Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2022

Bên dòng sông Trẹm 1

Bên dòng sông Trẹm 1

Chương 1

Thới Bình, một làng quê trù phú của quận Cà Mau và nằm cạnh con sông Trèm Trẹm, muôn đời uể oải trôi với dòng nước đỏ một màu máu của miền “rừng U Minh” đổ xuống.
Dưới thời Pháp thuộc, Thới Bình là một làng sầm uất, dân cư đông đảo. Nhưng cũng như bao nhiêu làng quê Việt Nam khác, Thới Bình thôn thơ mộng, thanh bình bị chiến tranh tàn phá đến ngày nay. Khi tiếng súng đã ngưng, Thới Bình mới thật sự sống trong cảnh thời bình. Dân làng nô nức xây dựng lại những gì đã bị chiến tranh tàn phá bao năm qua và hăng hái bắt tay vào công việc. Sự hoạt động bắt đầu.
Dịp này, Thới Bình tiếp rước một nhóm người thành thị từ Cà Mau, Giá Rai, Bạc Liêu đổ xuống để thử thời vận. Trong số người đi làm ăn xa này, bà Triệu Phú là người đầu tiên đặt chân lên chợ Thới Bình.
Bà Triệu Phú, tên thật là Trần Sương Mai, con gái út của một địa chủ ở Vĩnh Mỹ đã qua đời. Bà kết hôn với ông Triệu Phú, một đại thương gia và một tay chạy việc bực nhứt ở quân châu thành Bạc Liêu. Ông Triệu Phú số phận ngắn ngủi, qua đời trong một chuyến đi làm ăn xa ở Vạn Tượng vào năm 1947, để lại cho vợ một đứa con trai 17 tuổi là cậu Triệu Vĩ đang học ban Tú tài toàn phần ở Pháp năm đó.
Bà Sương Mai góa chồng từ đó. Bà không chịu tái giá, ở một mình nuôi con và cai quản cái sản nghiệp kếch sù của chồng để lại. Năm nay bà đã năm mươi tuổi nhưng chí hoạt động vẫn còn hăng say.
Bà Triệu Phú, người hiền hậu, biết thương kẻ nghèo khốn, nhưng vô tình bà lại trở thành tàn ác, khắt khe vì tâm tính yếu đuối và đầu óc phong kiến còn chứa chấp những tư tưởng cũ rích của những thế hệ xa lắc xa lơ nào. Dù sao bà Triệu Phú cũng là kẻ đáng thương chớ không đáng trách, vì bà chỉ là một trong những người còn sót lại của cái xã hội cũ mục nát nó đã đào tạo bà và giáo huấn bà.
Đặt chân lên chợ Thới Bình, công việc trước nhứt của bà Triệu Phú là tạo một ngôi nhà sàn vách ván rộng rãi nằm cạnh rạch Bà Đanh, cách bờ sông Trẹm chừng 200 thước, để làm chỗ trú ngụ nhứt định cho gia quyến bà.

Xong xuôi công việc nhà cửa, bà vãi tiền ra xây cất một nhà máy xay lúa gạo, một trại cưa dùng vào việc đóng ghe xuồng, và nhiều xưởng dệt. Hầu hết thanh niên trai tráng và phụ nữ trong làng đều kéo đến làm công cho bà.
Làng Thới Bình chuyển sang cách hoạt động mới mẻ. Suốt ngày từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, tiếng máy rầm rầm, tiếng lưỡi cưa nghiến gỗ vang lên không ngớt, tạo nên một âm thành hỗn loạn nhưng rất vui tai.
Hàng trăm nhân công đem mồ hôi, lấy sức vóc ra đổi miếng cơm manh áo và để làm giàu thêm cho bà Triệu Phú. Tất cả số nhân công đông đảo này đều đặt dưới quyền cai quản của Năm Hương, tên quản gia trung thành của bà Triệu Phú. Nói đến Năm Hương tức là nói đến hạng quản lý, thầy xếp, cặp rằng rất nịnh bợ chủ và rất ác độc đối với lao động.
Năm Hương xuất thân là một tên cặp rằng nhỏ ở đồn điền cao su Quản Lợi. Bản tính lưu manh, ba xạo dâm đãng, gã có đủ mọi tật xấu. Làm việc chẳng bao lâu gã bị viên cặp rằng chánh tống ra khỏi đồn điền vì gã đòi “tiền nước” của một số phu mới làm và còn định hãm hiếp con gái của một lão chuyên nghề lấy mủ cao su.
Thất nghiệp nhưng thời may Năm Hương gặp gỡ ông Triệu Phú. Với tính luồn cúi, nịnh bợ có sẵn, Năm Hương chiếm được cảm tình của ông Triệu Phú ngay.
Đã có nhiều kinh nghiệm trong trường đời, Năm Hương lần nầy giấu kín những tật xấu đê hèn của mình. Gã gắng sức làm việc, tỏ ra là người có năng lực. Chẳng bao lâu Năm Hương nghiễm nhiên trở thành cánh tay mặt của ông Triệu Phú và ngày nay là người quản gia tin cậy của bà Sương Mai và cai quản gần trăm lao động.
Năm Hương giở ngay thủ đoạn bất lương, đạp đổ, áp bức và bộc lộ rõ rệt những tánh xấu của gã. Gã đối đãi với thầy thợ bằng một cách sắt đá, bạc ác. Hầu hết người trong sở đều ghét thù gã, chỉ trừ vài kẻ nịnh bợ về hùa với gã để nương dựa thế lực.
Những tiếng kêu rên, hờn oán của anh chị em thầy thợ không lọt đến tai bà Triệu Phú. Vả lại, bà Triệu Phú hoàn toàn tin cậy ở Năm Hương và giao tất cả công việc cho gã. Và công việc vẫn chạy mạnh như thường. Bà Triệu Phú chỉ lo sổ sách và xuất phát tiền bạc, còn ngoài ra bà không biết đến. Vì thế, Năm Hương mới làm mưa làm gió, gây ác cảm với thầy thợ.
Tuy đã 35 tuổi và mặc dù tính vốn dâm đãng, Năm Hương vẫn chưa có vợ con. Người ta cũng rất làm lạ về việc này. Người ta bàn tán lung tung nhưng vẫn không khám phá được bí mật của Năm Hương. Đến cả bà Triệu Phú, người sống gần Năm Hương lâu năm, cũng không rõ cuộc đời tình ái của gã.
Nhịp sống của Thới Bình thôn lặng lẽ xuôi một chiều êm ả cũng như dòng nước sông Trẹm lờ đờ trôi.
Hoàng hôn lần lần phủ khắp nơi. Những tia nắng của mặt trời vừa tắt hẳn ở chân mây. Nền trời trong vắt từ màu hồng đổi sang màu xanh lơ. Những áng mây giang hồ bập bềnh trôi không định hướng. Những bầy chim giang thẳng cánh bay hấp tấp trở về tổ ấm dệt thành nhiều hình linh động luôn luôn thay đổi.
Sức sống của làng Thới Bình lịm dần. Tất cả những thứ tiếng động ầm ĩ bắt đầu ngưng bặt.

Chợ chiều đã lặn từ lâu nhưng trên con đường nhỏ nằm dọc theo bờ sông quang cảnh vẫn còn nhộn nhịp. Các bà già, các thiếu phụ, các thiếu nữ lần lượt kéo nhau từ chợ về nhà, quang gánh kĩu kịt trên vai, miệng huyên thuyên bàn tán chuyện mua bán và giá hàng lên xuống.
Những bộ đồ vải đen thô sơ ngời lên trong bóng chiều đã tắt.
Những mái tóc dài bay phơ phất trong gió chiều nhẹ thổi.
Những đôi chân rảo bước thoăn thoắt trên mặt đường đất cứng gồ ghề. Những vành nón lá nghiêng nghiêng. Cả một đám người này dệt thành một hàng dài, đen sậm, trước còn nhiều, sau thưa dần rồi tản mác ra khắp nơi trong xóm.
Vào giờ này trên sông Trẹm náo nhiệt lạ thường. Mặt nước đang im lặng thình lình nổi sóng gió vì những chiếc xuồng buôn bán băng dọc, ngang, xuôi, ngược. Những mái chèo gỗ nhanh nhẹn quậy dòng sông làm nước văng tung tóe.
Ở bên đò chợ, chiếc tam bản chở đầy hành khách lướt băng băng sang bên kia bờ. Cô lái đò trẻ tuổi vừa đẩy mái chèo vừa tươi cười chuyện trò với khách quen thuộc.
Nhiều đám trẻ nít tụ tập ở bờ sông trửng giỡn reo hò ầm ĩ vang động cả một góc làng.
Xa hơn nữa, những cánh đồng bao la thẳng tắp chạy dài đến tận chân trời. Không nhằm mùa lúa, quang cảnh đồng ruộng có vẻ trầm lặng. Những bó rơm rạ nằm rải rác khắp mọi nơi trên mặt đất cứng nứt nẻ vì nắng cháy.
Một tốp thanh niên đi bắt cá ở vùng làng về sắp hàng dài theo bờ đê, chạy mút tận ngọn đồi cỏ. Vài gã mục đồng chưa về vội, lững thững cỡi trên lưng trâu và nghêu ngao hát những bài bát nên thơ của đồng quê Nam Việt.
Xa xa, những ngọn khói trắng xanh từ các nóc nhà tranh trong ấp cuồn cuộn tỏa rồi tan rã trong gió chiều càng lúc càng thổi mạnh. Những rặng cây xanh, xám ngắt lần lần, chứng tỏ khu rừng U Minh huyền bí sắp đắm mình trong bóng tối dạ thần...
Kỹ sư canh nông Triệu Vĩ, con trai bà Triệu Phú đứng dựa lan can trên gác phòng mắt nhìn bao quát khắp khung cảnh bao la của làng quê khi hoàng hôn rủ bóng.
Triệu Vĩ vươn vai hít một hơi dài không khí trong sạch của đồng ruộng. Tâm hồn chàng khoan khoái nhẹ lâng lâng, tự nhiên chàng chép miệng:
- Buổi chiều ở đồng quê thật đẹp! Chẳng gì đẹp hơn khung cảnh thiên nhiên!
Triệu Vĩ xoa hai tay vào nhau và vơ vẩn mỉm cười.
Triệu Vĩ đã đậu cấp bằng kỹ sư canh nông ở Pháp. Chàng đến Thới Bình thôn hai tháng rồi để phụ giúp mẹ già coi sóc công việc làm ăn.
Triệu Vĩ là một thanh niên trí thức ham hoạt động, tánh tình vui vẻ, hiền lương, nhân đức. Chàng có tình thương tất cả mọi người. Chàng khác hẳn với mẹ ở chỗ không phân biệt giai cấp. Chàng có tư tưởng tiến bộ. Luôn tỏ ra thân mật và hết lòng giúp đỡ những gia đình bần hàn gặp hoàn cảnh quẫn bách.
Chàng thích giao thiệp vui đùa với anh em lao động, nông dân hơn là với người trưởng giả. Tánh vốn ưa tìm những cách sống và tâm tư của mọi hạng người nên Triệu Vĩ hiểu thấu đáo tất cả. Chàng nhận thấy người nghèo khó có nhiều tánh tình tốt đẹp hơn hạng người giàu sang.
Khác hẳn với các thanh niên thời đại đang mải mê chạy đuổi theo danh lợi, tiền tài, sắc dục, Triệu Vĩ chỉ thích một đời sống giản dị giữa khung cảnh thiên nhiên của vũ trụ, bên cạnh những con người chất phác lam lũ, và cố gắng tìm hết mọi cách để giúp đỡ dân nghèo. Chàng ngán những cảnh tranh giành, đoạt lợi, xâu xé, giành giựt lẫn nhau của đám người sống quay cuồng trong gió bụi đô thành.
Vì thế, sau khi đậu xong bằng kỹ sư canh nông, Triệu Vĩ vội vã về Thới Bình thôn với hoài bão to tát. Chàng đã vạch sẵn một chương trình cải tạo đời sống của nông dân, khuếch trương nông nghiệp.
Chàng chỉ còn chờ lúc ra tay làm việc cho xứng đáng với cái bằng kỹ sư canh nông của chàng. Chàng nhứt định đi đúng quan niệm: “Học thành tài để giúp ích cho xã hội chớ chẳng phải để xây danh lợi”.
Suốt hai tháng trời Triệu Vĩ sống cạnh anh em nông dân, chàng đã hiểu được những ham muốn, những hy vọng của họ. Rồi chàng tự nhận thấy chàng còn một trách nhiệm quá to tát, quá nặng nề. Nhưng tâm hồn chàng luôn luôn thảnh thơi, trí óc chàng luôn luôn nhẹ nhàng.
Không khí của đồng quê làm dịu lòng người. Sống giữa nơi đây có lẽ những dục vọng đen tối của con người cũng giảm bớt. Người ta thấy yêu thương thiên nhiên, yêu thương nhân loại hơn là yêu thương những cám dỗ đê hèn của xã hội phù hoa.
Triệu Vĩ thu phục được cảm tình của anh em nông dân rất nhanh chóng. Họ ghét Năm Hương bao nhiêu thì thương mến Triệu Vĩ bấy nhiêu. Triệu Vĩ không khỏi mừng thầm khi thấy mình thành công quá dễ dàng bước đầu tiên.
Tánh tình của anh em nông dân rất giản dị. Yêu thương họ, giúp đỡ họ thì họ sẽ yêu thương và hết lòng với mình. Còn khắc nghiệt, bạc ác với họ, họ sẽ căm thù và cứng đầu. Tâm hồn họ dễ hiểu lắm, nhưng chỉ tại người ta không chịu hiểu đấy thôi.
Triệu Vĩ nhận thấy dòng sông Trẹm đỏ ngầu, những rặng cây xanh thẫm, những cánh đồng xa ngút mây ngàn, những thôn nữ hiền lành còn đẹp và thơ mộng gặp ngàn lần những tòa nhà cao ngất những đường phố huy hoàng, những thiếu nữ thành đô diêm dúa.
Lòng Triệu Vĩ đã thiên về đồng quê mất rồi. Ở đây chàng tìm được những cái mà ở kinh thành không bao giờ có được. Nhứt là về phương diện luân lý và đạo đức. Ở đây còn giữ được nguyên vẹn một phần nào những cái tốt đẹp của nền văn minh Á Đông cổ truyền còn sót lại.
Ở đây người ta không lạm dụng danh từ văn minh để mà dầy bừa tất cả những cái gì tốt đẹp của tổ tiên để lại. Ở đây người ta không thu nhận những món hàng văn minh nhập cảng của ngoại quốc một cách mù quáng điên rồ. Ở đây người ta biết lọc lừa những cái đáng giữ lại và những cái đáng vất bỏ.
Tuy ở Thới Bình thôn chưa được bao lâu nhưng Triệu Vĩ đã yêu say đắm nó, yêu cũng như chàng đã yêu cô gái quê Mỹ Lan suốt tháng trời nay. Lạ thật, chàng trai học thức của kinh kỳ đã từng gặp không biết bao nhiêu bóng sắc kiều diễm, thế mà chàng lại si tình một thôn nữ.
Mỹ Lan, cô gái quê của Thới Bình thôn... Người thôn nữ có gương mặt tròn trắng trẻo, đôi mắt đen long lanh sáng biểu lộ sự thông minh tiềm tàng: đôi má mịn màng hơi ửng hồng, đôi môi đỏ ướt lúc nào cũng như sẵn sàng để nở những nụ cười dịu hiền bác ái. Mỹ Lan đẹp lắm, một vẻ đẹp thiên nhiên đóng khung trong sự thùy mị và dịu dàng.
Sanh đẻ và lớn lên giữa lũy tre xanh và những con người chất phác, tâm hồn Mỹ Lan chân thật và giản dị. Đầu óc nàng không xây những ảo vọng. Nàng tin tưởng ở định mệnh và sống trong khuôn khổ nhứt định của tập quán và phong tục Á Đông.
Mỹ Lan có theo học đến lớp nhứt ở trường chợ quận Cà Mau, nhưng cái văn minh thành thị ở vùng đó vẫn không chi phối được tâm hồn và tâm tính nàng.
Thôn nữ vẫn hoàn thôn nữ. Qua mấy năm trời chiến tranh, Mỹ Lan và gia đình gồm có một cha già và một anh trai vẫn bám chặt lấy mảnh đất chôn nhau cắt rốn để nhìn những sự tang thương của đất nước.
Sau chiến tranh, mái tóc của Mỹ Lan xanh thêm, cũng như tâm trí nàng già thêm về sự hiểu biết.
Triệu Vĩ gặp gỡ Mỹ Lan. Hai người thông cảm nhau rồi yêu nhau say đắm, yêu thầm lén.
Nhớ đến Mỹ Lan, tự nhiên Triệu Vĩ sung sướng mỉm cười.

Gió ngoài trời thổi mát rượi. Chưa đến giờ dùng cơm. Triệu Vĩ chậm chạp bước xuống cầu thang. Chàng thả bách bộ dọc theo bờ sông vẩn vơ nhìn những chiếc xuồng con lướt băng băng theo dòng nước.
Trại cưa và trại đóng xuồng đã ngưng hoạt động. Nhiều tốp thợ lũ lượt kéo nhau về trò chuyện om sòm.
Triệu Vĩ bỗng nảy ra ý định đến thăm trại cưa.
Chàng vội rảo bước. Qua khỏi cửa chính, chàng nghe tiếng cãi lầy dữ dội tự trong vọng ra.
Ngạc nhiên, Triệu Vĩ hấp tấp đi đến chỗ đám đông đang tụ họp ở giữa trại. Chàng nghe tiếng Năm Hương sừng sộ:
- Anh không được nhiều lời, anh lãnh tiền của tôi anh phải vâng theo lời tôi chớ không được quyền cãi. Anh hiểu chứ?
Tiếng của người thợ đáp lại với giọng hậm hực:
- Tôi không hiểu gì hết, tôi chỉ hiểu lẽ phải thôi. Thầy không được phép bắt buộc tôi làm quá sức. Tôi là người cũng như thầy chớ phải là máy móc đâu. Tôi đã đem bán cái sức lao động của tôi, nhưng thầy cũng không được lạm dụng cái sức đó. Tôi là lao động, tôi hiểu rõ luật lao động và quyền lợi của lao động. Tôi không phải làm biếng nhưng sức tôi chỉ làm được tới đó thôi.
Năm Hương cười ác độc:
- Anh không theo ý tôi, tôi bớt lương anh. Nếu anh cãi lầy nữa tôi sẽ cho anh nghỉ việc... nghỉ việc rồi có mà chết đói giữa thời buổi này.
Anh thợ cưa vẫn to tiếng:
- Thầy phải trả lương đủ cho tôi! Thầy định bóc lột à? Thầy lầm rồi! Thầy vẫn còn mê ngủ? Thầy nên nhớ người dân lao động bây giờ không ngu như trước nữa đâu. Người lao động ngày nay biết đòi hỏi quyền lợi và biết chống lại những sự áp bức, bóc lột bất công, người lao động đã đem mồ hôi và nước mắt để làm giàu cho các thầy, các thầy không nên ăn cướp công khai cả đến mồ hôi và nước mắt đó. Chánh phủ đã ban hành luật lệ cho lao động hẳn hoi. Thầy có giỏi thì cứ xâm phạm đến.
Tiếng một anh thợ khác xen vào:
- Bóc lột sức của lao động là tàn nhẫn lắm thầy ơi! Thầy là người gì! Hình như thầy cũng là một lao động như chúng tôi, và chỉ khác chúng tôi ở chỗ, thầy là lao công trí óc, còn chúng tôi là lao công sức lực. Là lao công với nhau đáng lý thầy phải bênh vực chúng tôi mới là phải, chúng tôi làm mướn, thầy cũng làm mướn kia mà.
Thêm một anh thứ ba với giọng mỉa mai:
- Sau chiến tranh, con người lao động đã đổi khác nhiều. Thầy đừng nên cố cản trở bánh xe tiến hóa của giới lao công.
Năm Hương giận quá hét to:
- Tôi không cần các anh dạy khôn tôi! Mấy anh làm nhiều, tôi trả lương nhiều; mấy anh làm ít, tôi trả lương ít. Ai muốn phản đối thì hãy ra khỏi trại cưa này.
Đám thợ đứng dậy vây quanh Năm Hương đồng thanh nhao nhao lên:
- Chúng tôi phản đối tất cả!
Năm Hương đã núng chí nhưng còn ráng làm oai:
- Mấy anh cứng đầu hở!?
Cả đám thợ la ầm lên:
- Chúng tôi cứng đầu trong lẽ phải!... Yêu cầu thầy hãy dùng lẽ phải mà đối đãi với chúng tôi!.
Thấy tình thế đã đến mức nghiêm trọng, Triệu Vĩ vội lướt tới và nói lớn:
- Anh em đừng chộn rộn! Chuyện gì đấy?
Thấy Triệu Vĩ, đám thợ đang im lặng vì bình nhựt họ rất yêu mến và kính nể chàng. Họ đứng vẹt hai bên nhường chỗ cho Triệu Vĩ và mừng rỡ reo to:
- A!... Cậu Hai! Cậu Hai... mới đến!...
Chạm mặt với Triệu Vĩ, Năm Hương hơi xụ mặt nhưng cũng gượng tươi cười chào hỏi:
- Cậu Hai mới đến?
Triệu Vĩ khẽ gật đầu, chàng rảo mắt nhìn quanh đám thợ và khoan thai hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra giữa anh em và Năm Hương vừa rồi.
Năm Hương vọt miệng đáp trước:
- Anh Bảy Lăn cưa không đủ số cây nhứt định hàng bữa, tôi trách móc anh ấy sừng sộ lại với tôi.
Người thợ cưa tên Bảy Lăn phản đối:
- Thầy Năm nói không đúng! Theo lệ mỗi ngày tôi phải cưa xong một phần tư cây súc ra làm nhiều mảnh ván nhỏ. Nhưng thình lình hôm nay thầy Năm bắt buộc tôi phải cưa hơn một phần tư cây súc. Cậu Hai thử nghĩ xem làm sao tôi cưa nổi? Tôi là người chớ có phải là máy đâu, mấy anh bạn làm chung chứng thật cho lời nói của tôi!
Đám thợ hò nhau nói:
- Chúng tôi chứng thật cho câu nói của anh Bảy Lăn!
Bảy Lăn nói tiếp:
- Bắt bẻ tôi không cưa đủ số cây mà tôi không thể làm nổi, thầy Năm đòi bớt lương và cho tôi nghỉ việc.

Triệu Vĩ đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Đã dư biết tính khắc nghiệt và ác độc của tên quản lý. Triệu Vĩ nghiêm giọng nói:
- Những chuyện mà anh Bảy vừa nói đều là sự thật cả chứ chú Năm?
Bị hỏi bất thình lình, Năm Hương lúng túng:
- Cậu đừng nghe lời... Anh ấy vu oan cho tôi.
Triệu Vĩ trỏ đám thợ vây xung quanh:
- Có ai làm chứng cho chú? Còn anh Bảy có cả một số đông!
Càng lúc Năm Hương càng bị dồn vào ngõ bí, gã ấp úng nói không ra lời. Gặp dịp may hiếm có để sửa trị tên quản lý ác hiểm, Triệu Vĩ cao giọng:
- Chú Năm, đây thật là một câu chuyện đáng tiếc. Theo nguyên tắc và luật lệ lao động hiện hành. Chú không được quyền ép buộc anh Bảy làm việc quá sức của ảnh. Anh Bảy làm tròn bổn phận của ảnh là được rồi. Thời đại này không giống như thời đại trước nữa. Giữa chủ và nhân công cần phải có sự hợp tác chân thành chặt chẽ. Sự bất công và bạo lực không bao giờ tồn tại, chỉ gây ở lòng người sự phẫn uất thì rất là khốc hại. Anh em lao công nghèo nên mới mang sức lực và mồ hôi để đổi bát cơm manh áo. Chúng ta được giàu sang, sung sướng là nhờ ở anh em. Chúng ta nên biết ơn và đối đãi hợp lý với anh em. Chú Năm hẳn dư biết luồng gió chiến tranh vừa rồi đã quét sạch tất cả những cái bất công, tàn ác, vô nhân đạo của những chế độ xã hội mục nát cũ còn sót lại. Anh em lao công đã tiến bộ rất nhiều; họ đã hiểu biết quyền lợi của họ, họ biết đoàn kết, đòi hỏi tranh đấu để bênh vực lẫn nhau. Hãy thương yêu nhau và giúp đỡ nhau, chú Năm ạ, vì đấy mới chính là chân lý của con người.
Triệu Vĩ ngừng câu nói một giây để nhận xét ảnh hưởng của câu khuyên nhủ vừa rồi của mình. Chàng hạ thấp giọng nói tiếp:
- Từ ngày về đây tới giờ tôi nhận thấy chú đối đãi với anh em không được thân mật và hơi nghiêm khắc.
Không muốn làm chạm tự ái của Năm Hương nên Triệu Vĩ lựa lời nói nhỏ nhẹ:
- Không nên hành động như thế nhé chú Năm. Bao giờ anh em không làm tròn bổn phận chừng ấy chú Năm hãy nghiêm khắc với họ. Thôi, tôi xin xử huề vụ xung đột nhỏ nhen này. Chú Năm hãy trả lương đủ cho anh Bảy và hai người bắt tay nhau cười xem nào!
Những lời khuyên nhủ thân ái và xác đáng của Triệu Vĩ không làm cho một hạng không có tinh thần phục thiện như Năm Hương hài lòng. Trái lại gã cho là Triệu Vĩ cố ý làm nhục gã trước mặt anh em thợ thuyền.
Căm giận Năm Hương nói lớn không còn kiêng dè Triệu Vĩ:
- Nhân đạo như cậu công việc không bao giờ tiến mạnh và sẽ sạt nghiệp mất thôi. Tôi đã làm lợi cho bà chủ nhiều. Cậu còn trách cứ gì nữa. Cậu mới về không biết gì hết, nhưng cậu cứ can thiệp vào chuyện riêng của tôi và bênh vực bọn thợ. Rồi họ sẽ lộng hành ai mà cai quản nổi.
Triệu Vĩ cười nhẹ:
- Chú Năm, tôi chỉ muốn chú làm lợi cho chúng tôi bằng cách lương thiện và hợp lẽ. Tôi không bằng lòng hành động của chú. Từ nay trở đi tôi không muốn thấy chú có chuyện xích mích với anh em thợ nữa. Biết trọng quyền lợi của họ thì họ mới biết tôn trọng lại quyền lợi của mình chứ. Thôi, chào chú.
Triệu Vĩ từ giã anh em thợ và nhanh nhẹn rời khỏi trại cưa. Đám thợ nhiệt liệt hoan hô chàng giữa sự căm tức cực độ của Năm Hương.
Tên quản lý quắc đôi mắt đỏ ngầu nhìn hút theo bóng Triệu Vĩ và gã nghiến răng ken két.
Chương 2
Con trăng mười sáu tròn vành vạnh đã vượt khỏi đầu những ngọn dừa cao vút. Ánh sáng trong xanh bàng bạc bao phủ khắp vạn vật, và đổ xuống tràn ngập khắp mọi nơi.
Một đêm trăng sáng thanh bình! Miền quê hớn hở chào đón ánh trăng xanh, mà ngày nay nó đã thay đổi hẳn màu áo. Ngày xưa, trăng ly điếu loạn trăng tang tóc, buồn ủ rủ. Ngày nay, trăng thanh bình về với đồng quê, về với những manh áo vải suốt đời, suốt đời sống yên lành với số phận - những con người áo vải không đòi hỏi nhiều: họ chỉ muốn có cơm ăn, áo mặc và hòa bình. Thế thôi!
Thới Bình thôn đắm chìm trong yên lặng.
Ánh trăng chiếu xuyên qua kẽ lá của những cây công lâu đời và rơi đổ trên mặt con đường đất trải dài theo ven sông. Dòng sông Trẹm mơ màng lặng lờ chảy. Vầng trăng in đáy nước. Những cụm lục bình uể oải trôi. Hai bên bờ, những hàng dừa nước de ra ngoài sông và rủ lá xuống mặt nước.
Thỉnh thoảng một chiếc ghe thương hồ hiện ra với những mái chèo loang loáng quậy sóng và đập vỡ vầng trăng tròn ra muôn nghìn mảnh vụn.
Những dãy nhà nằm dọc theo hai bên bờ sông đều đã đóng kín cửa. Ánh sáng lù mù của mấy ngọn đèn dầu le lói rọi ra khỏi liếp và tan mất trong ánh trăng buồn. Có vài tiếng trẻ tập đánh vần ê a vọng ra chen lẫn với vài giọng ru con ảo não.
Những túp lều xa chợ, những nhà nhỏ thuộc ấp láng giềng ẩn hiện lờ mờ gần như biến mất trong những rặng cây xanh.
Đâu đây tiếng chó sủa, trăng buồn... Tiếng chày giã gạo nện thình thịch rơi thõng vào cái không khí yên lặng. Lâu lâu từ Linh Sơn Tự vọng lại một hồi chuông công phu rên dài trong đêm vắng.
Sự sinh hoạt nhộn nhịp của dân quê đã tắt hẳn.
Trăng cứ lần lần lên cao.
Cách xưởng dệt của bà Triệu Phú chừng năm trăm thước, hai bóng đen đang vẹt lau sậy đi lần theo bờ sông Trẹm. Họ chậm chạp bước trong ánh trăng vàng để đến nơi hẹn hò thường lệ của họ.
Gió thổi mơn man làm bay hai mái tóc xanh lấp loáng ánh trăng mờ.

Không ai bảo ai. Triệu Vĩ và Mỹ Lan đồng dừng chân trước một cây trồng lâu đời mà hơn nửa phần thân cây và tảng lá de hẳn ra ngoài sông. Hai người ngồi xuống đám rễ cây bò chằng chịt trên mặt đất. Ánh trăng loang lổ trắng đen rơi rác lác xuống mình họ.
Triệu Vĩ mở đầu câu chuyện:
- Trăng đêm nay đẹp quá em nhỉ?
Mỹ Lan mỉm cười, gật đầu:
- Trăng rằm mà!
Nhẹ nắm tay người yêu, Triệu Vĩ âu yếm hỏi:
- Chúng ta yêu nhau đã mấy mùa trăng rồi hở em?
Mỹ Lan đáp không nghĩ ngợi:
- Nếu em nhớ không lầm thì chúng ta yêu nhau... mùa này nữa là hai mùa!
Triệu Vĩ vẩn vơ:
- Yêu nhau đã hai mùa trăng!... Cũng nhiều và cũng ít!...
Không hiểu nổi câu nói kín đáo của tình nhân, Mỹ Lan ngây thơ hỏi:
- Anh nói gì em không hiểu? Cũng nhiều và cũng ít là thế nào?
Triệu Vĩ đáp:
- Nhiều, nghĩa là chúng ta đã yêu nhau tha thiết và say đắm. Còn ít, nghĩa là... chúng ta phải yêu nhiều thêm nữa.
Mỹ Lan bật cười:
- Anh tạo nên cái vòng lẩn quẩn khó hiểu quá!
Triệu Vĩ nghiêng đầu lên vai Mỹ Lan:
- Đêm đã khuya rồi và gió cũng đổi chiều, em có lạnh lắm không?
Mỹ Lan đáp xa xôi:
- Anh ạ! Cái lạnh của gió tạo nên không đáng sợ đâu, chỉ có cái lạnh của lòng do những mối tình tạm bợ tạo ra mới đáng cho người ta sợ thôi.
Hiểu ý người yêu, Triệu Vĩ cương quyết:
- Chuyện ấy không bao giờ xảy đến với mối tình chân thành của chúng ta.
Mỹ Lan ngước mắt nhìn trăng và hoài nghi nói:
- Biết đâu!... Biết đâu phải không anh? Cái gì ở trên cuộc đời này hôm nay cũng có thể xê dịch được. Nhất là lòng người dễ thay đổi lắm, anh ạ! Những cái say đắm nhứt lại là những cái chóng phôi pha nhứt... Một nhà văn nào đã viết như thế!
Triệu Vĩ tỏ vẻ không bằng lòng;
- Thế em luôn luôn nghi ngờ lòng dạ anh? Em hoài nghi mối tình của chúng ta?
Thấy Triệu Vĩ hờn giận, Mỹ Lan xuýt xoa chịu lỗi:
- Anh tha lỗi cho em, em chẳng có ý nghĩ ám muội nào trong câu nói vừa rồi đâu. Em tin tưởng chúng ta chẳng bao giờ quên nhau mặc dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn nào đi nữa. Và lòng chúng ta sắt son giữ trọn lời thề.
Mặt Triệu Vĩ tươi tắn lại, chàng lẩm bẩm:
- Giữ vẹn lời thề!... Phải, chỉ có những lời thề gắn bó mới đáng quý trọng và bền vững mãi với thời gian!
Mỹ Lan nhặt một viên đá cuội ném xuống nước. Mặt sông phẳng lặng như chiếc gương vàng vụt nhăn nhó lại và lần lần lan rộng ra thành hình vòng cung.
Triệu Vĩ khẽ tát yêu lên má tình nhân:
- Em nghịch lắm! Làm vỡ mảnh trăng vàng, chẳng sợ chị Hằng Nga trách móc!
Mỹ Lan trỏ tay xuống dòng nước và vui vẻ:
- Nhưng mảnh trăng đã tự hàn gắn nguyên lành lại được rồi. Còn lòng người, lòng người một khi bị thương có tự hàn vá lại được không anh?
Triệu Vĩ đăm chiêu đáp:
- Có thể hàn vá lại được nhưng hơi khó, vì dù sao nó cũng còn sót lại những vết tích.
Mỹ Lan nối lời người yêu:
- Và còn một niềm đau khổ vô bờ bến nữa, anh ạ.
Triệu Vĩ định nói lãng sang vấn đề khác nhưng Mỹ Lan vẫn bàn bạc đến chuyện ái tình.
- Anh à, tương lai của chúng mình sẽ ra thế nào? Khổng hiểu sao em luôn luôn lo ngại. Chẳng phải em không tin ở lòng dạ anh, nhưng em nhận thấy khó khăn quá.
Tỏ vẻ không hài lòng, Triệu Vĩ hỏi gắt:
- Em thấy chuyện gì khó khăn?
Ngập ngừng một giây, Mỹ Lan đáp:
- Thành phần giai cấp của chúng ta không đều nhau. Em sợ mẹ không bằng lòng đứng ra tán thành cuộc hôn nhân của chúng ta.
Triệu Vĩ an ủi người yêu:
- Em đừng lo ngại viễn vông, hôn nhân của chúng ta sẽ thành tựu một cách đẹp đẽ. Mẹ rất thương anh, mẹ sẵn sàng chiều theo ý muốn của anh. Giữa thời buổi này, thành phần giai cấp không còn thành vấn đề nữa. Đôi trai gái nếu thật yêu nhau là có thể kết làm chồng vợ được.
Người tay lấy nhau vì ái tình, vì hiểu biết nhau, vì đồng ý, chứ có phải lấy nhau vì địa vị đâu. Giai cấp chỉ có thể ngăn trở những đôi lứa nhút nhát, thiếu nghị lực.
Còn chúng ta đều là những kẻ có tư tưởng tiến bộ đầy đủ cương nghị và giàu lòng hy sinh. Tại sao chúng ta lại không đạp đổ bức tường giai cấp lỗi thời đó? Đã biết bao trai gái hèn nhát, thiếu can đảm sa chân vào cạm bẫy của đẳng cấp để làm hư hỏng cuộc đời mình và hại luôn đến cuộc đời kẻ khác nữa.
Cha mẹ sanh ta ra, nuôi nấng ta lớn khôn, gây dựng cho ta nên người. Cha mẹ có quyền tất cả đối với con, nhưng cha mẹ phải để cho ta tự do lựa chọn người bạn đời.
Chúng ta chọn lựa và cha mẹ hợp tác. Cha mẹ hiểu được tính tình và bản năng của con nhưng cha mẹ có bao giờ hiểu nổi tình yêu của con. Cái phương thế đặt đâu ngồi đó, hôn nhân do cha mẹ trọn quyền định đoạt ngày nay không còn cái lý do nào để tồn tại nữa.
Hôn nhân là gì? Hôn nhân chẳng phải là một tổ chức, một sự sắp đặt dưới quyền chỉ huy của một hoặc nhiều người - mà hôn nhân chỉ là một chuyện tự do, một cái nguyên cớ để cho đôi trai gái đồng tánh tình, đồng sở thích, đồng hoài bão yêu nhau tha thiết và chân thành - bắt tay nhau cùng xây hạnh phúc riêng cho đời mình và cung cấp đào tạo những mầm non cho xã hội.
Ngừng một lúc, Triệu Vĩ trầm trầm nói tiếp:
- Có những cuộc hôn nhân gò ép, gượng gạo; có những người đàn bà, chẳng bao giờ yêu chồng, có những người đàn ông chẳng hề yêu vợ, có những đứa trẻ được sanh ra chỉ do những phút hợp tác phù hợp về xác thịt một cách bất đắc dĩ của cha mẹ chúng; có những gia đình thiếu thốn tình yêu thương và lần lần đi đến mức đổ vỡ... Tất cả những chuyện đó, ai chịu trách nhiệm?
Triệu Vĩ ngồi hăng hái nói một thôi dài trông hùng hồn, như một diễn giả đang đứng trên sân khấu nghị luận về một vấn đề thiết yếu của xã hội.
Mỹ Lan ngồi nghe chăm chú như một thính giả đang mê tài hùng biện của diễn giả.
Tuy ngoài miệng Triệu Vĩ nói thế nhưng trong lòng chàng không khỏi lo ngại. Chàng dư biết hoàn cảnh gia đình chàng không bao giờ cho phép chàng cưới Mỹ Lan. Nhất là bà Triệu Phú, mẹ chàng - một người đàn bà phong kiến còn mang nặng đẳng cấp hẹp hòi.
Chính bà mới là bức tường kiên cố ngăn cản Triệu Vĩ chung sống với Mỹ Lan.

Chẳng phải riêng gì Triệu Vĩ lo ngại thôi, Mỹ Lan cũng nơm nớp lo âu. Nàng nhận thấy mình đã làm một chuyện mạo hiểm. Yêu một chàng trai học thức giỏi, địa vị cao trong xã hội, con nhà giàu sang - họa chăng Mỹ Lan đã thấy nhan nhản trước cặp mắt những đôi tình nhân dang dở vì trái ngược đẳng cấp, nhưng chẳng hiểu sao nàng cũng vẫn yêu Triệu Vĩ.
Ái tình, lạ lùng thật! Hơn nữa, Mỹ Lan đặt tất cả lòng tin ở Triệu Vĩ vì nàng thấy rõ Triệu Vĩ yêu nàng say đắm và chân thành. Nàng còn thấy ở Triệu Vĩ một thanh niên khác thường, có một tâm hồn đặc biệt. Mỹ Lan tin ở chân tình của người yêu, tin ở cái đà tiến hóa của xã hội hiện tại không cho phép người ta bo bo giữ chặt những tư tưởng đẳng cấp lầm lẫn.
Một cô gái quê như Mỹ Lan mặc dù trí óc nàng đã trưởng thành trong chiến tranh vừa qua, nhưng nàng đâu có hiểu nổi những uẩn khúc của lòng người: Những con người đã được cái xã hội phù hoa tạo nên. Dù sao Mỹ Lan cũng vẫn còn giữ được sự nhẹ dạ và dễ tin, bản tính thiên nhiên của mọi người con gái. Bộ óc giản dị của nàng đã tính toán tình yêu một cách dễ dãi.
Đôi tình nhân ngồi yên lặng bên nhau, chưa ai mở miệng nói một lời nào. Tâm tư cả hai đều lo sợ. Hai bộ óc đang suy nghĩ khác nhau.
Giây lâu, Mỹ Lan nói trước để phá tan bầu không khí im lặng khó chịu:
- Anh Triệu Vĩ ạ! Dù sao em cũng hoàn toàn tin cậy ở anh. Mối tình của chúng ta sẽ đi đến kết cuộc một cách êm đẹp. Tình yêu luôn luôn mở đầu cho tình chồng vợ. Và mục đích thiêng liêng nhứt của ái tình cũng chỉ là hôn nhân.
Triệu Vĩ gượng mỉm cười để cho Mỹ Lan khỏi nghi ngờ sự lo sợ đang ngấm ngầm xâm chiếm lòng mình. Chàng hạ thấp giọng nói một câu yếu đuối gần như mất hết can đảm và tin tưởng:
- Anh cũng tin như thế! Mỗi người đều có số mệnh riêng.
Mỹ Lan không giấu được vẻ ngạc nhiên, nàng hỏi nhanh:
- Anh cũng tin ở định mệnh nữa à? Người ta nói đến định mệnh là chỉ để tự an ủi một khi gặp phải những gì ngang trái, tan vỡ, bó buộc mà nó làm cho mình bất mãn. Cứ mãi tin ở định mệnh mình sẽ hèn yếu mất, anh ạ! Riêng em, em cho rằng định mệnh là do ta chứ chẳng phải do ở trời. Mỗi con người đều có thể tạo riêng cho mình một số mệnh như ý mình mong muốn, nhưng muốn đạt tới kết quả mình cần phải kiên nhẫn, có chí phấn đấu chịu đựng và nhất là lòng tự tin và can đảm. Chúng ta không nên đổ lỗi cho định mệnh một khi chúng ta thất bại một chuyện gì. Phải thế không anh?
Triệu Vĩ gặt đầu:
- Có lẽ là thế, nhưng em có bao giờ nghĩ tới những hoàn cảnh bất ngờ mà có thể làm đảo lộn tất cả?
Mỹ Lan ra dáng đăm chiêu nghĩ ngợi; đôi mắt nàng lấp lánh ánh trăng thoáng hiện một nét buồn.
Trăng đồng quê thanh bình vừa khuất sau một cụm mây trắng mờ. Cả bầu trời tối sầm lại trong khoảnh khắc.
Gió lạnh từ dưới lòng sông bốc lên từng luồng một. Không ai bảo ai, Triệu Vĩ và Mỹ Lan ngồi xích gần thêm chút nữa.
Vầng trăng vượt khỏi đám mây cô đơn và ló dạng trên nền trời xanh thẳm. Vạn vật lại sáng rực lên.
Mỹ Lan ngồi ngay ngắn lại trong khi miệng nàng nở nụ cười ngượng nghịu.
Trong đêm trăng thanh vắng, giữa cảnh đồng quê im lìm say ngủ từ xa vọng lại một giọng hò cao vút:
“Hò ơ hò... Hò ơ hơ...
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ.
Hò ơ hò... Hò ơ hơ...
Em ơi,
Mùng em có rộng cho anh ngủ nhờ một đêm?
Hò ơ hơ... ơ ơ ơ...”
Giọng hò thôn đã từ từ lan rộng trên dòng sông Trẹm đỏ ngầu đang êm đềm chảy xuôi chiều.
Triệu Vĩ và Mỹ Lan lắng nghe một giọng hò trong trẻo đáp lại:
“Hò ơ hơ... Hò ơ hơ...
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ.
Hò ơ hơ... Hò ơ hơ...
Mùng em có rộng nhưng anh ơi...
Hò ơ hơ...
... Xin anh hỏi giùm đức lang quân.
Hò ơ hơ... Anh ơi...”
Triệu Vĩ bật cười giòn:
- Vỏ quít dày có móng tay nhọn!
Có tiếng bập bập của mái chèo quậy nước, chen lẫn với tiếng cọ xào xạc của đám dừa nước mọc ven sông.
Trên mặt sông phẳng lặng, hai chiếc tam bản có mui, chiếc trước chiếc sau từ từ xuôi theo dòng nước. Bốn mái chèo nhịp nhàng lên xuống. Mũi tam bản rẽ nước phát ra tiếng rì rào đều đều.
Triệu Vĩ hỏi nhỏ người yêu:
- Những chiếc tam bản đi về đâu đấy em?
Mỹ Lan nhanh nhảu đáp:
- Đây là những chiếc tam bản thương hồ trở về miệt kinh Xã Thoàn, kinh Phó Sinh, Vĩnh Lợi...
- Sao họ không đi ban ngày?
Mỹ Lan cười đáp:

- Ban đêm đi khỏe hơn, mát mẻ và không mệt. Hơn nữa họ phải đi cho kịp con nước.
- Thế họ thức suốt đêm à?
- Điều này không chừng! Họ có thể cầm sào ngủ nếu gặp chỗ nước ngược và trời chưa sáng.
Triệu Vĩ ngây ngô hỏi tiếp:
- Họ không buồn ngủ sao em?
- Họ đã quen như thế rồi! Vả lại, con nước xuôi không cho phép họ ngủ. Nhiều khi họ cũng buồn ngủ, nhưng đã có cái lối hò tinh quái như chúng ta vừa mới nghe ban nãy. Hò đối đáp với nhau thì chẳng bao giờ ngủ được!
Triệu Vĩ dí dỏm xen vào:
- Nhứt là những kẻ hò ấy lại là thanh niên và thiếu nữ.
Mỹ Lan gật đầu:
Ngừng một lúc, Triệu Vĩ trầm trầm nói tiếp:
- Có những cuộc hôn nhân gò ép, gượng gạo; có những người đàn bà, chẳng bao giờ yêu chồng, có những người đàn ông chẳng hề yêu vợ, có những đứa trẻ được sanh ra chỉ do những phút hợp tác phù hợp về xác thịt một cách bất đắc dĩ của cha mẹ chúng; có những gia đình thiếu thốn tình yêu thương và lần lần đi đến mức đổ vỡ... Tất cả những chuyện đó, ai chịu trách nhiệm?
Triệu Vĩ ngồi hăng hái nói một thôi dài trông hùng hồn, như một diễn giả đang đứng trên sân khấu nghị luận về một vấn đề thiết yếu của xã hội.
Mỹ Lan ngồi nghe chăm chú như một thính giả đang mê tài hùng biện của diễn giả.
Tuy ngoài miệng Triệu Vĩ nói thế nhưng trong lòng chàng không khỏi lo ngại. Chàng dư biết hoàn cảnh gia đình chàng không bao giờ cho phép chàng cưới Mỹ Lan. Nhất là bà Triệu Phú, mẹ chàng - một người đàn bà phong kiến còn mang nặng đẳng cấp hẹp hòi.
Chính bà mới là bức tường kiên cố ngăn cản Triệu Vĩ chung sống với Mỹ Lan.
Chẳng phải riêng gì Triệu Vĩ lo ngại thôi, Mỹ Lan cũng nơm nớp lo âu. Nàng nhận thấy mình đã làm một chuyện mạo hiểm. Yêu một chàng trai học thức giỏi, địa vị cao trong xã hội, con nhà giàu sang - họa chăng Mỹ Lan đã thấy nhan nhản trước cặp mắt những đôi tình nhân dang dở vì trái ngược đẳng cấp, nhưng chẳng hiểu sao nàng cũng vẫn yêu Triệu Vĩ. Ái tình, lạ lùng thật! Hơn nữa, Mỹ Lan đặt tất cả lòng tin ở Triệu Vĩ vì nàng thấy rõ Triệu Vĩ yêu nàng say đắm và chân thành. Nàng còn thấy ở Triệu Vĩ một thanh niên khác thường, có một tâm hồn đặc biệt. Mỹ Lan tin ở chân tình của người yêu, tin ở cái đà tiến hóa của xã hội hiện tại không cho phép người ta bo bo giữ chặt những tư tưởng đẳng cấp lầm lẫn.
Một cô gái quê như Mỹ Lan mặc dù trí óc nàng đã trưởng thành trong chiến tranh vừa qua, nhưng nàng đâu có hiểu nổi những uẩn khúc của lòng người: Những con người đã được cái xã hội phù hoa tạo nên. Dù sao Mỹ Lan cũng vẫn còn giữ được sự nhẹ dạ và dễ tin, bản tính thiên nhiên của mọi người con gái. Bộ óc giản dị của nàng đã tính toán tình yêu một cách dễ dãi.
Đôi tình nhân ngồi yên lặng bên nhau, chưa ai mở miệng nói một lời nào. Tâm tư cả hai đều lo sợ. Hai bộ óc đang suy nghĩ khác nhau.
Giây lâu, Mỹ Lan nói trước để phá tan bầu không khí im lặng khó chịu:
- Anh Triệu Vĩ ạ! Dù sao em cũng hoàn toàn tin cậy ở anh. Mối tình của chúng ta sẽ đi đến kết cuộc một cách êm đẹp. Tình yêu luôn luôn mở đầu cho tình chồng vợ. Và mục đích thiêng liêng nhứt của ái tình cũng chỉ là hôn nhân.
Triệu Vĩ gượng mỉm cười để cho Mỹ Lan khỏi nghi ngờ sự lo sợ đang ngấm ngầm xâm chiếm lòng mình. Chàng hạ thấp giọng nói một câu yếu đuối gần như mất hết can đảm và tin tưởng:
- Anh cũng tin như thế! Mỗi người đều có số mệnh riêng.
Mỹ Lan không giấu được vẻ ngạc nhiên, nàng hỏi nhanh:
- Anh cũng tin ở định mệnh nữa à? Người ta nói đến định mệnh là chỉ để tự an ủi một khi gặp phải những gì ngang trái, tan vỡ, bó buộc mà nó làm cho mình bất mãn. Cứ mãi tin ở định mệnh mình sẽ hèn yếu mất, anh ạ! Riêng em, em cho rằng định mệnh là do ta chứ chẳng phải do ở trời. Mỗi con người đều có thể tạo riêng cho mình một số mệnh như ý mình mong muốn, nhưng muốn đạt tới kết quả mình cần phải kiên nhẫn, có chí phấn đấu chịu đựng và nhất là lòng tự tin và can đảm. Chúng ta không nên đổ lỗi cho định mệnh một khi chúng ta thất bại một chuyện gì. Phải thế không anh?
Triệu Vĩ gặt đầu:
- Có lẽ là thế, nhưng em có bao giờ nghĩ tới những hoàn cảnh bất ngờ mà có thể làm đảo lộn tất cả?
Mỹ Lan ra dáng đăm chiêu nghĩ ngợi; đôi mắt nàng lấp lánh ánh trăng thoáng hiện một nét buồn.
Trăng đồng quê thanh bình vừa khuất sau một cụm mây trắng mờ. Cả bầu trời tối sầm lại trong khoảnh khắc.

Gió lạnh từ dưới lòng sông bốc lên từng luồng một. Không ai bảo ai, Triệu Vĩ và Mỹ Lan ngồi xích gần thêm chút nữa.
Vầng trăng vượt khỏi đám mây cô đơn và ló dạng trên nền trời xanh thẳm. Vạn vật lại sáng rực lên.
Mỹ Lan ngồi ngay ngắn lại trong khi miệng nàng nở nụ cười ngượng nghịu.
Trong đêm trăng thanh vắng, giữa cảnh đồng quê im lìm say ngủ từ xa vọng lại một giọng hò cao vút:
“Hò ơ hò... Hò ơ hơ...
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ.
Hò ơ hò... Hò ơ hơ...
Em ơi,
Mùng em có rộng cho anh ngủ nhờ một đêm?
Hò ơ hơ... ơ ơ ơ...”
Giọng hò thôn đã từ từ lan rộng trên dòng sông Trẹm đỏ ngầu đang êm đềm chảy xuôi chiều.
Triệu Vĩ và Mỹ Lan lắng nghe một giọng hò trong trẻo đáp lại:
“Hò ơ hơ... Hò ơ hơ...
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ.
Hò ơ hơ... Hò ơ hơ...
Mùng em có rộng nhưng anh ơi...
Hò ơ hơ...
... Xin anh hỏi giùm đức lang quân.
Hò ơ hơ... Anh ơi...”
Triệu Vĩ bật cười giòn:
- Vỏ quít dày có móng tay nhọn!
Có tiếng bập bập của mái chèo quậy nước, chen lẫn với tiếng cọ xào xạc của đám dừa nước mọc ven sông.
Trên mặt sông phẳng lặng, hai chiếc tam bản có mui, chiếc trước chiếc sau từ từ xuôi theo dòng nước. Bốn mái chèo nhịp nhàng lên xuống. Mũi tam bản rẽ nước phát ra tiếng rì rào đều đều.
Triệu Vĩ hỏi nhỏ người yêu:
- Những chiếc tam bản đi về đâu đấy em?
Mỹ Lan nhanh nhảu đáp:
- Đây là những chiếc tam bản thương hồ trở về miệt kinh Xã Thoàn, kinh Phó Sinh, Vĩnh Lợi...
- Sao họ không đi ban ngày?
Mỹ Lan cười đáp:
- Ban đêm đi khỏe hơn, mát mẻ và không mệt. Hơn nữa họ phải đi cho kịp con nước.
- Thế họ thức suốt đêm à?
- Điều này không chừng! Họ có thể cầm sào ngủ nếu gặp chỗ nước ngược và trời chưa sáng.
Triệu Vĩ ngây ngô hỏi tiếp:
- Họ không buồn ngủ sao em?
- Họ đã quen như thế rồi! Vả lại, con nước xuôi không cho phép họ ngủ. Nhiều khi họ cũng buồn ngủ, nhưng đã có cái lối hò tinh quái như chúng ta vừa mới nghe ban nãy. Hò đối đáp với nhau thì chẳng bao giờ ngủ được!
Triệu Vĩ dí dỏm xen vào:
- Nhứt là những kẻ hò ấy lại là thanh niên và thiếu nữ.
Mỹ Lan gật đầu:
- Phải! Anh ranh mãnh lắm. Đi thuyền trên sông ban đêm thích lắm anh ạ! Vào những đêm trăng cảnh vật đẹp và mơ mộng không bút mực nào tả xiết. Tất cả những cái đẹp và nên thơ của thiên nhiên đều dồn cả vào những đêm trăng của dòng quê. Đi thuyền trên sông giữa một đêm trăng chẳng ai chun vào trong mui ngủ nổi.

Anh cứ tưởng tượng đến những khu rừng đầy mịt những xóm nhà tranh lô nhô, những hàng dừa nằm dọc theo hai bên sông. Những khung cảnh đẹp mà các họa sĩ đã tưởng tượng vẽ vào tranh, anh được nhìn thấy tận mắt và em tin chắc suốt đời anh sẽ chẳng bao giờ quên những đêm trăng như thế. Đi thuyền trên sông ban đêm có cái thú vị hiếm có là được nghe những câu hò mộc mạc nhưng duyên dáng và đầy ý nghĩa. Có nhiều những cuộc tình duyên, những đôi vợ chồng thành tựu nhờ những câu hò trên sông. Gặp gỡ rồi yêu nhau trong khung cảnh thơ mộng như thế, cũng đẹp đẽ đấy anh nhỉ!
Triệu Vĩ bẹo má người yêu:
- Vâng, đẹp lắm vì còn đẹp hơn tình yêu quê mùa. Yêu đương giữa đồng quê, mối tình đó cũng chịu ảnh hưởng cái giản dị và chân thật. Còn ở thành thị, người tay yêu kiểu cách và giả dối lắm.
Mỹ Lan ngây thơ nói:
- Họ quan niệm tình yêu như thế có lẽ tại tâm hồn họ bị ánh sáng đô thành và những cái hào nhoáng của vật chất chi phối!
- Em nói đúng. Họ là những con thiêu thân đâm đầu chạy theo ánh sáng phù hoa và lấy những thú vui tạm bợ làm căn bản cho cuộc đời. Họ chỉ lo cho riêng họ, họ quên rằng họ cũng có bổn phận đối với xã hội và đồng loại. Con người nếu ham vui nhiều quá, mơ ước nhiều quá sẽ sa ngã rất dễ dàng. Ở thôn quê con người ít hư hỏng hơn ở thành thị.
Triệu Vĩ nhìn hút theo bóng thuyền xa tít và nói lảng sang chuyện khác:
- Đi thuyền ban đêm mà không gặp bạn đồng hành hẳn buồn lắm!
Mỹ Lan gật đầu:
- Không còn gì buồn tẻ nhạt hơn đi một mình trên sông rộng. Gặp trường hợp này người chèo thuyền chóng buồn ngủ. Nhưng cũng may, cảnh này ít xảy ra vì đường nước đi từ sông Ông Đốc bước qua sông Trẹm là con đường buôn bán tiện lợi nhứt. Ghe thương hồ dập dìu qua lại ban ngày lẫn ban đêm. Trong thời kỳ chiến tranh, miền này bị phi cơ địch oanh tạc nhiều nhứt. Tuy thế, thiên hạ vẫn hoạt động rộn rịp bình thường.
Khi máy bay đến, người trên bờ chun xuống hầm núp, còn ghe xuồng thì chui vào những đám dừa nước dày mịt để tránh làn đạn. Sau hồi bắn phá vô dụng, máy bay địch đi mất, ghe cộ lại tới lui nhộn nhịp, chợ búa lại nhóm họp đông đảo như chẳng có chuyện gì xảy ra. Riết rồi dân chúng quen thuộc với những cuộc oanh tạc, họ lấy đó làm một trò vui tiêu khiển. Nhưng có nhiều nơi bị phá quấy gắt quá, người ta phải nhóm chợ về đêm, như ở kinh Phó Sinh thuộc quận Hồng Vân chẳng hạn.
Triệu Vĩ thở dài:
- Chiến tranh làm cho dân chúng khổ sở, làng mạc điêu tàn, mùa màng hư hại. Qua mấy năm khói lửa, người dân Việt từ thành thị chí thôn quê đã hứng chịu biết bao nhiêu tai họa. May mắn thay, ngày nay non nước đã thanh bình, người dân Việt yên vui, đồng quê bắt đầu sống lại.
Mỹ Lan liến thoắng:
- Nhờ chiến tranh chấm dứt nên giờ đây chúng ta mới được ngồi bên nhau để ngắm ánh trăng vàng, phải thế không anh?
Triệu Vĩ đặt tay lên vai người yêu:
- Chúng ta có duyên hội ngộ, em ạ! Định mệnh đã sắp đặt trước em là vợ anh và nơi chúng ta gặp gỡ là Thới Bình thôn.
Mỹ Lan chặn ngang:
- Anh lại nói đến định mệnh nữa rồi! Em chẳng bao giờ tin ở định mệnh. Chúng ta yêu nhau chỉ vì tâm tánh và hoài bão của chúng ta giống nhau. Em chẳng muốn có định mệnh dính líu vào tình yêu của đôi ta. Nếu anh còn nhắc tới định mệnh lần nữa, em sẽ giận anh!
Thấy người yêu phụng phịu, Triệu Vĩ xuýt xoa xin lỗi:
- Anh xin lỗi em vậy! Nhờ chiến tranh chấm dứt nên anh mới được gặp em và nhất là anh được dịp tìm hiểu tâm hồn của các anh em nông dân tiến bộ.
Triệu Vĩ và Mỹ Lan cùng ngước mặt nhìn trăng. Họ mơ màng xây dựng tương lai.
Đêm đã hơi khuya. Con trăng mười sáu đã vượt gần đến lưng chừng trời. Gió lạnh thổi bốc lên từng hồi một. Mặt sông Trẹm xao xuyến không ngừng. Vầng trăng in đấy nước luôn luôn rung động. Những lá dừa nước cọ nhau buông tiếng rên siết não nùng. Thỉnh thoảng một con vạc ăn đêm bay ngang lưng trời với giọng kêu xé lòng.
Triệu Vĩ xem đồng hồ tay và bảo với Mỹ Lan:
- Gần nửa đêm rồi, em ạ! Tiếng chày giã gạo trong xóm đã dứt từ lâu. Chúng ta về thôi, kẻo cảm sương khuya thì khổ!
Chàng dìu Mỹ Lan đứng dậy.
Một tràng tiếng chó sủa oang oang ở gần đất vang lên xé rách màn đêm yên lặng.
Mỹ Lan mỉm cười, nói:
- Con Tô Tô nhắc cho chúng ta biết đêm đã khuya rồi!
Nàng vừa dứt lời, một con chó săn cao lớn từ trong một bụi rậm nhảy xổ ra. Con vật khôn ngoan vẫy đuôi lia lịa và gậm nhẹ lấy vạt áo bà ba đen của nữ chủ nhân.
Mỹ Lan vỗ nhẹ lên đầu con chó trung thành:
- Tô Tô, coi chừng rách áo chị đấy?
Triệu Vĩ khôi hài:
- Con Tô Tô là nhân viên hộ vệ của em đấy à?
Mỹ Lan chưa kịp đáp thì Triệu Vĩ nói luôn:
- Anh chàng nào muốn giở thói dê với cô chủ thì phải biết... ngán con chó này lắm!
Mỹ Lan thẹn thùa nguýt tình nhân:
- Anh nhiều chuyện gớm! Không khéo Tô Tô tấn công anh bây giờ!
Triệu Vĩ sờ nhẹ lên đầu con chó và vênh mặt:
- Tô Tô quen hơi của anh rồi, nó chẳng bao giờ cắn bậy!
Đôi tình nhân chậm chạp lần theo con đường mòn trở về nhà. Họ mải mê trò chuyện. Họ đinh ninh câu chuyện tình thầm kín của họ chẳng ai trông thấy...
Họ có ngờ đâu tự nãy giờ gã quản gia Năm Hương đang đứng núp sau một bụi dứa um tùm theo dõi từng cử chỉ của họ với đôi mắt vừa căm giận vừa hả hê. Năm Hương căm giận vì Triệu Vĩ phỗng tay trên miếng mồi ngon của gã. Năm Hương đã yêu thầm Mỹ Lan từ lâu rồi nhưng chưa gặp dịp thuận tiện để tỏ nỗi lòng. Cặp mắt háo sắc của gã cũng tinh lắm. Trong đám con gái quê trong vùng, gã chỉ có chấm một mình Mỹ Lan. Triệu Vĩ đến sau nhưng thành công trước, ai lại chẳng căm hận. Năm Hương hả hê vì đã gặp dịp để trả thù Triệu Vĩ. Gã chẳng lạ gì tính ý của bà Triệu Phú. Và gã nhứt quyết phá vỡ mối tình đang đằm thắm giữa Triệu Vĩ và Mỹ Lan.

Trong phút chốc bộ óc gian xảo của Năm Hương đã sắp đặt xong một cái bẫy tinh vi. Gã ăn không được phá cho hôi. Sự nghi ngờ của gã đã thành hình. Triệu Vĩ yêu Mỹ Lan.
Đợi cho hai người đi một đỗi cách khá xa, Năm Hương nhanh nhẹn băng mình vào con đường tắt chạy thẳng về nhà trước Triệu Vĩ.
Năm Hương rón rén bước đến trước cửa phòng riêng của bà Triệu Phú. Trong phòng còn ánh đèn sáng trưng chứng to bà Triệu Phú chưa ngủ. Năm Hương nhìn suốt qua lỗ khóa, bà Triệu Phú đang nằm trên giường xem sách.
Ngập ngừng một lát, Năm Hương bạo dạn gõ nhẹ lên mặt cửa. Có tiếng bà Triệu Phú hỏi vọng ra:
- Ai đấy? Làm gì gõ cửa vào giờ này?
Năm Hương nhanh miệng đáp:
- Bẩm bà, Năm Hương đây ạ!
Có tiếng dép kéo, lệt bệt, rồi tiếng ổ khóa kêu lách tách. Cửa mở. Bà Triệu Phú ngạc nhiên nhìn Năm Hương:
- Chú Năm: Có chuyện gì quan trọng mà đến tìm tôi vào giờ này.
Năm Hương cúi đầu lễ phép:
- Thưa bà, bà tha cho cái tội đến làm phiền bà giữa đêm khuya vắng. Nhưng tôi vừa thấy một chuyện vô cùng quan trọng mà tôi có bổn phận bẩm cho bà hay.
Một vẻ lo sợ thoáng hiện trên vầng tráng nhăn nheo, bà Triệu Phú gỡ kính trắng cầm tay và bảo tên quản gia tin cậy:
- Chú vào trong nói chuyện tiện hơn!
Năm Hương cẩn thận theo gót bà chủ tiến vào phòng.
Thấy Năm Hương đứng xớ rớ, bà Triệu Phú trỏ một chiếc ghế.
- Chú tự tiện ngồi xuống ghế.
Đợi cho Năm Hương ngồi yên chỗ, bà Triệu Phú kéo ghế ngồi đối diện với gã và lo ngại hỏi:
- Chuyện gì đấy? Có lẽ là quan hệ lắm?
Năm Hương xoa lia lịa hai bàn tay vào nhau và chậm rãi nói:
- Bẩm bà, đây là một câu chuyện rất có hại đến danh dự của gia đình bà. Tôi thiết nghĩ bà cần phải can thiệp tức khắc, nếu trễ thì nguy hiểm lắm.
Bà Triệu Phú nóng nảy:
- Chuyện gì chú cứ nói ngay xem sao?
Năm Hương gãi tai, nói tiếp:
- Hẳn bà biết cô bé Mỹ Lan?
Bà Triệu Phú lắc đầu:
- Mỹ Lan nào? Tôi chẳng biết tên đứa con gái nào ở trong làng này hết.
Năm Hương đáp không nhìn ngay mặt bà chủ:
- Cô Mỹ Lan, cô gái út của ông Năm gác gian xưởng dệt!
Sực nhớ ra, bà Triệu Phú gật gù:
- Con bé xinh xinh, nho nhỏ người ấy phải không? Hình như con bé hiền lành và dễ thương lắm?
Năm Hương cao giọng:
- Dạ phải, chính cô ấy gây ra câu chuyện tày trời hôm nay.
Gã quản gia độc hiểm nói một hơi:
- Ban nãy, tôi ra bờ sông hóng mát, tình cờ tôi gặp cậu Hai ngồi nói chuyện với cô Mỹ Lan dưới gốc cây còng lâu đời.
Bà Triệu Phú giật mình đánh thót, hỏi nhanh:
- Ngồi nói chuyện là thế nào?
Năm Hương khoái thầm trong dạ. Gã nói rõ ràng:
- Suốt tháng nay tôi để ý thấy cậu Hai và cô Mỹ Lan thường có những cử chỉ thân mật nhưng tôi chẳng bao giờ dám nghi ngờ rằng... hai người lại có thể yêu nhau được.
Bà Triệu Phú ngắt ngang:

- Triệu Vĩ và Mỹ Lan yêu nhau. Chú nói thật chứ?!
Năm Hương đáp với giọng cương quyết:
- Tôi đâu khi nào dám dối gạt bà? Chính tôi nhìn thấy tận mắt hai người ngồi kề vai nói chuyện tâm tình. Vì một chuyện quan hệ như thế nên tôi mới dám đến làm rộn bà giữa đêm khuya vắng. Tôi băng đường tắt về nhà trước. Hiện thời có lẽ cậu Hai đang đưa cô Mỹ Lan về nhà cô ta.
Bà Triệu Phú ra dáng đăm chiêu nghĩ ngợi. Vầng trán của bà nhăn nhiều thêm. Bà chống tay nơi cằm chưa nói gì.
Năm Hương thấy rõ mình đã thành công bước đầu. Gã đánh thêm một đòn:
- Bẩm bà, tình thế gấp rút lắm rồi. Nếu chúng ta chẳng hành động nhanh chóng, lỡ có chuyện gì xảy ra...
Đến đây Năm Hương ngừng ngang. Bà Triệu Phú thở phào và nói:
- Thật tôi không ngờ thằng Triệu Vĩ lại tệ đến thế! Bộ hết người yêu rồi sao mà phải yêu con nhỏ nhà quê đó. Tôi đang định nói con gái lớn của bác sĩ Thạch ở chợ Bạc Liêu cho nó, thì bây giờ nó lại làm bậy bạ. Tôi đồng ý với chú tình thế gấp rút và quan trọng. Nếu để cho tình của chúng nó ăn sâu vô thì khó gỡ lắm.
Bà lo ngại hỏi ý kiến tên quản gia:
- Tôi phải làm sao bây giờ! Chú nghĩ mưu kế giùm tôi xem!
Năm Hương giả vờ khó khăn từ khước:
- Tôi cũng rối trí lắm! Cậu Hai còn trẻ người non dạ, yêu chẳng suy nghĩ chín chắn. Thật hại hết sức!
Bà Triệu Phú vuốt nhẹ mái tóc bạc và càu nhàu:
- Thằng Triệu Vĩ làm khổ tôi đủ điều. Phải dè tôi không cho nó xuống đây.
Đã đến dịp thọc gậy bánh xe của Triệu Vĩ đang lăn. Năm Hương vụt “à” lên một tiếng rõ to.
Bà Triệu Phú hân hoan hỏi gấp:
- Chú tìm được phương kế rồi?
Năm Hương nghiêm giọng nói:
- Thưa bà, tôi đã nghĩ nát óc. Bây giờ chúng ta chỉ còn một kế duy nhất là làm chia rẽ họ. Xa cách nhau họ sẽ quên dễ dàng.
Bà Triệu Phú mừng như bắt được vàng.
- Phải đấy, tôi cũng nghĩ như chú?
Nhưng bà bỗng sa sầm nét mặt:
- Tôi quên mất điều khó khăn này. Thằng Triệu Vĩ nhà tôi rất cứng đầu. Tôi biết trước nó không chịu nghe lời khuyên răn của tôi. Giữa lúc mối tình của chúng đang khắn khít, dễ gì cho chúng ta nhúng tay vào?
Đôi mắt quỷ quyệt của Năm Hương long lên sáng rực. Gã bảo thầm trong bụng:
“Triệu Vĩ ơi, mầy sẽ biết tay tao. Mối nhục nhã của tao chắc chắn sẽ rửa được. Tao sẽ cho mầy đau khổ vì mất tình yêu. Tao sẽ cướp đoạt con Mỹ Lan dễ như trở bàn tay. Thằng Năm Hương này chẳng bao giờ chịu thua một đứa trẻ ranh như mầy”.
Đợi cho bà Triệu Phú hỏi thêm một lần nữa, Năm Hương mới cao giọng nói:
- Chúng ta không nên ra mặt chia rẽ họ, vì làm thế chúng ta sẽ thất bại. Theo thiển kiến của tôi, bà phải bình tĩnh và làm như chẳng hay biết gì về câu chuyện tình thầm lén của họ. Tôi biết chắc cậu Hai chưa dám đem vấn đề đó ra bàn bạc với bà sớm. Ván bài mà chúng ta đã đem ra đánh hiện thời nó như thế này.
Năm Hương nghiêng đầu bảo nhỏ vào tai bà Triệu Phú một hồi lâu. Làm bà tươi ngay nét mặt:
- Thật là diệu kế!... Chú luôn luôn là một kẻ đắc dụng. Tôi chấp thuận mưu cơ của chú. Tôi sẽ hành động giống như lời chú vừa nói. Và tôi không quên cảm ơn chú. Tôi sẽ tặng thưởng chú xứng đáng.
Được bà Triệu Phú khen, Năm Hương sướng phồng mũi, gã lập tức giở tài nịnh bợ:
- Tôi mang ơn rất nặng của ông bà. Thuở còn sanh tiền, ông nhà cứu vớt tôi ra khỏi ngặt nghèo... Ngày nay bà đối đãi với tôi như người thân thuộc. Chẳng biết đến đời nào tôi mới đền đáp được cái ơn sâu rộng của ông bà. Tôi nguyện đem hết sức lực ra phò tá bà cho đến ngày cùng.
Bà Triệu Phú cảm động:
- Chú là một người trung thành và mẫn cán. Nếu không có chú, tôi sẽ chẳng làm nên được việc gì. Sự nghiệp của tôi được to lớn như hôm nay là cũng nhờ ở chú phần nào.
Sợ Triệu Vĩ về đến nhà bắt gặp nghi ngờ, Năm Hương vội vàng đứng dậy kiếu từ chủ:
- Bà cho phép tôi về...
Bà Triệu Phú đưa Năm Hương ra ngưỡng cửa phòng:
- Chúc chú ngủ ngon giấc! Có chuyện gì lạ chú nhớ vào cho tôi hay liền để chúng ta tìm cách đối phó.
Năm Hương dạ luôn mồm. Trước khi đi gã không quên căn dặn phòng ngừa:
- Bà đừng cho cậu Hai biết gì đến chuyện này nhé!
Bà Triệu Phú gật đầu:
- Chú cứ yên tâm!
Đợi cho khuất bóng Năm Hương, bà Triệu Phú mới chậm chạp quay gót trở vào phòng. Bà thả tới thả lui trong phòng, trí óc lo nghĩ miên man.

Đối với một góa phụ như bà Triệu Phú, câu chuyện mà Năm Hương vừa cho bà biết là một chuyện vô cùng hệ trọng. Nó dính líu mật thiết đến danh dự của gia đình bà và tương lai của con bà. Đã trải qua thời kỳ xuân sắc đầy yêu đương và mộng thắm, bà Triệu Phú dư rõ cái bồng bột và tha thiết của tuổi trẻ. Bà lẩm bẩm:
- Hừ! Lửa tình! Lửa tình làm cho thanh niên nam nữ mù quáng! Nhưng ta không ngờ con trai của ta lại là một trong những kẻ mù quáng, điên rồ đó.
Bà Triệu Phú đời nào bằng lòng cho con trai thân yêu của bà kết hôn với một đứa gái quê nghèo hèn và kém học thức như Mỹ Lan.
Quả là một tiếng sét đánh ngang tai! Bà không ngờ, phải bà không bao giờ dám ngờ như thế. Con trai của bà đi yêu một con nhỏ nhà quê của cái vùng U Minh muỗi nhiều và nước độc. Bà muốn điên đầu và khó hiểu. Tuổi trẻ ngày nay dị kỳ quá! Ái tình không bắt buộc điều kiện ư? Hai người chênh lệch một trời một vực cũng có thể yêu nhau được à?
Bà Triệu Phú bực mình càu nhàu:
- Ở vào cái thời đại mới mẻ này, cho đến ái tình cũng quái gỡ nốt!
Bà Triệu Phú thấy rõ bà có bổn phận ngăn ngừa tất cả mọi chuyện có hại cho tương lai của con trai bà. Bà phải tìm một người vợ xứng đáng cho Triệu Vĩ - đứa con độc nhứt của bà. Bà thấy bổn phận của một người mẹ to tát quá, tận tuỵ cho con từ thuở lọt lòng cho đến khi nó khôn lớn. Phải chi chồng bà còn sống, bà để cho ông ta trọn quyền định đoạt giải quyết câu chuyện rắc rối này.
Uể oải ngả lưng xuống giường nệm, bà Triệu Phú lắc đầu chán nản.
Có tiếng gót giầy bước nhè nhẹ trên cầu thang. Bà Triệu Phú với tay tắt đèn và nói buông thõng:
- Thằng quỷ sống giờ này mới mò về!...
Triệu Vĩ nhẹ đẩy cửa bước vào căn phòng của mẹ.
Bà Triệu Phú ngước mắt âu yếm nhìn con trai:
- Mỗi buổi sáng con đều đi dạo ngoài đồng?
Vừa kéo ghế ngồi, Triệu Vĩ vừa đáp:
- Dạ con đã quen thói mất rồi! Sáng sớm đi dạo ngoài đồng trống, khỏe khoắn lắm, mẹ ạ! Không khí của đồng quê trong sạch và dễ thở. Con về đây chưa được bao lâu mà đã lên vài cân. Con người ở đây ít bệnh hoạn cũng phải. Ở thành thị hít bụi mãi, chán quá!
Bà Triệu Phú nhìn gương mặt hồng hào của con trai và nghiêm giọng nói:
- Nhưng con sắp xa đồng ruộng rồi!
Triệu Vĩ giật mình. Chàng hấp tấp hỏi:
- Con xa đồng ruộng?
Bà Triệu Phú mỉm cười kín đáo:
- Phải, xa đồng ruộng, con ngạc nhiên lắm sao?
Triệu Vĩ ngượng nghịu cúi mặt lảng tránh đôi mắt tò mò của mẹ. Bà Triệu Phú đắc ý bảo thầm:
- Nó sợ phải xa con bé, yêu ghê gớm lắm rồi!
Giây lâu Triệu Vĩ ngước mặt bảo mẹ:
- Con về đây nghỉ chưa được bao lâu. Hơn nữa con đâu có chuyện gì dính líu với thành thị nữa? Con thích sống yên ổn ở đây, cạnh rừng U Minh và dòng sông Trẹm.
Biết con trai nói tránh mấy chữ “ở cạnh Mỹ Lan”, bà Triệu Phú ôn tồn:
- Mẹ bảo con ở thành thị luôn đâu!
Chẳng để cho con hỏi lôi thôi, bà Triệu Phú nói luôn:
- Hiện thời xưởng dệt và máy xay gạo của chúng ta thiếu nhiều vật liệu cần thiết. Mẹ muốn nhờ con lên Sài Gòn mua sắm những món đồ và luôn tiện con tìm vài thương gia, kỹ nghệ gia quen biết với cha con hồi đó để bàn bạc vấn đề khuếch trương công việc làm ăn, con nghĩ thế nào?
Triệu Vĩ lộ vẻ không được vui, chàng ngập ngừng:
- Con phải ở Sài Gòn bao lâu?
Bà Triệu Phú giả vờ lẩm nhẩm tính toán một hồi và đáp:
- Nhiều lắm chừng một tháng!
Triệu Vĩ buột miệng:
- Một tháng?...
Bà Triệu Phú cười:
- Một tháng mà lâu lắc gì! Nếu công chuyện rồi sớm thì con về sớm.
Triệu Vĩ cắn môi nghĩ ngợi:
- Một tháng trời phải xa lìa Mỹ Lan! Đối với ta một tháng tức là mười năm. Một tháng dài, biết bao nhiêu là thương nhớ.
Chàng liên tưởng luôn đến gương mặt âu sầu của người yêu khi xa cách chàng. Thật là một chuyện tai hại bất ngờ? Mối tình giữa nàng và chàng đang nồng thắm thì đột nhiên lại đứt đoạn, mặc dù đứt đoạn không lâu nhưng cũng đủ làm nát lòng người.
Thấy con trai nghĩ ngợi hồi lâu chưa nói, bà Triệu Phú nhắc khéo:
- Con nghĩ thế nào, con bằng lòng giúp đỡ mẹ chớ? Ngoài con ra chẳng có ai lãnh công việc này được!
Vốn là một người con chí hiếu. Triệu Vĩ không thể từ chối một việc nhỏ của mẹ giao phó, buộc lòng chàng phải nhận lời:
- Chừng nào con khởi hành thưa mẹ!
Được Triệu Vĩ nhận lời, bà Triệu Phú không khỏi mừng thầm. Bà hoan hỉ:
- Sáng mai!
Một lần nữa Triệu Vĩ giật mình:
- Sáng mai? Làm gì sớm thế, hở mẹ?
Bà Triệu Phú cao giọng:
- Công việc rất cần kịp, không thể trì hoãn được. Sáng mai con ra Cà Mau rồi đáp xe lên Bạc Liêu. Con nghĩ tạm tại Châu Thành Bạc Liêu một đêm. Sáng hôm sau, con lên Sóc Trăng để chờ phi cơ đi luôn Sài Gòn. Con chỉ cần mang theo một va-li nhỏ hành lý thôi.
Ngừng một giây, bà nói tiếp:
- Công việc làm đầu tiên của con ở Sài Gòn là mua những vật liệu máy móc và tìm cách gởi về đây cho mẹ. Sau hết con phải tiếp xúc với những người quen thuộc; một lát chiều mẹ sẽ con biết tên họ và địa chỉ của họ. Mẹ sẽ gởi thơ và đánh điện tín lên cho con luôn. Còn con có chuyện gì là phải đánh điện tín về cho mẹ hay liền.
Bà Triệu Phú đẩy ghế đứng phắt dậy. Nhận thấy gương mặt của con trai không được vui, bà cũng thấy đau lòng, nhưng bà không còn cách nào làm hơn nữa được.
Triệu Vĩ uể oải đứng dậy. Bà Triệu Phú âu yếm đặt tay lên vai con trai:
- Thôi con hãy về phòng thu xếp hành trang để sáng sớm mai lên đường! Lát chiều trở vào cho mẹ dặn chút việc.
Triệu Vĩ buồn bã gật đầu, không nói lời nào.
Đứng nhìn theo khuất bóng con trai, bà Triệu Phú thở dài:
- Ta cầu trời phật phù hộ cho lòng nó chóng quên một mối tình tan vỡ! Âm mưu của ta cũng tàn ác lắm nhưng ta phải nghĩ đến danh dự của nhà ta trước hết và tương lai của con trai ta! Một ngày kia, con trai ta sẽ hiểu nỗi lòng của mẹ nó!
Chương 3
Con trăng đồng quê vừa ló dạng khỏi những ngọn dừa, xa xa Triệu Vĩ vội đến nhà Mỹ Lan để báo tin buồn cho nàng biết.
Triệu Vĩ đi theo con đê nhỏ nằm giữa hai cánh đồng bát ngát. Chung quanh chàng lũ trùn dế núp dưới các gốc cây khô rên rỉ hòa tấu một bản nhạc man dã buồn thê lương. Dưới các vũng nước xâm xấp, lũ ễnh ương, bò tọt cũng rống cổ than dài thảm thiết. Xa xa thỉnh thoảng vọng về tiếng kêu nước lớn khô khan của con bìm bịp ở bìa rừng U Minh.

Triệu Vĩ lầm lũi bước nhanh, chàng chẳng chú ý đến cảnh vật thơ mộng như mọi hôm. Chàng đang nghĩ suy sắp đặt những câu nói trước để làm yên lòng người yêu. Chàng dư biết chuyến đi bất ngờ này sẽ làm Mỹ Lan đau khổ không ít. Nhưng biết làm sao bây giờ? Chẳng lẽ chàng lại từ chối sự nhờ vả của mẹ. Dù sao chàng cũng đinh ninh và tự an ủi nhiều lắm chừng một tháng là xong hết mọi công việc ở Sài Gòn. Chàng sẽ trở về Thới Bình tức khắc để nối tiếp những ngày yêu đương đằm thắm, và chàng xin phép mẹ cưới Mỹ Lan làm vợ.
Từ nhà Triệu Vĩ đến nhà Mỹ Lan cũng khá xa: phải đi lần theo đê một đỗi, rồi băng ngang một khoảng đường đồng nứt nẻ. Triệu Vĩ đã quá quen thuộc với con đường này nên chi chàng đi chẳng chút mỏi chân. Hai bàn chân không giầy dép của chàng bước thoăn thoắt trên nền đất cứng. Chàng đã hết suýt soa kêu đau như buổi ban đầu mới đặt chân lên Thới Bình thôn.
Chung quanh Triệu Vĩ vắng ngắt không một bóng người. Cảnh vật hoang vu lặng lẽ, cái yên lặng triền miên và có vẻ bí mật làm cho những kẻ không quen phải rùng mình ghê sợ ngay. Còn những kẻ quen thuộc trái lại rất thích thú.
Tuy lòng đang lo âu nhưng Triệu Vĩ vẫn thấy khoan khoái. Chàng ao ước một ngày gần đây sẽ được đi bộ giữa rừng và cỡi thuyền trên mặt biển một đêm trăng.
Vượt khỏi gò đất cao, ngôi nhà của Mỹ Lan đã hiện ra trước mặt Triệu Vĩ. Đây là một ngôi nhà lá ba gian, một chái nằm cheo leo riêng biệt một mình giữa đồng trống, xa hẳn xóm giềng. Ở xa và thoạt trông vào người ta sẽ bảo đó là một ngôi nhà mồ. Ngôi nhà được xây trên một khoảnh đất cao có nền cao ráo, chung quanh toàn là đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Một hàng rào râm bụt tươi tốt, bao kín phía trước để xua đuổi những đôi mắt tò mò của thanh niên trong xóm.
Qua khỏi cửa ngõ hàng tre cao nghệu, là một cái sân rộng có một hàng cau trồng ngay ngắn chen lẫn với những cây hoa lài và những cây xoài, mít, mận. Hai bên cạnh nhà là rẫy rau và giếng nước. Trước hàng ba có chưng vài chậu kiểng và con chó Tô Tô luôn luôn nằm ghếch mỏ lên hai chân trước.
Đến trước nhà Mỹ Lan, Triệu Vĩ ghé mắt nhìn suốt qua cửa sổ. Dưới ánh trăng sáng ở giữa sân, Mỹ Lan đang giã gạo. Nàng mặc chiếc áo bà ba đen ngắn để lộ hai cánh tay trắng mịn tròn trĩnh. Theo từng cử chỉ mạnh mẽ và nhanh lẹ của Mỹ Lan, cây chày gỗ thong thả nện đều đều xuống chiếc cối vuông vức buông ra tiếng kêu thình thịch nghe rất êm tai.
Mỹ Lan làm việc không ngừng nhưng nàng chẳng tỏ vẻ gì là nhọc mệt. Những sợi tóc mây mỏng manh phủ lòa xòa xuống trán nàng. Gương mặt nàng tươi đẹp dưới ánh trăng xanh.
Những cây hoa lài nở trong đêm tiết ra mùi hương thơm phức làm say lòng người.
Triệu Vĩ sung sướng lẩm bẩm:
- Mỹ Lan đẹp quá! Vừa có đức hạnh, vừa siêng năng cần mẫn và lại làm việc giỏi giang, nàng mới chính là một người vợ hiền và mẹ tốt.
Triệu Vĩ chẳng dám vào trong vội, chàng sợ chạm mặt với ông Năm và Sinh: anh trai của Mỹ Lan. Chàng chúm miệng huýt sáo câu vô đầu bản hát “Làng tôi” và đứng yên chờ kết quả.
Nghe tiếng huýt sáo lảnh lót, Mỹ Lan ngừng tay, mặt nàng tươi lên. Nàng gác ngang cây chày lên miệng cối, đưa tay quệt mồ hôi lấm tấm trên trán và khum lưng tuột hai ống quần xuống ngay ngắn.
Con Tô Tô bỗng chạy sổ ra cửa ngõ, sủa ỏm tỏi một lát rồi im lặng. Biết chắc Triệu Vĩ đã tới, Mỹ Lan vội chạy ra mở cửa. Nàng reo mừng:
- A, anh mới đến!
Triệu Vĩ đưa ngón tay trỏ lên môi:
- Suỵt!... Nho nhỏ chứ! Ba và anh Sinh ngủ chưa?
Mỹ Lan bật cười ròn:
- Anh khéo lo sợ hảo! Hôm nay đến phiên ba gác ở xưởng dệt, còn anh Sinh thì đi tát ao ở cuối xóm, nửa đêm mới về.
Con Tô Tô cứ xoắn xít quanh chân Triệu Vĩ. Hai người sánh vai nhau bước vào sân. Hai chiếc bóng đen ngả dài trên mặt đất. Đi ngang chòm bông lài, Triệu Vĩ dừng bước, hái một đóa hoa lớn nhất và giúi vào tay người yêu:
- Anh tặng em đóa hoa tươi này. Em hay giữ kỹ. Màu trắng của hoa tượng trưng sự trinh bạch. Ngày mai sắc hoa sẽ tàn, hương hoa sẽ hết thơm, nhưng cái màu trắng tinh khiết vẫn còn tồn tại ở đóa hoa mãi mãi.
Hiểu ý người yêu, Mỹ Lan cầm đóa hoa ấp lên ngực và nàng cương quyết nhìn vào mắt Triệu Vĩ.
- Em nguyện sẽ cho màu trắng tinh khiết của đóa hoa lài này mãi với thời gian, như ý anh mong muốn.
Nàng đưa đóa hoa lên hôn, đoạn cẩn thận bỏ nó vào gói kín lại.
Đến trước chiếc cối to đầy ăm ắp gạo. Triệu Vĩ tò mò hỏi:
- Em giã như thế này bao giờ mới trắng gạo?
Mỹ Lan đáp không nghĩ ngợi:
- Nếu giã trắng thiệt trắng thì độ chừng gần một giờ. Nếu giã chày ba, chày tư thì mau hơn nhiều.
- Em giã một mình chẳng buồn ngủ à?
- Quen rồi, buồn ngủ gì được! Mọi hôm đều có anh Sinh giã chung với em. Nhưng hôm nay anh ấy bận tát đìa thành thử em phải giã một mình, vì mai sáng hết gạo nấu cơm rồi. Một cối gạo đầy, nhà em ăn được vài hôm.
Triệu Vĩ ngây ngô hỏi tiếp:
- Giã trắng gạo là xong tất?
Mỹ Lan cười lanh lảnh:

- Giã như thế thôi thì ăn cái quái gì được? Còn phải sàng cám nữa chứ! Gạo thì cho người ta ăn, còn cám thì heo và gà vịt dùng.
Mỹ Lan trỏ chiếc cối xay để ở một góc sân:
- Trước hết phải đem lúa về xay ra gạo. Rồi đem gạo giã. Còn trấu thì dùng vào việc nhúm lửa. Chẳng có cái gì bỏ hết! Dân quê tiền tặn từng chút.
Triệu Vĩ gật gù:
- Anh hiểu rồi! Anh có nhà máy xay lúa mà anh chẳng để ý tới. Nhưng đem hạt lúa làm thành hạt gạo bằng tay thì lâu lắc và bất tiện quá.
- Đành rồi! Nhưng dân chỉ dùng thứ gạo tự tay họ làm ra thôi. Dùng gạo nhà vừa rẻ tiền, lại vừa bổ, nhờ chất cám chưa giã sạch còn dính trong gạo.
Gạo nhà máy chỉ để bán cho dân chợ tiêu thụ. Ở thôn quê, mỗi nhà đều phải có một cối xay lúa, một cối chắc chắn với vài cây chày bằng gỗ nhẹ. Xay lúa và giã gạo cũng là một phương cách để cho chị em phụ nữ vận dụng tay chân và sức lực ngoài công việc bếp núc. Nếu cứ ở không mãi thì đâm ra lười biếng, hư hỏng mất.
Chưa hết, đến mùa lúa, phụ nữ còn phải làm công việc ngoài đồng áng nữa, như: tát nước, gieo mạ, cấy lúa non, gặt lúa chín... Phụ nữ nhà quê rất ham hoạt động và làm việc xốc vác chẳng thua đàn ông con trai bao nhiêu. Anh xuống dạo này gặp lúc mãn mùa nên chẳng thấy cái gì lạ. Nếu gặp mùa rộn rịp đồng quê, anh sẽ rất thích thú. Người ta làm việc một cách hăng hái và trong bầu không khí thân mật, vui tươi, trẻ trung.
Triệu Vĩ khom lưng nhặt cây chày gỗ, giơ lên cao và thẳng tay giáng xuống cối. Gạo văng tung toé ra ngoài mặt đất. Chàng bực dọc:
- Quái dị thật! Giã mạnh như thế mà chẳng ra hồn gì cả!
Trông dáng điệu ngượng nghịu và cử chỉ vụng về của Triệu Vĩ, Mỹ Lan cười rũ rượi:
- Giã gạo chẳng dễ dàng nhưng anh tưởng đâu. Anh có sức lực, anh bổ mạnh chày nhưng không chắc chắn. Hơn nữa, anh đứng tấn không có thế. Người giã gạo chỉ cần nắm chắc cán chày bằng bàn tay mặt thôi, còn bàn tay trái phải cầm lỏng để kịp vuốt lên cao khi đầu chày vừa nện xuống cối. Giã gạo theo kiểu của anh thì chẳng có gạo ăn đấy!
Triệu Vĩ cười chữa thẹn:
- Coi dễ dàng đến thế mà ngẫm nghĩ lại khó!
Chàng trả cây chày về chỗ cũ. Mỹ Lan nhìn người yêu hỏi:
- Hôm nay chúng ta không có hẹn. Anh đến tìm em chơi hay có chuyện chi?
Đang vui vẻ, đột nhiên Triệu Vĩ sa sầm nét mặt. Chàng nắm tay Mỹ Lan:
- Anh có chuyện cần kíp phải nói với em. Nghỉ việc bây giờ được chứ?
Nhận thấy gương mặt nghiêm trọng của tình nhân, Mỹ Lan không khỏi lo âu, nàng bảo Triệu Vĩ:
- Chúng ta ra ngồi bờ giếng nói chuyện!
Nàng vỗ đầu con chó Tô Tô:
- Tô Tô, mầy ở đây giữ gạo giùm chị nhé!
Con chó khôn ngoan ve vẩy đuôi lia lịa tỏ dấu vâng lời. Triệu Vĩ và Mỹ Lan chậm chạp bước về phía bờ giếng. Hai người ngồi trên rễ dây của một cây me chua to tướng.
Chưa ai nói lời nào, Triệu Vĩ ngập ngừng mãi. Hai người lặng nhìn mặt nước giếng trong veo lều bều những đám bèo cám và những cánh lá sen tròn trĩnh xanh mướt. Thỉnh thoảng một luồng gió mạnh tạt qua, lá me rơi lả tả xuống nước và cài lên tóc của đôi tình nhân. Lâu lâu vài con cá lóc nổi lên đớp mặt nước làm gương mặt tròn của Hằng Nga nhăn nhó.
Mỹ Lan nhắc khéo:
- Im lặng quá, anh nhỉ?
Triệu Vĩ cố nén một thở dài:
- Mỹ Lan em, anh có chuyện này nói ra em không được buồn... em bằng lòng?
Mỹ Lan càng lo sợ thêm, nàng thúc giục:
- Thì anh nói xem sao!
Triệu Vĩ đặt tay lên vai người yêu và ngó thẳng vào mắt nàng:
- Mỹ Lan, sáng mai anh đi Sài Gòn...
Mỹ Lan biến sắc mặt:
- Anh đi Sài Gòn?
Hiểu sự lo sợ của người yêu, Triệu Vĩ nói tiếp rõ ràng:

- Mẹ bảo lên Sài Gòn để mua những máy móc cần dùng trong nhà máy và xưởng dệt. Luôn thể anh tìm những thương gia, kỹ nghệ gia quen biết với ba hồi đó để bàn bạc công việc khuếch trương thương mại. Anh biết nói ra em sẽ buồn lắm. Thực tâm anh chẳng muốn đi, anh chẳng muốn xa em giờ phút nào hết, nhưng chả lẽ lại cãi lời mẹ? Công việc mà mẹ nhờ vả chẳng có gì nặng nhọc nên anh không thể từ chối được.
Mỹ Lan ngồi thừ người giây lâu, lòng nàng chết điếng. Nàng chua xót hỏi:
- Bao giờ anh về! Có lâu lắm không?
Triệu Vĩ an ủi:
- Lâu lắm là một tháng! Nhưng anh sẽ cố gắng lo cho công việc chóng rồi để anh trở về. Xa em giữa lúc tình chúng ta đang nồng thắm là một sự vạn bất đắc dĩ. Lên tới Sài Gòn anh sẽ gởi thơ thường về cho em. Thôi chúng ta đành chịu vậy, em ạ! Một tháng chẳng là bao.
Mỹ Lan thờ thẫn lẩm bẩm:
- Một tháng trời!...
Đôi mắt đen huyền của nàng lấp lánh vương hai giọt lệ long lanh. Triệu Vĩ cảm thấy lòng đau nhói, chàng vuốt nhẹ mái tóc người yêu:
- Em hãy hứa với anh là em không được buồn phiền, sầu não trong những ngày xa anh... Xa nhau nhưng chúng ta vẫn tưởng nhớ tới nhau là được rồi. Em hứa với anh đi!
Mỹ Lan rưng rưng nước mắt:
- Em xin hứa... em tưởng nhớ anh luôn... em chờ đợi ngày anh về... Thới Bình thôn cũng đợi chờ anh... Anh đừng phụ lòng em, phụ tình thương mến của anh em nông dân... rừng U Minh muôn đời vẫn xanh, dòng sông Trẹm muôn đời vẫn đỏ...
Nàng gục đầu lên vai Triệu Vĩ nức nở:
- Em mong lòng anh muôn đời vẫn sắc son...
Triệu Vĩ rút khăn tay chùi nước mắt cho Mỹ Lan và chàng dịu dàng nói:
- Anh cũng mong rằng tình của chúng ta bền vững mãi với thời gian. Thôi đừng khóc lóc nữa. Mỹ Lan! Tiếng khóc sụt sùi của em làm lòng anh tan nát. Tội gì phải than khóc với một ngày mà nó không phải là ngày vĩnh biệt của chúng ta. Chúng ta hãy vui với ngày tạm biệt và sẽ vui nhiều hơn với ngày tái ngộ.
- Nhưng biết đâu ngày hôm nay lại chẳng là ngày mà chúng ta xa nhau vĩnh viễn!... Anh thường tin tưởng ở định mệnh; biết đâu lần này lại chẳng có thần định mệnh nhúng tay vào.
Triệu Vĩ lộ vẻ không hài lòng, trách cứ Mỹ Lan:
- Sao em lại nghĩ những chuyện không tốt! Em nghi ngờ lòng anh? Anh buồn em lắm đấy! Định mệnh vẫn là định mệnh, còn chúng ta thì vẫn là chúng ta!
Đột nhiên đôi gò má của Mỹ Lan ửng hồng lên. Nàng bẽn lẽn, ngập ngừng nói:
- Anh Triệu Vĩ... em đã có thai...
Dứt lời nàng ngượng nghịu xây mặt ngó về phía khác.
Triệu Vĩ mừng rỡ chụp lấy hai bả vai Mỹ Lan, bắt buộc nàng nhìn thẳng vào mặt mình. Chàng hỏi dồn:
- Em đã có thai? Thật à?
Với bản tính hay cả thẹn của một thôn nữ ngây thơ, Mỹ Lan lúng túng đáp nhanh:
- Chứ nói dối anh làm gì!
Không dằn được sung sướng, Triệu Vĩ ôm chầm lấy Mỹ Lan:
- Anh sung sướng quá? Anh chỉ mong mỏi thế! Rồi đây chúng ta sẽ có con! À, mà bao lâu rồi nhỉ? Sao em không cho anh biết sớm?
Câu hỏi thành thật của Triệu Vĩ làm Mỹ Lan càng thẹn nhiều thêm nữa. Nàng lảng tránh đôi mắt của chàng, khẽ để bàn tay lên bụng và đáp:
- Có lẽ chừng tháng nay thôi!... Em định cho anh hay từ lâu nhưng ngượng quá!
Triệu Vĩ nghiêm sắc mặt:
- Anh đi Sài Gòn trong tình trạng em đang thai nghén thật anh không muốn tí nào hết.
Mỹ Lan tuy lo buồn vì phải xa Triệu Vĩ nhưng nàng không muốn Triệu Vĩ vì mình mà phải cãi lời mẹ, nàng khẽ nắm tay Triệu Vĩ:
Mỹ Lan cười lanh lảnh:
- Giã như thế thôi thì ăn cái quái gì được? Còn phải sàng cám nữa chứ! Gạo thì cho người ta ăn, còn cám thì heo và gà vịt dùng.
Mỹ Lan trỏ chiếc cối xay để ở một góc sân:

- Trước hết phải đem lúa về xay ra gạo. Rồi đem gạo giã. Còn trấu thì dùng vào việc nhúm lửa. Chẳng có cái gì bỏ hết! Dân quê tiền tặn từng chút.
Triệu Vĩ gật gù:
- Anh hiểu rồi! Anh có nhà máy xay lúa mà anh chẳng để ý tới. Nhưng đem hạt lúa làm thành hạt gạo bằng tay thì lâu lắc và bất tiện quá.
- Đành rồi! Nhưng dân chỉ dùng thứ gạo tự tay họ làm ra thôi. Dùng gạo nhà vừa rẻ tiền, lại vừa bổ, nhờ chất cám chưa giã sạch còn dính trong gạo.
Gạo nhà máy chỉ để bán cho dân chợ tiêu thụ. Ở thôn quê, mỗi nhà đều phải có một cối xay lúa, một cối chắc chắn với vài cây chày bằng gỗ nhẹ. Xay lúa và giã gạo cũng là một phương cách để cho chị em phụ nữ vận dụng tay chân và sức lực ngoài công việc bếp núc. Nếu cứ ở không mãi thì đâm ra lười biếng, hư hỏng mất. Chưa hết, đến mùa lúa, phụ nữ còn phải làm công việc ngoài đồng áng nữa, như: tát nước, gieo mạ, cấy lúa non, gặt lúa chín... Phụ nữ nhà quê rất ham hoạt động và làm việc xốc vác chẳng thua đàn ông con trai bao nhiêu. Anh xuống dạo này gặp lúc mãn mùa nên chẳng thấy cái gì lạ. Nếu gặp mùa rộn rịp đồng quê, anh sẽ rất thích thú. Người ta làm việc một cách hăng hái và trong bầu không khí thân mật, vui tươi, trẻ trung.
Triệu Vĩ khom lưng nhặt cây chày gỗ, giơ lên cao và thẳng tay giáng xuống cối. Gạo văng tung toé ra ngoài mặt đất. Chàng bực dọc:
- Quái dị thật! Giã mạnh như thế mà chẳng ra hồn gì cả!
Trông dáng điệu ngượng nghịu và cử chỉ vụng về của Triệu Vĩ, Mỹ Lan cười rũ rượi:
- Giã gạo chẳng dễ dàng nhưng anh tưởng đâu. Anh có sức lực, anh bổ mạnh chày nhưng không chắc chắn. Hơn nữa, anh đứng tấn không có thế. Người giã gạo chỉ cần nắm chắc cán chày bằng bàn tay mặt thôi, còn bàn tay trái phải cầm lỏng để kịp vuốt lên cao khi đầu chày vừa nện xuống cối. Giã gạo theo kiểu của anh thì chẳng có gạo ăn đấy!
Triệu Vĩ cười chữa thẹn:
- Coi dễ dàng đến thế mà ngẫm nghĩ lại khó!
Chàng trả cây chày về chỗ cũ. Mỹ Lan nhìn người yêu hỏi:
- Hôm nay chúng ta không có hẹn. Anh đến tìm em chơi hay có chuyện chi?
Đang vui vẻ, đột nhiên Triệu Vĩ sa sầm nét mặt. Chàng nắm tay Mỹ Lan:
- Anh có chuyện cần kíp phải nói với em. Nghỉ việc bây giờ được chứ?
Nhận thấy gương mặt nghiêm trọng của tình nhân, Mỹ Lan không khỏi lo âu, nàng bảo Triệu Vĩ:
- Chúng ta ra ngồi bờ giếng nói chuyện!
Nàng vỗ đầu con chó Tô Tô:
- Tô Tô, mầy ở đây giữ gạo giùm chị nhé!
Con chó khôn ngoan ve vẩy đuôi lia lịa tỏ dấu vâng lời. Triệu Vĩ và Mỹ Lan chậm chạp bước về phía bờ giếng. Hai người ngồi trên rễ dây của một cây me chua to tướng.
Chưa ai nói lời nào, Triệu Vĩ ngập ngừng mãi. Hai người lặng nhìn mặt nước giếng trong veo lều bều những đám bèo cám và những cánh lá sen tròn trĩnh xanh mướt. Thỉnh thoảng một luồng gió mạnh tạt qua, lá me rơi lả tả xuống nước và cài lên tóc của đôi tình nhân. Lâu lâu vài con cá lóc nổi lên đớp mặt nước làm gương mặt tròn của Hằng Nga nhăn nhó.
Mỹ Lan nhắc khéo:
- Im lặng quá, anh nhỉ?
Triệu Vĩ cố nén một thở dài:
- Mỹ Lan em, anh có chuyện này nói ra em không được buồn... em bằng lòng?
Mỹ Lan càng lo sợ thêm, nàng thúc giục:
- Thì anh nói xem sao!
Triệu Vĩ đặt tay lên vai người yêu và ngó thẳng vào mắt nàng:
- Mỹ Lan, sáng mai anh đi Sài Gòn...
Mỹ Lan biến sắc mặt:
- Anh đi Sài Gòn?
Hiểu sự lo sợ của người yêu, Triệu Vĩ nói tiếp rõ ràng:
- Mẹ bảo lên Sài Gòn để mua những máy móc cần dùng trong nhà máy và xưởng dệt. Luôn thể anh tìm những thương gia, kỹ nghệ gia quen biết với ba hồi đó để bàn bạc công việc khuếch trương thương mại. Anh biết nói ra em sẽ buồn lắm. Thực tâm anh chẳng muốn đi, anh chẳng muốn xa em giờ phút nào hết, nhưng chả lẽ lại cãi lời mẹ? Công việc mà mẹ nhờ vả chẳng có gì nặng nhọc nên anh không thể từ chối được.
Mỹ Lan ngồi thừ người giây lâu, lòng nàng chết điếng. Nàng chua xót hỏi:
- Bao giờ anh về! Có lâu lắm không?
Triệu Vĩ an ủi:
- Lâu lắm là một tháng! Nhưng anh sẽ cố gắng lo cho công việc chóng rồi để anh trở về. Xa em giữa lúc tình chúng ta đang nồng thắm là một sự vạn bất đắc dĩ. Lên tới Sài Gòn anh sẽ gởi thơ thường về cho em. Thôi chúng ta đành chịu vậy, em ạ! Một tháng chẳng là bao.
Mỹ Lan thờ thẫn lẩm bẩm:
- Một tháng trời!...

Đôi mắt đen huyền của nàng lấp lánh vương hai giọt lệ long lanh. Triệu Vĩ cảm thấy lòng đau nhói, chàng vuốt nhẹ mái tóc người yêu:
- Em hãy hứa với anh là em không được buồn phiền, sầu não trong những ngày xa anh... Xa nhau nhưng chúng ta vẫn tưởng nhớ tới nhau là được rồi. Em hứa với anh đi!
Mỹ Lan rưng rưng nước mắt:
- Em xin hứa... em tưởng nhớ anh luôn... em chờ đợi ngày anh về... Thới Bình thôn cũng đợi chờ anh... Anh đừng phụ lòng em, phụ tình thương mến của anh em nông dân... rừng U Minh muôn đời vẫn xanh, dòng sông Trẹm muôn đời vẫn đỏ...
Nàng gục đầu lên vai Triệu Vĩ nức nở:
- Em mong lòng anh muôn đời vẫn sắc son...
Triệu Vĩ rút khăn tay chùi nước mắt cho Mỹ Lan và chàng dịu dàng nói:

- Anh cũng mong rằng tình của chúng ta bền vững mãi với thời gian. Thôi đừng khóc lóc nữa. Mỹ Lan! Tiếng khóc sụt sùi của em làm lòng anh tan nát. Tội gì phải than khóc với một ngày mà nó không phải là ngày vĩnh biệt của chúng ta. Chúng ta hãy vui với ngày tạm biệt và sẽ vui nhiều hơn với ngày tái ngộ.
- Nhưng biết đâu ngày hôm nay lại chẳng là ngày mà chúng ta xa nhau vĩnh viễn!... Anh thường tin tưởng ở định mệnh; biết đâu lần này lại chẳng có thần định mệnh nhúng tay vào.
Triệu Vĩ lộ vẻ không hài lòng, trách cứ Mỹ Lan:
- Sao em lại nghĩ những chuyện không tốt! Em nghi ngờ lòng anh? Anh buồn em lắm đấy! Định mệnh vẫn là định mệnh, còn chúng ta thì vẫn là chúng ta!
Đột nhiên đôi gò má của Mỹ Lan ửng hồng lên. Nàng bẽn lẽn, ngập ngừng nói:
- Anh Triệu Vĩ... em đã có thai...
Dứt lời nàng ngượng nghịu xây mặt ngó về phía khác.
Triệu Vĩ mừng rỡ chụp lấy hai bả vai Mỹ Lan, bắt buộc nàng nhìn thẳng vào mặt mình. Chàng hỏi dồn:
- Em đã có thai? Thật à?
Với bản tính hay cả thẹn của một thôn nữ ngây thơ, Mỹ Lan lúng túng đáp nhanh:
- Chứ nói dối anh làm gì!
Không dằn được sung sướng, Triệu Vĩ ôm chầm lấy Mỹ Lan:
- Anh sung sướng quá? Anh chỉ mong mỏi thế! Rồi đây chúng ta sẽ có con! À, mà bao lâu rồi nhỉ? Sao em không cho anh biết sớm?
Câu hỏi thành thật của Triệu Vĩ làm Mỹ Lan càng thẹn nhiều thêm nữa. Nàng lảng tránh đôi mắt của chàng, khẽ để bàn tay lên bụng và đáp:
- Có lẽ chừng tháng nay thôi!... Em định cho anh hay từ lâu nhưng ngượng quá!
Triệu Vĩ nghiêm sắc mặt:
- Anh đi Sài Gòn trong tình trạng em đang thai nghén thật anh không muốn tí nào hết.
Mỹ Lan tuy lo buồn vì phải xa Triệu Vĩ nhưng nàng không muốn Triệu Vĩ vì mình mà phải cãi lời mẹ, nàng khẽ nắm tay Triệu Vĩ:

- Triệu chứng có thai mới bắt đầu thôi, anh đừng lo ngại vì em nhiều lắm. Anh hãy làm tròn lời căn dặn của mẹ, nhưng anh nhớ về sớm vì em mong lắm. Tới Sài Gòn anh nhớ gởi thư về cho em biết địa chỉ để em biên thư lên cho anh biết tin tức ở dưới này. Một tháng cũng chẳng là bao!
Triệu Vĩ bùi ngùi:
- Anh sẽ trở về trước thời hạn một tháng để tính công cuộc hôn nhân của chúng ta, vì chúng ta sắp có thêm một bổn phận nữa. Khi trở về anh sẽ đem câu chuyện nói với mẹ và chúng ta lấy nhau. Rồi chúng ta sẽ có con và gia đình chúng ta sẽ hoàn toàn hạnh phúc.
Mỹ Lan tuy mừng thầm trong dạ nhưng nàng vẫn không ngớt lo âu:

- Lỡ mẹ không bằng lòng thì sao? Nếu thế em chết mất thôi!
Triệu Vĩ cương quyết:
- Không ai lay chuyển nổi ý định của anh. Nếu mẹ không bằng lòng thì anh tự bằng lòng lấy một mình vậy. Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người. Cha mẹ không thể ép buộc được con cái. Anh lớn rồi, anh biết lựa chọn người bạn đời của anh. Anh chỉ nghe theo tiếng gọi của trái tim anh thôi. Em hãy tin nơi anh.
Trước những lời lẽ cứng rắn của Triệu Vĩ, Mỹ Lan bùi ngùi cảm động:
- Em cảm ơn anh nhiều lắm! Hiện thời cuộc đời em nằm gọn trong tay anh. Cả linh hồn lẫn thể xác em đã trao hết cho anh. Còn đứa con trong bụng nữa, nó khổ sở hay sung sướng sau này là do ở anh định đoạt. Anh hãy ráng đào tạo nó nên người vì nó là giọt máu chung của chúng ta. Em tin tưởng đứa bé sẽ là con trai nó giống hệt cha nó từ tánh tình lẫn khí phách.
Triệu Vĩ sung sướng nói:
- Nó còn giống em ở cái chân thật và giản dị, đặc tánh của dân quê.
Mỹ Lan vụt hỏi người yêu:
- À, em nghe người ta đồn con gái Sài Gòn đẹp lắm phải không anh?
Hiểu thâm ý của Mỹ Lan, Triệu Vĩ vuốt nhẹ mái tóc nhung và đáp:
- Con gái Sài Gòn tuy đẹp thật nhưng có cái đẹp diêm dúa, kiểu cách. Và cái đẹp bên ngoài đâu có tồn tại mãi và đáng quý bằng cái đẹp của tâm hồn. Anh rất ghê sợ thứ sắc đẹp rỗng tuếch. Gái đẹp của Sài Gòn chỉ để làm tình nhân thôi chứ không thể lấy làm vợ được. Vợ anh phải là người gái chân thật, thuần hậu, siêng năng, đảm đương, hoạt động và nhất là không để cho danh lợi, tiền tài, sắc dục lôi cuốn. Một người đàn bà Việt Nam hoàn toàn không phải chỉ là một người hiền nội trợ thôi, mà còn phải là một người mẹ tốt, biết yêu thương con cái hơn yêu thương bản thân mình.
Triệu Vĩ nắm chặt bàn tay của Mỹ Lan:
- Em chính là một người phụ nữ Việt Nam hoàn toàn, một người vợ hiền biết thương chồng và một người mẹ tốt biết thương con!

Mỹ Lan sung sướng ngả đầu lên vai người yêu không nói một lời. Nàng liên tưởng đến một gia đình ấm cúng với chồng hiền, vợ hạnh, con ngoan. Một luồng gió mạnh thổi tạt ngang. Những tàu lá chuối trông quanh bờ giếng va chạm nhau bật thành tiếng nghiến răng ken két. Xa xa, ngoài đồng vắng, thấp thoáng những bóng trẻ con lui cui đào hang tìm bắt dế. Đâu đây vẳng trong cơn gió nhẹ tiếng đánh vần quốc ngữ ê... a... của các cụ già ham học.
Triệu Vĩ lắng tai nghe và hỏi Mỹ Lan:
- Có phải mấy cụ già học lớp bình dân học vụ ban đêm?
Mỹ Lan gật đầu, đáp:
- Phải! Ở thôn quê dạo này người ta ham học lắm. Những ông bà cụ râu tóc bạc phơ, những ông chồng, những bà vợ vẫn còn ham học như trẻ nít. Tối đến, họ cắp sách tới trường, tâm hồn trẻ trung như còn niên thiếu. Họ đi học không tốn một món gì hết, vì nhà trường chu cấp cho tất cả, từ giấy mực đến bút phấn. Người ta triệt để chống giặc dốt, quan trọng cũng như là chống giặc đói và giặc ngoại xâm. Trẻ cũng học, già cũng học, có gia đình cũng học, chưa có gia đình cũng học, tàn tật cũng học. Nếu ai mắc cỡ không chịu đi học thì sẽ có người đến tận nhà mời mọc một cách lễ phép và nhã nhặn. Trước chiến tranh hồi Pháp thuộc, ở đây hầu hết người ta đều dốt đặc, chỉ trừ một số nhà giàu cho con đi học ở tỉnh và những ông hương chức làng. Nhưng hiện thời số người dốt trong làng giảm bớt hơn tám chục phần trăm. Một ngày gần đây sẽ không còn ai dốt nữa. Hiện thời giáo dục cưỡng bách đến lớp ba, nhưng lần hồi sẽ đến lớp nhứt và sẽ còn cao hơn nữa, tuỳ theo trình độ tiến hóa của dân chúng.
Nàng nói lảng sang chuyện khác:
- Anh Triệu Vĩ, anh đừng quên rằng ở Thới Bình thôn có một người con gái chiều chiều ra bờ sông Trẹm ngóng trông anh.
Triệu Vĩ nối lời người yêu:
- Và em hãy tin rằng nơi kinh kỳ phồn hoa đô hộ, chiều chiều vẫn có một người đàn ông hướng mắt về nẻo quê xa tưởng đến hình bóng một người con gái áo đen!
Hai người cùng nín lặng. Hai đôi mắt đắm đuối nhìn nhau. Hai tâm hồn cảm thông nhau qua những ý nghĩ chân thành nhứt.
Hồi lâu, hai người đứng dậy. Gió thổi bay hai vạt áo. Mỹ Lan cố đè nén, xúc cảm:
- Thôi anh về nghỉ sớm để mai lên đường! Sáng mai em sẽ ra bờ sông Trẹm tiễn đưa anh! Dòng nước sông Trẹm muôn đời vẫn đỏ, anh nhỉ?
Hiểu ý Mỹ Lan, Triệu Vĩ cảm động:
- Phải! Dòng nước sông Trẹm muôn đời vẫn đỏ, cũng như chúng ta muôn đời vẫn sắt son!
Chàng đặt tay lên vai Mỹ Lan và nhìn thẳng vào mắt nàng:
- Mỹ Lan em, chúng ta yêu nhau một đêm trăng, tạm biệt nhau cũng một đêm trăng, và anh tin chắc rằng hôn lễ của chúng ta cũng sẽ diễn ra vào một đêm trăng.
Mỹ Lan khẽ gật đầu, lòng gợn một niềm sung sướng vô biên. Nàng đưa người yêu ra khỏi ngõ.
Con chó Tô Tô chạy theo quấn quít bên chân hai người như vui mừng với hạnh phúc của họ.
Triệu Vĩ quay lưng bước nhanh xuống bờ đê để tránh một sự xúc cảm mạnh kéo dài.
Lũ trùng dế và ễnh ương hòa hợp cử lên bản nhạc tạm biệt buồn ảo não.
Mỹ Lan đứng nhìn dõi theo bóng Triệu Vĩ xa lần trên cánh đồng rộng mênh mông và bỗng dưng nàng nghẹn ngào:
- Triệu Vĩ ơi! Em mong chờ ngày trở về của anh!...
Thoáng chốc đã ba tháng trời, kể từ buổi biệt ly hôm ấy. Bóng Triệu Vĩ vẫn bằn bặt: chàng chưa trở về Thới Bình thôn; Mỹ Lan mỏi mong trông đợi. Sáng sáng, chiều chiều, nàng ra đứng bên bờ sông Trẹm đưa mắt âu sầu nhìn dòng nước đỏ ngầu chảy siết mà lòng tơi bời nổi sóng. Mỹ Lan đau khổ vô cùng. Ba tháng dài đăng đẳng, nàng biếng ăn, biếng ngủ, biếng cười, biếng nói. Đôi mắt đẹp luôn luôn như đẫm lệ và hướng về nẻo trời xa xăm tìm một hình ảnh thân yêu chưa trở lại. Dòng sông Trẹm vẫn đỏ, rừng U Minh vẫn xanh, chẳng lẽ Triệu Vĩ lại lỗi thề? Mỹ Lan nghĩ ngợi nát óc cái căn nguyên xui khiến cho người yêu không đúng hẹn.
Trước khi đi, Triệu Vĩ hứa chắc với nàng nhiều lắm là một tháng sẽ về. Thế mà nay ba tháng rồi. Triệu Vĩ cũng không gởi về một lá thư nào để cho Mỹ Lan yên dạ. Mỗi ngày nàng đều đến hỏi thăm Năm Hương về thư từ, nhưng Năm Hương đều lắc đầu. Những dụng cụ máy móc, Triệu Vĩ đã gởi về cho bà Triệu Phú từ lâu. Đáng lẽ chàng phải gởi thư cho nàng biết nếu thật tình chàng bận việc bề bộn chưa thể về đúng hẹn được. Đằng này hình bóng, thư từ, tin tức đều mất biệt luôn.

Mỹ Lan đau buồn vô hạn. Nghĩ đến sự phụ bạc của Triệu Vĩ, Mỹ Lan không sao ngăn được đôi dòng lệ thảm. Nếu đúng thế thì đời nàng còn gì? Lẽ sống duy nhứt của nàng là Triệu Vĩ không bao giờ bỏ rơi nàng, vì nàng còn mang giọt máu của chàng trong bụng. Mỹ Lan cố bám lấy một đức tin yếu đuối và mỏi mòn trông đợi hình ảnh một người.
Niềm thương nhớ lẫn đau khổ giày xéo tâm hồn người thôn nữ dịu hiền. Dòng nước sông Trẹm đã bao nhiêu lần hứng những giọt lệ tâm sự não nùng của Mỹ Lan. Nàng chờ đợi, nàng tin tưởng... Nàng có biết đâu hạnh phúc của đời nàng, của con nàng đang sắp gẫy đỗ vĩnh viễn. Nàng có biết đâu bà Triệu Phú tìm hết mọi cách để giữ chân Triệu Vĩ ở lại Sài Gòn. Và Năm Hương đã thủ tiêu hết tất cả những bức thư mà Triệu Vĩ gởi về cho Mỹ Lan trong thời gian ba tháng nay. Bà Triệu Phú và Năm Hương hợp sức nhau sắp đặt mưu mô một cách thầm lặng để phá tan cuộc tình duyên quá chênh lệch (theo ý bà) giữa Triệu Vĩ và Mỹ Lan.
Âm mưu độc hiểm của họ đã đi được gần đến mức kết quả tốt đẹp. Họ chỉ còn chờ một hành động nhỏ nữa là thành công. Vì lý do công việc, bà Triệu Phú kéo dài thời hạn ở Sài Gòn của con trai. Triệu Vĩ không dè đến mưu kế của mẹ và tên quản gia. Tuy sốt ruột và nóng lòng Triệu Vĩ vẫn không dám cãi lời mẹ. Vả lại, chàng tin mấy bức thư của chàng đã đến tay Mỹ Lan. Nhưng chàng hơi lấy làm lạ và lo ngại là Mỹ Lan không trả lời thư cho chàng được yên lòng.
Vô tình Triệu Vĩ và Mỹ Lan đã sa vào bẫy của Năm Hương và cả bà Triệu Phú nữa. Bà tin rằng mọi công chuyện đều có thể kết thúc được dễ dàng, và chẳng có gì hại cho Triệu Vĩ lẫn Mỹ Lan.
Mưu kế của Năm Hương trước hết là làm chia rẽ đôi tình nhân, rồi gieo sự nghi ngờ vào trí óc họ, rốt cuộc là làm cho họ lầm lẫn nhau. Đi được tới đích là Năm Hương thành công. Bộ óc gian xảo của Năm Hương sắp đặt mọi việc rất khéo léo. Cái bẫy đã giương xong, giờ gã chỉ còn thản nhiên ngồi chờ chim sa vào để ra tay bắt.
Ngày giờ chậm chạp trôi qua như cỗ xe tang trong sự mong nhớ não nề của Mỹ Lan. Cái bụng mang thai của nàng đã hơi phồng lên làm Mỹ Lan lo ngại nhiều thêm. Nếu Triệu Vĩ phụ nàng hoặc về quá trễ, nàng sẽ nguy mất. Không giấu kín được chửa nghén, nàng sẽ là cái bia để cho người trong làng đàm tiếu. Nàng sẽ nhục nhã biết mấy, nàng nhớ đến câu: “Không chồng mà chửa, thế gian lạ đời”.
Dù cho xã hội có văn minh đến mức nào đi nữa, gái chưa chồng mà chửa vẫn là một chuyện xấu xa đáng cho thiên hạ chê cười.
Sự lo âu, mong nhớ, đau buồn làm cho Mỹ Lan gầy đi khá nhiều. Qua những đêm dài không ngủ và khóc thầm, Mỹ Lan mất hết vẻ tươi vui, hồn nhiên của một thiếu nữ đẹp, yêu đời. Nhưng Mỹ Lan hơi yên lòng khi nhớ lại câu hứa hẹn của người yêu vào một đêm trăng bên bờ giếng:
“Dòng sông Trẹm vẫn đỏ, rừng U Minh vẫn xanh, thì tình chúng ta vẫn sắt son”.
Ngày ngày Mỹ Lan đều ra bờ sông Trẹm hướng mắt về phía rừng U Minh xem nước và rừng có thay đổi màu chăng. Và nàng lại bừng tin tưởng khi nhận thấy khu rừng U Minh xanh mịt vẫn đổ tuông xuống sông Trẹm thứ nước đỏ ngầu của đước và mật cật.
Mỹ Lan đếm nhẩm trên đầu ngón tay từng ngày một. Đã hơn ba tháng rồi, bắt đầu từ ngày Triệu Vĩ xa lìa Thới Bình thôn thơ mộng, Mỹ Lan sống trong tình trạng của chinh phụ đợi chồng.

Cha già, anh trai Mỹ Lan nhận thấy sự thay đổi của nàng, nhưng hai người không hiểu nguyên cớ. Chỉ có Năm Hương thấy rõ và hiểu thôi. Gã mừng thầm trong dạ. Gã nắm chặt trong tay sự thành công. Mối nhục nhã của gã sẽ rửa được và không chừng dục vọng của gã cũng sẽ được thỏa mãn. Con người của Năm Hương không bao giờ biết thương hại ai, gã chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của gã. Gã có biết đâu gã đã nhúng tay vào một tội ác khó tha thứ được. Đấy là tội giết chết tâm hồn người ta.
Sáng nay, như thường lệ mọi hôm, sau khi đã dọn dẹp nhà cửa, Mỹ Lan thả ra bờ sông Trẹm nhìn dòng nước lững lờ trôi cuốn theo không biết bao nhiêu là lá vàng lẫn lá xanh, cùng những cụm lục bình to tướng.
Mặt trời đỏ chói rọi xuống sông những tia lửa sáng rực. Bầy nhạn trắng bay sà sà trên mặt nước đớp mồi.
Bình minh nơi thôn dã làm dịu lòng người. Sương mù long lanh bám trên cành lá tan dần khi bị ánh sáng liếm tới. Hàng dừa nước rung rẩy nhịp theo từng luồng gió nhẹ.
Dòng sông Trẹm náo nhiệt lạ thường. Tam bản xuồng ba lá ghe cà dôm buôn bán chở đầy mọi thứ, quang cảnh nhộn nhịp trông rất vui mắt. Những chiếc xuồng con bán hàng sáng, lướt băng băng xuôi ngược, dọc ngang. Những cô gái trẻ vừa đẩy mạnh mái chèo duyên dáng vừa mời mọc khách. Những anh chàng lái buôn sồn sồn có, trẻ tuổi có, luôn luôn gọi mấy gánh hàng linh động trên mặt nước để dùng vài tô bún nước lèo, hoặc bánh canh mặn dằn bụng sáng và luôn thể chọc ghẹo, cùng hái những nụ cười tươi của mấy cô gái bán hàng.
Ở bên đò chợ, chiếc tam bản nối liền bên này với bên kia sông qua lại không ngừng, chuyến nào cũng chở đầy ăm ắp khách đi chợ. Buổi chợ đông nhóm từ lúc tờ mờ sáng.
Thới Bình thôn ồn ào, rộn rịp phô bày tất cả sức sống linh động. Sau chiến tranh dường như người ta cố gắng làm việc nhiều hơn để lấy lại những cái gì đã mất trong chín năm khói lửa vừa qua. Cũng như bao nhiêu miền quê Việt Nam khác, Thới Bình hăm hở hoạt động, hăng hái kiến thiết lại những cái đã đổ vỡ. Người dân quê Việt Nam với sức sống tiềm tàng không bao giờ thối chí, ngã lòng. Họ kiên nhẫn xây dựng cho quê hương thân yêu của họ thêm phong phú và họ can đảm đào tạo cuộc sống của họ tiến bộ hơn để hầu có theo kịp bánh xe tiến hóa của xã hội Việt Nam đang được sức người thác đẩy mạnh mẽ.
Mỹ Lan đứng lặng giờ lâu bên sông Trẹm, một buổi bình minh nắng ấm, thiên hạ nô nức vui mừng cớ sao lòng nàng trống lạnh? Thiếu một bóng người thân yêu là thiếu tất cả.
Mỹ Lan đau khổ thở dài, nàng uể oải lê bước đến nhà bà Triệu Phú. nàng vào thẳng văn phòng riêng của Năm Hương.
Trông thấy Mỹ Lan, Năm Hương đã biết ngay nàng đến đây để làm gì rồi. Gã giữ vẻ thản nhiên:
- À, cô Mỹ Lan! Cô đến sớm quá! Mời cô ngồi ghế.
Mỹ Lan gật đầu chào tên quản lý và đáp:
- Cảm ơn ông! Tôi đứng được.
Năm Hương chận đầu:
- Cô đến đây để hỏi thư?
- Phải. Ông xem giùm có thư của tôi chăng?
Năm Hương với tay lấy xấp thư để trên bàn, gã lật từng cái một xem hồi lâu, đoạn lắc đầu:
- Không có thư của cô!
Gương mặt Mỹ Lan ủ dột âu sầu. Năm Hương nhận thấy tất cả nhưng không nói gì. Mỹ Lan run giọng.
- Cảm ơn ông... Tôi về!
Mỹ Lan quay lưng bước nhanh. Năm Hương gọi giật lại:
- Cô Mỹ Lan!
Mỹ Lan dừng bước hỏi:
- Ông gọi tôi?
Năm Hương rời ghế đứng dậy, bước đến trước mặt Mỹ Lan, ôn tồn:

- Cô Mỹ Lan, hình như cô chờ đợi thư của một người nào? Sáng nào cô cũng đến!
Trước câu hỏi bất ngờ của tên quản lý, Mỹ Lan lúng túng:
- À... Tôi chờ thư của một người... bạn gái hiện đang làm việc tại Sài Gòn.
Dư biết Mỹ Lan nói dối, nhưng Năm Hương tỏ ra rất tin lời nàng:
- Cô cho đúng chắc chắn địa chỉ tại đây?
Thấy Năm Hương chẳng chút nghi ngờ, Mỹ Lan vững dạ. Nàng bình tĩnh đáp:
- Tôi biên địa chỉ rất đúng, không thể lạc thư được.
Dứt lời Mỹ Lan định từ giã Năm Hương nhưng gã khôn ngoan giữ lại.
- À cô có hay tin này không? Bà chủ vừa cho tôi biết một tin mừng. Chúng ta sắp dự một đám cưới lớn lao chưa hề có ở Thới Bình từ trước đến nay.
Mỹ Lan lo ngại hỏi nhanh:
- Đám cưới ai?
Biết Mỹ Lan sắp sa vào bẫy, Năm Hương nghiêm giọng nói rõ ràng.
- Đám cưới của cậu Hai, con trai bà chủ!
Tự nhiên mặt Mỹ Lan tái mét. Nàng cố kiềm chế nhưng thân thể nàng run bần bật dường như muốn ngã gục. Nàng gượng hỏi:
- Cậu Hai cưới ai đấy?
Năm Hương búa mạnh vào đầu Mỹ Lan chẳng chút thương hại:
- Ngọc Anh, con gái của Bác sĩ Thạch ở Bạc Liêu! Cậu Hai chưa về đây được vì cậu phải ở nán lại Sài Gòn để lo sắp đặt công việc lễ hỏi. Có lẽ lâu lắm cậu Hai mới về đây. Hôn lễ cử hành trước ở Sài Gòn, rồi tới Bạc Liêu, và sau rốt mới đến Thới Bình. Ngày ấy mọi công nhân sẽ được nghỉ việc lãnh lương đủ và ăn uống no say.
Nghe mấy lời Mỹ Lan muốn té xỉu, nàng phải vịn tay vào thanh cửa.
Năm Hương đánh thêm một đòn cuối cùng:
- Thật là xứng đôi vừa lứa! Cô Ngọc Anh vừa đẹp, vừa học giỏi, vừa con nhà danh gia. Cậu Hai nhà ta thật có phước lớn!
Không chịu được nữa, Mỹ Lan đâm sầm chạy ra khỏi nhà chẳng kịp chào tên quản lý.
Năm Hương đứng xoa tay khoái trá nhìn theo:
Thế là xong! Con mồi cái đã sa vào bẫy, giờ chỉ còn rình bắt con mồi đực nữa là hết chuyện!
Mỹ Lan định chạy thẳng về nhà. Đầu óc nàng choáng váng, mắt nàng hoa lên. Nàng cắm cổ chạy như một con mẹ điên. Ra đến ruộng nàng ngồi phệt xuống bờ mẫu, thở hỗn hển trong khi nước mắt chảy ràn rụa. Chung quanh nàng, mọi vật nhảy múa lung tung chẳng còn nhận rõ được vật gì với vật gì.
Thế là hết! Bây giờ nàng mới hiểu rõ cái nguyên do xui khiến Triệu Vĩ ở mãi Sài Gòn và chẳng gởi về cho nàng một lá thư nào. Triệu Vĩ sắp cưới vợ, một người vợ giàu, đẹp, học giỏi. Còn nàng, hỡi ôi! Nàng chỉ là một đứa con gái quê nghèo khổ, kém học, con nhà hạ cấp.
Bây giờ Mỹ Lan mới biết là nàng điên rồ và ngu dại. Điên rồ vì nàng đã mơ ước cao xa quá, tin tưởng nhiệt thành quá và nàng đã xây lâu đài trên bãi cát. Ngu dại vì nàng đã đi yêu và trao thân cho một chàng trai thành thị khác giai cấp, khác địa vị với nàng.
Mỹ Lan không ngờ Triệu Vĩ lại là một gã sở khanh đốn mạt, chuyên lợi dụng lòng tin tưởng chân thành của gái quê để thỏa mãn dục vọng đê hèn của mình. Cái con người hiền lành có vẻ thật thà của Triệu Vĩ không dè lại chứa đựng bên trong một tấm lòng bẩn thỉu, thối tha. Con trai nhà giàu yêu con gái nhà nghèo luôn luôn chỉ là để lợi dụng. Một ông kỹ sư, con trai của một bà triệu phú đời nào lại đi lấy một con bé nhà quê của rừng U Minh làm vợ.
Mỹ Lan ôm mặt khóc nức nở. Triệu Vĩ đã phụ bạc, còn gì là đời nàng? Đứa bé trong bụng sẽ là một đứa con không cha, và nàng sẽ là một đứa con gái không chồng mà có chửa. Còn gì hổ thẹn, nhục nhã hơn nữa! Mất một tình yêu nhất đời, tiếp lấy một sự khổ hận... nàng làm sao sống nổi?
Nhớ lại Triệu Vĩ một đêm trăng nào bên bờ giếng, Mỹ Lan càng thêm đau xót.
“... Anh sẽ trở về và sẽ cưới em làm vợ...”.
Hỡi ơi! Giờ đây còn đâu một ngày về? Còn đâu một ngày về? Còn đâu những lời hứa hẹn vàng đá? Còn đâu những đêm trăng ngồi bên nhau như dòng nước sông Trẹm? Dòng sông Trẹm vẫn đỏ, rừng U Minh vẫn xanh, nhưng lòng Triệu Vĩ đã thay đổi rồi. Chàng đã quên lời thề xưa để chạy theo một hình ảnh mới lạ. Triệu Vĩ đã bị những thiếu nữ kinh kỳ quyến rũ, đúng như sự lo sợ của nàng. Phấn son Sài Gòn rất dễ làm lay lòng trai trẻ. Nhung lụa Sài Gòn rất dễ làm phai những lời nguyện ước.
Từ đây, đêm đêm Mỹ Lan sẽ ngồi một mình bên bờ sông Trẹm lạnh lùng để ngắm vầng trăng buồn soi bóng nước để nghiền ngẫm về sự thay đổi của lòng người.
Mỹ Lan đưa bàn tay sờ lên bụng và đau đớn:
- Con ơi, rồi đây đời con sẽ khổ! Sự phụ bạc của cha con và sự lầm lẫn của mẹ đã làm hư hại đời con... Con hãy tha thứ cho mẹ vì người con gái nhẹ dạ thường rất dễ bị lừa gạt...
Nàng ôm mặt nấc lên thổn thức:
- Triệu Vĩ anh ơi, em không ngờ buổi chia tay tạm biệt đêm đó là ngày vĩnh biệt của chúng ta!...
Xa xa, lũ mục đồng hát nghêu ngao:
... Sau lũy tre xanh
Bên xóm nhỏ
Giữa nương khoai
Trổ lộc xinh xinh
Vang điệu hò...
Hò... hơ... em đi cấy lúa đồng sâu
Còn anh vui với đôi trâu chiếc cày
(Thơ của Hùng Nhân)
Chương 4
Đêm không trăng mới chín giờ mà trời đã tối đen như mực. Những chòm sao li ti nhấp nháy không đủ soi rõ vật gì dưới trần gian. Hoàn toàn im vắng. Ngoài đồng trống, vài ngọn đèn nhỏ thấp thoáng leo lét như ngọn đèn ma. Lâu lắm mới có một tiếng cú kêu rợn người.

Mỹ Lan ngồi vá áo bên ngọn đèn tù mù. Gương mặt xinh đẹp của nàng hồng lên vì ánh đèn. Vài sợi tóc mỏng rũ xuống trán. Mỹ Lan chăm chỉ làm việc. Thỉnh thoảng nàng ngẩng mặt nhìn ra ngoài cửa. Nàng đã quen với sự vắng vẻ, nhưng không hiểu sao đêm nay nàng thấy sờ sợ. Trong nhà chỉ có một mình nàng. Cha nàng gác ở xưởng dệt. Anh nàng mắc đi chở lúa ở kinh Xã Thoàn sáng mai mới về. Còn con chó Tô Tô chạy đâu mất từ đầu hôm.
Bỗng dưng lòng Mỹ Lan sao xuyến lạ thường. Một tiếng động mạnh ngoài cửa ngõ. Một bóng đen đang với tay vào trong mở chốt cửa. Mỹ Lan rời khỏi ghế, đứng phắt dậy.
Nàng bước nhanh ra ngưỡng cửa cái và hỏi to:
- Ai đấy?
Bóng đen cất tiếng cười quen thuộc, Mỹ Lan nhận ra dễ dàng giọng cười ồ ồ của Năm Hương. Nàng đặt tay lên ngực thở phào nhẹ nhõm. Nàng đã tiêu tan nỗi lo sợ kẻ bất lương lợi dụng đêm tối vào nhà làm chuyện ám muội. Nhưng nàng không khỏi ngạc nhiên về chuyện Năm Hương đến nhà nàng vào giờ khắc này.
Thân hình vạm vỡ của Năm Hương hiện ra rõ ràng trong ánh đèn. Gã cúi đầu chào Mỹ Lan và tươi cười:
- Cô Mỹ Lan giờ này vẫn chưa ngủ à?
Vốn đã không ưa Năm Hương từ lâu, nhưng Mỹ Lan buộc lòng phải lịch thiệp đáp:
- Cảm ơn ông, tôi còn thức để vá áo cho ba tôi. Ông đến đây có chuyện gì dạy bảo. Ba tôi gác ở xưởng dệt. Anh Sinh tôi đi chở lúa chưa về. Mời ông ngồi ghế.
Năm Hương cười xoà:
- Cảm ơn cô! Khách khứa gì mà ngồi ghế. Tôi dư biết ông Năm gác ở xưởng dệt và chú Sinh đi chở lúa..., vì thế tôi mới đến đây vào giờ này để có chút chuyện quan trọng nói với cô.
Giọng nói của Năm Hương có chen lẫn cái gì là lạ làm Mỹ Lan khẽ rùng mình. Nàng ngập ngừng hỏi:
- Tôi không hiểu được ý định của ông?
Bây giờ Năm Hương mới lột bỏ gương mặt đứng đắn giả dối, gã trơ trẽn nói:
- Mỹ Lan à, cô cho phép tôi gọi cô bằng em chứ? Thiết nghĩ gọi bằng cô khách sáo lắm.
Nhận thấy sự thay đổi của Năm Hương, Mỹ Lan nghiêm sắc mặt:
- Tôi chẳng dám cho phép ông điều đó, ông muốn gọi tôi bằng gì cũng được, tùy ý ông.
Năm Hương xoa hai bàn tay vào nhau:
- Thế thì gọi Mỹ Lan bằng em vậy, như thế có vẻ thân mật. À, mà tôi yêu cầu cô đừng gọi tôi bằng ông, vì gọi như thế tôi thấy nó làm sao ấy.
Mỹ Lan cau đôi mày vòng cung:
- Tôi đâu dám thế, ông dạy quá lời!
Năm Hương tiến tới một bước, Mỹ Lan lùi một bước. Cả hai gờm gờm nhau, Mỹ Lan thấy rõ tánh sàm sỡ của tên quản lý.
Vẻ đẹp lờ mờ của Mỹ Lan làm Năm Hương say ngất như vừa uống mấy cốc rượu mạnh.
Không dằn được, Năm Hương giương cặp mắt ốc nhồi nhìn thẳng vào mặt Mỹ Lan:
- Mỹ Lan! Em có biết rằng tôi đã yêu em từ lâu? Em biết rõ chứ?
Mỹ Lan giật nẩy mình trước câu tỏ tình của tên quản lý. Nàng lạnh lùng:
- Ông nghĩ sao về tôi mà lại nói như thế?
Năm Hương đáp như muốn hét lên:
- Tôi nghĩ tôi yêu em tha thiết và em cũng yêu...
Mỹ Lan bình tĩnh cười nhạt:
- Ông lầm rồi, tôi chẳng bao giờ yêu ông. Người đàn ông tôi yêu là người được tất cả lòng thương mến của mọi người.
Năm Hương nhếch mép:
- Còn tôi! Mọi người đều ghét tôi à?
Gặp dịp để cho Năm Hương một bài học đích đáng, Mỹ Lan cau giọng nói:
- Ông là một người mất tất cả, anh em thợ đều oán ghét và thù hằn. Ông thẳng tay bóc lột mồ hôi và nước mắt của lao động. Ông là một hạng người đáng cho thiên hạn ghê tởm, một con chiên ghẻ còn sót lại của những chế độ xã hội mục nát cũ; một con chiên trung thành, nịnh bợ. Cái tàn ác, cái nham hiểm, cái quỷ quyệt của ông rồi đây sẽ bị người ta chà đạp lên. Bộ óc thối tha của ông rồi đây sẽ bị người ta chà rửa thẳng tay. Ông nên nhớ những cái bất công không bao giờ tồn tại được, chỉ có lẽ phải và công bằng mới sống mãi với thời gian và làm cho người ta mến phục. Và ông nên nhớ luôn rằng dân quê ngày nay không khi nào khuất phục trước bạo lực; trí óc họ đã già đi qua chín năm khói lửa. Ông là người của thành thị, ông không hiểu nổi tâm trạng của dân quê. Có lẽ ông cứ cho rằng dân quê là những kẻ dễ uốn nắn, cũng như một thuở xa xưa nào. Quan niệm như thế ông lầm lẫn to lắm. Ông hãy chịu khó đếm những bước tiến của dân quê.
Bị Mỹ Lan chửi vào mặt, Năm Hương sượng sùng:
- Thôi, em đừng dạy tôi! Đêm nay tôi đến đây chẳng phải để lý luận với em. Chúng ta hãy giải quyết vấn đề tình ái cho dứt khoát.
Mỹ Lan cười kinh bỉ:
- Tôi đã giải quyết với ông từ lúc đầu rồi kia mà. Tôi chịu khó lặp lại một lần nữa: Tôi chẳng hề yêu ông vì yêu ông là một cái nhục lớn.
Năm Hương tức giận cành hông nhưng cố dằn lòng buôn tiếng cười khô khan:
- Em là một đứa gái quê ngu dại! Em còn hy vọng ở Triệu Vĩ à? Hà hà! Em thử nhìn thân phận của em xem... Một đứa gái quê của miền rừng U Minh đầy ruồi muỗi mòng và đỉa vắt! Ái tình đâu phải dễ dàng như em tưởng. Đầu óc của Triệu Vĩ đâu phải là đầu óc của dân quê. Em đừng vội tự phụ, em chưa hiểu nổi tâm tính của trai thành thị. Triệu Vĩ nó có yêu em bao giờ đâu. Nó thấy em có chút nhan sắc mặn mà dễ coi nên nó giả vờ yêu em để thỏa mãn cái gì của nó đấy thôi. Tội nghiệp cho em, đặt hết hy vọng vào những lời hứa hẹn bâng quơ của nó. Hẳn em đang chờ đợi một ngày về của nó? À! À... Bà kỹ sư Triệu Vĩ chẳng phải là cô gái quê Mỹ Lan đâu.
Gã mai mỉa:
- Sau chiến tranh, em đã trưởng thành, thế mà em vẫn còn dễ tin ở lòng người quá, nhất là lòng của những gã trai trẻ thành thị. Em nghĩ thế nào về những lời tôi vừa nói?
Năm Hương đứng khoanh hai tay trước ngực ngạo nghễ nhìn Mỹ Lan.
Những lời nói của Năm Hương là những kim nhọn đâm thủng tim Mỹ Lan. Vừa tức giận vừa tủi nhục, nàng đứng chết lặng. Năm Hương nói có lý! Nàng đã quá tin lòng người và mơ tưởng cao xa quá. Năm Hương đã nói đúng sự thật, một sự thật mà nàng vừa mới nhận thấy sau khi hay tin Triệu Vĩ cưới con gái của một bác sĩ...
Biết lời nói của mình có hiệu quả, Năm Hương lạnh lùng tấn công tiếp:
- Em đã ghê tởm con trai ở thành thị chưa? Họ đểu giả như thế đấy. Họ chuyên môn lợi dụng sự nhẹ dạ của con gái. Em đã sáng mắt chưa?
Năm Hương dịu giọng:
- Tuổi trẻ là tuổi dễ lầm lỗi! Không ai gắt gao với tuổi trẻ.
Gã trở lại vấn đề cũ:
- Mỹ Lan, anh yêu em tha thiết!... Em hãy quên đi câu chuyện đau buồn vừa qua. Chúng ta hai con người chân thật, yêu nhau. Ngày mai chúng ta sẽ làm lễ cưới. Chỉ có anh mới là người hiểu được em. Chúng ta hãy cùng bắt tay nhau xây dựng hạnh phúc cho cuộc đời.
Năm Hương tiến tới một bước nữa, lòng thầm hy vọng. Như vừa tỉnh một cơn mê, Mỹ Lan bước giật lùi và nghiêm nghị:
- Ông đừng nhiều lời! Tôi ghê tởm ông còn hơn ghê tởm Triệu Vĩ, vì dù sao tôi cũng yêu Triệu Vĩ. Tôi lặp lại lần cuối cùng: Tôi không yêu ông. Ông đừng cố gắng vô ích! Ông hãy về nhà, để yên tôi làm việc. Tôi không cần sự khuyên bảo của ông. Tôi hiểu những chuyện đã làm và sắp làm.
Trước thái độ cương quyết của Mỹ Lan, Năm Hương biết không thể lay chuyển lòng dạ nàng được, gã quắc mắt hỏi gằn:
- Em nhất định không yêu anh?
Mỹ Lan đáp ngắn ngủi:
- Không!
Năm Hương buông tiếng cười ghê rợn. Trong phút chốc gương mặt trở nên hung dữ lạ thường. Mái tóc hắn bờm sờm như muốn dựng ngược lên, lỗ mũi to tướng thở phì phào một cách mệt nhọc, đôi mắt trợn trừng trừng dục vọng.
Mỹ Lan kinh sợ lùi nhanh thêm mấy bước. Chạm phải chiếc ghế, nàng mất thăng bằng chới với muốn ngã ngửa ra sau.
Hùng hổ như một con cọp thấy mồi, Năm Hương nhào tới quơ tay chụp lấy hai vai Mỹ Lan. Nàng hoảng hốt la to:
- Buông tôi! Buông ra! Tôi la làng bây giờ!l... Đồ khốn nạn!
Năm Hương chẳng còn biết phải trái gì nữa, gã nghiến răng:
- Hừ khốn nạn!... Để xem ai là kẻ khốn nạn cho biết! Thằng chó Triệu Vĩ chiếm em bằng tình cảm. Còn anh, anh chiếm em bằng võ lực. Đằng nào cũng đi tới một mục đích duy nhất.
Mỹ Lan giãy giụa dữ dội tìm cách thoát khỏi đôi cánh tay cứng rắn của con quỷ dâm đãng.
Đang lúc hai người giằng co nhau, thì con Tô Tô nhảy xổ vào.
Như kẻ sắp chết đuối vớ được chiếc phao, Mỹ Lan mừng rỡ:
- Tô Tô! Mau đến cứu chị!... Tô Tô...
Con chó khôn ngoan gừ lên một tiếng như căm tức. Nó xông tới táp mạnh vào đùi Năm Hương. Tên quản lý hét lên một tiếng đau đớn, buông rơi Mỹ Lan để quay sang chống cự với con chó.
Vuột khỏi tay Năm Hương, Mỹ Lan quơ chiếc khăn bàn đội lên đầu và cắm cổ chạy thẳng ra đồng như một người bị đuổi bắt. Con Tô Tô vội bỏ Năm Hương phóng mình chạy theo chủ.
Như một kẻ mất hồn, Mỹ Lan chạy bất kể phương hướng. Nàng chạy được một đổi thì bị dòng sông Trẹm chặn đường. Nàng lại chạy dọc theo bờ sông, ngược về phía rừng U Minh. Con Tô Tô vẫn lẽo đẽo theo sát nàng.
Gió thổi ù ù hai bên tai Mỹ Lan. Gió lạnh từ rừng U Minh huyền bí thổi vọng về rét căm căm. Nhưng Mỹ Lan chẳng cảm thấy lạnh lẽo chút nào hết. Nàng chỉ muốn chạy trốn tất cả mọi người.
Đầu óc đen tối quay cuồng, Mỹ Lan cắm cổ chạy băng ngang nhiều cánh đồng khô cỏ cháy, nhiều vũng bùn nước lầy lội, nhiều đám ô rô gai góc. Hai ống quần rách tươm, đôi chân trắng trẻo trầy trụa nhiều nơi rướm máu, nhưng Mỹ Lan không thấy đau đớn. Cái đau đớn của thể xác đối với nàng không còn nghĩa lý gì nữa, trong lúc cái đau đớn tâm hồn đang hoành hành.
Quá mệt nhọc, Mỹ Lan không còn chạy nổi. Nàng lê từ bước một lên một gò đất cao. Rồi kiệt sức, nàng ngã gục trước một chòi tranh nằm cheo leo trên một gò vắng vẻ, xa hẳn xóm giềng. Gió lạnh rít dài chung quanh ngôi nhà làm kẻ can đảm đến đâu cũng phải rùng mình.
Thấy chủ nằm dài trên mặt đất không cử động, con Tô Tô vừa lấy hai chân trước cào vào mặt chủ vừa rống cổ sủa vang lên. Tiếng sủa khô khan của Tô Tô đã đánh thức chủ nhà. Cánh cửa cái dệt bằng tre dan hé mở. Ngọn đèn dầu phộng phập chập chờn trước gió gần như muốn tắt phụp. Một mái tóc đầu bạc phơ nhô ra. Con Tô Tô ve vẩy đuôi lia lịa và sủa găng hơn trước.
Bà lão già nua chậm chạp bước ra ngoài. Đôi mắt lem nhem bỗng sáng rực lên. Bà lão cuống quýt:
- Thượng đế ơi! Ai lại nằm chết ở đây!
Bà đưa sát ngọn đèn gần mặt Mỹ Lan và buột miệng kinh hãi:
- Con bé Mỹ Lan!
Bà đưa bàn tay nhăn nheo đặt lên ngực Mỹ Lan và chép miệng:
- Chưa chết!
Bà đặt ngọn đèn xuống đất và hì hục lôi Mỹ Lan vào nhà. Sau một hồi nhọc mệt, bà đem được Mỹ Lan để nằm trên giường tre cũ rích. Gương mặt nàng tái nhợt nhạt, hai mắt nàng nhắm nghiền, hơi thở yếu đuối.
Bà lão lấy nước lạnh vả lên mặt Mỹ Lan và lấy dầu gió cho nàng ngửi. Bà thấp thỏm chờ đợi.
Hồi lâu Mỹ Lan khẽ cựa mình. Nàng ú ớ những gì trong mồm không nghe rõ. Bà lão mừng rỡ lay mạnh vai nàng và kêu gọi:
- Mỹ Lan!... Mỹ Lan!...
Mỹ Lan từ từ mở mắt. Nàng dáo dác nhìn chung quanh. Đột nhiên nàng ngồi nhổm dậy:
- Tôi đang ở đâu vậy?
Bà lão hiền từ nói:
- Cháu đang ở trong nhà bác chứ đâu! Cháu chưa nhận ra bác à? Bác vẫn thường đến nhà cháu chơi luôn!
Mỹ Lan nhìn kỹ gương mặt già nua nhân đức của bà lão và buột miệng:
- Bác Bảy đấy phải không? Cháu nhận ra rồi!
Gương mặt nàng tối sầm lại tỏ vẻ đâm chiêu nghĩ ngợi. Nàng nhớ rõ mồn một gương mặt ngời dục vọng của Năm Hương, tên quản gia định hãm hiếp nàng, nhờ con Tô Tô giải cứu nàng thoát khỏi tay gã và cắm đầu chạy bất kể sống chết.
Con Tô Tô gầm gừ nho nhỏ ra dáng vui mừng. Mỹ Lan vuốt đầu con vật trung thành:
- Cảm ơn mầy nhé, Tô Tô!
Bà lang Bảy ôn tồn nói:
- Ban nãy cháu làm bác hết hồn. Nghe tiếng chó sủa, bác cầm đèn ra mở cửa. Bác giật nẩy mình khi thấy một đống sù sụ trước mặt. Nhìn kỹ, bác mới nhận ra cháu. Cháu làm sao ra đến nông nổi này?
Mỹ Lan buồn rầu thuật cho bà lão nghe câu chuyện tình bi thảm của nàng và sự mưu toan hãm hiếp của Năm Hương.
Nghe xong, bà lang Bảy thở dài:
- Ái tình luôn luôn làm cho người ta đau khổ! Những mái đầu xanh luôn luôn lầm lẫn. Triệu Vĩ là một người rất tốt, bác không ngờ nó lại đểu giả như thế. Còn thằng Năm Hương thì khỏi nói, vì nó là một thằng tàn nhẫn. May mà cháu vuột khỏi tay nó.
Bà cao giọng:
- Bây giờ cháu định liệu ra sao?
Mỹ Lan đáp không nghĩ ngợi:
- Cháu nhứt quyết không trở về nhà nữa. Cháu lánh mặt tất cả mọi người. Cháu muốn cho người ta tin tưởng là cháu đã chết.
Bà lang Bảy ngậm ngùi:
- Cha cháu và anh cháu sẽ buồn biết mấy! Tội nghiệp! Bác không biết khuyên cháu ra sao bây giờ!
Mỹ Lan gục mặt:
- Cha và anh cháu sẽ buồn lắm nhưng tình thế này không cho phép cháu trở về nhà. Cháu đã chán nản lắm rồi, đời cháu không còn một chút tình thương. Nếu không có đứa bé trong bụng cháu đã hủy mình. Từ đây trở đi cháu sống chỉ vì con...
Nàng gằn giọng:
- Chỉ vì con thôi!
Bà lang Bảy đặt tay lên vai Mỹ Lan:
- Cháu nói đúng. Triệu Vĩ đã bỏ bổn phận làm cha, bổn phận của cháu càng thêm to tát. Cháu sẽ vừa làm một người cha, vừa làm một người mẹ. Sự tồn sinh của đứa bé, hạnh phúc của đứa bé đều do ở cháu định đoạt, cháu nên nhớ đứa bé không có tội tình gì hết!
Mỹ Lan đau đớn:
- Phải, đứa bé không có tội tình gì hết, chỉ có cha mẹ chúng nó...
Nàng nức nở không tiếp được câu nói dang dở.
Thông hiểu sự đau buồn của chủ, con Tô Tô im lặng nằm phệt dưới chân Mỹ Lan.
Với giọng hiền từ của người mẹ, bà lang Bảy an ủi Mỹ Lan:
- Thôi, cháu cũng đừng nên buồn rầu mà hao mòn sức khỏe. Trong lúc này sức khỏe là quý nhất. Cháu phải để dành sức khỏe để nuôi nấng đứa bé sắp chào đời. Con người không cãi được với định mệnh.
Mỹ Lan quắc đôi mắt sáng:
- Hừ! Định mệnh! Luôn luôn là định mệnh! Nhưng cháu tin chắc là không có định mệnh... mọi chuyện đều do ở lòng người!
Không cãi lý với Mỹ Lan làm gì, bà lang Bảy nói tiếp:
- Hiện thời, nếu cháu không còn sống cho cháu nữa, thì ít ra cháu cũng phải sống vì đứa con vô tội. Nó sẽ là tất cả nguồn an ủi của đời cháu. Nó sẽ là người nung chí phấn đấu của đời cháu, nhờ nó mà cháu sẽ quên lãng cái dĩ vãng đau buồn. Đời người, ai chẳng qua một lần đau khổ. Có đau khổ người ta mới thấy rõ đời là một chiến trường. Vì con người luôn luôn là một tên lính cảm tử. Phải phấn đấu, luôn luôn phải phấn đấu cháu ạ! Không nên tuyệt vọng, không nên chán nản. Phải can đảm giẫm lên những chướng ngại vật giằng mắc trên đường cản lối ta đi. Rồi cháu sẽ thấy lẽ sống chính đáng của con người. Bác tin rằng chín năm khói lửa đã đào tạo cháu nên một người đúng nghĩa của nó.
Giọng bà trở nên cứng rắn:
- Một người đã sống qua chín năm trường kỳ kháng chiến, đã chứng kiến những giờ phút thăng trầm của đất nước... Chẳng có ai có quyền ngả lòng vì một chuyện nhỏ nhặt.
Bà hạ thấp giọng:
- Gia đình, Tổ quốc có phải cao cả hơn không hả cháu?
Cố đè nén nỗi cảm xúc, Mỹ Lan gật đầu đáp nhỏ:
- Phải, chín năm trường chiến tranh đã dạy cho ta như thế!
Bà lang Bảy tỏ vẻ hài lòng:
- Cháu xứng đáng là một người con gái của Thới Bình thôn.
Bên ngọn đèn dầu tù mù, một mái đầu bạc và một mái đầu xanh say sưa trong câu chuyện; bóng họ in trên vách lá và run lên từng chập theo từng luồng gió lạnh ở bên ngoài thổi luồn qua kẽ liếp.
Im lặng hồi lâu. Lũ côn trùng vẫn rên dài thảm thiết như những oan hồn tử đòi mạng. Gió quật phần phật vào ngôi nhà lá trơ vơ.
Bà lang Bảy thân mật bảo Mỹ Lan:
- Hiện thời bác ở một mình trong ngôi nhà này nhiều lúc cũng thấy cô đơn lắm. Cháu hãy ở đây với bác cho vui cửa vui nhà. Ngày ngày bác xuống chợ xem mạch hốt thuốc cho người trong làng và mua lương thực. Cháu ở nhà lo dọn dẹp nhà cửa và lo việc bếp núc. Con chó Tô Tô làm bạn với cháu.
Mỹ Lan cảm động nắm bàn tay nhăn nheo của bà lão.
- Cháu cảm ơn bác vô cùng. Biết bao giờ cháu mới trả được công ơn sâu rộng này...
Bà lang Bảy chặn ngang:
- Đây chẳng phải là một cái ơn... cháu đừng nói thế. Người của Thới Bình không khi nào khách sáo.
Bà trỏ chiếc phản nhỏ đặt ở góc nhà và nói tiếp:
- Cháu dọn dẹp chỗ đó mà ngủ! Bác còn dư mùng mền để trong tủ đứng. Con Tô Tô ngủ dưới chân giường nếu nó không muốn nằm ổ rơm ở sau nhà bếp.
Mỹ Lan thở phào nhẹ nhõm. Thân phận nàng thế là cũng xong. Nàng ở đây cho đến ngày khai hoa nở nhụy và không chừng sẽ ở đây suốt đời.
Nàng bước xuống đất, dặn dò bà lang Bảy:
- Bác đừng cho ai biết là cháu ở đây! Cháu muốn họ tưởng lầm cháu đã chết, để tránh mọi chuyện phiền phức không hay.
Bà lang Bảy ưng thuận:
- Cháu khỏi lo điều đó, bác sẽ giữ kín. Ừ mà... có nên cho cha và anh cháu biết không?
- Không! Nếu cha và anh cháu hay thì người ta cũng hay được.
Bà lang Bảy chép miệng:
- Từ nay trở đi bác đã có người làm bạn. Thôi cháu đi ngủ sớm, kẻo mệt.
Mỹ Lan uể oải đứng dậy. Nàng đặt tay lên bụng và thầm bảo:
“Con ơi, mẹ sống chết chỉ vì con...”.
*
Triệu Vĩ cất va-li vào phòng xong xuôi, đoạn chạy bổ vào phòng riêng của bà Triệu Phú. Bà này đang nằm trên giường xem sách. Triệu Vĩ trở về bất thình lình làm bà giật mình, ngồi nhỏm dậy:
- Con mới về! Sao không cho mẹ hay trước? Công việc đã xong xuôi hết chứ?
Triệu Vĩ vui vẻ đáp lời mẹ:
- Công việc tuy chưa xong nhưng kể cũng như xong rồi. Thời gian ở Sài Gòn định trước có một tháng, đằng này con phải ở hơn ba tháng. Con thấy tù túng quá và rất nhớ Thới Bình. Thành thử con phải xách va-li về đây chẳng báo tin cho mẹ hay.
Bà Triệu Phú lặng lẽ không nói gì.
Nóng lòng gặp Mỹ Lan, Triệu Vĩ vội xin phép mẹ cáo lui. Chàng hấp tấp đến nhà Mỹ Lan. Nhưng tới trước cửa hàng dệt chàng chạm mặt với Năm Hương. Tên quản gia không giấu vẻ ngạc nhiên, lật đật cúi đầu chào Triệu Vĩ và hỏi nhanh:
- Cậu Hai mới về. Hình như là cậu Hai về đột ngột?
Triệu Vĩ vui vẻ:
- Cảm ơn chú! Tôi vừa mới về tới, tôi chẳng đánh dây thép về cho mẹ tôi hay vì tôi về bất thình lình.
Đã biết Triệu Vĩ đi đâu rồi nhưng Năm Hương giả vờ hỏi:
- Cậu định đi đâu đấy?
Triệu Vĩ đáp ngay:
- Tôi đến nhà ông Năm gác dan, tôi có chuyện riêng cần nói với ông ấy, ông Năm không có trong xưởng dệt chứ?
Năm Hương lắc đầu:
- Ông ấy nghĩ làm mấy hôm nay...
Triệu Vĩ ngắt ngang:
- Nghỉ việc? Tại sao thế?
Năm Hương gãi tai đáp:
- Ông Năm bị bệnh vì thương nhớ con gái.
Như bị điện giật. Triệu Vĩ hốt hoảng:
- Cô Mỹ Lan?
Năm Hương gật đầu:

- Cậu mới về nên chưa hay được cái tin buồn của gia đình ông Năm. Hai ngày rồi cô Mỹ Lan bỏ nhà đi đâu mất. Người ta tìm tòi khắp nơi nhưng vẫn không thấy bóng hình cô ta. Ông Năm quá thương nhớ con gái nên sanh bệnh.
Triệu Vĩ tái mặt:
- Mỹ Lan bỏ nhà đi mất?
Năm Hương giả vờ buồn rầu:
- Cô ấy bỏ nhà giữa đêm khuya. Đêm đó ông Năm gác ở xưởng dệt, còn chú Sinh đi chở lúa ở kinh Xã Thoàn. Cô Mỹ Lan ở nhà một mình. Sáng ngày ông Năm về nhà không thấy con gái đâu. Ban ngày ổng ngỡ Mỹ Lan đi chợ nhưng trọn ngày hôm đó và luôn hôm sau nữa vẫn chẳng thấy Mỹ Lan về. Trai trong làng đã tủa khắp nơi tìm kiếm nhưng... đều vô ích.
Mặt Triệu Vĩ cắt không còn chút máu, chàng đứng chết lặng hồi lâu, Mỹ Lan đột nhiên bỏ nhà đi mất. Vì nguyên do nào? Tại sao?
Nhận thấy rõ sự lo nghĩ của Triệu Vĩ, Năm Hưong đánh một đòn nặng cốt ý làm cho Triệu Vĩ nghĩ lầm Mỹ Lan:
- Theo lời đồn đãi của nhiều người biết chuyện thì cô Mỹ Lan đã bỏ nhà để trốn theo một chàng tình nhân ở làng bên cạnh. Hai người đã kéo ra tỉnh để lập tổ uyên ương. Hình như cô Mỹ Lan dan díu với anh chàng đó chừng ba tháng nay.
Năm Hương tặc lưỡi tiếc rẻ:
- Cô Mỹ Lan là người đức hạnh nhưng không hiểu tại sao lại hư hỏng đột ngột như thế!
Những lời nói của Năm Hương là những mũi tên đâm vào tim Triệu Vĩ. Chàng sa vào bẫy của Năm Hương dễ dàng. Hèn gì ba tháng nay chàng chẳng nhận được một bức thư trả lời nào của Mỹ Lan. Người ta bận vui với duyên mới, ai thèm nghĩ đến chàng.
Sự lo sợ chuyển sang căm tức, Triệu Vĩ nghiến răng nguyền rủa:
- Khốn nạn thật!
Năm Hương đắc thắng:
- Tội nghiệp! Ông Năm nhớ đứa con hư mới mấy ngày nay hình vóc hao mòn!
Triệu Vĩ bắt tay từ giã Năm Hương:
- Tôi đến nhà thăm ông ta một lát xem sao!
Chàng cắm đầu rảo bước đến nhà Mỹ Lan. Đầu óc chàng quay cuồng nhiều ý nghĩ. Mỹ Lan bỏ rơi chàng để đi theo một người đàn ông khác. Nàng bôi xóa những lời nguyền vàng đá cũ để làm lại những lời nguyền mới. Nàng thản nhiên giẫm lên lòng chàng một cách không tiếc thương. Bao nhiêu hy vọng của tương lai sụp đổ trong khoảnh khắc. Chuyến này chàng định trở về để cưới Mỹ Lan làm vợ, nhưng còn đâu nữa, hình bóng người con gái cũ, Mỹ Lan mang theo đứa con của chàng cũng như nàng đã mang luôn đi tất cả hạnh phúc của đời chàng. Còn gì nữa mà tin tưởng. Một mối tình dù êm đẹp đến đâu khi tan vỡ cũng chỉ còn lại những mảnh lòng bể nát. Đàn bà bao giờ cũng vẫn là đàn bà.
Lần này là lần đầu tiên trong đời Triệu Vĩ bị sa chân vào cái đau khổ do ái tình gây nên. Chàng nhận thấy rõ đời có nhiều thứ đau khổ, nhưng thứ đau khổ của ái tình là nặng nề hơn hết. Trước kia chàng cho kể khổ vì tình phụ là những kẻ hèn nhát, nhưng bây giờ, tự mình có đau khổ mới thấu hiểu được sự đau khổ của kẻ khác.
Triệu Vĩ đua xốt thở dài. Chàng không ngờ ngày trở về Thới Bình lại là ngày đau khổ, ngày tan vỡ.
- Mỹ Lan ơi! Dòng sông Trẹm còn đỏ, rừng U Minh còn xanh nhưng tại soa lòng em quá chóng phôi phai?...
Đến nhà Mỹ Lan, Triệu Vĩ gặp anh trai nàng đang vá lưới trước hàng ba. Sinh niềm nở chào đón Triệu Vĩ.
- Cậu Hai mới về?
- Tôi vừa về tới, nghe tin bác nhà bệnh, tôi vội đến thăm bác.
Sinh sa sầm nét mặt:
- Cảm ơn cậu. Ba tôi mới đau độ mấy ngày nay. Hiện thời ba tôi đang ngủ trong buồng. Ba tôi rất thương con Mỹ Lan. Hẳn cậu Hai biết chuyện con Mỹ Lan?
Triệu Vĩ giữ vẻ thản nhiên:
- Năm Hương vừa nói cho tôi biết! Có lẽ cô ấy ra tỉnh?
Đoán được câu nói ngụ ý của Triệu Vĩ. Sinh hỏi nhanh:
- Năm Hương nói với cậu thể nào?
Triệu Vĩ lắc đầu:
- Xin lỗi anh cho phép tôi không trả lời câu hỏi của anh.
Sinh cười khẩy:
- Có lẽ cậu sợ tôi xấu hổ? Năm Hương đã nói với cậu là Mỹ Lan bỏ nhà để theo trai ra tỉnh?
Triệu Vĩ điềm dạm:
- Nếu tôi đoán không lầm thì chỉ có anh là người biết rõ câu chuyện tình thầm lén giữa tôi và Mỹ Lan. Anh hẳn biết tôi yêu Mỹ Lan tha thiết và bằng tất cả chân tình của tôi. Nhưng...
Triệu Vĩ nín ngang, Sinh cười nhạt:
- Tôi biết cậu khinh bỉ Mỹ Lan nhiều lắm và cậu nghi ngờ nó, nhưng cậu có biết ba tháng trời vắng bóng cậu ở Thới Bình thôn chiều nào Mỹ Lan cũng ra bờ sông Trẹm và tối nào cũng khóc không ráo nước mắt? Cậu đâu có hiểu lòng nó. Trước hôm nó đi biệt tích, tôi thấy nó bỏ ăn bỏ ngủ và hai mí mắt sưng híp lên vì đã khóc quá nhiều. Cậu có biết nó đang đau khổ vì cậu bao nhiêu lần không? Chính cậu là người giết hại cả đời nó. Không hiểu sao tôi thấy chẳng còn kính trọng cậu như trước nữa!
Trước những lời nói lạ lùng của Sinh, Triệu Vĩ chẳng hiểu gì. Chàng ngạc nhiên gặng hỏi:
- Anh nói gì lạ thế? Tôi là người làm cho Mỹ Lan đau khổ? Tôi?...
Tưởng Triệu Vĩ đóng kịch, Sinh càng uất ức:
- Cậu còn phải hỏi, có lẽ cậu hiểu cậu nhiều hơn tôi! Nếu không yêu Mỹ Lan thì thôi sao cậu lại lợi dụng lòng thành thật của nó?
Triệu Vĩ càng sửng sốt nhiều thêm trước giọng nói gay gắt của Sinh.
- Tôi mà không yêu Mỹ Lan? Tôi lợi dụng lòng thành thật của Mỹ Lan? Anh nói gì lạ thế? Anh có biết tôi đã bỏ dở công việc ở Sài Gòn về đây vì thương nhớ Mỹ Lan?
Sinh hét lớn giận dữ:
- Cậu nói dối! Cậu giết cả cuộc đời trong trắng của em gái tôi!
Triệu Vĩ muốn điên đầu, nắm vai Sinh lắc mạnh:
- Tôi van anh! Tôi không hiểu gì hết. Anh hãy nói rõ ràng cho tôi biết!
Trước vẻ ngây ngô và chân thật của Triệu Vĩ, Sinh dịu giọng:
- Tại sao hơn ba tháng trời ở Sài Gòn cậu không gởi một bức thư nào về cho Mỹ Lan?
Triệu Vĩ trợn tròn đôi mắt:
- Tôi không gửi thư về cho Mỹ Lan? Anh điên mất rồi! Tuần nào tôi cũng có gởi về một bức, nhưng Mỹ Lan chẳng hề trả lời. Tôi quá nóng lòng nên mới về đây để xem tự sự ra sao.
Lần này tên Sinh trợn trừng:
- Mỹ Lan đâu có nhận được thư, có biết địa chỉ của cậu đâu mà trả lời!
Triệu Vĩ đấm ngực tức bực:
- Tại sao kỳ quái thế! Chẳng lẽ tất cả những bức thư của tôi đều lạc mất?
Sinh lắc đầu:
- Tôi cũng muốn điên thật rồi! Suốt ba tháng trời không nhận được một lá thư nào của cậu, con Mỹ Lan đau khổ vô cùng, nhưng nó còn nuôi chút đỉnh tin tưởng. Đến chừng biết cậu sắp kết hôn với con gái của một bác sĩ ở Bạc Liêu, nó hoàn toàn tuyệt vọng.
Triệu Vĩ tái mặt hỏi nhanh:
- Ai loan tin tôi lấy con gái một bác sĩ ở Bạc Liêu?
Sinh đáp buông thõng:
- Năm Hương! Tất cả làng đều biết tin đó!
Toàn thân run bần bật, Triệu Vĩ bím môi:
- Năm Hương!... Thằng khốn nạn!...
Trong phút chốc Triệu Vĩ đã hiểu hết đầu đuôi câu chuyện, chàng đinh ninh chính Năm Hương là kẻ chủ mưu vụ này để trả thù hôm chàng làm nhục gã ở trại cưa. Chính Năm Hương thủ tiêu những bức thư của chàng gởi cho Mỹ Lan và loan tin thất thiệt để Mỹ Lan hiểu lầm chàng.
Triệu Vĩ nắm tay Sinh, run run nói:
- Anh Sinh, thằng khốn nạn Năm Hương đã nhúng tay phá hoại cuộc tình duyên của tôi và Mỹ Lan. Tôi lấy danh dự thề với anh là tôi chẳng hề phụ rẫy Mỹ Lan. Chuyến này tôi trở về định hỏi Mỹ Lan làm vợ. Ban nãy Năm Hương cho tôi biết Mỹ Lan đã đi lấy chồng. Thâm mưu của nó thật là độc địa. Tôi không ngờ nó lại đốn mạt đến thế.
Sinh ra dáng nghĩ ngợi, giây lâu chàng hỏi:
- Cậu có chuyện thù oán với Năm Hương?
Cố nén giận, Triệu Vĩ thuật cho Sinh nghe câu chuyện chàng định binh vực bọn thợ cưa và răn dạy Năm Hương.
Sinh đã tin lời nói của Triệu Vĩ, chàng gục gậc đầu:
- Chính Năm Hương chớ chẳng còn ai vào nữa. Là một thằng hèn hạ từ nào đến giờ, nó xem đó là một cái nhục lớn của nó. Nó đã thành công trong sự trả thù. Nhưng ngoài vấn đề nó thù oán cậu ra, tôi nghi ngờ Năm Hương còn có một cái gì ám muội nữa mà chúng ta chưa tìm ra. Cậu chờ tôi một lát!
Sinh nhanh nhẹn chạy vào trong. Một lát chàng trở ra trao cho Triệu Vĩ một chiếc khăn bàn và hỏi:
- Cậu có biết chiếc khăn này của ai không?
Nhận ra chiếc khăn đội đầu thường ngày của người yêu, Triệu Vĩ đau đơn đáp:
- Khăn của Mỹ Lan!
Sinh gật đầu và chậm rãi nói tiếp:
- Tôi nghi ngờ vụ biệt tích của Mỹ Lan cũng có Năm Hương dính líu tới. Cái đêm hôm mà Mỹ Lan mất dạng luôn, Mỹ Lan ở nhà một mình. Ba tôi gác ở xưởng dệt, tôi đi chở lúa ở kinh Xã Thoàn.
Hiểu ý Sinh, Triệu Vĩ chặn ngang:
- Còn con Tô Tô? Nó luôn luôn ở bên cạnh Mỹ Lan.
- Nó thì giờ phút nào cũng ở bên cạnh Mỹ Lan.
Sinh nghiêm trọng nói:
- Khi chở lúa về tôi mới hay tin Mỹ Lan đã bỏ nhà đi mất. Mặc dù người ta đã tìm kiếm khắp nơi mà không gặp nó, tôi cũng sục sạo tìm kiếm. Và tôi nhặt được chiếc khăn này nằm lăn lóc trên bãi cỏ cạnh bờ sông Trẹm, ở một khoảng vắng vẻ có ít người thường đặt chân đến. Tôi nghi ngờ Mỹ Lan đã tự trầm mình dưới dòng sông Trẹm vì một khi đã đau khổ và tuyệt vọng cực độ người ta có thể đi tìm cái chết. Con chó Tô Tô cũng biệt tích luôn một lượt với Mỹ Lan. Có lẽ nhớ chủ nó mới buồn bã không trở về nhà nữa.
Lắng tai nghe Sinh nói, Triệu Vĩ cảm thấy tâm hồn đau xót vô cùng. Sinh đoán có lý. Thường thường những người nhảy xuống nước tự vẫn đều để lại trên bờ những di tích nhỏ nhặt, chẳng hạn như chiếc khăn tay, đôi guốc... Có thể con nước xuôi đã mang xác Mỹ Lan ra sông Ông Đốc. Người làng không nghĩ tới chuyện đó nên chẳng để ý tìm kiếm.
Càng đau đớn, Triệu Vĩ càng căm giận Năm Hương, chàng nghiến răng:
- Tôi nhứt định làm cho ra vụ này?... Nếu thật đúng như lời anh đoán, tôi sẽ trả thù cho Mỹ Lan! Anh cho tôi xin chiếc khăn này!
Triệu Vĩ vội từ giã Sinh. Chàng đi thẳng một mạch về nhà. Về đến nơi, chàng vào phòng riêng của Năm Hương vì giờ này tất cả nhân công trong xưởng đều đã nghỉ việc.
Năm Hương đang lúi húi tháo giầy. Nghe tiếng động Năm Hương ngẩng đầu lên, trông thấy gương mặt khác thường của Triệu Vĩ, Năm Hương lo ngại đứng dậy:
- Cậu Hai, cậu thăm tôi hay có chuyện gì? Bà cần dùng đến tôi? Mời cậu ngồi ghế!
Triệu Vĩ cố đè nén cơn giận nói:
- Tôi có chuyện rất quan trọng cần nói với chú. Chú hãy nghe tôi và thành thật trả lời những câu tôi hỏi.
Năm Hương hơi tái mặt nhưng lấy lại vẻ thản nhiên ngay:
- Một chuyện quan trọng? Tôi nghe cậu đây, nhưng cậu hãy ngồi ghế!
Triệu Vĩ gay gắt:
- Cảm ơn chú, tôi đứng được! Chú Năm, tôi muốn biết sự thật về sự biệt tích bí mật của Mỹ Lan?
Năm Hương gãi tai đáp:
- Tại sao cậu lại hỏi tôi như thế? Đây là chuyện riêng của Mỹ Lan làm sao tôi biết được. Tôi đâu có quyền giữ cô ấy!
Triệu Vĩ như muốn hét lớn:
- Chú đừng vờ vĩnh! Vai kịch chú đóng tuy khéo léo nhưng tôi đã hiểu rồi. Tôi muốn chú tự nhận tội lỗi của chú.
Không ngờ trước Triệu Vĩ hiểu nổi âm mưu của mình, Năm Hương lúng túng:
- Cậu điên rồi... Tôi có tội gì đâu mà phải thú?
Đấm mạnh tay lên mặt bàn, Triệu Vĩ hét lớn:
- Chú còn chối hở? Hèn nhát quá! Chú hãy mở mắt to mà nhìn xem vật này?
Triệu Vĩ rút chiếc khăn của Mỹ Lan đưa trước mắt Năm Hương:
- Hẳn chú không lạ với vật này?
Nhận ra ngay chiếc khăn của Mỹ Lan quấn cổ đêm tối trời hôm nọ, Năm Hương buột miệng kinh hãi:
- Khăn của Mỹ Lan!
Triệu Vĩ gật đầu:
- Phải đấy, chú cũng có một bộ óc nhớ dai. Giờ chú hãy tiếp tục thú tội!
Triệu Vĩ đã rõ chuyện, Năm Hương cúi mặt nhìn xuống đất ngẫm nghĩ. Một lát sau gã ngẩng đầu lên và bướng bỉnh:
- Cậu bảo quá lời, tôi có gì mà phải thú tội với cậu. Tôi nhận ra chiếc khăn của Mỹ Lan vì tôi thấy cô ấy đội đầu luôn luôn mỗi lần ra khỏi nhà.
Thấy tên quản lý gian xảo vẫn chối dai, Triệu Vĩ không dằn được nữa, chàng xông tới túm cổ áo Năm Hương và căm hờn rít lên:
- Mỹ Lan đã nhảy xuống sông Trẹm tự tử. Tôi tìm được chiếc khăn này ở bờ sông. Đêm hôm đó chú đến nhà làm gì Mỹ Lan? Nếu chú không thú thật hết, tôi giết chú ngay bây giờ.
Trước sự hùng hổ cực độ của Triệu Vĩ, Năm Hương mất hết bình tĩnh. Gã run bây bẩy:
- Tôi thề độc với cậu đêm đó tôi chẳng hề đến nhà cô Mỹ Lan. Nếu cô ấy tự vận là tại cô ấy muốn thế.
Dặt mạnh cổ áo Năm Hương, Triệu Vĩ cười nhạt:
- Có phải chú thủ tiêu tất cả những bức thư của tôi gởi về cho Mỹ Lan? Điều này chú không thể chối được nữa, vì tất cả mọi bức thư phải qua tay chú trước đến tay người nhận thư.
Biết không thể chối được nữa, Năm Hương đành phải thú nhận:
- Tôi chịu tôi có thủ tiêu những bức thư đó, nhưng tôi không chịu là tôi đến nhà Mỹ Lan vào cái đêm nàng biệt tích.
Triệu Vĩ giúi mạnh làm Năm Hương ngã ngửa lên nền nhà và nghiêm khắc:
- Chính chú đã loan tin tôi sắp cưới con gái của bác sĩ Thạch ở chợ Bạc Liêu?
Năm Hương gượng đứng ngay ngắn lại và ấp úng:
- Tôi chịu có...
Triệu Vĩ quát to:
- Tại sao chú lại làm như thế? Chú có biết làm như vậy là chú giết người ta không?
Năm Hương ngồi phệt xuống ghế, bộ óc máy móc của gã tìm tòi những lời lẽ để đương đầu với Triệu Vĩ.
Thấy tên quản lý im lặng, Triệu Vĩ tiến tới một bước như sẵn sàng túm lấy đầu gã giật xuống.
Đã biết sức mạnh của đôi cánh tay Triệu Vĩ, Năm Hương hoảng sợ:
- Cậu đừng nóng nảy, để tôi nói hết cho cậu nghe!
Triệu Vĩ gườm gườm nhìn tên quản gia chờ đợi.
Năm Hương vừa vỗ đầu vừa sợ sệt nói:
- Buộc lòng lắm tôi mới làm như thế, cậu hiểu cho tôi rất đội ơn...
Năm Hương tỏ vẻ ngần ngại. Triệu Vĩ bực tức thúc giục:
- Cái gì chận họng chú thế?
Lần này Năm Hương nói mạnh dạn:
- Cậu Hai, tôi chỉ là người làm theo mạng lịnh của...
Năm Hương lại ngưng bặt. Triệu Vĩ nóng nảy:
- Mạng lịnh ai?
Đợi cho Triệu Vĩ thúc hối lần thứ hai, Năm Hương mới chịu dứt câu:
- Tôi làm theo mạng lịnh của... bà chủ!
Như bị điện giật, Triệu Vĩ thất sắc:
- Mẹ tôi?
Nhận thấy rõ gương mặt thay đổi của Triệu Vĩ, Năm Hương đổ lỗi tất cả cho bà Triệu Phú:
- Được biết cậu tư tình với cô Mỹ Lan, bà chủ rất bất mãn nhưng bà không trách mắng cậu vì bà quá yêu thương cậu. Bà chủ không muốn làm phiền lòng con trai của bà. Bà mới gọi tôi vào và truyền lệnh cho tôi làm như thế. Tôi không dám cãi lời bà chủ nên tôi mới thủ tiêu những bức thư của cậu gởi về cho Mỹ Lan, và loan tin cậu sắp cưới con gái của bác sĩ Thạch. Chính bà chủ đã cố ý giữ chân cậu ở Sài Gòn. Cốt ý chính của bà chủ là làm chia rẽ cậu và Mỹ Lan bằng cách cho hai người hiểu lầm nhau. Vì thế tôi mới bảo với Mỹ Lan là cậu lấy vợ giàu. Và ngược lại tôi bảo với cậu là Mỹ Lan bỏ nhà theo tình nhân.
Gã khôn ngoan buông một câu thòng:
- Còn sự biệt tích của cô Mỹ Lan, tôi thề nặng là tôi không hề hay biết. Nếu thật tình cô ấy đã tự vận thì có lẽ là tại cô ấy quá tuyệt vọng. Cậu hãy thương hại tôi vì tôi chỉ là một kẻ làm công trung thành.
Triệu Vĩ đứng chết lặng nghe Năm Hương nói, mặt chàng cắt không còn chút máu. Kẻ chủ mưu tội ác này lại là người mẹ yêu quý của chàng. Trời ơi! Có thể được ư? Mẹ chàng lại tàn nhẫn đến thế? Mẹ chàng đan tay phá hoại hạnh phúc và cuộc đời chàng. Chẳng có gì ác độc hơn hành động của mẹ chàng. Ban đầu chàng ngờ Năm Hương nói dối, nhưng sau nhớ lại vấn đề giai cấp chàng biết mẹ chàng dám làm như thế. Chỉ có mẹ chàng nhúng tay vào mới có câu chuyện này, nếu không Năm Hương chẳng đời nào dám.
Bỗng dưng Triệu Vĩ rùng mình ghê sợ như cái mưu kế hiểm độc ấy.
Biết Triệu Vĩ đã xúc động mạnh, Năm Hương nói thêm cốt ý làm cho Triệu Vĩ khỏi nghi ngờ gã:
- Hẳn cậu đã thấy rõ tôi là một người trong sạch, tôi chẳng hề cố ý làm hại cậu và cô Mỹ Lan. Chẳng qua tôi vâng theo lời bà chủ.
Triệu Vĩ quắc mắt căm hờn Năm Hương:
- Dù sao chú cũng là một thằng hèn hạ!
Bỏ mặc Năm Hương lầm thầm nguyền rủa một mình, Triệu Vĩ nện mạnh gót giầy đi sang phòng bà Triệu Phú. Chàng nhứt định hạch hỏi mẹ cho ra sự thật. Chàng đẩy cửa bước vào phòng chẳng cần gõ cửa trước như thường lệ.
Đang nằm trên giường xem sách để dỗ giấc ngủ trưa, bà Triệu Phú giật mình ngồi nhỏm dậy khi trông thấy gương mặt hầm hầm của con trai. Bà lo ngại hỏi:
- Có chuyện gì mà mẹ trông con không được vui?
Triệu Vĩ không dám hằn học với mẹ như vừa đối đãi với Năm Hương, chàng tỏ vẻ bực tức bằng cách lôi mạnh chiếc ghế kéo lê trên sàn gạch.
Từ lo ngại đến ngạc nhiên, bà Triệu Phú giương mắt lớn:
- Con làm gì vậy? Mẹ chưa thấy con lần nào như lần này?
Buông mình rơi xuống ghế, Triệu Vĩ nén giận hỏi mẹ bằng giọng gay gắt:
- Mẹ có biết mẹ đã giết chết hai tâm hồn và luôn cả hai cuộc đời không?
Chưa hiểu ngụ ý câu nói của con trai, bà Triệu Phú cười hiền hậu:
- Trông con ngây ngô như một thằng Mán! Con hỏi cái gì mà kỳ thế?
Triệu Vĩ nhìn sang chỗ khác và nói thẳng:
- Có phải mẹ sắp đặt làm chia rẽ mối tình của con và Mỹ Lan?
Chẳng đợi mẹ trả lời, Triệu Vĩ nói luôn:
- Năm Hương đã thú nhận hết cho con biết rồi, mẹ khỏi cần phải đóng kịch!
Bà Triệu Phú đã hiểu sự hằn học của con trai. Bà ngồi nín lặng một phút để tìm cách đối phó với Triệu Vĩ. Hồi lâu, bà đứng dậy bước đến cạnh Triệu Vĩ. Bà nhẹ nhàng đặt tay lên con trai:
- Con đã biết hết tự sự, mẹ không chối cãi và giấu diếm con. Chính mẹ đã sai bảo Năm Hương làm như thế, con đừng sanh chuyện với nói.
Bà hạ thấp giọng trìu mến:
- Triệu Vĩ con, đấy là một chuyện hơi tàn ác nhưng mẹ buộc lòng phải làm...
Bà dằn giọng:
- Vì tương lai của con, vì danh dự của gia đình ta. Cuộc đời của con không thể dính líu với một đứa con gái như Mỹ Lan. Mẹ biết con đau khổ lắm, nhưng thà rằng mẹ chịu thấy con đau khổ ngày nay hơn là thấy con hối tiếc ngày mai. Tuổi trẻ là tuổi bồng bột rất dễ lầm lẫn trong lúc chọn lựa tình yêu, nhứt là mối tình đó lại là mối tình đầu tiên. Con đừng nên dại dột nghĩ rằng ái tình không bắt buộc điều kiện. Phải suy nghĩ chín chắn trước khi yêu con ạ!
Triệu Vĩ uất ức nhìn thẳng vào mặt bà Triệu Phú:

- Thì con đã suy nghĩ chín chắn rồi! Con thấy con yêu Mỹ Lan và nàng mới chính là vợ hiền của con. Không ai hiểu lòng con hơn con.
Bà Triệu Phú vẫn nhỏ nhẹ:
- Mẹ hiểu lòng con nhiều và đúng hơn con! Mẹ còn kinh nghiệm nữa!
Quá tức tối và đau khổ, Triệu Vĩ đâm bướng bỉnh:
- Chỉ có con mới hiểu được lòng con thôi! Có phải mẹ làm như thế là vì hạnh phúc của con?
Bà Triệu Phú gật đầu:
- Phải, chớ còn gì nữa!
Triệu Vĩ dằn lắm mới khỏi gầm lên:
- Mẹ có biết làm như thế chính là mẹ giết hạnh phúc của đời con? Mẹ có biết là Mỹ Lan đã đâm đầu xuống sông Trẹm chết vì hành động sai lầm của mẹ?
Bà Triệu Phú kinh hãi hỏi nhanh:
- Mỹ Lan đã tự vẫn?
Triệu Vĩ ném mạnh chiếc khăn lên mặt bàn:
- Phải! Con tìm thấy chiếc khăn này cạnh bờ sông. Mẹ đã gián tiếp giết nàng! Thật con không ngờ mẹ lại ác độc đến thế!
Sự hối hận thoáng hiện trên gương mặt bà Triệu Phú, nhưng nó lại tiêu tan ngay khi bà nghĩ đến danh dự của gia đình hơn là hạnh phúc của con trai. Đối với một người đàn bà cổ lổ như bà Triệu Phú, danh giá và giai cấp là thứ bất khả xâm phạm.
Bà vuốt tóc Triệu Vĩ và ôn tồn khuyên bảo:
- Âu đấy cũng là số mệnh. Con hãy quên Mỹ Lan đi. Mẹ tin chắc dưới suối vàng con bé rất hài lòng, vì ai chẳng muốn cho người mình yêu hạnh phúc.
Triệu Vĩ ngắt ngang:
- Mẹ đã phạm tội ác mà không ai có thể tha thứ được. Tòa án loài người không thể trừng phạt mẹ nhưng tòa án lương tâm sẽ hành hạ mẹ cho đến chết.
Chàng đứng phắt dậy và lạnh lùng nói:
- Mỹ Lan đã chết, con không còn thấy thú vị của cuộc đời nữa. Mất Mỹ Lan, đời con mất tất cả. Suốt đời con sẽ không quên cái chết bi thảm của Mỹ Lan cũng như mẹ chẳng bao giờ quên được tội ác của mẹ. Con mong rằng mẹ sẽ sám hối tội lỗi đó. Trước một chuyện đã rồi, trước hành động mù quáng và nhẫn tâm của mẹ, con không còn biết nói gì với mẹ vì mẹ là mẹ của con, mà con thì không có quyền khinh bỉ mẹ!
Triệu Vĩ quay lưng bước nhanh ra khỏi phòng và không quên đóng sầm cửa lại.
Bà Triệu Phú thở dài chép miệng:
- Thằng nông nổi quá!... Tuổi trẻ ngu dại thật!...
Chương 5
Sau một đêm kinh khủng, Mỹ Lan mở bừng mắt thì ánh nắng đã tràn vào nhà tự bao giờ. Ánh nắng vàng chói len lỏi qua khe cửa và những chỗ hở nhảy múa trong căn nhà chật hẹp. Bên ngoài chim chóc hòa vang một điệu líu lo. Nhìn mây trắng, Mỹ Lan đã biết hơn chín giờ. Bản tính tự nhiên nàng vẩn vơ mỉm cười. Nàng hơi lấy làm lạ tại sao nãy giờ các cửa vẫn đóng kín mít.
Có tiếng đằng hắng ở phía sau. Bà lang Bảy từ dưới nhà bếp khệ nệ bưng lên một thau nước ấm.
Thấy Mỹ Lan đã thức, bà lang Bảy nhe hai hàm răng rụng hết cười:
- Con thức sớm đấy! Đêm hôm con làm bác phải một phen thất đảm.
Bà hạ thấp giọng:
- Nhưng ai cũng đều thế cả, người con gái mới sanh lần đầu tiên là một chuyện vô cùng khó khăn.
Bà đặt thau nước lên đầu giường:
- Con ngồi dậy rửa mặt cho khỏe. Con nhìn sang bên cạnh xem.
Mỹ Lan buộc miệng reo to mừng rỡ:
- A! Đứa bé! Con của tôi?
Một đứa bé hồng hào, hai mắt nhắm híp, đang ngủ ngon lành trong cuộn chăng bông.
Bồi hồi cảm động vì sung sướng, Mỹ Lan nhìn đứa bé không chớp mắt. Thì ra đêm hôm, lúc nàng ngất lịm là lúc nàng cho chào đời một đứa trẻ. Nhớ lại những chuyện xảy ra trong đêm vừa qua, Mỹ Lan nhận thấy một cảm giác vui lẫn buồn dâng ngập tâm hồn.
Bà lang Bảy mỉm cười hiền hậu:
- Con có phước lắm, đầu lòng đã sanh con trai!
Gượng ngồi trỗi dậy, Mỹ Lan cúi đầu hôn nhẹ lên đôi má no tròn của con trai. Mặt thằng bé hao hao giống hệt mặt nàng.
Bỗng dưng hai giọt lệ trào ra khoé mắt Mỹ Lan. Nàng đau đớn nói lầm thầm:
- Thằng bé không cha!... Nó không có cha để hôn và dạy dỗ nó!
Bà làng Bảy đặt tay lên vai Mỹ Lan:
- Con đừng than khóc nữa vô ích. Những gì qua ta cho qua luôn là hơn. Nhắc lại chỉ làm cho lòng mình đau đớn và thối chí, vì nó là kỷ niệm không tốt đẹp. Thằng bé không cha, là một sự thiếu sót, nhưng có làm gì những thằng cha bất nghĩa, bất nhân. Con sẽ đóng luôn vai trò một người cha hiền đức của thằng bé. Từ nay trở đi, con cần phải can đảm và cương nghị. Một người mẹ và một người cha không thể thiếu sót được những đức tính đó.
Mỹ Lan gạt nước mắt:
- Những lời khuyên bảo của bác rất quý báu nhưng...
Ngập ngừng giây lâu, nàng hỏi:
- Khi thằng bé lớn lên... Nếu nó hỏi cha nó là ai thì con phải trả lời ra sao?
Bà lang Bảy không nghĩ ngợi:
- Thì con cứ thản nhiên bảo cha mầy đã chết rồi!
Mặt Mỹ Lan bừng sáng, nàng cương quyết:
- Phải, cha thằng bé đã chết hẳn rồi, chết hẳng ở lòng con kể từ đây. Những kẻ phản bội đều là những kẻ hèn hạ. Và người cao thượng chẳng bao giờ oán trách kẻ đê hèn. Lỗi một lời nguyền... ta không ngờ...
Bà lang Bảy gật gù tỏ ra vẻ hài lòng:
- Con đã không làm tủi hổ Thới Bình thôn, nơi đã sản xuất những chàng trai anh dũng và những cô gái kiêu hùng. Lời thề chỉ để dành cho những kẻ hèn nhát. Người can đảm và chơn thật chẳng bao giờ thề thốt. Nếu không tin ở lòng mình thì còn làm gì được nữa.
Mỹ Lan đăm đăm nhìn thằng bé như đặt hết tin tưởng vào nó:
- Con nhứt quyết, con sẽ luôn luôn làm chủ định mệnh, làm chủ lòng con!
Thằng bé cựa mình trong chăn bông, nó mở mắt hấp háy nhìn ánh nắng.
Bà lang Bảy bẹo nhẹ cằm thằng bé:
- Cháu dễ dãi và khấu khỉnh lắm. Thế mới được chứ, ai lại vòi vĩnh và khóc ụ ẹ tối ngày như con nhà giàu ấy. Con nhà nghèo phải khác nhiều cháu nhé!
Lần đầu tiên có con Mỹ Lan ngượng nghịu bồng thằng bé trên tay. Nàng đu đưa con trai:
- Con trai của mẹ phải luôn luôn ngoan ngoãn, dễ dạy, không mẹ đánh đòn đấy!
Thằng bé ngọ ngoạy trong vòng tay của Mỹ Lan.
Mỹ Lan hôn lên trán thằng bé:
- Con có nhận ra mẹ và hiểu những lời mẹ nói không?
Bà lang Bảy cười hề hà:
- Ái chà! Mẹ cháu thật là ngây ngô! Cháu bé chưa hiểu lời mẹ đâu, chờ vài năm nữa.
Mỹ Lan vụt đăm chiêu buồn bã quay sang phía bà lang Bảy:
- Hiện thời thằng bé là nguồn hạnh phúc duy nhứt của đời con. Nếu không có nó con đã chết từ lâu. Con đặt tất cả tình thương vào nó. Nhưng con tha thiết mong mỏi đến lớn lên nó sẽ chẳng giống cha nó.
Bà lang Bảy thở dài:
- Bác cũng mong mỏi như thế, và bác tin rằng không khí hiền lành của Thới Bình thôn sẽ đào luyện nó nên một người đáng kể. Nhưng... con luôn luôn nhắc nhở đến Triệu Vĩ, kẻ đã trốn tránh bổn phận làm cha. Con vẫn còn yêu nó?
Mỹ Lan cúi mặt đáp:
- Bác ạ, ái tình rất kỳ lạ! Con không dối được lòng con, chẳng hiểu sao con vẫn yêu Triệu Vĩ, mặc dù chàng đã phản bội. Có lẽ vì đấy là mối tình đầu và cũng có lẽ mối tình duy nhất của con. Làm sao quên được mối tình duy nhất của đời mình hở bác? Bác đã trải qua thời kỳ yêu đương và mộng thắm, hẳn bác biết rõ?
Bà lang Bảy lắc đầu:
- Thú thật với con, cái thời xuân sắc của bác không giống như cái thời xuân sắc của con gái bây giờ. Hồi đó ái tình gần như là không có và nếu có thì cũng mỏng manh và mơ hồ lắm. Phụ nữ không yêu tự do như thời này và có lẽ tất cả đều tuân theo số mệnh. Số mệnh đã đóng vai chánh trong công việc kết hợp của trai gái. Ái tình (nếu có) chỉ phát sinh trong tình yêu gia đình, tình yêu con cái.
Mỹ Lan trầm ngâm nói:
- Như thế mà hạnh phúc đấy, bác ạ! Ái tình làm cho người ta đau khổ. Con người chỉ là nạn nhân của ái tình. Yêu làm chi? Tại sao người ta lại yêu? Yêu để tìm hạnh phúc hay yêu để đau khổ?
Nâng cao giọng căm hờn:
- Ái tình!... Yêu! Hạnh phúc! Rồi đi đến mục đích cuối cùng!... tình yêu tan vỡ và đau khổ!...
Thằng bé sợ hãi vụt thét lên. Mỹ Lan nín bặt, dỗ dành con:
- Con trai mẹ làm gì khóc như thế? Giận mẹ à? Mẹ xin lỗi con nhé...!
Không biết thằng bé có nghe gì không, nhưng nó thôi khóc.
Nàng hôn túi bụi khắp mặt mũi thằng bé làm nó quơ lia lịa hai ban tay nhỏ xíu.
Mỹ Lan cười ròn:
- Ái chà!... Con mẹ lại láu lỉnh thế à?
Đứng nhìn cảnh trìu mến giữa mẹ con Mỹ Lan, bà lang Bảy cũng cảm thấy vui lây. Từ đây, dưới mái nhà tranh xơ xác, cuộc sống cô độc của bà đã có thêm hai người bạn tốt.
Từ xa vọng lại một tràng pháo dài phá tan sự yên lặng của đồng ruộng. Thằng bé giật mình khóc lên lần nữa. Mỹ Lan vừa dỗ con vừa ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Súng nữa à?... Nhưng bây giờ làm gì còn súng nổ!
Bà lang Bảy vẫn thản nhiên:
- Cháu đừng lo ngại, đấy chẳng phải là súng liên thanh của phi cơ địch, mà là tiếng pháo nổ.
Mỹ Lan cau mày:
- Có phải Tết đâu mà người ta lại đốt pháo?
Bà lang Bảy bước ra ngoài nhẹ mở cánh cửa lá và nói:
- Nếu bác không lầm thì hôm nay ở dưới xóm có đám hỏi của...
Bà lang Bảy vụt ngưng ngang. Mỹ Lan liền hỏi vọng ra:
- Đám hỏi của ai đấy bác?
Nén một tiếng thở dài, bà lang Bảy đáp nhỏ:
- Đám hỏi của Triệu Vĩ!... Bác sĩ Thạch và nhà gái có xuống dự tiệc!
Mỹ Lan nói như đang nói trong giấc mơ:
- Đám hỏi của Triệu Vĩ! Bà Triệu Phú hỏi con gái của bác sĩ Thạch cho Triệu Vĩ! Hèn gì hắn chẳng phản bội lời thề!
Một niềm đau xót dâng ngập tâm hồn, Mỹ Lan chua chát:
- Mấy tháng ở Sài Gòn hắn lo công việc dạm hỏi... Hắn xem ta vẫn là một đứa con gái nhà quê ngu dại! Đám hỏi của Triệu Vĩ cử hành đúng vào ngày con ta mở mắt chào đời.
Tuy can đảm nhưng Mỹ Lan không giấu được sự đau khổ hiện ra ngoài mặt, nàng nhìn con mà rưng rưng nước mắt:
- Con ơi, cha con đã chết kể từ ngày hôm nay. Con chẳng bao giờ nhìn thấy mặt cha. Con mồ côi cha từ lúc trong bụng mẹ.
Nàng đưa hai tay bụm mặt khóc oà:
- Triệu Vĩ ơi, anh tệ bạc đến thế là cùng! Từ đây chúng ta chì còn gặp nhau trong giấc mơ thôi!...
Những hồi pháo dài liên tiếp nổ làm lòng Mỹ Lan thêm đau đớn. Nàng vội vàng bịt kín hai lỗ tai và nhắm chặt mắt lại như kẻ trốn tránh những ám ảnh rợn người.
Hôm nay, đám hỏi; ngày mai, đám cưới. Thế là hết. Đám cưới của Triệu Vĩ là đám tang của đời nàng.
Chen lẫn trong tiếng pháo nổ vui tươi, có một người đàn bà trẻ tuổi sớm đau khổ thổn thức khóc cho đời mình, khóc vì một hình ảnh đã mất vĩnh viễn.
Bà lang Bảy lặng lẽ thở dài. Ngoài kia, ánh nắng đang tràn ngập đồng quê đầy sức sống.
Mỹ Lan ôm chặt con trai vào ngực như để tìm một sự an ủi, một nguồn sống duy nhứt còn sót lại của đời nàng.
Chương 6
Năm Hương, súng trường cầm tay, chậm chạp rẽ cỏ lau tiến tới! Một thằng bé lẽo đẽo theo sau lưng gã. Mải mê cuộc săn bắn buổi sáng, Năm Hương đã đi xa xóm mà vẫn chưa hay biết. Gã định bụng mặt trời lên khá cao mới chịu trở về nhà.
Ra khỏi đám lau cao quá đầu người, Năm Hương dẫm chân lên một con đường mòn nhỏ. Vui chân gã mạnh dạn thẳng tiến mặc dù gã chưa hề đi con đường mòn này lần nào.
Con đường ngoằn ngoèo dẫn tới tận chân một ngọn đồi cỏ xinh xắn trông như một gò đất. Ở lưng chừng đồi, một ngôi nhà lá nằm trơ vơ, mà thoạt nhìn qua người ta sẽ bảo đó là cái quán nhỏ.
Năm Hương vừa định lê chân lên đồi thì một giọng chó sủa quen thuộc nổi lên. Năm Hương vểnh tai nghe ngóng. Từ trong căn nhà rách, một con chó cao lớn chạy ra đứng trước cửa, đuôi ve vẩy.
Năm Hương buột miệng:
- Con Tô Tô...
Gã nhanh nhẹn ra hiệu cho thằng bé đứng khuất vào một lùm cây rậm. Đôi mắt ốc nhồi của Năm Hương nhìn thẳng về phía trước mặt.
Theo thường lệ mỗi buổi sáng, Mỹ Lan đều xuống đồi bẻ củi khô về chụm trong lúc bà lang Bảy đi thăm bệnh ở xóm dưới. Từ lúc sanh nở tới giờ Mỹ Lan trốn tránh tất cả mọi người. Nàng chẳng hề đặt chân xuống xóm hoặc ra chợ. Nàng ở nhà lo săn sóc con trai và đùa giỡn với Tô Tô trung thành. Nhờ trời, thằng bé Trần Đức lớn như thổi và mập cùi cụi. Tối ngày nó cười toe toét, chẳng hề khóc bù lu bù loa như những đứa trẻ trạc tuổi nó. Cuộc sống của hai mẹ con Mỹ Lan cũng đầm ấm và hạnh phúc. Nỗi đau buồn của Mỹ Lan vơi dần dần.
Đôi khi nàng cũng thấy nhớ Triệu Vĩ, nhớ những ngày yêu đương cũ. Những lúc đó là những lúc Mỹ Lan đau khổ vô cùng. Những hình bóng con người phản bội rất chóng bôi xóa, nhờ hình ảnh Trần Đức hiện lên lấn áp. Bao nhiêu tình duyên tan vỡ. Dưới mái nhà tranh nghèo nàn của bà lang Bảy, luôn luôn vẳng tiếng cười nói của hai mẹ con Mỹ Lan.
Mỹ Lan bồng thằng bé ra đứng cạnh con Tô Tô. Nàng cho thằng bé tắm nắng buổi sáng.
Nhận ra Mỹ Lan, Năm Hương sửng sốt:
- Trời! Con Mỹ Lan...
Qua phút ngạc nhiên cực độ, Năm Hương lẩm bẩm:
- Thì ra nó vẫn chưa chết! Nó ẩn tránh trên cái nhà mồ này để sanh đẻ và không chừng nó còn định làm một việc tày trời gì nữa đây. May mà ta khám phá ra tung tích nó sớm! Con này lợi hại thật!
Đợi cho Mỹ Lan và con chó Tô Tô trở vào nhà, Năm Hương nắm tay thằng bé cầm xâu chim lôi trở lộn về con đường cũ. Gã cắm cổ bước nhanh nhưng mắt vẫn không quên nhận rõ đường lối. Vừa đi gã vừa bới óc tìm hiểu hành động của Mỹ Lan và sắp đặt mưu cơ để đối phó lại. Gã xoa hai bàn tay cười khoái trá:
- Chuyến này mầy có chạy đằng trời!... Tao sẽ phá hỏng mưu toan của mầy, hành hạ mầy suốt đời đau khổ. Mầy sẽ thấy thằng Năm Hương trả thù. Hà hà!... Rồi mầy sẽ ân hận vì cái tánh làm cao của mầy!
Đến nhà, cất súng và chim xong xuôi, Năm Hương đi sang phòng bà Triệu Phú. Gã gõ cửa và chờ đợi. Bà Triệu Phú thân hành ra mở cửa.
Thấy Năm Hương, bà vui vẻ:
- À, chú Năm! Hôm nay chủ nhật chú không đi chơi à?
Năm Hương giữ vẻ mặt nghiêm trọng hỏi nhỏ:
- Cậu Hai đâu rồi?
Biết có tin lạ, bà Triệu Phú mời Năm Hương vào phòng và đáp:
- Nó ra chợ Cà Mau chơi với thằng Sinh rồi! Có tin lạ?
Năm Hương thong thả nói:
- Ban sáng tôi đi săn ở xa xóm, tình cờ tôi đã khám phá ra một chuyện lạ lùng.
Gã nói sang chuyện khác:
- Đám cưới của cậu Hai chừng nào cử hành?
Bà Triệu Phú tuy nóng nảy nhưng vẫn phải đáp theo câu hỏi của tên quản lý:
- Hai mươi ngày nữa! Đám hỏi cử hành tuần trước, chú chóng quên quá.
Năm Hương gật gù:
- Cũng còn kịp, chưa đến đỗi trễ.
Quá nóng nảy, bà Triệu Phú gắt:
- Nhưng cái quái gì mới được chứ?
Năm Hương vẫn thong thả:
- Ban nãy, trong lúc đi săn tôi cao hứng lần đến một nơi hoang vắng cách xa xóm làng, một nơi ít có chân người đặt tới. Tình cờ tôi gặp cô Mỹ Lan.
Bà Triệu Phú giật mình:
- Mỹ Lan? Nó vẫn còn sống? Tôi tin rằng nó đã tự vẫn rồi kia mà!
Năm Hương nhếch mép cười:
- Trước kia tôi cũng tin như thế, nhưng giờ thì tôi đã hết tin rồi. Tôi không thấy Mỹ Lan tận mắt, một Mỹ Lan bằng xương bằng thịt.
Bà Triệu Phú nghi ngờ:
- Nếu nó còn sống sao nó bỏ nhà trốn mất làm gì?
Năm Hương nói rõ ràng:
- Đấy mới là chuyện quan hệ!
Không đợi bà Triệu Phú hỏi dồn, Năm Hương nói luôn:
- Mỹ Lan đã khôn ngoan tạo nên vở kịch tự trầm mình để lừa gạt chúng ta...
Bà Triệu Phú ngắt ngang:
- Lừa gạt chúng ta, đâu có lợi lộc gì cho nó?
Năm Hương vẫn điềm đạm:
- Bà đừng nóng nảy, thủng thẳng tôi giải nghĩa hết cho bà rõ. Chuyện gì cũng có cái nguyên do của nó. May mà tôi khám phá ra kịp, nếu không chúng ta nguy mất. Khi được tôi báo tin cho biết Triệu Vĩ sắp lấy con gái của bác sĩ Thạch làm vợ, Mỹ Lan buộc lòng phải bỏ nhà trốn tránh vào chỗ hoang vắng vì cô ấy đã mang thai. Không muốn cho thiên hạ chê cười và nghi ngờ nên Mỹ Lan mới bày chuyện bỏ chiếc khăn bàn trên bờ sông. Vì thế nên cậu Hai và chúng ta đều ngỡ Mỹ Lan đã tự vẫn. Trong lúc đó Mỹ Lan sắp đặt một âm mưu ghê gớm. Nàng chờ đợi sanh đẻ xong mới ra tay thi hành quỷ kế. Bà đã hiểu rõ chứ?
Đã đón hiểu được ý của Năm Hương, bà Triệu Phú gật đầu:
- Tôi hiểu chút chút rồi. Con Mỹ Lan vẫn ngờ Triệu Vĩ phản bội nó thật tình nên định tâm trả thù và phá hoại.
Năm Hương đắc ý tán đồng:
- Chính thế! Hiện thời Mỹ Lan đã sanh đẻ xong xuôi. Tôi thấy cô ấy bồng đứa bé ra đứng hóng nắng buổi sáng. Tôi tin chắc Mỹ Lan sẽ bế con trở về xóm để phá khuấy cuộc hôn nhơn của cậu Hai. Như thế thật là nguy hiểm. Danh dự nhà bà sẽ bị xâm phạm đến và đám cưới của cậu Hai sẽ bị tan vỡ. Có lẽ bà dư biết cậu Hai vẫn còn yêu Mỹ Lan. Nếu hai người gặp nhau thì... mưu cơ của chúng ta bị bại lộ.
Ngồi nghe Năm Hương giãi bày, bà Triệu Phú tỏ vẻ lo âu ra mặt. Đợi cho tên quản lý dứt lời, bà nói:
- Chú nói đúng! Ván bài của chúng ta sẽ hỏng hết. Tôi chẳng đời nào chịu nổi cái nhục nhìn con trai tôi lấy con nhỏ nhà quê làm vợ. Chúng ta phải làm sao bây giờ? Tôi rối trí hết rồi! Hơn nữa đã gần đến ngày đám cưới của chúng nó. Nếu Mỹ Lan còn sống, Triệu Vĩ sẽ từ chối cuộc hôn nhơn. Tôi biết rõ tánh ý nó. Chú ráng giúp tôi thêm phen này, tôi chẳng hề quên ơn chú.
Năm Hương giả vờ khó khăn lắm, nhưng kỳ thật gã đã sắp đặt sẵn đâu đấy xong xuôi cả rồi.
Thấy Năm Hương chần chừ, bà Triệu Phú lo ngại nhiều thêm. Bà khẩn thiết nói:
- Nếu thành công tôi thưởng chú một số tiền to tát.
Năm Hương chỉ chờ đợi có thế. Gã “à” một tiếng to rồi trịnh trọng:
- Tôi đã nghĩ ra rồi! Bây giờ chỉ còn cách ngăn cản không cho Mỹ Lan gặp mặt cậu Hai.
Bà Triệu Phú lắc đầu:
- Có trời mới ngăn cản được nó thôi! Đứa trẻ mới sanh là một lợi khí rất mạnh của nó.
Năm Hương cười tự phụ. Gã lầm thầm với bà Triệu Phú một hồi và nói to với giọng khoái trá:
- Nếu chúng ta làm được như thế Mỹ Lan sẽ chẳng bao giờ tìm gặp mặt cậu Hai, vì nàng đinh ninh cậu Hai đã phản bội, nàng nghĩ luôn rằng mất món bùa đó sẽ chẳng còn ai tin nàng. Âm mưu của chúng ta sẽ chẳng có một người thứ ba biết được. Và họ sẽ xa nhau cho đến trọn đời.
Bà Triệu Phú mừng rỡ vỗ vai tên quản lý trung thành khen:
- Diệu kế!... Thiệt là diệu kế! Chú luôn luôn là kẻ đắc dụng.
Được chủ khen ngợi, Năm Hương khoái trá nhưng vờ nghiêm trọng:
- Bà khen tôi làm tôi thẹn quá! Bổn phận người làm công phải hết lòng với chủ, đó là lẽ tự nhiên.
Bà Triệu Phú ân cần dặn dò:
- Dù sao chú cũng phải hết sức cẩn thận, tránh trước những chuyện không may, tốt hơn. Đây là một việc làm nguy hiểm và trái với pháp luật. Nếu chú để bại lộ, chúng ta nguy mất.
Năm Hương vênh mặt tự phụ:
- Bà khỏi lo, tôi sẽ làm tròn sứ mệnh dễ dàng. Tôi biết xếp đặt mọi việc!
Bà Triệu Phú tiễn Năm Hương ra khỏi cửa phòng:
- Tôi hoàn toàn tin cậy chú. Chúc chú thành công.
Đã ba hôm nay, Năm Hương buổi sáng nào cũng đến rình rập căn nhà của bà lang Bảy để thực hành một mưu định tàn ác. Nhưng ba hôm nay, Mỹ Lan không bước chân ra khỏi nhà. Năm Hương nóng ruột vô kể vì bà Triệu Phú luôn luôn thúc hối. Hơn nữa đã sắp đến ngày đám cưới của Triệu Vĩ.
Năm Hương kiên nhẫn chờ đợi, dù sao gã cũng phải đi đến mục đích cuối cùng.
Cái thù của gã phải được trả trọn vẹn và gã không thể làm phụ lòng tin cậy của bà Triệu Phú. Gã căm thù Triệu Vĩ vì Triệu Vĩ đã làm nhục gã trước thầy thợ. Gã oán hờn Mỹ Lan vì Mỹ Lan xô đẩy và khinh bỉ gã. Cái con người Năm Hương chẳng bao giờ biết phục thiện. Gã chỉ muốn đừng ai can thiệp vào hành động của gã.
Những kẻ luồn lỏi, nịnh bợ đều là những kẻ có nhiều tự ái và tánh khiếp nhược. Năm Hương thuộc về loại hạng người này. Những lời phê bình thân mật của người ta Năm Hương cho là những lời nhục mạ thậm tệ.
Nắng đã lên khỏi ngọn tre xanh ở xa xa. Năm Hương đúng mỏi cả chân, mồ hôi ướt đẫm trán. Mắt không rời một phút căn nhà lá trơ vơ, Năm Hương thấp thỏm trông ngóng.
Cánh cửa tre mở rộng, Mỹ Lan lách mình bước ra ngoài, tay nàng xách một chiếc giỏ mây đan. Chiếc khăn trắng quấn quanh cổ, tóc nàng bay phơ phất trong gió sớm.
Năm Hương khoan khoái thở phào:
“Tưởng mầy ở nhà mãi chứ”.
Gã tặc lưỡi tiếc rẻ:
- Con nhỏ càng ngày càng đẹp thêm, bỏ qua cũng uổng thật!
Con chó Tô Tô quấn quít bên chân cô chủ. Mỹ Lan vỗ đầu nó và nói những gì không biết mà con vật quay đầu trở vào nhà. Mỹ Lan bước nhanh ra đường.
Năm Hương vội vàng ngồi thụp xuống để Mỹ Lan không trông thấy. Đợi cho bóng nàng khuất mất trong một ngã rẽ, Năm Hương rời khỏi chỗ núp. Nhớ đến con chó Tô Tô, gã ngần ngại giây phút nhưng lại rùng vai khi liếc nhìn khẩu súng săn.
Chẳng bỏ lỡ một dịp may, Năm Hương cắm cổ chạy một mạch đến nhà. Đến trước cửa, gã bị con Tô Tô xông ra chặn đường. Nhận ra kẻ thù của cô chủ, con chó Tô Tô gừ lên một tiếng và nhào tới cắn vào chân Năm Hương.
Hoảng sợ, Năm Hương đã thốc vào bụng con chó và chạy thẳng vào trong. Đứa con của Mỹ Lan đang nằm trong chiếc nôi cũ kỹ.
Mắt sáng lên, Năm Hương chạy về phía chiếc nôi, nhưng con Tô Tô rượt theo vừa sủa vang vừa cắn túi bụi vào mình Năm Hương.
Trước sự khôn ngoan của con chó trung thành Năm Hương không xáp được đến gần thằng bé đang mê ngủ. Vừa chống cự Năm Hương vừa tìm một giải pháp tiện lợi, không có thể kéo dài thời giờ. Sợ Mỹ Lan trở về bắt gặp, Năm Hương chạy vội ra cửa. Con chó không đuổi theo, đứng canh chừng cạnh chiếc nôi.
Năm Hương cất cao họng súng hai nòng chĩa ngay về phía con vật. Con Tô Tô nhanh nhẹn phóng tới chụp Năm Hương nhưng gã nhanh tay hơn bóp cò. Một tiếng chát chúa làm thằng bé đang ngủ giật mình khóc thét lên. Con Tô Tô trúng đạn giữa óc ngã lăn ra chết quằn quại trên mặt đất.
Năm Hương vất khẩu súng lên giường và chạy vội đến bồng thằng bé. Nó giãy giụa kịch liệt khi thấy người lạ mó vào mình. Cuối cùng Năm Hương bồng gọn thằng bé ra khỏi nhà.
Để đóng trọn vẹn thủ đoạn tàn ác, Năm Hương quẹt một que diêm ném vào vách lá, trước khi ngọn lửa bén cháy, Năm Hương ôm thằng bé cắm đầu chạy một mạch về nhà.
Gặp hồi gió thổi mạnh và lá khô phụ trợ, căn nhà nhỏ của bà lang Bảy bốc cháy dữ dội. Ngôi nhà hẻo ánh ở xa xóm nên chẳng ai đến tiếp cứu kịp. Ngọn lửa mặc sức tung hoành.
Khi người trong xóm, bà lang Bảy và Mỹ Lan hay tin kéo nhau về cứu chữa thì ngôi nhà chỉ còn là một đống tro tàn đen sạm.
Nhìn cảnh điêu tàn, Mỹ Lan hét lên một tiếng thảm thiết:
- Con ơi!
Và nàng ngã gục xuống ngất lịm. Bà lang Bảy cuống cuồng lớp tiếc ngôi nhà, lớp thương cảm Mỹ Lan. Người lối xóm bu quanh nạn nhân bàn tán xôn xao. Bà lang Bảy tận lực cứu chữa nạn nhân. Lát sau Mỹ Lan hồi tỉnh. Nàng từ từ mở mắt. Khi trông thấy gương mặt âu sầu của người bạn già, nàng lại khóc ngất lên.
Hiểu rõ sự đau đớn của một người mẹ mất con, bà lang Bảy lặng im không nói một lời. Bà để yên cho Mỹ Lan khóc vì những giọt nước mắt sẽ làm vơi bớt lòng đau khổ của nàng.

Mỹ Lan ôm mặt khóc vùi. Thế là hết, nguồn an ủi và hạnh phúc duy nhất của đời nàng đã mất vĩnh viễn. Đứa con thân yêu của nàng đã vùi thân dưới lớp tro tàn. Nàng kéo dài cuộc sống cũng chỉ vì con. Giờ đây con nàng đã chết, chết một cách thảm khốc làm mồi cho thần lửa. Định mệnh tàn ác đến thế là cùng. Người ta cướp đi tất cả lẽ sống của đời nàng. Tình mẫu tử thiêng liêng cao cả. Người mẹ nào lại đau đớn khi giọt máu của mình rơi mất.
Như một kẻ điên cuồng, Mỹ Lan vùng đứng phắt dậy. Nàng gạt mọi người sang một bên và chạy bổ đến nhào lăn trên đống tro vụn còn nóng hổi.
Hai người đàn ông nắm tay Mỹ Lan đỡ dậy. Nàng vùng vẫy dữ dội và gào lớn:
- Trời ơi! Buông tôi ra! Buông tôi mau! Tôi muốn chết, chết theo con tôi!... Tôi sống làm gì nữa đây?... Con tôi đâu rồi?... Con tôi đâu rồi?... Con tôi đâu rồi?... Trời ơi!...
Nàng cào, nàng cấu, càng cắn túi bụi vào tay hai người đàn ông làm họ kêu rú lên và buông nàng ra.
Đầu tóc rũ rượi, quần áo lấm lem, mặt nàng ràn rụa nước mắt, Mỹ Lan đâm đầu chạy bổ ra đường. Không một ai dám giữ nàng lại. Bà lang Bảy lo sợ gọi lớn:
- Mỹ Lan! Mỹ Lan!...
Không thấy Mỹ Lan trả lời, bà đấm ngực rít lên:
- Trời phật bất công quá!...
Mọi người đứng quanh đều lắc đầu thương hại.
Mỹ Lan chạy băng đồng bất kể phương hướng, bất kể hầm hố. Vừa chạy nàng vừa réo lồng lộn:
- Con ơi!... Con ơi!... Con của mẹ đâu rồi? Con chờ mẹ với!
Nàng chạy một mạch đến dòng sông Trẹm mới dừng bước. Đưa mắt lờ đờ nhìn dòng nước đỏ ngầu chảy băng băng, Mỹ Lan đứng lặng như kẻ mất hồn. Dòng sông Trẹm đã bao nhiêu lần liên tiếp nhận những lời thề vàng đá, bao lần chứng kiến những giờ khắc hạnh phúc của đời nàng. Hôm nay, cũng dòng sông này, chứng kiến kết cuộc của một kiếp người.
Mỹ Lan đã nhứt quyết, lần này không có cái gì giữ chân nàng. Cái chết đối với nàng sung sướng hơn nhiều. Ở trong cái thế giới xa lạ của những linh hồn, nàng sẽ thảnh thơi. Chỉ một cái nhún mình là dòng nước lạnh sẽ tiếp đón nàng. Lòng sông là thiên đàng của những kẻ mất hết lẽ sống. Khúc sông này vắng người chẳng ai trông thấy làm rộn những sự yên nghỉ của nàng.
Một nụ cười khô héo nở trên môi Mỹ Lan, nàng lãnh đạm nhìn những cụm lục bình trôi bồng bềnh và đau đớn:
- Sông Trẹm ơi! Dòng nước lạnh của mi là mồ của ta đây. Ta đã sanh ra cạnh mi và chết đi cũng cạnh mi. Giờ phút này ta chẳng hề oán trách tạo hóa, nguyền rủa loài người. Ta chỉ mong mỏi, mi nhìn suốt được lòng ta. Một tấm lòng luôn luôn son sắt. Ta định kéo dài những chuỗi ngày vô vị bên cạnh tình bạn bền chặt của mi mãi mãi nhưng tạo hóa không muốn thế, người đã cướp mất của ta lẽ sống còn sót lại. Làm sao sống nổi nữa khi ta đã mất hết mọi hạnh phúc, mọi nguồn an ủi. Trường đời là một bãi chiến trường, con người là chiến sĩ. Suốt đời ta, ta không ngớt phấn đấu nhưng cuối cùng ta vẫn thất bại để kết liễu cuộc đời bằng cái chết. Ta biết tóc ta còn xanh lắm, ta có thể lập lại cuộc đời, một cuộc đời trong sáng hơn. Nhưng ta không muốn làm một kẻ phản bội, mặc dù họ đã phản bội ta. Có lẽ ta ngu dại lắm, ta biết thế. Nhưng Mỹ Lan này nguyện chỉ yêu một lần thôi. Một lần yêu là một lần tan vỡ, yêu thêm một lần nữa và làm lại lời thề mới được ích gì. Một khi tim mình đã rướm máu, dù có hàn vá lại được cũng chẳng còn nguyên lành. Với tuổi thanh xuân, ta mơ ước ái tình rồi ta chán ghét ái tình. Ái tình là mãnh lực làm xáo trộn cuộc sống bình thản của con người. Nếu không có ái tình, ta sẽ sống yên lành giữa luỹ tre xanh, bên rừng U Minh, cạnh dòng sông Trẹm. Rồi có ngày, một anh nông dân hiền lành chân thật đến hỏi ta làm vợ. Tuy không yêu chàng nhưng ta nhận lời. Và ái tình sẽ nhường bước cho tình yêu chồng, tình thương con. Cuộc sống của ta sẽ nhàn hạ biết mấy. Ta sẽ tiếp tay với mọi người để xây dựng một xã hội đồng quê khuôn mẫu đang vươn mình trỗi dậy. Bên tai ta luôn luôn vang dậy những khúc hát dân cày giản dị, nhưng thấm nhuần tình yêu đất nước, yêu quê huơng, yêu nòi giống.
Mỹ Lan thở dài não ruột:
- Bây giờ, giấc mộng vàng mà ta đã xây trước khi hưởng hương vị của ái tình đã tan vỡ mất rồi. Ta không thể xây lại một giấc mộng khác.
Mỹ Lan hướng mặt về phía những dãy nhà trong xóm và lẩm bẩm:
- Thới Bình thôn!... Từ đây ta vĩnh biệt ngươi. Ta đã chịu đựng được qua mấy mùa khói lửa tang thương, nhưng ta không chịu đựng nổi sự giày vò của đau khổ và tuyệt vọng. Ta là một kẻ hèn nhát, ta không còn xứng đáng là một con dân của Thới Bình thôn nữa. Ta mong mỏi dòng nước sông Trẹm rửa sạch mối nhục này để người dân quê khỏi tủi hổ vì một đứa con gái chết vì tình.
Lệ chảy ràn rụa xuống má. Mỹ Lan để tay lên ngực nức nở:
- Vĩnh biệt Triệu Vĩ... em chúc anh hưởng hạnh phúc suốt đời bên cạnh vợ đẹp và con ngoan...
Nàng quệt vội nước mắt, gương mặt trở nên rắn rỏi lạ thường. Nàng nghiến răng cương quyết:
- Ta phải chết! Chỉ có chết mới làm ta hết đau khổ.
Nàng vừa định lao mình xuống dòng nước lạnh, nhưng chẳng hiểu sao nàng vụt dừng bước.
Một hồi chuông công phu nổi lên ngân dài trong không khí. Tiếp theo một hồi chuông nữa chen lộn trong tiếng mõ điểm rời rạc. Dư âm dịu hiền nhưng buồn tê tái. Đôi mắt đang sáng long lanh vụt trở nên đờ đẫn, Mỹ Lan rên rỉ:
- Hồi chuông công phu của Linh Sơn tự.
Tự nhiên nàng chắp hai bàn tay trước ngực:
- Lạy Thượng đế, hãy cứu vớt linh hồn con!
Nàng ngẩng mặt nhìn về phía chùa Linh Sơn hiện lờ mờ sau đám tre xanh ở xa xa. Bỗng dưng nàng nảy ra một ý nghĩ khác. Tiếng chuông trầm buồn như đang kêu gọi những linh hồn sa đọa trở về quỳ dưới chân Phật. Phật luôn luôn sẵn sàng tha thứ những đứa con tội lỗi.
Mỹ Lan chậm chạp rời khỏi dòng sông Trẹm. Nàng cúi mặt nhìn xuống đất khẽ thở dài:
- Ta chưa thể chết được! Tìm cái chết để lãng quên đua khổ là hèn nhát. Mặc dù đã chán đời nhưng ta không có quyền rời bỏ cuộc đời bằng cách gởi xác cho dòng nước. Tại sao ta phải chết để tránh đau khổ? Người biết coi thường sự đau khổ mới là biết sống. Thiếu gì cách khác có thể làm cho ta hết đau đớn tội gì phải tự hủy mình cho thiên hạ chê cười.
Kề cận với cái chết, Mỹ Lan đã tìm ra lẽ sống. Nàng nhứt quyết trốn tránh mọi người bằng cách gởi trọn vẹn cuộc đời vào cửa Phật. Sống bên cạnh đức Từ Bi, nàng hy vọng tiếng chuông, lời kệ sẽ hàn vá được vết thương của lòng nàng.
Mỹ Lan bước nhanh về phía Linh Sơn tự. Nàng đứng lặng trước cửa nhìn ngôi chùa hiền lành nằm dưới bóng điệp. Chung quanh hoàn toàn im vắng, không một bóng người lai vãng. Tự nhiên Mỹ Lan cảm thấy tâm hồn thơ thới như vừa có một bàn tay dịu dàng mơn trớn. Đất Phật đang mở rộng trước mắt nàng. Đất Phật sẵn sàng tiếp đón những kẻ muốn trốn tránh cuộc đời tọa lạc. Vài con chim sẽ hót ríu rít. Vài cánh hoa điệp đỏ ối theo chiều gió rơi là đà cài lên mái tóc Mỹ Lan.
Chấp hai tay trước ngực, Mỹ Lan thong thả tiến vào cửa chùa. Vị sư già đang ngồi tụng niệm trước Phật đài. Tiếng mõ hòa trong tiếng ê a vang đều như một bản đàn trầm buồn dài không bao giờ dứt. Chẳng biết vị sư già có hay biết sự hiện diện của Mỹ Lan chăng mà người vẫn ngồi cầu kinh. Trước mặt đại sư, một pho tượng Phật cao lớn ngồi chễm chệ ngự trị gần hết nhà chùa. Đôi mắt Phật hiền từ làm sao, đôi mắt dịu dàng và bác ái. Một kẻ tàn ác đến đâu đứng trước đôi mắt đạo đức của Phật cũng thấy lòng mình mềm nhũn.
Mỹ Lan quỳ xuống thềm gạch. Nàng lẩm bẩm trong mồm:
- Lạy đức Từ Bi, hãy cứu vớt linh hồn con!
Mỹ Lan quỳ như thế lâu lắm, hồn nàng triền miên trong một thế giới thần tiên xa lạ, ở nơi đó chẳng có một người nào đau khổ.
Vị sư già tụng kinh đã xong mà Mỹ Lan chẳng hay biết. Nhà sư đứng nhìn Mỹ Lan một chập lâu, đoạn người nhẹ đặt tay lên vai nàng:
- Hết hồi kinh rồi, con ạ!
Như sực tỉnh giấc mơ, Mỹ Lan ngẩng mặt lên. Bắt gặp đôi mắt hiền hậu của vị sư, nàng khẽ cúi đầu chào:
- Kính chào hòa thượng!
Nhà sư nắm cánh tay Mỹ Lan đỡ nàng đứng dậy:
- Con đến đây tìm ta có việc chi?
Mỹ Lan run run giọng:
- Bẩm hòa thượng, hòa thượng hãy thí phát cho con.
Vị sư già ngạc nhiền nhìn lom lom vào mặt cô gái đẹp:
- Thí phát cho con à? Ta không hiểu gì hết?
Mỹ Lan nói nhanh:
- Con van lạy hòa thượng, con muốn làm đệ tử của đức Phật từ bi.
Đôi mày nhà sư cau lại, ra dáng ngẫm nghĩ lung lắm. Vầng trán răn reo nhăn nhiều thêm. Gương mặt trầm tư chẳng hề lo nghĩ hiện lên một sự thương hại. Lâu lắm nhà sư mới chậm rãi nói bằng một giọng hiền từ của người cha già:
- Con muốn thí phát, được rồi. Nhưng trước hết ta muốn biết nguyên do nào xui khiến con quyết định như thế?
Mỹ Lan đau xót lắc đầu:
- Hòa thượng hãy thí phát cho con, nhưng đừng tìm hiểu nguyên do làm gì, con không đủ can đảm nhắc lại chuyện đã qua.
Nhà sư khẽ nhếch môi cười:
- Con đã có can đảm gởi thân vào cửa Phật thì ta tin rằng con cũng đủ can đảm nói tất cả sự thật. Đức Phật từ bi đang ngồi nghe con nói kia, con hãy chứng tỏ lòng chân thật với Ngài. Trước mặt đức Phật chẳng có chuyện gì phải giấu diếm. Trước khi khoác lên mình mảnh áo nâu sồng người ta cần phải trút bỏ hết mọi niềm tâm sự, đau khổ, ngang trái để rồi quên hẳn nó. Con đã hiểu ý ta chưa?
Mỹ Lan lặng lẽ gật đầu, lòng nàng tơi bời nổi sóng, cố đè nén một sự xúc động mạnh, Mỹ Lan thuật cho nhà sư nghe từ đầu đến cuối câu chuyện tan vỡ của nàng. Nghe xong câu chuyện, nhà sư thở dài. Ông nghiêng mình trước tượng Phật lâm râm cầu nguyện.
Thấy nhà sư không nói gì đến mình, Mỹ Lan bạo dạn nhắc nhở:
- Hòa thượng nghĩ thế nào?
Vị sư già nhìn ra phía cửa chùa thong thả nói:
- Cửa từ bi mở rộng cho tất cả mọi người thiện chí có lòng tín ngưỡng nơi đức Phật cao cả. Nhưng của từ bi chỉ dành riêng cho những kẻ chán đời muốn tránh xa những nguồn tội lỗi của thế gian.
Sợ vị sư già từ khước, Mỹ Lan ngắt ngang:
- Cũng là một kẻ chán đời, hòa thượng hãy nhận con làm đệ tử.
Hòa thượng thương hại nhìn Mỹ Lan, nói tiếp:
- Con hãy lặng yên nghe ta nói. Con đã chán đời rồi ư? Ta nghi ngờ con lắm, con có lẽ chưa hiểu được lòng con. Là tuổi trẻ ai lại chẳng có lần thất vọng và đau khổ vì tình duyên. Con mới đụng chạm sự thử thách đầu tiên của đời, con đã vội nản chí. Ta tin rằng con còn đi xa hơn nữa. Ta ngại rằng rồi đây con sẽ hối tiếc. Ta đã trải qua thời kỳ niên thiếu, ta hiểu tuổi trẻ nhiều lắm. Con hãy suy nghĩ kỹ, đừng nên hấp tấp mà làm hư hỏng cuộc đời. Ta rất sẵn sàng thâu nhận con làm đệ tử, nhưng ta phải nói trước cho con, hiểu rằng: vùi đầu xanh giữa chốn thiên môn là một hành động điên rồ.
Giọng nói của nhà sư đều đều như giọng đọc kinh:
- Nghe câu chuyện tình bi thảm của con ta biết con đau khổ nhiều lắm. Đối với một người con gái hiền lành chân thật như con, chịu đựng được hoàn cảnh đó đã là khá. Tại sao con lại có ý định xuất gia đầu Phật? Nếu ý định đó nảy sinh ra trong một lúc con đau khổ cực độ, ta e nó sẽ không bền. Tuổi trẻ thường có những hành động bồng bột mù quáng.
Nhà sư cao giọng:
- Con đã bôi xóa cái chết trong đầu óc khi tai con nghe hồi chuông công phu buổi sáng. Điều này chứng tỏ con đủ lương tri và con chưa muốn trốn tránh bổn phận làm người. Chưa muốn trốn tránh bổn phận làm người tại sao lại dấn thân vào đất Phật? Kẻ xuất gia là trốn tránh bổn phận đấy, con ạ! Ta đã già rồi, ta có thể bào chữa cái lỗi của ta được. Nhưng còn con, con ơi! Mái tóc con còn xanh quá. Con lại đẹp nữa. Một người con gái đẹp không thể bỏ mình giữa những luật lệ khe khắt của nhà chùa. Ta thành thật khuyên bảo con vì ta chẳng muốn thấy sau này con phạm nhằm những điều cấm của đức Phật chí tôn đáng kính. Là bực thầy, ta rất yếu lòng khi thấy một đệ tử lầm lỗi. Con hãy can đảm trở lại với đời để tiếp tục cuộc sống mới mẻ của người dân quê tiến bộ. Lăn lộn với trường đời con phải luôn luôn chiến đấu, chiến đấu mãi đến ngày nào sức con đã kiệt, chừng ấy con hãy trở về tìm ta và ta rất lấy làm hãnh diện nhận một người học trò đã trả xong nợ đời... Hãy về đi con! Ta cầu chúc đời con sẽ tươi đẹp hơn.
Mỹ Lan thổn thức:
- Con rất cảm ơn những lời khuyên bảo hợp lẽ của sư cụ, nhưng sư cụ ơi, con không thể nào trở về với cuộc đời vì con đã mất hết lẽ sống ở nơi đó rồi. Bây giờ con chỉ có thể sống bên cạnh đức Phật từ bi bác ái thôi, vì đấy là nguồn an ủi độc nhứt của con. Lẽ sống còn sót lại của con là xa lánh người đời ô trọc để tìm hạnh phúc và yên ổn dưới chân đức Phật. Con van hòa thượng, hòa thượng hãy tiếp nhận con. Nhà chùa luôn mở cửa đón rước người của thế gian, xa lìa nhà chùa, con sẽ xuống địa ngục mất thôi. Hòa thượng đành lòng nào đứng nhìn một kẻ đi lần về cõi chết. Con đã quyết định, đã suy nghĩ cặn kẽ rồi, con chẳng thay đổi ý định. Nếu hòa thượng từ chối, con sẽ đập đầu chết nơi đây. Máu con sẽ làm ô uế đức Phật và hòa thượng sẽ mang tội với trời đất.
Mỹ Lan quỳ xuống chân nhà sư.
Trước ý định sắt đá của cô gái đẹp, Hòa thượng già lắc đầu hồi dài. Người nhẹ nâng Mỹ Lan đứng dậy.
Hướng về Phật đài tôn nghiêm, nhà sư lẩm bẩm:
- Nam mô A di đà Phật! Đức Phật chí cao hãy ra tay cứu rỗi một linh hồn!
Hòa thượng đặt tay lên vai Mỹ Lan:
- Ban nãy ta lấy tư cách một người khuyên bảo con, nhưng ý con đã quyết định, ta không biết nói sao nữa. Bây giờ ta nhân danh là một đệ tử trung thành của Phật tiếp nhận con vào gia đình phật tử. Ta sẽ làm lễ thí phát cho con. Mái tóc đẹp của con sẽ không còn, và bộ áo này sẽ mất để nhường chỗ cho mảnh áo nâu sồng. Con hãy quỳ dưới chân Phật.
Được nhà sư nhận lời, Mỹ Lan nhếch miệng cười, một nụ cười mà chính nàng cũng không hiểu đó là nụ cười đau khổ hay sung sướng.
Gạt phắt mái tóc về phía sau, Mỹ Lan quỳ xuống sàn gạch. Nàng kính cẩn chắp hai tay trước ngực và đăm đăm nhìn gương mặt bác ái dịu hiền của đức từ bi.
Nhà sư đốt một bó nhang mới, hương trầm bay tỏa khắp chùa. Ông đứng nghiêm trang trước Phật đài đọc một bài kinh dài. Xong xuôi, ông bảo Mỹ Lan:
- Con đứng dậy! Từ đây trở đi con là đệ tử của đức Phật, một kẻ trung thành của nhà chùa. Con phải luôn luôn đặt mình dưới những điều cấm của đức Phật và những luật lệ của nhà chùa. Con không được nghĩ những điều ô uế của trần tục. Con nên cầu nguyện cho loài người bớt đau khổ. Con phải giúp đỡ những kẻ sa cơ lỡ bước và tha thứ cho những kẻ lầm đường lạc lối. Ngoài ra, con còn phải lúc nào cũng nghĩ đến đức Phật cao cả vì Ngài đã cứu vớt linh hồn con. Và con sẽ thay thế Ngài để nâng đỡ những linh hồn sa đọa khác. Hãy tỏ xứng đáng là một kẻ tu hành! Con hiểu ý ta chứ?
Mỹ Lan khẽ gật đầu đáp:
- Con hứa sẽ tuân theo những điều cấm của đức Phật và những luật lệ của nhà chùa. Con sẽ luôn luôn xứng đáng là một đệ tử của đức Phật.
Nhà sư tỏ vẻ hài lòng:
- Ta mong con giữ đúng những lời đã hứa trước Phật đài, và ta cũng không quên cầu nguyện cho con vững tinh thần mãi mãi.
Mỹ Lan cảm động:
- Cảm ơn Hòa thượng! Hòa thượng đã cứu vớt con ra khỏi bàn tay tử thần và nanh vuốt của quỷ sứ. Từ đây con bắt đầu sống một cuộc đời mới thật sự. Con sẽ kiên nhẫn đi lần về cõi Phật. Hòa thượng hãy nhận tất cả lòng biết ơn của con.
Nhà sư mỉm cười:
- Con hãy cảm ơn Phật, chứ đừng cảm ơn ta. À, tên con là gì nhỉ?
Mỹ Lan đáp nhỏ:
- Bẩm Hòa thượng, tên con là Mỹ Lan!
Ngẫm nghĩ một hồi lâu, Hòa thượng chậm rãi nói:
- Danh hiệu ta là hòa thượng Minh Đức, bắt đầu từ đây danh hiệu của con sẽ là ni cô Diệu Linh.
Mỹ Lan hoan hỉ nhận cái tên mới của nhà chùa ban cho. Nàng lầm thầm trong mồm:
- Ni cô Diệu Linh! Cô gái quê Mỹ Lan của dòng sông Trẹm đã chết hẳn rồi!
Thấy ni cô Diệu Linh thừ người ra dáng nghĩ ngợi, Hòa thượng Minh Đức ôn tồn hỏi:
- Ni cô nghĩ ngợi gì đấy? Có thể cho ta biết được không?
Ni cô Diệu Linh trầm ngâm đáp:
- Bẩm hòa thượng, con đang chôn cái tên Mỹ Lan dưới mồ quên lãnh của người đời.
Đôi mắt hiền từ của sư cụ Minh Đức như hướng về một dĩ vãng xa xôi, người lẩm bẩm:
- Ngày xưa, ta cũng đã có một lần chôn tên họ như ni cô bây giờ. Nhưng đã lâu và xa lắm rồi.
Ông chuyển vấn đề khác:
- Thôi, ni cô hãy ra nhà sau. Ta sẽ giới thiệu ni cô với các bạn đồng đạo nam nữ.
- Xin tuân lời hòa thượng!
Chương 7
Thời gian trôi nhanh như bóng cau qua cửa sổ. Thấm thoát Triệu Vĩ lấy vợ đã gần một năm. Ngỡ Mỹ Lan đã tự vận chết và tuân theo lời khuyên lơn của mẹ, buộc lòng Triệu Vĩ phải lấy con gái của bác sĩ Thạch làm vợ.
Bà Triệu Phú muốn có cháu bé bồng ẵm. Triệu Vĩ đành quên hết mọi tội lỗi của người mẹ để làm hài lòng người, vì dẫu sao chàng vẫn là con. Vợ của Triệu Vĩ là Ngọc Anh, con gái thứ của bác sĩ Thạch ở chợ Bạc Liêu. Ngọc Anh, cũng như bao con gái thành thị khác, nàng có chút ít vốn liếng học thức và chút nhan sắc. Tánh tình nàng dễ chịu, nhưng nàng vẫn tránh không khỏi cái bệnh thông thường của con gái nhà giàu: kiêu hãnh và ích kỷ.
Ngọc Anh về làm dâu bà Triệu Phú mà chẳng hề yêu trước Triệu Vĩ và cũng chẳng biết rõ Triệu Vĩ có yêu mình không, nàng nhắm mắt bước theo chân định mệnh, đúng hơn sự lựa chọn của cha mẹ. Nàng tin tưởng cha mẹ nàng rất sáng suốt trong lúc chọn lựa người bạn đời cho nàng. Hơn nữa, Triệu Vĩ cũng dễ thương, học giỏi và giàu. Có được chồng như thế cũng đã là vinh dự lắm rồi. Ngọc Anh đã có thể tự hào với các bạn gái đồng tỉnh: Ta có một người chồng xứng đáng. Cô con gái hay tự phụ và thích hư vinh này đâu có hiểu nỗi lòng Triệu Vĩ vì chàng rất kín đáo. Triệu Vĩ ngậm miệng bước chân vào một cuộc hôn nhân miễn cưỡng.
Đám cưới của con trai bà Triệu Phú cử hành một cách trọng thể: một đám cưới lịch sử của Thới Bình thôn. Xe cộ đậu chật đường: tài tử giai nhân lượn dập dìu. Những người dân quê sống hờ hững sau chiến tranh trố mắt nhìn sự hoang phí của đám người thành thị.
Đêm hôn lễ đó, giữa những tràng vỗ tay hoan hô vang dậy và những lời chúc tụng hạnh phúc, Triệu Vĩ ngập ngừng nắm tay Ngọc Anh với một cõi lòng đã chết. Một nụ cười tươi tắn nở trên môi Triệu Vĩ nhưng có ai ngờ đâu lòng tân nhân đang thổn thức.
Trong lúc các máy ảnh thi nhau bấm lắc cắc và cô dâu đang tràn trề hạnh phúc, thì Triệu Vĩ đang đứng ngây người tưởng đến người con gái đã chết vì yêu chàng. Những lời thề thốt, hứa hẹn bên bờ sông Trẹm văng vẳng bên tai Triệu Vĩ. Chàng ngỡ mình đang sung sướng nắm tay Mỹ Lan trong ngày cưới để thực hiện giấc mộng đẹp đẽ nhứt của hai người.
Sau ngày hôn lễ ít lâu, Triệu Vĩ nhận được tin Mỹ Lan còn sống và nàng đã trở thành tu sĩ sau khi đứa con trai của nàng bị chết cháy trong một vụ hỏa hoạn đáng nghi ngờ. Lòng Triệu Vĩ lại một lần đau nhói. Chàng đã phạm nhằm hai tội ác: gián tiếp giết con và hủy hoại cuộc đời xuân sắc của người yêu. Làm sao chàng chuộc lại tội lỗi? Luôn luôn lương tâm Triệu Vĩ bị sự hối hận dày xéo. Tâm hồn chàng không phút nào được yên ổn. Chàng kéo lê chuỗi ngày dài chán nản vô vị bên cạnh người vợ mà chàng chẳng hề yêu.
Hạnh phúc đời chàng đã tiêu tan mất hết. Người ta vẫn ngỡ chàng sung sướng lắm. Sống miễn cưỡng bên người vợ mà mình không yêu còn gì khổ sở hơn nữa. Không yêu nhưng Triệu Vĩ phải luôn gượng gạo mỉm cười với vợ, ra dáng săn sóc và yêu thương vợ. Bổn phận người chồng bắt buộc Triệu Vĩ làm như thế. Hơn nữa, vợ chàng là một người đàn bà vô tội. Ngọc Anh chỉ là nạn nhân đáng thương của cha mẹ nàng. Triệu Vĩ không thể oán trách được. Họa chăng chỉ có Ngọc Anh tự oán trách mình, vì nàng đã lấy nhầm một người chồng không yêu nàng.
Gần một năm trường Triệu Vĩ đóng vai anh chồng bất đắc dĩ bên cạnh Ngọc Anh. Triệu Vĩ nhận thấy rõ Ngọc Anh không hợp với chàng. Ngọc Anh thuộc vào hạng gái của xã hội phong lưu mà bấy lâu nay Triệu Vĩ hằng khinh bỉ. Một hạng gái tự cao tự đại về cái nhan sắc, cái học lực, cái giàu sang của mình. Bề ngoài trông họ có vẻ lắm nhưng bên trong của họ rỗng tuếch. Triệu Vĩ đã chán ngán hạng gái đó lắm rồi, không ngờ đời chàng lại sa vào tay họ.
Triệu Vĩ đứng trong cửa sổ ném mắt nhìn những cánh đồng rộng bao la sa ngút ngàn.
Hoàng hôn đang từ từ buông rũ. Những đợt nắng vàng rơi hoi hóp trên ngàng cây nội cỏ. Một biển lúa xanh rờn lao xao gợn sóng theo từng luồn gió thổi. Những chùm lúa nặng trĩu nuôi sống dân quê, nuôi sống toàn dân rung rinh phơi mình dưới ánh mặt trời.
Nhiều tốp nông dân thả dọc theo bờ mẫu sung sướng nhìn công trình khó nhọc của mình sắp có kết quả. Rồi đây sẽ đến mùa lúa chín. Dân quê reo mừng ca hát tưng bừng. Dân quê yêu lúa cũng như yêu quê hương họ. Trải qua bao nhiêu thế hệ, người dân quê Việt Nam đã đem máu đào tô thắm những mẩu đất màu mỡ. Họ thề nguyện giữ gìn từng tấc đất đã nuôi sống họ, nuôi sống đồng bào họ. Không một kẻ nào được quyền giẫm chân lên vùng đất thấm mồ hôi nước mắt của họ. Lòng người dân quê dào dạt tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu hơn cả bản thân họ.
Buổi chiều của đồng quê dịu hiền và êm ả, chứa chan nhiều thú vị.
Triệu Vĩ đau đớn. Lòng chàng buồn vô hạn. Chàng thấy nhớ nhung Mỹ Lan. Mỗi buổi chiều vàng là mỗi lần Triệu Vĩ cảm thấy sầu thấm thía, chàng không sao quên được dĩ vãng, quên những lời đã hứa hẹn với Mỹ Lan. Bao nhiêu hoàng hôn trôi qua. Triệu Vĩ không cần nhớ. Chàng chỉ đinh ninh trong trí mỗi buổi chiều đều có một người con gái đứng trong song cửa nhà chùa hướng mắt nhìn về phía dòng sông Trẹm mà lòng tê tái. Người con gái xuân sắc đó đã cắt bỏ mái tóc xanh để giữ trọn một lời nguyền với kẻ đã lỗi thề. Mỉa mai thay!
Đang trầm lặng thả hồn trong những ý nghĩ đau buồn nhứt. Triệu Vĩ không dè vợ chàng đến đứng sau lưng tự bao giờ. Ngọc Anh nhẹ đặt tay lên vai chồng và âu yếm hỏi:
- Anh nghĩ gì mà xem anh không được vui? Hình như buổi chiều nào anh cũng ra đứng bên cửa sổ nhìn đâu đâu?
Tiếng nói của vợ kéo Triệu Vĩ trở về với thực tại. Chàng quay lại và gượng mỉm cười:
- Có gì đâu mà không vui! Mỗi buổi chiều anh đều ra đứng bên cửa sổ vì đó là một thói quen thường lệ.
Chàng kéo câu chuyện sang ngả khác:
- Em nhìn xem, những ngọn lúa xanh rập rờn uyển chuyển đứng xa trông giống như làn sóng biển nhấp nhô.
Ngọc Anh nhìn theo hướng chồng chỉ nhưng nàng chẳng thấy gì là thích thú. Nàng lắc đầu nói:
- Anh thi sĩ lắm. Em chỉ nhìn thấy lúa là lúa. Ở đây buồn quá, anh ạ! Hôm nào chúng mình ra tỉnh chơi, sẵn dịp đi thăm ba má và các anh em luôn. Lâu rồi chẳng về thăm nhà.
Câu nói của Ngọc Anh làm Triệu Vĩ chán vợ thêm. Ở chung càng lâu chàng càng nhận thấy rõ Ngọc Anh không giống chàng một tí nào hết, từ tâm tánh đến sở thích. Chàng đã biết vợ vốn thích cuộc sống ồn ào nhộn nhịp của thành đô xa mãi. Sống lẫn lộn với đám dân quê bần hèn, Ngọc Anh chán nản vô cùng. Hộp phấn, cây son, lọ dầu thơm, những chiếc áo lụa đắt tiền nhứt của nàng đã trở thành vô dụng. Nàng đã chẳng có dịp nào để xài đến nó.
Ngọc Anh cũng lấy làm lạ không hiểu sao chồng nàng lại vùi được tuổi xanh ở nơi đây, phí cuộc đời một cách vô ích. Đáng lý ra hai vợ chồng nàng phải sống ở thành thị nơi có nhiều cuộc vui thích thú mà đời sống của tuổi trẻ luôn luôn trẻ trung sôi nổi.
Thấy chồng chẳng trả lời, Ngọc Anh lại nói:
- Dạo này anh làm việc lu bù, ban ngày phí nhiều sức, ban đêm ngủ ít chẳng có thời giờ giải trí, em lo ngại lắm, không khéo anh đau thì khổ.
Triệu Vĩ muốn hét lớn lên: “Cái đau đớn của tâm hồn khổ gấp ngàn lần đau đớn của thể xác”. Nhưng chàng có dằn lòng dịu dàng nói:
- Cảm ơn em có lòng lo cho anh, nhưng sức khỏe của anh dạo này dồi dào lắm.
Chàng nói tiếp xa xôi:
- Anh chỉ sợ tâm hồn mang bệnh thôi!
Không hiểu câu nói bóng gió của chồng, Ngọc Anh cười thản nhiên:
- Anh rõ ngớ ngẩn! Tâm hồn có bao giờ bệnh được?
Triệu Vĩ lại một lần nữa dằn lòng mới khỏi buột miệng:
“Biết đâu tâm hồn em đang bệnh mà em chưa được biết đấy, em ạ! Còn anh, anh đã biết được cái bệnh của tâm hồn anh”.
Nói vu vơ với chồng vài câu chuyện, Ngọc Anh trở ra ngoài sau khi đã hôn lên trán chồng. Triệu Vĩ cũng hôn trả lại vợ, nhưng chàng thấy cái hôn đó nhạt nhẽo làm sao. Chàng chẳng hiểu Ngọc Anh có cảm thấy sung sướng với cái hôn của chàng chăng?
Đợi cho khuất bóng vợ, Triệu Vĩ ôm đầu khổ sở:

- Trời ơi! Có ai hiểu được nỗi khổ cho lòng ta? Mẹ ta đã giết chết cuộc đời tuổi trẻ của ta! Mất Mỹ Lan, đời ta còn có nghĩa gì nữa. Đành rằng vợ ta vô tội, ta đã mang đủ bổn phận làm chồng, nhưng ai bắt buộc được ta khi mà tình cảm của ta đã chết theo tình cảm của Mỹ Lan.
Triệu Vĩ bực tức nắm chặt hai chấn song gỗ:
- Làm sao ta sống được bên cạnh một người vợ mà ta chỉ biết có xác thịt thôi, còn tâm hồn, ta chẳng hề biết tới? Rồi đây con ta sẽ ra đời, trời ơi! Một đứa bé kết tinh do những phút vô vị mà ta đã gắng gượng làm tròn bổn phận một người chồng. Đứa con thiệt thọ của ta, thần hỏa đã cướp mất rồi. Đời ta mất một lượt hai hình ảnh thân yêu.
Trong bóng hoàng hôn mờ dịu, vẵng lên một hồi chuông công phu buồn ảo não. Tiếng chuông ngân nga kéo dài lê thê mà dư âm tưởng như không bao giờ dứt. Tiếng chuông xoa dịu lòng người hay khơi những vết thương rướm máu của lòng người?
- Tiếng chuông của Linh Sơn tự! Mỗi buổi chiều tiếng chuông quái ác đều ngân lên để nhắc nhở tội ác của mẹ ta và của ta. Tiếng chuông này sẽ hành hạ ta suốt đời. Ta chẳng bao giờ tìm được sự yên ổn bởi vì ta vẫn còn yêu Mỹ Lan mãi mãi.
Đôi mắt sáng rực lên một cách căm hờn lẫn khổ sở, Triệu Vĩ hậm hực:
- Trời ơi! Ta không thể sống như thế này mãi được, ta sẽ chết lần mòn vì tuyệt vọng. Ta phải tự thoát ly ra khỏi hoàn cảnh ngang trái đã giam hãm ta bấy lâu nay, ta phải phá đổ một cái gì để xây lại một cái khác, nếu ta không muốn cho đời ta bế tắc vĩnh viễn. Hạnh phúc của ta là Mỹ Lan, cuộc đời của ta là Mỹ Lan. Tại sao ta để yên cho định mệnh cướp mất Mỹ Lan mà chẳng mảy may chống giữ? Hèn nhát! Mỹ Lan đã nói đúng. Trên đời không có định mệnh, mà chỉ có ý muốn của con người thôi. Ta đã đọc nhiều lần câu nói bất hủ của F. Nietzsche: “Hạnh phúc đời người ở trọn trong hai chữ Tôi muốn”. Tại sao ta lại hành động trái với ý muốn của ta để hủy hoại hạnh phúc của đời ta? Khốn nạn! Ta là thằng đàn ông khốn nạn!
Triệu Vĩ tự oán trách, tự nguyền rủa mình.
Chuông chùa Linh Sơn vẫn thỉnh thoảng đỗ hồi buồn não nuột.
- Ta phải đến Linh Sơn tự! (Triệu Vĩ cương quyết). Ta phải tìm gặp Mỹ Lan vì nàng là lẽ sống duy nhất của đời ta!
Trong phút chốc, gia đình, bổn phận, danh dự đều nhòa lần trước mắt Triệu Vĩ. Chàng chỉ thấy độc một hình ảnh Mỹ Lan, người con gái đau khổ với đôi mắt luôn luôn đẫm lệ.
Không ngần ngại, Triệu Vĩ hấp tấp xuống cầu thang, chẳng cho người nhà hay biết.
Chiều đã vàng lắm rồi. Tất cả mọi sự hoạt động trong xóm đều ngừng từ lâu. Đường sá vắng vẻ. Những nóc nhà tranh bốc khói. Vài con thửng bay tít trên trời cao buông ra một bản nhạc bi sầu làm buồn thêm lòng người đang nặng trĩu nhiều tâm sự. Triệu Vĩ bước nhanh không chú ý đến mọi vật và mọi người xung quanh. Chàng đi theo tiếng gọi của kẻ vô hình.
Một đám trẻ nhỏ đang trững giỡn trước sân trường “Bình dân học vụ” đều ngừng tay và im bặt khi trông thấy bóng Triệu Vĩ.
Một thằng lớn nhất bọn khẽ nói với các bạn:
- Cậu hai kìa chúng mầy ơi!
Thằng khác xen vào:
- Có phải cậu Hai, con bà Triệu Phú?!
Thằng lớn gật đầu đáp:
- Phải đấy, cậu Hai đã làm chị Mỹ Lan của chúng mình đi tu đấy mà!
- Chúng bây có nhớ chị Mỹ Lan không? Chị Mỹ Lan thường cho chúng mình quà và dạy chúng mình mấy bản dân ca ấy!
Cả đám trẻ đồng nhao nhao lên đáp một lượt:
- Nhớ lắm, tao thương chị Mỹ Lan nhiều lắm. Chị đã dạy cho chúng mình hát nhiều bài ca.
Thằng lớn nhất bọn lấy mắt ra hiệu với các bạn nó và hướng mắt về phía Triệu Vĩ đang đi tới mà cất cao giọng trong trẻo:
“Hỡi anh trai tráng trên đường...”
Đám trẻ còn sót lại vừa vỗ tay vừa đồng thanh hò lớn:
“Hò lơ hó lơ...”
Thằng lớn nhất bọn mỉm cười và nối lời các bạn bằng một giọng lý lắc:
“Anh mê phú quý...”
Đám trẻ la lớn hơn trước:
“Hò lơ hó lơ...”
Lần này cả đám trẻ (kể cả thằng lớn nhất bọn) đồng hô ăn rập:
“Bỏ người xưa.
Hò lơ hó lơ, lắng tai nghe hó lơ hò lờ”.
Dứt câu hò cả bọn đồng phá lên cười vang ầm, tiếng cười làm đau xót lòng Triệu Vĩ.
Hổ thẹn, Triệu Vĩ chẳng dám nhìn bọn trẻ láu lỉnh, chàng rảo bước để trốn tránh một lối hò khinh bỉ quái ác. Nhưng bên tai chàng dường như cứ văng vẳng cái câu:
“Anh mê phú quý bỏ người tình xưa.
Hò lớ hò lơ, lắng tai nghe hó lơ hò lơ”.
Triệu Vĩ chua xót rên rỉ:
- Trời ơi! Ai hiểu được lòng ta! Có lẽ Mỹ Lan cũng khinh bỉ ta như bọn trẻ vừa rồi! Nàng cho ta là kẻ phản bội, tham phú phụ bần.
Đến trước cửa chùa Linh Sơn, Triệu Vĩ dừng bước bên ngoài hàng rào dâm bụt. Chàng chưa dám vào chùa, không hiểu sao chàng bỗng có cảm tưởng chàng đến đây để làm ô uế cửa Phật, làm xáo trộn một đời tôn nghiêm đáng kính và nhất là làm xao động một tâm hồn đang tìm sự yên tĩnh.
Ngôi chùa Linh Sơn cổ kính nằm im lìm trong bóng chiều buông rũ, trông hiền lành như đức Phật Thích Ca đang ngồi tĩnh tọa.
Vài chiếc lá vàng lẫn lá xanh ngập ngừng lìa cành. Vài cánh hoa tàu úa rơi chập chờn. Khói trầm hương nguyện trong ngàn lá thắm.
Những tu sĩ sống biệt lập với mọi người. Họ tìm sự yên lặng và (có thể) sự lãng quên trong câu kinh, lời kệ. Họ lần theo bước đi của đức Phật và hy vọng một sự giải thoát linh hồn.
Triệu Vĩ thầm nghĩ:
“Nhà chùa ôm ấp nhiều con người với nhiều tâm sự khác nhau. Biết đâu họ lại chẳng như mình. Muốn lãng quên mà không bao giờ quên được. Nhưng ta biết chắc họ tranh đấu nhiều lắm, tranh đấu để chiến thắng và để khỏi sa ngã. Họ hơn ta ở chỗ họ có một đức Phật từ bi luôn luôn ở bên cạnh để an ủi và khuyến khích. Còn ta, ta hoàn toàn cô độc, ta chỉ có sự đau khổ và những kẻ làm cho ta đau khổ nhiều thêm mãi”.
Triệu Vĩ ngập ngừng, do dự, nửa muốn vào, nửa muốn không. Chàng miên man tự hỏi:
“Biết Mỹ Lan có tiếp ta? Hay là nàng lại xua đuổi ta? Nàng nhờm gớm ta?”
Sau một hồi lâu suy nghĩ, cuối cùng tiếng gọi của ái tình chiến thắng. Chàng nhất định vào chùa để gặp Mỹ Lan. Có chuyện gì xảy tới cũng mặc.
Cố giữ vẻ bình tĩnh, Triệu Vĩ lâm râm cầu nguyện:
- Lạy Phật tổ, ngài hãy tha thứ cho sự lầm lỗi của đệ tử. Con biết con sẽ làm nhơ bẩn cửa Phật nhưng con đang đi tìm hạnh phúc đây. Ngài là đấng thiêng liêng cao cả yêu thương loài người, hẳn ngài luôn luôn muốn cho loài người được sung sướng và hạnh phúc. Ngài hãy giúp đỡ con mang hạnh phúc trở về với đời con.
Triệu Vĩ mạnh dạn bước qua cửa ngõ nhà chùa. Sư cụ Minh Đức đang tưới hoa trước sân, vội vàng tiến đến chào ông khách:
- Bần đạo kính chào quý khách!
Triệu Vĩ chắp hai tay kính cẩn xá vị sư già:
- Không dám, kính chào sư cụ!
Sư cụ Minh Đức mỉm cười hiền lành:
- Quý khách đến đây vào giờ này để viếng chùa hay có chuyện chi?
Triệu Vĩ lễ phép:
- Sư cụ hãy tha thứ cho sự làm rộn của con. Con đến đây có một chuyện rất quan trọng. Con muốn tìm một người quen.
Sư cụ Minh Đức nhanh miệng:
- Chẳng hay quý khách muốn tìm ai?
- Dạ! Con muốn tìm người con gái tên là Mỹ Lan?
Nhíu mày nghĩ ngợi giây lâu, sư cụ Minh Đức lắc đầu:
- Ở đây, chẳng có người con gái nào tên Mỹ Lan hết.
Sợ nhà sư từ khước, Triệu Vĩ khẩn cầu:
- Bẩm sư cụ, một người con gái đã vào tu ở chùa Linh Sơn gần một năm nay, một người con gái rất đẹp.
Sư cụ Minh Đức biết ngay người con gái mà Triệu Vĩ nói chính là ni cô Diệu Linh. Nhớ lại câu chuyện bi thảm mà Mỹ Lan đã kể cho mình nghe hôm mới đến chùa xin thí phát, sư cụ Minh Đức đoán được ông khách quý là Triệu Vĩ, chàng trai đã phản bội người tình nghèo.
Sư cụ nghiêm trọng:
- Xin lỗi quý khách, nếu bần đạo không lầm thì quý khách là con trai bà Triệu Phú?
Triệu Vĩ gật đầu:
- Dạ phải! Mỹ Lan có ở đây?
Sư cụ Minh Đức nhìn thẳng vào mặt Triệu Vĩ và chậm rãi nói:
- Mỹ Lan tức là ni cô Diệu Linh, một đệ tử trung thành của nhà chùa. Tôi thành thật cho quý khách biết hiện thời không còn Mỹ Lan trên mặt đất này nữa, chỉ có ni cô Diệu Linh thôi. Quý khách hiểu ý tôi?
Biết hòa thượng không muốn cho mình gặp Mỹ Lan, Triệu Vĩ van cầu:
- Con có một câu chuyện quan hệ cần nói gấp với ni cô Diệu Linh. Sư cụ làm ơn giúp tiểu sinh.
Sư cụ Minh Đức cao giọng:
- Quý khách nỡ nào đành lòng xáo trộn tâm hồn của một kẻ đang tìm sự yên tĩnh dưới chân Phật? Quý khách đã làm đau khổ ni cô Diệu Linh nhiều rồi, bần đạo mong mỏi quý khách để yên cho ni cô Diệu Linh quên lần cái dĩ vãng đen tối. Mặt hồ đang phẳng lặng, quý khách ném một hòn sỏi cho xao động mặt nước được ích lợi gì?
Triệu Vĩ vẫn không thay đổi thái độ:
- Con van sư cụ. Con cần phải giãi bày một câu chuyện với ni cô Diệu Linh. Con không muốn ni cô Diệu Linh mãi oán hận con. Câu chuyện này sư cụ không thể hiểu nổi. Con hứa chắc với sư cụ là sau khi đã gặp mặt ni cô Diệu Linh và nói chuyện xong xuôi, con chẳng bao giờ đặt chân trở lại Linh Sơn tự lần thứ hai. Có lẽ sư cụ không hẹp lượng với một kẻ có lòng. Con hứa trước với sư cụ, con không làm xao động ni cô Diệu Linh.
Trước sự van xin khẩn thiết của ông khách trẻ tuổi, sư cụ Minh Đức đành phải nhận lời nhưng ông ân cần dặn dò:
- Nể lòng quý khách bần đạo mới ưng chịu đấy. Bần đạo hy vọng quý khách đừng làm khổ một kẻ đã xuất gia đầu Phật. Quý khách hãy chịu khó đứng đây chờ một lát.
Dứt lời, sư cụ Minh Đức quày quả bước vào trong. Một chập sau ông trở ra với ni cô Diệu Linh.
Ni cô Diệu Linh mặc chiếc áo cà sa màu nâu đã gần phai màu. Đầu ni cô quấn một chiếc khăn cũng màu nâu. Mặc dù khoác áo nâu sồng ni cô Diệu Linh vẫn còn đẹp như tự hồi nào. Đôi mắt ni cô là cả một trời buồn khổ.
Vừa chạm mặt người tình cũ, ni cô Diệu Linh dừng bước. Mặt tái ngắt, ni cô buông miệng:
- Trời!... Triệu Vĩ!...
Sư cụ Minh Đức gật đầu:
- Phải, đấy là Triệu Vĩ, kẻ đã phản bội con! Con hãy can đảm và tỏ ra xứng đáng là một đệ tử của nhà chùa!
Sư cụ nhanh nhẹn trở vào phương trượng.
Triệu Vĩ chạy tới trước mặt ni cô Diệu Linh. Đôi tình nhân cũ gặp nhau ngay ngưỡng cửa nhà chùa.
- Triệu Vĩ!
- Em Mỹ Lan!
Thế rồi yên lặng. Bốn mắt trăng trối nhìn nhau, hai con tim đập rộn rã. Ông khách và ni cô đứng chết điếng mà lòng xáo trộn dữ dội. Một năm trời xa cách, trải qua nhiều đau khổ, nay gặp lại nhau trong một hoàn cảnh ngang trái, hai người chẳng biết mở miệng nói gì.
Lâu lắm ni cô Diệu Linh lấy lại sự bình thản. Nàng nói với giọng lạnh lùng:
- Kính chào ông! Ông đến đây làm gì nữa?
Câu hỏi của ni cô chẳng khác nào như một bàn tay bóp nghẹt tim Triệu Vĩ. Chàng ngước mắt nhìn thẳng vào mắt ni cô và đau đớn nói:
- Mỹ Lan, anh muốn em đừng nói với anh bằng những lời ấy!
Ni cô Diệu Linh chắp hai bàn tay nõn nà trước ngược:
- Nam mô A di đà Phật. Sao ông lại nói thế? Tôi là ni cô Diệu Linh, chứ chẳng phải Mỹ Lan nào hết.
Triệu Vĩ định nắm tay Mỹ Lan nhưng trước thái độ nghiêm trang của nàng, chàng ngần ngại không dám.
Triệu Vĩ tha thiết nói:
- Mỹ Lan, anh van em, anh chịu chết một cách thảm khốc hơn là nghe giọng nói chua cay của em vừa rồi. Em hãy tha thứ cho anh.
Ni cô Diệu Linh chận ngang:
- Ấy chết, sao ông lại nói thế? Ông có lỗi gì mà tôi phải tha thứ! Tôi mong ông đừng nói tiếp những lời như thế mà có tội với trời Phật.
Trước giọng nói mỉa mai của người yêu cũ, Triệu Vĩ hỏi nhanh:
- Anh biết anh có lỗi với em nhiều lắm và anh cũng biết luôn em rất khinh bỉ anh. Nhưng chúng ta đã hiểu lầm nhau Mỹ Lan ạ! Chúng ta là nạn nhân đáng thương hại. Anh chẳng hề phản bội em.
Ni cô Diệu Linh nghiêm khắc:
- Câu chuyện đó đã qua rồi, nó thuộc về dĩ vãng. Hiện giờ chúng ta chẳng còn dính líu với nhau nữa. Tôi muốn ông hãy để tôi yên với số phận của tôi. Ông nên nhớ một đệ tử cửa Phật không thể nghe được những câu chuyện đời viển vông.
Triệu Vĩ cười cay đắng:
- Em không nên xua đuổi anh, mặc dù ngày nay chúng ta là hai kẻ đi hai con đường khác nhau. Anh gặp em lần này là lần cuối cùng và câu chuyện mà anh sắp đem nói tuy có lạt lẽo lắm nhưng anh cần phải nói, vì anh không muốn có một sự hiểu lầm giữa chúng ta.
Chàng ngừng một giây. Ni cô Diệu Linh không ngắt ngang nữa vì nàng biết không bịt được miệng Triệu Vĩ.
Triệu Vĩ thong thả kể rõ ràng từ đầu đến cuối câu chuyện âm mưu của bà Triệu Phú và Năm Hương cho Mỹ Lan nghe, đoạn chàng kết luận:
- Em hẳn thấy anh luôn luôn yêu em và trung thành với em. Ngỡ em đã tự vận nên anh mới lấy vợ, nhưng suốt một năm trời này anh sống cạnh vợ anh với hình ảnh của em. Anh chẳng bao giờ quên mối tình của chúng ta và những lời thề nguyện. Mẹ anh và Năm Hương bày ra mưu sâu để làm chia rẽ chúng ta. Còn chúng ta là nạn nhân, chúng ta là những kẻ chết tâm hồn. Phận làm con, anh không thể hờn oán mẹ anh mặc dù người đã giết chết đời anh. Hiện giờ anh đang sống mà như đã chết. Anh biết em cũng thế. Trước một sự đã rồi, trước một mưu sâu bày trí khéo léo chúng ta đã sa bẫy. Đời anh chết đã đành rồi. Còn đời em anh chịu trách nhiệm gián tiếp. Lương tâm anh luôn luôn xáo động, anh không thể sống yên ổn được. Hôm nay anh tìm đến đây để cầu xin em tha thứ cho tội lỗi của mẹ anh và của cả anh nữa.
Đứng im nghe Triệu Vĩ kể dứt câu chuyện, Mỹ Lan bồi hồi cảm xúc. Cõi lòng cằn cỗi của nàng tự bấy lâu nay dường như tươi trẻ lại trong phút chốc. Sự thật Triệu Vĩ không phản bội nàng và vẫn yêu nàng. Đôi mắt âu sầu của ni cô bừng sáng một giây nhưng dịu lại ngay.
Nàng cố nén một tiếng thở dài, đăm chiêu nói:
- Mãi đến nay tôi mới rõ được tấm lòng sắt đá của ông. Ông hãy tha thứ cho sự nghi ngờ của tôi bấy lâu. Như thế tôi cũng sung sướng được đôi phần vì tôi đã yêu không lầm một người. Chúng ta không hợp được với nhau, âu đấy là số mệnh. Bây giờ tôi mới hơi tin ở định mệnh. Tôi chẳng oán trách ông và mẹ ông. Ông cứ yên tâm. Tôi cũng chẳng buồn phiền số phận tôi. Tôi chỉ thương tiếc đứa trẻ vô tội đã bỏ mình trong ngọn lửa. Đời tôi chỉ còn có nó là nguồn hạnh phúc duy nhứt nhưng nó đã mất.
Giọng nàng run run gần như muốn khóc thành tiếng:
- Ông hãy trở về đi và yên vui với hạnh phúc gia đình.
Triệu Vĩ đau khổ cướp lời:
- Đối với anh, gia đình là ngục tối. Anh chỉ tìm được đau khổ và tuyệt vọng bên cạnh gia đình. Anh muốn thoát ly khỏi nơi đã giết chết hạnh phúc của đời anh. Anh đã ghê tởm gia đình, ghê tởm tất cả mọi người chung quanh anh. Sống mãi bên cạnh một tình thương gượng gạo, một người vợ mà mình không yêu, anh sẽ trở thành một người điên rồ mất thôi.
Ni cô Diệu Linh thương hại nhìn Triệu Vĩ bằng đôi mắt dịu dàng. Nàng thấy lòng mình đau đớn khi biết người yêu cũ vẫn nhớ mãi hình bóng mình và chàng đang tuyệt vọng vì mất lẽ sống. Nàng dư hiểu cái khổ của kẻ đã mất hạnh phúc.
Ni cô Diệu Linh buồn rầu an ủi Triệu Vĩ:
- Ông không nên nuôi nấng những ý tưởng như thế. Cuộc đời bao giờ cũng là cuộc đời và thực tại bao giờ cũng vẫn là thực tại. Ông là một người có lòng, một kẻ có nhiều đức tính tốt, hẳn ông biết bổn phận làm con, một người chồng và nhứt là ông đừng nên làm khổ vợ ông, một người đàn bà vô tội. Vợ ông đã đặt tất cả lòng thương và lòng tin cậy vào ông. Hãy yêu vợ con và yêu gia đình. Rồi ông sẽ tìm thấy hạnh phúc.
Triệu Vĩ cười mỉa mai:
- Anh chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc bên cạnh một người vợ mà anh không yêu. Nếu em ở địa vị của anh, em cũng sẽ như anh thôi.
Ni cô Diệu Linh không cãi vì Triệu Vĩ nói đúng. Nhưng nàng vẫn cố gắng khuyên nhủ Triệu Vĩ:
- Đành rằng như thế, nhưng bổn phận trên hết, ông ạ! Ông hãy nghĩ tới bổn phận, và đừng nghĩ khác hơn nữa. Nếu ông không yêu vợ ông thì ông cũng phải yêu con ông. Vả lại, một khi đôi trai gái đã thành chồng vợ với nhau rồi, tình không còn là hệ trọng, mà chỉ có nghĩa mới đáng kể. Nếu ông không có tình với vợ ông, thì ông cũng phải có nghĩa, nghĩa phu thuê.
Con người nếu lấy nghĩa làm đầu, tôi tin chắc ông sẽ tìm gặp hạnh phúc trong tình cha con và trong nghĩa vợ chồng. Ông đã hiểu thế nào là đau khổ. Ông có thể để vợ ông phải đau khổ vì ông? Ông đành lòng nhìn hạnh phúc của một gia đình sụp đổ vì sự ích kỷ của ông? Hãy quên tình riêng mà nghĩ đến tình chung. Nếu không lương tâm ông sẽ đay nghiến ông nhiều hơn nữa, và suốt đời ông sẽ luôn luôn đau khổ vì những hình ảnh không đâu.
Triệu Vĩ nhìn thẳng vào mắt Mỹ Lan:
- Những lời em vừa nói chỉ là những lời an ủi suông! Chưa chắc gì em nói như thế mà lòng em không đau xót? Đi tìm hạnh phúc của đời mình một cách gượng gạo, miễn cưỡng và trong sự chán nản, tuyệt vọng là một điều vô lý. Vợ chồng càn phải yêu thương lẫn nhau mới sống được lâu dài. Gia đình cần phải có những bàn tay hăng hái đồng xây dựng mới được bền vững. Con người là con người, chớ đâu phải là tiên thánh. Chỉ có những thằng điên mới gặp hạnh phúc bên cạnh một người vợ mà nó không thương (nếu chẳng muốn nói là ghét). Nhưng đã là thằng điên thì còn nói làm gì. Người ta luôn luôn giả dối, luôn nói toàn những lời mà lòng họ không hề nghĩ tới. Anh là một người phàm tục nên anh không thể nghe theo những lời khuyên bảo, an ủi của em.
Ni cô Diệu Linh lảng tránh đôi mắt khó chịu của Triệu Vĩ. Nàng nhìn ra ngoài cửa ngõ mà lòng xao xuyến.
Mạnh bạo hơn, Triệu Vĩ bước tới nắm tay người yêu cũ. Ni cô giật nhanh tay về:
- Nam mô a di đà Phật, ông không nên làm như thế. Vì ở đây là chốn cửa thiền!
Triệu Vĩ vẫn không nao núng, chàng tha thiết nói:
- Mỹ Lan, anh yêu em mãi mãi! Anh không bao giờ tìm được hạnh phúc nếu thiếu em và cả em cũng thế. Anh hiểu rõ lòng em hơn ai hết. Tiếng chuông lời kệ chỉ là nguồn an ủi bất đắc dĩ của em. Trời sinh hai chúng ta để sống chung với nhau. Em hãy trở về với anh để cùng anh xây dựng một cuộc đời mới.
Ni cô Diệu Linh cảm động:
- Nhưng còn vợ anh, con anh, mẹ anh, gia đình anh.
Triệu Vĩ đáp nhanh:
- Anh từ bỏ tất cả! Anh sẽ li dị với vợ anh. Mẹ anh không có quyền gì đối với anh nữa. Còn gia đình của anh là của em đó.
Trong phút chốc, ni cô Diệu Linh muốn xiêu lòng vì những lời khẩn thiết của Triệu Vĩ. Nhưng giọng cầu kinh đều đều của sư cụ từ trong phương trượng vọng ra nhắc nàng nhớ đến bổn phận, hiện tại của nàng.
Ni cô Diệu Linh đau đớn lắc đầu:
- Ông không nên dãy đạp lên bổn phận của ông. Ông không có quyền làm khổ mẹ, vợ và con ông. Ông hãy hy sinh hạnh phúc nhỏ nhen của ông để mưu cầu hạnh phúc lớn lao cho cả gia đình ông. Ở đời có nhiều người ta phải làm trái với ý muốn của mình. Có thể đấy là định mệnh. Ông có còn nhớ một ngày nào đó ông đã bảo với tôi là định mệnh giải quyết tất cả? Bây giờ ông hãy tuân theo định mệnh và định mệnh muốn ông trở về với gia đình ông. Câu chuyện ái tình của chúng ta hiện thời hãy xem nó là một giấc mơ ngắn ngủi. Chiếc cốc đã bể ra làm hai mảnh. Có hàng gắn lại được cũng còn nhiều vết nứt rạn. Ông hãy quên tôi đi, vì tôi quên ông rồi.
Triệu Vĩ ngắt ngang:
- Em nói dối em chẳng bao giờ quên anh. Chỉ có cái chết mới làm cho em quên anh thôi. Anh đọc thấy rõ những ý nghĩ thật sự của em trong đôi mắt u buồn của em.
Ni cô Diệu Linh nuốt niềm cay đắng xuống tận đáy lòng. Nàng cố dằn để khỏi bật lên tiếng khóc. Nàng thấy rõ nàng phải hy sinh để cho vợ con Triệu Vĩ được hưởng hạnh phúc. Số phận nàng đã được định đoạt rồi. Nàng không có quyền làm dang dở đời một kẻ khác. Thà nàng chịu đau khổ một mình. Nàng không muốn mang tiếng là kẻ đoạt chồng người.
Nàng có thể giũ bỏ mảnh áo nâu sồng để trở về thế gian bên cạnh Triệu Vĩ. Như thế nàng sẽ gặp được hạnh phúc thật sự. Nhưng lương tâm sẽ đời đời nguyền rủa nàng. Đức Phật Thích Ca đã hy sinh tất cả danh vọng giàu sang, vợ đẹp, con ngoan để đi tìm hạnh phúc cho lũ chúng sinh đau khổ. Còn nàng - một đệ tử cửa Phật chẳng lẽ nàng không dám hy sinh hạnh phúc cỏn con của đời nàng để gầy dựng hạnh phúc cho nhiều kẻ khác?
Bên tai ni cô, những lời nói của sư cụ Minh Đức lại rõ mồn một. Ni cô Diệu Linh tự bảo thầm:
- Ta đã thề trước tượng Phật, ta đã hứa trước mặt hòa thượng, ta không thể sa ngã và lầm lỗi vì một phút nhẹ lòng. Kẻ phản bội muôn đời vẫn mang tiếng xấu.
Ni cô Diệu Linh lấy lại sự bình thản. Nàng chậm rãi nói:
- Tôi rất cảm ơn lòng chung thủy của ông. Nhưng mọi chuyện đã lở dở hết rồi, không chắp nối lại nguyên lành được. Ông hãy trở về với gia đình và tin tưởng rằng tôi đã mãn nguyện và sung sướng.
Nàng hạ thấp giọng:
- Nếu còn đứa con, họa chăng... nhưng nó đã chết rồi. Hiện thời tôi đã là một tu sĩ, một người trung thành của đạo.
Triệu Vĩ run giọng chặn ngang câu nói của ni cô với một chút hy vọng mỏng manh bừng trong đôi mắt:
- Em có thể trở về với đời mà vẫn làm tròn bổn phận đối với đạo. Chẳng phải gõ mõ tụng kinh khoác áo nâu sồng lẩn lút trong nhà chùa mới là người tu hành, em ạ! Đạo ở lòng người chứ chẳng phải ở bộ áo bên ngoài. Đức Thích Ca đã hy sinh bản thân ngài để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Tại sao em lại có thể ích kỷ khư khư giữ chặt cái đạo để làm cho đời một kẻ khác đau khổ? Đạo và đời phải luôn luôn đi chung với nhau. Anh tin chắc Đức Thích Ca sẽ tha thứ cho em và Ngài còn khuyến khích em trở về với thế gian để giúp đỡ nhân loại một cách cụ thể.
Bao nhiêu dân nghèo đang chờ đợi em, sao lại không thể trở về với họ? Những việc làm thiết thực lợi ích của em ở ngoài xã hội còn quý gấp vạn lần em ngồi trong chùa tụng kinh cầu nguyện vu vơ. Người ta vơi bớt phần nào khổ sở là ở sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của em chứ đâu phải là nhờ ở những tràng kinh của em đâu.
Hãy trở về với đời để giúp ích cho xã hội, Mỹ Lan em! Như thế em mới đáng là một đệ tử của đạo, một môn đồ của đức Phật chí tôn. Em đừng nên lạm dụng và xuyên tạc làm lạc mất ý nghĩa cao quý của người sáng lập ra đạo. Xã hội với đà kiến thiết đang chờ đợi em. Em hãy nhìn ra ngoài kia xem, Thới Bình thôn với bao nhiêu nông dân giàu ý chí đang trỗi dậy mãnh liệt. Em hãy trở về tiếp tay và phụ sức với họ. Em có thể hèn nhát trốn tránh bổn phận một con người, một công dân? Những khúc hát tươi trẻ của “Ngày mới” đang vang lồng lộng ở ngoài xa kia, trên những cánh đồng lúa nuôi sống toàn dân. Đôi mắt em vẫn còn sáng tỏ? Đôi tai em vẫn còn nghe rõ? Em hãy trả lời câu hỏi của anh!
Ni cô Diệu Linh khẽ gật đầu, không đáp.
Triệu Vĩ cười nhạt:
- Ừ, đôi mắt em vẫn còn sáng tỏ, đôi tai em vẫn còn nghe rõ. Tại sao em không chịu nhìn một xã hội đồng quê mới mẻ đang đứng vùng dậy? Tại sao em không chịu nghe những bài hát tươi vui của anh chị em nông dân đang vui với đời sống mới lan rộng khắp nơi nơi? Tại sao?
Triệu Vĩ dứt lời, ni cô Diệu Linh nghiêm trang nói:
- Ông hãy về đi và đừng nói nữa! Tôi van ông! Vợ ông chờ ông! Ông hãy về đi!
Triệu Vĩ đau khổ nhìn Mỹ Lan:
- Em đuổi anh?
Ni cô Diệu Linh gật đầu nghẹn ngào:
- Tôi đuổi anh... Anh hãy về đi! Về đi! Anh!
Triệu Vĩ biết không lay chuyển nổi ý định của Mỹ Lan, chàng chua chát nói:
- Anh không biết nói gì với em nữa. Lần này là lần cuối cùng chúng ta gặp mặt nhau. Em không bằng lòng trở về chung sống với anh, nhưng em đã hiểu rõ lòng chung thủy của anh, anh đã mãn nguyện đôi chút.
Chàng hơi cao giọng:
- Trước khi vĩnh biệt nhau mãi mãi, anh cầu chúc em sẽ tìm gặp chân hạnh phúc dưới bóng đức Phật từ bi bác ái.
Trước giọng nói mai mỉa lẫn đua xót của Triệu Vĩ, ni cô Diệu Linh tê tái cả cõi lòng. Miệng nàng đã bắt buộc phải thốt những lời mà thâm tâm nàng không hề muốn. Nàng đã cố ý giẫm chân chà đạp tất cả hạnh phúc của đời nàng. Còn gì đau đớn hơn nữa. Tình ái và đạo hạnh đang dằn vặt tâm hồn người tu sĩ trẻ tuổi. Nàng cố sức chống chọi trước hai ngả đường.
Hoàng hôn đã tàn hẳn. Vầng trăng tròn vừa ló dạng khỏi ngọn tre xanh ở cuối làng. Ánh sáng trong xanh bàng bac bao phủ lấy ngôi chùa cổ kính nằm trang nghiêm dưới bóng Điệp. Mùi trầm hương tỏa ngào ngạt. Vị sư già vẫn tụng kinh gõ mõ đều đều.
Ni cô Diệu Linh ngước mắt nhìn trăng, cho lòng bớ xao xuyến. Vô tình nàng buột miệng:
- Lại một đêm trăng!
Triệu Vĩ thở dài:
- Mỹ Lan, câu nói vừa rồi của em chứng tỏ em vẫn chưa quên dĩ vãng, chưa quên những đêm trăng êm đẹp mà đôi ta ngồi cạnh bờ sông Trẹm. Tại sao em cứ mãi tự làm trái với ý muốn của lòng em? Hãy nghe theo tiếng gọi của tim em vì đó là lời kêu gọi đứng đắn nhứt. Em hẳn còn nhớ có một đêm trăng chúng ta từ biệt nhau và chúng ta đồng mong mỏi ngày sum hiệp vĩnh viễn? Chúng ta phải lấy nhau vào một mùa trăng em ạ! Vầng trăng tươi đẹp và sáng rỡ thế kia, tại sao ta lại để lòng ta tan nát? Có bao giờ ai nỡ để cho vầng trăng sầu úa vì lòng người chưa nguyên vẹn!
Ni cô Diệu Linh chớp nhanh hai mí mắt, nàng nói nhỏ như đang nói trong mơ:
- Mùa trăng êm ả xưa, nay đã không còn nữa! Trăng xanh lạt lẽo lắm rồi. Trăng thề đã quên mất những lời hứa hẹn của thế nhân. Đêm đã xuống rồi, anh hãy về đi, sắp đến giờ em lễ Phật.
Chẳng để cho Triệu Vĩ kịp nói, ni cô Diệu Linh móc trong túi áo ra một đóa hoa lài héo úa. Nàng trao đóa hoa tàn cho Triệu Vĩ:
- Năm xưa anh tặng em đóa hoa này, giờ em trả lại cho anh vì em không có quyền giữ nó nữa. Cánh hoa đã tàn hương đã lạt, nhưng có lòng hoa còn tinh khiết.
Trước câu nói ý nghĩa của Mỹ Lan, Triệu Vĩ tiếp lấy đóa hoa, chàng ấp đóa hoa tàn lên ngực:
- Anh sẽ giữ mãi đóa hoa tàn này cũng như giữ mãi hình ảnh của em!
Ni cô Diệu Linh ngậm ngùi:
- Cám ơn anh! Em ao ước anh sống vui bên cạnh vợ hiền và con ngoan, nếu anh còn nghĩ tới em!
Triệu Vĩ tha thiết nhìn vào mắt người tình cũ:
- Em cứ yên tâm. Anh sẽ làm theo ý em muốn.
Chàng dằn giọng:
- Vì chúng ta chỉ là hai nạn nhân của một tàn tích phong kiến cũ và... chúng ta là hai kẻ hy sinh!
Ni cô Diệu Linh nối lời Triệu Vĩ:
- Phải, chúng ta là hai kẻ hy sinh, hy sinh hạnh phúc của riêng mình để tạo hạnh phúc cho những kẻ khác!
Bốn mắt hoen mờ ngấm lệ nhìn nhau lần cuối cùng. Hai tấm lòng xúc động mạnh. Hai con tim rạn nức hòa tấu bản đàn dang dở. Thời gian và hơi thở như ngừng đọng lại.
- Vĩnh biệt anh!
- Vĩnh biệt em!
Triệu Vĩ quay bước nhanh ra cửa ngõ, bóng chàng in dài trên nền đất cứng.
Nhìn hút bóng Triệu Vĩ đi trơ vơ trên bờ mẫu vắng quanh, ni cô Diệu Linh không dằn lòng được nữa, sự chịu đựng đã vượt quá sức nàng. Ni cô ôm mặt khóc ròng.
- Thế là hết! Triệu Vĩ anh ơi! Em chẳng bao giờ quên anh đâu.
Chuông chùa lạnh buồn đỗ dồn trong đêm trăng mờ nhạt.
Ra khỏi Linh Sơn tự, Triệu Vĩ nhận thấy chàng đã rời bỏ mọi nguồn hạnh phúc của đời chàng. Rảo bước trên bờ mẫu quanh co. Triệu Vĩ nghe văng vẳng bên tai những lời vĩnh biệt và khuyên nhủ của Mỹ Lan. Chàng đi thẳng một mạch ra sông Trẹm. Đứng lặng nhìn dòng nước lững lờ trôi, Triệu Vĩ đau đớn:
“Dòng sông Trẹm ngày nào đã chứng kiến những giờ phút êm đẹp của ta. Đêm nay, cũng dòng sông này mi có biết lòng ta đang tan nát? Rừng U Minh vẫn xanh, dòng sông Trẹm vẫn đỏ, hai lòng vẫn sắt son, cớ sao tình chúng ta đổ vỡ?”
Im lặng như tờ, cái im lặng thường khi rất dễ chịu đối với Triệu Vĩ, nhưng hôm nay chàng thấy khó chịu vô cùng. Ánh trăng vàng lạt lẽo làm sao. Còn nghĩa lý gì chứ trăng đã phai mất lời ước hẹn.
Triệu Vĩ ngồi phệt xuống bãi cỏ lẩm bẩm:
- Mỗi đêm trăng đều có một màu sắc khác nhau! Ta không ngờ ta yêu Mỹ Lan vào một đêm trăng và vĩnh biệt nhau cũng vào một đêm trăng.
Đâu đây lũ trùn dế hèn mọn rên rỉ não nùng làm sầu thêm lòng người.
Trong sự yên lặng triền miên, một giọng hò thanh cao cất lên và lan dần theo dòng nước sông Trẹm đang lờ đờ chảy.
“Thuyền anh đã nhẹ, chèo lẹ không theo, bớ anh ơi!
Khuyên anh bớt mái, khoan chèo đợi em”
Giọng trong trẻo vừa dứt, một giọng đàn ông hò đáp lại:
“Đây đã chèo lơi đặng chờ người tri kỷ, em ơi!
Giáp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ”
Giọng hò trong trẻo ban nãy lại nổi lên:
“Đêm thanh gió mát, nghe ai đó hát cũng thỏa tâm tình.
Gặp mặt anh đây là bán lộ trình, bớ quân tử ơi!
Hỏi thăm quân tử gia đình ở đâu?”
Triệu Vĩ lắng tai nghe những câu hát huê tình đối đáp giữa đôi trai gái trên sông.
“Nước biết, non xanh, người bạn lành thật là khó kiếm. Anh dạo chơi cũng hiếm, chưa chọn lựa được chỗ nào, em ơi!
Bận lo buôn bán anh ra vào Cần Thơ.
Đó ở dưới thuyền buôn, thả luông tuồng theo nhịp, có phải là:
Ngũ hồ ký tính Đào Công Nghiệp, tứ hải giao du Yến Tử Phòng, linh đinh nay lớn mai ròng, quân tử ơi!
Vậy đã có loan phòng hay chưa?
Thùng thùng! Nghe nói tốt tươi, thiệt như người biết học, như quả là:
Xuyên Sơn Yến mách Côn Can Ngọc, việc hải lao tầm Lệ Thủy Kim.
Lôi thôi nay nổi mai chìm bớ bạn ơi!
Chọn nơi gá nghĩa, ngặt tìm chưa ra”
Người con trai đa tình trên sông chuyển sang giọng âu yếm:
“Nước dưới sông lửng đửng, mây đưa gió dật dờ, tơ duyên đã buộc sậm sờ, bớ bạn ơi!
Qua đây, bậu đó, còn ngờ đâu xa?”
Người con gái thương hồ chẳng chịu kém:
“Trăng trên trời rành rạch, đêm thanh tịnh tiêu điều, lá lay tại mối chỉ điều, bớ bạn ơi!
Thương thì nói vậy, chớ còn nhiều chỗ lo”
Giọng người con trai cương quyết:
“Lo chi cho lắm, rối rắm lòng buồn, đó thạo nghề buôn đây thông việc bán, đôi ta khai sóng mở một ngôi hàng, phước nhờ được chút giàu sang, anh sắm cho em vài cặp hột, ít lượng vàng em ơi!
Nhiễu nho vân xuyến lụa hàng thiếu chi”
Người con gái tỏ vẻ không bằng lòng:
“Mới gặp nhau đây, anh đã gài sự quấy, tiền tài không trọng mấy nhơn nghĩa mới lâu dài, e khi nhiễu cũ vàng phai, anh ơi!
Sắc suy nghĩ tuyệt, anh bỏ ra ngoài không thương”
Anh chàng trai liền đánh tan sự ngờ vực của người bạn đồng tình.
“Ấy sự ước mơ, em ngờ nói thiệt, đây cũng biết trọng nghĩa khinh tài, em ơi!
Quyết tình gá tiếng lâu dài với em?”
Xuôi theo dòng nước nhẹ chảy, hai chiếc tam bản thương hồ từ từ lướt ngang mặt Triệu Vĩ. Chàng đưa mắt nhìn theo cô gái đang đẩy mái chèo và nghe tiếp sự khôn ngoan của cô gái:
“Phụ mẫu sở sinh em để cho phụ mẫu định, bớ bạn ơi! Trong việc vợ chồng chờ lịnh mẹ cha”
Anh lái buôn nài nỉ người đẹp một lời hứa hẹn:
“Đợi tin song thân em là phải vậy, em ơi!
Song quyết một lời rồi, anh mới cậy mai đông”
Người con gái vẫn dè dặt:
“Thông kinh sử ấy phần nam tử, giữ nết na là phận nữ nhi, xử sao vẹn chữ xướng tùy, bớ anh ơi!
Tiếng ừ thì dễ, em lo vì ngày sau”
Anh lái buôn xuống nước ỉ ôi:
“Miễn bậu đành ừ, qua chẳng từ lao khổ, dẫu đằng sơn cầm hổ, dầu nhận hải tróc long, trước sau giữ trọn lòng, bớ em ơi!
Vào lòn ra cúi, anh đánh sóng theo em”
Cô gái nhứt quyết chờ lịnh mẹ cha rồi mới hứa hẹn:
“Em ừ bốc bấy chừ, cha mẹ từ chẳng khứng có phải hại anh đau ngồi đau đứng, bảo anh lo ngược lo xuôi, trước sau lại không vui, bớ anh ơi!
Chi bằng anh cậy mối, nói hồi ban sơ”
Chàng trai đa tình vẫn theo lải nhải:
“Đó quyết cậy mai, đây phận hoài chẳng khứng bớ em ơi!
Cha chả! Có một tiếng ừ, vàng xướng mấy cân”
Người con gái ranh rảnh:
“Một tiếng phải! Ngàn vàng không đổi, anh ơi.
Huống hồ việc vợ chồng biết xứng mấy cân”.
Hai chiếc thuyền buôn đã trôi xa tít, chỉ còn thấy hai vệt đen mờ hiện thấp thoáng dưới ánh trăng mờ.
Triệu Vĩ thở dài chán nản:
- Một mối tình sắp thành hình! Chàng lái buôn trẻ tuổi đó sung sướng hơn ta nhiều. Ta thèm khát cuộc sống bềnh bồng và mối tình giản dị của gã. Đời ta sẽ không còn những đêm trăng vàng êm đẹp. Từ nay ta phải cố gắng mới sống trong bổn phận và để tơ tưởng mãi một hình bóng bất diệt.
Chàng ngước mặt nhìn trăng đau đớn:
- Mỹ Lan ơi! Hình ảnh em sẽ ngự trị mãi mãi ở lòng anh. Chẳng có một người nào bôi xóa được cái hình ảnh duy nhất đó. Em vùi tuổi xanh dưới mái Phật đường. Anh chôn cuộc đời trong ngục tù của gia đình. Chúng ta chỉ là hai kẻ có lòng gặp nhau trên ngã ba đường đời, rồi xa nhau vĩnh viễn.
Triệu Vĩ thẫn thờ quay gót trở về nhà.
Ánh trăng xanh huyền hoặc vẫn rải trên những lối mòn. Người đàn ông tuyệt vọng thở dài lẩm bẩm:
“Lại một mùa trăng! Mùa trăng gặp gỡ và mùa trăng ly biệt!”.
Chương 8
Mười năm dài lạnh lùng trôi qua, Thới Bình thôn vẫn chẳng có gì thay đổi. Đồng quê vẫn dịu hiền và quay cuồng trong sức hoạt động hăng hái của dân quê. Đời sống nông dân vẫn lăn đều theo bánh xe tiến hóa của xã hội.

Công ty Triệu Phú càng ngày càng phát đạt cũng như bà Triệu Phú càng ngày càng già yếu. Tất cả mọi công việc vẫn do Năm Hương đảm đương vì Triệu Vĩ dường như chẳng thích làm việc. Chàng sống chán nản như một kẻ đã chết linh hồn. Sau đêm vĩnh biệt Mỹ Lan ở Linh Sơn tự, Triệu Vĩ trở về sống giữa gia đình với một vết thương lòng không bao giờ hàn gắn được. Bao nhiêu sự săn sóc, trìu mến của Ngọc Anh đều vô nghĩa đối với Triệu Vĩ.
Chàng uể oải kéo lê cuộc đời vô vị giữa bốn bức tường gia đình tù hãm, bên cạnh một tình yêu bất đắc dĩ. Còn gì chán nản hơn một kẻ bị bắt buộc làm chồng, cũng như một kẻ bị bắt buộc làm vợ. Nếu không có Ngọc Lệ, đứa con gái của Triệu Vĩ và Ngọc Anh thì Triệu Vĩ sẽ chết lần mòn vì mất hết lẽ sống.
Tối ngày chàng quấn quít bên con gái để tìm sự an ủi. Ngọc Lệ đã được mười tuổi, dễ dạy và kháu khỉnh. Bên cạnh sự tinh nghịch trững giỡn của Ngọc Lệ, Triệu Vĩ thấy đỡ buồn chán. Ngọc Lệ chẳng khác nào một liều thuốc làm giảm bớt sự đau đớn vết thương lòng của Triệu Vĩ. Nhưng mặc dù đã có Ngọc Lệ, Triệu Vĩ vẫn chẳng thấy yêu vợ. Chàng chỉ thương hại vợ thôi, và thương hại cả đến cho chính chàng nữa. Hình ảnh Mỹ Lan vẫn theo ám ảnh chàng mãi cho đến chết.
Triệu Vĩ thi hành bổn phận làm chồng như một người máy.
Về phần Năm Hương, tên quản gia tàn ác, được bà Triệu Phú ban thưởng xứng đáng sau khi gã làm trọn vẹn cái quỷ kế thâm độc. Đứa con trai của Mỹ Lan và Triệu Vĩ, bà Triệu Phú đưa tiền cho Năm Hương để nhờ gã gởi thằng bé vào viện mồ côi. Dù sao bà Triệu Phú vẫn còn chút đỉnh lương tâm, bà không thể bỏ rơi đứa cháu nội của bà tuy bà không nhìn nhận nó. Vì hoàn cảnh và danh dự của gia đình bắt buộc bà mới làm như thế thôi. Bà phải làm một cái gì để chuộc lại đôi phần tội ác của bà để cho lương tâm bà bớt đay nghiến.
Để người ta khỏi bạc đãi thằng bé Trần Đức, mỗi tháng bà Triệu Phú đều gởi tiền, thực phẩm vào viện mồ côi chu cấp thêm cho thằng cháu khốn khổ. Năm Trần Đức đúng mười tuổi, theo lịnh của bà Triệu Phú, Năm Hương rút thằng bé ra khỏi viện mồ côi và gởi nó vào ở nội trú trong một trường tiểu học đạo ở Sóc Trăng. Để tránh trước mọi chuyện không may có thể xảy đến, Năm Hương căn dặn viên giám đốc trường đừng cho Trần Đức biết tên họ và địa chỉ của người đã nuôi nó ăn học.
Trần Đức là một đứa bé mồ côi cha lẫn mẹ. Nó lớn lên giữa bao đứa trẻ mồ côi khác, và nó cứ tưởng nó mồ côi cha mẹ thật sự. Nó yên ổn sống với tuổi thơ ngây và chẳng hề nghĩ đến những người đã tạo ra nó. Nhưng ngày nó bước chân vào trường tiểu học đạo, bộ óc non nớt của nó bắt đầu suy nghĩ. Nó thường tự hỏi: “Ai đã gởi tiền cho ta ăn học? Tại sao ta lại phải vào viện mồ côi? Tại sao vị ân nhân của ta lại giấu kín tên tuổi? Người đó là ai và là người gì của ta mà lại tốt với ta như thế?”
Trần Đức tự hỏi và không sao tự trả lời được. Mấy câu hỏi rắc rối nầy cứ theo ám ảnh tâm trí nó mãi.
Trần Đức là đứa học trò giỏi giắn và đức hạnh. Nhưng gương mặt thằng bé lúc nào cũng âu sầu ủ dột. Ngoài giờ học, Trần Đức chẳng hề chơi đùa với bạn bè vì có ai mà thân chơi với nó, một đứa bé không cha mẹ và nghèo nhứt lớp. Biết rõ thân phận của mình và sự khinh bỉ của chúng bạn nên Trần Đức chỉ thui thủi một mình, làm bạn với đèn sách và những ý nghĩ đen tối.
Tuổi nhỏ là tuổi vui đùa trững giỡn, thế mà Trần Đức chẳng biết đến chuyện đó. Luôn luôn nó ngẫm nghĩ đến thân thế và cuộc đời mai hậu của nó để rồi nuốt sâu niềm tủi nhục. Một thằng bé thơ ngây đã sớm nghĩ tới những chuyện phức tạp của trường đời.
Bộ óc của Trần Đức đã già hơn cái tuổi của nó.
Một đứa bé không cha mẹ, một hòn máu rơi rớt, một kẻ được sống và được học nhờ mọi người vô danh... còn gì hổ nhục hơn!
Không có một người cha để dạy dỗ, một người mẹ để săn sóc, những người anh để bênh vực. Trần Đức cảm thấy mình bơ vơ lạc loài giữa đám trẻ nhà giàu tàn ác và nghịch ngợm, Trần Đức là một trò chơi của bọn chúng. Luôn luôn chúng tìm cách khuấy phá và chọc ghẹo thằng bé mắc phải cái tội nghèo và cái tội học giỏi.
Mỗi lần bị hành hạ, Trần Đức chẳng hề dám chống cự lại, mà nó chỉ van xin và khóc tức tưởi. Và mỗi lần như thế là lũ bạn quái ác lại hứng chí càng phá phách nhiều thêm. Bọn thầy giáo lại ngã về phe lũ học trò nhà giàu để ức hiếp Trần Đức. Tội nghiệp bị thầy ghét, bạn khinh, Trần Đức sống như một tên tử tù chờ đợi ngày lên máy chém.
Chương 9
Chiếc đồng hồ đờn trên tường thong thả gõ mười hai tiếng đều đặn. Dãy phòng ngủ của học sinh đã im phăng phắc từ lâu. Đèn điện tắt tối om. Các học sinh đã ngủ. Lâu lâu, một viên giám thị, với chiếc đèn ló trong tay lẻn ào từng phòng một xem xét một hồi mới trở về phòng.
Trần Đức im lặng trên giường nhưng nó chưa ngủ. Bài học ban sáng đã cho nó thấy rõ số phận của nó. Từ trưa đến giờ nó đã suy nghĩ rất nhiều. Nó không thể kéo dài sự sống ở giữa nơi mà mọi người đều khinh bỉ và hành hạ nó. Nó là đứa con không cha mẹ, sống nhờ một kẻ vô danh.
Trần Đức nhất quyết tìm cho ra tên và địa chỉ của kẻ đã bỏ tiền nuôi nó ăn học. Biết đâu kẻ đó chẳng phải là cha hoặc mẹ nó. Ít ra nó cũng phải biết rõ người mà nó chịu ơn nặng. Tại sao người ta lại giấu? Có một điều gì bí ẩn trong vụ này? Và điều bí ẩn này nó phải khám phá ra. Nếu không tâm hồn non nớt của nó chẳng bao giờ được yên ổn. Con người nào cũng phải có cha mẹ. Tại sao nó lại không có? Cha mẹ nó đã chết hết nên mới bỏ rơi nó, hay còn một lý do khác nữa?
Trần Đức trằn trọc không sao ngủ được. Nó cố chợp mắt nhưng cảnh tượng ban sáng cứ hiện lên trong đầu óc nó, bắt nó phải suy nghĩ mãi. Một đứa con không cha mẹ. Một thằng bé không biết rõ nguồn gốc của mình, phải chăng ai cũng có quyền khinh rẻ?
- Cha ta là ai? Mẹ ta là ai?
Tự dưng hai giọt lệ nóng hổi trào ra khoé mắt Trần Đức và chảy xuống miệng. Đứa bé mồ côi thè lưỡi liếm thứ nước mặn và nuốt vào bụng, cũng như đã nuốt tất cả mọi niềm tủi nhục.
Trần Đức khóc. Từ nhỏ tới giờ nó đã khóc nhiều lần rồi nhưng chưa lần nào nó đau đớn cảm thấy thấm thía hơn lần này. Nó chợt nhận ra cái đau đớn của linh hồn, đau đớn gấp ngàn lần cái đau đớn của thể xác.
Tuổi nhục! Mới tí tuổi đầu Trần Đức đã biết thế nào là tủi nhục.
Căn phòng ngủ yên lặng như tờ. Chỉ có tiếng đồng hồ tíc tắc, tiếng ngáy đều đều của các bạn và thỉnh thoảng tiếng thằn lằn tặc lưỡi tiếc rẻ một cái gì. Cái yên lặng nặng nề cả đêm trường đè lên Trần Đức. Nó cảm thấy như nghẹt thở. Niềm uất hận dâng tận cổ, nó muốn hét to lên hoặc vung tay đạp phá một cái gì nhưng nó vẫn không dám vì viên giám thị hay lởn vởn gần đấy chẳng khác nào một con mèo rình chuột. Mà viên giám thị thì chẳng ưa gì nó, mặc dù nó là một đứa trẻ học giỏi nhất lớp và cũng được hạnh kiểm nhất lớp. Ông ta chỉ ưa những đứa trẻ mặc sang trọng có nhiều tiền ăn quà vặt và chúa nhật hay ngày lẽ có cha mẹ mang xe hơi vào rước về nhà. Bộ óc chưa đến thời kỳ nảy nở của Trần Đức lại một lần nữa nhận thấy: tiền bạc mới có giá trị thực sự.
“Tại sao ta lại hiểu biết nhiều chuyện, những chuyện mà cái tuổi thơ của ta chưa thể hiểu biết nổi?”. Nhiều lúc Trần Đức tức bực hỏi lấy mình.
Một ý tưởng bỗng nảy lên trong óc Trần Đức. Nó lẩm bẩm:
- Ta phải liều một phen mới được. Ta không thể giam hãm thân ta ở một nơi mà mọi người đều khinh bỉ, coi ta như một con chó hoang.
Trần Đức lóng tai nghe ngóng. Hoàn toàn yên tịnh. Chẳng có tiếng dép cao su kéo lệch xệch ngoài hàng ba. Viên giám thị có lẽ đã về phòng nghỉ.
Giở gối lấy cây đèn bấm nhỏ, Trần Đức tuột khỏi giường. Nó để chân không rón rén bước từng bước một, tuy không dám bấm đèn nhưng nó đi không đụng vật chi vì mắt nó vẫn quen với bóng tối.
Đi hết dãy giường sắt dài, Trần Đức leo ra ngoài hàng ba. Nơi đây có nhiều bóng đèn điện rọi sáng. Rảo mắt nhìn chung quanh một lượt, Trần Đức nhanh nhẹn đi thẳng đến văn phòng giám đốc.
Lần đầu tiên cả gan làm một việc như thế, Trần Đức hồi hộp lo sợ. Tuy thế nó vẫn tiến bước.
Cửa phòng của viên giám thị đã đóng kín. Trần Đức cẩn thận ghé mắt nhìn suốt qua cửa lỗ khóa. Đèn tối om trong phòng chứng tỏ viên giám thị đã yên giấc. Yên trí, Trần Đức tiến bước đến trước phòng giám đốc. May mắn cho nó, cánh cửa chỉ khép kín chớ không khóa.
Trần Đức đẩy nhẹ cửa, bước vào phòng. Chẳng dám vặn đèn điện, nó dùng đèn bấm lần mò đến bàn viết của viên giám đốc.
Nhanh nhẹn nhưng cẩn thận, Trần Đức tay cầm đèn, tay lật từng tờ giấy, từng bức thơ xem xét kỹ càng.
Sau một hồi tìm kiếm, Trần Đức bắt gặp bức thơ mới nhất của vị ân nhân bí mật của nó đã gởi đến nhà trường hằng tháng cùng với tấm bưu phiếu. Nó vội vàng ghi địa chỉ người đó vào cuốn sổ tay:
Ô. NĂM HƯƠNG
Quản lý xí nghiệp “Triệu Phú”
Làng Thới Bình - Quận Cà Mau
BẠC LIÊU
Nhét quyển sổ và bút chì vào túi áo, Trần Đức sắp lại ngay ngắn mọi thứ giấy tờ, sổ sách ở trong hộc tủ. Nó vừa định trở ra thì đèn điện ở trong phòng vụt cháy sáng. Viên giám thị đứng sừng sững ở ngưỡng cửa... Ông ta vừa dụi lia lịa đôi mắt, vừa nhìn Trần Đức.
Trần Đức tái mặt, đứng dừng lại vì không thể trốn thoát.
Quen với ánh đèn viên giám thị nói gằn:
- À lại cái thằng đầu đường xó chợ!
Ông chậm rãi bước đến trước mặt Trần Đức và nghiêm giọng:
- Mầy đến đây vào giờ này làm gì? Định ăn trộm vật chi đấy?
Trước tình thế này, Trần Đức thấy không cần phải chối cãi, vì chối cãi càng nguy hiểm. Viên giám thị sẽ dám vu cáo nó là kẻ trộm.
Trần Đức lễ phép hỏi:
- Thưa thầy, tôi đến đây tìm địa chỉ của người đã gởi tiền nuôi tôi ăn học hằng tháng. Ngoài ra, tôi chẳng có ý định gì khác.
Viên giám thị hách dịch:
- Mầy hỏi thẳng ông giám đốc chẳng được sao?
Trần Đức đáp ngay:
- Tôi đã hỏi nhiều lần nhưng ổng giấu chẳng cho tôi biết vì có lời dặn của vị ân nhân tôi. Nhưng tôi, tôi cần phải biết tên họ và địa chỉ của người mà tôi đã mang ơn nặng. Thành thử tôi phải đợi đến giờ này để lần vào văn phòng ông giám đốc.
Viên giám thị gắt gỏng:
- Nhưng mầy không được làm như vậy! Đây là một chuyện ám muội. Mầy có biết mầy đã phạm vào luật của nhà trường?
Trần Đức cúi mặt:
- Thưa thầy, tôi biết, thầy tha tội cho tôi.
Viên giám thị ngắt ngang:
- Tha tội cho mầy hả? Hừ! Dễ dàng quá! Kỷ luật nhà trường vất bỏ xó hết à? Phải trừng trị thẳng tay cho cái hạng người như mầy mới được.
Câu chửi rủa của viên giám thị chẳng khác nào gáo nước lạnh tạt vào mặt Trần Đức. Nếu ở vào lúc khác Trần Đức lẳng lặng bỏ qua, nhưng lúc này nó không dằn được, nó liền vênh mặt hỏi:
- Hạng người như tôi là hạng người thế nào?
Thấy thằng bé bướng bỉnh, viên giám thị nổi giận:
- Hạng người như mầy là hạng người mà người ta đã nhặt được ở đầu đường xó chợ!
Trần Đức không còn kiêng nể viên giám thị nữa, nó cười lạt:
- Cái hạng người đó không bằng cái hạng người suốt đời theo nịnh bợ bọn nhà giàu sang để liếm láp chút đỉnh.
Bị thằng học trò nghèo nhục mạ ngay mặt, viên giám thị giận đỏ mặt. Để cho Trần Đức nói dứt câu, viên giám thị rất muốn túm lấy đầu nó đánh một hồi cho đã tay, nhưng sợ nó làm ầm ĩ lên nên ông nén giận bịt miệng nó. Lôi xệch nó ra khỏi phòng đoạn trỏ mặt hăm dọa:
- Mầy hành động trái phép sao còn vô lễ với tao, sáng mai tao nói với ông giám đốc tống cổ mầy ra khỏi trường cho biết. Cái số mầy là cái số đi ăn mày hoặc ăn trộm chớ học hành cái thá gì.
Trần Đức vùng khỏi tay viên giám thị:
- Thầy khỏi cần nói viên giám đốc đuổi tôi vô ích. Sáng mai tôi sẽ rời ngôi trường xú uế này, tôi đếch cần học hỏi với những ông giáo sư nịnh của trường này. Tôi ra ngoài làm mướn còn sướng thân hơn.
Dứt lời, Trần Đức trở về phòng ngủ, bỏ mặc viên giám thị đứng một mình lăm nhăm nguyền rủa anh học trò hỗn xược. Đèn điện rọi hàng ba vẫn chiếu sáng như để che lấp những điều bất công ức hiếp lẩn lút dưới mái học đường.
Chương 10
Trần Đức xách bọc hành lý bước ra khỏi cửa ngôi trường đạo. Nó dừng chân ngắm ngôi trường thân yêu lần cuối cùng. Bỗng dưng nó thấy bồi hồi luyến tiếc. Từ đây nó sẽ xa ngôi trường này mãi mãi để lăn mình vào cuộc đời gay khổ. Nó không biết đời gay khổ đến bực nào, nhưng nó đoán trước phải là gay khổ nhiều lắm.
Sống dưới mái trường nó đã bị nhiều sự hiếp đáp, nhiều điều tủi nhục. Còn ra đời, có lẽ nó còn phải hứng chịu rất nhiều điều khác nữa. Nhưng Trần Đức ưng chịu lăn lộn với đời hơn, vì ngoài đời nó sẽ có quyền chống trả lại mọi sự bất công. Ở trong trường, nó không có quyền chống trả, mà chỉ có quyền hứng chịu.
Dù sao Trần Đức cũng tiếc rẻ những ngày làm bạn với đèn sách. Đời học sinh có lẽ là dễ chịu nhất. Nhưng không thể tiếp tục nữa. Nếu nó có cha mẹ.
Trần Đức buồn rầu chép miệng:
- Nếu ta có cha mẹ, ta sẽ cố gắng học hành mãi mãi, và sau này ta sẽ trở nên một người hữu dụng của xã hội. Thế mà những kẻ có phước hơn ta chúng chẳng bao giờ chịu học. Tối ngày chúng chỉ trững giỡn và ăn nhiều quà.
Ánh nắng vàng le lói chiếu trùm lên vạn vật. Mái tóc Trần Đức rung nhẹ trong gió sớm.
Ngoài đường thiên hạ qua lại tấp nập, xe cộ chạy dập dìu, bày những quang cảnh rộn rịp tưng bừng. Lần thứ nhất được ra đường, Trần Đức không khỏi sợ sệt. Nó chẳng được biết những gì đang chờ đợi nó. Rồi đây, trong sự sống quay cuồng của xã hội nó sẽ làm gì? Một thằng bé nhỏ tuổi, chẳng có người thân thích, chẳng có nhà cửa. Không khéo nó sẽ lọt vào giữa đám người xa lạ và họ sẽ vùi lấp mất nó.
Trần Đức rùng mình chán nản:
- Trước hết ta phải về Thới Bình tìm gặp ông Năm Hương. Rồi tới đâu hay tới đó.
Trần Đức tha thiết nhìn cổng trường trang nghiêm và những mái nhà đỏ chói lần chót. Nó đưa bàn tay lên ngang mày chào, tỏ dấu mến tiếc:
- Vĩnh biệt mầy!... Tình bạn khắng khít giữa tao và mầy đến đây là chấm dứt. Tao rất đau đớn khi phải xa lìa mầy, nhưng biết làm sao bây giờ. Tao nghèo quá, và chủ mầy thì không thích những thằng học trò nghèo, mồ côi cha mẹ. Thôi, mầy ở lại, tao đi nhé!
Trần Đức nắn nắn túi tiền đựng hơn trăm bạc đoạn càu nhàu:
- Với số tiền nhỏ này mình phải về Thới Bình. Nếu đi lạc đường thì khổ lắm. Mà biết đường nào đi về Thới Bình bây giờ? Tỉnh Sóc Trăng này mình còn chưa biết được một đường.
Nhưng nó bâng quơ mỉm cười:
- Khó khăn gì, đường ở trong miệng mình. Ra đời phải bạo dạn và lanh lợi một chút mới được.
Trần Đức cương quyết tiến bước giữa cái xã hội đang quay cuồng, hỗn loạn.
*
Trải qua ngày rưỡi hành trình mệt nhọc, khó khăn vì không thuộc đường lối. Trần Đức đặt chân lên Thới Bình thôn thơ mộng với rừng U Minh xanh thẳm và dòng sông Trẹm đỏ ngầu.
Tuy nhọc mệt nhưng Trần Đức thấy khoan khoái ngay trước cảnh vật dịu hiền và không khí trong sạch của vùng quê thanh tịnh. Nó thấy yêu mến đồng quê tha thiết, dường như Thới Bình thôn là quê hương của nó. Có một cái gì vô hình đã buộc chặt nó với đồng ruộng. Đôi mắt quan sát của nó nhận thấy ngay ở nhà quê dễ sống hơn ở thành thị.
Chưa dư thời giờ để ngắm cảnh, Trần Đức còn phải tìm gặp Năm Hương. Nó tìm được nhà bà Triệu Phú dễ dàng vì trong làng ai chẳng biết bà ta.
Nhằm giờ trưa nên Năm Hương đã về nhà. Gã vừa dùng cơm thì một tên gia đinh dẫn Trần Đức vào phòng, Năm Hương không nhận ra mặt Trần Đức vì đã mười mấy năm dư rồi. Gã khó chịu nhìn thằng bé mặt mũi sáng sủa hồi lâu và cau có hỏi:
- Em tìm tôi?
- Dạ, tôi tìm ông, nhưng ông có phải là ông Năm Hương, người đã nuôi tôi đến lớn và còn gởi tôi vào học trường ở Sóc Trăng?
Nghe mấy lời, Năm Hương biến sắc mặt. Gã vội khoát tay bảo tên gia đinh lui bước. Lần này gã chăm chú nhìn kỹ thằng bé xem có nét nào giống Triệu Vĩ hoặc Mỹ Lan. Gã bảo thầm:
“Thằng oắt con này có rất nhiều nét giống Triệu Vĩ lẫn Mỹ Lan. Nhưng tại sao nó lại bỏ học về đây bất thình lình?”
Giây lâu Năm Hương lấy lại được vẻ tự nhiên, gã điềm đạm:
- Phải, tôi chính là người gởi tiền cho em ăn học, nhưng sao em lại bỏ trường về đây?
Mặc dù Năm Hương là vị ân nhân của Trần Đức, nhưng thoạt mới gặp Năm Hương thằng bé đã không có cảm tình với gã ngay. Cái gương mặt của Năm Hương vẻ sâu hiểm, nịnh bợ và hao hao giống nhiều gương mặt của các giáo học trong trường. Có lẽ tại vì thế mà Trần Đức thấy không thích tên quản gia này.
Trần Đức đáp rõ ràng:
- Tôi rất cảm ơn tấm lòng tốt trời biển của ông. Tôi biết chẳng bao giờ tôi đáp đền được ơn ông. Nhưng tôi không thể tiếp tục sự học vì tôi chịu không nổi sự khinh bỉ của các thầy giáo và những học sinh đồng lớp. Họ luôn luôn bảo tôi là đứa con không cha mẹ hoặc thằng bé đầu đường xó chợ. Vì thế tôi mới bỏ trường vào đây định hỏi ông cha mẹ tôi là ai. Chắc chắn ông biết rõ những người đã đào tạo ra tôi?
Trước sự khôn ngoan của thằng bé Trần Đức hơi cứng đầu, Năm Hương đâm ra bối rối. Nếu gã giải quyết không êm thắm chuyện này, âm mưu và tội ác từ mười mấy năm trước của gã và bà Triệu Phú sẽ vỡ lỡ. Như thế thì nguy mất. Nhưng Năm Hương chỉ lúng túng một lát thôi. Bộ óc gian xảo chứa sẵn trăm mưu nghìn kế của hắn làm gì không giàn xếp ổn thỏa nổi câu chuyện nhỏ nhặt này.
Năm Hương vỗ vai Trần Đức ra vẻ thương hại lẫn cảm mến:
- Em nói đúng! Ta biết rõ cha mẹ em vì cha mẹ em là bạn thân của ta.
Trần Đức mừng rỡ ra mặt, hỏi nhanh:
- Thế hiện giờ cha mẹ tôi ở đâu?
Năm Hương giả bộ rầu rầu, đáp:
- Thật vô phúc cho em! Mẹ em sanh em ra được năm tháng thì bị bạo bệnh từ trần. Cha em quá thương nhớ mẹ em nên cũng chết luôn vài tháng sau. Trước khi nhắm mắt, cha em giao em nhờ ta nuôi nấng hộ. Hoàn cảnh ta không cho phép ta tự tay nuôi dạy em. Ta phải gởi em vào viện mồ côi. Khi lớn ta mới gởi em vào học trường đạo ở Sóc Trăng.
Nghe câu chuyện bịa đặt của Năm Hương, Trần Đức không khỏi đau buồn. Cha mẹ nó đã chết từ lúc nó còn nhỏ.
Trần Đức rầu rầu nét mặt:
- Tôi quả là một đứa trẻ vô phúc. Nhưng dù sao cũng hài lòng đôi chút, tôi cũng có cha mẹ như tất cả mọi đứa trẻ khác.
Để tránh trước mọi chuyện không may, Năm Hương dỗ dành thằng bé:
- Em hãy trở về nhà trường và yên tâm học hành. Vấn đề tiền bạc đã có ta lo lắng chu toàn. Em chỉ có lo học cho giỏi thôi.
Trần Đức lắc đầu:
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Hiện thời tôi không muốn tiếp tục sự học nữa. Tôi đã khá lớn rồi, tôi có thể tự làm lấy để nuôi sống. Ông hãy làm ơn tìm cho tôi một chỗ làm vừa sức lực của tôi.
Năm Hương cố thuyết phục thằng bé:
- Em còn bé nghĩ như thế là sai lầm. Sự học vẫn luôn luôn cần cho con người. Có nhiều người muốn học mà không đủ phương tiện để học. Ta đã hứa với cha em, ta sẽ nuôi em ăn học nên người. Em không nên phụ lòng tốt của ta. Em hãy nghe theo lời ta. Sau này em sẽ trở thành người hữu dụng của xã hội. Tuổi em còn quá nhỏ, em chưa ra đời được.
Trần Đức vẫn không thay đổi ý định:
- Tôi đã nhứt quyết thôi học. Tôi không muốn lợi dụng lòng tốt của ông mãi. Hơn nữa, tôi không thể nào ở lại trường vì nơi đó đầy dẫy những ức hiếp bất công. Tôi thích sống tự do.
Mềm dẻo không thành công, Năm Hương đổi sang thái độ cứng rắn:
- Em không được cãi lời tôi. Tôi bắt em trở lại trường lập tức.
Trần Đức cương quyết:
- Tôi đành phụ lòng ông vậy.
Năm Hương chụp hai vai thằng bé cứng đầu lắc mạnh:
- Mầy lì lợm hở? Nói phải không chịu nghe, muốn tao dùng đến roi à?
Trần Đức bướng bỉnh:
- Mặc dù ông là vị ân nhân của tôi, nhưng ông đừng ăn hiếp tôi. Tôi không thích thấy người ta ăn hiếp tôi.
Trong mình Trần Đức đã có sẵn dòng máu bất khuất, dòng máu của người dân Thới Bình.
Năm Hương rủa thầm:
“Mẹ kiếp, nó giống mẹ nó, giống những thằng cày ruộng ở vùng này, cứng đầu cứng cổ!”
Biết không bắt nạt thằng bé được, Năm Hương đành dịu giọng:
- Cũng được, tùy ý mầy! Mầy muốn làm thằng cày ruộng hơn làm ông quan. Mầy muốn làm việc gì?
Trần Đức đáp không nghĩ ngợi:
- Làm gì cũng được, miễn đừng quá sức tôi thôi.
Năm Hương ngắm nghía thằng bé giây lâu, đoạn bĩu môi:
- Tướng tá của mầy bằng cái nắm tay mà làm việc cái quái gì được. Ở đây tao chỉ cần những người làm việc bằng sức vóc, bằng tay chân, chứ không xài những thằng oắt con chuyên môn ăn hại.
Trần Đức vênh mặt nhìn tên quản lý mà nó đã thấy ghét ngay từ lúc đầu:
- Tôi cũng làm việc bằng tay chân được như những người khác, miễn người ta đừng bắt tôi làm quá sức lực của tôi thôi. Mà ông không có quyền bắt buộc một ai làm quá sức của họ. Người lớn làm nhiều thì lãnh tiền nhiều. Con nít làm ít thì lãnh tiền ít.
Năm Hương thù hằn nhìn thằng bé:
- Mầy khôn lắm đấy, nhưng khôn trước tuổi thì có hại chớ không có lợi. Tao chưa phải là chủ ở đây. Mầy đứng yên trong phòng này chờ tao một lát. Tao đi hỏi bà chủ xem có thâu nhận mầy hay không.
Gã ấn thằng bé ngồi xuống ghế, đoạn nhanh nhẹn đi thẳng đến phòng bà Triệu Phú.
Bà Triệu Phú đã già thêm rất nhiều. Mái tóc bà bạc gần hết, da mặt bà nhăn nhúm, lưng bà còng thêm với tuổi già chồng chất. Đi đôi với tuổi tác, bà không còn khỏe mạnh như xưa. Bà đau ốm luôn luôn. Tối ngày bà ở lì trong phòng. Ngày trước bà hoạt động bao nhiêu thì bây giờ bà uể oải bấy nhiêu. Tất cả mọi việc kinh doanh và cai quản bà đều giao hết cho Triệu Vĩ và Năm Hương. Bà chỉ còn biết đọc sách và nghiền ngẫm mãi câu: “Tất cả mọi người đều đi vào cõi chết”. Chết là hết. Lúc thiếu thời hoạt động hăng hái cho lắm, xoay xở để làm giàu cho nhiều, đến ngày tàn cuộc trở về với lòng đất cũng chỉ với hai bàn tay trắng. Vì tiền, người ta gây ra vô số tội ác. Thế mà đến ngày chết, người ta chẳng mang theo được xu con nào.
Càng nghĩ sâu bà Triệu Phú càng chán nản, hiện thời sự nghiệp của bà quá to tát. Bà đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi vào đó. Và bà đã xây dựng nên nó bằng biết bao nhiêu mồ hôi của kẻ khác. Thử kiểm điểm lại mấy chục năm qua bà đã tìm được bao nhiều thứ hạnh phúc trong đóng bạc kếch sù? Dường như là không có gì hết. Có chăng bà đã hao tổn rất nhiều sức lực lẫn trí óc để rồi ngày nay bà ngồi nhìn sự nghiệp mà chán chê. Chồng bà đã tử nạn một cách thảm thương chỉ vì tiền. Còn bà, suốt đời mệt nhọc hoài phí tuổi xanh đẻ chạy đuổi theo hai chữ “tiền bạc”. Đến khi thành công rồi, nhìn lại, bà mới sực nhận thấy hình như “hạnh phúc thật sự của đời người, không thể tìm được ở trong đống vàng”.
Vả lại, cái tuổi già của bà còn chưa được yên ổn. Khi nhớ lại cách làm giàu không mấy lương thiện của mình bao năm qua, bà Triệu Phú không khỏi có đôi chút ăn năn và hối hận. Bà đã xây sự nghiệp trên mồ hôi và nước mắt của hàng ngàn lao động khốn khổ. Bà đã lợi dụng sức lực của họ để làm giàu cho riêng bà. Bà càng ngày càng giàu thêm. Họ càng ngày càng nghèo hơn.
Ngày nay, với mái tóc bạc phơ, với đôi mắt yếu ớt, với đôi bàn tay run rẩy, ngày ngày bà Triệu Phú gò lưng ngồi đếm bạc, đếm từng tờ một và đếm không bao giờ hết. Vừa đếm bạc, bà vừa tự hỏi:
- Ta phải làm gì với số bạc to tác này đây?
Bà hỏi để rồi khó trả lời. Đem hoang phí cho sướng tấm thân. Vô ích. Bà đã già yếu lắm rồi. Còn đâu những ngày xanh thắm. Tuổi hoa niên xán lạng không bao giờ còn trở lại với đời bà. Đem bố thí cho những kẻ nghèo đói để lấy chút ít tiếng tăm! Nhà Triệu Phú nhân từ? Có thể được lắm, nhưng nhớ lại công lao khó nhọc của mình suốt cả một đời người, bà thấy tiếc rẻ. Bà không đủ can đảm làm như thế. Hơn nữa, làm thế cũng chẳng ích lợi gì cho bà. Tiếng tăm làm cái quái gì. Bà đã gần đất xa trời rồi.
Thôi, để lại cho con cháu nó hưởng vậy.
Luôn luôn bà chấm dứt ý nghĩa bằng câu nói này.
Thế là ngày ngày người ta vẫn thấy bà Triệu Phú già nua kiên nhẫn ngồi đếm bạc, đếm say mê để tự hài lòng một phần nào.
Hôm ấy, sau giờ dùng cơm trưa, theo thường lệ, mỗi ngày bà Triệu Phú ngồi trong phòng riêng trửng giỡn với con bé Ngọc Lệ, con gái của Triệu Vĩ và Ngọc Anh. Bà rất mực yêu thương đứa cháu nội nhỏ bé vì Ngọc Lệ có nhiều nét giống bà và con bé kháu khỉnh. Tối ngày nó ca hát và cười luôn mồm. Nhờ nó mà bầu không khí của gia đình Triệu Vĩ bớt tẻ lạnh. Đứa bé ngây thơ đem nguồn vui đến cho cả gia đình. Triệu Vĩ vơi bớt đôi phần thương nhớ Mỹ Lan và đứa con trai vô phước đã bỏ mình trong lửa đỏ. Nhiều lúc nhìn Ngọc Lệ, Triệu Vĩ liên tưởng đến đứa con mà chàng chưa gặp qua một lần. Chàng không khỏi rớt nước mắt. Bà Triệu Phú bớt cô đơn và chán nản trong tuổi già.
Trửng giỡn với Ngọc Lệ hồi lâu, bà Triệu Phú bắt đầu kể chuyện cổ tích cho cháu nội nghe. Con bé ngồi nghe chăm chú, thỉnh thoảng xen vào hỏi một câu vu vơ làm bà Triệu Phú phì cười.
Đang kể chuyện bỗng bà Triệu Phú ngưng bặt vì bà thoáng thấy tên quản lý thân tín đứng lấp ló ngoài cửa. Bà hỏi vọng ra ngoài:
- Chú Năm đấy à?
Năm Hương nhanh nhẹn dạ một tiếng thật lễ phép. Bà Triệu Phú ôn tồn:
- Mời chú vào phòng!
Năm Hương rón rén bước vào đứng cóm róm trước mặt chủ. Bà Triệu Phú hất hàm hỏi:
- Chuyện gì đấy? Có quan hệ lắm không?
Năm Hương đáp trịnh trọng:
- Dạ, rất quan trọng và cần kíp.
Bà Triệu Phú khẽ cau mày. Bà vuốt tóc Ngọc Lệ:
- Thôi cháu về phòng chơi với ba má. Bà nói chuyện với bác Năm một lát. Chiều tối bà kể tiếp cho cháu nghe. Chào bác Năm đi rồi về!
Ngọc Lệ nhanh nhẹn nhảy tót xuống gạch. Nó khoanh hai tay trước ngực, cúi đầu chào bà Triệu Phú:
- Bẩm bà, cháu về!
Bà Triệu Phú hôn nhẹn lên trán đứa cháu yêu:
- Cháu nội bà ngoan ngoãn lắm. Chiều lên bà cho nhiều bánh in.
Ngọc Lệ quay sang phía Năm Hương:
- Chào bác Năm, cháu về.
Năm Hương vuốt tóc đứa bé:
- Cháu giỏi lắm.
Ngọc Lệ chạy tọt ra khỏi phòng. Bà Triệu Phú trỏ ghế mời Năm Hương:
- Chú ngồi xuống ghế! Chuyện gì đấy?!
Năm Hương đáp nhỏ:
- Một chuyện vô cùng quan hệ. Hẳn bà còn nhớ đứa con trai của Mỹ Lan?
Bà Triệu Phú uể oải ngả lưng lên thành giường phàn nàn:
- Già cả rồi, ngồi một chút là mỏi lưng.
Giây lâu bà sực nhớ đến câu hỏi Năm Hương:
- Thằng con trai Mỹ Lan, tôi nhớ rồi. Hình như nó học ở Sóc Trăng và mỗi tháng tôi có bảo chú gởi tiền cho nó ăn học.
Năm Hương kính cẩn:
- Dạ phải. Mỗi tháng tôi đều làm đúng theo lời bà dạy. Nhưng...
Quen với cái tật lớn mỗi khi nói chuyện với chủ Năm Hương ngừng ngang.
Bà Triệu Phú nóng nảy giục:
- Nhưng cái gì?
Năm Hương gãi đầu, nói tiếp:
- Thằng bé bỏ học trở về thình lình.
Bà Triệu Phú ngồi nhỏm dậy, kinh ngạc hỏi gấp:
- Chú nói sao? Thằng bé về đây? Làm sao nó biết đường và biết địa chỉ của chúng ta?
Năm Hương lắc đầu:
- Tôi không hiểu được. Thằng bé đã khá lớn rồi. Nó đến phòng tôi và hỏi cha mẹ nó là ai? Tôi phải nói dối là cha mẹ nó đã chết hồi còn nhỏ.
Bà Triệu Phú gật gù:
- Bây giờ nó muốn gì?
Năm Hương thong thả đáp:
- Tôi khuyên lơn nó trở về tiếp tục sự học nhưng nó cứ từ chối. Tôi coi bộ nó cứng đầu lắm. Nó nhất quyết không thèm học nữa. Nó đòi tôi cho nó một chỗ làm vừa với sức lực của nó. Nó không muốn nhờ vã ai hết. Tôi vội đến đây hỏi ý kiến bà. Bà nghĩ thế nào?
Bà Triệu Phú tỏ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi. Bà lo lắng hỏi:
- Hiện thời nó ở đâu?
- Nó đang chờ ở phòng tôi.
Bà Triệu Phú lặng yên. Đầu óc bà quay cuồng nhiều ý nghĩa. Lương tâm bà bỗng nhiên xáo trộn mãnh liệt. Bà nhớ lại tội ác của bà mười mấy năm về trước. Thằng bé Trần Đức là con trai của Triệu Vĩ và là cháu nội của bà. Đáng lẽ ra nó phải sống sung sướng trong cảnh trìu mến của cha mẹ nó cũng như con bé Ngọc Lệ. Nhưng, bà đã nhẫn tâm làm cho nó xa cha lìa mẹ, đày ải nó vào một thế giới xa lạ. Bà đã cốt ý làm hư hỏng cuộc đời trẻ trung của Mỹ Lan. Bà làm cho con bà đau khổ, cháu bà lạc loài. Hành động của bà thật tàn ác. Bà không xứng đáng làm một người chút nào hết.
Bao nhiêu năm qua, bà không khỏi có những giờ phút lương tâm bị đay nghiến. Bà cũng thấy hối hận. Bà không làm cách gì khác được. Bà phải luôn luôn đặt danh dự gia đình của bà trên hết. Tuy thế, bà cũng yên lòng đôi chút vì bà vẫn lo cho thằng bé ăn học đầy đủ. Ngẫm nghĩ hồi lâu, bà Triệu Phú hỏi lại tên quản lý:
- Chú nghĩ thế nào?
Năm Hương xoa hai bàn tay, đáp;
- Theo thiện kiến của tôi, chúng ta cứ tìm việc cho nó làm như nó muốn.
Bà Triệu Phú lo ngại:
- Để nó gần Triệu Vĩ?
Năm Hương cười tin tưởng:
- Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Bà khỏi phải lo ngại. Về chuyện đốt nhà Mỹ Lan và bắt cóc thằng bé Trần Đức, chỉ có tôi và bà biết thôi. Còn những người khác, kể cả Mỹ Lan và cậu Hai, họ đều tin chắc thằng bé Trần Đức đã bị chết thiêu từ hơn mười năm trước. Chúng ta để cho nó làm việc tại đây mà khỏi lo sợ điều gì hết. Chẳng một ai tìm ra nổi tông tích nó.
Nghĩ đến thằng bé đầu xanh, cháu nội của bà phải làm việc mệt nhọc suốt ngày, bà Triệu Phú không khỏi se lòng. Nhưng bà đành phải chịu vì chẳng còn cách nào khác hơn. Bà thở dài, gật đầu:
- Cũng được! Tôi giao hết mọi việc cho chú đảm nhận. Nhưng chú nhớ đừng bắt nó làm những công việc nặng nhọc.
Năm Hương nhếch một nụ cười hiểm độc:
- Xin tuân theo lời bà dạy. Tôi bắt thằng bé làm việc lấy lệ thôi. Xin kiếu bà.
- Cảm ơn chú!
Bà Triệu Phú mệt mỏi nằm xuống giường nệm.
Năm Hương bước nhẹ ra khỏi phòng. Gã trở về phòng riêng.
Đang ngồi trên ghế, Trần Đức đứng phắt dậy:
- Bà chủ quyết định thế nào, thưa ông?
Năm Hương lấy giọng oai nghiêm:
- Nhờ tao hết lời biện bạch nên bà chủ đã bằng lòng cho mầy vào giúp việc trong nhà máy xay lúa gạo. Phận sự của mầy rất dễ dàng. Mỗi ngày mầy cho gạo vào bao bố và may miệng bao lại. Ban đầu mầy chưa quen nhưng lần lần rồi sẽ thông thạo. Ráng học hỏi các anh chị, đừng xấc xược, hỗn láo mà mang hại. Cần nhất mầy phải làm cho chạy công việc. Nếu lười biếng tao sẽ cho mầy nghỉ việc chẳng vị tình. Lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc. Ăn cơm chủ, ngủ nhà chủ. Làm việc giỏi tao sẽ tăng lương thêm. Công việc chẳng có gì nhọc mệt. Sáng mai mầy bắt đầu lãnh việc. Bằng lòng chứ?
Trần Đức đáp cộc lốc:
- Bằng lòng!
- Ăn cơm chưa?
- Chưa, nhưng không đói, chiều ăn luôn.

Năm Hương cười gằn:
- Càng tốt! Chờ một lát tao bảo người dọn dẹp chỗ ăn ngủ cho mầy. Nên lễ phép với người trên trước một chút.
Trần Đức khô khan nói:
- Vâng!.
15/5/2014
 Dương 
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...