Tiểu luận của Đỗ Lai Thúy:
Mai Văn Phấn - Thơ lập phương
Mai Văn Phấn dù đã được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam,
nhưng thơ anh ở trong nước chưa phải đã được nhiều người biết, hiểu và chấp nhận.
Trong khi đó, anh rất nổi tiếng, được nhiều giải thưởng ở nước ngoài. Sự hâm mộ
của người đọc ngoại quốc sẽ dội về Việt Nam, gợi tò mò, thúc đẩy người đọc nội
quốc tìm hiểu và thông hiểu thơ Phấn. Một cách ra thế giới đầy nghịch lí của
thơ Việt. Và, của trí thức Việt…
Nhà thơ Mai Văn Phấn
Tôi đi tìm tiếng nói
Cho cổ họng của tôi
(Thanh Tâm Tuyền)
Bước sơn dương gõ trên mặt đất
Thế giới từ nay không thể ngủ
(Mai Văn Phấn )
Các nhà cách tân thơ Việt thường không được kế thừa gì từ tài
sản của người đi trước. Họ thường mất công đi lại rồi mới đi tiếp. Còn những
người rơi vào nghịch cảnh sáng tạo, thì không cách tân không được. Thơ, nhờ thế,
phát sinh ra từ toàn bộ con người họ, cả ý thức lẫn vô thức. Thơ, với họ, như một
đột sinh.
Trần Dần, Lê Đạt, sau Nhân văn, bị đẩy ra rìa xã hội. Không
được hành hương trẩy hội cùng quần chúng, không được nói tiếng nói chung của quần
chúng, họ buộc phải cất tiếng nói riêng của mình. Không được sống cái tư cách
công dân, họ buộc phải sống cái tư cách nhà thơ. Với họ, lúc này, cách tân hay
là chết! Nhưng, “Cô đơn toàn phần mới sinh sáng tạo” (Đặng Đình
Hưng). Dần có thơ chống lại grammaire chính thống, Đạt làm thơ ngọng nói. Họ tạo
ra cuộc cách mạng thi ca lần thứ hai sau Thơ mới. Còn Thanh Tâm Tuyền, năm
1954, vào Nam với một tâm trạng bất bình cái trật tự thẩm mỹ của Thơ mới và văn
xuôi Tự lực Văn đoàn. Quyết tâm “chôn tiền chiến,” ông và các nhà thơ đồng chí
hướng xây dựng tạp chí Sáng tạo, làm thơ tự do.
Tuổi học của Mai Văn Phấn (sinh 1955, Ất Mùi) không hề biết đến
những thơ trên. Mỹ cảm của anh, cũng như bao người cùng thời khác, bị chương
trình hóa bởi thơ mộc (Ngói mới) của Xuân Diệu, thơ triết lý/sự (Cái hầm trong
giản dị, Trận tuyến này cao hơn cả các màu da) của Chế Lan Viên, đặc biệt là
thơ tuyên truyền chính trị (Bầm ơi, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt) của Tố Hữu. Rõ ràng không
dễ gì nhận ra được các quy phạm này. Tôi cứ mường tượng Phấn, một người theo
Kitô giáo, được tiếp xúc với cái thiêng và cái toàn bộ từ nhỏ, bỗng một hôm chợt
ngộ. Những thơ ấy, anh nghĩ, hẳn không phải là toàn bộ thơ. Không thể lấy một bộ
phận làm cái toàn thể. Cũng như trong phê bình, tôi không lấy phê bình Hoài
Thanh làm phê bình của mọi phê bình. Nên tìm một phê bình khác. Cũng vậy, khi
làm thơ, Phấn phải làm một thơ khác. Anh phải đi lại con đường của những nhà
thơ đúng nghĩa trước anh, phải thể nghiệm thơ toàn bộ. Không phải để “học tập
kinh nghiệm” hay “rút kinh nghiệm” gì gì đó từ thơ họ. Bởi, với người sáng tạo,
kinh nghiệm là cái đã chết, đã-là, mà để trải nghiệm, cái đang-là. Những nẻo đường
mà Phấn cần phải đi qua đó là các xu hướng, trường phái, các thể loại thơ của/ ở
Việt Nam. Với tư cách là những khái niệm lý thuyết văn học, xu hướng và thể thơ
thường song hành với nhau, và nhờ nhau để tự biểu hiện.
Thơ trung đại Việt Nam (và ít nhiều cả dân gian nữa) là tiếng
nói của cá nhân tập đoàn trong xã hội quân chủ, nông nghiệp, Phật giáo và Nho
giáo. Thơ truyền thống có tính ước lệ và tượng trưng khá cao, được ngưng kết,
được hình thức hóa, trong các thể loại và thể thơ luật chặt chẽ, như thơ Đường,
ngâm khúc, truyện thơ, hát nói, song thất lục bát, lục bát. Vần điệu, tức âm nhạc
bên ngoài, là một chiều kích quan trọng của thơ trung đại. Bởi, bấy giờ sách vở
Hán Nôm ít, người biết chữ lại càng ít hơn, nên đa số “độc giả” đều là các
“thính giả”. Luật thơ và vần điệu sẽ giúp người nghe dễ nhớ hơn, dễ truyền khẩu
hơn. Thơ trung đại, vì thế, mang tính cổ điển, giáo điều, quy phạm.
Sang thời hiện đại, với sự phát triển của chữ quốc ngữ, báo
chí xuất bản, Thơ mới là sản phẩm của nền văn hóa đô thị hiện đại phương Tây
và/ là tiếng nói của con người cá nhân cá thể. Nhu cầu tự do tình cảm (và sau
đó là tự do tư tưởng) của ý thức cá nhân đã phá vỡ thơ luật bằng cách đưa văn
xuôi vào thơ, tạo ra, lần đầu tiên, sự khác nhau giữa câu ngữ pháp và câu thơ,
giữa câu thơ và dòng thơ, xuất hiện thơ vắt dòng. Các nhà Lãng mạn, như Thế Lữ,
Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, chủ yếu làm thơ truyền cảm. Khi Thơ mới
chuyển sang Tượng trưng, Siêu thực, với nửa phần Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng
Chương, cả phần Đinh Hùng, Bích Khê, Phạm Văn Hạnh, Hàn Mặc Tử… thì thơ cô đọng
trở lại, thành thơ gợi cảm. Thể loại chủ đạo của Thơ mới là thơ 7 chữ (đôi khi
8) được xếp thành khổ 4 câu, vần chân ở các câu 1, 2, 4 hoặc 2, 4. Như vậy, Thơ
mới về mặt thể thơ (lúc này còn mang tính thể loại) vẫn là thơ luật, dù là luật
mở rộng, còn về mặt âm nhạc, vẫn là thơ vần điệu, tức nhạc bên ngoài.
Tuy nằm trong Thơ mới, nhưng Nguyễn Xuân Sanh của Xuân thu
nhã tập xuất hiện để “chôn Thơ mới.” Thơ ông, với những câu thơ ghép chữ một
cách ngẫu nhiên, hoặc tưởng như ngẫu nhiên, đã phá vỡ tư duy liên tục của Thơ mới,
thiết lập tư duy thơ đứt đoạn. Bằng sự kiện Tiền phong này, ông đã đẩy thơ Việt
về phía Hiện đại. Có điều với những từ ngữ, hình ảnh, thi liệu cô cổ, nên thơ
Nguyễn Xuân Sanh còn là một mỹ nhân ngư.
Thơ hiện đại thực sự bắt đầu với thơ không vần của Nguyễn
Đình Thi. Từ ngữ, hình ảnh, thi liệu của thơ Thi đều đến từ cuộc sống của những
năm đầu kháng chiến. Âm nhạc thơ ông là nhịp điệu, thậm chí nhịp điệu hình ảnh,
tức âm nhạc bên trong. Làm thơ tự do, thể loại chủ đạo của thơ Hiện đại, Nguyễn
Đình Thi bị các nhà Thơ mới kéo dài xúm vào đánh đòn hội chợ, nên giữa đường đứt
gánh (1949). Trong khi đó Thanh Tâm Tuyền ở thành thị miền Nam (1955) nâng tầm
lên đỉnh cao thơ nhịp điệu, mà là nhịp điệu của ý tưởng, nhịp điệu của ý thức của
cái tôi đô thị, cái tôi Hiện sinh. Với Trần Dần, Lê Đạt, họ chỉ thực sự cách
tân, tìm được Giai phẩm đúng nghĩa của mình, không phải vào thời Nhân văn, mà hậu-Nhân
văn. Lấy chữ, không phải nghĩa, làm tính thứ nhất, các ông đã làm một cuộc cách
mạng Copernicus về thơ. Dần “làm công tác chữ,” bắt chữ đẻ ra nghĩa mới, khác
nghĩa tiêu dùng, nghĩa tự điển. Đạt làm “phu chữ” (phu phen – phu tử), bắt chữ
cùng lúc đẻ ra nhiều nghĩa, mở rộng không gian ngữ nghĩa cho người đọc tự do lựa
chọn.
Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng chỉ được mở ngăn kéo công bố
thơ nằm im (chữ Dần) của mình vào đầu những năm 90. Họ lập tức chẻ đôi dư luận.
Số đông người đọc không hiểu thơ họ, cho thơ ấy không có gì mới. Giá đừng in
thơ thì còn giữ được ánh lung linh trong khói hương hư thực. Số ít thì hồ hởi
chấp nhận. Dòng thơ vị chữ của Dần, Đạt, Hưng đã ngay lập tức tạo ra một đối trọng,
chứ không phải đối lập, với dòng thơ vị nghĩa, của phần lớn thơ đương thời, nhất
là bộ phận thơ chính thống, đang chễm chệ ở trung tâm. Làm sao khác được với
thơ Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng? Đó là một Thách thức lớn đòi hỏi một Đáp
trả xứng đáng đối với các nhà thơ Hiện đại thế hệ thứ hai, như Trần Dũng Tiến,
Nguyễn Quốc Chánh, Trương Đăng Dung, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn…
Mai Văn Phấn đi lại, đúng hơn đi qua, tất cả các chặng đường
nói trên của thơ Việt Nam với một tinh thần hiện đại. Bởi vậy, các thể
thơ, mà đương thời là các thể loại thơ, tức hình thức của nội dung, thì giờ đây
với Phấn chỉ thuần túy là thể thơ, hình thức của hình thức. Điều này làm mất đi
tính hấp dẫn sáng tạo với tác giả và sự kháng cự của độc giả. Ví dụ, thơ tự do
thời Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền bị độc giả phản đối, thậm chí kết án,
nhưng hiện nay làm thơ tự do thì không thấy ai phản ứng gì. Sự chấp nhận một
cách đương nhiên như vậy, có thể làm mất đi nguồn kích thích sáng tạo cho người
thích sáng tạo.
Nhưng, hãy bắt đầu với thơ lục bát của Mai Văn Phấn. Những
người cách tân lục bát trước anh thường bắt đầu với thao tác phá vỡ nhịp đôi,
nhịp cơ bản/ bản thể của nó bằng tạo ra những nhịp khác như 3/3, 2/4, 1/5 với
câu lục, hoặc 4/4, 2/3/3, 3/5 với câu bát như Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Gần
đây, hẳn sống trong thời đại nghe nhìn, người ta không chỉ cải biến về phương
diện âm thanh, vần điệu, mà ở cả cạnh khía thị giác nữa. Như hai câu sáu tám có
thể “bẻ” ra 3 câu 6/6/2 hoặc nhiều hơn 3 câu, như thơ bậc/ leo thang, tùy vào sự
dẻo tay của tác giả. Lục bát Mai Văn Phấn không theo những canh cải hình thức
như vậy. Anh chú trọng hơn đến ngôn từ, hình ảnh và tư duy nghệ thuật. Thơ Phấn
vừa có sự trang trọng, cổ điển của lục bát Huy Cận trong Lửa thiêng, vừa có tư
duy đứt đoạn hiện đại, có liên tưởng táo bạo:
Bóng ngày vội nép vào em
Đôi môi anh thắp ngọn đèn xa xăm
Tấm thân ngọn bấc trăm năm
Còn chưa sáng hết đang dầm bên hoa
Anh van xin đấy nõn nà
Gót hương nhẹ lắm lướt qua mặt người
Tóc xanh quỳ rạp buông xuôi
Cầu cho đất ấm chờ nơi em về
Sương giăng réo gọi bốn bề
Xa em sợ lắm… bã chè… chân đêm…
(Bên hoa)
Thơ bảy chữ của Mai Văn Phấn cũng vậy, vừa gợi đến thơ tứ tuyệt
cổ điển, vừa có những cải cách hiện đại ở tư duy, hình ảnh. Mùa thu đến (heo
may), tình yêu và quả đều đang chín (chuyển ngọt). Nửa trên của quả vẫn còn
xanh nhưng nửa dưới đã chín đỏ. Bầu trên xanh ở trên đầu ủ chín quả và tình
yêu. Thiên nhiên và con người thống nhất với nhau trong tư thế quấn quít, tư thế
của tình yêu:
Anh là vỏ chát, em là nhân
Quấn quýt heo may chuyển ngọt dần
Hôn nhau thành quả rơi trên cỏ
Xanh ủ trên đầu chín xuống chân
(Quả thu)
Hoặc, trong mắt nhà thơ chiếc lá là con thuyền, chiếc lá và
con thuyền, tán lá là mái nhà, con thuyền lật úp cũng là mái nhà. Dòng xanh vừa
là đường xanh của cây lá, vừa là dòng sông xanh song song với con đường ấy. Khi
lá rụng, tưởng như sông/ lá đã cạn dòng, nhưng kìa con thuyền/ lá ấy lại lật
mình chuyển động, lấy lại dòng xanh.
Tán lá là ngôi nhà bình yên
Phía sau lật úp một con thuyền
Lá rụng khi dòng xanh tưởng cạn
Con thuyền phía ấy lật mình lên
(Chiếc lá)
Nhưng tứ tuyệt Mai Văn Phấn cũng có những phá thế/ thể (Tôi
chợt ngỡ ngàng cây phá thế/ Nhựa tràn qua những thớ vân vi) một cách táo bạo,
nhưng lại rất tự nhiên (6/6/7/8) và, quan trọng hơn, rất phù hợp với những hình
ảnh thơ:
Có một Tháp Chàm khác nữa
Là em nghiêng búp tay thon
Dắt anh từ hoa văn rêu phủ
Qua nghìn năm vang bóng những linh hồn
(Ảo ảnh Tháp Chàm)
Tuy nhiên, Phấn cũng có những bẻ dòng táo bạo thơ sáu chữ hoặc
năm chữ. Nhưng không phải anh muốn lạ hóa, mà rõ ràng là do vận động nội tại của
ý tưởng thơ:
Sớm
Hái bông hoa hồng
Chiều
Gai cào mộng mị
Sẹo
Lên xanh biếc thế
Gai
Trong hồn đơm hoa
(Gai)
Ở đây, sự bẻ dòng để làm nổi bật những quan hệ đối lập làm tiền
đề cho chuyển hóa của bài thơ như sớm/ chiều, hoa/ gai, hái/ cào, hoa/ lá, hồng/
xanh… Từ vết gai đâm đã lên thành sẹo, sẹo (có hình chiếc lá) lên xanh biếc,
gai thành bông hoa. Bài thơ này làm tôi nghĩ đến chuyện một hạt cát lọt vào
thân thể con trai, tạo thành vết thương, để khỏi đau nó phải bao bọc quanh hạt
cát ấy bằng những chất tinh túy nhất của nó và lâu dần thành viên ngọc. Đây
cũng là nỗi đau sáng tạo của nhà thơ. Một tâm lý học sáng tạo bằng hình ảnh thi
ca.
Mai Văn Phấn còn làm nhiều thể loại thơ hiện đại khác như thơ
tự do (Tạ ơn bông lau, Tiếng gọi từ những cánh đồng, Nhật ký đô thị hóa, Hát giữa
hai mùa, Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ…), thơ văn xuôi (Vòng cung thời gian,
Những ý nghĩ không sắp đặt, Hắn, Niệm khúc số 18, Dấu vết…), và cả trường ca
(Người cùng thời, Hình đám cỏ). Ở thể loại nào anh cũng có những đột phá, sáng
tạo. Người cùng thời của anh gồm 10 chương, có tất cả các thể loại thơ trong
đó. Điều này khác với trường ca nửa trữ tình nửa tự sự, hay đúng hơn trữ tình
được/ bị sử thi hóa, như của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo trong chiến
tranh chống Mỹ và Trần Anh Thái sau chiến tranh. Nhưng, có lẽ, cách tân nhất và
sâu sắc nhất là Hình đám cỏ. Cây cầu này gồm có 9 Nhịp, mỗi nhịp là một cõi,
như cõi thực, cõi tâm linh, cõi tưởng, cõi mơ, cõi mộng, cõi dòng ý thức, cõi
tiềm thức… Ở trong các cõi hư hư thực thực như vậy, thi nhân thả sức tung hoành
sáng tạo, thả sức thể nghiệm. Tâm thế của người viết, cũng là tâm thế chung của
con người, có cái gì đó lo âu, bất an. Nhà thơ tháo ra lắp vào cây bút giống
như một người lẩn thẩn, đúng hơi một đứa trẻ đang khám phá món đồ chơi của
mình. Cây bút quen thuộc trở thành lạ lạ. Bởi bút là nguồn chữ. Nhà thơ mở nắp
bút như mở cánh cửa sáng tạo, như cạy nắp hầm tối của vô thức cá nhân và vô thức
tập thể trong chính mình:
Chiếc bút trên bàn. Khi dọn dẹp vẫn muốn để lại. Cầm bút thư
giãn, vừa lạ vừa quen. Quản bút nhẵn ngón tay cầm. Đôi khi tháo ruột bút xem
(phải tháo trộm vì hành vi quái đản). Mở nắp bút như bật cánh cửa, cậy nắp hầm
tối… Cảm giác chợt thức, chợt mở mắt. Muốn tháo nắp bút một nơi. Nắp bút để
trên, thân bút bên phải hay ở dưới. Có khi ngược lại.
Mở…
Lắp…
Lắp… mở…
Lắp lại…
Cây bút ngay ngắn bình yên
Nối 9 nhịp cầu có kết cấu lỏng lẻo là hình tượng dê núi. Con
sơn dương núi đá Ninh Bình hẳn đã ám ảnh giấc mơ của thi nhân từ thuở ấu thời. Ở
Nhịp I, con dê báo hiệu sự xuất hiện của nó để quấy đảo thế giới, không cho thế
giới ngủ yên (Bước sơn dương gõ lên mặt đất/ Thế giới từ nay không thể ngủ).
Đến Nhịp III, nó báo hiện hừng đông. Trái tim – mặt trời, trái tim Đankô trong
ngực nó mở ra một ngày mới (Ngực sơn dương mở lớn/ Sau lưng hừng đông). Cuối
cùng, Nhịp IX, kết thúc bản trường ca, sau tiếng gọi đàn đầy khoái cảm là bước
sơn dương trùng trùng, điệp điệp (Bầu trời vỡ tiếng gọi đàn khoái cảm đêm đen/
Bước bước sơn dương/ Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm lấp/ Phấn khích giờ tạo thiên lập
địa/ Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc/ Những móng vuốt tì chân cỏ bật căng/
Cỏ non kinh động/ Càng chồi lên mở lại những chân trời). Con Sơn dương ở đây
chính là nhà thơ, Mai Văn Phấn.
ĐI (đi lại, đi qua) của thơ Mai Văn Phấn càng ngày càng trở
nên chằng chịt. Từ lục bát, Thơ mới, thơ tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Từ Cổ
điển, đến Lãng mạn, Tượng trương, Siêu thực, Hiện thực (xã hội chủ nghĩa) đến
Hiện đại, Hậu – Hiện đại. Thơ anh như một khu rừng rậm, nhiều tầng, cành lá rậm
rịt. Về của thơ Phấn trở nên đơn giản. Anh để lại phía sau mình tất cả những
dòng chảy của Việt Nam và thế giới, chỉ giữ lại phù sa của chúng. Đọc thơ Mai
Văn Phấn giai đoạn trở về này, tôi có cảm giác như đọc thơ Đường với sự đơn giản
về ngôn ngữ, khác xa với sự dư thừa của thơ trước-Đường. Nhưng đằng sau sự tối
giản đó là cả một quan niệm mới về triết học Lão-Trang, Thiền học và mỹ học khoảng
trống. Còn đằng sau thơ Mai Văn Phấn? Tôi nghĩ đó là sự trở về, sự tìm về một
thơ Việt hiện đại hay thơ hiện đại Việt.
Tính cách Việt là sản phẩm của văn hóa Việt, đồng thời cũng
là phù sa dâng hiến cho cánh đồng văn hóa này. Khởi nguồn của văn hóa bao giờ
cũng từ những niềm tin tôn giáo. Trong không gian văn hóa Mai Văn Phấn, tôi thấy
có ba trụ lớn là tam giáo của riêng anh: hồn linh giáo, Phật giáo và Kitô giáo.
Thuyết hồn linh là thế giới quan đầu tiên, phổ quát của nhân loại. Nó làm cho
con người hòa đồng với con người và hòa đồng với vũ trụ. Bởi, con người, con vật,
cái cây, hòn đá, quả núi, dòng sông, tuy khác nhau về thực thể, nhưng đều có
chung một thứ quan trọng hơn là linh hồn. Nhưng rồi các tôn giáo lớn và duy lý
xuất hiện, nhiều dân tộc, quốc gia trên thế giới đã đánh mất hoặc đánh vỡ hồn
linh giáo. Riêng ở Việt Nam, một nước thuần nông, thuyết hồn linh còn tồn tại,
thậm chí tồn tại mãnh liệt, đủ sức chi phối cả những tôn giáo lớn đến sau nó
như Phật giáo và Kitô giáo. Với thế giới quan hồn linh luận, Mai Văn Phấn đã
đưa thơ mình trở lại tinh thần “hòa đồng nguyên thủy”, xóa nhòa ranh giới giữa
tôi và phi tôi, giữa tôi và thế giới.
Phật giáo sang Việt Nam đã bị/ được dân gian hóa triệt để.
Ngôi nhà triết học đồ sộ, lý luận cao viễn đã bị hạ tầng xuống thành mái chùa ẩn
hiện dưới bóng hàng cây cổ thụ. Nam tính của Phật giáo đã trở thành nữ tính khi
Phật ông Quán Thế Âm được chuyển giới thành Phật Bà Quan Âm. Rồi ngôi chùa nào
cũng có khoảng không gian đằng sau thờ Mẫu. Tất cả Thần Phật Thánh Thần ấy đều
trở thành những vị thần bảo hộ, ban phúc giáng họa, nên cần phải đèn nhang thờ
phụng. Nếu Phật giáo là niềm tin chủ đạo của người vợ, hẳn một bà vãi tân thời,
thì Kitô giáo là đạo gốc của người chồng, Mai Văn Phấn. Nếu đạo Phật hướng về bản
địa, tính nữ, sự bảo lưu, thì Kitô giáo hướng ra thế giới, tính nam, sự phiêu
lưu. Ý hướng cách tân mạnh mẽ của Mai Văn Phấn có thể bắt đầu từ đây. Tuy nhiên
là một người Việt, Phấn đi xa để về gần, ra thế giới để về xây dựng ngôi đền
thơ của mình, như cha ông của anh xây ngôi nhà thờ Kitô giáo bằng đá ở Phát Diệm
theo kiểu dáng ngôi đình làng.
Như vậy, Hồn linh giáo, Phật giáo và Kitô giáo là ba trụ đỡ
ba tầng không gian văn hóa trong thơ Mai Văn Phấn. Các tầng không gian này vừa
xếp chồng lên nhau, vừa bao hàm nhau, vừa xoắn luyến nhau tạo thành một vũ trụ
đa hệ. Thơ Mai Văn Phấn là một thế giới tồn tại ở dạng những khả năng, chỉ khi
ý thức người, tức hành động đọc, chạm đến thì một, hoặc hơn một, những khả năng
ấy mới hiện thực hóa thành những thế giới thực. Bởi vậy, đó là một thế giới có
nhiều thế giới tồn tại song song, một thế giới hơn ba chiều, thế giới ngoài thế
giới hiện tồn. Thơ Phấn lúc này kiệm lời, ít chữ, không có từ Hán Việt, chỉ những
từ thuần Việt. Thi nhân để dành nhiều khoảng trắng, khoảng trống, khoảng lặng,
khiến người đọc có cơ hội, có đất diễn, có ngôi Lời để kiến trúc nên thi giới của
riêng mình, song song với thi giới của nhà thơ.
Sự trở về của Mai Văn Phấn cũng là sự trở về với chính bản
thân thi nhân. Ở trong cõi tĩnh lặng thâm sâu và thanh thản, nhà thơ nhìn ra thế
giới náo động, ồn ào để tìm ra một hiện thực bề sâu, hiện thực đằng sau hiện thực
nhìn thấy. Từ đó Phấn viết ra những lời thơ chân thật và sâu sắc. Tĩnh lặng là
tập thơ tiêu biểu cho sự trở về này của Mai Văn Phấn. Đây là một thơ tam ngữ Việt-Anh-Pháp
kèm theo lời bình giảng của nhà thơ, học giả Ramesh Chandra Mukhopadhyaya người
Ấn Độ. Thoạt tiên có vẻ nghịch lý, nhưng rồi đó là một thuận lý. Bởi, bạn chỉ
có thể ra thế giới, và được thế giới để ý với tư cách là một người Việt, một chất
Việt của riêng bạn. Rồi mới đến các vấn đề của nhân loại và thế giới. Trước hết
bạn đọc xem xem Mai Văn Phấn coi thế giới trong thơ anh là gì, và thơ anh như
thế nào:
Trang sách
Mở mặt đất chữ
Rừng núi
Sông hồ
Những con đường chữ
Nâng cuốn sách
Tôi
Là một chữ
Nét chữ nhịp thở
Bàn tay lật lên
Nét tóc cứng
Da vàng
Ánh sáng trên trang sách
Thu thế giới
Và tôi
Thành một.
(1, Tĩnh lặng)
Cuộc đời với Mai Văn Phấn là trang sách/ chữ. Mặt đất có rừng
núi, sông hồ đều là con chữ và đường chữ. Nhà thơ coi mình là một chữ. Con chữ ấy
có nét là nhịp thở, có bàn tay để lật lên, có căn cước nhân dạng: tóc cứng, da
vàng. Đến đây bạn đọc thấy Mai Văn Phấn có điểm đồng với Trần Dần, Lê Đạt, coi
chữ là tính thứ nhất, chữ đẻ ra nghĩa, hoặc xa hơn với Mallarmé khi ông này viết:
Tôi không làm thơ với ý tưởng, tôi làm thơ với chữ. Trong thế giới chữ
đó, nhà thơ, như Lê Đạt tự nhận, là nhân-vật-chữ. Sự tương đồng thứ hai của Mai
Văn Phấn còn hơn thế, qua ánh sáng trên trang sách, nhà thơ, tức tôi, với thế
giới là MỘT.
Bây giờ bạn đọc xem, trong thế giới thực, tức thế giới 3 chiều,
thơ và nhà thơ xuất hiện như thế nào:
Tiếng chim, giấc mơ, giọt nước rơi…
Thành đường kẻ dọc
Giọng nói, nỗi buồn, nụ hôn…
Là đường kẻ ngang
Đường kẻ giao nhau
Là đốm sáng
Lúc soi đường
Lúc làm lóa mắt
Tôi tĩnh lặng
Kéo đường kẻ xa nhau
(8, Tĩnh lặng)
Tiếng chim, giấc mơ, giọt nước rơi… là thiên nhiên, đường kẻ
dọc, còn giọng nói, nỗi buồn, nụ hôn… là con người, đường kẻ ngang. Đồng thời,
trong ngữ học cấu trúc của Saussure, đường kẻ dọc, trục dọc, còn là trục lựa chọn,
trục không gian, trục thơ, còn đường kẻ ngang, trục ngang, là trục kề cận, trục
thời gian, trục văn xuôi. Khi hai trục này gặp nhau thì cũng là lúc không gian
và thời gian, tĩnh và động, thơ và văn xuôi hạnh ngộ. Như sự gặp nhau của hai
dòng điện âm và dương, sự đoản mạch xảy ra, lóe sáng. Chớp sáng này có thể là
soi đường sáng tạo, cũng có thể làm lóa mắt. Tùy vào bản lĩnh của nhà thơ.
Tôi tĩnh lặng
Kéo đường kẻ xa nhau
Nhà thông diễn tài năng, tiến sĩ Ramesh Chandra
Mukhopadhyaya, bình luận câu này như sau: “Nhà thơ tỉnh lại kéo các đường kẻ dọc
ngang xa nhau để mở rộng những hình chữ nhật. Thế giới này, theo đó, có thể được
nhìn ngắm trong thanh thản, bình tâm” (Tĩnh lặng, tr. 57). Nhưng, tôi nghĩ, kéo
đường kẻ xa nhau để khiến cho chúng không còn tạo nên một mặt phẳng nữa, mà để
chúng tạo ra các chiều kích không gian khác, 3 chiều, 4 chiều, thậm chí 12 chiều,
tức mở ra các thế giới mà mắt thường không thể nhìn thấy. Bởi vậy, đó là một
hành vi sáng tạo, một hành động thơ để tạo nên, trước là một không gian văn
hóa, sau là một không gian thơ.
Quả trứng
Ấp trong đôi cánh
Của mẹ
Tôi ngủ say trong khí núi
Bóng cây
Nước giã gạo
Tiếng chân hươu nai
Nằm trong vỏ trứng
Tôi dần thành hình kiến
Hình chim chóc, gia cầm
Như bao muông thú
Tôi lớn lên bằng ước mơ
Của ánh bình minh
Của cơn mưa
Bầy sao sa
Trái đất
Rũ lớp vỏ ánh sáng
Tôi mở mắt đứng lên
(5, Tĩnh lặng)
Một sinh thể nào đó hay có thể là chính nhà thơ phân thân,
hóa thân vào đó. Ở đây có hai thế giới đối lập nhau: thế giới trong trứng và thế
giới ngoài trứng. Quả trứng/ Ấp trong đôi cánh/ Của mẹ. Thế giới trong trứng
như vậy là an toàn. Bào thai trong bụng mẹ cũng vậy. Là một thiên đường. Ở
trong trứng hay trong bào thai, nó vừa ngủ say lại vừa tỉnh thức, một trạng
thái tiền-ý thức, mà sau này khi sinh ra chỉ còn có trong hình thái giấc
mơ. Nó nghe thấy Nước giã gạo/ Tiếng chân hươu nai. Và, ở trong trạng thái
tiền/ tiềm sinh chưa có hình hài này, nó có thể lấy cho mình đủ loại hình hài của
kiến, của chim chóc, gia cầm, của muông thú. Đồng thời, bằng giấc mơ của những
hiện tượng thiên nhiên như ánh bình minh, cơn mưa, bầy sao sa, trái đất, nó định
hình, lớn lên. Như vậy, nó được sinh ra nhờ sự khát sống. Không có khát sống
thì không sinh thể nào có thể ra đời, dù thân phận là một mầm cây, con kiến,
chim chóc, muông thú, con người, hay một bài thơ.
Nhà phê bình Đỗ Lai Thuý
Tập thơ còn rất nhiều những kiệt tác, như các số 11, 12, 19,
31, 35. Xin dẫn ra đây hầu bạn đọc bài thơ cuối cùng mà không bình luận gì cả.
Bầu trời cánh cung
Tôi ở giữa
Gió hú
Từ đỉnh đầu
Xuyên qua bàn chân
Khoan hòa khí đất
Tôi thở sâu lòng biển
Giương cánh cung
Cho cây lá ép vào dáng núi
Nén chặt bình minh vào đêm
Tựa cây tùng
Bám đất
Vươn cành lên bầu trời
Tâm hướng đích
Nén khí xuống đan điền
Buông cung
Tôi và mũi tên bay song song mặt đất
(31, Tĩnh lặng)
Cả tập Tĩnh lặng, thể hiện một thế giới quan hồn linh giáo rất
rõ. Chủ thể phát ngôn, cũng như cái nhìn thế giới của nó là các vật thể, như
chiếc bình (Tôi là chiếc bình hở miệng… Trong tôi/ Vườn ươm hạt giống), là chiếc
ly (ly nước/ Đặt trước ngọn nến/… Tôi dần trong lại), hay các sinh thể, như cỏ
cây (Tôi là cỏ cây), quả (Tóc và vai tôi màu trắng/ Chiếc cuống/ Bắt đầu ngả
vàng), con côn trùng bị giam trong chiếc lá (Gió ra đi/ Giam tôi ở đây/ bằng
chiếc lá)… Thế giới nhờ thế mà sinh động, chân thật và lạ hóa. Một chiều kích
khác của Tĩnh lặng là cái nhìn Phật giáo. Ở đây ta thấy đầy ngôn ngữ thiền, như
ngồi thiền, tọa thiền, hành thiền, quán tưởng, hoa sen, ánh sáng, đức Phật…
Nhưng quan trọng hơn, nhiều bài thơ trong tập giống như những công án thiền. Phải
có duyên lắm thì tôi mới nghe được tiếng vỗ của chỉ một bàn tay, hoặc giải được
cái công án, dĩ nhiên là theo cách của tôi, mà Mai Văn Phấn lấy làm đề từ cho tập
thơ: Muôn pháp về một, một về đâu? Tôi cho rằng về Không. Không là Vô, là Vô cực.
Vạn Hữu đều sinh ra từ Vô. Nếu Mai Văn Phấn không trở về Không, trở về cõi tĩnh
lặng tuyệt đối thì anh sẽ không có Tĩnh lặng tương đối.
Nếu Tĩnh lặng thiên về không gian văn hóa, vừa truyền thống vừa
hiện đại, vừa dân tộc vừa quốc tế, vừa bình dân vừa trí thức, thì thả, tập thơ
tiếp theo của Mai Văn Phấn, thiên về không gian nghệ thuật, không gian thơ, mục
tiêu cuối cùng của cách-tân-Mai-Văn-Phấn. Không gian thơ Việt Nam trước Phấn phần
nhiều là không gian hình học phẳng, không gian dẹt. “Cách lập ngôn của nhà thơ,
Phấn nói, không đơn thuần là giọng nói, mà chính là cách thiết lập không gian.
Không gian ấy là dung lượng cảm xúc, độ mở trí tuệ mà nhà thơ bao quát, chế ngự
được. Mỗi đơn vị, hay tạm gọi là tế bào trong cơ thể ấy kết dính và chịu lực
tương tác lẫn nhau theo quy luật riêng. Nó chuyển động không ngừng với vận tốc
lớn, đôi khi tưởng chừng như phi lý. Nhưng dung tải của nó lớn hơn những quan
niệm thông thường. Như vậy, cụ thể một liên tưởng có thể rạch tia chớp từ một
đích của tương lai tới đầu mút của quá khứ” (Thơ tuyển, tr. 375). Tóm lại, đây
là một không gian cong, hoặc đa chiều, chuyển động nhanh, có sức nén và, do đó,
sức nổ lớn.
Mai Văn Phấn đã thể nghiệm một không gian thơ như vậy trong
thi phẩm thả của anh. Trước hết nói về thể loại thơ. Cũng như văn xuôi có truyện
cực ngắn, thì thơ cũng xuất hiện các loại thơ ngắn. Trần Dần cuối đời làm thơ
mini, thậm chí thơ một câu (Mưa rơi không cần phiên dịch). Tối giản hơn, Đoàn
Văn Chúc làm thơ một chữ (monomot). Lê Đạt làm thơ Haikâu, gợi nhớ thơ hài cú,
haiku của Nhật Bản. Trong xu hướng đó, sau khi múa bút tung hoành câu chữ khắp
thiên hạ, Mai Văn Phấn lui về sơn cốc làm thơ ba câu. Gần đây Trần Quang Quý có
thơ namkau. Thơ một chữ, thơ một câu, thơ hai câu, thơ ba câu, thơ năm câu, vấn
đề không chỉ ở số lượng câu, mà quan trọng hơn, là có một quan niệm lý thuyết
và thẩm mỹ đặt cơ sở cho sự tồn tại nhất thiết của số lượng chữ câu đó. Có như
vậy thì thơ một chữ, thơ một câu, thơ haikâu, thơ ba câu mới có thể là một thể
thơ. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn, tôi nghĩ, có thể đủ cơ bản để trở thành một
thể thơ, một sáng tạo của riêng anh.
Điều này thể hiện ngay trong nhan đề tập thơ: thả. Thả ở đây
là buông, buông bỏ, buông thả như quan niệm nhà Phật, rời tục đế để đến với
chân đế trên đường giác ngộ, đến với tính không, tức bản lai diện mục. Tuy
nhiên, so với buông bỏ, thì buông thả, do chữ thả, nhẹ nhàng, tự nguyện, tự
nhiên nhi nhiên hơn. Thả ở đây cũng chính là quy luật giảm trừ hiện tượng học.
Một sự vật, hiện tượng từ khi nó ra đời đến nay đã bị bao định kiến, thành kiến,
ý hệ bám phủ làm cho nó khác đi, thậm chí không còn là nó nữa. Hiện tượng học
bóc bỏ, phủi sạch các lớp rong rêu, bụi bặm đó để sự vật, hiện tượng hoàn
nguyên thuở ban đầu. Cái thuở người cổ sơ hoặc đứa trẻ lần đầu tiên thấy nó và
lời thốt lên sau thành tên của nó. Ba câu của Mai Văn Phấn tạo một không gian vừa
đủ, không chật đến nỗi không cựa quậy nổi, nhưng cũng không rộng đến mức thành
ba gian nhà trống. Bởi “thơ hiện nay cần (nguyên văn ít – ĐLT) tập trung vào những
điểm chập nổ (những câu thơ nhói sáng) mà gây sức ép lớn ở vùng bị ảnh hưởng để
làm nên độ vang vọng và chân thực nhất của sự vật” (tlđd, tr. 375).
Hơn nữa, thơ ba câu Mai Văn Phấn cũng đủ không gian để làm một
khung cửa sổ tóm bắt bóng ngựa qua. Và, nếu thơ là “khoảnh khắc ngừng lại của
thời gian” (Octavio Paz), thì thơ Phấn là “bí mật của khoảnh khắc” (Lê Hồ
Quang), là giây phút “ngưng thần” (Nguyễn Thanh Tâm). Của thi nhân cũng có thể
là “khoảnh khắc thẩm mĩ” (Ch.Bollas), một trạng thái chú ý đơn thuần, bị lãng
quên, hay có thể đang ẩn núp, nhưng là tự nhiên với con người. Thơ khoảnh khắc
là thơ của thời hiện tại, ở đây và bây giờ, thậm chí một “hiện tại sống động”
(Trần Đức Thảo). Thời hiện tại là quan trọng nhất với con người, bởi nó là hiện
hữu duy nhất. Quá khứ là cái đã qua, còn tương lai là cái chưa đến. Người sống
toàn tâm toàn ý với hiện tại thì được giải phóng khỏi gông cùm định kiến của cả
quá khứ lẫn tương lai. Nói khác, sống hiện tại là sống hiện sinh, mà hiện sinh
thì đi trước bản chất và làm nên bản chất. Nhờ thế, người sống với hiện tại là
người tự giải phóng để tự do khám phá thực tại ở những chiều sâu của nó và những
chân lý giản đơn mà sâu sắc của cuộc sống.
thả với 1017 bài thơ được Mai Văn Phấn thả dàn dọc ra theo hơn
500 trang sách. Nó tạo thành một mê cung. Độc giả muốn khỏi bị lạc, phải tìm
cho được một sợi chỉ dẫn đường. Có thể mỗi người có một sợi chỉ khác nhau, sợi
tơ, sợi dây thừng, hay một cây gậy. Riêng tôi tiếp cận thơ Phấn bằng phương
pháp phân tích cấu trúc. Trước tiên là cấu trúc tác phẩm. Cấu trúc không hiển
hiện như bố cục, kết cấu, mà ẩn hiện. Tìm ra cấu trúc là hạnh ngộ giữa người viết
và người đọc. Các tập thơ của Việt Nam thường không có cấu trúc, mà chỉ có bố cục,
thậm chí không có cả bố cục. Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm có bố cục là 9 chương,
được gọi là khúc, nhưng tập thơ có cấu trúc tam giác Oedipe: Đỉnh là CON/ em/
nhà thơ; một góc là CHA/ người đàn ông/ tổ tiên/ truyền thống; góc kialà MẸ/ chị/
đàn bà/ hội hè/ dân chủ. Cấu trúc là bộ khung của tác phẩm, bộ đỡ của không
gian thơ, cái đưa thơ tạo thành thế giới nghệ thuật. Cấu trúc của thả, theo trực
giác của tôi, có lẽ là vòng tròn và tầng bậc.
Nhìn thoảng các bài thơ của thả tưởng như bị sắp xếp một cách
ngẫu nhiên, như đứa trẻ (tạo hóa?) cầm một bộ bài tung ra vương vãi, rồi người
chơi (thi nhân?) cứ thế nhặt lên. Nhưng nhìn kỹ các nhan đề, hóa ra các quân
bài thơ ấy đã ngầm được sắp xếp rồi. Ví như, đọc các nhan đề Đêm đầu năm, Đón
giao thừa, Sáng mồng một, Xuân tràn, Mưa bụi, Chồi non, Hoa đào… dù sắp xếp
lung tung bạn đọc cũng thấy đây là mùa XUÂN; Hoa nhãn, Mùa vải, Quả dưa lê, Ăn
trái đào, Ngủ gà ngủ gật, Cơn giông, Hái sen… thì đích thực là HẠ; rồi Se lạnh,
Chim tu hú, Trăng sáng gốc cây, Con nhện giăng tơ, Ngày hanh khô, Lá cây xào xạc…
hẳn mùa THU; cuối cùng Gió lạnh, Màn sương, Heo may, Đêm lạnh, Bóng cây già,
Sương muối, Mơ thành cây măng là ĐÔNG. Như vậy, cấu trúc của tập thơ là sự trôi
chảy theo 4 mùa: XUÂN – HẠ – THU – ĐÔNG. Đây là cấu trúc theo vòng tuần hoàn của
vũ trụ, thời tiết, mùa màng.
Ngoài cấu trúc cơ bản trên, tập thơ còn có những cấu trúc
khác, như vòng đời của con người, con chim, con cá, cái cây, lá cỏ… Các sinh thể
này đều tuân theo quy luật sinh – thành – trụ – diệt, như Cụ già, Chim non, Con
nghé tơ, Xác con ve, Xác con bướm, Lộc, Gieo giống, Nơi hoa rụng, Hoa lộc vừng
đã tàn, Cánh sen rụng… Thậm chí cả các hiện tượng thiên nhiên như sương, mây,
mù, nắng, mưa, sấm chớp… cũng không nằm ngoài quy luật này như Mưa lác đác,
Dông tố, Sướng trên cây, Nắng chiều, Thay mùa, Bão tan, Thu qua, Gió mùa về… Cuối
cùng là cấu trúc một ngày trong thời gian của người. Cấu trúc vòng tròn này mô
phỏng sinh – thành – trụ – diệt để thành sáng – trưa – chiều – tối, như Sáng mồng
một, Sáng xuân, Sáng sớm, Sáng nay, Tiếng trưa, Cuối ngày, Bóng đêm, Đêm mưa,
Đêm đông, Đêm lạnh, Bầu đêm, Đêm bắt đầu, Đêm nghĩa trang… Ở đây, sáng và đêm
là quan trọng nhất, và, do đó, có nhiều bài thơ nhất. Sáng và đêm là hai thời
gian đối lập nhau, nhưng lại có thể chuyển hóa, hóa sinh thành nhau. Và trong
các khoảnh thời gian sáng, trưa, chiều, tối này là hoạt động, suy nghĩ, trải
nghiệm của con người.
Như vậy, vòng tròn là cấu trúc thời gian trong tác phẩm của
Mai Văn Phấn. Các vòng này chuyển động xoay tròn, đan cài, xoắn luyến vào nhau,
tạo thành một cấu trúc đa hệ linh hoạt. Còn cấu trúc không gian trong thơ anh
thì sao? Thơ Mai Văn Phấn ở cạnh khía thể tài, bạn đọc có thể thấy thơ anh thường
được xếp vào ba không gian là Thiên nhiên – Xã hội – Con người. Các tầng bậc
chuyển động theo đường thẳng đứng, thiên nhiên tác động đến xã hội, xã hội tác
động đến con người. Và ngược lại. Không gian và thời gian tưởng như đối lập và
đối đãi, để tạo thành một chỉnh thể, Mở cổng/ Bâng khuâng/ Hai thế giới;
Níu chân ong/ Phấn rơi/ Xuống đất; Ngoi lên mặt nước/ Gió mùa/ Về từ chiều qua…
Những tác động hỗ tương, chuyển hóa này của không gian và thời gian đều xảy ra
trong bầu khí quyển linh thiêng, nhưng nồng ấm vì năng sản. Những va chạm mang
tính nghi lễ của hai chiều kích này luôn tạo ra những điểm sáng, thậm chí nhói
sáng (từ của Mai Văn Phấn, nhói vì nỗi đau sinh sản, đau sáng tạo).
Nếu cấu trúc tập thơ thả là vĩ mô, thì cấu trúc từng bài thơ
là vi mô. Mỗi bài thơ gồm có ba câu/ dòng. Có thể là một câu ngữ pháp được ngắt
thành ba dòng Nước ngập vườn/ Bông hoa đào trôi/Như chạy (Mưa), hoặc
các dòng có mối liên hệ cú pháp thông suốt Mút từng miếng/ Nhâm nhi/ Rồi
nuốt (Mẹ dạy bé ăn cơm), nhưng thường là những dòng thơ độc lập về cú
pháp Búp non/ Nghe lũ trẻ/ Rủ nhau đi bắt sâu (Sáng mùa xuân), Rụng
bớt/ Sang/ Gốc cây bên cạnh (Hoa đào), Nở trước/ Cho cây bên cạnh/
Đơm hoa (Cây tầm xuân)… Nhưng dù thế này hay thế kia thì sự phân cắt ra
thành ba dòng/ câu như trên cũng tạo ra sự đứt đoạn của tư duy nghệ thuật, khiến
cho ngôn ngữ, ý tưởng, hình ảnh rời ra và chồng tầng lên nhau, như trò chơi trồng
nụ trồng hoa của trẻ em ngày xưa.
Mỗi bài thơ còn có một cái tên. Tên có thể xuất hiện trước
trong cảm xúc sáng tạo, rồi nhà thơ mới tổ chức ngôn ngữ, hình tượng xung quanh
thi đề đó. Hoặc có thể viết xong bài thơ rồi mới đặt cái tên phù hợp. Trong cả
hai trường hợp này, nhan đề đều như một chiếc chìa khóa – ký hiệu, giúp người đọc
mở vào tòa chữ, ví như Hoa gạo đỏ rực/ Không biết/ Đến đó bao nhiêu bước (Cuối
tháng ba), Hạt mầm/ Tôi/ Chung giấc mơ tách vỏ (Nhờ trận mưa), Mưa/
Tôi lớn nhanh/ Trong bóng tối (Gieo mầm xong), Vội tìm chiếc cọc/ Đỡ
buồng chuối chín cây/ Trĩu nặng (Nhìn người đàn bà mang thai đi qua)…
Nhưng thi đề Mai Văn Phấn, ngoài chức năng trên, thường còn gắn với các câu thơ
trong bài như một bộ phận cú pháp, như (Con chim lạ)/ Đậu xuống sân/ Nhìn
tôi/Từ kiếp nào, (Lòng hồ)/ Biết/ Đám mây/ Che chở mình, (Mồi lửa)/ Đã gần
tổ ong/ Chỉ còn ấu trùng và ong chúa/ Ong thợ mải tìm hoa… Thơ ba câu của
Mai Văn Phấn làm tôi nhớ đến một ngôi tháp ba tầng, mà nhan đề bài thơ là cái
mũ ni trên đỉnh tháp. Không phải những ngọn tháp nhiều tầng chót vót, sắc màu rực
rỡ ở Bái Đính, Tam Chúc hoặc Ba Vàng ba đỏ gì đó, mà những ngôi tháp vững chãi,
giản dị, rêu phong tôi từng thấy ở sau chùa Phật Tích, trên Vườn tháp núi Yên Tử,
hay trongmột ngôi chùa làng nào đó. Cấu trúc bài thơ, vì thế, cũng là cấu trúc
tầng bậc, một sự thể hiện riêng biệt, độc đáo của cấu trúc cả tập thơ.
Thơ ba câu của Mai Văn Phấn cũng có thể làm bạn đọc nghĩ tới
thơ haiku của Nhật Bản do thiền sư Ba Tiêu sáng tạo. Hài cú cũng ba câu như thơ
Phấn, nhưng giới hạn chỉ ở 17 âm tiết, nên có khi cả bài thơ chỉ có ba, bốn từ.
Thơ Ba Tiêu là thơ thiền, thơ nói về sự chứng ngộ, ở đấy là đốn ngộ, chân lý
thiền, còn thơ Mai Văn Phấn nói về sự chứng ngộ chân lý đời sống qua chiêm nghiệm
thiền. Tuy nhiên, thiền ở đây không cao siêu, quý tộc, mà là thiền gắn với cuộc
sống, thiền trong đời sống, thiền là cuộc sống, thiền của hòa thượng Viên Minh.
Ông này coi Pháp tự nhiên, Pháp đời sống, Thế gian Pháp là một chân lý thường hằng.
Đức Phật chỉ là người khai thị, tức phát hiện, chứ không phải phát minh ra
Pháp. Do vậy, Niết bàn không phải ở một cảnh giới khác, mà ở ngay trong cuộc sống
hiện tại, ở đây và bây giờ, của mỗi người, khi người ấy chứng ngộ được chân lý
đời sống, Pháp tự nhiên. Và sinh tử luân hồi cũng diễn ra ngay trong cảnh giới
này với những dục vọng tham, sân, si… được sinh ra, đạt đỉnh và chết đi. Đọc thả
của Mai Văn Phấn, bạn đọc sẽ thấy thi nhân chứng ngộ trong từng sát na, khi anh
quan sát, thể nghiệm mọi cảnh tượng, dù là nhỏ bé nhất, phù du nhất của đời sống.
Một dung lượng tối đa được chứa trong một hình thức tối thiểu
như vậy, đòi hỏi Mai Văn Phấn phải đi tìm một không gian thơ khác, mà tôi tạm gọi
là không gian thơ lập phương, chữ mượn tạm của Chế Lan Viên, một nhà thơ chuyên
nghiệp, bận tâm thơ vào bậc nhất Việt Nam, chỉ thêm vào một +, plus. Để giải
quyết vấn đề này, bạn đọc hãy cùng tôi trở lại với hoa giấu mặt. Tập thơ này
cũng được Chandra Mukhopadhyaya chú giải rất xuất sắc. Nhưng có lẽ kho tri thức
Hin-đu giáo và văn hóa Ấn Độ đầy ắp đã khiến ông thoát ly văn bản và văn cảnh
hơi nhiều. Đành rằng mỹ học tiếp nhận và thông diễn học cho phép điều đó, nhưng
phê bình văn học hậu hiện đại, theo quan niệm của tôi, là phê bình nội – ngoại
quan (trong khi tiền hiện đại là ngoại quan, hiện đại là nội quan), nên ngoại
quan ở đây (tức văn hóa, tôn giáo, triết học) phải xuất phát từ nội quan (tức
văn bản), phải do các khám phá nghệ thuật nội – văn bản quy dẫn đến. Nếu không
thì phê bình, dù là chú giải học, lại quay về phê bình ngoại quan tiền hiện đại.
Nhưng thôi, bàn góp như vậy, cũng chỉ là khơi mào cho việc đi tìm một không
gian thơ nhiều tầng Mai Văn Phấn.
Bông hoa là một hiện hữu, nhưng cái mặt tiền hiện hữu đó lại ẩn
giấu những mặt khác ở hậu cảnh. Có thể là một gương mặt khác của bông hoa,
gương mặt của thi nhân, những gương mặt của các thế giới chưa/ không nhìn thấy,
chưa từng xuất hiện, thậm chí chưa từng tồn tại. Trong hoa giấu mặt, Mai Văn Phấn
thường sử dụng những đối lập nhị phân, để rồi bằng một thao tác thứ ba xóa bỏ,
hoặc thống nhất các đối lập đó. Trường hợp bài thơ Giấc mơ con nhện, là sự
đối lập giữa người/ nhện, rồi bằng thao tác giấc mơ của con nhện xóa tan hai thế
giới đó, sáng tạo ra thế giới thứ ba người – nhện hoặc nhện người, tạo ra một cổ
mẫu tân trang của Trang Chu hóa bướm, hay bướm hóa Trang Chu:
Mơ thành người
Treo trên sợi tơ
Ngủ
(Giấc mơ con nhện)
Hoặc chiếc dùi đánh chiêng là thế giới đồ vật được quấn bằng
một chiếc áo cũ, biểu tượng của thế giới người, nhưng khi tiếng chiêng được
đánh lên, thì xóa tan ranh giới của hai thế giới đó: tiếng ngân mồ hôi người. Sự
kết hợp, đúng hơn tương giao giữa âm thanh (thính giác), mùi (khướu giác), vị mặn
(vị giác) của mồ hôi tạo thành một cảm thức mới về nhân thế, về âm nhạc.
Chiếc dùi
Cuốn áo cũ
Tiếng ngân mồ hôi người
(Đánh chiêng)
Hoặc đối lập giữa cái hiện tại và cái chưa đến, cái sắp sửa:
Ruộng sạch cỏ
Con trâu ngủ say
Mạ chưa cấy
(Nhìn qua răng bừa)
Một thế giới sống giản dị, hồn nhiên, sinh động, thế giới của
hồn linh. Trong đó mọi vật đều ở trạng thái sẵn sàng, chờ đợi để chuyển động: một
chiếc bừa. Nhà thơ chỉ cần miêu tả một vế, người đọc tự điền thêm vế còn thiếu.
Hoặc sự đối lập bằng liên văn bản, giữa một bài thơ có mặt và
một bài thơ vắng mặt:
Thiếu nữ lội qua suối
Mặt trời nhấp nhô mấy lần
Mới lặn
(Chiều tà)
Bài thơ vắng mặt ở đây là Vũng lội làng Ngang của Nguyễn Khuyến.
Chuyện kể rằng trên đường ra chợ đàn bà con gái làng Ngang phải qua một vũng lội.
Cạnh đấy có một cái miếu thờ dâm thần. Nên nhớ là chị em nông thôn ngày xưa chỉ
khi nào có kinh nguyệt thì mới đóng khố. Bởi vậy, mỗi lần qua vũng lột, khi họ
vén váy lên quá bẹn thì có tiếng khúc khích cười từ miếu vọng ra. Có bà hoảng sợ
buông tay để váy rơi xuống nước. Có cô vừa xấu hổ vừa buồn cười bưng váy chạy
ré lên. Cánh đàn ông trong làng tức giận nhiều lần lấy đất đắp bằng chỗ lội, nhưng,
chỉ qua một đêm, sáng hôm sau đất đá bay đâu mất, lội vẫn hoàn lội. So với bài
thơ của Yên Đổ, thơ Mai Văn Phấn kín đáo hơn, thanh hóa hơn, mỹ lệ hơn. Dâm thần
được thay bằng mặt trời, đàn bà nhà quê được thay bằng thiếu nữ, vũng lội được
thay bằng suối, ban ngày ban mặt thì được thay bằng chiều tà. Nhưng rồi tất cả
cái đẹp thoát tục đó sụp đổ bởi nụ cười tục kín đáo dành cho ông mặt trời thích
nhấp nhô [nhấp nhổm] những mấy lần. Ngoài ra, chiều tà không phải là lúc sự sống
lịm đi, mà là lúc nắng quái, phút bừng sống trước khi tắt. Nó làm tôi nhớ tới
câu ca dao: Gái yêu chồng đang đông buổi chợ/ Trai yêu vợ nắng quái chiều
hôm.
Bài thơ Hoa có hai khoảnh thời gian vừa đối lập nhau, vừa
liên kết nhau là đêm nay và sáng mai, có hai thực thể khác loại nhau là trăng
và hoa, hai hành vi khác nhau giữa tỏa (còn có nghĩa là bưng kín, cầm giữ, nên
tỏa hương cũng có nghĩa là ngậm hương, chờ đúng thời điểm thì mới búng ra) với
nở, nhưng rồi trăng đêm nay sẽ thôi thúc hoa tỏa hương, và mùi hương, đến lượt
nó, lại hối thúc hoa nở sớm mai, khiến cho mọi khoảng cách được xóa bỏ, mọi thực
thể hòa vào nhau, mọi nghĩa đều thoát khỏi thân phận nghĩa tiêu dùng để trở
thành nghĩa thẩm mỹ. Lúc này, kẻ quan sát và vật được quan sát là một, người
thưởng hoa và bông hoa là một. Ở cảnh giới tâm thức bội trùng này, bài thơ thể
hiện trạng thái vật vã sáng tạo của thi nhân: đêm nay thai nghén để sớm mai
hoàn thành thi phẩm.
Sớm mai hoa nở
Trăng đêm nay
Tỏa hương
(Hoa)
Bài thơ Cái nhìn gồm có 3 không gian nhỏ vừa chồng tầng lên
nhau vừa lồng ghép vào nhau. Nếu từ thấp lên cao theo chiều thẳng đứng, thì
không gian 1 là vũng nước, đóng vai trò tấm gương, không gian 2 là ngọn núi cao
được vũng nước phản chiếu, không gian 3 là bóng ngọn núi trong vũng nước. Khoảng
cách cao/ thấp của không gian 1 và không gian 2, sự phân biệt rắn/ lỏng, tính
không phản chiếu/ phản chiếu của đá và nước được hủy bỏ, xóa nhòa bởi không
gian 3, hình núi phản chiếu trong nước. Một hiện tượng tự nhiên của thế giới vật
chất, vốn vô hình, tự thân không có nghĩa được cấp nghĩa, được hiện hữu nhờ cái
nhìn thấu suốt (Soi/ Tận đỉnh) của con người. Nên, có thể nói, đây là một sáng
tạo thơ, một bài thơ. Và con người đó, một nhà thơ, đã mang lại cho bạn đọc một
thế giới mới.
Vũng nước nhỏ dưới chân núi
Soi
Tận đỉnh
(Cái nhìn)
Như vậy, thả với thể thơ ba câu là một sáng tạo tiêu biểu của
Mai Văn Phấn trong hành trình trở về, trong cuộc tìm kiếm không gian thơ lập
phương +. Một thi giới có cấu trúc vừa gồm nhiều vòng tròn chuyển động xoắn luyến
vào nhau vừa gồm những tầng bậc chuyển đổi nhau lên xuống theo chiều thẳng đứng.
Cấu trúc không gian thơ này là một đóng góp quan trọng của Mai Văn Phấn cho thơ
Việt Nam. Và, ít nhiều đáp ứng được công cuộc đi tìm một thơ Việt hiện đại hay
thơ hiện đại Việt.
Thời tái chế, tập thơ gần đây nhất của Mai Văn Phấn, như một
Vĩ thanh (tiếng ngân dài) của toàn bộ thơ anh trước đó, đặc biệt là Tĩnh lặng
và thả. Trường ca văn xuôi này gồm 9 chương (lại 9, con số sinh cuối cùng): Điểm
nhìn, Thẫm đỏ, Sân khấu, Lối rẽ, Đồ tể, Đối thoại, Mô hình, Giấc mơ, Kết nối. Bạn
đọc có thể bị sốc khi thấy nhà thơ đột ngột chuyển từ thơ ngắn tinh luyện sang
thơ dài, mà lại là thơ văn xuôi. Một tự sự trữ tình hay chữ trữ tình tự sự.
Nhưng, không nhà thơ nào trốn khỏi được thời đại của mình. Anh ta phải nói lên
tiếng nói của thời đại ấy. Anh ta phải nêu ra được bản chất của thời đại, để cảnh
giác mọi người, động viên họ cùng nhau vượt thoát nó.
Với nhan đề Thời tái chế, Mai Văn Phấn đã xác định một
cách thẳng thừng và mạnh mẽ, đúng và trúng, bản chất thời đại chúng ta. Tái chế
hiện nay là một xu hướng rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực, nhưng có thể tóm
gọn ở 3: Đồ vật, con người và tư tưởng. Đồ vật, đồ dùng giờ đây chủ yếu là đồ
nhựa được chế đi chế lại đến mức mất hết độ trong, độ dẻo. Đồ chơi của trẻ em
ngày xưa bằng đất, bằng gỗ, bằng tre, thậm chí chỉ bằng tưởng tượng. Toàn là những
vật liệu thiên nhiên, để gần gũi với con người. Các em chơi để phát huy trí tưởng
tượng nhằm hoàn thiện nhân cách, chứ không phải để tập sự làm người công cụ.
Con người ngày nay cũng đang được/ bị tái chế, không còn là người tự nhiên nữa.
Những bộ phận người bị hỏng được lắp ghép thêm vào những miếng nhựa hoặc thanh
kim loại. Tim, thận hỏng hẳn thì được thay thế bằng tim nhân tạo, thận nhân tạo.
Thậm chí, được thay thế bằng tim, thận của người khác. Tương lai sẽ có người –
rô bốt, người biến đổi gien, thậm chí người nhân bản. Lĩnh vực tư tưởng cũng có
sự lắp ghép, cắt xén, hỗn dung, tiếp biến, chế tạo. Các tôn giáo lớn, các triết
học lớn, các tư tưởng lớn đã bước vào thời kì mạt pháp, như các cây cổ thụ ngày
càng xa gốc, cành nhánh giao nhau oặt ẹo, lá cũng nhòe nhạt màu sắc màu.Trong
ba lĩnh vực tái chế cơ bản này, Mai Văn Phấn chú trọng nhất đến tái chế tư tưởng,
bởi tư tưởng có sức mạnh chi phối những ứng xử đối với thiên nhiên, xã hội và
con người. Trước tình hình đó dâng lên một trào lưu tìm về bản nguyên, gốc rễ,
suối nguồn, tư tưởng khởi nguyên, vật liệu cơ bản, vật liệu thô.
Trên đây là bối cảnh toàn cầu, bối cảnh thời đại, còn trong
Thời tái chế, Mai Văn Phấn chỉ đi vào một trường hợp nhỏ, cụ thể nhưng lại rất
tiêu biểu, bởi ở đây sự tái chế đã bị/ được cô đặc lại, vón cục lại. Đất nước ấy
vốn là thuộc địa, trải qua hơn hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, đan cài với
nội chiến, rồi được xây dựng theo những mô hình nội chế, ngoại chế về chế độ,
kinh tế, tư tưởng, văn nghệ, giáo dục. Và rất nhiều học phí đã phải trả, bằng cả
mồ hôi nước mắt, thậm chí bằng máu. Và máu thấm đỏ chảy suốt dọc trường ca. Máu
bảo vệ tổ quốc, máu các phe phái đấu đá chém giết lẫn nhau, máu oan khuất do những
sai lầm trong đấu tranh giai cấp, đấu tố nội bộ… Tôi, nhân vật của trường ca, vừa
là nạn nhân vừa là chứng nhân của những màn hề (chứ không phải hài) kịch đó!
Như vở kịch phi lí Trong khi chờ Gôđô, sân khấu trống rỗng nhưng người ta vẫn
nghe thấy tiếng của Những người loạn họp (Maiakovski) họp những cuộc họp y hệt
nhau, mở đầu là long trọng viên chủ trì, giữa thì không ai nghe vì mải chơi cờ
carô, đan len, rỉ tai trò chuyện, cuối thì nhất trí, thành công tốt đẹp. Đó là
một xã hội không có đối thoại mà chỉ có đối thụi, hoặc là độc thoại, nghe theo,
làm theo. Nhưng tất cả những hành động ấy của họ đều được nhân danh lý tưởng, đất
nước, dân tộc, thậm chí lịch sử (Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ Vui gì hơn
làm người lính đi đầu – Tố Hữu). Rồi các mô hình hợp tác xã lớn, nhỏ theo
công xã nhân dân Trung Quốc, mô hình phát triển công nghiệp nặng là then chốt
theo Liên Xô, rồi các mô hình nội địa như pháo đài cấp huyện, làm chủ tập thể,
rồi nhóm liên gia, tổ ba người để quản lý nhau cho chặt, rồi xây dựng điển hình
kinh tế (Sóng Duyên hải, gió Đại phong), rồi xây dựng anh hùng, chiến sĩ thi
đua. Về tư tưởng thì phải “đi đúng đường nhà nước” (Lê Đạt), phân biệt lề phải
lề trái, một cơ quan nào đó có phát minh khoa học khiến tất cả các loại cây ăn
quả đều chín đỏ vỏ làm không ai phân biệt được trong ruột nó thế nào, thậm chí
không biết quả nào là quả nào, đào hay mận.
Cuối cùng, thông qua giấc mơ ba dòng sống quay lại, trở về:
dòng máu thuần khiết, dòng nước trở nặng phù sa, dòng suối tâm linh. “Tiếng con
chim lạ cất lên báo hiệu chuyển động lạ kỳ trong đất. Con giun cố đào thêm tầng
nữa cho lòng đất xốp. Con ếch cốm tìm thấy ánh trăng cất tiếng gọi mẹ dịu dàng.
Con nhạn biển rủ bạn tình vượt qua đại dương. Những trái non từng bị hái lượm
giờ đây được tái hiện trong vòm cây chờ ngày thơm ngọt. Những bông hoa trái
chín từng bị sâu đục, chim khoét đang rùng mình vì được tái sinh. Nhựa cây cuộn
chảy xuyên qua những thân gỗ mục dâng tỏa trong không gian mùi lá mới và rễ cây
quen thuộc cay nồng. Mọi người và tôi bắt đầu thở mạnh, không còn sợ hãi. Chúng
tôi bỗng chốc có cùng nhóm máu, cùng nằm yên cho dòng sông đỏ tươi ấm nóng đi
qua. Vẫn là tôi nhưng đêm nay đã khác. Độc lập tự do như côn trùng, muôn thú. Hạnh
phúc như cá bơi trong biển, hồ và chim chóc trên không.” Phải chăng đã đi qua một
thời tái chế. Nhưng muốn qua được con người phải như con đại bàng, học cách tự
lột xác mình để tái sinh. “Con đại bàng tự đập mỏ mình vào mỏm đá cho đến khi đứt
gãy để tái sinh móng vuốt. Dám nhìn thẳng vào mặt trời không chớp mắt, không sợ
bị đốt mù. Đại bàng bay lên đỉnh núi chờ báo tới. Những trận cuồng phong hung dữ
nâng nó lên đỉnh bão. Bộ móng vuốt sắc nhọn của nó quặp vào lưng bão thành biểu
tượng kiêu hãnh, linh thiêng.” Trường ca Thời tái chế, như vậy, càng khẳng
định sự trở về, hành trình trở về với văn hóa nguồn, với con người thiên nhiên,
với ngôi Lời, thậm chí với thơ ít lời, thơ ngoài lời của Mai Văn Phấn là một mẫn
cảm, một lựa chọn chính xác. Và, chính vì thế, nó khởi một ra đi.
Đến đây, cho tôi nói Lời kết, đúng hơn lời tạm khép cho một
nhà thơ vẫn đang trên đường, bằng việc đưa ra cấu trúc thi nghiệp (cả sự nghiệp
lẫn quả nghiệp) của anh : ĐI – VỀ – ĐI. Giống như một tam đoạn luận thiền: trước
khi học thiền thấy núi là núi, sông là sông. Trong khi tập thiền thấy núi không
phải là núi, sông không phải là sông. Sau khi ngộ thiền lại thấy núi là núi,
sông là sông. Như bình thường tâm của thiền sư, vừa giống vừa khác với tâm bình
thường của chúng sinh, núi tuy vẫn là núi, sông tuy vẫn là sông, nhưng ở bên
trong hoặc ở đằng sau đã là một núi khác, một sông khác.
Đi thứ nhất của Mai Văn Phấn là đi lại gần như tất cả các xu
hướng, trường phái (cổ điển, hiện thực, lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, hiện
đại) và các thể thơ (lục bát, thể Thơ mới, thơ tự do, thơ văn xuôi) của thơ Việt
Nam, không phải để học tập kinh nghiệm, cái đã-là, mà để trải nghiệm, cái
đang-là. Thời kỳ này ngôn ngữ thơ Phấn tương đối rậm lời, thậm chí rườm lời. Về
là về lại với cốt tủy của văn hóa Việt Nam là hồn linh giáo, Phật giáo và, có
thể với riêng Phấn, Kitô giáo, với tính cách, căn cốt Việt là giản dị, hiền
hòa, chân phác, hài hước, triết lý. Đồng thời cũng là hành trình về lại với
chính bản thân mình của Mai Văn Phấn, con người cá nhân phi cá nhân, cái tôi
phi cái tôi của anh. Chỉ có trong cõi tĩnh lặng, vô ngôn ấy mới thốt ra được những
lời chân thực, sâu sắc, lời của Thơ. Đi thứ hai của Mai Văn Phấn là đi ra, từ
Việt Nam đi ra thế giới. Lệ thường, muốn thành công ở nước ngoài thì trước hết
phải thành công ở trong nước. Theo chỗ tôi biết, các nhà thơ nổi tiếng trước
đây, Vũ Hoàng Chương có tập thơ Trời một phương, Huy Cận có Nước triều
Đông đều là thơ tuyển, in bằng tiếng Pháp, và rất nổi tiếng ở Pháp.
Trường hợp Mai Văn Phấn, tôi nghĩ, mở ra một lệ ngoại. Thế giới
ngày nay đã trở nên “phẳng”, mạng xã hội đã xóa đi những vùng lõm thi ca. Với
“tư duy tổng thể, toàn cầu, hành động cục bộ, địa phương,” các nhà thơ Việt Nam
dễ dàng hơn trong việc tiếp xúc và hòa nhập vào thế giới. Mai Văn Phấn dù đã được
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng thơ anh ở trong nước chưa phải đã được
nhiều người biết, hiểu và chấp nhận. Trong khi đó, anh rất nổi tiếng, được nhiều
giải thưởng ở nước ngoài. Sự hâm mộ của người đọc ngoại quốc sẽ dội về Việt
Nam, gợi tò mò, thúc đẩy người đọc nội quốc tìm hiểu và thông hiểu thơ Phấn. Một
cách ra thế giới đầy nghịch lí của thơ Việt. Và, của trí thức Việt.
Núi Trúc, mùa Covid-19, 2021
ĐỖ LAI THÚY
28/8/2022
Lưu Đức Hạnh
Nguồn: TTO
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét