Những cú hích lịch sử
Văn hóa và sự phát triển
của văn học
Việt Nam đương đại
Bối cảnh lịch sử, xã hội và giao lưu văn hóa toàn cầu đã mở
ra những sinh lộ mới cho văn học Việt Nam đương đại. Sự kết hợp hài hòa giữa
nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại sinh trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc
tế đã góp phần giải phóng cá tính sáng tạo của nhà văn, tạo nên những thay
đổi mang tính bước ngoặt trong đời sống văn học Việt Nam sau
1986. Bài viết tập trung phân tích tác động của bối cảnh lịch sử, văn
hóa, xã hội đến không gian sinh tồn của văn học; sự thay đổi về tư duy nghệ thuật
của nhà văn và những đổi mới trên bình diện thi pháp.
PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp – Viện trưởng
Viện Văn học, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình Hội Nhà văn VN
1. Những cú hích lịch sử, xã hội và văn hóa
Xét về tính chất và trình độ, đương đại là một lát cắt hiện
thời/ mới nhất của hiện đại. Nhìn văn học Việt Nam đương đại gắn với mốc 1986
(với hai lí do cơ bản: 1/ thời điểm Việt Nam chính thức chủ trương đổi mới; 2/
khởi đầu tiến trình toàn cầu hóa trong tính toàn diện) sẽ thấy sự khác biệt: nếu
văn học trước Đổi mới chủ yếu bị chi phối bởi đời sống chiến tranh (lạnh) thì
văn học sau 1986 nằm trong sự phủ sóng của văn hóa thời bình và hội nhập quốc tế.
Khoảng thời gian 1975-1985 là giai đoạn bản lề, tại đó, cái mới/ khác đã manh
nha nhưng chưa trở thành hiện tượng nổi bật và rộng lớn1. Diễn ngôn nghệ thuật
đương đại, vì thế, chịu sự quy định của nhiều nhân tố, trong đó có ba nhân tố
quan trọng: 1/ sự đổi mới tư duy chính trị và quá trình mở rộng dân chủ xã hội;
2/ kinh tế thị trường và thị trường văn học; 3/ giao lưu, hội nhập văn hóa toàn
cầu. Đây cũng chính là ba cú hích cơ bản tạo đà cho sự đổi mới văn học Việt Nam
đương đại.
Đổi mới tư duy chính trị và nhận thức văn hóa, xã hội
Từ cuối thập niên 70 của thế kỉ XX, những cây bút mẫn cảm nhất
của văn học Việt Nam đã sớm nhận thấy tính chất “minh họa” là nguyên nhân cơ bản
dẫn tới tình trạng “suy tư tưởng” và làm nghèo đời sống văn học2. Tất nhiên,
khát vọng đổi mới vào thời điểm ấy không chỉ là khát vọng của riêng văn học,
nghệ thuật mà rộng hơn là khát vọng của toàn xã hội. Trong bối cảnh đất nước bị
cấm vận, kinh tế khủng hoảng, niềm tin xã hội giảm sút, đạo đức xuống cấp
nghiêm trọng thì chủ trương đổi mới được chính thức phát động tại Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986) có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là kết quả của một biến dịch.
Chủ trương “đổi mới tư duy” ngay lập tức đã trở thành cảm hứng bao trùm và trở
thành động lực tinh thần giúp Việt Nam từng bước vượt qua khủng hoảng. Đó là những
chuyển động mang ý nghĩa của chữ Thời. Năm 1987, lần đầu tiên có một Tổng
Bí thư chăm chú lắng nghe nhiều ý kiến “nghịch nhĩ” từ đại diện của giới văn
nghệ sĩ cả nước. Tại cuộc gặp gỡ này, người đứng đầu đảng cầm quyền đã trực tiếp
đề cập đến chuyện “cởi trói” cho văn nghệ sĩ3. Gọi là “nghịch nghĩ” bởi đó là
những phát ngôn “nhìn thẳng sự thật”, “nói thẳng sự thật” mà trước đây văn nghệ
sĩ không có điều kiện để nói và cũng ít người dám nói. Tiếp đó, Nghị quyết số
05-NQ/TW ngày 28/11/1987 về nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn hóa nghệ
thuật đã bước đầu cụ thể hóa một số vấn đề trọng yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển
của văn nghệ từ tầm nhìn đổi mới, đặc biệt là vấn đề quyền tự do sáng tạo của
nghệ sĩ. Ở lĩnh vực báo chí, Báo Nhân dân mở chuyên mục “Những việc cần
làm ngay” kí tên NVL (từ 1987-1990) như một hối thúc hành động để phá vỡ “sự im
lặng đáng sợ” và sự trì trệ nhân danh tập thể. Đó là những chỉ dấu cho thấy sự
đổi mới về tư duy, về dân chủ xã hội và mở ra một không gian khoáng đạt hơn nhằm
kích hoạt đối thoại xã hội và đối thoại nghệ thuật, gỡ bỏ các cấm kị, phá bỏ những
nhận thức cũ kĩ, giáo điều. Không khó để nhìn thấy tinh thần phản tư xuất hiện
đậm đặc trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lưu
Quang Vũ, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo… giữa thập niên 80 và sự bứt
phá mạnh mẽ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài; kí của Phùng Gia
Lộc, Trần Huy Quang… ở thời điểm bắt đầu và ngay sau Đổi mới. Tinh thần khai
phóng tư tưởng và đổi mới xã hội không chỉ tạo hứng khởi cho sáng tác mà còn
làm thay đổi tiêu chí đánh giá văn học. Nhiều giá trị văn học quá khứ được soi
xét lại, nhiều số phận “oan nghiệt” được “chiêu tuyết”, những đóng góp của Thơ
mới và Tự lực văn đoàn được nhìn nhận lại thỏa đáng hơn. Văn học đô thị miền
Nam 1954-1975 hay văn học của người Việt ở nước ngoài cũng bắt đầu được đánh
giá lại trên tinh thần khoan dung văn hóa và tinh thần nhân văn hiện đại. Rõ
ràng, những thay đổi trên đây đã mở ra tiền đề thuận lợi cho sự đổi mới trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà khi nhớ lại sáng tác của
mình giai đoạn đầu Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp tán đồng với nhận xét: ông may mắn
là kẻ “cập thời vũ” – mưa đúng lúc! [10, tr.72]4.
Bước sang thế kỉ XXI, đặc biệt sau thời điểm Việt Nam gia nhập
WTO (2007), tiến trình đổi mới tuy không còn sôi nổi như những năm giữa 80-90
nhưng vẫn được tiếp tục cả ở chiều rộng và chiều sâu. Ảnh hưởng của những tư tưởng
nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại của thế giới vào Việt Nam trở nên đậm nét
hơn. Một số nhà nghiên cứu gọi đây là giai đoạn hậu – Đổi mới. Việc định danh
này tuy chưa tạo được đồng thuận trong giới nghiên cứu, nhưng là sự phân biệt cần
thiết để nhìn thấy những chuyển động nội tại của văn học trong hai mươi năm đầu
thế kỉ XXI.
Kinh tế thị trường và thị trường văn học
Sự sôi động của đời sống xã hội và đời sống văn học đương đại
không thể tách rời sự bùng nổ của kinh tế thị trường, mặc dù nhìn bề ngoài, đó
là hai lĩnh vực dường như không mấy liên quan. Khác với kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, kinh tế thị trường tạo ra động lực để giải phóng sức sản xuất, điều
chỉnh cấu trúc xã hội, tạo dựng mối quan hệ cung – cầu, trong đó có cả việc giải
phóng sức sản xuất văn hóa và cung – cầu nghệ thuật. Kinh tế thị trường thúc đẩy
sự phát triển công nghiệp văn hóa, mở rộng không gian báo chí, truyền thông và
kích thích tương tác xã hội, tương tác nghệ thuật thông qua giao dịch các sản
phẩm văn hóa. Cùng với toàn cầu hóa, kinh tế thị trường đã làm mờ biên giới các
quốc gia, thúc đẩy sự chuyển dịch công nghệ để hình thành nền kinh tế tri thức,
xác lập và thúc đẩy sự hình thành, phát triển xã hội tiêu dùng, trong đó có
tiêu dùng văn hóa. Hệ quả, dưới sức ép của thị trường, các sản phẩm văn học,
nghệ thuật cũng là một loại hàng hóa. Ở khâu “sản xuất”, kinh tế thị trường đặt
hàng người viết; ở khâu “tiêu thụ”, nó kích hoạt sự lớn mạnh của thị trường văn
hóa và văn học. Người đọc có quyền tìm ở thị trường không chỉ sách nay mà cả
sách xưa, sách nước ngoài và sách trong nước, mua trực tiếp hoặc giao dịch qua
internet… Bằng sự “khôn ngoan” riêng có, kinh tế thị trường luôn thu hút các
thành quả mới nhất của công nghệ kĩ thuật cao, từ đó, tạo tiền đề cho sự phát
triển của văn hóa đại chúng. Với sự nhạy bén trong việc nắm bắt thị hiếu của
người đọc hiện đại, đề cao chức năng giải trí, phát tán nhanh chóng qua
internet và truyền thông hiện đại, văn học đại chúng có khả năng cuốn hút lượng
độc giả lớn. Cơn bão tiểu thuyết ngôn tình và truyện tranh trong thời gian qua ở
Việt Nam cho thấy rất rõ quyền lực của văn hóa đại chúng trong bối cảnh văn hóa
đương đại5. Xuất phát từ khu vực ngoại biên, trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, văn
học đại chúng ngày càng lấn lướt thị phần văn học tinh hoa. Tuy không phải là
nhân tố quyết định sự phát triển lịch sử văn học, nhưng rõ ràng, kinh tế thị
trường và sự phát triển của thị trường văn học cho phép văn học đương đại mở ra
những sân chơi mới nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người đọc. Trong thời đại
4.0, văn học đầu thế kỉ XXI càng có điều kiện mở rộng dư địa sinh tồn, phát triển.
Dĩ nhiên, kinh tế thị trường và sự bành trướng của văn hóa đại chúng có những
tác động tiêu cực vì nó là nhân tố có khả năng làm suy giảm chất lượng của nền
văn học. Đây là một thực tế đòi hỏi cần phải có chiến lược phát triển văn hóa
và văn học hợp lí nhằm giải quyết hài hòa hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế của
văn học trong bối cảnh lịch sử văn hóa mới.
Mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế
Sự phát triển của văn học hiện đại ở Việt Nam gắn liền với ba
cuộc giao lưu văn hóa lớn trên hành trình tiến ra thế giới. Từ cuối thế kỉ XIX
đến 1945, văn học Việt Nam tiến ra thế giới nhưng mới ở mức bộ phận (tiếp xúc với
văn hóa, văn học Pháp và Phương Tây). Từ 1945 đến 1985, là quá trình tiến ra thế
giới trong thế đối lập: miền Bắc giao lưu với văn hóa các nước xã hội chủ
nghĩa, miền Nam 1954-1975 tiếp xúc với văn hóa Âu – Mĩ. Phải từ 1986 đến nay,
Việt Nam mới thực sự giao lưu với văn hóa và văn học thế giới trong tính toàn
thể. So với hai cuộc giao lưu văn hóa trước, cuộc giao lưu văn hóa lần thứ ba
này rộng hơn về quy mô, nhanh hơn về tốc độ và phong phú hơn về phương cách tiếp
thu và tiếp biến. Nhờ sự thay đổi to lớn trên bản đồ chính trị và kinh tế thế
giới, sự phát triển của internet, công nghệ kĩ thuật cao và thị trường văn hóa
toàn cầu, hầu như tất cả các trào lưu văn hóa, tư tưởng của nhân loại đều ảnh
hưởng đến Việt Nam qua dịch thuật và trao đổi văn hóa. Bên cạnh việc chọn in
các tác phẩm văn học kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế giới, đặc biệt là
những sáng tác hiện đại của F.Kafka, M.Proust, M.Kundera, Mạc Ngôn,
H.Murakami,… nhiều nhà xuất bản còn chọn in cả văn học đại chúng, nhất là dạng
sách bán chạy (best seller) để thu hút người đọc. Không chỉ dịch sáng tác, đời
sống văn học cũng sôi động hơn nhờ việc dịch, giới thiệu nhiều thành tựu nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn hiện đại, trong đó một số lí thuyết đã đi vào
thực tiễn nghiên cứu văn học Việt Nam như thi pháp học, tự sự học, phân tâm học,
cấu trúc luận, nữ quyền luận, hậu hiện đại, đa hệ thống, kí hiệu học, hậu thực
dân, phê bình sinh thái… Với sự có mặt của các lí thuyết hiện đại, sự thay đổi
trong diễn ngôn lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ 1986 đến nay là hết sức nổi
bật.
Giao lưu văn hóa đương đại đã góp phần phá vỡ thế khép kín, mở
ra những viễn cảnh mới cho sáng tác văn học, giúp nhà văn và người đọc nhận thấy
rõ hơn văn học Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ văn học thế giới. Đặc biệt, sau
sự kiện Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu (19/11/1997), về cơ bản, giao lưu
văn hóa với thế giới đã được khai thông triệt để. Việc mở ra những xa lộ thông
tin mới nhờ interrnet và truyền thông hiện đại đã góp phần tạo nên sự thay đổi
sâu sắc về quy mô, chất lượng của giao lưu văn hóa so với các giai đoạn lịch sử
trước đó. Đây cũng là con đường hiệu quả để văn học Việt Nam nhanh chóng bắt kịp
những chuyển động của văn học thế giới, đưa văn học phát triển mạnh mẽ theo hướng
hiện đại. Đỗ Lai Thúy có lý khi hình dung quá trình tiếp nhận và sự hiện diện của
các ảnh hưởng tư tưởng văn hóa này này như một gối tiếp [12, tr.99]. Tuy
nhiên, từ góc nhìn khác, có thể thấy sự tồn tại cũ/ mới trong văn học và văn
hóa Việt Nam cũng là một biểu hiện của tính cộng sinh văn hóa. Người
Việt sẵn lòng đón nhận cái mới nhưng ít khi đẩy sự việc đến mức cực đoan, bởi
thế sự đan cài cũ/ mới là hiện tượng phổ biến. Trong sự cộng sinh ấy, ít nhất
có ba khía cạnh cần quan tâm: 1/ cái cũ kéo dài như một bảo thủ văn hóa; 2/ cái
mới xâm nhập vào Việt Nam nhưng khó tồn tại và nhanh chóng biến mất nếu không
vượt qua được bộ lọc văn hóa bản địa; 3/ cái mới và cái cũ kết hợp các ưu thế để
tạo ra tiếp biến mang tính sáng tạo. Khía cạnh thứ ba là con đường hiệu quả nhất
trong giao lưu văn hóa. Tự lực văn đoàn hay Thơ mới trước đây là những bằng chứng
sinh động cho sự hòa hợp sau những xung đột ban đầu. Chính trong giao lưu văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc không bị biến mất mà trái lại, trở nên phong phú
hơn bởi các dưỡng chất văn hóa mà nó hấp thụ. Đây không chỉ là câu chuyện của
quá khứ hay hiện tại mà còn là của tương lai, khi mà giao lưu văn hóa quốc tế
ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
2. Sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại
Đổi mới tư duy nghệ thuật và sự đa dạng về khuynh hướng
Trước hết, những cú hích lịch sử, văn hóa xã hội không tác động
đến văn học một cách cơ giới, trực tiếp mà có ý nghĩa như những tiền đề tạo nên
hệ sinh thái tinh thần xã hội, từ đó thẩm thấu, kích hoạt mọi sáng tạo, tìm tòi
của chủ thể, tạo nên sự thay đổi mang tính bước ngoặt: chuyển từ mô hình độc
thoại sang mô hình đối thoại. Đối thoại trở thành nguyên tắc quan trọng nhất
trong đời sống tinh thần hiện đại. Trần Đình Sử gọi đó là bước chuyển từ văn học
mang tính sử thi sang văn học “phi sử thi”.
Có thể chia diễn trình văn học Đổi mới thành hai chặng: 1/ từ
1986 đến giữa những năm 90; 2/ từ giữa những năm 90 đến nay. Nếu ở chặng đầu, sự
đổi mới tập trung nhiều hơn ở bình diện thay đổi nhận thức và phương cách tư
duy thì ở chặng sau, nỗ lực đổi mới tập trung nhiều hơn ở bình diện lối viết và
ý thức kiến tạo diễn ngôn trên cơ sở ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện
đại.
Với cái nhìn như thế, văn học đương đại là sản phẩm trực tiếp
của việc mài sắc ý thức cá nhân, giải phóng cá tính sáng tạo và tăng cường tính
đối thoại. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lưu Quang
Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Trọng Tạo… đều thể hiện tinh thần đối thoại và trách nhiệm của nhà văn
trước thời cuộc. Trong tác phẩm của họ, người đọc nhận thấy những truy vấn ráo
riết về các vấn đề nóng bỏng của đời sống, ý thức khám phá chiều sâu bản ngã
con người hiện đại. Họ không còn bị gò ép theo một phương pháp định sẵn mà biết
cách khám đời sống thông qua trải nghiệm của cá nhân. Theo đó, hiện thực không
còn hiện lên như một khách thể “biết trước” mà là một thực tại bất khả tín,
chưa hoàn kết. Trung tâm của hiện thực là con người, nhưng đó không phải là con
người được mặc định về giá trị mà là một ẩn số phức tạp, đầy bí mật. Trả lời phỏng
vấn Báo Văn nghệ đầu xuân 1986, Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Văn học
và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm
văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đường sống con người
ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”. Trong cái nhìn của Nguyễn
Minh Châu và nhiều nhà văn đương đại, viết là quá trình thám hiểm đời sống và
phiêu lưu để khám phá “cái tôi ẩn giấu”7. Đó không phải là cái tôi cá nhân như trong
văn học 1932-1945 hay cái tôi cộng đồng trong văn học 1945-1975 mà là cái
tôi bản thể với những câu hỏi mang tính mĩ học: Tôi là ai? Tôi từ
đâu đến?…. Với cái nhìn giải thiêng, hoài nghi, văn học đương đại ít tụng
ca mà nghiêng nhiều về việc miêu tả chấn thương tinh thần và nỗi cô đơn của con
người. Nó không hẳn là sự thiên lệch tùy hứng mà là chủ âm mang tính cảnh báo.
Cũng bởi thế, cảm thức hiện sinh xuất hiện nhiều trong văn học đương đại. Nhà
văn không còn nhìn cuộc sống và các giá trị bằng cái nhìn nhị phân mà nhìn nó
trong các tương quan đầy biến động.
Sự chuyển đổi mối quan tâm của nhà văn và người đọc về các vấn
đề xã hội, nhân sinh cùng với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã giúp cho
văn học đương đại vượt qua những giới hạn chật hẹp của chủ nghĩa đề tài, mở rộng
tối đa biên độ miêu tả cuộc sống trong tính đa chiều. Bên cạnh các đề tài quen
thuộc như nông thôn, chiến tranh, lịch sử,… là những đề tài mới nảy sinh trong
thực tiễn đổi mới như đô thị hóa, sinh thái, đời sống bản năng, phái tính, sự
tha hóa của con người… Điều đáng nói là dù viết về đề tài nào, các nhà văn đều
cố gắng nhìn nhận và cắt nghĩa nó từ tinh thần nhân bản, nhân văn. Ngay cả đề
tài lịch sử cũng thể hiện rõ sự thay đổi cơ bản này. Viết tiểu thuyết lịch sử,
nhiều nhà văn không dừng lại ở lối viết biên niên truyền thống mà tập trung
trình hiện một thứ lịch sử gắn liền với cảm nhận cá nhân. Bởi thế, văn bản nghệ
thuật của nhà văn thực chất là một phương cách đối thoại, ôn cố tri tân, dùng
xưa nói nay. Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn
Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn
Mộng Giác), Con ngựa Mãn Châu (Nguyễn Quang Thân), Từ Dụ Thái hậu (Trần
Thùy Mai) chính là những tác phẩm tiêu biểu cho sự khám phá mới mẻ của nhà văn
về lịch sử.
Bên cạnh việc mở rộng đề tài và gia tăng tính đối thoại, văn
học đương đại hết sức đa dạng về bút pháp nghệ thuật. Tuy vẫn còn một số cây
bút bị giới hạn bởi bút pháp cổ điển và lối tự sự truyền thống nhưng càng ngày
càng có nhiều cây bút sử dụng bút pháp huyền ảo, tượng trưng nhằm lạ hóa cấu
trúc nghệ thuật. Có thể nhìn thấy dấu ấn kĩ thuật tự sự hiện đại phương Tây
trong sáng tác của những cây bút ưa tìm tòi như Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương,
Thuận, Nguyễn Việt Hà, Đoàn Minh Phượng, Đặng Thân… Khi nói về sự đổi mới tư
duy nghệ thuật, đáng chú ý là ảnh hưởng của “tiếng gọi trò chơi” trong văn học
đương đại. Với những cây bút giàu tinh thần tiền vệ, chơi được hiểu
như quá trình kiến tạo thế giới mà không bị trói buộc bởi lối kể tuyến tính và
logic nhân quả. Sự chơi (play) của nhà văn hiển thị rõ trong bốn cấp độ chính:
chơi thể loại, chơi nhân vật, chơi cấu trúc và chơi ngôn ngữ. Trong cuộc “giỡn
chơi” ấy (chữ của Bùi Giáng), nhà văn có thể xây dựng những mê lộ nghệ thuật chứa
đầy các khoảng trống. Nhà văn không làm thay người đọc, việc lấp đầy những khoảng
trống gợi lên từ văn bản chính là công việc của chủ thể tiếp nhận với tư cách
là kẻ đồng sáng tạo.
Tồn tại trong một không gian mở và tự thân mang tính mở, văn
học đương đại là một thực thể đa dạng về khuynh hướng. Nhìn từ phương diện nội
dung và cảm hứng, có thể kể đến khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng hiện
sinh, khuynh hướng lịch sử, khuynh hướng sinh thái, khuynh hướng nữ quyền,…
Nhìn từ phương thức tư duy và lối viết có thể thấy khuynh hướng đổi mới trên nền
truyền thống và khuynh hướng cách tân theo hướng hiện đại phương Tây. Nhìn từ bố
cục của nền văn học sẽ thấy hai bộ phận: văn học tinh hoa và văn học đại chúng
(thị trường), trung tâm và ngoại vi. Trong mỗi bộ phận ấy sẽ có các khuynh hướng
khác nhau. Dù trong thực tế, ranh giới giữa các khuynh hướng không phải lúc nào
cũng rạch ròi mà nhiều khi thâm nhập lẫn nhau, nhưng sự đa dạng về khuynh hướng
và sự chồng lấn về không gian văn học cho thấy rõ hơn sự phong phú của văn học
đương đại. Sự sôi động này càng được nhân lên khi có sự chuyển kênh linh hoạt
giữa văn học viết (truyền thống) và văn học mạng. Thị trường văn học và báo chí
cũng như ưu thế của truyền thông hiện đại đã góp phần tạo nên sự tương tác tức
thời giữa người viết và người đọc, làm cho đời sống văn học trở nên sôi động
hơn. Từ phía tiếp nhận, nếu người đọc cần nhu cầu giải trí, họ sẽ tìm đến văn học
đại chúng, còn nếu người đọc thích suy tư, tìm kiếm những giá trị tư tưởng, văn
hóa và thẩm mĩ họ sẽ tìm đến văn học tinh hoa. Đây cũng là đặc tính mở và động của
văn hóa và văn học đương đại.
Đời sống thể loại
Quan sát đời sống thể loại văn học đương đại, dễ nhận thấy có
ba biến động lớn: sự suy giảm vị thế của thơ, kịch; sự lên ngôi của tiểu thuyết
và một số thể loại “ngoại vi”; sự xâm nhập và xóa mờ ranh giới thể loại.
Từ những năm tiền Đổi mới cho đến cuối thập kỉ 90, thơ có sức
tác động lớn nhờ vào sự cộng hưởng giữa sáng tạo và tiếp nhận khi các nhà thơ
trực diện nói về thế sự và những đảo lộn các giá trị nhân sinh. Người đọc chia
sẻ với những “tự thú” chân thành của nhà thơ qua sáng tác của Nguyễn Duy, Thanh
Thảo, Hữu Thỉnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Trọng Tạo, Ý Nhi, Vũ Quần Phương… hoặc
tìm đến những tiếng nói cách tân, có khả năng gây hấn với mĩ cảm truyền thống
như thơ Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình
Phương… và thơ của thế hệ trẻ hơn như Vi Thùy Linh, Nguyễn Quyến, Ly Hoàng Ly…
Đời sống thơ ca đương đại cũng chứng kiến sự tái xuất của những cây bút giàu
cách tân từng phải nằm yên trong “bóng tối” như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng
Đình Hưng… Trong sáng tác của những cây bút này, ý thức “lạ hóa” và khám phát
chiều sâu bản ngã/ tâm linh được chú trọng. Vào năm 1992, Sự mất ngủ của lửa (Giải
thưởng Hội Nhà văn 1993) của Nguyễn Quang Thiều là tập thơ gây được ấn tượng và
có khả năng thách thức mĩ cảm người đọc. Một số nhà thơ như Irasara, Mai Văn Phấn,
Trương Đăng Dung cũng có những đóng góp đáng chú ý. Nếu Inrasara xuất phát từ
nguồn văn hóa Chăm để cập bờ hậu hiện đại, Mai Văn Phấn chú ý gia tăng chất mờ
hóa tượng trưng thì Trương Đăng Dung là niềm khắc khoải của một cái tôi bất an
trong một thế giới bất toàn. Những năm đầu thế kỉ XXI cũng xuất hiện một số hiện
tượng đáng chú ý nhằm tạo sự gắn kết với mĩ cảm công chúng nghệ thuật đương đại
như thơ sắp đặt, trình diễn, tân hình thức, thơ 1-2-3…
Song, trong cảm nhận chung của người đọc, thơ đương đại tuy dồi
dào về lượng nhưng độ kết tinh chưa cao. Hiện tượng “nền cao” nhưng “thiếu đỉnh”
đòi hỏi thơ đương đại cần đến sự đổi mới quyết liệt và ráo riết hơn nữa cả ở tầng
quan niệm và tầng thực hành nghệ thuật để lấy lại vị thế vốn có8. Dường như việc
quá quanh quẩn với cái tôi nhỏ hẹp, hoặc chưa tạo ra những đột phá mang tính mĩ
học mà sức hấp dẫn của thơ bị giảm dần trong thực đơn tinh thần đương đại.
Văn học kịch cũng diễn ra tình trạng sút giảm cả về số lượng
lẫn chất lượng. Ngoại trừ sự chói sáng của Lưu Quang Vũ những năm đầu đổi mới với
những kịch phẩm xuất sắc như Hoa cúc xanh trên đầm lầy, Hồn Trương Ba
da hàng thịt, sáng tác kịch đương đại không tạo được nhiều dấu ấn. Chính kịch
ít được quan tâm. Mối quan tâm của người đọc/ xem đương đại gần như chuyển sang
thể hài kịch, nhưng chất lượng các kịch bản văn học hài không cao, chủ yếu phục
vụ nhu cầu giải trí của khán giả.
So với thơ và kịch, đời sống văn xuôi lại hết sức sôi động với
sự xuất hiện của nhiều cây bút có khả năng tạo sóng, trong đó có những tác phẩm
được dịch ra nhiều thứ tiếng và được dư luận quốc tế đánh giá cao.
Trước hết, truyện ngắn vẫn giữ được sự năng sản và vị thế
quan trọng bởi ưu thế của nó trong việc chiếm lĩnh và cắt nghĩa đời sống một
cách nhạy bén. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy,… đã
tạo được dấu ấn sâu đậm trong bạn đọc. Hàng năm, các cuộc thi truyện ngắn vẫn
được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau. Gần đây nhất, cuộc thi truyện ngắn Lửa
mới (2018-2019) do Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tổ chức đã thu hút được lượng
người viết đông đảo. Thông qua cuộc thi này, một số tác giả trẻ đã trình làng một
số tác phẩm đáng chú ý. Tuy nhiên, truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XXI vẫn chưa
xuất hiện những tác phẩm chói sáng đủ sức khiêu khích mĩ học thể loại như Nguyễn
Huy Thiệp đã từng làm được vào những năm đầu Đổi mới.
Văn học đương đại đặc biệt chứng kiến sự phát triển ấn tượng
của tiểu thuyết. Đúng như M.Bakhtin và M.Kundera đã luận giải, thời hiện đại là
thời của tiểu thuyết. Hơn bất cứ thể loại nào khác, tiểu thuyết là thể loại thể
hiện rõ nhất tính đối thoại và khả năng miêu tả chiều sâu thực tại. Trong tiểu
thuyết đương đại, tính đối thoại và khả năng tổng hợp của nó đã tạo ra những khả
thể đáng kinh ngạc: về tư duy nghệ thuật, tiểu thuyết biểu đạt đời sống bằng
cái nhìn suồng sã phi sử thi; về nguyên tắc xây dựng nhân vật, tiểu thuyết đương
đại từ chối nguyên tắc điển hình hóa; về kết cấu, tiểu thuyết đã thoát khỏi lối
kể tuyến tính để tạo nên kết cấu phân mảnh, lắp ghép, đồng hiện; về ngôn ngữ,
tiểu thuyết đương đại là một bản giao hưởng nhiều bè, tính liên văn bản và xóa
mờ ranh giới thể loại trở nên nổi bật. Trong tiểu thuyết đương đại, cái nhìn
hoài nghi và giễu nhại đặc biệt được quan tâm. Tất cả những tiềm năng thể loại
này đã được nhiều cây bút như Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt
Hà, Nguyễn Bình Phương, Đặng Thân… khai thác một cách hiệu quả. Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh được coi là thành tựu quan trọng trong việc đổi mới
tư duy và tổ chức tự sự. Tại đó, tính đối thoại xuyên chảy trong mạch ngầm văn
bản và kĩ thuật dòng ý thức được sử dụng hết sức nhuần nhuyễn với hình thức
truyện lồng truyện. Nguyễn Bình Phương xác lập được được lối riêng khi tập
trung miêu tả chiều sâu vô thức, tạo dựng chiến lược tự sự độc đáo qua hàng loạt
tiểu thuyết như Thoạt kỳ thủy, Trí nhớ suy tàn, Ngồi…. Ảnh hưởng của lối
viết hiện đại và hậu hiện đại đã kích hoạt những chuyến phiêu lưu trong sáng
tác của Nguyễn Việt Hà (Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn), Hồ Anh Thái (Đức Phật
nàng Savitri và tôi, Dấu về gió xóa), Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân vật, Giã biệt
bóng tối), Thuận (Chinatown, Paris 11 tháng 8, T mất tích ), Đặng Thân (3.3.3.9
[những mảnh hồn trần])… Trong số những tiểu thuyết mang tính phá cách đầu thế kỉ
XXI, tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân là một
tác phẩm gây hiệu ứng thẩm mĩ mạnh bởi lối viết khác hẳn so với tiểu thuyết Việt
Nam trước đó.
Trong tiểu thuyết đương đại, kiến trúc liên văn bản
(architextuality) và giọng vô âm sắc được nhiều nhà văn chú ý bởi nó có khả
năng giúp nhà văn biểu đạt thực tại một cách hiệu quả. Thậm chí, nhiều nhà văn
cố ý khước từ chất trữ tình để gia tăng tính lạnh lùng và màu sắc giễu nhại
trong giọng điệu. Cũng bởi lối cấu trúc phi truyền thống, văn bản chồng/ ghép/
nối văn bản, pha trộn các phong cách ngôn ngữ khác nhau mà tiểu thuyết đương đại
trở thành một thách đố với người đọc truyền thống. Trong bối cảnh toàn cầu hóa,
nhiều cây bút người Việt ở nước ngoài cũng có nhiều đóng góp quan trọng để tăng
cường sự đa dạng cho văn học Việt Nam. Màu sắc liên văn hóa trong các tác phẩm
của họ hiện lên khá đậm nét như trường hợp Lê Thị Thấm Vân (Xứ nắng, Âm vọng,
Bóng gẫy của thần tích), Thuận ( Paris 11 tháng 8, T mất tích), Lê Minh Hà
(Gió tự thời khuất mặt),…
Những chuyển động của văn học Việt Nam, cả ở quốc nội và hải
ngoại mà chúng tôi điểm xuyết trên đây tuy chưa thật đầy đủ nhưng đã phần nào
cho thấy ý thức cách tân nghệ thuật là ý thức thường trực trong các cây bút
giàu tinh thần tiền vệ. Nó đòi hỏi sự dấn thân và sự khiêu khích thói quen để
xác lập diễn ngôn nghệ thuật mới. Bên cạnh những cây bút thuộc thế hệ 5X, 6X đã
xác lập vị trí vững chắc trên văn đàn, một số cây bút thuộc thế hệ 7X, 8X cũng
bắt đầu tạo được dấu ấn trong đời sống văn học như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích
Thúy, Phong Điệp, Phạm Duy Nghĩa, Uông Triều, Phùng Văn Khai…
Ở bộ phận văn học đại chúng, các thể tiểu thuyết đen, tiểu
thuyết trinh thám, tiểu thuyết ngôn tình, kiếm hiệp, dã sử, truyện tranh, tiểu
thuyết fantasy… đặc biệt phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của loại hình văn học
này là hoàn toàn dễ hiểu được vì nó nằm trong logic phát triển chung của văn
hóa đại chúng (popular culture). Sự cuốn hút của văn học đại chúng là rất lớn bởi
các nhà văn nhanh chóng biết cách đáp ứng thị hiếu, nhu cầu giải trí của người
đọc đương đại. Thậm chí một số cây bút trẻ gây sốt bởi sách của họ đạt lượng xuất
bản đáng kinh ngạc như trường hợp Anh Khang, Gào, Nguyễn Phong Việt, Hamlet
Trương,… Mặc dù đúng như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét, về bản chất, văn học đại
chúng tồn tại theo “quy luật sớm nở tối tàn”, nhưng không thể phủ nhận sự xuất
hiện của nó đã góp phần mở rộng thị phần của văn học trong bối cảnh có nhiều loại
hình giải trí mới mẻ và hấp dẫn khác xuất hiện. Để mở rộng ảnh hưởng của văn học
đến nhiều loại độc giả khác nhau, một số nhà văn đã bắt đầu biết dung hòa hợp
lí mối quan hệ giữa văn học tinh hoa và văn học đại chúng mà Nguyễn Nhật Ánh,
Nguyễn Ngoc Tư là những trường hợp điển hình.
Bối cảnh văn hóa đương đại cũng tạo điều kiện phát triển mạnh
mẽ cho loại hình văn học phi hư cấu. Toàn cầu hóa đã kéo theo những đợt sóng di
dân và chuyển dịch xã hội lớn. Trong những chuyển dịch ấy, ai cũng có thể trở
thành người viết và ai cũng có thể trở thành người đọc. Đó là nguyên nhân sâu
xa dẫn tới sự bùng nổ của tự truyện, hồi kí, du kí, bút kí, tùy bút, tản văn
trong văn học đương đại. Nhờ môi trường dân chủ và sự hiện hữu của nhiều tiếng
nói khác nhau mà người đọc được thưởng ngoạn những tác phẩm phi hư cấu độc đáo
như Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Lê Vân yêu và sống của
Lê Vân (Bùi Mai Hạnh ghi),… Một số nhật kí, hồi kí về chiến tranh cách mạng
cũng tạo được sức hấp dẫn bởi qua đó người đọc được tiếp xúc với những tư liệu
sống hết sức quý báu. Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Vương Trí Nhàn biên tập), Biên
bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh là những tác phẩm tiêu biểu
cho thể văn xuôi phi hư cấu về đề tài chiến tranh trong văn học đương đại. Một
số sáng tác lại có sự kết hợp, pha trộn hiệu quả giữa tính tự truyện và chất tiểu
thuyết như Truyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Thượng Đế thì cười (Nguyễn
Khải), Ba người khác (Tô Hoài)… Đây cũng là biểu hiện sinh động của
hiện tượng xóa mờ ranh giới thể loại như một đặc điểm nổi bật trong văn học đổi
mới ở Việt Nam.
Tựu trung lại, sự phong phú trong đời sống thể loại văn học
đương đại cho thấy đến nay giới cầm bút Việt Nam không còn quá xa lạ với những
kĩ thuật tân kì, hiện đại của thế giới. Tất nhiên, không phải mọi cách tân đều
mang lại thành công mà có cả những thử nghiệm dở dang. Nhưng cũng cần coi sự
thành bại trong nghệ thuật là bình thường bởi từ tiếp thu đến tiếp biến là cả một
khoảng cách, từ ý thức đổi mới đến kết tinh là cả một quãng đường dài. Không thể
có kết tinh nếu không đi qua những thử nghiệm, dò tìm. Đó cũng chính là biện chứng
của phát triển.
Ngôn ngữ văn học như là những kí hiệu văn hóa đa tầng
Một trong những thay đổi quan trọng của văn học đương đại là
đổi mới nhãn quan ngôn ngữ nghệ thuật. Tinh thần của Ludwig Wittgenstein trong
lí thuyết “trò chơi ngôn ngữ”, của Martin Heidegger trong quan niệm “ngôn ngữ
là ngôi nhà của hữu thể” hay lí thuyết của Mikhail Bakhtin về tiểu thuyết đa
thanh và tính chất tự phê phán của ngôn ngữ đều ít nhiều “ứng nghiệm” với ngôn
ngữ văn học đương đại. Văn bản văn học đương đại không còn ưu tiên sự “trong suốt”
mà chồng xếp nhiều phong cách ngôn ngữ, đề cao tính liên văn bản. Những thực
hành nghệ thuật táo bạo trong văn học đương đại có ý nghĩa như là những nỗ lực
không mệt mỏi nhằm mở rộng hiệu năng và khuếch tán tính đa trị của diễn ngôn
văn học thông qua sự phá cách và gây hấn truyền thống.
Có thể hình dung ngôn ngữ văn học đương đại như các chiều của
một chiếc quạt mở: bên này là ngôn ngữ thông tục, bên kia là ngôn ngữ thuần khiết,
bên này là ngôn ngữ tiêu dùng, bên kia là ngôn ngữ tự vị, bên này là ngôn ngữ
trong suốt, bên kia là ngôn ngữ đa trị, mờ hóa, bên này là ngôn ngữ suồng sã,
bên kia là ngôn ngữ kinh sách… Vừa tồn tại như những đối cực, nhưng nhiều khi,
các kênh ngôn ngữ này thâm nhập vào nhau trong sự kết hợp có chủ ý. Đặc biệt,
trong những sáng tác chịu ảnh hưởng lối viết hiện đại và hậu hiện đại, các nhà
văn luôn có ý thức tạo ra sự “hôn phối thể loại” và xóa mờ các phong cách ngôn
ngữ. Thơ Trần Dần, Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh, Dương Tường hay văn xuôi Nguyễn
Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Thuận, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Quang Lập, Đặng Thân,… rất tiêu biểu cho những kiểu kết hợp ngẫu hứng, bất
ngờ. Nếu trong văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, tính liên băn bản hiện lên qua cách
xen cài thể loại, sự kếp hợp giữa các mảng đối thoại “gây sốc”, cách nói “phũ”
với các phiến đoạn đậm chất trữ tình thì đến Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Thuận…
tính chất nhại trong phong cách ngôn ngữ trở nên hết sức nổi bật. Chẳng hạn
trong các tiểu thuyết Paris 11tháng 8 hay Chinatowwn của
Thuận, nhại được sử dụng hết sức hiệu quả. Sau tập Ma net (2008), vào
năm 2012, Đặng Thân cho ra mắt 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]. Tác phẩm
này đẩy những phá cách được khởi đi từ Nguyễn Huy Thiệp tiến xa hơn về phía hậu
hiện đại. Một số nhà phê bình coi đây là một nỗ lực của tiểu thuyết thời kì hậu
– Đổi mới. Điều quan trọng nhất là với tiểu thuyết này, Đặng Thân đã triệt để
khước từ lối viết cũ để tạo nên hiệu ứng liên văn bản trên cơ sở chắp vá các
phong cách ngôn ngữ khác nhau nhằm tạo nên sắc thái giễu nhại xuyên suốt tác phẩm.
Nhại cũng là biểu hiện rõ nét của tính chất phê phán và tự
phê phán của ngôn ngữ văn học đương đại, bởi đó là thứ ngôn ngữ gắn liền với
cái nhìn hoài nghi và giải thiêng trong nghệ thuật hậu hiện đại. Thực ra, với
tư cách là một thủ pháp nghệ thuật mang tính cục bộ, nhại đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử văn học, đặc biệt ở folklore. Nhưng nếu nhìn nó như một nguyên tắc
kiến tạo lời văn thì phải đến (hậu) hiện đại, nhại mới trở thành một đặc tính.
Nhại được sử dụng trong nhiều cấp độ: nhại thể loại, nhại ngôn ngữ, nhại giọng
điệu… Việc lựa chọn phong cách ngôn ngữ nào hay cấp độ giễu nhại nào là tùy thuộc
vào người viết miễn là những thủ pháp nghệ thuật ấy có khả năng giúp họ biểu đạt
tối đa tính sáng tạo và chiến lược đối thoại hiệu quả.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện tượng đa ngữ cũng xuất hiện
nhiều trong văn học đương đại. Phân tích những “tiếng Tây”, đặc biệt là tên các
nhãn rượu, thuốc lá hay các không gian sinh hoạt trong Cơ hội của Chúa (Nguyễn
Việt Hà), Hoàng Ngọc Hiến cho rằng, Nguyễn Việt Hà xứng danh là nhà văn đô thị
trong văn học đương đại sau những mở đường của Vũ Trọng Phụng trước 1945 hay
không còn “nhà quê” như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh… trong giai
đoạn đầu Đổi mới13. Mặt khác, khi tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
thì hiện tượng đa ngữ trong văn học càng nổi rõ. Điều đó có thể nhìn thấy trong
sáng tác của nhiều nhà văn Việt Nam hải ngoại hoặc các cây bút trong nước có khả
năng viết song ngữ. Theo đó, tính đa dạng văn hóa và tính liên văn hóa được thể
hiện đậm nét trong ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn này.
Việc mở rộng tính dân chủ nghệ thuật cũng tạo điều kiện cho
nhiều nhà văn, trong đó có không ít nhà văn nữ vượt qua các cấm kị truyền thống
để miêu tả các cảm giác mạnh, đặc biệt là cảm giác về thân xác, tính dục (đồng
giới và khác giới). Thuận, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu… là những cây bút không còn đặt
lên hàng ưu tiên việc bảo lưu “thiên tính” trong sáng tác của mình. Trong văn
xuôi của các cây bút nữ có xu hướng “nổi loạn”, có hai vấn đề đáng chú ý: thứ
nhất, cái nhìn bình đẳng với nam quyền; thứ hai, sự tự do trong miêu tả, bộc lộ.
Tuy nhiên, cũng không hiếm trường hợp sử dụng ngôn ngữ thân xác quá đà đã gây
phản ứng cho người đọc. Vấn đề nằm ở chỗ, ngôn ngữ thân xác/ tính dục chỉ thực
sự đạt tới tầm mỹ học khi nó biểu đạt một ý thức sâu sắc về đời sống chứ không
chỉ dừng lại như một chiêu thức câu khách thuần túy14. Đây là một thách thức
không nhỏ đặt ra cho các cây bút đương đại khi sử dụng ngón chơi này.
3. Thay lời kết:
Tính từ cuối thể kỷ XIX đến nay, tiến trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam đã đi qua quãng đường dài hơn một thế kỷ. Đó là cả một quá trình vừa
có tiệm tiến và đột biến, vừa có biến mất và sinh thành. Trước một thực thể
luôn vận động và biến đổi như văn học đương đại, rất khó có thể đưa ra một khái
quát toàn diện tức thời. Bản thân đồ thị văn học đương đại cũng không hiện lên
như một đường thẳng mà gập ghềnh, trồi sụt ở những thời điểm khác nhau. Trong
diễn ngôn nghệ thuật đương đại, mô hình đại tự sự đã dần bị thay thế bởi sự lên
tiếng các tiểu tự sự và ý thức xóa mờ lằn ranh thể loại. Sau những thành tựu nổi
bật từ 1986 đến cuối thế kỉ XX, trong vài thập niên gần đây, đời sống văn học vừa
có đổi mới và bứt phá, vừa có cả dấu hiệu chững lại ở một số thể loại. Thị phần
văn học tinh hoa có xu hướng bị thu hẹp, ngược chiều với sự phát triển mạnh mẽ
của văn học đại chúng. Một số trào lưu nghệ thuật và lí thuyết văn học tuy được
nhanh chóng giới thiệu nhưng còn thiếu tính hệ thống, việc tiếp thu, vận dụng
còn vội vã, chưa đủ sức tạo đột biến. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, văn học đương đại
đã tạo được sự thay đổi mang tính bước ngoặt cả về ý thức sáng tạo lẫn thi pháp
nghệ thuật. Với những thành tựu đã có, văn học Việt Nam đương đại không còn đứng
bên lề văn học thế giới mà đã hiện lên trong tư cách của một nhân vật tham dự.
Và trong tư cách tham dự, dẫu còn rất khiêm tốn, song văn học Việt Nam đã bước
đầu nhập vào lộ trình chung của văn học nhân loại.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Minh Châu (1978), “Viết về chiến tranh”, Tạp
chí Văn nghệ quân đội, tháng 11.
[2] Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một
giai đoạn văn nghệ minh họa”, Báo Văn nghệ số 49&50 ngày
05/12.
[3] Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên, 2021), Văn học đại chúng
trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4] “Hai ngày đáng ghi nhớ mãi” (Tường thuật cuộc gặp gỡ
của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ trong hai ngày
6 và 7 tháng 10 năm 1987), Báo Văn nghệ, số 42, ngày 17/10/1987.
[5] Hoàng Ngọc Hiến (1979), “Về một đặc điểm của văn học và
nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua”, Báo Văn nghệ số 23, ngày
09/6.
[6] Sương Nguyệt Minh (2014), Miền hoang, Nxb. Trẻ, Hà Nội.
[7] Nguyễn Bình Phương (2014), Mình và họ, Nxb. Trẻ, Hà
Nội (Xuất bản lần đầu vởi nhan đề Xe lên xe xuống, Diễn đàn thế kỷ,
California, 2011).
[8] Đặng Thân (2012), 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần], Nxb.
Hội Nhà văn, Hà Nội.
[9] Đoàn Cầm Thi (2016), Đọc tôi trên bến lạ, Nxb. Trẻ –
Nhã Nam, Hà Nội.
[10] Nguyễn Huy Thiệp (2016), “Tôi viết Tướng về hưu”,
in trong Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên, 2016), Văn học Việt Nam trong bối cảnh
đổi mới và hội nhập quốc tế, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[11] Thuận (2006), T mất tích, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
[12] Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác,
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
[13] Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường vào văn học,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[14] Xin xem: Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, Tham luận Hội thảo quốc tế Văn
học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu khu vực và quốc tế (Viện Văn học –
Harvard Yenching Institute tổ chức tại Hà Nội ngày 3- 4/11/2006; In lại
trong Thông báo Khoa học ĐHSPHN 2/ 2014 và Văn học và giới nữ.
Nxb Thế giới 2016).
________________
1 Trên thực tế, ở Việt Nam, chiến
tranh chưa hoàn toàn khép lại vào năm 1975. Ngay sau thời điểm 30/4/1975, Việt
Nam vẫn phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh biên giới. Hai cuộc chiến này,
trong một thời gian khá dài không được đưa vào sách giáo khoa. Sự căng thẳng của
cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc lên cao tới mức Chủ tịch Tôn Đức Thắng phải
ban bố lệnh tổng động viên vào sáng ngày 05/3/1979 (cũng là ngày Trung Quốc
tuyên bố rút quân). Dù ngắn ngủi, nhưng mức độ khốc liệt của hai cuộc chiến
tranh biên giới không hề thua kém các cuộc chiến tranh trước đó. Gần đây, đã bắt
đầu có một số tác phẩm viết về đề tài này gây được sự chú ý của dư luận
là Mình và họ – 2014 (Diễn đàn thế kỷ xuất bản lần đầu tại California
năm 2011 với nhan đề Xe lên xe xuống) của Nguyễn Bình Phương7 và Miền
hoang – 2014 của Sương Nguyệt Minh[6].
2 Chẳng hạn các bài viết của
Nguyễn Minh Châu: “Viết về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội,
11/1978[1]; “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”,
Báo Văn nghệ số 49&50 ngày 05/12/1987[2]; Hoàng Ngọc Hiến: “Về một
đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua”, Báo Văn
nghệ số 23, ngày 09/6/1979[5]… Cũng cần lưu ý là không khí cải tổ
(perestroika) vào giữa những năm 80 có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam bởi lúc đó,
Liên Xô vẫn là “anh cả” phe XHCN và là hình mẫu chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa hiện
thực. Đến 1991, sự sụp đổ của Liên Xô là sự kiện đánh dấu sự tan rã của hệ thống
XHCN và kết thúc Chiến tranh lạnh.
4 Tướng về hưu được đăng lần
đầu tiên trên Báo Văn nghệ (gộp số 24, 25,26) , ra ngày 20/6/1987.
5 Xin xem Nguyễn Đăng Điệp (chủ
biên, 2021), Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội[3].
7 Đây cũng là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu văn học đương đại quan tâm. Một trong những công trình đáng chú
ý về cái tôi trong văn học thời gian qua là Đọc tôi trên bến lạ của
Đoàn Cầm Thi (Nxb. Trẻ – Nhã Nam, Hà Nội, 2016)[9].
8 Mặc dù bắt đầu từ 2003, Hội
Nhà văn Việt Nam tổ chức Ngày thơ Việt Nam vào Rằm tháng Giêng hàng năm, nhưng
nếu không có những đột phá thực sự, thơ đương đại khó có thể lấy lại vị thế
hoàng kim như trước đây nó đã từng có.
13 Hoàng Ngọc Hiến: Những
ngả đường vào văn học, Nxb Giáo dục, H, 2006, tr 302
14 Xin xem: Nguyễn Đăng Điệp: “Vấn
đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, Tham luận
Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu khu vực và quốc tế
(Viện Văn học phối hợp Harvard Yenching Institute ngày 3- 4/11/2006; In lại
trong Thông báo Khoa học ĐHSPHN 2/ 2014 và Văn học và giới nữ. Nxb Thế giới
2016). Xin lưu ý, chủ đề thân xác/tính dục từng được nhiều nhà văn đô thị
Sài Gòn (1954- 1975) chú ý miêu tả, trong đó, đáng chú ý là Vòng tay học
trò (Nguyễn Thị Hoàng). Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Trung cũng trực
tiếp đề cập đến vấn đề này trong Ca tụng thân xác (1967); Ngôn
ngữ và thân xác (1968). Sau 1986, chủ đề tính dục/thân xác trở thành một
chủ để nóng trong văn học đương đại .
28/8/2022
Lưu Đức Hạnh
Nguồn: TTO
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét