Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2022

Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du

Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương
và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du

Kinh Kim cương - Ảnh Pháp luật Việt Nam

1. Trong dòng phát triển của Phật giáo và lịch sử dân tộc Việt, Kinh Kim Cương là một bản kinh có vị trí vô cùng quan trọng. Những nhân cách lớn trong lịch sử và văn hóa dân tộc đã tiếp nhận, suy niệm và sử dụng Kinh Kim Cương.
Nguyễn Du mang cốt cách của một vị thiền sư
Thời đại của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã sống là thời đại của những cuộc “thay đổi sơn hà” và những cảnh đời “bể dâu” chìm nổi. Không nằm ngoài những biến thiên của xã hội và giai đoạn lịch sử dân tộc mình, Nguyễn Du đã trải qua nhiều phen sóng gió.
Nhưng có lẽ, chính từ trong hoàn cảnh ấy, thấy được những trôi lăn và trầm luân của phận người, tác phẩm của ông luôn tràn đầy lòng thương cảm, thương cảm đến nỗi người đọc thấy như có “máu sa đầu ngọn bút”. Nhưng ở tác phẩm của Nguyễn Du, những số phận trôi lăn trong “cuộc bể dâu” cuối cùng luôn tìm được một nơi để trở về và nương tựa.
Trong số những tác phẩm đại thi hào để lại, Truyện Kiều là một tác phẩm tiêu biểu và là tác phẩm vĩ đại. Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ cuối thế kỷ 19 đã gọi Truyện Kiều của Nguyễn Du là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”. Năm 1924, Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức đồng thời là chủ bút báo Nam Phong, học giả Phạm Quỳnh (1892 – 1945) đã chia sẻ: “Truyện Kiều “vừa là kinh, vừa là truyện” (…) là “một thiên văn khế tuyệt bút”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn của nước ta, để ta có thể “ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn”.
Cho tới nay, hơn 250 sau ngày mất của đại thi hào dân tộc, hàng ngàn công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về Truyện Kiều đã được thực hiện. Mục đích những nghiên cứu ấy là bởi cái tình, cái sự mến mộ, “yêu quý” Truyện Kiều đã được tiếp nối qua nhiều thế hệ trong lòng dân tộc. Nghiên cứu còn là để “hiểu Nguyễn Du” và “Hiểu Truyện Kiều“, cũng là để mở một cánh cửa khám phá những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người Việt.
Tượng danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào 
Nguyễn Du. Ảnh: Pháp luật Việt Nam
Người ta thường nghiên cứu câu chữ, thủ pháp nghệ thuật và quan điểm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhưng điều chúng tôi cho rằng quan trọng nhất để “hiểu Nguyễn Du”, chính là ở tư tưởng mà cụ đã giác ngộ. Là bởi vì khi chắp bút viết bất kỳ một điều gì, dù là một tác phẩm đau đáu tâm can và mang tầm vóc đồ sộ, hay chỉ một vài câu tùy bút, cảm thán, những lời lẽ được viết ra ấy cũng luôn chứa đựng cái thấy của tác giả. Nói cách khác, tư tưởng của chúng ta sẽ soi sáng cho mọi giây phút thực tại mà chúng ta đang sống. Tư tưởng ấy có mặt trong từng ý niệm.
Cố nhiên, với một đại thi hào dân tộc như Nguyễn Du, tư tưởng nó sẽ có mặt, sẽ thấm nhuần trong mạch nguồn từng tác phẩm nghệ thuật của ông. Tư tưởng là nền tảng định vị giá trị và sự bền vững của một tác phẩm nghệ thuật trong dòng chảy lịch sử cùng những biến thiên của đời sống xã hội. Nguyễn Du là một trong ba nhân cách lớn của dân tộc thấu ngộ nghĩa lý Kinh Kim Cương. Nguyễn Du đã lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp và mang cốt cách của một vị thiền sư thực sự theo tính truyền thừa.
Kinh Kim Cương trong dòng chảy lịch sử
Để hiểu tư tưởng của Nguyễn Du, chúng ta sẽ tìm hiểu qua về Kinh Kim Cương. Đây là một bản kinh quan trọng của Phật giáo. Theo những ghi chép trong Thiền Uyển Tập Anh , Kinh Kim Cương xuất hiện ở nước ta vào khoảng những năm nửa đầu thế kỷ thứ 7 với thiền sư Thanh Biện, vâng lời thầy tổ của mình là thiền sư Pháp Đăng mà lấy việc trì Kinh Kim Cương làm sự nghiệp. Kinh Kim Cương như thế đã có mặt rất sớm, dường như cùng thời hoặc sớm hơn những dữ liệu ghi lại sự xuất hiện bản kinh này tại Trung Hoa .
Trong dòng phát triển của Phật giáo và lịch sử dân tộc Việt, Kinh Kim Cương là một bản kinh có vị trí vô cùng quan trọng. Những nhân cách lớn trong lịch sử và văn hóa dân tộc đã tiếp nhận, suy niệm và sử dụng Kinh Kim Cương. Việc giác ngộ Kinh Kim Cương và vận dụng giáo nghĩa của nó trong đời sống đã khiến cho Phật thế quan và sắc thái nền Phật giáo dân tộc có những bước ngoặt quan trọng.
Từ thiền sư Vạn Hạnh, người có công lớn trong việc tạo dựng tiền đề khai mở triều đại nhà Lý với vị vua nhân từ, anh minh Lý Công Uẩn lớn lên nơi cửa thiền, cho đến người mở ra triều đại lừng lẫy kế tiếp cho nhà Trần là vua Trần Thái Tông. Và như thế, tiếp đến sau này, chúng ta có thêm một đại thi hào thấu ngộ nghĩa lý Kim Cương là Nguyễn Du. Đây chính là ba nhân cách lớn của dân tộc đã giác ngộ Kinh Kim Cương với những góc tiếp cận khác nhau trong áo nghĩa của kinh tùy theo từng giai đoạn lịch sử và góc nhìn của từng thời kỳ.
Nếu như với thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta có thể thấy được qua bài kệ thị tịch của ngài tinh thần của Kinh Kim Cương: Các pháp là vô thường (như mộng huyễn bọt bóng). Chính bởi các pháp vô thường nên con người phải sống với tinh thần vô chấp và quán chiếu vô tướng. Bài kệ thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh chính là một tứ trong bài kệ ở phần cuối cùng của bản kinh này.
Phiên âm:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Dịch nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Theo vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương
Vạn Hạnh là vị thiền sư đã tạo ra thời cuộc với triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm, từ vị vua anh minh Lý Công Uẩn. Có thể nói, thiền sư là một nhà chính trị đại tài. Ông đã có con mắt thấu trước thời cuộc và chăm dạy, đào tạo ra một đế vương lỗi lạc, nhân từ. Đại cuộc thành rồi , người vẫn chỉ mặc áo nâu sồng bởi đã thấu lý giác ngộ “thân như mộng huyễn..”
Cho đến Trần Thái Tông, như chính lời chia sẻ của nhà vua trong bài tựa Thiền Tông chỉ nam: “Trẫm thường đọc Kinh Kim Cương, đến câu “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”, vừa gấp sách lại ngâm nga, bỗng nhiên tỉnh ngộ”
Trong bối cảnh xã hội và vị thế của mình lúc bấy giờ, vua Trần Thái Tông đã ngộ được triết lý Kinh Kim Cương ở một khía cạnh khác. Không nhất thiết phải dự hàng xuất gia với y áo pháp phục và giới luật. Phật giáo cần đi vào đời sống với những tận cùng của khổ đau gian khó.
Người bần hàn cần nâng đỡ; kẻ khốn cùng cần được chở che; quốc gia xã tắc cần yên ổn, thịnh vượng. Phật giáo vì vậy đề cao nhu yếu vô trụ, vô chấp để đi vào đời sống và giải quyết trực tiếp những vấn đề mà đời sống đặt ra. Nhà vua không nhất thiết phải xuất thế và thiền sư không nhất thiết phải nhập thế. Bởi lẽ, xuất thế hay nhập thế không chỉ ở hình tướng mà ở tại nơi tâm.
Trần Thái Tông đã lấy tư tưởng vô trụ và tinh thần phật ở tại lòng như lời dạy của quốc sư Phù Vân để làm kim chỉ nam cho cuộc đời chính trị và tu hành của mình. Ngài đã vì lòng thương xót muôn dân mà tinh tấn tu thành, tham thiền liễu ngộ. Không xuất thế, nhưng ngài thực sự là một vị vua, một vị thiền sư đạt đạo.
Bên cạnh thái độ nhập thế tùy duyên để trị quốc, an dân, ngài còn trăn trở để tìm mọi cách, từ lấy mình làm gương cho thiên hạ, đến việc xây dựng chính trị, văn hóa, giáo dục và còn tự tay viết ra nhiều tác phẩm với mong muốn thêm một phương tiện cho muôn dân của mình rời bỏ đường mê mà sớm quay về bờ giác ngộ.
Lục thời sám hối khoa nghi, thiền tông chỉ nam, Kim Cương tam muội kinh tự, khuyến phát bồ đề tâm văn, phổ thuyết tứ sơn,… là những tác phẩm còn vẹn nguyên giá trị trong khoa nghi dành cho các bậc tu hành vẫn thường hành trì cho đến ngày nay.
“Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” chính vì vậy đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đó chính là bước chuyển mình trong nhận cần thiết và đúng lúc. Nó đánh dấu sự phát triển lớn trong tư tưởng Phật học và quan điểm về thiền nhập thế thời kỳ này.
Như đã nói ở kỳ trước, Nguyễn Du là một trong ba nhân cách lớn của dân tộc thấu ngộ nghĩa lý Kinh Kim Cương. Nguyễn Du đã lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp và mang cốt cách của một vị thiền sư thực sự theo tính truyền thừa.
2. Với Phân kinh thạch đài, ta biết, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp. Với việc tụng hơn ngàn biến, Nguyễn Du đã để tâm, đã đau đau những ý nghĩa mà Phật muốn truyền dạy qua những trang kinh:
Phiên âm: “Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,/ Kỳ trung áo chỉ đa bất minh/ Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,/ Chung tri vô tự thị chân kinh .”
Dịch nghĩa: Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến/ Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều./Cho đến dưới đài đá phân kinh,/Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.” (Trích: Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài – Đài đá ‘phân kinh’ của thái tử Lương Chiêu Minh)
Kinh Kim Cương là một bản kinh quan trọng và có mặt sớm trong hệ thống kinh điển Phật giáo. Không những vậy, đây còn là một bản kinh rất “khó đọc” và khó hiểu chứ chưa nói đến việc thấu triệt và ngộ nhập được áo nghĩa mà kinh muốn truyền tải.
Nguyễn Du đã đọc đến hơn ngàn biến Kinh Kim Cương, vẫn đau đáu áo chỉ trong kinh vì chưa thấu đạt. Kinh Kim Cương với Nguyễn Du như một công án. Cho đến khi tới nơi đài đá phân kinh thì người mới “hốt nhiên đại ngộ” .
Nguyễn Du quả nhiên là một hành giả thiền tông thực thụ theo tính truyền thừa. Chính bởi đã giác ngộ Kinh Kim Cương nên trong các tác phẩm của đại thi hào, chúng ta sẽ thấy được cốt cách của một vị thiền sư - thi sĩ, một con người có tình thương rộng lớn và sâu sắc với những cuộc đời trầm luân trong cuộc “bể dâu”.
Trong tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn du nhắc đến từng phận người: Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh/ Cũng có kẻ màn lan trướng huệ/ Kìa những kẻ mũ cao áo rộng/ Kìa những kẻ bài binh bố trận..
Cho tới:
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương”.
Tất cả những kiếp người ấy rồi thân xác cũng trở về với cát bụi. Nguyễn Du không nói tới người sống mà nói tới người đã chết, những “cô hồn” không nơi nương tựa: “ẩn ngang bờ dọc bụi, hoặc là nương ngọn suối chân mây”. Dù khi sống có quyền cao chức trọng, có nghênh ngang áo mũ hay cung quế hằng nga thế nào thì khi thác cũng một phận lênh đênh như nhau.
Đã là “hồn đơn phách chiếc” thì đều cần được “xá tội”, đều đáng thương và đáng được cảm thông, được giúp đỡ để tìm về đường sáng. Đây cũng chính là tấm lòng bi mẫn và nhân văn rộng lớn của Phật giáo. Tình yêu thương rộng lớn của đại thi hào Nguyễn Du, vì thế không phải một thứ tình thương ban ơn, cũng không phải đơn thuần là tiếng thở dài cam chịu trong trôi lăn phận người. Ông hoàn toàn hóa thân như chính mình đang nếm trải từng khổ đau của kiếp sống và .. kiếp chết ấy.
“Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau” (…)

Hình ảnh Nguyễn Du trong phim tài liệu nghệ thuật Đại 
thi hào Nguyễn Du - Ảnh Pháp luật Việt Nam

Không chỉ nhắc đến sáu hạng người thuộc tầng lớp quý, Nguyễn Du đã dành sự đồng cảm sâu sắc và tình thương lớn đối với những người bình thường trong xã hội. Với phận đời nào, cái chết nào cũng khắc khoải, đau đớn, thấu hiểu như một tri kỷ, tri âm. Từ những người buôn bán cho đến những thân phận người phụ nữ… Phải là một con người có bồ đề tâm rộng lớn mới có thể thấu hiểu đến thế, thương cảm đến thế, xót xa đến thế. “Cũng có kẻ đi về buôn bán,/ Đòn gánh tre chín dạn hai vai,”

Chiếc đòn gánh tre với hai vai chín dạn, ấy là bao nẻo đường gian khó mà kiếp người ấy đã phải gánh gồng, đã phải bước qua. Và những lời thương mà như những tiếng than cho đến hôm nay còn khắc khoải, trĩu nặng: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
Chính bởi vậy nên vị Thiền sư - thi sĩ ấy mới lên tiếng: “Kiếp phù sinh như hình bào ảnh/ Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”. Ai ơi lấy Phật làm lòng, Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.”
Quý vị có thấy được thấp thoáng bóng dáng của thiền sư Vạn Hạnh và vua Trần Thái Tông trong bốn câu thơ trên không? “Kiếp phù sinh như hình bào ảnh” chính là một mạch nguồn nhận thức của Kinh Kim Cương trong bài kệ cuối mà thiền sư Vạn Hạnh từng đạt ngộ và diễn tả lại trong kệ thị tịch của mình như đã dẫn.
Bản kệ Kinh Kim Cương như sau: “Nhất thiết hữu vi pháp,/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh,/ Như lộ diệc như điện,/ Ưng tác như thị quán.”
Và “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” - Chân tâm không cần một nơi nào để trụ vào, “không còn kẹt vào những khái niệm về Ngã, về Nhân, Về Chúng Sanh, về Thọ Giả, về Pháp, về Không Phải Pháp, về Tướng và về Không Phải Tướng”. “Phật ở trong lòng” và “lấy Phật làm lòng” chính là nhận thức về tâm thế chủ động, dùng hai chữ “hiểu” và “thương” để đi vào cuộc đời.
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng.” Đây là câu nói trong đoạn hội thoại do chính đức vua Trần Thái Tông kể lại trong bài tựa Thiền Tông chỉ nam. Lời nói của thiền sư Trúc Lâm đã khai ngộ cho vị vua trẻ, cũng chính là một bè lau để đưa đức vua đến bờ giác ngộ sau này.
Bài thơ đề động Nhị Thanh, Nguyễn Du đã từng viết: “… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng/ Thử tâm thường định bất ly Thiền…” Dịch là: …Mọi cảnh đều không, nào có tướng/ Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền”
Để thể nhập được tính không của Phật đạo, để thường “định” - tức là thường tịch tịnh, như nhiên, hành giả ấy phải là người biết thắp sáng ý thức với mọi diễn biến của thực tại. Chính bởi các pháp vô thường nên con người phải sống với tinh thần vô chấp và quán chiếu vô tướng và làm được điều đó mới có thể “thường định, bất ly thiền”.
Tất cả mọi pháp chỉ có nơi sinh lão bệnh tử với vô thường, khổ, vô ngã và ngã. Đức Phật phải học từ cuộc đời với mọi bài pháp của dòng đời. Trở thành chúng sanh, ngã, nhân, thọ giả. Cuộc đời là trường đào tạo Phật và mọi loài đều có phật tính.
Chính vì sẽ trôi lăn trong luân hồi trở thành chúng sanh, có ngã nhân thọ giả và trải qua sinh lão bệnh tử với tham sân si để hiểu vô thường khổ vô ngã mà tất cả những chúng sanh ấy mới có thể lần hồi giác ngộ, học ra được bài học của chính mình.
Quay trở lại Truyền Kiều, cũng bởi thế, có thể nói đây chính là một cuốn kinh “vô tự”. Kinh vô tự tức là bản kinh từ cuộc đời. Muốn thể nhập được áo nghĩa của kinh thì phải sống trong cuộc đời và tự bản thân chứng nghiệm lời dạy của kinh ấy từ cuộc sống. Cố nhiên, lý đốn ngộ thì dễ và sự tiệm tu mới khó.
Chính bởi vậy nên ta biết được, Nguyễn Du đã thực sự thấu cảm, thực sự sống trong đời sống với tâm thế của một vị thiền giả, hành trì Kinh Kim Cương. Phải sống, phải thực chứng và trải nghiệm mới có thể chắt lọc và đồng cảm sâu sắc đến thế, tận cùng đến thế với những nỗi khổ của “ngã”, “nhân”, “chúng sinh” và “thọ giả”.
3. Nguyễn Du đã thực sự thấu cảm, thực sự sống trong đời sống với tâm thế của một vị thiền giả, hành trì Kinh Kim Cương. Phải sống, phải thực chứng và trải nghiệm mới có thể chắt lọc và đồng cảm sâu sắc đến thế, tận cùng đến thế với những nỗi khổ của “ngã”, “nhân”, “chúng sinh” và “thọ giả”.
Bản kinh vô tự không phải để nhận thức mà phải biến nhận thức thành cuộc sống. Lời kinh giúp ta nhận thức được chân lý chứ bản thân nó không phải chân lý. Chiếc bè, giúp người vượt qua dòng sông cuộc đời, cũng như chân lý, không phải chỉ để nhận thức mà là để sống, để thể nhập và chứng nghiệm. Qua sông, đến bè cũng nên bỏ lại. Đó là những gì Đức Phật từng dạy.
Cũng như sư Giác Duyên đợi nàng Kiều trải đủ mọi trầm luân trong vô thường, trong khổ, với những đau đáu phận người. Đến khi duyên lành hội đủ, sư đã đợi sẵn, chuẩn bị một bè lau. Bè lau ấy cũng chính là biểu hiện của nhân duyên hội đủ để cứu vớt cuộc đời đã trải qua đủ mọi bể dâu, trôi lăn trong dòng sinh tử, phú quý vinh hoa từng trải, đắng cay khổ nhục từng qua…
Hình ảnh chia tay của sư và nàng Kiều là một hình ảnh đẹp: “Giác Duyên từ tiết giã nàng/ Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.”
Nếu đọc giai thoại cha ông, chúng ta sẽ bắt gặp một câu chuyện thật dễ thương về cái “Níp Kim Cương” của các vị tu hành và anh học trò nghèo. Níp ở đây là túi đựng, với người học trò thì níp ấy dùng để đựng kinh thư. Với hành giả tu thiền, níp dùng để đựng kinh. Níp nói chung, dùng để đựng những thứ gọi là tư lương.
Tư lương tức là lương thực. Theo thiền sư Nhất Hạnh, đối với một người tu thiền,”Kinh Kim Cương là một thứ tư lương mà chúng ta mang theo để có thể thành công trong chuyến đi tìm chính mình; đi tìm chính bản thân ta. Ngày xưa, có những hành giả đi từ núi này sang núi khác, từ tỉnh này sang tỉnh khác tìm đạo. Những hành giả đó mang một đôi giày rất cũ, chiếc áo thì bạc màu. Họ không bằng lòng với sự sống tiện nghi ở trong chùa.
Ngày nào cũng được ăn sáng, ăn trưa và ăn chiều, có phòng riêng, có phòng tắm, có cầu tiêu, có đủ thứ, nhưng họ không bằng lòng với những thứ đó. Họ muốn đi tìm cái gì quan trọng cho đời họ, vì vậy họ trở thành một vị du tăng, vân thủy. Vân thủy là danh từ Phật học, danh từ thiền. Vân là mây, thủy là nước.
Chỉ vì muốn đi tìm cái quan trọng nhất cho nên mình đã trở thành một người vân thủy. Vân thủy là ông thầy tu đi tìm đạo. Cái áo nâu bạc phếch, cái nón lá tả tơi, đôi dép đã cũ mòn, nhưng trong cái túi mà ông mang theo đôi khi lòi ra một mẩu bìa và người ta đọc được: Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.
Kinh Kim Cương
Nhiều vị vân thủy ngày xưa thường đem theo cuốn Kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương là tư lương của họ, đi tới đâu xin ăn chỗ đó và dùng cuốn Kinh Kim Cương làm cái cuốc để đào lên giếng nước thơm trong ở trong trái tim của mình mà đạt tới sự giác ngộ. Ngày xưa có những bậc du tăng như thế, họ tự gọi họ là vân thủy, là mây là nước. Mây nước thì không dừng lại ở bất cứ chỗ nào, không bị trói buộc bởi những tiện nghi hàng ngày. Cũng vì lý do đó mà Kinh Kim Cương có một địa vị rất quan trọng trong truyền thống thiền.”
Hình ảnh Giác Duyên với cái níp Kim Cương vân du và kết một bè lau để cứu nàng Kiều là một hình ảnh của một hành giả đã sống trong cuộc đời với đầy đủ những trầm luân và giữ một chữ Hiếu trong lắng, tròn đầy: “Như nàng lấy hiếu làm trinh/ Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. Vậy nên: “Thiện căn ở tại lòng ta,/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Chữ “Tâm” này rất quan trọng. Nó được nhắc lại nhiều lần trong Truyện Kiều và các tác phẩm khác của Nguyễn Du. Chúng ta cũng hãy cùng đọc lại lời đạo cô Tam Hợp: Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời/ ‘Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.”
Và cụ Nguyễn Du cũng nhắc lại chữ Tâm (ý muốn, tấm lòng) ở bài Phân kinh thạch đài: “Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,/ Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.” Dịch: “Người tỏ tâm này người tự độ,/ Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi.
Câu thơ này khiến chúng ta nhớ đến lời của quốc sư Phù Vân nói với vua Trần Thái Tông khi ngài lên núi muốn quyết chí xuất gia học đạo: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật.”
Và lời vua Trần Thái Tông khi đã giác ngộ: “Trẫm nghe bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng, tròn khuyết đều dứt”, như vậy, bản tính lắng yên, chân tâm trong lặng thì Phật tính hiển lộ. Vấn đề không phải ở nơi xuất gia hay tại gia mà cốt lõi ở việc xử lý tâm, làm sao để trở về với bản tâm thanh tịnh vốn có của mỗi người mới là điều quan trọng nhất, cũng là “trọng yếu tính Kim Cương”.
Như vậy, từ Trần Thái Tông đến tư tưởng của Nguyễn Du, hai nhân cách lớn của dân tộc Việt, xuyên suốt là tư tưởng của một hành giả tu tập thiền và lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp. Với “mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” và sự giác ngộ: “Chung tri vô tự thị chân kinh”, lý đốn ngộ đã rõ. Nhưng hơn thế, chúng ta đã thực sự được thấy sự tiệm tu và thực chứng của Nguyễn Du với ý muốn và tấm lòng của nhân vật trong từng trường đoạn bể dâu của Truyện Kiều. Thấu đáo được như lời của Mộng Liên Đường nhận xét: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy…”
Những dòng thơ cuối cùng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Thiện căn ở tại lòng ta,/ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Lời quê chắp nhặt dông dài,/ Mua vui cũng được một vài trống canh.”
Cụ lại một lần nữa khẳng định về cái gốc rễ của tính thiện, của Phật tính là ở tại nơi lòng người. Bằng cách nói rất mực khiêm cung, Nguyễn Du đã chia sẻ Truyện Kiều mà cụ vừa viết ra là những: “Lời quê chắp nhặt dông dài“.. Lời quê cũng như cách sử dụng chữ Nôm cho Truyện Kiều chính là một tâm thức hướng tới số đông, hướng tới tất cả mọi người chứ không riêng gì giới trí thức trong xã hội. Không những thế, lời quê ấy lại còn được “chắp nhặt” và “dông dài”.
Là thi sĩ tự khiêm cung hay chính là tâm thái vô chấp của một thiền sư? Và kết thúc một tác phẩm vĩ đại với hơn ba ngàn câu thơ, câu nào cũng chứa đựng tài hoa, trăn trở, đau đáu xót xa trước bể dâu và phận người chìm nổi là một sự buông xuống nhẹ nhàng.
Những sẻ chia từ tấm lòng của một nhân cách lớn với tình thương lớn ấy, với Nguyễn Du, cũng chỉ là để: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Vị thiền sư - thi sĩ ấy, cho đến cuối cuộc đời mình cũng đã ra đi rất an nhiên. Ghi chép trong sách Chính biên Liệt truyện: “Khi Nguyễn Du phải bệnh nặng, ông không chịu uống thuốc. Lúc gần mất, sai người sờ tay chân xem còn nóng hay lạnh. Người nhà nói đã lạnh cả rồi. Ông nói rằng: “Được!”. Nói xong thì mất, không một lời nào dặn dò đến việc sau”.
Nguyễn Du như vậy đã đón nhận cái chết với một tâm thế hoàn toàn sáng suốt, bình thản. Sự an nhiên ấy và con mắt trạch pháp, trông thấu sáu cõi ấy cố nhiên, chính là con mắt của một hành giả, một thiền sư thể nhập được không tính và áo nghĩa Kinh Kim Cương theo tính truyền thừa.
8/12/2021
Tâm Hiệp
Nguồn: Pháp luật Việt Nam
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bà lão Idecghin 1. Tôi được nghe kể những câu chuyện này ở gần Ackeman, trên bờ biển xứ Betxarabi. Một buổi tối, làm xong công việc ...