và con người. Bố cục Bình đồ hình vuông của ngôi đền
là một mandala chứa đựng vừa vặn hình thể con người vũ trụ (mahapurusa);
cũng vậy, số đo từ đỉnh đầu đến gót chân thì bằng với số đo hai tay dang thẳng
của một con người bình thường, hai số đo này tạo thành một hình vuông. Vì ngọn
núi Meru mọc lên từ một cái nền vuông nên mỗi tập cấp trong xã hội Ấn
Độ thuộc về một cạnh của ngọn núi thiêng này; do đó, mỗi tập cấp đều được quy định
vị trí của mình ở nơi cư trú trong phố phường hay trong làng mạc; chẳng hạn, tập
cấp Brahmanas thuộc hướng đông, tập cấp Kshatriyas thuộc hướng
bắc, tập cấp Vaishyas thuộc hướng nam và tập cấp Shudra thuộc
hướng tây (Kramrisch 1976: 40-3).[13] Bình đồ của đền-tháp Champa có
thể đã nhận ảnh hưởng từ kiến trúc miền Nam Ấn Độ thời Pallavan, đặc biệt,
khu đền Mahabalipuram, thế kỷ 7-8 (Stern 1942: planche 11; Tadgell 1990:
74-83).[14] Có thể giải thích rằng bố cục đối
xứng của hai ngôi tháp B5 và B6 mang hai yếu tố lửa-nước của nhóm
tháp B tượng trưng cho xu hướng thờ lưỡng phân-lưỡng hợp: đực- cái/trống mái…,
đã từng xuất hiện trong nghệ thuật Champa cũng như khá phổ biến trong tín ngưỡng
của của người Chăm hiện đại và của cư dân vùng Đông Nam Á (Tran Ky Phuong et
al. 2008; Nakamura 2009: 78-106). [15] Dựa theo những kết quả mới nhất
được thực hiện tại phòng thí nghiệm của Học viện Politecnico of Milan,
Milan, Italy (Binda et al. 2009: 299-301).[16] Việc xử dụng dầu Rái trong kỹ
thuật xây dựng đền-tháp của cư dân Chàm đã được tìm thấy tại di tích Pô Ramê. Tại
nhóm tháp này, dầu Rái được trộn chung với vôi nhuyễn thể với tỷ lượng
40% dầu Rái và 60% vôi nghêu sò, tạo thành một mạch vữa
để kết dính những viên gạch lại với nhau (mạch vữa dày và rất thô); nhưng, có
thể đây là một kỹ thuật rất muộn vì nhóm tháp Pô Ramê được xây vào khoảng thế kỷ
16-17; và chúng đã được trùng tu nhiều lần bởi các vương triều cuối
cùng của châu Panduranga tại vùng này, cho nên, kỹ thuật sử dụng dầu Rái tại
nhóm tháp này có thể đã biến đổi cho phù hợp với những điều kiện đương thời.
Ngoài ra, cũng có những tác giả nêu giả thuyết rằng cư dân Chàm xưa kia dùng nhớt
của cây Ô Dước để kết dính các viên gạch lại với nhau trong khi xây tháp (Viện
Khoa Học Công Nghệ Xây Dựng 1999: 4-7, 13-5).[17] Hầu hết đền-tháp Champa hiện tồn
đều đã trải qua nhiều lần tu bổ bởi các vương triều Champa xưa kia. Đặc biệt,
những khu đền ở miền Nam vương quốc như Pô Nagar Nha Trang, Pô Kloong
Garai, Pô Ramê, đều được thờ phượng, chăm sóc và tu bổ bởi hoàng gia, cho
đến đầu thế kỷ thứ 19, là khi những vương triều cuối cùng của châu Panduranga
còn tồn tại nơi đây. Điều đó đã giải thích tại sao nhiều ngôi đền được dựng
cùng thời như những công trình ở miền Bắc vương quốc đều đã bị hư hại rất nặng
trong khi những ngôi đền ở miền Nam lại có tình trạng tốt hơn; ngoại trừ nhóm
ba kalan Hòa Lai là bị hư phế vì người Chăm ở địa phương cho rằng khu
đền này là của người Khmer nên không thờ phượng tại đây.[18] Tháp Mỹ Khánh, nằm trên một bãi
biển cách mực nước chừng 120 mét, thuộc thôn Mỹ Khánh, xã Phú Diên, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế, phát hiện vào tháng 4-2001 (Trịnh Nam Hải 2001:
72-83); còn tháp Hòn Chuông/Hòn Bà hay tháp Bà Chằng, nằm trên đỉnh núi Bà, cao
727 mét, thuộc thôn Chánh Danh, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, phát
hiện vào đầu năm 2000 (Lê Vân 2000).[19] Dựa trên những giòng sông và cảng-thị
này các tiểu vương quốc được thành lập, vì, vương quốc Champa được xem xét là một
liên minh bao gồm nhiều tiểu vương quốc còn gọi là mô hình mandala. Mỗi
tiểu vương quốc trong mandala Champa, có hệ thống kinh tế, chính trị,
quân sự độc lập, được cai quản bởi các tiểu vương; đôi khi, vị vua hùng mạnh và
giàu có nhất trong mandala xưng là rajadhirajas hay vua của các vua.
Đây là mô hình [các]vương quốc phổ biến ở vùng Đông Nam Á đương thời. Hiện nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Champa theo mô hình này (Nakamura
1999: 58-62; Momoki 2011: 120-37; Vickery 2011: 363-77).[20] Trên những ngọn núi thiêng thường
có thờ một bộ yoni-linga bằng đá như đã được phát hiện tại ngọn
Núi Thiêng Phu Kao/Lingaparvata thuộc di tích Vat Phu ở Champàsak thuộc
miền Hạ Lào (Guy 2005: 143-44); hoặc linga trên núi Chà Ban ở Ninh
Thuận, hiện nay vẫn được đồng bào người Chăm ở địa phương thuộc các làng Văn
Lâm, Thành Tín, Bầu Trúc huyện Ninh Phước lên lễ tế hằng năm (bộ linga trên
núi Chà Ban được phục chế và hiện trưng bày tại Trung tâm Văn hóa Chăm, Phan
Rang); hoặc chính tảng đá tự nhiên trên đỉnh núi được sùng bái như một linga,
đó là trường hợp ngọn núi Đá Bia trên Đèo Cả (Phú Yên), mà cổ sử gọi là
Lăng-già-bát-bạt-đa/Lingaparvata. Những ngọn núi thiêng trong vương quốc Chiêm
Thành có thể được nhận biết với những hình dạng như sau: (1) ngọn núi có hình
dáng lạ như núi Mahaparvata/Hòn Đền Núi Chúa tại Mỹ Sơn (Quảng Nam); (2)
ngọn núi lớn đứng độc lập giữa bình nguyên như núi Mò O/Maha ở huyện An Nhơn
(Bình Định); (3) ngọn núi có tảng đá lớn tượng trưng cho linga như
núi Đá Bia trên Đèo Cả (Phú Yên); (4) ngọn núi có truyền thuyết như núi Đại
An ở huyện Diên Khánh (Khánh Hoà), tương truyền là nơi giáng trần của bà
Thiên-y-a-na/Yang Inư Pô Nagara; (5) ngọn núi cao nhất trong một dãy núi thường
được dân chúng gọi là núi Chúa như núi Kim Phụng ở Thừa Thiên-Huế, núi Tá
Linh Sơn ở Quảng Trị, v.v... Trần Quốc Vượng đã có một nhận xét rằng: ‘Ở
miền Trung, từng vùng đều có “núi Chúa” tên chữ là “ Chủ Sơn”. Đó là ngọn
núi cao đột khởi, thuyền bè ở ngoài khơi biển Đông, có thể gióng theo đỉnh núi
đó để vào bờ bến an toàn. Núi ấy ví như núi Kim Phụng ở Huế-đã được “thiêng
hóa” (linh sơn) và đã được đưa vào Tự điển để thờ‘ (Trần Quốc Vượng 1999:
29). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng sùng kính những ngọn núi
thiêng là một sáng tạo của văn hoá bản địa Đông Nam Á trong tiếp xúc với văn
minh Ân Độ. Đó là một kết hợp giữa tín ngưỡng thờ những tảng đá lớn hay
Megalithic, là nơi cư trú của linh hồn tổ tiên, từ thời đại đá mới của cư dân
Đông Nam Á với ngọn núi thiêng Meru trong thần thoại Ấn Độ giáo (Uka 1992:
229-33).[21] Đó là trường hợp của ngọn đồi thấp
mà nhóm tháp Mỹ Sơn G tọa lạc, minh văn của vua Jaya Harivarman (1157) gọi ngọn
đồi này là núi Vugvan nơi thờ đấng thần-vua/devaraja Srisanabhadresvara.
Theo Stern, tục xây dựng đền-tháp trên một ngọn đồi độc lập để thờ linga của
hoàng gia hay đấng thần-vua trong nghệ thuật Champa vào những thế kỷ này là do ảnh
hưởng kiến trúc đền-núi của nghệ thuật Khmer (Stern 1942: 105-7). Về quá trình chuyển hóa của kiến trúc đền-tháp Champa Quá trình chuyển hóa của kiến trúc đền-tháp Champa, có thể được
sắp xếp thành bốn giai đoạn tiêu biểu như sau. Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn của những kiến trúc Ấn
Độ giáo từ thế kỷ thứ 7 đến thứ 8 được xây dựng chủ yếu tại miền Bắc vương quốc.
Theo bi ký, những kiến trúc bằng gạch đã được xây dựng ở Mỹ Sơn vào khoảng thế
kỷ thứ 7/8. Tuy nhiên, chúng ta chỉ biết rằng ngôi đền Mỹ Sơn E1 đã được xây với
tường gạch rất thấp, có bốn đế cột bằng sa thạch để đỡ bốn cột trụ bằng gỗ đặt ở
bốn góc trong lòng tháp; vì ngôi đền này không có tường cao bọc kín chung quanh
nên không có cửa giả; ở cửa chính có hai trụ cửa tròn và một mi cửa (fronton) lớn
bằng sa thạch, có lẽ, chúng được chống đỡ bằng một khung cửa gỗ rất dày; khung
sườn mái tháp bằng gỗ và ngói bằng đất nung hoặc bằng gỗ; kỹ thuật xây
mái bằng vòm-giật-cấp/corbel có thể chưa được xử lý trong giai đọan
này. Ngôi đền quan trọng Mỹ Sơn E1 đã bảo lưu kiểu thức xưa nhất của những công
trình tôn giáo bằng gỗ vào thời kỳ đầu của các vương triều Champa như từng được
nhắc đến nhiều lần trong minh văn Chàm. Kiểu thức ngôi đền gỗ này trong tiếng
Chăm hiện đại gọi là ‘janùk’. Giai đoạn kiến trúc này còn được gọi là
giai đoạn ngôi-đền-có-không-gian-mở (Trần Kỳ Phương 2011: 283; 2008b: 61-7)
[Minh họa #3] Minh họa #3: Cấu trúc khung gỗ (janùk) của ngôi đền Mỹ
Sơn E1, khoảng đầu thế kỷ thứ 8, tiêu biểu cho kiểu thức ngôi-đền-không-gian-mở
trong giai đoạn sớm của kiến trúc Chàm. (Theo Trần Kỳ Phương, Oyama Akiko
& Shine Toshihiko (eds.), 2005. Nhà Trưng Bày Mỹ Sơn, Việt Nam).Giai đoạn thứ hai, từ giữa thế kỷ 8 đến giữa thế kỷ
9. Trong thời kỳ này, những kiến trúc Ấn Độ giáo bằng gạch có kích thước khiêm
tốn với mái tháp được xây bằng bằng kỹ thuật vòm-giật-cấp/corbel được
dựng rải rác khắp vương quốc ở cả hai miền Nam và Bắc cho đến khoảng cuối thế kỷ
thứ 8; chẳng hạn, ngôi đền chính của nhóm tháp Phú Hài với những trụ-áp-tường
hình tròn tương tự kiểu hai cột cửa của tháp Mỹ Sơn E1 nhưng lại bằng gạch và
đã xuất hiện cửa giả trên tháp. Đặc biệt, những kiến trúc ở Mỹ Sơn bắt đầu được
tạo dựng bề thế hơn để xứng đáng với tầm vóc của một thánh đô của vương quyền ở
miền Bắc vương quốc với những ngôi đền như A’1, A’3, F1, F3, C7 cùng với ngôi đền
quan trọng C1 trước khi nó được trùng tu lại vào những thế kỷ sau này. Ở miền
Nam vương quốc phải kể đến những kiến trúc như Phú Hài, Pô Đam/Pô Tằm, Hòa Lai;
trong đó, nhóm ba tháp Hòa Lai là công trình gạch có kích thước lớn, chạm trổ cầu
kỳ, tạo nên ấn tượng. Ở giai đoạn này, các kiến trúc chủ yếu bằng gạch nhưng đã
bắt đầu xử dụng sa thạch một cách khiêm tốn trong một vài bộ phận, thường là để
trang trí. Những ảnh hưởng của nghệ thuật Phù Nam và Chân Lạp/thời Tiền Angkor
đã xuất hiện trên các bộ phận trang trí nhất là ở các tháp gạch tại miền Nam.
Giai đoạn kiến trúc này còn gọi là giai đoạn ngôi- đền-có-không-gian-kín (Trần
Kỳ Phương 2011: 291-6; 2008b: 67-9). [Minh họa #4]Minh họa #4: Kalan Mỹ Sơn A1, thế kỷ thứ 10, tiêu
biểu cho ngôi-đền-không-gian-kín áp dụng kỹ thuật vòm-giật-cấp (corbelling) thể
hiện kiểu thức ngôi đền-núi shikhara của kiến trúc Hindu. (Theo
Trần Kỳ Phương, 2008. Vestiges of Champa Civilization.)Giai đoạn thứ ba, kéo dài từ giữa thế kỷ 9 đến cuối thế
kỷ 10 thuộc vương trìều Indrapura bao gồm cả kiến trúc Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Thời kỳ này có nhiều mối quan hệ giữa vương quốc Champa và Java, được đánh dấu
bằng những chuyến hành hương tới Java (Yavadvipapura) của các vị thượng
quan trong triều đình Indrapura ở miền Bắc vương quốc năm 913 (Coedes 1968:
123). Đặt biệt, cũng tại miền Bắc vương quốc, nhiều công trình đồ sộ của Phật
giáo và Ấn Độ giáo được xây dựng với những phong cách mới; những kiến trúc có
tường bao bọc và mặt bằng hình chữ nhật được xử dụng rộng rãi. Sa thạch được
chú trọng trong việc xử dụng nhất là ở các bộ phận chịu lực. Đây là giai đoạn tổng
hợp được những yếu tố ảnh hưởng rộng từ những nền nghệ thuật bên ngoài như
Khmer, Java, Hoa Nam/Vân Nam. Ngôi đền Mỹ Sơn A1, được xây dựng vào nửa đầu thế
kỷ 10, là một kiệt tác của kiến trúc Champa cả về nghệ thuật trang trí cũng như
kỹ thuật cấu trúc, đánh đấu thời kỳ phát triển cường thịnh nhất của vương quốc
Champa (Trần et al. 2005a: 10-3). Giai đoạn thứ tư, khoảng từ thế kỷ 11 kéo dài đến thế kỷ
thứ 16, đây là giai đoạn bảo lưu và phát triển những kiểu thức cổ. Là giai đoạn
của những vương triều Ấn Độ giáo và Phật giáo muốn phô trương quyền lực của
mình qua những công trình kiến trúc bề thế. Nhiều ngôi đền có xu hướng dựng
trên những ngọn đồi cao gây ấn tượng hơn. Phong cách kiến trúc tổng hợp được
nhiều yếu tố ngoại lai trong trang trí cũng như trong kỹ thuật xây dựng, kiến tạo
được nhiều đền-tháp cao rộng hơn so với công trình của những giai đoạn trước.
Nhiều ngôi tháp trang trí bằng những trụ-áp-tường to lớn hơn nhưng không chạm
trổ hoa văn, bằng những vòm cuốn có nhiều lớp to nặng hơn. Sa thạch rất được ưa
chuộng và xử dụng phong phú, phổ biến ở các bộ phận trang trí và chịu lực, cho
thấy một kỹ thuật cấu trúc đã đạt tới trình độ tinh xảo khi kết hợp nhuần nhuyễn
được hai loại chất liệu- gạch và đá, có độ chịu lực và độ bền hoàn toàn khác
nhau trên cùng một công trình xây dựng. Phần nhiều đền-tháp được tập trung xây
dựng tại những trung tâm cảng-thị nơi có nhiều giao tiếp có tính chất quốc tế.
Những ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer xuất hiện trên những công trình được xây dựng
vào cuối thế kỷ 12-13. Vào khoảng cuối giai đoạn này, ở những thế kỷ 15-16, đền
thờ vẫn được xây trên đồi nhưng với kích thước khiêm tốn, trang trí giản lược
hơn, bộc lộ quá trình suy thoái của nền kiến trúc này. [Minh họa #6]Minh họa #6: Quá trình phát triển phức hợp đền-tháp của
nhóm Mỹ Sơn B-C-D qua ba thời kỳ kiến trúc: (1) khoảng thế kỷ thứ 7-8; (2) khoảng
thế kỷ thứ 9-10; (3) khoảng thế kỷ thứ 11-13. (Theo Trần Kỳ Phương &
Shige-eda Y. (eds.), 2005. Khu di tích Mỹ Sơn, Việt Nam.)Nhìn chung, kiến trúc đền-tháp Champa ngay từ thuở ban đầu đã
có những bước đi riêng biệt đầy cá tính ở cả hai miền của vương quốc. Trong suốt
quá trình chuyển hóa của nền kiến trúc này, nó đã tiếp nhận những ảnh hưởng, dù
trực tiếp hay gián tiếp, từ những nền kiến trúc lân cận trên bán đảo Đông Dương
như: Campuchia, Lào, Java, Đại Việt, Sri Dvaravati/Thái Lan, Nam Trung Hoa; và
xa hơn, có thể kể đến Miến Điện hay Vân Nam (Shige-eda 2001: 100-7). Về phân loại phong cách và niên đại kiến trúc đền-tháp
ChampaNgười tiên phong trong công cuộc nghiên cứu kiến trúc cổ
Champa chính là kiến trúc sư và nhà khảo cổ học người Pháp, Henri Parmentier.
Ông đã để lại những công trình đồ sộ và cơ bản về nền kiến trúc này được công bố
trong những thập kỷ đầu của thế kỷ trước (Parmentier 1909, 1918).Kế thừa những thành quả của Parmentier, từ năm 1942, Philippe
Stern, nhà lịch sử nghệ thuật, đã phân loại kiến trúc đền-tháp Champa theo từng
phong cách dựa trên sự chuyển hóa của nghệ thuật trang trí trên những bộ phận
kiến trúc như: vòm cuốn, trụ cửa, trụ-áp-tường, vật-trang-trí-góc. Dựa trên sự
tiến hoá của các kiểu thức trang trí của từng di tích tiêu biểu, Stern đề xuất
một bảng phân loại các kiến trúc Chàm theo sáu phong cách sau: (1) Phong cách cổ
hay Phong cách Mỹ Sơn E1; (2) Phong cách Hoà Lai; (3) Phong cách Đồng Dương;
(4) Phong cách Mỹ Sơn A1; (5) Phong cách chuyển tiếp giữa Phong cách Mỹ Sơn A1
và Phong cách Bình Định; (6) Phong cách muộn (Stern 1942). Hầu hết các nhà
nghiên cứu nghệ thuật Champa tại Việt Nam đều đã từng áp dụng cách phân loại
theo phong cách của Stern trong các công trình của họ (Trần Kỳ Phương 1988; Ngô
Văn Doanh 1994; Nguyễn Hồng Kiên 2000).Gần đây, từ năm 1994, nhà lịch sử kiến trúc Nhật Bản, Shige-eda
Yutaka đã phân loại và trình bày sự chuyển hoá của kiến trúc Champa dựa trên bố
cục bình đồ/mặt bằng của kiến trúc đền-tháp; và ông đã phân nhóm kiến trúc
Champa dựa vào vị trí địa lý và những biến cố lịch sử. Shige-eda đã xếp những
kiến trúc đền-tháp Champa còn đứng vững thành sáu nhóm như sau: (1) Nhóm Mỹ
Sơn; (2) Nhóm kiến trúc Quảng Nam; (3) Nhóm kiến trúc Bình Định; (4) Nhóm Pô
Nagar Nha Trang; (5) Nhóm Phú Hài; (6) Nhóm kiến trúc muộn (Shige-eda et
al. 1994: 99-100). [Minh họa #8]Minh họa #8: Bố cục nhóm tháp Pô Nagar Nha Trang, thế kỷ
thứ 8-13; cùng với Mỹ Sơn là hai thánh địa lớn nhất của hoàng gia Champa, được
xây dựng qua nhiều thời kỳ kiến trúc. (Theo Trần Kỳ Phương & Shige-eda
Y., 1997. Champà Iseki [Di Tích Champà].)Kết quả của hai cách phân loại theo Stern và Shige-eda đã có
những yếu tố tương đối bổ sung cho nhau và nêu lên được một bảng niên đại chung
nhưng cũng chỉ mang tính tương đối chính xác cho từng công trình kiến trúc đền-tháp
Champa. Như đã trình bày ở trên, những đền-tháp Champa hiện còn đứng vững đều
đã trải qua nhiều lần trùng tu trong suốt nhiều thế kỷ bởi các vương triều cổ;
và, trong khi trùng tu hoặc xây dựng mới các nơi thờ tự, người Chàm xưa kia có
truyền thống xử dụng lại các vật liệu của những công trình trước đó; thậm chí,
còn tái xử dụng nhiều yếu tố, bộ phận và hoa văn trang trí từ các kiến trúc cũ;
nhiều ngôi đền mới được dựng ngay trên nền của các ngôi tháp cũ[1].
Vì vậy, việc đoán định niên đại cho từng di tích một là một công việc không dễ
dàng. Tuy nhiên, bằng vào kết quả các công trình nghiên cứu của
Stern, dựa theo các đặc điểm của kiểu thức hoa văn trang trí; và của Shige-eda,
dựa theo bình đồ kiến trúc; cùng với sự phân tích kỹ thuật xây dựng và cấu trúc
của từng giai đoạn kiến trúc tại từng di tích một; đồng thời, dựa trên những
minh văn có liên quan đến các di tích và so sánh với những biến cố lịch sử có
liên quan đến sự hưng vong của các vương triều Champa. Chúng tôi đã có thể
sắp xếp các phế tích đền-tháp Champa theo từng nhóm kiến trúc, theo sự phát triển
kỹ thuật xây dựng đền-tháp tại các di tích lớn và theo từng vùng địa lý, như
Shige-eda đã đề xuất, bổ sung thêm những nhóm kiến trúc của từng vùng, rồi nhận
định niên đại cho từng công trình một, như sau[2]: Bảng sắp xếp nhóm kiến trúc và niên đại các di tích Champa:
Tên nhóm kiến trúc |
Tên di tích |
Niên đại |
Địa điểm |
Nhóm phía Bắc/ Tiểu quốc (?) Ulik (Ô-Lý) |
Mỹ Khánh |
Đầu t.k. 8 |
Phú Diên, Phú Vang, Thừa Thiên-Huế |
|
Hà Trung |
Đầu t.k. 10 và tu bổ về sau |
Gio An, Gio Linh, Quảng Trị |
|
Linh Thái |
T.k. 11-13 |
Vinh Hiền, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế |
|
Liễu Cốc |
T.k. 11-12 |
Hương Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên-Huế |
Nhóm Mỹ Sơn/ Tiểu quốc (?) Amaravati |
Mỹ Sơn A1 |
Đầu t.k. 10 (trước 982/3) |
Duy Phú, Duy Xuyên, Quảng Nam |
|
Mỹ Sơn A10 |
Giữa t.k. 9 (khoảng 875) |
|
|
Mỹ Sơn A13 |
Đầu t.k. 9 (trước 875) |
|
|
Mỹ Sơn B1 |
Cuối t.k. 11 (khoảng 1074/81) và t.k. 13 (khoảng 1234/5) |
|
|
Mỹ Sơn B2 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn B3 |
Giữa t.k. 10 (trước 982/3) |
|
|
Mỹ Sơn B4 |
Giữa t.k. 9 (khoảng 875) |
|
|
Mỹ Sơn B5 |
Đầu t.k. 10 (trước 982/3) |
|
|
Mỹ Sơn B6 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn B7 |
Giữa t.k. 10 |
|
|
Mỹ Sơn B14 |
Giữa t.k. 7 (?) (khoảng 658?) |
|
|
Mỹ Sơn C1 |
Cuối t.k. 8 và cuối t.k. 11 |
|
|
Mỹ Sơn C2 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn C3 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn C4 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn C5 |
Giữa t.k. 10 |
|
|
Mỹ Sơn C6 |
Giữa t.k. 9 |
|
|
Mỹ Sơn C7 |
Đầu t.k. 8 và tu bổ về sau |
|
|
Mỹ Sơn D1 |
Đầu t.k. 10 (trước 982/3) |
|
|
Mỹ Sơn D2 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn E1 |
Đầu t.k. 8 và tu bổ về sau |
|
|
Mỹ Sơn E7 |
Cuối t.k. 11-12 |
|
|
Mỹ Sơn F1 |
Cuối t.k. 8 và tu bổ về sau |
|
|
Mỹ Sơn F2 |
Giữa t.k. 10 |
|
|
Mỹ Sơn G |
Giữa t.k. 12 (1157/8) |
|
|
Mỹ Sơn H |
Đầu t.k. 13 (khoảng 1234/5) |
|
|
Mỹ Sơn K |
Cuối t.k. 11-12 |
|
Nhóm Quảng Nam/ Tiểu quốc (?) Amaravati |
Đồng Dương |
Cuối t.k. 9 (khoảng 875) |
Bình Định, Thăng Bình, Quảng Nam |
|
Khương Mỹ |
Đầu t.k. 10 và tu bổ về sau (khoảng cuối t.k. 11- giữa t.k. 12) |
Tam Xuân, Núi Thành, Quảng Nam |
|
Chiên Đàn |
Cuối t.k. 11- giữa t.k. 12 (khoảng 1074/81 và khoảng 1157/8) |
Tam An, Tam Kỳ, Quảng Nam |
|
Bằng An |
Khoảng t.k. 12 |
Điện An, Điện Bàn, Quảng Nam |
Nhóm Bình Định/ Tiểu quốc (?) Vijaya |
Dương Long |
Cuối t.k. 12- đầu t.k. 13 và tu bổ về sau vào t.k. 14-15 (trước 1471) |
Bình Hòa, Tây Sơn, Bình Định |
|
Hưng Thạnh/Tháp Đôi |
Cuối t.k. 12- đầu t.k. 13 |
Đống Đa, Quy Nhơn, Bình Định |
|
Cánh Tiên |
Cuối t.k. 13-t.k. 14/15 |
Nhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định |
|
Thốc Lốc/Phú Lốc |
Cuối t.k. 13-14 |
Bình Nghi, Tây Sơn, Bình Định |
|
Thủ Thiện |
Cuối t.k. 13-14 |
Bình Nghi, Tây Sơn, Bình Định |
|
Bình Lâm |
Đầu t. k. 11 (khoảng 1000) |
Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định |
|
Bánh Ít/ Tháp Bạc |
Đầu t.k. 11 (khoảng 1000) và tu bổ về sau |
Phước Hiệp, Tuy Phước, Bình Định |
Nhóm Pô Nagar Nha Trang/Tiểu quốc (?) Kauthara |
Pô Nagar Nha Trang (Tháp Tây-Bắc) |
Giữa t.k. 10 |
Xóm Bóng, Nha Trang, Khánh Hòa |
|
Pô Nagar Nha Trang (Tháp Chính/Kalan) |
Giữa t.k. 11 (khoảng 1050) và t.k. 12 |
|
|
Pô Nagar Nha Trang (Tháp Nam) |
T.k. 12-13 |
|
|
Tháp Nhạn |
Khoảng t.k. 11-12 |
Tuy Hòa, Phú Yên |
Nhóm Hòa Lai/ Tiểu quốc (?) Panduranga |
Hòa Lai |
Cuối t.k. 8- đầu t.k. 9 |
Tân Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận |
|
Phú Hài |
Giữa t.k. 8- đầu t.k. 9 |
Phú Hài, Phan Thiết, Bình Thuận |
|
Pô Đàm/Pô Tằm |
T.k. 8 |
Phong Phú, Tuy Phong, Bình Thuận |
Khu Pô Klaung Garai |
Pô Klaung Garai |
T.k. 13-14 |
Lưu Vinh, Phan Rang-Tháp Chàm, Ninh Thuận |
Nhóm tháp muộn |
Yang Prong |
T.k. 14-15 |
Ea Rốc, Ea Súp, Đắc Lắc |
|
Pô Ramê |
T.k. 15-16/17 và tu bổ đến t.k. 19 |
Hữu Đức, Ninh Phước, Ninh Thuận |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét