Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

Ngô Vương: Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai - Phần 1

Ngô Vương: Tiểu thuyết lịch sử
của Phùng Văn Khai - Phần 1

Hồi thứ 1
Bấy giờ, khoảng những năm cuối nhà Đường, triều chính ngày một suy vi, giặc cướp phiên trấn nổi lên khắp nơi, các Tiết độ sứ tranh giành quyền lực, đất đai, đánh nhau triền miên không dứt.
 
 “…Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”
HỒI THỨ NHẤT
Dương Đình Nghệ thân chinh Bắc phạt
Lý Khắc Chính binh bại Giao Châu
Bấy giờ, khoảng những năm cuối nhà Đường, triều chính ngày một suy vi, giặc cướp phiên trấn nổi lên khắp nơi, các Tiết độ sứ tranh giành quyền lực, đất đai, đánh nhau triền miên không dứt. Đường triều dần rơi vào thế tự diệt vong, các trung thần, lương tướng theo nhau bỏ đi cả. Các vùng đất triều đình cai quản nay hoang phế quyền lực. Khắp nơi, các thổ hào, tù trưởng, hào trưởng, châu mục cát cứ xưng hùng miên man không dứt. Đến khi nhà Đường dứt hẳn (907), Chu Ôn, một Tiết độ sứ hùng mạnh, sau khi thảo phạt các vùng Hà Nam, Thiên Bình, Thái Ninh, Phượng Tường đột ngột về kinh sư trấn áp triều thần, ép Đường Ai Đế thoái vị, tự lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc đại loạn Ngũ đại thập quốc nồi da xáo thịt nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Cũng thời gian ấy, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Cung, một anh hùng hào kiệt đầy thế lực trưng tập binh lương, xây thành đắp luỹ xưng vua, lập nên nhà Nam Hán, chống nhau với nhà Hậu Lương của Chu Ôn hàng chục năm trời. Muôn dân trong ngoài cõi Trung Nguyên ngày càng lầm than trong biển lửa chiến tranh không dứt.
Ở Giao Châu, nhân Trung Nguyên nội loạn, nhà Đường diệt vong, thổ hào địa phương các nơi nổi lên đánh đuổi quan quân nhà Đường về nước. Trong những thổ hào, nổi trội nhất là Khúc Thừa Dụ với tài năng và binh lực hùng mạnh đã đánh đuổi quân tướng nhà Đường, chiếm giữ phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, người con là Khúc Hạo nối nghiệp cha trấn nhậm Giao Châu, xây thành đắp lũy, sắp đặt binh lương tính kế lâu dài. Khi ấy, có người hiến kế cho Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm sứ sang nhà Nam Hán để dò xét thực hư. Khúc Thừa Mỹ vốn có nhiều toan tính, vài năm sau, khi kế nghiệp cha đã ngầm cho người sang Biện Kinh lĩnh Tiết việt của nhà Hậu Lương. Mọi việc chẳng may đến tai Lưu Cung, vua Nam Hán nổi giận đùng đùng, cho rằng họ Khúc ăn ở hai lòng, cũng là lúc đám đại thần xui đánh chiếm Giao Châu, thiết lập sự cai quản của nhà Nam Hán, vơ vét tài vật phương Nam. Lưu Nhiễm nghe theo, tức tốc cử đại tướng Lý Khắc Chính đem năm vạn binh mã xuống hỏi tội Khúc Thừa Mỹ. Quân Nam Hán đi tới đâu tàn sát cướp bóc muôn dân tới đó rất thảm khốc. Quân tướng của Khúc Thừa Mỹ chống đỡ không nổi, thua trận liên miên. Đại La thất thủ. Bản thân Khúc Thừa Mỹ bị bắt đóng cũi đưa về Phiên Ngung xử tội. Giao Châu trong sớm tối lại bị cai trị dưới sự bạo ngược của nhà Nam Hán phương Bắc.
Trong khoảng thời gian ấy, vùng đất Ái Châu vốn nằm trong sự cai quản của Dương Đình Nghệ, một vị hào trưởng thế lực lớn nhất vùng đồng thời là nha tướng tin cậy của Khúc Hạo. Hào trưởng Dương Đình Nghệ còn kết giao với các hào trưởng, châu mục nổi danh các vùng, đêm ngày luyện binh trữ lương, khẩn hoang lập ấp, chăm dân mở cõi, ngày càng trở nên hùng mạnh, dân tứ xứ theo về rất đông. Trong nhà Dương Đình Nghệ lúc nào cũng dư vài ngàn môn khách, văn thần võ tướng đủ đầy, thóc lúa trăm kho chật ních, ngựa voi ruộng vườn muôn kể, binh lính thuỷ bộ hàng ngàn, chẳng khác nào chúa của một vùng đất vậy. Trong số những anh hùng hào kiệt thường xuyên kết giao với họ Dương phải kể đến Ngô Mân, vị châu mục nổi tiếng vùng đất Đường Lâm và Đinh Công Trứ, vị hào trưởng trẻ tài danh vùng đất Đại Hoàng.
Khi nghe tin Lý Khắc Chính đem năm vạn binh tướng tiến đánh Giao Châu, tuyệt diệt họ Khúc, bắt Khúc Thừa Mỹ đóng cũi đưa về Phiên Ngung xử tội, Dương Đình Nghệ cho mời các thổ hào, châu mục địa phương, các vị bô lão trong vùng, lại cho gọi các gia thần, gia tướng trong đám môn khách về ngôi nhà lớn thủ phủ Ái Châu thượng nghị.
Khi mọi người ai ngồi ghế nấy im phăng phắc, Dương Đình Nghệ đầu chít khăn nhiễu xanh, lưng thắt đai lụa tía khảm bạc, chân đi giày vải thêu phượng, đĩnh đạc đường hoàng cất giọng sang sảng:
– Kinh thưa các bậc lão trượng, các vị huynh đệ đã cùng Dương gia gắn kết buồn vui mấy chục năm qua. Ta mới được tin từ Đại La, bọn Lý Khắc Chính vâng mệnh vua Nam Hán xua binh tướng chiếm đoạt Giao Châu, bắt chúa ta đóng cũi giải về phương Bắc. Ta vốn là bộ tướng của họ Khúc, còn chưa có công lao gì. Mới ngày nào tiên chúa Khúc Hạo mất đi, còn di dặn ta giúp dập tân chúa Khúc Thừa Mỹ. Ta đêm ngày chưa nghĩ ra kế gì để giúp chúa mới đã gặp lúc lũ giặc Bắc đã xuống tay quá nhanh. Tháng trước, vừa được tin Lý Khắc Chính xua binh tướng vào Giao Châu, ta đã định đem binh  lên đường giúp chúa. Binh lương đang cắt đặt chưa kịp lên đường đã được tin chúa thất trận ở Đại La bị Lý Khắc Chính bắt về Phiên Ngung. Lòng ta đau xót căm tức biết là nhường nào. Nay cho triệu mọi người đến, xin được nghe kế tiến thủ để khỏi làm nhục mệnh tiên chúa.
Gian nhà lớn hơn trăm người theo ngôi chủ khách các hàng ghế nghiêm ngắn im phăng phắc. Một lúc, vị hào trưởng họ Đinh vốn được mời đến từ châu Đại Hoàng vượt hơn trăm dặm núi non đứng dậy thủ lễ rồi nói:
– Đinh mỗ ta vốn đã sớm nghe giặc phương Bắc chiếm thành trì, bắt chúa Giao Châu đóng cũi xử tội mà căm phẫn, bèn lập tức đến đây họp bàn với Dương huynh. Hiện tình, giặc kia càn rỡ, chúng cậy ngựa khoẻ binh mạnh, chiếm cứ đất đai thành trì, giết chóc dân ta rất thảm khốc. Lòng dạ tham lam của người phương Bắc chưa bao giờ dứt với người phương Nam. Nay theo ý Đinh mỗ, Dương huynh hãy vì đại nghĩa mà thống suất binh quyền, chọn tướng giỏi, dùng người hiền Bắc tiến một phen. Có lẽ nào chúng ta giương mắt nhìn Lý Khắc Chính kia tàn hại mồ mả đất đai dân chúng Giao Châu?
Lời Đinh Công Trứ còn chưa dứt, một vị lão trượng râu tóc trắng như cước tiến ra cất giọng trầm hùng:
– Lời nói của hào trưởng Đinh Công Trứ thật như từ gan ruột phơi ra vậy. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Ta đây đã sống gần tám mươi tuổi, từ nhỏ đã thấy cái họa phương Bắc là họa ngàn đời. Tiếng là vua chúng phân phong quan tước cho người phương Nam chúng ta, nhưng thực chất ta chỉ làm trâu ngựa cho chúng. Họ Khúc đã mấy đời làm tướng, kiêm quản Giao Châu, giúp dân giúp nước công lao có phải một hai buổi là kể hết được đâu. Tướng quân Khúc Hạo nhiều phen vào tận vùng Hoan Châu, Ái Châu vỗ về dân chúng, giáo hóa lễ nghĩa, bày việc canh cửi tầm tang, trồng cấy, mới có được cuộc sống no đủ. Ái tướng của ngài là Dương công đây một lòng nhân đức, kính trên nhường dưới, mở đất nuôi dân, muôn kế lắng nghe, bốn biển theo về yên ổn đã mười mấy năm nay rồi. Nay họ Khúc lâm nạn, lẽ nào người Ái Châu, Hoan Châu chúng ta không rửa nhục?
Vừa nói, lão trượng vừa để rơi giọt lệ già xuống chòm râu cước trắng khiến mọi người đều xúc động. Lời cụ già vừa dứt, trong các gia tướng, một vị tướng trẻ cao lớn dị thường, mặt mũi khôi ngô, bước ra cất tiếng sang sảng tựa chuông đồng:
– Đinh công nói chí phải! Lão trượng nói chí phải! Theo ngu ý của mạt tướng, giặc Bắc vô đạo xuống chiếm Giao Châu bắt chúa ta đóng cũi giải về đất chúng trời người đều căm hận. Xưa nay, trời đất đã phân phong Nam – Bắc – Đông – Tây, đất nào chúa nấy, chia nhau tự lập tự cường. Cơn cớ gì, lũ giặc Bắc năm lần bảy lượt chiếm đất phá thành phương Nam chúng ta. Thù này tất phải báo. Nhạc phụ hãy mau điểm binh tướng, con nguyện làm tiên phong bắt tên giặc già Lý Khắc Chính để đổi lấy Khúc chúa về làm chủ Giao Châu mới hả được giận này.
Mọi người nhìn kỹ thấy đó chính là Ngô Quyền, vị tướng trẻ cũng là con rể của Dương công luôn rất được họ Dương yêu mến cho theo sát bên mình. Phàm là các việc binh lương sĩ tốt, Dương Đình Nghệ đều giao cho. Các việc mở đất đóng thuyền, săn bắt voi ngựa, trao đổi thóc gạo sắt muối nơi thượng du hạ bạn, vùng sông cửa biển nhất nhất Dương công đều giao phó. Ngô Quyền là con cả của hào trưởng Ngô Mân ở Đường Lâm, vốn là một bậc huynh trưởng của Dương Đình Nghệ từ buổi hai người cùng theo về với Khúc Hạo. Khi Ngô Quyền tròn mười tám tuổi được Dương Đình Nghệ gả con gái yêu cho. Từ đó hai nhà Dương – Ngô ngày càng khăng khít. Ngô Mân được Dương Đình Nghệ tin tưởng kính trọng lắm. Họ Ngô ở châu Đường Lâm là một họ rất có thế lực trong vùng. Ngô châu mục văn võ kiêm thông, bề ngoài hòa nhã, bên trong cương cường. Việc rèn dạy các con, đặc biệt là con trưởng Ngô Quyền hết sức nghiêm khắc. Ngô Quyền khi mới sinh đã có điềm lạ trời ban. Từ đó, châu mục Ngô Mân càng giữ gìn, đêm ngày mời những thầy giỏi về giáo huấn cho con trai cùng đám gia tướng.
Dương Đình Nghệ tươi cười phấn chấn nhìn khắp lượt các bô lão, Đinh Công Trứ và Ngô Quyền. Dương công đứng dậy nói:
– Xin cảm ơn sự chỉ bảo của các vị lão trượng. Ta cảm ơn tấm lòng trung nghĩa của Đinh công. Còn với Quyền nhi, chí khí của con ta hết sức cảm động. Việc tiến binh rửa nhục cho Khúc chúa phải bàn thật kỹ mới được. Lý Khắc Chính là bậc danh tướng của hoàng đế Lưu Cung không phải dễ đánh bại đâu. Chúng vừa thắng lớn, tất sĩ khí còn hăng, binh lực lương thảo đều dồi dào. Nay lại đang mùa mưa bão, thuỷ bộ hai đường tiến ra đất Bắc hỏi tội chúng không phải dễ dàng. Chi bằng ta hãy cho người đem một phong thư giả đến xin hàng. Trước khiến chúng thêm kiêu ngạo khinh suất. Sau là kế tranh thủ thời gian để ta sắp xếp binh lương cho tinh nhuệ mới có thể thủ thắng chúng được.
Mọi người im lặng lắng nghe. Ai cũng thấy được những suy nghĩ sâu xa của Dương công. Xưa nay, bất luận là việc trong nhà hay việc ở ngoài các vùng đất Ái Châu, Hoan Châu được họ Khúc trao quyền kiêm quản, Dương Đình Nghệ đều hết sức thận trọng. Việc lớn việc nhỏ đều trưng tập ý kiến của các gia thần, gia tướng, thỉnh thị các bậc lão trượng rất kỹ lưỡng rồi mới thực thi. Bởi lẽ đó, Ái Châu, Hoan Châu hàng chục năm nay hết sức yên ổn. Cư dân cường thịnh. Lúa gạo trâu bò đầy nhà đầy cửa. Những đội thuyền đi biển đánh bắt hải sản ngày càng đông đúc. Các làng chài, làng rèn, làng mộc, làng muối đêm ngày nhộn nhịp. Muôn dân ai cũng biết ơn công đức của họ Dương. Mấy lần, Khúc chúa thân chinh đến Ái Châu, Hoan Châu đều khen lắm.
Mọi người còn đương lắng nghe như nuốt lấy từng lời, bỗng nhiên một vị gia thần trạc tuổi ngũ tuần, chòm râu đốm bạc dài chấm ngực bước ra nói:
– Dương công! Việc trước mắt kế sách của Dương công sau trước đều vẹn toàn cả. Tại hạ chỉ lo là giặc kia tinh ranh bạo nghịch, nếu không có người giỏi đi dâng thư, chúng tất cho ta là lập kế trá hàng mà đề phòng, việc lớn ắt khó thành. Theo ngu ý của tại hạ, người đưa thư xin hàng tất phải trí dũng gồm đủ, là cật ruột của Dương công mới mong việc thành vậy.
Dương Đình Nghệ nhìn viên gia thần họ Đoàn thầm cảm phục. Đoàn Thành vốn dòng dõi danh tướng Đoàn Kiếm, người từng theo Mai Thúc Loan khởi nghĩa đánh giặc Đường. Về sau, hậu duệ họ Đoàn nhiều đời nối chí cha ông đánh giặc lập công. Cháu nội Đoàn Kiếm là Đoàn Phương vốn từ buổi đầu đã theo phò Phùng Hạp Khanh, kế đến theo Phùng Hưng đánh đuổi giặc Đường giành quyền độc lập cho nước. Từ khi theo về làm gia thần cho họ Dương, Dương Đình Nghệ luôn lắng nghe ý kiến của Đoàn Thành. Họ Đoàn bên trong nho nhã chừng mực, bên ngoài chu tất mọi việc được giao. Đoàn Thành rất có uy trong đám gia thần gia tướng. Họ Đoàn đã quả quyết nói rõ ý mình tức là trong bụng đã có chủ ý tiến cử người đi gặp Lý Khắc Chính rồi.
Dương Đình Nghệ thong thả hỏi:
– Đoàn tiên sinh đã có chủ ý tiến cử người rồi sao?
Đoàn Thành nghiêm trang đáp:
– Thưa Dương công! Kính thưa các bậc lão trượng! Phàm từ trước tới nay, vào hang cọp lừa giặc chỉ có thể dùng trí không dùng sức. Dẫu là vậy, cuộc này người được cử đi phải trí dũng gồm đủ. Trước phải tỏ rõ thiệt hơn để giặc kia cân nhắc lợi hại. Sau phải biết nhún nhường đối đáp chúng để chúng khinh suất kiêu căng. Đối với giặc phương Bắc thời nào cũng vậy, chúng luôn cậy thế thiên triều coi các vùng phiên trấn như cỏ rác mà dọa nạt nhục mạ vô cớ. Nhân cuộc này, ta phải trước lừa giặc sau dạy dỗ cho chúng một bài học mới được.
Đoàn Thành vừa dứt, Đinh Công Trứ tiến ngay ra nói:
– Đoàn tiên sinh! Ta tuy bất tài xin nguyện vì Dương công đem thư tới trại giặc.
Lại một vị tiến ra xin nói. Mọi người trông thì là Ngô Quyền:
– Mạt tướng tuy bất tài xin được thay Đinh công vào trại giặc.
Mọi người nhìn nhau không ai dám nói. Dương Đình Nghệ vội bước đến chỗ Đinh Công Trứ ôn tồn cất giọng:
– Đa tạ Đinh công đã dám vì rửa nhục cho Khúc chúa mà sẵn lòng vào núi đao biển lửa. Song ta nghĩ, Đinh công hãy sớm trở lại châu Đại Hoàng sửa soạn binh tướng thuyền bè để nay mai kéo quân ra hỏi tội Lý Khắc Chính sớm được chu toàn là hơn. Việc này hãy để Quyền nhi thay ta một phen. Lý Khắc Chính vốn là tay lão luyện, sai Quyền nhi đi sẽ khiến y dễ thuận lòng. Huynh trưởng Ngô Mân đời đời thế tập châu Đường Lâm là người danh tiếng, ắt họ Lý kia cũng biết đến. Chẳng phải lũ giặc Bắc ngày đêm mong muốn các châu mục, sách động phương Nam chúng ta thần phục đó sao? Còn như việc viết thư xin hàng, nay ta giao cho tiên sinh Đoàn Thành. Lời lẽ thế nào chắc tiên sinh tự biết.
Mọi người đều thống nhất quyết sách của Dương công. Đoàn Thành chắp tay thủ lễ nghiêm trang nói:
– Tại hạ xin nhận lệnh!
*
Nay nói chuyện Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận ở thành Đại La.
Sau buổi cầm bắt Khúc Thừa Mỹ ở thành Đại La cho đóng cũi giải về Phiên Ngung, Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận chia quân bốn mặt đóng giữ các cửa thành rất nghiêm ngặt. Phàm là những văn thần bộ tướng cũ của Khúc Thừa Mỹ, Lý Khắc Chính đều cho soát xét kỹ lưỡng, kẻ nào chống đối đều giết không tha. Đám người quan quân cũ Đường triều còn sót lại, họ Lý cho mời ra hỏi các việc trị nhậm ở Đại La thành ngày trước rất tỉ mỉ. Trong đám thương nhân nhà Đường buôn bán trong thành đã mấy đời làm ăn giàu mạnh được tiến cử, Độc Toàn Chân, một thương khách nối nghiệp nhà họ Độc từ thời Độc Cô Tồn làm Thái thú Giao Châu được Lý Khắc Chính mời vào tiếp kiến riêng. Họ Lý thừa biết rằng, đám thương khách trong Đại La thành mới thực sự nắm bắt mọi ngóc ngách của quan viên xứ này. Đại La thành tiếng chỉ là thủ phủ trị nhậm vùng đất Giao Châu, song thực chất chẳng khác nào kinh đô của một nước vậy. Họ Khúc kia đã ba đời tự cường làm Tiết độ sứ Giao Châu, hẳn gốc rễ cật ruột còn nhiều, không thể ngày một ngày hai dứt hẳn đi được.
Vừa nghĩ, Lý Khắc Chính vừa nhìn thẳng vào Độc Toàn Chân thong thả vấn an:
– Ta vốn biết Độc huynh nhiều đời buôn bán cường thịnh xứ này. Nay Đường triều khí số đã hết, Hán đế nối nghiệp đại thống, thiên hạ chưa yên. Nay ta vâng mệnh Hán đế, thống suất binh mã thảo phạt Giao Châu, chỉ hỏi tội kẻ nghịch thần họ Khúc, các ngươi không có gì phải sợ. Độc huynh gia thế lẫy lừng, huyền cơ thông suốt, nay có điều gì chỉ giáo cho ta chăng?
Độc Toàn Chân lướt nhìn Lý Khắc Chính. Thấy họ Lý phương phi bệ vệ, tướng mạo oai phong, trong bụng đã thầm phục đến bảy tám phần. Lại thấy giọng điệu khoan hòa có ý thăm dò người cùng nòi giống vừa chân thành vừa sâu sắc bèn lựa lời nói:
– Bẩm Đại tướng quân! Họ Độc chúng tôi xưa nay chỉ biết kiếm miếng cơm manh áo nơi phiên trấn cuối đất cùng trời, không dám có ý gì bàn vào chính sự. Quan gia Độc Cô Tồn ngày trước trị nhậm Giao Châu cũng là vâng chiếu chỉ của Đường triều mà thôi. Họ Độc xưa nay quan – thương rành mạch, việc ai nấy làm, mong Đại tướng quân hiểu cho.
Lý Khắc Chính cười ha hả đứng dậy vỗ vai Độc Toàn Chân:
– Độc huynh đệ! Ngươi nói thế cũng có chỗ còn chưa đúng. Chúng ta cùng nòi giống phương Bắc xuống phương Nam, kẻ chém giết trị nhậm, người buôn bán phát tài, đều là cùng hội cùng thuyền cả. Nay nếu không biết dựa lưng vào nhau, cùng lùi cùng tiến, để bọn giặc cỏ Giao Châu ngóc đầu dậy phản kháng thiên triều, thì chẳng những của cải của ngươi chẳng thể giữ được mà ngay đến cái đầu cũng không còn ở trên cổ đâu.
Độc Toàn Chân toát mồ hôi vội nói:
– Bẩm Đại tướng quân! Độc gia không có ý gì khác ngoài phụng sự cao ý của ngài. Có gì cần sai bảo, Toàn Chân này muôn chết không từ.
Lý Khắc Chính trở lại giọng vỗ về ôn tồn nói:
– Là ta nói vậy thôi. Nơi Đại La thành này, phàm là sinh kế của đám dân chúng, thương nhân, thầy bói, thầy cúng, thầy thuốc, thầy đồ từ nay giao cho ngươi cả. Cứ làm mạnh tay vào. Mọi việc có khó gì, ta sẽ bảo Phó tướng Lý Tri Thuận giúp thêm cho.
Độc Toàn Chân rời khỏi tướng phủ thành Đại La về phố cửa sông cứ thở dài thườn thượt.
*
Nhận được tin báo Dương Đình Nghệ, viên nha tướng của Khúc Thừa Mỹ đang trấn nhậm các vùng đất Ái Châu, Hoan Châu sai con rể là Ngô Quyền dâng thư xin hàng, Lý Khắc Chính cho mời Phó tướng Lý Tri Thuận vào soái phủ. Lý Tri Thuận sau một tuần trà mới thong thả hỏi:
– Chủ tướng cho gọi mạt tướng có gì sai bảo chăng?

– Lý hiền đệ bất tất phải dò hỏi ta. Ta và đệ từ buổi xuống vùng đất chó ăn đá gà ăn sỏi này đã sớm cùng vinh cùng nhục rồi. Triều Nam Hán ta, tiếng là hùng cứ một phương, nhưng suy xét kỹ trước sau đều thọ địch cả. Phía Bắc, Chu Ôn đã chiếm đến sáu bảy phần thiên hạ, xưng thiên tử ngày đêm vây ép hoàng đế ta. Bọn man di mọi rợ phương Nam anh hùng hào kiệt không phải ít. Chúng ta từ ngày vào thành Đại La này, bề ngoài tuy phẳng lặng nhưng bên trong là ngồi trên núi đao biển lửa, chín chết một sống đó thôi. Ta và Lý hiền đệ nếu không chung lưng đấu cật cùng nhau liệu việc ắt là họa đến nơi đấy.
Lý Tri Thuận thấy chủ tướng nói lời gan ruột, bèn cảm động thưa:
– Bẩm Lý huynh, tiểu đệ sau này có được chút công lao gì, phúc phận ra sao đều trông chờ ở Lý huynh cả. Xứ Giao Châu, người phương Bắc chúng ta công thành danh toại nào có mấy ai, mà ôm hận ôm nhục biết bao nhiêu người. Cứ nhìn tấm gương cha con Trương Thuận – Trương Bá Nghi, tiếp đó là An Nam Đô hộ sứ Cao Chính Bình gần đây ắt rõ. Bọn Giao Châu bề ngoài thần phục nhưng bên trong rặt những phường phản loạn khó lường lắm. Mọi việc tiểu đệ nhất nhất nghe theo lệnh huynh.
Lý Khắc Chính ôn tồn nói:
– Ta cho gọi tướng quân là để bàn việc tiếp nhận thư hàng của viên nha tướng Dương Đình Nghệ. Cứ theo chỗ ta biết, họ Dương này không phải tầm thường đâu. Y hiện hùng cứ Ái Châu, Hoan Châu, lại kết giao rộng rãi, được dân chúng yêu mến sẽ càng khó cho ta. Nếu không vì Khúc Thừa Mỹ lắm mộng hồ đồ xin Chu Ôn phong vương tước thì phương Nam này không dễ lấy thế đâu. Nay chúng đến hàng chỉ là bề ngoài, bên trong, chúng tất dùng binh sống chết với ta đó. Ta xin nghe cao ý của tướng quân.
Lý Tri Thuận trầm ngâm một lúc mới nói:
– Bẩm đại tướng quân! Bọn chúng dùng kế Tiên lễ hậu binh. Chúng ta đường đường là nước lớn buộc phải vỗ về chúng. Nay mai, ta sẽ tương kế tựu kế mời tên Dương Đình Nghệ cùng chúng tướng của hắn đến nhận lĩnh tước phong rồi giết sạch một mẻ. Bọn binh tướng Ái Châu, Hoan châu tất như rắn mất đầu mà thần phục đại tướng quân vậy.
Lý Khắc Chính nhìn viên phó tướng nói rõ từng tiếng:
– Cũng chẳng còn kế nào khác. Nay giao cho ngươi tiếp nhận thư hàng rồi chọn ngày lành tháng tốt bảo bọn họ Dương vào Đại La nhận ân thưởng của Hán triều.
Lý Tri Thuận vâng lệnh lui ra.
Sáng hôm sau, Lý Tri Thuận cho sai gọi Ngô Quyền đến dâng thư hàng của Dương Đình Nghệ.
Bên trong tướng phủ, Lý Tri Thuận ngồi oai vệ sau chiếc bàn gỗ lớn bọc da hổ, hai hàng gươm giáo sáng quắc. Đám võ sĩ tuốt đao trần quắc mắt nhìn ra phía cửa thị uy.
Ngoài chiếc sân rộng, một người cao lớn đầu chít khăn lụa xanh, thân bận bộ võ phục bằng vải thô màu chàm, chân đi giày vải, lưng đeo chiếc túi da báo khá lớn, bước đi uyển chuyển vững chãi thong thả giữa hai hàng gươm giáo tiến tới quỳ xuống thủ lễ với Lý Tri Thuận:
– Mạt tướng Tôn Quyền, con rể của tội tướng Dương Đình Nghệ đến tướng phủ Lý đại nhân xin nhận tội.
Lý Tri Thuận đang lim dim cặp mắt một mí đột ngột giật mình trước giọng nói vang như chuông khánh và tấm thân gấu lừng lững của viên tướng xin hàng vùng Ái Châu. Y không khỏi chột dạ trước thần khí anh hùng của kẻ vừa thốt ra lời nhận tội. Lập tức tự trấn tĩnh, Lý Tri Thuận ồ à cất giọng bề trên:
– Cho ngươi được bình thân! Các ngươi sớm biết tội với Hán triều cũng đáng được ta xem xét. Nay ta nói cho ngươi biết! Tên nghịch thần Khúc Thừa Mỹ đã phạm thiên uy, ăn ở hai lòng, hoàng đế ta đã kể tội mà phanh thây hắn. Các ngươi là loại tay chân nơi biên trấn, ở chỗ xa xôi không biết kịp hối cải thực bụng, nay lại dám dùng kế trá hàng với đại tướng thiên triều ư?
Ngô Quyền bình tĩnh nhìn thẳng vào Lý Tri Thuận giọng ôn tồn mà vẫn vang động ngôi đại điện:
– Bẩm đại tướng quân! Tướng quân chưa xét đến cái thế cùng của nhạc phụ tôi đã vội cho chúng tôi là trá hàng chẳng phải là ép binh tướng họ Dương vào con đường phản loạn thiên triều hay sao? Nay tôi vâng mệnh nhạc phụ, thành tâm dâng thư xin hàng. Nhạc phụ còn cho dâng danh sách gia thần gia tướng, địa đồ đường sá núi non, sản vật sắt muối đủ cả, còn chưa đủ thành tâm ư? Nếu đại tướng quân đã có bụng nghi ngờ, xin hãy giết tôi rồi đem đại binh hỏi tội nhạc phụ cũng chưa muộn.
Lý Tri Thuận càng nghe càng kinh ngạc. Cổ kim chưa thấy kẻ đi xin hàng nào lại đòi tự chém mình làm tin như vậy. Thường đã ham sống sợ chết cầu hàng tất phải lạy lục tìm con đường sống. Nay kẻ kia khí phách khác thường, phong độ hiên ngang, lời nói cứng cỏi. Xứ Giao Châu này đúng là ngọa hổ tàng long không thể xem thường.
Họ Lý đột ngột đập tay xuống bàn mắng:
– Tên hàng tướng kia, việc khu xử của Lý gia ta phải đợi ngươi bày biện cho hay sao? Nay ngươi đã không sợ chết ta sẽ cho toại nguyện. Bay đâu! Lôi cổ tên giặc cỏ này ra ngoài chém cho ta.
Đám võ sĩ ập vào lôi Ngô Quyền ra ngoài chém, Ngô Quyền gạt tay khiến mấy tên võ sĩ loạng choạng dạt cả ra, đoạn bình thản nói:
– Để ta tự đi cũng được rồi! Xin anh em chém gọn cho một nhát ta đây biết ơn lắm!
Vừa nói, Ngô Quyền vừa thong thả đi ra ngoài sân lớn, nơi có chiếc bệ gỗ lim chuyên dùng để chặt đầu các tột nhân vừa ha hả cười vang.
Khi đám võ sĩ chuẩn bị vung đao, bỗng Lý Tri Thuận rời tướng phủ, từ xa nói lớn:
– Mau dừng tay! Tráng sĩ đây quả không nhục mệnh chủ. Mau bày tiệc để ta trò chuyện với con rể Dương công. Mai này mọi việc ở Giao Châu tất phải nhờ cậy vào cha con họ Dương rồi.
*
Trong ngôi nhà lớn, thủ phủ vùng Ái Châu dùng làm chỗ hội họp đám gia thần gia tướng. Từ ngày Đại La thất thủ, Dương Đình Nghệ cùng các gia thần gia tướng càng tất bật chuẩn bị việc binh lương. Khi nghe Ngô Quyền thuật lại toàn bộ việc dâng thư hàng, ai nấy đều không khỏi khâm phục sự ứng phó nhanh nhẹn của họ Ngô. Dương Đình Nghệ nhìn mọi người nói:
– Quyền nhi quả chí khí hơn người, nay đã lừa được giặc trở về bình an vô sự. Khi để con đi vào chỗ hiểm, ta trong bụng vẫn tin con sẽ ung dung trở về. Song chắc chắn, bọn Lý Khắc Chính, Lý Tri Thuận thừa biết ta hàng chỉ là bề ngoài mà thôi. Chúng chưa giết Quyền nhi còn cho thấy binh lực của chúng không phải dồi dào hùng mạnh gì. Ta nay nên gấp tiến quân mới là giành thế thượng phong. Ý các tướng thế nào?
Mọi người nhìn nhau rồi đều dồn các cặp mắt về phía Đoàn Thành ý như muốn họ Đoàn lên tiếng trước.
Đoàn Thành thong thả đứng lên nói:
– Dương công quả đã nhìn thấy ruột gan của bọn Khắc Chính, Tri Thuận ở Đại La. Nếu chúng giết Ngô Quyền, lập tức khởi binh vào Ái Châu ắt dễ cho ta nhiều lắm. Nay chúng chơi trò dụ hàng, gọi Dương công đến Đại La để phân phong chức tước mới là kế hiểm. Trước là không làm mất lòng người Giao Châu, Ái Châu, Hoan Châu. Sau là dùng Dương công để dứt lòng người hướng về họ Khúc. Ta nhân kế ấy, lặng lẽ cho đại quân tiến thẳng ra Đại La chắc chỉ một trận là quét sạch bọn Lý Khắc Chính mà thôi.
Đoàn Thành vừa dứt lời, một vị tướng trẻ bước ra nói:
– Đoàn huynh nói chí phải! Nay Ngô huynh đã sớm lập công vào tận hang hùm lừa giặc, mạt tướng tuy bất tài xin lĩnh năm ngàn tinh binh làm tiên phong bắt Lý Khắc Chính về cho phụ thân xử tội.
Mọi người nhìn ra thấy viên tướng trẻ dáng người cao lớn, mặt rộng, mũi thẳng, vầng trán thanh thoát, dáng vẻ hiên ngang. Đó chính là Dương Tam Kha, công tử trưởng của Dương công, em rể tướng Ngô Quyền.
Mọi người à ồ đua nhau lên tiếng bàn kế tiến thủ rôm rả hẳn gian nhà lớn.
Để một lúc, Dương công mới khoác tay ra hiệu im lặng đồng thời chỉ vào Ngô Quyền hỏi:
– Quyền nhi! Ngươi vừa từ Đại La trở về, đã tận mắt thấy binh tướng Hán triều diễu võ dương oai. Nay ta hỏi ngươi, nếu xuất binh đánh đuổi giặc Bắc, phần thắng có nắm chắc được chăng?
Ngô Quyền nãy giờ không bỏ sót ý kiến một người nào thong thả bước ra nói:
– Bẩm nhạc phụ! Theo thiển ý của mạt tướng, bọn Lý Khắc Chính không đời nào tin ta hàng phục thật đâu, nhưng chúng mượn vào đó tất rêu rao binh tướng Ái Châu, Hoan Châu đã xin thần phục để phỉnh lừa các vùng đất xung quanh Đại La đến xin hàng. Khúc chúa bị bắt đi khiến lòng người không phục, các tướng cũ của họ Khúc đều ém binh thủ hiểm đợi ngày hỏi tội bọn Lý Khắc Chính mà còn chưa có thời cơ. Nay việc lớn chỉ còn trông đợi vào nhạc phụ mà thôi. Theo thiển ý của mạt tướng, nhạc phụ hãy dốc toàn bộ binh tướng Ái Châu tiến đánh Đại La, kể tội Lý Khắc Chính, lòng dân sẽ theo về, chắc chắn sẽ thành đại sự. Mạt tướng tuy bất tài xin được lĩnh ấn tiên phong đuổi giặc.
Dương Đình Nghệ nghe xong trang nghiêm nhìn mọi người nói:
– Kế của Quyền nhi rất hợp ý của ta. Dẫu vậy ta còn canh cánh một việc. Việc tiến đánh Đại La đuổi bọn Lý Khắc Chính về phương Bắc không khó nhưng làm chủ Giao Châu lâu dài chưa biết phải tính thế nào? Lại lúc đó, Ái Châu, Hoan Châu càng phải vững như bàn thạch tạo thế chân vạc mới có thể trước là đánh bại bọn viện binh phương Bắc, sau là an dân lập nghiệp mới là đại kế lâu dài.
Mọi người im lặng trước phương lược tiến thủ của Dương công. Ai ai cũng thấy mình đang đặt trên vai trọng trách lớn lao mà sẵn sàng vào núi đao biển lửa trong công cuộc đuổi giặc phương Bắc.
*
Nhận được hung tin Dương Đình Nghệ đích thân thống suất đại binh nhằm Đại La thẳng tiến, lại sai con rể Ngô Quyền làm tướng tiên phong dẫn năm ngàn binh mã đã áp sát phía Nam thành Đại La, chỉ còn cách cổng thành hai mươi dặm, Lý Khắc Chính thất kinh vội cho gọi Lý Tri Thuận vào soái phủ.
Khi Lý Tri Thuận còn chưa kịp ngồi, Lý Khắc Chính đã lập tức nói:
– Tướng quân! Họ Dương kia thật gan to bằng trời. Ta đang định lừa hắn đến để giết, hắn lại hưng binh truyền hịch kể tội ta xâm phạm đất chúng còn ra thể thống gì. Hôm trước, lẽ ra người phải giết quách con rể hắn đi rồi sớm cử binh vào Ái Châu hỏi tội hắn mới phải. Nay giặc cỏ đã đến sát Đại La, ngươi có kế gì chăng?
Lý Tri Thuận toát mồ hôi nghĩ lại việc viên tướng họ Ngô phong độ phi phàm đang lĩnh ấn tiên phong còn cách chỉ hai mươi dặm trong bụng mười phần đã run sợ đến năm sáu phần nhưng vẫn cố trấn tĩnh nói:
– Bẩm đại tướng quân! Quả là giặc cỏ đã ăn gan hùm mật gấu dám làm phản, tội không thể tha. Chúng còn lu loa kêu gọi đám tàn binh tàn tướng của họ Khúc hợp vây Đại La quả không phải loại vừa. Nay ta phải kíp cho người về Hán triều xin viện binh, một mặt cố thủ trong thành không ra đánh mới được. Giặc kia vốn quân ô hợp, chỉ vài tháng cạn sạch lương thảo tất phải rút về Ái Châu mà thôi.
Lý Khắc Chính đi đi lại lại bực bội nói:
– Chưa đánh đã thủ thành còn ra thể thống gì. Quân lương của chúng ta dư vài vạn, tướng ta lại vừa thắng lớn, nay không ra đánh, giặc kia càng được thể gọi bầy đàn của chúng đến hợp vây Đại La sẽ không phải kế lâu dài đâu.
Thấy Lý Khắc Chính có ý muốn khai chiến, Lý Tri Thuận bèn gượng nói:
– Nếu đại tướng quân quyết đánh, mạt tướng xin dẫn một vạn binh mã ngày mai xuất chiến đánh với tiên phong Ngô Quyền của giặc cỏ. Đại tướng quân hãy giữ vững bốn mặt thành trì làm kế thanh viện cho mạt tướng.
Lý Khắc Chính nghiêm giọng mệnh lệnh:
– Vì Hán triều, vì Lý gia, ta lệnh cho tướng quân đem một vạn tinh binh ngày mai xuất chiến chém tướng giặc. Chúng có thua trận xin hàng cũng chém sạch giết sạch để làm gương. Ta sẽ thống xuất đại binh sẵn sàng ứng cứu.
Lý Tri Thuận vâng dạ lui ra về tướng phủ điểm binh tướng chuẩn bị xuất chiến.
*
Đây nói tiếp chuyện Ngô Quyền dẫn năm ngàn tinh binh áp sát phía Nam thành Đại La.
Đội binh mã của Ngô Quyền ngày đi đêm nghỉ đã được hơn một tuần. Buổi qua châu Đại Hoàng, vùng đất của Đinh Công Trứ, đích thân châu mục họ Đinh chuyên chở rượu thịt, mổ trâu bò khao quân.
Đinh Công Trứ khảng khái nâng bát rượu mời Ngô Quyền nói lớn:
– Ngô tiểu đệ làm tiên phong chuyến này ắt chém tướng giặc, đoạt lại Đại La thành, giúp Dương công giành lại đất Giao Châu, công lớn bao trùm sẽ được nghi vào sử sách.
Ngô Quyền mình bận giáp phục tươi cười đáp lễ Đinh công:
– Đinh công quá khen mạt tướng. Đuổi giặc chuyến này cũng là thực hiện đạo lý của người phương Nam chúng ta, dẫu là mạt tướng hay Đinh công nào có gì khác nhau đâu.
Đinh Công Trứ thấy Ngô Quyền khí chất đường đường lại lời nói khiêm nhượng khen thầm mãi không thôi.
Cách phía Nam thành Đại La hai mươi dặm, Ngô Quyền hạ lệnh cho binh lính hạ trại, chấn chỉnh đội ngũ, kiểm điểm vũ khí, voi ngựa. Đội tiên phong ngoài một ngàn kỵ binh đều là những dũng sĩ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ngô Quyền còn có năm mươi thớt voi đã được huấn luyện kỹ lưỡng trương lá cờ lớn Ngô tiên phong nhằm hướng thành Đại La bày trận. Bốn ngàn quân bộ lục tục kéo sau. Khi trại đã hạ vững, đám voi chiến sau tuần hành quân được nghỉ một đêm khoẻ khoắn tung vòi gầm vang từng chặp.
Ngô Quyền ngồi trên bành voi chiến, mình mặc giáp phục trắng, đầu đội giáp trụ đồng đen, lưng thắt đai ngọc màu xanh, hông đeo thanh trường kiếm lớn oai phong lẫm liệt. Hai bên, năm mươi thớt voi với hàng trăm cung thủ lăm lăm lao nhọn, truỳ đồng, pháo tay sẵn sàng nghênh chiến.
Phía cửa Nam thành Đại La im phăng phắc. Từ mấy hôm trước, Lý Tri Thuận đã cho binh tướng đốt sạch làng mạc, đánh đuổi dân chúng đi hết của chỉ còn một vùng đất hoang nối dài hàng chục dặm, ngay cả tiếng gà tiếng chó cũng đều lặng ngắt, báo hiệu một trận ác chiến sắp sửa bắt đầu.
Từ tờ mờ sáng, Lý Tri Thuận đã cho kiểm điểm binh tướng, chọn lấy hơn ngàn chiến kỵ và một vạn bộ binh giáo mác sẵn sàng, cung tên đầy đủ. Họ Lý lại cho phát trước mỗi tên lính một nén bạc trắng lấy từ trong kho của Khúc Thừa Mỹ ngày binh lính chiếm thành. Binh tướng Hán triều vì thế ai nấy đều hăng hái hơn ngày thường.
Trước lúc mở cổng thành, Lý Tri Thuận cưỡi con hắc long câu cao lớn oai phong, dõng dạc hô trước hàng quân:
– Bớ các tướng sĩ! Nay giặc cỏ Ái Châu phản loạn đem thân đến nộp. Ta vâng mệnh Lý đại tướng quân cùng các ngươi bắt giết giặc cỏ. Lát nữa xung trận, phàm là binh tướng Ái Châu, các ngươi đều chém sạch giết sạch cho ta. Ai bắt được chủ tướng giặc, thưởng trăm lạng vàng. Ai giết được năm quân giặc, thưởng năm lạng bạc. Các ngươi hãy vì thể diện của Hán triều mà cùng ta giết hết giặc cỏ.
Bốn phía tiếng hô vang không dứt. Từng chặp kèn đồng ré lên đinh tai nhức óc như thay lời thề của đám binh tướng Hán triều.
Cánh cổng thành lớn phía Nam được lệnh mở toang, Lý Tri Thuận cùng đám tuỳ tướng thúc ngựa ào ạt tiến về phía trước. Hơn ngàn kỵ binh như nước vỡ bờ tràn ra rất hung hãn. Phía sau, một vạn tên lính vác giáo mác hò hét tiến theo đám người ngựa điên cuồng trong từng nhịp kèn đồng mạnh tợn khiến cả vùng náo loạn, khí thế ngút trời.
Binh tướng Lý Tri Thuận như nước vỡ bờ tràn ra khỏi cửa Nam thành Đại La cũng là lúc cánh cổng thành rít lên những tiếng lớn rồi từ từ đóng lại.
Cũng thời gian đó, trên bành voi chiến, Ngô Quyền thấy phía trước bụi bay mù mịt, tiếng kèn đồng vang động từng chặp biết là đại binh của Hán triều đang kéo đến, lập tức ra lệnh cho dàn trống đồng bắc trên những chiếc giá gỗ cao lớn nhất loạt thúc lên ầm ầm.
Cả một vùng đất đai rộng lớn chấn động tiếng âm thanh như bão giật ầm ầm.
Hơn ngàn dũng sĩ nhất tề nhảy lên lưng ngựa chiến, kẻ trường thương người đao kiếm sáng quắc chĩa về phía trước.
Trên bành năm mươi thớt voi đám cung thủ phấn khích múa cung tên, giương truỳ đồng đợi giặc.
Lũ voi chiến nghe tiếng trống trận nhất tề gầm lên những tiếng kinh thiên động địa khiến chim chóc trên không trung đập cánh bay loạn xạ, có con va vào nhau rơi lịch bịch ngay xuống chân voi.
Khi hồi chiêng trống còn chưa dứt, đám kỵ binh dẫn đầu là Lý Tri Thuận đã lướt tới trước trận. Lý Tri Thuận ghìm cương cùng hơn ngàn kỵ binh khép thành đội ngũ cách một tầm tên. Họ Lý giáp trụ oai phong chỉ vào Ngô Quyền đang nghễu nghện trên bành voi mắng:
– Thằng nhãi ranh kia! Ngươi không biết nhục hôm trước khom lưng quỳ gối trước ta dâng thư xin hàng nay mặt mũi nào dám gặp bản tướng quân nữa!
Trên bành voi chiến, Ngô Quyền cười lớn quát lại:
– Ngươi thân làm tướng mà cái kế cỏn con đó cũng không biết ư? Nay ta vâng mệnh nhạc gia, điểm binh tướng xuống hỏi tội các ngươi. Những là thành trì quân lương, đền miếu đình chùa người Giao Châu ta, nếu các ngươi thuận tình trao trả không sứt mẻ ta sẽ tha tội, còn cấp voi ngựa lương thuyền cho các ngươi về phương Bắc giữ lấy mạng sống đến già tuyệt đối không được xâm phạm đất ta. Nhược bằng muốn phân tài cao thấp thì cái gương Dương Sằn, Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình còn sờ sờ ra đó. Ngươi hãy mau cùng chúng tướng xuống ngựa xin hàng chẳng phải là hơn ư?
Lý Tri Thuận như phát điên, huơ đao xốc ngựa lên phía trước mắng:
– Ngươi hãy câm cái mồm chó của ngươi lại, xuống đây phân tài cao thấp với gia gia ngươi. Đại tướng của Hán triều sẽ dạy cho lũ man di mọi rợ các ngươi một phen mới được.
Các tướng sĩ trên bành voi trương cung lắp tên toan nhằm bắn vào Lý Khắc Chính. Thấy vậy Ngô Quyền bèn hô lớn:
– Lý Tri Thuận! Ngươi muốn phân cao thấp với ta, ta cũng cho ngươi được toại nguyện, kẻo lát nữa bị voi giày chết xuống suối vàng lại trách ta không cho ngươi cơ hội. Nội trong năm mươi hiệp, ta sẽ bắt sống ngươi để mọi người biết Giao Châu là đất có chủ, Ái Châu là đất có anh hùng.
Lời còn chưa dứt, Ngô Quyền đã như bay từ trên bành voi xuống lưng con bạch long câu luôn dắt theo cùng tên lính vác trường thương của họ Ngô. Ngô Quyền nắm chắc trường thương, oai phong tế ngựa tiến thẳng ra phía trước.
Lý Tri Thuận cả kinh còn chưa kịp mắng lại đã thấy viên tướng Ái Châu nhanh như chớp xẹt vung thương nhằm đầu con hắc long câu đập mạnh xuống. Họ Lý vội hoành ngang đại đao đỡ đường thương hiểm rồi vội vã quành ngựa trở lại sử dụng đao phạt ngang bổ dọc khí thế rất mạnh. Loáng cái, hai ngựa quấn vào nhau, bụi tung mù mịt. Tiếng đao thương va chạm rợn người.
Ngô Quyền càng đánh càng hăng, đường thương vun vút khiến Lý Tri Thuận không khỏi kinh động trong lòng. Vốn là một tướng lão luyện, y biết đã gặp phải địch thủ mạnh hơn mình nhưng chỉ biết than thầm trong bụng. Hơn ba mươi hiệp trôi qua, họ Lý càng lúc càng đuối sức chống đỡ loạng choạng. Các bộ tướng của Lý Tri Thuận thấy vậy bất chấp thể diện đồng loạt hò nhau thúc ngựa kẻ đao người bát xà mâu xông vào Ngô Quyền đánh nhầu. Ngô Quyền hét to một tiếng, đánh bạt đám tuỳ tướng, quành ngựa trở lại tót lên bành voi chiến trỏ vào Lý Tri Thuận mắng:
– Ta hãy tạm để cái mạng chó của ngươi lại đó. Nay ngươi hãy xem đội voi trận của ta giày xéo đám quân ăn cướp phương Bắc các ngươi đây.
Lời Ngô Quyền còn chưa dứt, theo mệnh lệnh chủ tướng, nhất loạt pháo tay đều được các dũng sĩ trên mình voi ném ầm ầm vào đầu đám ngựa Bắc cũng là lúc năm mươi thớt voi gầm rống xông thẳng vào giữa trận của Lý Tri Thuận. Hai bên cánh và phía sau, các kỵ binh Ái Châu nhất tề hò hét trương cung bắn thẳng vào kỵ binh Hán triều. Tiếng trống đồng trống cái thúc ầm ầm. Binh tướng Ái Châu khí thế ngút trời xông thẳng vào đánh giặc.
Lý Tri Thuận cả kinh còn chưa kịp mệnh lệnh gì đã thấy đàn voi ập đến trong nháy mắt. Ngựa Bắc thấy voi trận sợ hãi hí vang, đua nhau quay đầu chạy thục mạng dưới làn mưa tên của binh lính Ái Châu. Hai ngàn kỵ binh phút chốc vỡ toang trận pháp, kẻ chết người bị thương la liệt. Họ Lý không sao cản được chúng cũng đành lẩn lút vào trong đám kỵ binh chạy ngược trở về cửa Nam thành Đại La. Đến khi hơn vạn quân bộ tiếp ứng đến nơi kỵ binh của họ Lý đã thiệt hại đến sáu bảy phần cũng là lúc Ngô Quyền cho khua chiêng thu quân. Lý Tri Thuận thấy trận đầu đã thiệt mất hơn ngàn kỵ binh không còn khí thế chiến đấu nữa bèn hạ lệnh cho đại quân trở vào thành.
*
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ đốc xuất đại quân từ Ái Châu tiến ra Bắc.

Ngay sau khi sai Ngô Quyền cùng năm ngàn binh tướng thẳng tiến Đại La, Dương Đình Nghệ cho kiểm điểm binh lương được hơn vạn người ngựa, lại cho Dương Tam Kha vào Hoan châu lấy thêm binh lính, voi ngựa được hơn sáu ngàn quân khí thế rất hăng. Dương công cho sắp xếp các đội binh mã theo thứ tự, đội cũ kèm đội mới, cựu binh giúp tân binh vừa thao luyện trận pháp vừa cắt đặt trước sau để đại quân sớm lên đường. Dương công thân làm chủ tướng, thống xuất đại quân gần hai vạn cùng năm mươi thớt voi mới điều từ Hoan châu lập đội tiên phong trương cờ đánh đuổi Lý Khắc Chính. Dương công lại cho liên tiếp truyền hịch kể tội nhà Nam Hán vô cớ bắt giết Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ, thoán vị Đường triều, làm điều càn rỡ bạo ngược khiến đi tới đâu lòng dân nô nức theo về tới đấy. Đại quân đến châu Đại Hoàng, châu mục Đinh Công Trứ thân ra nghênh đón, cùng các hương thân phụ lão đem rượu thịt khao thưởng quân sĩ.
Dương Đình Nghệ ân cần nói với Đinh Công Trứ:
– Đinh hiền đệ! Thật là vạn bất đắc dĩ người phương Nam chúng ta mới phải cầm gươm giáo đuổi lũ giặc Bắc. Ta cùng đại quân ra Bắc chuyến này trước là để báo thù rửa nhục cho Khúc chúa, sau là giữ vững cơ đồ của người An Nam chúng ta. Hiền đệ có cao kiến gì không?
Đinh Công Trứ xúc động nói:
– Dương huynh đi chuyến này cũng là để làm vẻ vang tổ tiên nòi giống người An Nam ta. Phương Bắc phương Nam chia nhau đời đời tự chủ mới là hợp lẽ trời. Tiểu đệ tuy bất tài xin được đem quân bản bộ theo Dương huynh đuổi lũ giặc Bắc về đất chúng.
Dương Đình Nghệ khảng khái nói:
– Đinh hiền đệ! Ta có việc này khẩn nhờ đệ. Việc đuổi bọn Lý Khắc Chính ta cùng các tướng Ngô Quyền, Đoàn Thành, Dương Tam Kha sẽ đảm đương được. Việc đánh giặc Bắc không thể ngày một ngày hai mà xong đâu. Ta đồ rằng viện binh nhà Nam Hán tất kéo xuống nay mai. Bởi thế, việc binh lương vùng Hoan châu, Ái Châu chính là sự thành bại của đại cuộc vậy. Nay ta nhờ đệ vào Hoan châu trưng tập binh lương, voi ngựa, thóc gạo, muối sắt, phòng khi phải chống nhau lâu dài với Hán triều. Việc này nào có kém gì việc giết giặc ngoài chiến trường. Ngoài hiền đệ ra không ai đương nổi trọng trách này đâu.
Đinh Công Trứ nghiêm trang nhận lệnh nói:
– Tiểu đệ xin nhận uỷ thác của Dương huynh. Vùng Hoan châu, Ái Châu vốn là đất bản bộ của Dương huynh, lòng người đều theo về chắc việc binh lương sẽ đủ đầy để Dương huynh có đủ lực lượng, lương thảo dồi dào chống nhau lâu dài với Hán triều, tạo dựng công nghiệp ngàn năm có một cho người An Nam ta.
Đại quân đi rồi, Đinh Công Trứ còn bần thần mãi mới cùng các hương thôn, đầu mục, gia thần gia tướng bàn bạc việc lớn của Dương Đình Nghệ giao cho.
*
Đây nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Sau trận thua binh cổng Nam thành Đại La, sĩ khí binh tướng Hán triều suy giảm rõ rệt. Cảnh tượng đàn voi trận giày xéo đám kỵ binh của Lý Tri Thuận khiến quan quân thành Đại La nghĩ đến là kinh hãi. Đã thế, ngay hôm sau, Ngô Quyền cùng đại đội voi chiến, hơn nghìn kỵ binh, bốn nghìn bộ binh áp sát cổng Nam thành suốt đêm thúc trống trận ầm ầm càng làm binh tướng Đại La mất ăn mất ngủ. Hôm trước, sau trận đại bại, còn chưa kịp cởi giáp, Lý Tri Thuận vào thẳng soái phủ quỳ xin chịu tội nói:
– Mạt tướng thua trận xin đại tướng quân xử theo quân pháp.
Lý Khắc Chính còn chưa hết bàng hoàng khi nghe cấp báo hơn nghìn kỵ binh bị voi giày chết nơi cửa Nam thành nhìn tướng bại trận một lát rồi rời soái phủ đứng lên đỡ Lý Tri Thuận ôn tồn nói:
– Thắng bại là việc thường của binh gia, tướng quân bất tất phải tự trách mình. Việc khai chiến là mệnh lệnh của ta. Không ngờ bọn giặc cỏ cậy có voi chiến làm mất nhuệ khí quân ta. Ta cũng đã vừa cấp báo về triều đình xin viện binh tất nay mai trong ứng ngoài hợp giặc cỏ kia sẽ tự diệt vong. Tướng quân hãy mau về chỉnh đốn quân mã, thành cao hào vững đồng thời thám sát kỹ động tĩnh của giặc cỏ.
Lý Tri Thuận từ từ đứng dậy cảm tạ nói:
– Đại tướng quân gia ân mạt tướng xin cảm tạ. Giặc cỏ binh khoẻ tướng giỏi không phải hạng tầm thường đâu. Viên tướng dâng thư hàng hôm trước quả là mãnh tướng muôn người khó địch. Chẳng có đám tuỳ tướng không mau vào cứu, chắc mạt tướng đã không còn về được để gặp đại tướng quân rồi. Chúng ta phải cẩn thận lắm mới được.
Khi Lý Tri Thuận đi rồi, Lý Khắc Chính còn vân vi mãi.
Hồi thứ hai
Ngoài sự tài trí của Ngô tướng quân, chính tâm đức luôn bao dung nhường nhịn của người anh rể đã khiến Dương Tam Kha luôn tâm phục khẩu phục Ngô Quyền.
HỒI THỨ HAI
Ôm mộng bá vương, vua Nam Hán giữa dòng thay ngựa
Kết giao hào kiệt, Dương Đình Nghệ vây hãm La thành
Nhận được tin cấp báo từ Giao Châu, triều thần Nam Hán không dám nấn ná vội bẩm lên hoàng đế. Trước đó, nhận thấy nhà Hậu Lương bên trong quyền thần chuyên chế, bên ngoài các phiên trấn xưng vương vô số, Lưu Nham bèn tự mình lên ngôi hoàng đế, bố cáo thiên hạ, xây dựng triều đại Nam Hán, cử binh tướng thảo phạt các nơi ôm mộng bá vương. Việc sai Lý Khắc Chính đem đại binh tiến chiếm Giao Châu, tuyệt diệt họ Khúc cũng là để đạt giấc mộng lớn của Hán đế. Vẫn biết Giao Châu là đất hiểm, song Hán đế cho rằng, có bình định phương Nam, mở mang bờ cõi, vơ vét sản vật, tạo dựng thiên uy mới dễ bề tranh hùng ở Trung Nguyên. Bình sinh, Hán đế Lưu Nham rất ưa các văn thần hoạch định triều chính. Hán đế còn là người tinh thông binh pháp, mưu thuật thâm sâu, chí lớn nuốt thiên hạ nên chiến tranh liên miên không dứt. Trong buổi thiết triều, Hán đế giận dữ cầm biểu xin viện binh của Lý Khắc Chính ném thẳng xuống dưới đám quần thần quát mắng:
– Lũ các ngươi chỉ giỏi khua môi múa mép, binh tướng Hán triều ngoài ngàn dặm lâm trận bị hại thử hỏi thiên uy ở đâu. Ta trước đã nói, Lý Khắc Chính sau khi chiếm cứ Giao Châu phải mau chóng tiến binh về phương Nam thu phục Ái Châu, đoạt lấy Hoan châu rồi chia đường thuỷ bộ mà tiến đánh Chiêm Thành mới là đại kế giành thiên hạ. Nay một tòa thành cỏn con còn lung lay sớm tối đâu phải là tài cán của bậc anh hùng. Các ngươi hãy mau chọn tướng giỏi, đem đại binh xuống Giao Châu thực hiện kế sách của ta mới được.
Đám văn võ triều thần xì xầm bàn tán không ai dám ngẩng đầu lên.
Đợi Hoàng đế có phần nguôi giận, thừa tướng Tô Chương mạnh dạn đứng lên tâu:
– Hoàng thượng thánh minh! Việc bình định phương Nam giương cao uy thiên tử là thuận lẽ trời, hạ thần xét thấy không phải bàn nữa. Nay theo ý chỉ của hoàng đế phải chọn người hiền đức, lại phải lão luyện việc binh nhung mới có thể đảm đương việc lớn. Lão thần xin tiến cử đại tướng Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu. Bọn Lý Khắc Chính cho triệu về phủ dụ điều khiển việc khác. Xin hoàng thượng minh xét.
Không khí trong triều im phăng phắc.
Một lúc, Hán đế mới thong thả nói:
– Tô thừa tướng tuổi tác đã cao còn đêm ngày mưu cầu việc nước quả đáng khen thưởng. Lý Tiến là người có thể tin cậy giao phó. Nay ta giao thừa tướng chuẩn bị mọi việc để Lý Tiến nam chinh. Nên nhớ, đại quân ta sớm muộn cũng phải vào Trung Nguyên tranh hùng. Bốn quân thuỷ bộ phải sẵn sàng chuẩn bị nam chinh bắc chiến. Các ngươi hãy mau người nào việc nấy chớ có chậm trễ làm lỡ việc lớn của ta.
*
Đây nói tiếp chuyện binh tướng Ngô Quyền hạ trại nơi cổng Nam thành Đại La.
Từ buổi xua voi đánh bại kỵ binh của Lý Tri Thuận nơi cổng Nam thành Đại La, Ngô Quyền cùng các tướng cho lập trại liên hoàn vây kín phía Nam thành. Binh lính Ái Châu người người phấn chấn. Ngô Quyền lại cho người đi tìm đám dân chúng buổi trước bị binh lính Hán đốt phá làng mạc xua đuổi xa hàng chục dặm. Ngô tướng quân cho vỗ về dân chúng, cấp thóc gạo, gà lợn, yên ổn muôn dân. Ngô tướng quân lại cho kể tội giặc Bắc tham lam tàn bạo bắt giết Khúc chúa, tàn sát dân lành. Muôn dân trước đã từng chịu ơn họ Khúc, nay thấy bộ tướng của ngài kéo về đuổi giặc ai nấy mừng lắm. Hàng chục dặm làng mạc tiêu điều ngày trước cư dân lục tục kéo về theo nghề cũ. Ai cũng mong Ngô tướng quân mau chóng đại phá thành Đại La để mọi người thêm sinh kế làm ăn. Đang buổi đi xem xét, uý lạo muôn dân, bỗng viên tuỳ tướng phi ngựa tới báo đại quân của Dương công đã tới. Ngô Quyền vội lên ngựa về trại lớn đã thấy nhạc phụ Dương Đình Nghệ võ phục uy nghi tươi cười cất lời khen:
– Quyền nhi! Con ta quả là mãnh tướng trên chiến trường. Trận đầu ra quân đã đánh tan đội kỵ binh tinh nhuệ của Lý Khắc Chính. Cứ thấy phép hạ trại của con ta vững lòng lắm. Lại biết luôn mấy hôm, con thân đi uỷ lạo tướng sĩ, ân cần chăm sóc muôn dân, ta càng mừng lắm. Việc đuổi bọn Lý Khắc Chính kia về nước chúng đâu có khó gì nhưng việc an dân để làm vững ngôi nước mới là việc khó. Ta thấy con hành động quả đoán, suy nghĩ sâu xa nên rất an lòng. Nay đại binh đã đến, việc đuổi giặc Bắc con có mưu kế gì chăng?
Tôn Quyền thủ lễ rồi nói:
– Bẩm nhạc gia! Ân uy của Khúc chúa muôn dân còn cảm động huống hồ các thuộc hạ tướng lĩnh của ngài ở nơi đất hiểm hướng về còn nhiều lắm. Nay theo ý mạt tướng, nhạc gia hãy cho người tới Hồng châu mời Phạm Lệnh công, tới Phong Châu mời Kiều công cùng hội binh đuổi bọn Lý Khắc Chính mới là kế vẹn toàn.
Dương Đình Nghệ cười lớn nói:
– Quyền nhi quả sâu sắc hơn đời. Phạm Lệnh công, Kiều công và ta đều là nha tướng mấy đời chịu ơn họ Khúc nay lẽ nào mình ta dám tranh công. Khi mới khởi binh ở Ái Châu, ta đã cho người kíp đi gặp Phạm Lệnh công và Kiều công rồi.
Tôn Quyền không nói, thầm phục tài điều binh khiển tướng, tầm nhìn dài rộng của nhạc phụ mà càng thấy vững lòng. Suy nghĩ một lát, lại nhìn không thấy Đinh Công Trứ đi theo, Ngô Quyền bèn hỏi:
– Nhạc gia đã cử Đinh Công Trứ vào Hoan châu coi sóc việc binh bị quân lương rồi chăng?
Dương Đình Nghệ rạng ngời nét mặt nói:
– Quyền nhi quả thấu hiểu bụng ta. Việc quân cơ không nói con đều suy xét mười phần đúng cả khiến ta càng yên tâm. Nay ta giao cho con toàn bộ việc vây đánh thành Đại La. Làm thế nào đừng để hao tổn xương máu sĩ tốt mới là kế vẹn toàn.
Khi Dương công đi rồi, Ngô Quyền còn vân vi mãi. Ngô tướng quân vô cùng cảm ân đức của họ Dương. Khi ngài gả con gái yêu cho, không ít người nhìn Ngô Quyền với con mắt nghi kỵ. Hơn mười năm kiêm quản các việc của họ Dương, Ngô Quyền lúc nào cũng thận trọng giữ gìn. Dương Tam Kha, người em rể tài năng xuất chúng văn võ kiêm toàn và cũng rất hợp ý với Ngô Quyền và chị gái Dương Thị nhưng không hiểu sao Dương Đình Nghệ lại luôn đặc biệt tin tưởng Ngô Quyền. Khi được phân làm phó tướng cho Ngô Quyền, Dương Tam Kha nhất mực tuân theo. Ngoài sự tài trí của Ngô tướng quân, chính tâm đức luôn bao dung nhường nhịn của người anh rể đã khiến Dương Tam Kha luôn tâm phục khẩu phục Ngô Quyền. Cùng là bậc dòng dõi anh hùng, ân đức của châu mục Ngô Mân đã từ lâu khiến họ Dương nể trọng. Từ trong sâu thẳm, Ngô Quyền luôn thấy rõ sâu sắc điều đó. Điều này đã khiến mọi hành xử của hai họ Dương – Ngô khăng khít mấy chục năm nay.
*
Lại nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Sau buổi Lý Tri Thuận bại binh nơi cổng nam thành, một mặt Lý Khắc Chính cho người về triều đình xin viện binh một mặt đôn đốc binh tướng phòng thủ thành Đại La rất nghiêm ngặt. Phàm là những làng mạc bên ngoài thành họ Lý đều cho xua đuổi dân chúng dạt đi đến vài dặm. Họ Lý còn cho dồn bắt dân phu đào đắp những chỗ xung yếu. Nhiều nơi Lý Khắc Chính cho phá cả nhà cửa đình chùa sung gỗ đá để đắp thành nên đám phu phen dân chúng oán thán lắm mà trốn biệt đi cả. Việc quân càng bối rối, Lý Khắc Chính thường nổi nóng quát tháo binh tướng không mấy kẻ dám đến gần. Một hôm, họ Lý cho triệu Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân đến soái phủ nén bực tức hỏi:
– Ta được tin Hán triều cử đại tướng Lý Tiến xuống Giao Châu đánh dẹp giặc cỏ. Bề ngoài là thanh viện Đại La kỳ thực bên trong là nhòm ngó chức thứ sử Giao Châu của ta, khép ta vào tội bại binh đổi về phong toả khép tội. Đây chắc là kế hiểm của lão già Tô Chương muốn cài cắm thuộc hạ mà hãm hại ta. Các ngươi có ý gì mau nói ra để cùng ta hành xử.
Lý Tri Thuận nhìn Độc Toàn Chân với vẻ mặt đầy biểu cảm. Độc Toàn Chân dè dặt nói:
– Thuộc hạ xưa nay chỉ quen đường buôn bán kiếm ăn chứ việc binh lương quân cơ triều chính nào có biết gì. Nay vâng mệnh Lý đại nhân, phàm là vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc, thóc gạo trâu bò đại nhân cần bao nhiêu thuộc hạ dẫu táng gia bại sản cũng phải chu cấp đủ còn mọi việc đánh giữ thế nào tại hạ không dám bàn đến.
Lý Tri Thuận vội tiếp lời:
– Bẩm đại tướng quân! Hán triều có cái khó của Hán triều! Hán đế chí trùm thiên hạ, luôn muốn hưng binh tranh hùng ở Trung Nguyên tất phải đánh dẹp phương Nam, thể hiện long uy thiên tử. Nay lại xét đại tướng quân vừa mới chiếm đất đoạt thành bắt chúa giặc dâng về Phiên Ngung công lao rõ ràng không thể một sớm một chiều mà xoá đi được. Dẫu là Tô thừa tướng tiến cử tay chân xuống Giao Châu thực hiện kế hiểm thay ngựa giữa dòng chắc chắn Hán đế vẫn sẽ trọng dụng đại tướng quân bởi nếu không lòng người sẽ ly tán, mai này nhân tài ai còn dám theo về với Hán đế nữa. Nay theo ý mạt tướng, ta hãy cố thủ thành đợi Lý Tiến kia đến xem hắn khu xử ra sao. Nếu Lý Tiến dốc toàn lực đánh tan binh tướng họ Dương ta cứ theo ý Hán đế giao lại La thành cho Lý Tiến là được. Nhược bằng chưa đánh đã đòi đất đòi thành ta phải có kế khác đề phòng trước là hơn. Mọi sự sắp đặt hẳn đại tướng quân đã có chủ ý rồi.
Nghe Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân bẩm báo, Lý Khắc Chính trầm ngâm một lát mới nói:
– Giao Châu vốn không phải đất đai của người phương Bắc chúng ta. Phong tục khác nhau lòng người càng khác nhau một trời một vực. Ta ngày trước được cử đi chinh phạt cũng là vạn bất đắc dĩ mà thôi. Nay tình thế phía trước giặc cỏ voi khoẻ binh mạnh, chúng còn phát hịch trưng tập tay chân các nơi của họ Khúc tiến về vây hãm La thành, phía sau thiên uy khó lường, các quan lại triều đình chỉ rắp tâm thay ngựa giữa dòng quả là chúng ta khó giữ được tính mạng. Luôn mấy hôm nay ta suy nghĩ lao lung lắm. Đại La xét cho cùng cũng chỉ là một toà cô thành mà thôi. Dẫu là ta hay Lý Tiến có gì khác nhau đâu. Bọn man di mọi rợ phương Nam bề ngoài tưởng là yếu đuối nhưng bên trong chúng đều đất nào chủ nấy, đời đời có anh hùng hào kiệt không dễ gì người phương Bắc trị nhậm được chúng đâu. Từ đó mà xét, ta nên cử người đón đầu trước đại quân của Lý Tiến mà bàn giao thành Đại La cùng với chức tước phẩm phục rồi xin về quê dưỡng già mới là kế vẹn toàn.
Lý Tri Thuận tỏ vẻ xúc động nhìn thẳng vào Lý Khắc Chính nói:
– Cũng do mạt tướng bất tài khinh xuất không diệt được giặc cỏ khiến nhuệ khí quân ta mất đi mới để liên luỵ tới đại tướng quân.
Độc Toàn Chân vội nói:
– Đại tướng quân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều. Thành Đại La quân còn trên hai vạn, tinh binh mãnh tướng gồm đủ, lương thảo còn nửa năm nữa lo gì bọn giặc cỏ. Ta cứ thành cao hào vững đợi đại quân Hán đế đến rồi trong ứng ngoài hợp tất phá được giặc. Khi ấy chắc rằng Hán đế sẽ hạ chỉ để Lý Tiến đánh thẳng xuống phương Nam thì đương nhiên đại tướng quân càng kê cao gối ngủ ở La thành rồi.
Lý Khắc Chính nhìn hai kẻ tâm phúc thấy rõ được trong lúc nguy nan vẫn có người hiến kế tự dưng cảm động chân thành nói:
– Các huynh đệ đều là chân tay cật ruột của ta. Đời này kiếp này được sát cánh cùng các huynh đệ cũng là thoả chí bình sinh vậy. Còn như việc đánh giữ nay mai chỉ còn biết trông vào ý trời mà thôi.
*
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ cử người đưa thư đi các nơi tìm tướng cũ của Khúc Thừa Mỹ để cùng mưu việc vây hãm La thành.

Vâng mệnh Dương công, Đoàn Thành cùng đám tuỳ tướng cải trang làm thương lái đến thẳng  đất Trà Hương thuộc Đằng Châu, vùng đất được cai quản bởi cha con họ Phạm là Phạm Lệnh Công và Phạm Bạch Hổ cũng là một nha tướng của họ Khúc ngày trước. Phạm Lệnh Công nối đời làm chủ đất Đằng Châu, ơn đức chăn dân mở đất đã thấm vào muôn nhà. Ngày họ Khúc giữ ngôi nước vẫn khen Phạm Lệnh Công là bậc hào trưởng bên ngoài mềm mại bên trong cương cường tự chủ mà cho quyền kiêm quản toàn bộ các vùng đất thuộc Đằng Châu.
Từ buổi Lý Khắc Chính xua binh xuống La thành bắt Khúc Thừa Mỹ về Phiên Ngung, Phạm Lệnh Công đã lập tức cho trưng tập binh mã lương thuyền ngày đêm bàn mưu khởi sự. Con trai trưởng là Phạm Bạch Hổ nhiều lần xin cha cho xuất binh đánh xuống La thành nhưng Phạm Lệnh Công chưa quyết. Kíp nghe tin Dương Đình Nghệ khởi hơn hai vạn binh mã voi ngựa lại cho Ngô Quyền làm tiên phong đã áp sát La thành Phạm Lệnh Công mừng lắm nói với con:
– Ta đoán sớm muộn gì tinh binh mãnh tướng Ái Châu cũng sẽ khởi sự hỏi tội đánh đuổi giặc phương Bắc. Nay quả nhiên Dương Đình Nghệ xuất binh Bắc phạt. Nay mai Dương huynh tất cho người đến hẹn binh với ta.
Phạm Lệnh Công vừa nói dứt lời đã có gia nhân vào bẩm báo có người của Dương Đình Nghệ vào xin gặp. Phạm Bạch Hổ cung kính nói:
– Phụ thân đoán việc như thần, nay mai xuất binh tiến thủ thế nào để báo ân rửa nhục cho Khúc chúa vừa mở mang cơ nghiệp mong phụ thân chỉ dạy. Lát nữa tiếp người của Dương Đình Nghệ nếu kẻ kia cậy có tinh binh mãnh tướng mà càn rỡ phụ thân chỉ cần ra hiệu con sẽ cho đám võ sĩ giết quách chúng đi, ta tự tiến binh đoạt lấy La thành, đuổi Lý Khắc Chính về phương Bắc, phân phong ranh giới với binh tướng Ái Châu cũng chưa muộn.
Phạm Lệnh Công ôn tồn nói:
– Hổ nhi! Việc binh là việc hiểm. Nếu chỉ biết chém giết thoán đoạt không phải là chí khí của bậc anh hùng. Phải biết thương đến muôn dân mà giữ vững giềng mối xã tắc mới là chí khí của Phạm gia ta. Ngươi nên nhớ họ Phạm chỉ có thể làm thần tử mà hưởng phúc phận của mình thôi. Cãi lại ý trời chỉ là rước vào đổ gãy trong sớm tối.
Phạm Bạch Hổ lắng nghe Phạm công vừa nói hết cũng là lúc gia nhân dẫn đoàn khách người Ái Châu bước vào sảnh đường. Chia ngôi chủ khách ngồi xong, Đoàn Thành bước lên cung kính vái chào Phạm công vừa nói:
– Tiểu sinh là Đoàn Thành người Ái Châu vâng mệnh Dương công tới chào Phạm công. Tiểu sinh vẫn nghe Phạm công ơn đức khắp nơi, lòng người Đằng Châu muôn một hướng về. Nơi thôn cùng xóm vắng nhà nhà đều thóc lúa đầy bồ, trâu bò sinh sôi miên man không dứt quả là phúc ấm của muôn dân vậy.
Phạm Lệnh Công thấy Đoàn Thành dáng người thanh thoát, ăn nói từ tốn khiêm cung trong lòng đã cảm mến đến bảy tám phần bèn ôn tồn nói:
– Đâu dám! Đâu dám! Ta vốn được Khúc chúa nối đời giao việc Đằng Châu, đêm ngày không dám khinh xuất, muôn dân còn nhiều cơ cực nào đã có công lao gì. Đâu được như Dương công, đất trải trăm dặm, dân các tộc thượng du, hạ bạn, cửa sông, cửa biển muôn nẻo theo về. Lại nữa, hôm trước ta còn đương muốn vào xin chủ ý của Dương công việc đuổi giặc Bắc, nay đã thấy tinh binh vài vạn áp sát La thành, đội voi chiến của Dương công nửa ngày xéo tan kỵ binh của Lý Khắc Chính mà lòng kính phục. Dương công quả đoán hành sự, mới là cột chống trời của phương Nam chúng ta. Nay có gì Dương công sai bảo, ta quyết không chậm trễ.
Đoàn Thành nghe như nuốt từng lời. Xưa nay, thiên hạ vẫn đồn Phạm Lệnh Công tài trí ơn đức đều hơn người. Nay chỉ vài câu nói đã vào thẳng việc lớn mà vẫn nhẹ nhàng như không. Sẵn lòng để người khác điều khiển mình mà vẫn giữ được nét ôn hoà chừng mực, quả không phải người thường. Đoàn Thành cung kính đáp:
– Xin đa tạ Phạm công! Dương công có dặn tiểu sinh mọi chuyện hợp vây giặc Bắc ở La thành mong Phạm công sớm định đoạt cho. Hiện nay, Hán đế cuồng vọng phương Nam đã dùng kế thay ngựa giữa dòng, sai Lý Tiến đem năm vạn tinh binh đang đêm ngày tiến xuống thành Đại La thay đổi cho Lý Khắc Chính. Nếu để chậm trễ, chúng trong ứng ngoài hợp tất không chỉ Đại La nguy khốn mà các vùng Đằng Châu, Ái Châu, Hoan châu, vó ngựa Bắc sẽ giẵm đạp lên mồ mả tổ tiên của chúng ta. Mong Phạm công sớm liệu cho.
Phạm Lệnh Công còn đang vân vi bỗng vị tướng cao lớn đứng phía sau không nhịn được gầm lên:
– Bọn giặc Bắc vẫn chứng nào tật nấy chỉ muốn ăn tươi nuốt sống các vùng đất phương Nam chúng ta. Phụ thân hãy mau mệnh lệnh xuất binh cùng với binh tướng Ái Châu vào bắt Lý Khắc Chính kíp sửa soạn chống nhau với Lý Tiến đuổi giặc Bắc về đất chúng. Con tuy bất tài xin năm ngàn tinh binh ngay đêm nay theo đường thuỷ áp sát phía đông La thành đánh giặc.
Đoàn Thành nhìn kỹ thấy vị tướng trẻ mặt to tai lớn, khí độ hiên ngang, cặp mắt sáng quắc như sao khiến người khác phải lạnh mình thầm đoán đây chính là Phạm Bạch Hổ, người mới sinh đã có nhiều điềm lạ, mới hơn mười tuổi đã nổi tiếng võ vật cung kiếm hơn người, lại có biệt tài bơi lặn. Họ Phạm rèn con rất nghiêm. Không chỉ theo đường võ, Phạm công còn mời các thầy giỏi đến dạy đám con cháu trong nhà đường ăn nét ở nề nếp gia phong lắm. Phạm Bạch Hổ được giao kiêm quản huấn luyện đám gia đinh, nhất là đội thương thuyền vừa buôn bán các vùng cửa sông cửa biển vừa khơi thông luồng lạch bến bãi để muôn dân Đằng Châu thuận tiện làm ăn. Tiếng tăm Phạm Bạch Hổ truyền đi khắp nơi, nhà nhà yêu mến. Phạm Lệnh Công cũng vì thế mà được thong thả. Vừa nghĩ, Đoàn Thành vừa cung kính nói:
– Vị này có phải là tướng quân Phạm Bạch Hổ chăng? Buổi xua voi giày xéo kỵ binh Lý Khắc Chính, tướng Ngô Quyền quân Ái Châu còn nói nếu có Phạm Bạch Hổ ắt đã xông thẳng vào thành phá tan bọn giặc Bắc rồi. Nay được diện kiến quả là may mắn vậy.
Phạm Bạch Hổ khuôn mặt khẽ giãn ra còn chưa dám nói, Phạm công ôn tồn bảo:
– Có phải Ngô tướng quân là con của hào trưởng Đường Lâm Ngô Mân chăng? Lão phu cũng lâu lắm rồi không gặp Ngô huynh, nay các bậc hậu thế chí khí hơn đời quả là phúc phận cho người Nam lắm. Còn như với Bạch Hổ phải học hỏi nhiều lắm. Nơi chiến trận, đánh giặc không phải chỗ của kẻ nhát gan, lại càng phải lấy cơ trí làm đầu đuổi giặc mới mong được vẹn toàn. Cứ như trận chiến vừa rồi cho thấy Ngô Quyền hơn đời nhiều lắm. Phép đánh giặc phải khi mau khi chậm. La thành với người phương Nam chúng ta là trung tâm trời đất linh khí non sông, còn đối với đám giặc Bắc chỉ là một tòa cô thành mà thôi. Đêm nay ta giao binh cho con toàn quyền xuống La thành cùng binh tướng Ái Châu hãm giặc. Nên nhớ tuyệt đối không được tranh công. Đánh La thành là trận nhỏ. Mai kia, đánh quân của Lý Tiến cũng chưa phải là trận cuối cùng đâu. Giặc Bắc có bao giờ thôi nhòm ngó đất ta đâu. Phải đánh cho chúng đại bại không còn manh giáp để hễ nghĩ đến chinh phạt phương Nam là run sợ tận trong tim óc mới là đại kế lâu dài.
Đoàn Thành cung kính vái tạ:
– Cảm ơn Phạm công đã cho xuất binh vây giặc. Tiểu sinh xin được từ biệt ngay còn đến Phong Châu gặp gỡ với Kiều công rồi về bẩm báo Dương công. Khi nào rảnh rỗi, tiểu sinh lại xin được hầu chuyện Phạm công.
Đoàn Thành đi rồi, Phạm Lện Công mới trầm ngâm nói:
– Nay mai con xuống thành Đại La nhớ chỉ chuyên tâm đuổi giặc. Mọi việc tiến thủ nhất nhất theo điều khiển của Dương Đình Nghệ. Dương công tài trí hơn ta nhiều lắm. Còn như việc Dương công tin gọi họ Kiều ở Phong Châu ta lại thấy có điều bất ổn. Họ Kiều ở Phong Châu đã mười mấy đời làm quan tướng, tham vọng và thực lực không phải nhỏ đâu. Cái ta lo sợ nhất là nạn huynh đệ tương tàn, cảnh nổi da xáo thịt khiến lũ giặc Bắc kia có đường quay lại tàn sát dân ta mới là cái hoạ trong tim óc vậy.
Phạm Bạch Hổ nghe lời cha mà vân vi mãi.
Ngay đêm hôm đó, Phạm Bạch Hổ cho kiểm điểm binh thuyền, đem theo hơn năm ngàn binh tướng ngược dòng sông Cái tiến về La thành. Phạm Bạch Hổ lại cho người lập tức đến báo tin với đại quân của Dương Đình Nghệ rằng Đằng Châu đã xuất binh. Các tướng sĩ Giao Châu từ khi họ Khúc thất thủ La thành theo về với Phạm Bạch Hổ rất đông. Ai cũng muốn có ngày trở về đánh đuổi giặc Bắc trả thù rửa nhục cho họ Khúc.
*
Nhận được tin báo Phạm Lệnh Công ở Đằng Châu sai con là Phạm Bạch Hổ cùng hơn năm ngàn tinh binh theo đường thuỷ áp sát phía đông La thành, Dương Đình Nghệ mừng lắm cho gọi tiên phong Ngô Quyền đến bảo:
– Ta vẫn biết Phạm Lệnh Công là người khí khái có ơn tất trả có thù tất báo nay đã cho con trai là Phạm Bạch Hổ vốn là một dũng tướng của Đằng Châu đem quân theo đường thuỷ áp sát phía đông La thành. Ta đoán nay mai, họ Kiều cũng sẽ xuất binh từ Phong Châu xuống hợp vây giặc Bắc. Lý Khắc Chính có mọc cánh cũng không bay thoát khỏi thành Đại La. Có điều, nếu để Lý Tiến kịp hợp binh xuống La thành, ta và giặc giằng co sẽ chưa biết thành bại ra sao. Nay Quyền nhi có kế gì hãy mau nói cho ta biết.
Ngô Quyền suy nghĩ một lát rồi nói:
– Quân Đằng Châu mới đến, sĩ khí đang hăng chỉ muốn đánh thành lập công trong sớm tối. Quân Ái Châu ta đội ngũ càng sẵn sàng phá thành diệt giặc. Theo phép hành binh, Lý Tiến có dốc sức cũng phải năm ngày sau mới đến được bờ bắc sông Cái. Chúng muốn qua sông phải bắc cầu phao tất dùng đến tre nứa đẵn chặt các làng mạc nhanh cũng phải ba bốn ngày. Ngày mai, ta nên hẹn binh với Phạm Bạch Hổ cùng tấn công La thành từ hai mặt đông và nam. Lại cho truyền tin quân Phong Châu đang kéo đánh phía tây để giặc kia thêm rối, dẫu không phá được thành cũng tiêu hao phân nửa binh lực giặc. Xin nhạc phụ hãy mệnh lệnh để tướng sĩ ngày mai công thành phá giặc.
Dương Đình Nghệ thong thả nói:
– Ngày mai mệnh lệnh toàn đội tiên phong đánh cửa nam thành Đại La. Ta sẽ cho đào vài đường hầm để xua voi vào trong thành đánh giặc. Đại quân phía sau sẽ thanh viện cho các tướng công thành. Nên nhớ, thành trì cũng là đất đai của người phương Nam chúng ta. Cốt sao hãm giặc để chúng tự thua mới là thượng sách.
Ngô Quyền vâng lệnh lui ra chuẩn bị binh mã cho buổi phá thành.
*
Tin cấp báo dồn dập bay vào trong soái phủ thành Đại La.
Lý Khắc Chính như ngồi trên đống lửa, luôn mấy hôm liền không dám rời giáp phục chỉ huy các tướng thân chinh đôn đốc binh lính phu phen gia cố thành trì. Phàm là những hào nước bãi lầy, họ Lý đều cho cắm la liệt chông sắt, rọ đá xuống đó. Những cánh cổng gỗ lim nặng chịch được bọc thêm hai ba lần sắt dày vững phòng voi xô đổ. Nghe tiếng thình thịch của đội quân Ái Châu đang đào một đường hầm lớn chui ngầm phía dưới đoạn tường thành phía nam càng khiến Lý Khắc Chính bấn loạn. Y lập tức cho đào những hố lớn trữ sẵn đồ dẫn hoả sẵn sàng cho đốt cháy hòng bịt đường hầm. Nghe theo kế của Lý Tri Thuận, Lý Khắc Chính cho trưng dụng bất kể là đồ đồng đồ sắt đồ cúng đồ thờ gom lại đúc rèn thành những mũi chông lớn sẵn sàng bịt đường hầm khi voi chiến xông vào thành. Nỗi ám ảnh của trận voi giầy khiến binh lính Hán triều hễ nghe tiếng voi gầm đều hoảng loạn mất ăn mất ngủ. Đã thế, cứ đêm đêm, Ngô Quyền cho binh lính thúc trống thúc cồng ầm ầm bốn bề càng làm giặc kia lao núng. Đám voi chiến hễ nghe tiếng cồng đều nhất loạt gầm lên rung chuyển một vùng. Chiều chiều, Ngô Quyền thường chia hơn trăm thớt voi làm hai đội tập trận ngay dưới chân cổng thành phía nam khiến binh tướng Hán triều như kiến nằm trong chảo, tinh thần chiến đấu rệu rã đến bảy tám phần. Còn chưa nghĩ ra kế gì, đang bồn chồn trong soái phủ, đã thấy Lý Tri Thuận cùng Độc Toàn Chân hốt hoảng bước vào. Lý Tri Thuận run giọng nói:
– Bẩm đại tướng quân! Phía đông thành, binh tướng Đằng Châu của tướng Phạm Bạch Hổ đã áp sát đang cho bắc thang mây, dùng máy bắn đá bắn cấp tập vào kho chứa vũ khí tình hình nguy ngập lắm.
Độc Toàn Chân vội vã đế theo:
– Bẩm đại tướng quân! Kho lương thảo vũ khí ở phía nam chưa chuyển kịp đã bị bọn giặc cỏ Ái Châu bắn tên lửa cháy sạch đêm qua rồi.
Lý Khắc Chính buông phịch tấm thân nặng nề xuống chiếc ghế bọc da hổ mãi mới xua tay nói:
– Các ngươi hãy mau đi tử chiến giữ thành. Bất kể là vàng bạc gấm vóc, các ngươi hãy treo thưởng để binh lính liều chết chống giữ mới được. Chỉ nay mai đại binh của Lý Tiến đến đây ta giao thành trì cho y là xong. Nếu không giữ được Đại La, trong con mắt của Hán đế, chúng ta chỉ là một lũ tướng thua trận đáng xử chém mà thôi.
Vừa hấp tấp chạy vào, Độc Toàn Chân, Lý Tri Thuận lại hấp tấp chạy đi đôn đốc quân sĩ tử chiến giữ thành.
Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân người nam kẻ đông chia nhau ra hai mặt cổng thành đôn đốc binh tướng chống giữ. Họ Lý thống xuất năm nghìn binh mã đội ngũ chỉnh tề ra thẳng phía đông thành Đại La. Đại quân của Lý Khắc Chính cả tuần nay dàn hết về hướng nam đào hầm đắp ải luỹ chống nhau với tiên phong Ngô Quyền. Giằng co luôn mấy hôm thắng bại còn chưa biết nay đột nhiên binh mã Đằng Châu của Phạm Bạch Hổ theo đường thuỷ kéo lên khí thế rất mạnh mẽ. Lá cờ đại thêu chữ Phạm cực lớn bay phần phật phía ngoài cổng đông thành Đại La trong tiếng trống trận thúc ầm ầm. Lớp này lớp khác thang mây ập vào các tường thành. Binh lính Đằng Châu giáp phục gọn gàng, tay đao tay kiếm hò nhau xông lên phá thành rất hăng. Ầm… ầm…, từng loạt đạt đá từ chiến thuyền rít ù ù quăng vào bên trong phía đông thành phá tan hoang khu kho chứa vũ khí, quân lương của Độc Toàn Chân. Từ ngày được giao kiêm quản binh lương, Độc Toàn Chân không kể là trưng thu hay cướp bóc đều giở thói con buôn chiếm đoạt rất nhiều. Y còn cho xây cất những kho riêng tiếp giáp phía đông thành, nơi có đội thương thuyền buôn bán của họ Độc. Độc Toàn Chân một mặt cho tay chân bộ hạ mau chóng di dời đội thương thuyền vượt qua bến Giang Biên kéo về khúc sông rộng phía bắc sẵn sàng đón đợi đại quân của Lý Tiến cũng là tàng chữ của cải sẵn sàng tẩu tán về phương Bắc. Luôn mấy hôm, Độc Toàn Chân sai thợ giỏi tìm kiếm lắp đặt máy bắn đá lên thương thuyền nhưng chưa kịp xong việc quân của Đẳng châu đã ồ ạt kéo xuống. Độc Toàn Chân không dám bẩm báo điều này với Lý Khắc Chính, sợ họ Lý nghi kỵ. Nay tình hình nguy cấp, họ Độc kéo riêng tên thủ hạ Mã Diều Tử dặn cứ như thế như thế. Mã Diều Tử quá hiểu họ Độc đã cùng đám võ sĩ thân tín chuyển phần lớn kho của cải của họ Khúc ngày trước xuống đội thương thuyền. Điều này, Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận hoàn toàn không biết.
Được hứa hẹn tặng thưởng vàng bạc châu báu, lại ở thế cùng đường tuyệt lộ, binh lính Hán triều liều chết chống nhau với binh tướng Đằng Châu, Ái Châu trọn một ngày trời không phân thắng bại. Nơi cổng đông giáp sông Cái mùa nước đương lên, mặc đám chiến thuyền áp sát bắn đạn đá dữ dội, binh tướng Hán triều vẫn đứng vững trên mặt thành. Tướng Đằng Châu Phạm Bạch Hổ giáp trụ đẫm máu đã mấy lần thân chinh lên được mặt thành chém giết mở đột phá khẩu nhưng các binh tướng Đằng Châu không theo kịp. Trong làn mưa tên, họ Phạm đành phải lướt xuống chân thành chờ đợi thời cơ. Kịch chiến đến sẩm tối, binh lính hai bên đều thương vong vô số. Biết chưa thể phá vỡ ngay được cổng thành, Phạm Bạch Hổ hạ lệnh toàn quân rút xuống chiến thuyền lui về bên kia sông.
Ở nơi cửa nam thành, dựa vào số đông liều chết chống giữ, lại có mấy con hào chắn giăng sẵn lưới sắt, cọc nhọn. Nhân mùa nước lên, các hào rãnh đều rộng thêm ra đến vài trượng khiến binh lính Ái Châu chưa có cách gì tiếp cận được chân thành. Quân Hán cậy đông, hò nhau lên mặt thành sử dụng cung tên, gỗ đá quyết liều chết giữ thành. Dương Đình Nghệ thấy Ngô Quyền đôn đốc binh tướng đánh mãi chưa chiếm được thế thắng bèn hạ lệnh lui quân về trại. Hơn trăm thớt voi trận bố phòng ngay ngoài cổng nam thành Đại La để thị uy quân Hán đề phòng chúng liều mạng đánh ra. Dương công lại cho đào thêm hai đường hầm nữa làm kế hư thực khiến binh tướng Hán triều không biết nơi nào mà chống giữ.
*
Đây nói tiếp chuyện đại tướng Lý Tiến vâng mệnh Hán đế đem năm vạn quân thẳng tiến xuống Giao Châu.
Hôm trước, sau buổi thiết triều được tể tướng Tô Chương tiến cử phong chức thứ sử Giao Châu kiêm quản các vùng đất phương Nam, Lý Tiến tạ ân lĩnh chỉ lập tức điểm binh tướng lên đường.
Trong hàng ngũ các tướng soái của Hán đế, Lý Tiến là một tướng lão luyện có nhiều công tích, đặc biệt việc đánh thành giữ đất mở mang bờ cõi thế lực cho Hán đế. Những không muốn rời xa viên ái tướng, song cục diện Giao Châu không thể chần chừ. Để Lý Tiến xuống phương Nam còn là chủ ý của tể tướng Tô Chương. Họ Tô luôn lao tâm khổ tứ vì Hán triều mà lập công dựng nghiệp. Luôn nhiều năm trời, Hán đế động binh không ngừng khiến bốn phương đều chìm trong khói lửa chiến tranh. Thống xuất phương Nam vừa nằm trong dã tâm mở mang bờ cõi đến tận vùng duyên hải, tạo lập thiên uy để tranh đoạt Trung Nguyên, vừa còn là chỗ để rèn luyện các trung thần ái tướng. Lý Tiến vừa khẩn trương dẫn đại quân xuống Giao Châu vừa tính toán cân nhắc việc khu xử nơi Đại La thành. Dù gì, Lý Khắc Chính cũng đã có công đánh dẹp Giao Châu, bắt sống Khúc Thừa Mỹ, lại đã dâng về vô số vàng bạc châu báu cho Hán đế. Nay chỉ riêng việc chậm trễ không tiến đánh Ái Châu, Hoan châu, tiến chiếm Chiêm Thành mà thay người khép tội giữa dòng quả còn có chỗ chưa ổn. Thân làm biên tướng ngoài ngàn dặm, đâu phải muốn đánh là đánh được đâu. Mới thấy cái khó của đạo làm tướng, lại càng thấy cái khổ của thân làm thần tử, giữ được mạng sống cũng không dễ gì. Lý Tiến trong cuộc nam chinh xuống Giao Châu trong lòng ngổn ngang trăm mối là vì thế.
Đến khi tiền quân báo về đại đội binh mã đã áp sát bờ bắc sông Cái chỉ còn cách bến Giang Biên ba mươi dặm, Lý Tiến mệnh lệnh hạ liên hoàn trại bên bờ bắc, lại cho thám sát thăm dò đo mực nước, dòng chảy rất cẩn thận. Trại vừa hạ xong, Lý Tiến cho triệu các tướng vào trướng hổ thương nghị. Lý Tiến nghiêm nghị nói:
– Nay ta vâng mệnh Hán đế thảo phạt giặc cỏ, nêu rõ thiên uy, nay mai tất vào thành Đại La kiêm quản các việc ở Giao Châu. Các ngươi theo ta đã lâu ngày hãy bàn định cho kỹ việc đánh dẹp, tiếp quản sau trước không được để sai sót gì mới được.
Chúng tướng ai nấy sau chặng đường dài khá mệt nhọc còn chưa biết nói gì. Lại thấy chủ tướng tỏ ra vẻ quan hoài thận trọng bèn chỉ nhìn nhau chưa ai dám lên tiếng. Một lát, phó tướng Trương Ngao, người vốn mười mấy năm vào sinh ra tử cùng chủ tướng mạnh dạn bước ra nói:
– Bẩm đại tướng quân! Theo ý mạt tướng, ta cho binh mã nghỉ hết đêm nay, ngày mai mệnh lệnh chặt tre gỗ bắc cầu phao để đại binh qua sông. Bọn giặc cỏ Giao Châu vốn trí trá, chúng lại thạo về sông nước, đại binh không lập tức qua sông e rằng việc binh thất lợi làm tổn hại thiên uy của Hán đế.
Nơi trướng hổ tiếng xì xầm bàn bạc cất lên. Để các tướng bàn tán một lúc, Lý Tiến dõng dạc mệnh lệnh:
– Nay hãy theo kế của Trương tướng quân. Ngày mai các ngươi phải khẩn trương đôn đốc bắc cầu phao cho đại quân sang bờ bên kia mới được. Ngay đêm nay, hãy cho người tìm thuyền nhẹ lẻn vào trong thành báo cho Lý Khắc Chính là đại quân ta đã tới đây, rồi tiện thể dò xét xem thực lực binh tướng của giặc cỏ và Đại La ra sao rồi mau báo sớm để ta biết.
Chúng tướng vâng dạ cắt đặt ai về trại nấy.
Hồi thứ 3
Ngày trước, Triệu Việt vương đánh giặc Lương nơi bến Giang Biên, chém tướng Dương Sằn đã dùng kế hỏa công đốt cầu phao trên sông Cái. Nay binh thuyền của Đằng Châu tướng sĩ đều thạo sông nước cả, xin Dương công minh xét có thể theo kế cũ mà làm chăng?
Ảnh minh họa – Nguồn internet
 
HỒI THỨ BA
Thuận dòng gió nước, Phạm Bạch Hổ hiến kế đốt cầu phao
Vâng chiếu Hán triều, Lý Khắc Chính hành lễ đón Lý Tiến
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ cùng chúng tướng ngày đêm đào hầm vây hãm Đại La thành.
Luôn mấy hôm, Dương Đình Nghệ lệnh cho Ngô Quyền, Dương Tam Kha, Đoàn Thành tạm thời ngưng chiến, chỉ chuyên tâm vào việc đào các đường hầm tạo thanh thế uy hiếp La thành. Nhận được tin viện binh của Lý Tiến đã hạ trại nơi bờ bắc sông Cái, cách bến Giang Biên ba mươi dặm, Dương Đình Nghệ cho triệu các tướng vào thương nghị. Dương công cho mời tướng Đằng Châu Phạm Bạch Hổ tới từ sớm chuyện trò thân mật nơi trướng hổ.
Khi các tướng đã tề tựu đông đủ, Dương công thong thả nói:

– Xin giới thiệu với các tướng, vị này là Phạm Bạch Hổ, trưởng tử của Phạm Lệnh Công cũng là bậc huynh trưởng kết giao đã mấy chục năm của ta. Nay Phạm công cho tướng quân đây cùng năm nghìn tinh binh đã giáp chiến với binh lính Hán triều mấy ngày nay khiến chúng khiếp đảm lắm rồi. Nay có đông đủ các tướng, ta muốn nghe kế sách đánh thành diệt viện của chư vị.
Mọi người đưa mắt nhìn viên tướng Đằng Châu, ai nấy đều trầm trồ thán phục vẻ ngoài cao lớn vạm vỡ, khí độ thần thái hiên ngang. Lại luôn mấy hôm, trong quân truyền kể vị tướng Đằng Châu năm bảy bận vượt muôn ngàn mũi tên ngọn giáo thân lên mặt thành chém tướng chặt cờ quân Hán vô số kể, nay tận mắt nhìn thất vị tướng tuổi tuy khá trẻ mà đường bệ nghiêm trang đều mười phần cảm mến.
Không khách khí, Ngô Quyền bước ra thủ lễ nói:
– Bẩm nhạc phụ! Thưa các vị tướng quân! Mạt tướng vốn nghe danh Phạm Lệnh Công ân uy rất nghiêm, lòng quân lòng dân Đằng Châu muôn người như một. Nay lại thấy Phạm tướng quân đây tuổi trẻ tài cao, thân đem tinh binh mãnh tướng phá thành giết giặc không kể muôn tên nghìn giáo quả đáng khâm phục. Việc đánh thành diệt viện, hẳn nhạc phụ đã có kế sách chu tất. Mạt tướng xin đợi lệnh để sớm được cùng Phạm tướng quân giết giặc trên chiến trường.
Phạm Bạch Hổ nhìn thật kỹ Ngô Quyền, thấy họ Ngô lời nói chính trực, sâu sắc, chỉ vài câu ngắn đã như thấu vào gan ruột mọi người, hiểu binh tướng Đằng Châu đến tận chân tơ kẽ tóc, trong lòng đã thầm cảm phục lắm. Lại thấy Ngô tướng quân cao lớn đường bệ, dáng đi như rồng, tiếng nói như chuông, không khỏi rúng động tâm can. Nghĩ trước nghĩ sau, Phạm Bạch Hổ bình tĩnh tiến ra thủ lễ nói:
– Bẩm Dương công! Thưa các vị tướng quân! Tiểu tướng vâng lệnh phụ thân cùng gia binh gia tướng vượt muôn dặm đến đây để Dương công sắp đặt việc đánh đuổi giặc Bắc. Gia phụ có dặn mọi việc nhất nhất theo ý Dương công, muôn chết không từ. Nay giặc kia viện binh vừa đến, chúng tất sẽ trong ứng ngoài hợp mà gây khó dễ cho ta. Ngày trước, Triệu Việt vương đánh giặc Lương nơi bến Giang Biên, chém tướng Dương Sằn đã dùng kế hỏa công đốt cầu phao trên sông Cái. Nay binh thuyền của Đằng Châu tướng sĩ đều thạo sông nước cả, xin Dương công minh xét có thể theo kế cũ mà làm chăng?
Nguyên ngày trước, sau khi đức vua Lý Nam Đế bị thua binh ở hồ Điển Triệt đã giao lại binh quyền cho tả tướng Triệu Quang Phục, họ Triệu bèn đem quân về đầm Dạ Trạch ngày đêm luyện binh trữ lương, lại cho người đi khắp vùng tìm người tài giỏi về giúp kế trong quân dần dần gây lại thanh thế. Trần Bá Tiên khi ấy làm An Nam Đô hộ sứ sai đại tướng Dương Sằn đóng quân thủy bộ ở bến Giang Biên vừa để đề phòng các tướng cũ của Lý Nam Đế đánh úp kinh thành vừa tiện tay đàn áp, cướp bóc dân chúng An Nam. Khi binh lực dồi dào, lòng dân hướng về, Triệu Quang Phục chia binh hai đường thủy bộ nửa đêm tập kích trại Giang Biên, quân cứu viện của Trần Bá Tiên từ kinh thành theo đường cầu phao bắc qua sông Cái sang cứu Dương Sằn bị Triệu Quang Phục cho quân đốt cầu phao chết vô số kể. Không có viện binh, binh tướng Dương Sằn núng thế, trại thủy bộ Giang Biên bị đốt trụi, bản thân Dương Sằn bị Triệu Quang Phục chém chết tại trận. Sau chiến thắng Giang Biên, Triệu Quang Phục được các tướng và muôn dân suy tôn là Triệu Việt vương. Họ Triệu lên ngôi vương, cùng các tướng và dân chúng An Nam đánh đuổi đám người phương Bắc giành lại quyền tự chủ.
Dương Đình Nghệ nhìn vào Phạm Bạch Hổ thấy viên tướng trẻ họ Phạm lời nói ôn tồn mà sâu sắc, bàn vào việc quân cơ quả đoán, viện dẫn sử sách thông thuộc, vô cùng mừng rỡ, tiến đến sát vị tướng trẻ nói với mọi người:
– Quả là trời giúp chúng ta. Phạm tướng quân hiến kế đốt cầu phao giết giặc để chúng đầu đuôi không cứu được nhau quả là diệu kế. Giặc Bắc luôn cậy ngựa khỏe binh mạnh, lấy thịt đè người, nay ta chưa thể đưa voi qua sông để đón đánh chúng ở Giang Biên thì chỉ còn kế hỏa công đốt cầu phao giặc là vẹn toàn mà thôi. Ngay hôm nay, ta mệnh lệnh Ngô Quyền chọn hai ngàn dũng sĩ cùng theo xuống thuyền với Phạm tướng quân. Hai tướng hãy bí mật chia quân mai phục hai bên bờ sông đợi giặc kia đến giữa lòng sông hãy đổ ra đánh, tất chúng không qua được sông. Nơi các cổng thành Đại La, ta sẽ hư trương thanh thế để bọn Lý Khắc Chính không dám rời thành tiếp viện việc lớn tất thành.
Các tướng nghe theo sự sắp đặt của Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền điểm hai ngàn tinh binh ngay trong đêm theo cùng binh tướng Đằng Châu xuống thuyền bí mật lập trận địa mai phục đón lõng đại quân của Lý Tiến trên mặt sông Cái.
*
Đây nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Nhận được tin đại tướng Lý Tiến đã xuống tới bờ bắc sông Cái đang hạ trại liên hoàn chuẩn bị cho đại quân bắc cầu phao qua sông, Lý Khắc Chính vội cho người thân tín theo cùng tả hữu của Lý Tiến đang đêm lấy thuyền nhỏ chèo gấp sang bên kia sông. Lý Khắc Chính hẹn sáng hôm sau sẽ chuẩn bị đại đội binh mã sẵn sàng tiếp ứng đại quân qua sông vào thành. Lý Khắc Chính còn dâng riêng vô số vàng bạc châu báu cho Lý Tiến, lại làm một tờ biểu trần tình việc chậm trễ không tiến vào Ái Châu, Hoan châu. Tờ biểu lời lẽ khiêm nhường thống thiết, chỉ mong muốn sớm được về yên hưởng tuổi già chứ tuyệt nhiên không dám nhắc gì đến chức phận kiêm quản Giao Châu.
Đọc xong tờ biểu trần tình. Liếc nhìn hòm vàng bạc châu báu, Lý Tiến chỉ thở dài không nói.
*
Theo sắp đặt từ hôm trước, mờ sáng, hàng vạn binh mã được Trương Ngao cùng các tướng dồn ép vào làng mạc chặt tre đẵn gỗ làm cầu phao để đại quân qua sông. Bất kể là nhà cửa đình chùa, binh lính Hán triều đều cho tháo dỡ chuyển ra bờ sông đóng từng nhịp từng nhịp cầu nổi trên mặt nước. Đám binh lính phương Bắc vốn không thông thạo sông nước nên đến quá trưa cầu mới được non nửa ngoằn nghèo trên mặt sông rộng. Nhìn xa xa, thi thoảng có những vạt lau sậy cây cối trôi bập bềnh tấp vào chiếc cầu càng khiến cho Trương Ngao sốt ruột quát tháo ầm ĩ. Họ Trương cho đẵn sạch cây cối nơi bờ sông vẫn không đủ gỗ lạt để bắc cầu. Điên tiết, họ Trương rút đao chém cụt đầu mấy tên lính già chậm trễ khi khiêng vác tre nứa để bọn ở giữa sông phải lơ lửng giữa dòng nước.
Bờ bên này sông, trong đám lau sậy um tùm, hai tấm lưng vạm vỡ đóng khố cởi trần chụm sát vào nhau. Phạm Bạch Hổ nhìn mãi vào chiếc cầu dang dở trên mặt sông, rồi nhìn Ngô Quyền nói nhỏ:
– Ngô huynh! Cứ đà này cho dù chúng có phá sạch làng mạc bên kia sông cũng phải đến tối mai mới bắc xong cầu. Tiểu tướng đồ rằng, đêm tối bọn chúng cũng không dám qua sông. Lũ ngựa Bắc vốn dát nước lắm. Mà binh Hán không có ngựa thì chỉ còn là những bị thịt mà thôi. Nay ta cho binh sĩ nạp sẵn đồ dẫn cháy phục ở hai đầu đợi giặc kia chớm đặt chân sang bờ nam mới nhất tề cắt cầu khiến chúng đầu đuôi không cứu được nhau mà chết đuối. Không biết huynh có cao kiến gì chăng?
Ngô Quyền từ lúc gặp Phạm Bạch Hổ trong lòng vô cùng yêu mến, nhìn vị tướng trẻ đất Đằng Châu thong thả nói:
– Tiểu đệ hiến kế đốt cầu phao giặc kia tất bại. Ta cho rằng trận chiến lớn với giặc Bắc còn ở phía trước. Hán đế không cam tâm để phương Nam chúng ta tự chủ đâu. Phải đánh cho đại binh của chúng, dẫu là Hán đế Lưu Nhiễm thân chinh đem hùng binh xuống phương Nam cũng không còn mảnh giáp mới khiến chúng run sợ để ta tự chủ mới là kế lâu dài.
Phạm Bạch Hổ cảm phục nói với Ngô Quyền:
– Ngô huynh thật chí khí khác người. Việc đánh bọn giặc phương Bắc mai này đệ xin được cùng huynh vào sinh ra tử.
Ngô Quyền không nói, lặng lẽ đặt bàn tay vạm vỡ lên vai Phạm Bạch Hổ.
*
Từ lúc Trương Ngao rút kiếm liên tiếp chém cụt đầu mấy tên lính chậm chạp, việc bắc cầu khẩn trương nhộn nhịp hẳn lên.
Lý Tiến cho gọi Trương Ngao đến phán bảo:
– Tướng quân bất tất phải nôn nóng. Ở cái đất lụt lội ẩm ướt này, bọn giặc cỏ gian trá lắm. Xưa kia đại tướng Dương Sằn bị Triệu Quang Phục chém đầu ở Giang Biên cũng vào mùa nước lên như thế này. Lại đến Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình bị vây hãm ở La thành mà vong mạng. Bọn giặc cỏ An Nam từ xưa đến nay vốn thường lẩn lút nơi đầm bãi, rừng rậm ít khi chịu xuất đầu lộ diện đánh nhau với đại binh phương Bắc. Thế mà khi có thời cơ, lũ giặc cỏ cứ như chui từ trong lòng đất ra vậy. Ngày trước, Cao Chính Bình có cả vạn trong thành Tống Bình còn bị giặc cỏ Phùng Hưng vây khốn đến chết. Ba quân thủy bộ của họ Phùng như được trời giúp đông vô số kể. Binh ta nếu không cẩn thận mắc vào mưu chúng sẽ ngàn thu ôm hận đó. Từ hôm xuất binh, ta luôn nghĩ hoàng thượng có phần gấp gáp đánh phương Nam không để cho binh tướng được nghỉ ngơi khó nắm chắc phần thắng. Nay đại quân ta đã đến đây, trong thành Đại La còn tới hơn hai vạn tướng sĩ của Lý Khắc Chính. Nay ta nếu cho toàn quân qua sông, không phải là kế vẹn toàn đâu. Ngươi hãy chia binh làm hai đội, chỉ cho một vạn lính già yếu qua sông trước lập doanh trại bên phía bờ nam sông Cái. Vạn nhất có trúng kế giặc cỏ còn có đường về đất Bắc.
Thấy chủ tướng đột nhiên thận trọng khác thường, Trương Ngao không dám khinh xuất quay trở ra chia binh theo ý chủ tướng.
Đến quá trưa hôm sau, khi cầu phao qua sông được bắc xong, Trương Ngao toan cho một vạn lính già yếu qua sông trước, Lý Tiến thấy thế bèn mệnh lệnh:
– Trương Ngao, ngươi nửa đời chinh chiến sao còn hồ đồ. Phép dùng binh không thể buổi chiều qua sông sang đất lạ, tất chuốc bại vong đấy. Nay ngươi hãy thử cho năm trăm binh lính sang sông trước, lại dắt đám ngựa già yếu đi qua cầu xem chúng có sợ hãi gì không rồi ngày mai đại quân qua sông còn chưa muộn.
Trương Ngao vâng dạ lui ra, bụng thầm nghĩ, không hiểu sao đại tướng quân càng ngày càng quá thận trọng, chưa gặp giặc cỏ mà đã đề cao chúng thực làm giảm sĩ khí của quân ta vậy. Từ trước đến nay, mỗi khi hành binh đều phải cho tướng giỏi ngựa khỏe làm tiên phong dẫn đầu nay đại tướng quân lại cho lính già ngựa yếu sang sông trước thật chẳng hiểu ra sao. Bên kia sông, trong thành Đại La còn tới cả vạn binh sĩ của Lý Khắc Chính, bên này binh tướng thiên triều vài vạn mà vô cớ sợ sệt giặc cỏ chẳng phải để chúng cười vào mũi người phương Bắc hay sao? Phép dùng binh xưa nay chưa đánh đã quá đề cao địch quân họ Trương chưa thấy bao giờ. Nhưng cứ nghĩ đến việc Dương Sằn, Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình binh bại mạng vong ngày trước trong bụng Trương Ngao càng nghi ngại mà nhất nhất vâng theo mệnh lệnh của Lý đại tướng quân.
Bên bờ nam quan sát động tĩnh thấy đại quân của Lý Tiến dùng dằng chưa qua sông, lại thấy các đồn trại đóng theo thế liên hoàn trước sau hỗ trợ nhau rất nghiêm cẩn, Ngô Quyền bảo với Phạm Bạch Hổ:
– Hiền đệ xem tướng giặc không phải loại vừa đâu. Chúng hồ nghi không dám qua sông. Chắc chiều nay chỉ cho đám binh mã già yếu qua sông trước xem động tĩnh ra sao rồi mai mới dần dần chuyển đại binh qua sông. Ta càng phải cẩn thận lắm mới được. Giặc kia dường như đã đoán được mưu ta nhưng chúng tất phải qua sông. Nay ta chỉ có thể đánh úp được mẻ đầu quân chúng mà thôi. Lý Tiến vốn là danh tướng của Hán đế, không dễ gì một trận phá được chúng. Ngày mai, cứ theo kế ta mà làm. Mọi việc ta và đệ phải kiểm tra chu tất trong đêm nay mới được.
Phạm Bạch Hổ lặng lẽ cùng Ngô Quyền rút vào vùng lau sậy nơi các dũng sĩ Đằng Châu, Ái Châu đang chia nhau sắp đặt đồ dẫn hỏa, chủy thủ, câu liêm, dây sắt sẵn sàng tập kích đốt phá cầu phao.
Tờ mờ sáng hôm sau.
Qua mấy buổi chặt phá cây cối nơi bờ bắc sông Cái xơ xác ngổn ngang. Mùa nước lên, đám củi cành từ thượng du đổ xuống gặp những đoạn cầu phao bắc thấp níu cong tưởng chừng muốn phá tung về phía hạ lưu. Trương Ngao cho binh sĩ liên tục đi lại trên cầu dùng sào dài đẩy dìm từng đám từng đám củi rác rong rêu luồn ra khỏi cầu phao lại cho dùng chão mây níu chặt những thân tre lớn làm chỗ vịn cho binh mã tiện qua sông. Nhiều khúc họ Trương còn sử dụng ván sàn của đình chùa lát phẳng phiu khá chắc chắn. Trương Ngao kiểm điểm một vạn bộ binh, đa số già yếu vốn là hậu quân chuyển lên tiền quân cho qua sông trước. Đám binh lính ngơ ngác nhìn nhau. Xưa nay, theo họ Lý chinh phạt các nơi, chỉ toàn là ngựa khoẻ binh mạnh xông lên phía trước. Đám lính già nhăn nhó đùn đẩy nhau trên chiếc cầu gỗ bập bềnh mặt sông gió ù ụ thổi.
Trương Ngao tuốt kiếm lăm lăm chỉ về bên kia sông quát lớn:
– Các ngươi hãy chia nhau năm trăm người một đội lần lượt qua sông sang bên kia tất có đại binh của Lý Khắc Chính đón các ngươi vào thành tiện việc khao quân không việc gì phải sợ.
Đám binh lính Hán triều sau phút đùn đẩy hè nhau từng đội từng đội tiến bước vào chiếc cầu phao. Chiếc cầu ban đầu còn là một đường thẳng chỉ chốc lát ngoằn nghèo bập bềnh oằn oại trên mặt nước.
Đại đội binh lính đầu tiên qua cầu phao trót lọt không xảy ra bất cứ chuyện gì.
Trương Ngao bất thần tế ngựa xuống cầu hô lớn:
– Các tướng sĩ hãy mau theo ta sang bên kia sông hạ trại!
Vừa hò hét, Trương Ngao vừa tế ngựa lên cầu. Con ngựa tía của Trương Ngao luôn mấy hôm đôn đốc quần thảo nơi bãi sông tỏ vẻ không sợ sông nước lộp bộp đi trên đám ván gỗ bập bềnh hăng hái đưa chủ tướng qua sông.
Thấy chủ tướng đã đến giữa cầu phao bình yên vô sự, đám kỵ binh, bộ binh gần vạn tên phấn khích ùa nhau hăng hái qua sông.
Chiếc cầu phao oằn mình tưởng chừng không chịu nổi. Những chão mây xoắn bện kêu răng rắc. May giữa lúc nước chảy không xiết lắm khiến chiếc cầu còn giữ được thăng bằng. Đám binh lính hăng hái chỉ chăm chú nhìn sang bờ nam sông Cái mà không hay biết từng đám, từng bè lau sậy cao chất ngất đang lặng lẽ từ thượng du trôi dần vào sát cầu phao.
Sang tới bờ bên kia, Trương Ngao quành ngựa lên bờ quát đám binh lính sắp thành đội ngũ để đón bọn dưới cầu phao lên bỗng kinh hãi thấy hàng trăm đụn lau sậy khô nghi ngút khói đã trôi sát cầu phao. Còn chưa kịp định thần lửa đã bốc lên rần rật tấp vào chính giữa và hai bên đầu cầu. Những tiếng hét ầm ầm. Hàng trăm dũng sĩ Đằng Châu nhất tề tung mình khỏi mặt nước vung mã tấu, câu liêm, móc sắt chặt đứt cầu phao. Tiếng kêu khóc như ri. Từng mảng người đổ sầm sập xuống mặt sông ngầu đỏ. Những bè mảng lau sậy chứa sẵn đồ dẫn lửa cháy rừng rực loáng cái đốt cháy chia chiếc cầu dài dặc thành ba đoạn trơ vơ trên mặt sông rộng mênh mông. Phía bờ Bắc, Lý Tiến kinh hãi tế ngựa hô các tướng xua đội cung tên nhất tề bắn xuống mặt nước, nơi các dũng sĩ Giao Châu đang đốt cầu phao mặc tiếng kêu khóc của những kẻ trên cầu trong trận mưa tên. Phía bờ Nam, tiếng pháo lệnh vang lên ùng ùng, không biết từ đâu, năm mươi chiến thuyền lừng lững tiến ra mặt sông sôi sục. Đám tàn binh tàn tướng của Lý Tiến ngoi ngóp dưới sông bị các dũng sĩ trên thuyền dùng câu liêm, đinh ba dìm chết vô số. Trên bờ, một thảm cảnh kinh hoàng diễn ra. Hơn năm trăm binh lính Hán cùng phó tướng Trương Ngao bị hai ngàn binh lính Ái Châu vây chặt. Rừng cung tên thảy đều chĩa về đám giặc Bắc.
Đứng giữa hàng quân, Ngô Quyền chỉ Trương Ngao mắng:
– Bớ tướng giặc! Ngươi hãy xuống ngựa chịu hàng.
Trong cơn điên loạn, lại thấy binh lính dưới sông bị hại vô số kể, Trương Ngao gầm lên:
– Giặc cỏ! Ta liều chết với các ngươi.
Khi Trương Ngao chồm ngựa xông về phía Ngô Quyền cũng là lúc họ Ngô phẩy tay xạ tiễn. Thương thay Trương Ngao cùng hơn năm trăm binh tướng Hán triều già nửa đời chinh chiến không thể ngờ có ngày toàn bộ làm mồi cho trận mưa tên.
Đứng bên kia sông, Lý Tiến thương cảm khóc ngất nhưng cũng chỉ biết kêu trời.
*
Sau khi thu nhặt đám tàn quân còn sống sót dưới sông lên bờ bắc, Lý Tiến hạ mệnh lệnh đại quân cố thủ trong trại không bàn tới việc sang sông nữa. Những tre gỗ bắc cầu phao họ Lý cho trục vớt xếp thành ải luỹ chắn ngay sát bờ sông. Khi quân bờ nam rút đi, Lý Tiến cho tìm thuyền nhỏ sang bên kia sông nhặt xác của phó tướng Trương Ngao về chôn cất cẩn thận. Những là binh lính tử trận gom thành gò lớn hỏa táng ngay ở bãi sông khiến binh lính tinh thần càng giảm sút. Ngay chiều hôm đó, bất chấp nguy hiểm, nghe tin đại quân Lý Tiến vượt sông giữa đường bị binh tướng Đằng Châu đánh úp đốt cầu phao thảm bại, Lý Khắc Chính lập tức cử Lý Tri Thuận đem theo ba ngàn tinh binh đến bờ nam thanh viện. Lý Khắc Chính cho gọi Độc Toàn Chân hỏi đến đội thương thuyền mau chóng xung vào quân ngũ để tiện bề  sử dụng dùng cho đại quân của Lý Tiến qua sông.
Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân tới nơi thì chỉ còn lại chiến trường xơ xác, thây chất ngổn ngang, tiếng quạ kêu rợn óc. Phía bờ bắc, trại lính của Lý Tiến đóng san sát. Họ Độc bàn với Lý Tri Thuận để đám binh lính dọn dẹp chiến trường rồi thân chinh cùng đội thương thuyền năm mươi chiếc nay đã được chưng dụng làm chiến thuyền khẩn trương chèo qua sông.
Đang bồn chồn trong trướng hổ, bỗng nghe tùy tướng cấp báo có vài chục chiến thuyền từ phía bờ nam nhằm bờ bắc tiến sang, Lý Tiến cả kinh đập tay xuống bàn quát tháo:
– Bay đâu, mau sửa soạn cung tên nghênh địch! Bọn giặc cỏ quả ăn phải gan hùm mật gấu dám ban ngày tập kết đại doanh của bản tướng còn ra thể thống gì.
Chúng tướng vâng dạ lui ra. Lý Tiến mặc giáp lên ngựa ra thẳng bờ sông nhìn kỹ lá cờ trên chiếc thuyền lớn bèn cười ha hả bảo tả hữu:
– Chiến thuyền của Hán triều ta đó! Mau chuẩn bị để ta tiếp sứ giả của Lý Khắc Chính.
Nói đoạn Lý Tiến quay trở lại trướng hổ quát tả hữu sắp hàng gươm giáo sáng quắc vừa kịp lúc Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân vào đến trại lớn đang được mấy viên tuỳ tướng đưa vào trướng hổ.
Vừa nhìn thấy hai tướng của Lý Khắc Chính, Lý Tiến mắng lớn:
– Sao chủ tướng của các ngươi giờ này còn chưa tới? Lẽ nào đã theo quân phản loạn cả hay sao?
Lý Tri Thuận đợi Lý Tiến nguôi giận mới đứng ra bẩm báo:
– Bẩm đại tướng quân! Binh tướng Đại La đang cố thủ giữ thành chờ viện binh của Hán đế. Cả tuần trăng nay mấy mặt thành bị vây gấp lắm chủ tướng của mạt tướng không dám khinh xuất rời thành mong đại tướng quân minh xét.
Độc Toàn Chân lựa ý nói theo:
– Bẩm đại tướng quân! Tại hạ không kể ngày đêm đã cho sửa soạn chuyển thương thuyền thành chiến thuyền để phục vụ đại tướng quân sai bảo. Không biết giặc cỏ dám mạo phạm thiên uy tội đáng muôn chết xin đại tướng quân giáng tội.
Lý Tiến thấy hai viên tướng lời lẽ nhún nhường lại biết đặt việc thủ thành, đóng thuyền làm trọng bèn vờ tỏ vẻ nguôi giận nói:
– Các ngươi vì Hán đế mà phải muôn dặm xuống phía nam cũng vất vả rồi đó. Cũng may mạt tướng đã bày kế thí chút lính ốm ngựa già cho đám giặc cỏ để chúng kiêu căng mai kia vào Đại La ta sẽ dễ bề bắt giết hết chúc. Chẳng hay các ngươi đem tới được bao nhiêu chiến thuyền có thể trở binh lính qua sông?
– Bẩm toàn bộ chiến thuyền được năm mươi chiếc.
Lý Tiến vội đứng lên nói:
– Các vị tướng quân. Trời đã chiều rồi, giặc cỏ tất đã rút đi xa. Nay ta hạ lệnh hai tướng hãy dùng năm mươi chiến thuyền cấp tập trở binh lính sang bên kia sông. Nếu để chậm trễ, ngày mai chưa biết tình hình ra sao đâu.
Các tướng vâng mệnh lui ra khẩn trương đưa binh lính sang phía bờ nam đến tối mịt được gần một vạn binh sĩ.
*
Sau khi thuật lại trận tập kích đốt cầu phao trên sông giết chết phó tướng Trương Ngao phía bờ nam cùng đoàn chiến thuyền về bến Giang Biên an toàn, Dương Đình Nghệ cho khao thưởng quân sĩ vừa thắng trận đồng thời cho gọi Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ vào dặn:

– Ta tuy thắng trận song thế giặc giờ đã khác trước. Hán đế liên tiếp hưng binh xuống phía nam dã tâm lớn lắm. Đạo binh này chưa bị diệt đạo binh khác đã kế tiếp xuống phương Nam ta gây hoạ chiến tranh. Lúc trước đi mai phục giặc qua sông, ta quên không dặn các ngươi bố trí đối phó với đội thương thuyền của đám gian thương phương Bắc trong Đại La thành. Lũ này ngày thường chúng vơ vét sản vật của ta động có chiến tranh chúng là những tên nội gián cực kỳ nguy hiểm. Ta chắc rằng giờ này chúng đang khẩn trương đưa đại quân của Lý Tiến qua sông rồi.
Phạm Bạch Hổ sững người nói:
– Phạm công! Mạt tướng lập tức xin đưa binh thuyền trở lại quyết chiến với giặc không để chúng qua sông.
Ngô Quyền trầm ngâm nói:
– Giờ này ngược thuyền lên đó e không còn thời cơ nữa. Một là giặc kia đã có phòng bị. Hai là đội thương thuyền của chúng giờ đã là chiến thuyền rồi. Đám thương nhân phương Bắc phần nhiều là cướp biển trôi vào Đại La từ lâu thông thạo sông nước vùng Giang Biên ta không thể khinh xuất. Xin nhạc phụ tính kế khác là hơn.
– Quyền nhi nói đúng đó. Giặc kia cùng đường tuyệt kế giao chiến với chúng phải hết sức cẩn thận. Ta hãy cứ chia binh ba mặt vây thành. Không hiểu tại sao chưa thấy có tin gì của Kiều công ở Phong Châu.
Nhắc đến Kiều công, Phạm Bạch Hổ vụt nhớ lời cha nói hôm trước đã toan bộc bạch cùng Dương Đình Nghệ song đã kịp dừng lại. Thấy vị tướng trẻ tuổi họ Phạm thoáng vân vi, Ngô Quyền khích lệ:
– Hiền đệ có gì cứ nói thẳng với nhạc gia đừng ngại.
Phạm Bạch Hổ suy nghĩ giây lát rồi nói:
– Phong Châu là vùng đất tiềm lực giàu mạnh, binh đông đất hiểm xưa kia các vua Hùng từng đặt Quốc đô ở đó. Họ Kiều ở Phong Châu nối đời làm tướng lĩnh, hào trưởng, lại giao du rộng rãi với các vùng thế lực hùng mạnh lắm. Khi Khúc chúa còn kiêm quản Giao Châu nhiều lần muốn tạo dựng giềng mối kết thân mà các thủ lĩnh Giao Châu cứ lần nữa. Nay Dương công thành tâm kết giao hào kiệt lẽ ra Kiều công đã phải đưa binh xuống Đại La rồi. Nay còn chưa tới tiểu tướng có chỗ không hiểu mong Dương công chỉ giáo.
Dương Đình Nghệ thấy Phạm Bạch Hổ thường ngày thẳng thắn nay khi bàn về họ Khúc ở Phong Châu quá dè dặt bèn nói:
– Phạm tướng quân chưa biết đấy thôi. Ta và Phạm công ở Đằng Châu, Kiều công ở Phong Châu, Ngô công ở Đường Lâm vốn tình huynh đệ sâu nặng lắm. Vả chăng, chúng ta đều là nha tướng thuộc hạ của Khúc chúa cả càng phải trân thành một lòng đánh đuổi lũ giặc Bắc mới mong thành đại sự. Ta nghe nói, Kiều công có công tử trưởng là Kiều Công Tiễn văn võ toàn tài là bậc anh hùng lắm tất sẽ hiến kế để họ Kiều nêu cao chính đạo, rạng danh với đời. Mai kia vào thành Đại La ta sẽ giới thiệu Kiều Công Tiễn với Phạm tướng quân đây để kết giao cũng là dần bàn giao việc lớn cho các ngươi chứ lũ ta sớm muộn cũng tuổi tác cao rồi. Phạm tướng quân hãy ghi nhớ cho.
Còn đang nói chuyện bàn bạc, bỗng ở ngoài Dương Tam Kha thân vận giáp phục vào bẩm báo:
– Bẩm phụ thân! Thưa các vị tướng quân! Đại quân của Lý Tiến đã dùng thuyền buôn của Độc Toàn Chân qua sông được bốn năm phần rồi. Thám sát của ta báo về Lý Tiến chia binh chỉ cho một nửa quân sang sông.
Dương Đình Nghệ chăm chú lắng nghe rồi nhìn sang Ngô Quyền có ý muốn hỏi. Ngô Quyền ngẫm nghĩ rồi nói:
– Tên cáo già Lý Tiến lẽ nào còn có viện binh?
Phạm Bạch Hổ vội nói:
– Không thể nào! Phép dùng binh của người phương Bắc dẫu độc hiểm nhưng luôn ở cái thế vua chúa sai khiến bề tôi thảo phạt phương Nam. Vua chúa tướng lĩnh người phương Bắc vốn thường nghi kỵ lẫn nhau, quyết không giao toàn bộ binh quyền cho tướng soái bên ngoài được. Lại nữa, Lý Tiến vừa kéo binh xuống, còn chưa giao tranh thắng bại, Hán đế dẫu muốn tăng viện các đại thần chắc chắn can ngăn. Trung Nguyên quần hùng rình rập không dễ gì Hán đế dám rút bớt binh lực cũng là bẻ bớt nanh vuốt của mình đi vậy.
Dương Đình Nghệ buột miệng khen:
– Phạm tướng quân suy đoán sâu sắc lắm. Ta cho rằng Lý Tiến chia binh chỉ qua sông một nửa chính là còn chưa tin tưởng Lý Khắc Chính trong thành Đại La. Các tướng phương Bắc bao giờ cũng phòng thủ lẫn nhau. Lý Tiến danh nghĩa vâng mệnh thay Lý Khắc Chính kiêm quản Giao Châu, thảo phạt các vùng đất phương Nam nhưng kỳ thực là cướp quân quyền của Lý Khắc Chính. Nay hai họ Lý tranh nhau cũng là thời cơ tốt của chúng ta. Chi bằng ta tạm thời án binh bất động xem chúng đấu nhau rồi hành sự cũng chưa muộn.
Các tướng đều khen là phải rồi chia nhau ai về đội nấy.
*
Đây nói tiếp chuyện Lý Tiến cho đại quân qua sông.
Sau khi chia một nửa binh mã hạ vững trại phía bờ bắc ngày đêm chặt cây đẵn gỗ đắp ải luỹ rất kiên cố, Lý Tiến thân chinh cùng hai vạn tinh binh chọn ngày lành thẳng tiến vào thành Đại La. Từ buổi có được đám thương thuyền, Lý Tiến ngày đêm giữ Độc Toàn Chân trong soái phủ sai bảo cắt đặt các việc, đôn đốc, trưng tập thêm thuyền bè đậu kín cả khúc sông. Họ Lý lại cho dựng trại thuỷ bộ liên hoàn bờ bắc bờ nam rất nghiêm ngặt. Bên ngoài còn cho phao tin lập ải lũy để tạo thanh thế ỷ dốc với thành Đại La, bên trong triệu các tướng phủ dụ công cuộc Nam chinh rất cần binh thuyền thuỷ quân nên việc trọng dụng Độc Toàn Chân là kế vẹn toàn.
Lý Tri Thuận sau buổi sang bờ Bắc bẩm báo chỉ biết ngày đêm lo cung cấp lương thảo, vật dụng, thuyền bè để Lý Tiến dựng trại luôn tỏ ra sốt ruột. Mấy lần Lý Tri Thuận xin Lý Tiến sớm vào thành giải vây, Lý Tiến chỉ gạt đi nói dựng trại thuỷ bộ hùng mạnh mới là cách giải cứu thành Đại La bền vững hơn cả. Khi về bẩm báo lại với Lý Khắc Chính, chỉ thấy Khắc Chính thở dài nói:
– Ta cũng chỉ là biên tướng của Hán đế. Nay Lý Tiến dốc sức vì hoàng thượng, ta cũng nên chấp thuận mọi đòi hỏi của đại tướng quân thôi. Mai kia đại tướng quân vào thành, ta sẽ cung kính dâng ấn tín Giao Châu cũng là theo ý vua mệnh trời, các ngươi không việc gì phải lo lắng.
Dò xét mọi mặt, lại thấy Lý Khắc Chính thực tâm muốn hồi triều xin an hưởng tuổi già, Lý Tiến bảo với các tướng:
– Cũng đều người nhà Lý gia cả, các ngươi bất tất phải nghi ngờ. Ai cũng là mệnh quan triều đình, hãy nghĩ đến việc giết giặc lập công phía trước là hơn. Ta mai kia kiêm quản Giao Châu cũng chỉ là thần tử giữ đất cho Hán đế. Xưa kia, vua Triệu Đà dẫu đất đai ngàn dặm còn xin về thần phục Trung Nguyên. Đó mới là đạo trời các ngươi nên biết.
Nhằm đúng ngày lành, đại quân của Lý Tiến người ngựa trang nghiêm rực rỡ, cờ lọng san sát, tiền hô hậu ủng tiến vào thành Đại La. Lý Khắc Chính mình mặc quan phục, nghiêm ngắn cùng hai hàng văn võ ra tận cửa Bắc thành đón đại quân. Lý Khắc Chính lại cho treo đèn kết hoa, cắm cờ quạt la liệt khắp trong thành. Đội nghi vệ nghênh đón Lý Tiến trang nghiêm hành lễ khiến Lý Tiến hài lòng lắm.
Khi đã ổn định nơi chính điện thành Đại La, Lý Khắc Chính cúi người thi lễ nói:
– Bản tướng vâng mệnh cung kính đón đại tướng quân nhập thành chủ trì đại cuộc Giao Châu; những là sổ sách lương tiền, các tùy tướng đây sẽ trình lên đầy đủ; những là quân lương binh mã, phó tướng Lý Tri Thuận sẽ dâng lên không dám sai sót; mọi mặt thóc gạo, thuyền bè, sản vật, quan tổng quản Độc Toàn Chân chắc đã bẩm báo hết với đại tướng quân rồi.
Đợi cho Lý Khắc Chính nói xong, các quan văn võ im phăng phắc, Lý Tiến mới dõng dạc đứng lên nói:
– Ta vâng mệnh Hán đế xuống Giao Châu cũng là thuận ý trời mà thôi. Đại nhân Lý Khắc Chính cùng các ngươi nam chinh đã lâu, nay Hán đế nhớ thương mà cho gọi về, còn để là thưởng cho việc bắt tên Khúc Thừa Mỹ ngày trước. Các ngươi chớ có bụng dạ nào khác mà không được hưởng trọn thiên uy của Hán đế. Nay ta vâng chiếu, tiếp nhận Giao Châu, thấy Lý đại nhân cùng các ngươi kiêm quản Giao Châu cũng có phép tắc. Giặc cỏ dẫu ngông cuồng nay mai ta tất một trận đánh tan. Khen cho các ngươi nhiều năm ở Giao Châu vẫn còn giữ được phong tục lễ nghi phương Bắc. Nay Lý đại nhân có nguyện vọng gì, hãy nói thẳng ta xin hết sức giúp cho.
Cả đại điện không ai dám thốt ra một lời nào.
Trên chiếc bàn lớn phủ vải đỏ rực rỡ, những là ấn tín uy nghi, sổ sách mấy chồng, bên dưới hòm xiểng vàng bạc châu báu chất ngất như thay lời nói nên sự cam tâm tình nguyện của Lý Khắc Chính.
Lý Khắc Chính từ tốn bước ra vái tạ nói:
– Bản tướng xin chúc mừng đại tướng quân an khang trị nhậm Giao Châu, tạo uy vũ cho thiên tử, phúc phận của các thần tướng. Còn như lòng riêng của bản tướng chỉ xin vài chiếc thuyền nhỏ theo đường sông đường biển về chịu tội với hoàng đế là đủ lắm rồi.
Lý Tiến ân cần rời chính điện, xuống nắm tay Lý Khắc Chính mặt đầy biểu cảm nói với hai hàng quan văn võ:
– Lý huynh bảo trọng! Các ngươi nhớ lấy tấm gương hết lòng vì xã tắc của Lý gia ta. Mọi việc Lý huynh dặn dò ta đều nghe theo cả.
Lời Lý Tiến vừa dứt, đại điện thành Đại La tiếng kèn tiếng sáo tiếng nhạc nổi lên miên man không dứt. Yến tiệc được bày ra. Từng đoàn nhạc công, ca kỹ xiêm y rực rỡ tiến ra múa hát khiến ngôi đại điện thoáng chốc huyên náo nhộn nhịp khác thường mặc tiếng cồng đánh, tiếng voi gầm phía Nam thành thi thoảng vẫn dội lên.
Ngay đêm hôm đó, không đợi Lý Tiến phải cho người đưa tiễn, Lý Khắc Chính cùng mấy người tâm phúc dùng mấy chiếc thuyền nhẹ lặng lẽ ngược dòng sông Cái khuất dạng. Mấy năm kiêm quản Giao Châu, vàng bạc châu báu cùng các sản vật họ Lý vơ vét được cũng nhiều, lại cướp sạch các kho lẫm trong thành Đại La của Khúc Thừa Mỹ vô số của cải nhưng Lý Tiến cũng chỉ dám tay không mà đi. Đã bị thay ngựa giữa dòng, những tên Hán gian trong đội ngũ quan lại thành Đại La không ít, nếu tham lam chút của cải ngoài thân chỉ là chuốc họa mà thôi. Mai này, chẳng may Lý Tiến tấu biểu về triều vu thêm tội biển lận công quỹ tội càng thêm nặng. Lý Khắc Chính ngày xuống Giao Châu diễu võ dương oai bao nhiêu nay nửa đêm phải ngậm ngùi thành Đại La lòng đầy ngẫm ngợi bấy nhiêu mới thấy đạo làm quan tướng thành bại không thể nào nói trước mà lúc nào cũng như đi trên núi đao biển lửa sống chết vinh nhục chẳng biết thế nào. Hôm bắt chúa Giao Châu Khúc Thừa Mỹ đóng cũi giải về Phiên Ngung họ Khúc đã nguyền rủa Lý Khắc Chính sớm muộn gì cũng phải chịu tội chết nay quả lời nguyền đang dần ứng nghiệm. Trong lòng thuyền gỗ nhỏ, bên ngoài sương khói mang mang, bên trong tâm sự Lý đại quan nhân trăm mối tơ vò. Họ Lý cứ thở dài thườn thượt.
Hồi thứ 4
Nay ta vì nghĩa lớn, vì ơn Khúc chúa mà hẹn binh xuống La thành đuổi giặc Bắc, rửa nhục cho người phương Nam ta. Các ngươi nên nhớ, phải hết sức thận trọng, mọi đường tiến thủ đều theo mệnh lệnh của chủ tướng. Nếu có gì thất lợi, phải toàn binh rút về Phong Châu thủ hiểm. Nên nhớ, đời đời tổ tiên ta, tổ tiên các ngươi ở Phong Châu cả. Chớ có ham chức tước bạc vàng nơi đất lạ mà vạ đến thân.
Ảnh minh họa – Nguồn internet
HỒI THỨ TƯ
Đất Phong Châu, Kiều Công xuất ngàn binh mã
Trại thủy bộ, Ngô – Phạm đốt giết Hán quân
Đây nói tiếp chuyện Đoàn Thành dời Đằng Châu cùng đám tùy tùng cải trang làm lái buôn đến thẳng thủ phủ đất Phong Châu.
Đoàn Thành sau buổi chuyện trò với cha con Phạm Lệnh Công, Phạm Bạch Hổ thấy rõ họ Phạm một lòng chỉ muốn đuổi lũ giặc phương Bắc trong bụng rất mừng vội cho người về bẩm báo với Dương Đình Nghệ, một mặt không kể ngày đêm lên đường đến đất Phong Châu.
Họ Đoàn từ trước vốn từng nổi danh thời Mai Thúc Loan, Phùng Hạp Khanh, kế đó lão tướng Đoàn Kiếm, chủ tướng Đoàn Phương đều theo quân đánh nhà Đường chiến công hiển hách. Luôn nhiều đời kế tiếp đều được trọng dụng ở Ái Châu. Đoàn Thành học rộng biết nhiều, chuyên tâm sử sách rất được Dương Đình Nghệ trọng dụng, mọi việc trong ngoài đều cho dự bàn. Họ đoàn vì thế càng cảm động mà dốc lòng vì Dương công.
Đến đất Phong Châu, Đoàn Thành tới phủ Đường xin gặp Kiều công. Phải đợi tới hai ngày sau, đám gia tướng mới dẫn Đoàn Thành vào trong phủ.
Dọc đường vào phủ, Đoàn Thành không khỏi kinh động khi thấy Phong Châu thành cao hào vững, những địch lâu cao chất ngất không kém gì Đại La thành. Những cánh cổng gỗ lim bịt sắt cao đến hàng trượng. Hào nước rộng năm sáu trượng nước chảy quanh co như có cơ quan sắp đặt tàng ẩn phía dưới. Trong thành, ngay các cổng chính là những bãi luyện voi ngựa, trâu trận rất nhộn nhịp. Quả không hổ danh vùng đất được đặt quốc đô của đức vua Hùng Vương khi xưa.
Kiều công đặt hai ban văn võ nghi vệ rất uy nghiêm hai bên sảnh nội phủ. Mấy đời họ Khúc làm chúa An Nam đều gia ân cũng là kiềng nể họ Kiều vùng Phong Châu, còn là giữ giềng mối kết đoàn trong một nước nên đã lờ đi những nghi vệ quá mức của Phong Châu. Khi bước vào trong nội phủ, Đoàn Thành nhìn nơi chính điện, phía trước là chiếc bàn gỗ lớn trang trí rồng phượng, gồm đủ kiếm ấn uy nghi, phía sau là chiếc ghế lớn bọc da hổ đầy khí phách, sau nữa là bức bình phong mô tả chiến trận thành Phong Châu voi ngựa trùng trùng. Ngồi trên chiếc ghế lớn là một lão trượng khí độ bất phàm, râu tóc mười phần đã bạc đến năm sáu phần, cặp mắt rất tinh anh nhìn thẳng vào vị khách.
Đoàn Thành tiến lên thủ lễ nói:
– Tiểu sinh là Đoàn Thành người Ái Châu vâng lệnh Dương công đến chào Kiều lão bá. Nay được diện kiến lão bá thật là phúc phận của tiểu sinh.
Kiều công nhìn vị khách dáng vẻ nho nhã, nói năng chừng mực, thần thái ung dung, bèn thong thả nói:
– Ta nghe bẩm báo, Dương hiền đệ đã khởi binh vây ép La thành, lại cho người dùng vài tấc lưỡi mà khiển được Phạm Lệnh Công cất binh ngược dòng sông Cái đốt cầu phao khiến bọn Lý Tiến, Lý Khắc Chính mất ăn mất ngủ, nay cần gì đến lão già ta phải xuống Đại La nữa?
Đoàn Thành nghe dứt lời, tươi cười bình tĩnh đáp:
– Kiều công ân đức như mây, danh vang khắp cõi, thật chẳng gì giấu được ngài. Việc Dương công vạn bất đắc dĩ đem binh ra Bắc cũng là vì nhớ ơn Khúc chúa mà thôi. Còn như Phạm Lệnh Công cho Phạm Bạch Hổ đem thuyền bè chặn giặc cũng là đạo làm tướng vì chủ cũ báo ân chứ tiểu sinh nào có công lao gì. Khi đi, Dương công dặn tiểu sinh mọi việc đánh giữ ở thành Đại La đều ở chỗ Kiều công chủ trì cho mới được.
Kiều công cười ha hả đứng dậy nói:
– Người đời vẫn cho rằng Ái Châu là đất lắm anh hùng quả nhiên đúng thế. Ngươi là tên tùy tướng còn biết phải trái lễ nghĩa, thật đáng mừng cho Dương công. Có phải tổ tiên ngươi xưa kia từng theo phò Phùng Hạp Khanh, Phùng Hưng đánh đuổi quân Đường ở Phong Châu chăng? Nếu thế, chúng ta còn là người trong một nhà, đều là ái tướng của Phùng vương ngày tự chủ đó. Ta cũng đã nhiều năm chưa xuống núi, không biết thành Đại La bây giờ dày vững ra sao. Mọi việc cứ từ từ rồi ra sẽ khu xử.
– Bẩm Kiều công, tiểu sinh chính là hậu duệ của lão tướng Đoàn Kiếm, người đem voi trận từ Ái Châu theo đường thượng đạo đến Phong Châu để Phùng vương hợp vây La thành ngày trước. Trong gia phả còn ghi rõ sự hùng tráng của thành Phong Châu, nay tiểu sinh tận mắt chiêm bái thật danh bất hư truyền. So với thành Đại La, thành Phong Châu nào có kém gì, thế đất thế núi đúng là rồng chầu hổ phục.
Kiều công lúc đó càng tươi tắn rạng ngời nét mặt vỗ vai Đoàn Thành.
– Các ngươi hậu sinh khả uý không làm xấu mặt tổ tiên họ Đoàn, quả thật đáng khen. Ngươi cứ về tệ quán nghỉ vài ngày rồi lên đường báo với Dương công ta sẽ cho Kiều Công Tiễn phát năm ngàn binh mã xuống vây Đại La thành. Lão phu già rồi lẫn cẫn, có gì ngươi bẩm với tiểu đệ Dương Đình Nghệ thể tất cho.
Đoàn Thành cùng đám tuỳ tùng ra công quán còn thầm cảm phục mãi sự uy nghi, lễ nghĩa, mưu lược của họ Kiều chủ vùng đất Phong Châu. Lại thấy Kiều công tuy tuổi tác đã cao nhưng phong thái còn nhanh nhẹn lắm. Càng nghĩ, Đoàn Thành càng vân vi không biết mai này xuống Đại La thành, sau buổi đuổi giặc Bắc ngôi chủ khách sẽ phân thứ tự ra sao. Đành rằng, Dương Đình Nghệ là người luôn nhún nhường vì đại nghĩa, Phạm Lệnh Công là bậc trí giả ở đời, nhưng còn các tướng trẻ như Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ, Dương Tam Kha đều là những bậc tuấn kiệt, trẻ tuổi chắc gì đã chịu phục lẫn nhau. Mới thấy ở đời bể học vô cùng, anh hùng phương Nam nối nhau thời nào cũng có là vì thế. Đã vậy, ta cũng chỉ dám nghỉ ngơi một ngày, hôm sau xin phép Kiều công về bẩm báo để Dương công sớm có thời gian định việc lớn.
*
Sau khi nghe Đoàn Thành kể lại mọi diễn biến ở đất Phong Châu, Dương Đình Nghệ cho mời riêng Ngô Quyền đến bảo:
– Quyền nhi! Ta biết Kiều công đã nói là làm. Binh lính Phong Châu cũng đều thuộc loại tinh binh mãnh tướng. Chủ tướng Kiều Công Tiễn con trai của Kiều công văn võ kiêm thông mưu lược gồm đủ. Xưa nay, họ Kiều vẫn dùng ân uy gây dựng cơ nghiệp ở Phong Châu. Nay mai vào thành Đại La, các con phải lấy lễ nghĩa làm đầu, dẫu có việc gì không vừa ý đều phải gắng sức nhịn đi mới mưu thành việc lớn.
Đoàn Thành nhìn Ngô Quyền nói:
– Trận xua voi giày xéo binh tướng Đại La, trận thuận gió nước đốt cầu phao bờ Bắc Giang Biên, Kiều công và binh tướng Phong Châu đều được nghe uy danh tướng quân rồi. Nay mai tướng quân tất lập công lớn lưu danh sử sách. Mấy lần, Phạm công, Kiều công đều nhắc tới tướng quân đó.
Ngô Quyền trước sau chưa dám cất lời đã thấy Dương Đình Nghệ thong thả nói:
– Quyền nhi! Thuật làm tướng ta đã nhiều lần truyền dạy cho con, mong con gìn giữ. Hôm Ngô huynh giao con cho ta cũng là để cùng ta mưu việc lớn. Đạo làm chủ trong thiên hạ có những chỗ không thể nói ra được, mong con tự nghĩ làm sao vừa giữ được mình vừa giúp được dân mới là đức của kẻ anh hùng, cũng là tâm nguyện của Ngô huynh nhiều lần nói với ta.
Đoàn Thành không nói nhưng tự hiểu, cuộc gặp chỉ có ba người có nghĩa sự tin tưởng tuyệt đối của Dương công đối với hai tướng là cực lớn. Trong lòng Đoàn Thành chỉ thắc mắc không thấy Dương công cho gọi phó tướng Dương Tam Kha vào hội kiến. Điều này Ngô Quyền biết rõ hơn. Tam Kha dẫu trí dũng hơn đời nhưng không ít khi tâm cơ lộ diện, lại ngày thường có ý hiếu sát tranh công khiến Dương Đình Nghệ trong sâu thẳm không hài lòng. Bậc làm chủ tướng phải lấy khoan hòa nhân nghĩa làm đầu, phải hiểu được đạo lý đuổi giặc sâu sắc hơn thế trận đánh giết một mất một còn chỉ chuốc lấy chinh chiến liên miên. Càng hiểu rõ tâm sự của nhạc phụ, Ngô Quyền chỉ càng biết dốc sức vào chỉnh đốn quân mã, khích lệ chư tướng, chăm sóc phụ lão hương thôn, muôn dân bá tánh. Từ buổi gặp gỡ Phạm Bạch Hổ, Ngô Quyền rất mến phục vị tướng trẻ vừa anh dũng quả đoán nơi chiến trường vừa thấu hiểu huyền cơ của buổi anh hùng tao loạn mà thương dân thương nước đến tận tim óc không rời. Suy nghĩ là vậy song nói ra lại là chuyện khác. Nay đại địch ở trong ngoài La thành binh khỏe tướng giỏi có tới dư năm vạn. Hán đế Lưu Nhiễm đã trỏ ngọn cờ bành trướng xuống phương Nam ắt là trúc trẻ ngói tan, sinh linh đồ thán, chiến tranh chưa biết đến bao giờ, nên việc hành xử càng phải thận trọng lắm. Ngay như việc nhạc phụ cho mời Phạm công và Kiều công đem binh xuống thành Đại La cũng là vạn bất đắc dĩ mà thôi. Càng nghĩ, Ngô Quyền càng thấy thương vị nhạc phụ cả đời chỉ biết lo cho dân Ái Châu, Hoan châu sung túc mà nay bỗng nhiên phải đứng chủ trì cục diện chiến tranh. Âu cũng là trời xanh thử chí anh hùng.
*
Nay nói tiếp chuyện ở Phong Châu.
Năm ngày sau khi tiếp Đoàn Thành, Kiều công mới cho gọi con trai Kiều Công Tiễn khi ấy đang trấn thủ vùng Bạch Hạc về Phong Châu nghị việc. Đối với Kiều công, dẫu là việc binh nhung khẩn cấp, việc thiên tai địch hoạ đổ núi sập cầu, Kiều công vẫn thong thả như thường. Đã gần bảy mươi tuổi, ngót năm mươi năm hùng cứ đất Phong Châu trải mấy đời Khúc chúa, chưa bao giờ họ Kiều vội vã điều gì. Đối với họ Kiều, cho là chúa nào cai quản cũng vậy, đều phải dựa vào thực lực của mình mà định ngôi vị. Đều phải có dân có đất, có binh lực riêng, thành cao hào vững, thóc nhiều binh lắm mới là kế vẹn toàn. Các đời Khúc chúa đều riêng để Kiều công một cõi chỉ ban thưởng vỗ về chứ tuyệt nhiên không dám hỏi đến những việc khác. Phong Châu đã mấy chục năm vẫn tựa hồ như riêng một cõi là vì thế. Bên trong như vậy, song bên ngoài, họ Kiều rất quảng giao. Kiều công năm nào cũng cho đám tùy tướng đưa sản vật, lụa là, đồ trân quý tới giao lưu kết bằng hữu các vùng, đặc biệt là với Phạm công ở Đằng Châu, Dương công ở Ái Châu và Ngô công ở Đường Lâm. Chính vì vậy, danh tiếng Kiều công ngày càng vang xa mãi. Khi Lý Khắc Chính động binh vây đánh Tống Bình bắt Khúc Thừa Mỹ về Phiên Ngung, lòng người oán thán. Xa như Ái Châu đã động binh. Tiếp đó là Đằng Châu đã đưa binh đi. Riêng Phong Châu vẫn án binh bất động cũng là chỗ suy nghĩ hơn người của Kiều công. Đứng trước hàng quân năm ngàn tinh binh mãnh tướng Phong Châu, Kiều công giao kiếm lệnh cho chủ tướng Kiều Công Tiễn – người con trưởng thong thả nói:
– Bớ các tướng sĩ Phong Châu! Nay ta vì nghĩa lớn, vì ơn Khúc chúa mà hẹn binh xuống La thành đuổi giặc Bắc, rửa nhục cho người phương Nam ta. Các ngươi nên nhớ, phải hết sức thận trọng, mọi đường tiến thủ đều theo mệnh lệnh của chủ tướng. Nếu có gì thất lợi, phải toàn binh rút về Phong Châu thủ hiểm. Nên nhớ, đời đời tổ tiên ta, tổ tiên các ngươi ở Phong Châu cả. Chớ có ham chức tước bạc vàng nơi đất lạ mà vạ đến thân.
Kiều Công Tiễn giáp phục uy nghi nhận đón kiếm lệnh tiến ra trước ba quân hô lớn:
– Bớ các tướng sĩ! Các ngươi hãy chứng tỏ mình là dũng sĩ Phong Châu, nơi có quốc đô của các vua Hùng. Người Phong Châu đi không đổi tên họ, chết không mất nết nhà, các ngươi hãy ghi nhớ lấy.
Lời Kiều Công Tiễn vừa dứt, tiếng hô vang động cả góc thành, đoàn voi ngựa tinh binh mãnh tướng kéo ra khỏi cổng thành dài đến mấy dặm.
*
Đây lại nói việc trong thành Đại La.

Từ buổi thay Lý Khắc Chính chủ trì công việc trong thành Đại La, Lý Tiến sắp đặt canh giữ các cổng thành rất nghiêm nghặt. Lý Tiến cho thiết lập đường vận chuyển binh lương thông suốt từ trại Bắc sông Cái, qua phía bờ Nam đặt trại thuỷ bộ liên hoàn, tiếp đến trại lớn ngay ngoài cổng Bắc thành Đại La nối vào tới soái phủ phía trong. Đám quan văn quan võ trong Đại La thành cũ mới đều được phong thêm một cấp, ban thưởng tước vị, lụa là gấm vóc. Lý Tiến lại cho giết trâu ngựa khao quân để tăng sĩ khí trong ngoài thành. Độc Toàn Chân được tin dùng thăng chức tổng quản binh lương khắp cõi Giao Châu. Mạng lưới thương thuyền của Độc Toàn Chân được biên chế thành đoàn chiến thuyền cho khẩn trương bọc đồng bọc sắt, lại cho lắp đặt máy bắn đá gây thanh thế rất lớn. Lý Tiến tự biết rằng, nếu không giương uy Hán đế, tự lập nanh vuốt, chấn hưng sĩ khí toàn quân, thì thành Đại La sớm muộn cũng sẽ là mồ chôn của họ Lý. Một mặt, đích thân Lý Tiến thám sát khắp trong ngoài thành, phàm là chỗ nào dân chúng ở sát chân thành đều cho rời bỏ đuổi đi. Những là hào vũng nông sâu đều cho nạo vét chỉnh sửa rất nghiêm ngặt. Cũng thời điểm đó, Dương Đình Nghệ chủ trương tạm thời hưu chiến nên công việc của Lý Tiến không gặp mấy trở ngại, binh sĩ Hán triều vì thế lại bắt đầu ngông nghênh lùng sục ra tận phía ngoài thành.
Một buổi, Lý Tiến cho gọi Độc Toàn Chân vào soái phủ cùng nghị việc với các tuỳ tướng.
Lý Tiến ôn tồn nói:
– Ta may nhờ có tướng quân hết sức giúp dập mới có được thành cao hào vững, binh tướng hăng hái như hôm nay. Giặc cỏ luôn mấy tuần án binh bất động còn khó lường lắm. Nay tuyến vận chuyển binh mã lương thảo thông suốt bờ Bắc bờ Nam đến trại lớn cửa Bắc thành vào soái phủ đã nhịp nhàng. Ta cũng đã bẩm báo về Hán triều để hoàng thượng sớm phong quan tước cho tướng quân. Mọi việc mong ngươi hết sức cùng binh tướng giúp ta kiêm quản đất Giao Châu này mới được.
Độc Toàn Chân từ buổi được tin dùng, bên trong đối với Lý Tiến hết sức cung phụng nịnh nọt, bên ngoài đối với binh sĩ dân chúng không điều gì bạo ngược y không dám làm. Nay được chủ tướng khen ngợi còn tấu về Hán triều ban thưởng, y không giấu được vẻ sung sướng nói:
– Mạt tướng xin tạ ơn chúa công! Mọi việc cũng đều nhờ vào ân uy của Hán đế, hồng phúc của chúa công, mạt tướng mới mở mày mở mặt được. Toàn gia họ Độc, toàn thể huynh đệ của mạt tướng ở La thành xin kết cỏ ngậm vành báo ơn đức chúa công.
Thấy Độc Toàn Chân đột nhiên gọi mình là chúa công không khiến Lý Tiến giật mình nhìn quanh nhưng trong lòng đã bảy phần ưng thuận bèn vỗ về nói:
– Tướng quân nói thế là sai rồi. Ta chỉ là biên thần biên tướng của Hán đế mà thôi, ngươi gọi thế người ngoài nghe được lại rèm pha chẳng ra sao. Ngươi nên nhớ, chúng ta tuy bước đầu nắm được Đại La, quân quyền ấn tín còn đó nhưng vùng đất phương Nam này là đất ngoạ hổ tàng long, nếu không cẩn thận chết không có chỗ chôn đâu. Ngươi phải biết  răn mình cùng chúng tướng mà hành sự mới được.
Độc Toàn Chân vội nói:
– Chúa công bất tất phải quá khiêm nhường. Các văn thần võ tướng nơi Đại La thành, ai chẳng biết chúa công hết lòng vì Hán đế. Nay chúa công chủ trì mọi việc đánh dẹp ngoài ngàn dặm, phải nêu rõ công đức của mình mới cảm hoá được các tướng. Đó cũng là vì Hán đế mà gan óc lầy đất đó thôi. Nay quân ta người người phấn chấn, thuyền bè lương thảo dồi dào, kỵ binh bộ binh đều đã quen thung thổ tất nay mai đánh dẹp một trận tan giặc cỏ, chúa công khi ấy chỉ cần cử vài viên tướng vào chiếm lấy Ái Châu, Hoan châu, tiến đánh Chiêm Thành chí khí anh hùng càng hiển lộ, hiền tài bộ hạ nhờ hồng phúc mà thăng quan phát tài đó thôi.
Lý Tiến thấy Độc Toàn Chân lời lẽ nịnh nọt ngày càng quá bèn nói ngay:
– Tướng quân chớ được khinh địch. Ở đất Nam man này mà hàm hồ khinh suất xưa nay chỉ toàn chuốc lấy bại vong thôi. Nay cho ngươi lui ra chuẩn bị binh thuyền ngày mai ta sẽ sắp đặt sau.
*
Sáng hôm sau, từ sớm tinh sương, Lý Tiến cùng các bộ tướng đã nai nịt gọn gàng rời khỏi cửa bắc thành tới bến sông nơi có doanh trại liên hoàn thuỷ bộ thao luyện. Mùa nước dâng, mặt sông cái rộng mênh mông, sóng nước vỗ soàm soạp vào hai bên mạn thuyền. Từ ngày có đội binh thuyền, khí thế quân Hán tăng lên rõ rệt. Trại thuỷ binh đồng thời cũng là nơi Độc Toàn Chân cho binh lính cướp bóc đám thuyền xuôi ngược từ các vùng thượng du khi đi qua các cửa sông. Họ Độc ngang ngược bất kể là thuyền muối thuyền than cửa sông cửa biển đều cho trưng tập về chuyển làm thuyền chuyên chở thuỷ quân. Quân Hán trong Đại La thành tên nào thành thạo bơi lội đều xung làm thuỷ quân cả. Quân Hán lại cho bắt những chòi canh trên mặt sông chòi nọ nối chòi kia bằng những cây luồng lớn cao hẳn lên mặt nước tạo thành chiếc cầu phao nổi liên hoàn rất vững chắc. Lý Tiến lại cho đắp những ụ đất nổi hai bên bãi sông, đào những hào rãnh lớn xung quanh đề phòng voi chiến xông vào ải luỹ. Cùng các tùy tướng lục tục xuống mười chiếc thuyền lớn, Lý Tiến hạ lệnh xuôi xuống bến Giang Biên. Hơn nghìn cung thủ giấu sẵn trong lòng thuyền sẵn sàng giương cung lắp tên. Trên mỗi chiếc thuyền lớn bố trí năm cần máy bắn đá và hàng chục sọt đạn đá cỡ lớn. Nước xuôi gió thuận, đoàn thuyền lừng lững tiến trên mặt sông rộng không gặp bất kỳ trở ngại gì. Gần tới bến Giang Biên, từ xa, Lý Tiến lên mặt thuyền nhìn rõ cách chừng non nửa dặm một đám thuyền buôn lớn chừng sáu bảy chiếc đang leo đậu sát bến Giang Biên. Lý Tiến vẫy Độc Toàn Chân chỉ đám thuyền nói:
– Kia là thuyền buôn bán hay chiến thuyền của bọn giặc cỏ trá hình trà trộn thám sát tình hình của ta vậy?
Độc Toàn Chân nheo cặp mắt một mí nhìn mãi rồi nói:
– Mạt tướng cho là đám thương thuyền mang muối biển lên Giang Biên đổi lấy thóc gạo cày bừa đó thôi.
Lý Tiến phẩy tay:
– Bất kể là thuyền buôn thuyền lính ngươi hãy mau xếp đội hình bắn phá tan hết cho ta. Từ hôm đến đây, chưa thấy thuỷ binh khai trận để bản tướng ta liệu kế bố phòng.
Độc Toàn Chân thầm kêu khổ nhưng cũng phải mệnh lệnh mười chiếc chiến thuyền dàn thành hình vòng cung vây sát đám thuyền buôn đúng tầm đạn đá hạ lệnh nhất tề bắn sang.
Ùng… ùng… ùng… những cần máy bắn đá của chục chiến thuyền Đại La nhất tề vung lên hạ xuống cấp tập. Thoạt tiên, đạn bay chệch choạc tạo những cột nước lớn trắng xoá xung quanh đám thương thuyền song chỉ giây lát được binh tướng điều chỉnh đã nã trúng đích vỡ toang mấy chiếc liền. Có tiếng hò hét kêu khóc náo loạn. Những bóng người tung lên khỏi khoang thuyền đổ gãy. Các cần máy bắn đá càng khẩn trương nã đạn sôi sục vào đám thuyền trơ trọi nơi bến sông. Một thảm cảnh kinh hoàng bày ra, đám thương thuyền chưa đầy nửa khắc đã vỡ tan không còn một chiếc. Lý Tiến ha hả cười vỗ vai Độc Toàn Chân khen ngợi:
– Khá lắm! Khá lắm! Hôm nay ta phải khao thưởng tướng quân mới được. Đánh bọn Nam man không có thuỷ quân khó thủ thắng chúng lắm. Tướng quân hãy gây dựng thuỷ quân thật hùng mạnh mới có thể hùng cứ ở đất này được.
*
Nhận được tin báo bảy thuyền giả dạng thuyền buôn chở lương thảo khí giới từ Đằng Châu mới cập bến Giang Biên còn chưa kịp chuyển cho đại quân bất ngờ bị máy bắn đá của thuỷ quân Lý Tiến bắn tan tác, Phạm Bạch Hổ vội cùng đám tuỳ tướng ra thẳng bến sông xem xét đã thấy chiến thuyền của Độc Toàn Chân ngược dòng về trại chỉ còn là những chấm nhỏ. Phạm Bạch Hổ cùng các tuỳ tướng vội cho cứu vớt binh sĩ sống sót cùng lương thảo vỡ nát nổi lềnh bềnh trên mặt sông vô số lên bờ vừa lúc Ngô Quyền phóng ngựa tới. Rời lưng ngựa, Ngô Quyền quan sát một vòng đoạn bảo với Phạm Bạch Hổ:
– Phạm tướng quân! Không ngờ trong đám gian thương người Hán ở La thành cũng có người biết đánh thuỷ binh. Ta cho dò xét kẻ đó là tổng quản Độc Toàn Chân vốn dòng dõi thái thú Độc Cô Tồn trị nhậm Giao Châu thủa trước. Dương công vừa lệnh cho ta đến xem xét hỗ trợ binh tướng Đằng Châu tiện cùng nhau bàn việc đánh tan đám thuỷ binh mới lập của Lý Tiến. Để lâu ngày, chúng trước sau thành thạo càng khó cho ta.
Phạm Bạch Hổ đau xót nhìn đám binh lính đang được vớt lên từ dưới lòng sông lềnh bềnh lương thảo nén giận nói:
– Lũ giặc Bắc mới mấy ngày đã lắp được máy bắn đá trên chiến thuyền thật lợi hại. Đám thương lái của chúng phần nhiều là cướp biển dạt về nên thành thạo việc sử dụng chiến thuyền. Ta phải mau bí mật cho các dũng sĩ ngược lên thượng lưu sử dụng thuyền nhỏ lợi dụng đêm tối đốt thuỷ trại của giặc mới xong.
Hai tướng đang bàn, bỗng thấy Dương Đình Nghệ cùng Đoàn Thành rời lưng ngựa bước thẳng xuống bãi sông xem xét một lượt. Một lát, Dương Đình Nghệ cùng các tướng trở về trại lớn của Phạm Bạch Hổ đóng sát bến Giang Biên. Sau tuần trà nóng, Dương công nghiêm nghị nói:
– Ta vẫn biết Lý Tiến là tướng lão luyện của Hán đế nhưng không thể ngờ bọn chúng thời gian ngắn ngủi đến thế đã lắp đặt được máy bắn đá lên chiến thuyền gây thiệt hại cho ta. Các thương nhân trong thành không ít người thạo phép đánh thuỷ đã truyền dạy cho đám lính Hán cách tiến lui trên mặt nước. Nay nếu đợi thuyền bè từ Ái Châu kéo ra tất giặc kia càng thêm thời gian phòng bị. Ta vẫn biết Phạm Bạch Hổ nhiều năm nay thành thạo sông nước lại giỏi thuỷ chiến, nay có kế gì phá giặc mong tướng quân hãy sớm nói cho ta biết.
Phạm Bạch Hổ nghiêm nghị nói:
– Tiểu tướng đã xem sức tàn phá của thuyền giặc. Nay bọn chúng hạ thuỷ bộ liên hoàn trại để ứng cứu lẫn nhau ta chỉ có thể xuất kỳ bất ý chờ đêm tối lợi dụng gió nước đánh hoả công đốt thuyền giặc. Lại phải dùng tướng giỏi đưa voi trận bất ngờ đánh trên bộ chúng mới đầu đuôi không cứu ứng được nhau. Ngặt nỗi, voi trận muốn đưa đến bờ Nam trại giặc chẳng biết đi bằng cách nào?
Ngô Quyền trầm ngâm nói:
– Việc đưa voi lâm trận ta phải bí mật đưa theo đường sông mới không để lại dấu vết. Khi trước luyện voi ở Ái Châu, các nài tượng thường bắt chúng bơi dọc sông cũng không nề gì. Nay sông Cái mùa nước lớn ta hãy nửa đêm đưa chúng lên thuyền rồi bí mật ngược sông sát đến trại giặc chọn nơi um tùm mà ém binh. Cái khó là các dũng sĩ Đằng Châu phải vận chuyển được thật nhiều đồ dẫn lửa để đốt thuỷ trại khi ấy tung voi vào trại lính trên bờ mới hữu dụng. Đốt hết thuỷ binh giặc ta phải mau chóng tạo dựng đạo quân mạnh để vừa phải chống nhau với binh tướng Hán triều nơi bờ bắc vừa phải đánh quân tiếp viện từ trong Đại La thành kéo ra. Mạt tướng xin nhạc phụ và Phạm tướng quân bổ cứu cho.
Dương Đình Nghệ nhìn hai viên ái tướng, lại đưa mắt nhìn Đoàn Thành có ý mời họ Đoàn nói việc Phong Châu.
Đoàn Thành nói nhỏ rõ từng tiếng:
– Tiểu tướng vừa rời đất Phong Châu cũng là lúc Kiều công cho hơn năm ngàn tinh binh mãnh tướng do Kiều Công Tiễn làm chủ tướng đang ngày đêm hành binh xuống hợp vây Đại La thành chỉ nay mai tất đến. Nay Dương công hãy cho các tướng chuẩn bị thật kỹ lưỡng đợi tin của binh tướng Phong Châu sẽ đồng loạt hành sự việc lớn mới nắm chắc phần thắng.
Dương Đình Nghệ bấy giờ mới nói:
– Phép đánh giữ bây giờ đã khác. Nếu binh tướng Phong Châu kíp đến sớm ta dám chắc Lý Tiến không dám rời thành Đại La cứu trại thuỷ bộ ở sông Cái đâu. Ngộ nhỡ họ Kiều đến chậm, giặc kia dốc hết thuỷ quân bất ngờ đánh úp chiến thuyền Đằng Châu ta sẽ khó đương cự. Bởi vậy, Phạm Bạch Hổ hãy mau chóng cho giấu bớt chiến thuyền rồi cho quân lên bộ tìm về vùng thượng lưu trưng tập thuyền nhỏ chứa sẵn đồ dẫn lửa men theo bờ phía Nam sẵn sàng đốt thuỷ trại giặc. Gió xuôi nước thuận, các tinh binh họ Phạm đều thạo sông nước chắc sớm có kết quả. Một mặt, ba đêm nữa là lúc cuối tuần trăng trời tối mịt mùng, Ngô Quyền hãy cho ba mươi thớt voi cùng một ngàn tinh binh lên thuyền ngược sông áp sát trại giặc. Hễ thấy Phạm tướng quân nổi lửa đốt thuyền Quyền nhi hãy thúc voi nhất tề xông vào trại giặc. Khi ấy ta sẽ cho binh lính hò reo công thành khiến Lý Tiến không dám ra cứu. Các tướng hãy cố đánh cho đến sáng thể nào binh tướng Phong Châu cũng sẽ đến hội quân cùng các tướng.
Phạm Bạch Hổ khẳng khái nói:
– Mạt tướng xin vâng mệnh hành binh hẹn với Ngô tướng quân thuỷ bộ ba đêm nữa nhất tề khai chiến. Dù binh tướng Phong Châu có kịp tiếp viện hay không các dũng sĩ Đằng Châu quyết tử chiến với giặc. Mong Dương công hãy tin tưởng mạt tướng.
Ngô Quyền xúc động chớp chớp mắt vỗ vai Phạm Bạch Hổ:
– Phạm tướng quân! Ta nhất định sẽ xung trận đúng lúc tướng quân đốt thuyền giặc. Giặc kia dẫu mạnh chúng chỉ là quân vô đạo dám xâm phạm đất ta, ta phải đánh cho chúng biết đất đai này là có chủ. Ta thề cùng tướng quân sẽ phá giặc ở bãi sông này.
Thấy hai vị tướng trẻ bên ngoài khí khái anh hùng bên trong khăng khít hẹn nhau giết giặc, Dương Đình Nghệ cả mừng nói:
– Người phương Nam chúng ta có được những tướng lĩnh như thế này lo gì không thắng giặc.
*
Buổi tối trong soái phủ Lý Tiến ở Đại La thành.
Độc Toàn Chân hớt hải chạy vảo bẩm báo:
– Bẩm chúa công! Thám mã vừa về báo binh tướng Phong Châu của Kiều Công Tiễn chỉ còn cách cổng Tây thành hai mươi dặm chắc chắn sáng mai sẽ khai chiến với quân ta.
Lý Tiến nhìn viên tướng yêu trấn an:
– Ngươi không phải quá lo lắng. Ta thuỷ bộ liên hoàn, bốn cửa thành nay đã vững như bàn thạch, dẫu một Kiều Công Tiễn chứ ba Kiều Công Tiễn đến ta đều có kế đánh tan chúng.
Độc Toàn Chân căng thẳng nói:
– Bẩm chúa công, bọn chúng đều là những nha tướng cũ của họ Khúc, nay kết bè kết đảng kéo về đây thanh thế càng ngày càng lớn. Mạt tướng lại được tin bọn giặc cỏ Đằng Châu đang lẻn lên vùng thượng du chuẩn bị xuôi xuống đốt thuỷ trại của ta. Buổi chiều nay, thám sát thấy tiếng voi gầm ở phía Nam thưa thớt lắm. Liệu chúng đêm nay có cả gan ba mặt giáp công liên hoàn trại ở bờ Nam của ta không?
Lý Tiến nghe Độc Toàn Chân nói không khỏi hoang mang nhưng vẫn nói cứng:
– Phép dùng binh xưa nay nước đến đất ngăn, binh ra tướng đón không có gì phải sợ. Ngươi hãy mệnh lệnh đêm nay giữ vững hai trại thuỷ bộ không được ra đánh. Đại binh bờ Bắc cũng phải án binh bất động không được manh động qua sông ứng cứu. Ngày mai ngươi hãy cho các chiến thuyền tản ra tuần sát dọc hai bên sông chỗ nào khả nghi cứ dùng đạn đá bắn giết cho ta. Bất kỳ thứ gì nổi trên mặt nước đều cho binh lính trục vớt đắp thành hào luỹ kẻ kia không thể trà trộn được chúng làm sao đốt được trại ta. Ngươi hãy y kế mà làm, việc phòng thủ các mặt thành ta đã cắt đặt các tướng đâu đấy cả rồi.
Độc Toàn Chân lui về doanh trại lòng nơm nớp không yên. Vừa đi được một đoạn đã thấy lửa cháy rừng rực phía Đông và phía Nam thành Đại La. Luôn mấy đêm nay, đêm nào Dương Đình Nghệ cũng cho đốt lửa ngoài hai mặt thành, cho đội cồng chiêng khua gõ gấp lắm khiến binh tướng trong thành Đại La ăn ngủ không yên.
Trước đó, từ buổi chiều, Phạm Bạch Hổ cùng hơn hai ngàn dũng sĩ sau mấy ngày đêm đã sửa soạn được gần trăm chiếc thuyền nhỏ chứa đầy đồ dẫn hoả lặng lẽ ẩn tàng ngay sát thuỷ trại giặc. Nhìn hướng gió, xem chiều nước chảy, Phạm Bạch Hổ bảo với các tướng:
– Đêm nay đốt trại giặc để tỏ rõ chí khí anh hùng của người Đằng Châu ta. Các huynh đệ hãy nhớ phải mau chóng cắt cầu phao không cho giặc ở bờ Bắc sang ứng cứu. Phần trại trên bộ, ta tin chắc Ngô tướng quân sẽ xua voi vào giày xéo chúng. Giặc kia dẫu đông quân song đêm tối chúng không dám rời thuyền bè doanh trại đâu. Ta vừa đốt vừa đục thủng chiến thuyền giặc kia tất loạn.
Các dũng sĩ ai nấy vung cánh tay trần vạm vỡ loang loáng truỷ thủ sắc lẹm như thay một lời thề.
Đêm nơi bãi sông gần sát thuỷ trại quân Hán im ắng rợn người.
Trên bờ, ánh sáng hắt ra từ những chòi canh soi rõ khuôn mặt binh lính mệt mỏi đang ngáp ngủ.

Dưới thuỷ trại, hơn trăm chiếc chiến thuyền lớn nhỏ đỗ sát nhau lừng lững trên mặt nước chỉ le lói ánh đèn hắt lờ mờ xuống mặt nước. Tiếng sóng vỗ soàm soạp vào mạn thuyền. Trên chòi canh đám lính gà gật theo nhịp chao lắc của thân thuyền.
Gần nửa đêm.
Trên mặt sông lố nhố những chấm nhỏ bập bềnh như củi cành mùa nước từ thượng du đổ về. Đám củi cành đến vài trăm cứ bập bềnh tiến sát thuỷ trại. Càng tới gần, mấy tên lính canh trên thuyền uể oải nhìn ra rồi mặc kệ. Đêm khuya gió lạnh, cùng lắm là đám dân chài liều chết kiếm cá ven bờ mà thôi. Đến khi mấy tên lính hốt hoảng nhận ra đám củi cành chính là những thuyền nhỏ đang vùn vụt ập vào thuỷ trại cũng là lúc tiếng pháo nổ, những ánh lửa nháng lên, hơn ba trăm thuyền cỏ chứa đầy chất dẫn lửa nhất tề lao vào thuỷ trại. Trong các chiến thuyền, đám lính dáo dác lên hò nhau đem cung tên bắn bừa vào những thuyền lửa thì đã muộn, nước xuôi gió thuận, các thuyền bốc cháy rất nhanh. Dưới lòng sông, những tráng sĩ tản ra ngoài tầm tên bơi thành đội ngũ. Cùng lúc ấy, tiếng trống tiếng cồng thúc lên ầm ầm. Cả một vùng đuốc cháy rừng rực sáng một góc trại. Trong ánh lửa bập bùng, tiếng voi gầm ghê rợn. Mấy chục thớt voi như từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên lao thốc vào doanh trại giặc. Trên bành voi, binh lính Ái Châu nhanh nhẹn ném lao đồng, bắn tên lửa khiến góc trại trên bờ cháy rừng rực. Phía bờ Bắc, tiếng kèn đồng của binh lính Hán ré lên từng chặp nhưng bọn chúng không dám khinh xuất qua sông cứu viện. Binh tướng Ái Châu xuất kỳ bất ý đốt phá trại giặc như vào chỗ không người. Dưới lòng sông, hơn ngàn dùng sĩ hò reo khi thấy đoàn chiến thuyền quân Đằng Châu sau khi đổ bộ voi chiến lên bờ quay ra đón lên thuyền. Những là gươm giáo cung tên đều sắp đặt đủ cả. Các dũng sĩ mau chóng kẻ cung tên người câu liêm, đinh ba trên các chiến thuyền quay trở lại thuỷ trại giặc vừa hò reo tạo thanh thế vừa bắn giết những quân Hán bị lửa cháy rơi xuống lòng sông. Cả một khúc sông ngầu đỏ náo loạn tiếng la hét rợn người mãi cho đến tang tảng sáng.
Trời còn chưa sáng hẳn, một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt nơi bãi sông. Thuỷ trại quân Hán chỉ còn là đám xác thuyền đổ gãy cháy vỡ tứ tung nham nhở. Chỉ còn hơn chục chiếc mang thương tích liều chết men theo cầu phao sang bên phía bờ bắc. Quang cảnh bộ còn kinh khiếp hơn. Năm mươi thớt voi cùng hàng ngàn tinh binh dưới sự dũng mãnh của Ngô tướng quân xông thẳng vào trại giặc đốt phá, giày xéo khiến quân Hán mười phần thiệt hại đến năm sáu phần. Lại thêm hai ngàn dũng sĩ thuỷ quân Đằng Châu sau khi đốt thuyền giặc kịp thời thanh viện dưới nước trên bờ khiến binh tướng Hán chỉ còn biết cướp đường chạy dọc bờ sông. Độc Toàn Chân vừa thoát khỏi chiến thuyền đang cháy rừng rực cùng lũ tuỳ tướng xông vào trại giữa bờ nam đã ngay lập tức gặp đội voi chiến xông vào khiến họ Độc hồn bay phách lạc vội cùng đám tàn binh tàn tướng cướp đường chạy dọc bãi sông. Dẫn theo vài nghìn binh tướng ôm đầu máu chạy đến tảng sáng đang tính kế tìm đường vòng về thành Đại La thì bỗng đâu phía trước tiếng trống tiếng chiêng ầm ĩ, một cánh quân như từ dưới đất chui lên vây chặt đám người ngựa quân Hán thương tích đầy mình đang rụng rời sợ hãi. Độc Toàn Chân quay đầu bảo đám chúng tướng:
– Phía trước giặc cỏ mai phục, phía sau voi trận truy sát. Ta cùng các người tận số ở bờ sông Cái này rồi.
Lời than chưa dứt, phía trước, trong đám binh mã đang dàn trận khép vòng vây, một viên tướng oai phong lẫm liệt cưỡi ngựa thẳng tiến ra giữa trận, phía sau lá cờ thêu chữ Kiều cực lớn phần phật tung bay. Viên tướng kìm cương trỏ thẳng vào Độc Toàn Chân quát lớn:
– Bớ tướng giặc! Ngươi bốn mặt đã bị bản tướng tuyệt đường rồi. Mau xuống ngựa xin hàng ta tha chết cho.
Độc Toàn Chân run rẩy nhìn về phía sau thấy binh tướng Hán kẻ bị thương người bị ướt binh giáp xộc xệch, mặt mày tái xám vì đói rét, hãi hùng vừa qua kiếp nạn voi giày lửa đốt biết có liều đánh cũng vô ích còn chưa biết phải làm gì bỗng phía sau có tiếng reo hò ầm ầm rồi một toán kỵ binh Hán ào đến, đi đầu là viên tướng cao lớn oai phong lẫm liệt vung đại đao thét to:
– Độc tướng quân bất tất phải sợ hãi giặc cỏ, ta vâng mệnh chúa công đến cứu tướng quân đây!
Độc Toàn Chân cả mừng nhìn ra thì là Lý Phục, viên hổ tướng luôn theo sát bên mình thứ sử Lý Tiến. Lại thấy kỵ binh Hán ào đến ngày càng đông bèn thét to:
– Các tướng sĩ hãy mau cùng ta và Lý tướng quân phá vây về thành.
Thấy đột nhiên đám binh tướng Hán có viện binh, Kiều Công Tiễn thận trọng lùi ngựa lại, khoát tay hiệu lệnh dàn cung thủ sẵn sàng đồng thời mệnh lệnh:
– Mau khép chặt vòng vây! Nhằm kỵ binh giặc xạ tiễn!
Binh tướng Phong Châu sau thời khắc bất ngờ trước đội viện binh nhất tề trương cung lắp tên bắn thẳng vào đám kỵ binh. Trong làn mưa tên, Độc Toàn Chân vừa gạt tên vừa thét:
– Hỡi binh tướng hãy mau theo ta liều chết trở về thành!
Binh lính Hán phần lớn không còn sức chiến đấu vội vã tìm đường tháo chạy. Đám kỵ binh mới đến vòng bọc hậu vừa đánh nhầu với quân Phong Châu vừa che chắn để bộ binh rút dần về phía cửa bắc thành Đại La. Kiều Công Tiễn cũng chủ động cho quân vừa đánh vừa tiến rất thận trọng. Trận đầu đụng độ với binh tướng Hán, họ Kiều nhớ lời thân phụ không dám quá ham đánh, chỉ chiêng trống cung tên xã tiễn từ xa. Nhờ vậy, Lý Phục và Độc Toàn Chân mới đưa được quân trở về phía cửa bắc thành.
Hồi thứ 5
Luôn mấy trận toàn thắng, các đội binh mã ai nấy đều phấn chấn tuân theo mệnh lệnh của Ngô Quyền. Trong quân, họ Ngô thương yêu sĩ tốt như ruột thịt. Ngô Quyền bất kể đánh thành, đuổi giặc, ban đêm, ban ngày đều xông lên trước hàng quân rất dũng mãnh khiến ba quân đều cảm phục.
HỒI THỨ NĂM
Vâng theo đế mệnh, Trần Bảo vong mạng bến Giang Biên
Đưa voi qua sông, Ngô – Phạm – Kiều hợp binh phá giặc
Sau trận thua binh vỡ trại liên hoàn thuỷ bộ phía bờ nam cứu được Độc Toàn Chân vào thành, Lý Tiến vội cho triệu các tướng vào trướng hổ thương nghị. Đêm đêm, các cánh quân vây đánh La thành càng siết chặt. Bốn mặt thành, tiếng voi gầm ngựa hí âm i khiến Lý Tiến cùng binh tướng không phút nào yên.
Nhận hịch truyền của Dương Đình Nghệ, các nha tướng cũ, hào trưởng, châu mục các vùng đem binh lương, trâu ngựa đến thanh viện cho binh tướng Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu rất đông. Từ Hoan châu, Đinh Công Trứ vận chuyển tới vô số lương thảo, binh khí phá thành, đặc biệt là năm mươi thớt voi chiến càng làm tăng sĩ khí quân vây thành. Phía trại bắc sông Cái, binh tướng Hán triều không dám qua sông, chỉ loanh quanh nhặt nhạnh những thuyền vỡ nát của Độc Toàn Chân cho sửa sang được chưa tới ba mươi chiếc. Mạch nối liên hoàn bờ bắc – bờ nam – trại cổng bắc thành – soái phủ La thành đứt đoạn không còn liên lạc được với nhau.
Lý Tiến đi đi lại lại trong trướng hổ chưa biết mai kia tiến thoái ra sao. Độc Toàn Chân thấy vậy đắn đo rồi nói:
– Bẩm chúa công! Giặc cỏ ngày trước chúng còn tản mát nơi rừng xanh núi đỏ, nhút nhát sợ sệt, nay phút chốc binh tướng của chúng san sát mọc ra, đều là những kiêu binh mãnh tướng, lại biết dùng mưu sâu kế hiểm đánh bại quân ta, cắt đứt liên lạc thuỷ bộ của ta. Chi bằng chúa công mau cho người về triều xin viện binh để sớm tiêu diệt chúng.
Lý Tiến bực bội mắng:
– Ta vừa xuống Giao Châu trị nhậm chưa có công lao gì đã bại binh thua trận, nay mở miệng xin viện binh e rằng cái đầu không giữ được trên cổ đâu.
Độc Toàn Chân thấy họ Lý tuy giận nhưng trong lòng đã phân vân nhiều, liều thưa:
– Chúa công nói chí phải. Tuy vậy, giặc cỏ kia giờ bốn mặt vây thành, binh lương tiếp viện của chúng đổ về không dứt, ta không quyết kế sớm e rằng hối không kịp nữa. Mạt tướng liều chết xin chúa công mau cho người về cấp báo Hán đế. Viện binh có đến, ta trong ứng ngoài hợp mà phá tan giặc cỏ mới là đại kế lâu dài.
Lý Tiến trầm ngâm không nói. Độc Toàn Chân luôn mấy tháng ròng đã dốc hết sản nghiệp, binh thuyền, của cải sung quân không quản vào sinh ra tử giúp dập không thể lời nói hàm hồ. Luôn mấy trận, họ Độc đều đi đầu cáng đáng mọi việc. Khốn nỗi, giặc cỏ ngày càng ranh ma, trí trá khó lường. Chúng giả đánh thành rồi bất thần nửa đêm liều chết đốt trại khiến thuỷ bộ bị cắt đứt. Nay thêm lũ binh tướng Phong Châu của dòng họ Kiều kéo xuống gây thêm thanh thế càng khiến cục diện rối ren. Ta tuy còn hai vạn quân phía bờ bắc nhưng nếu không có thuyền bè, thuỷ binh hộ tống cũng chỉ là nuốt nước mắt nhìn nhau mà thôi. Thành Đại La, trước sau vẫn là một toà cô thành. Ta bây giờ mới cảm thấy sự tuyệt vọng, uất ức đến thành mụn độc của An Nam đô hộ sứ Cao Chính Bình xưa kia là cay đắng lắm.
Nghĩ trước nghĩ sau, Lý Tiến nói với Độc Toàn Chân:
– Ta cũng chẳng còn kế gì khác. E rằng tin thất trận mấy hôm vừa rồi đã về đến Hán triều cũng nên. Ta thân làm đại tướng, chưa quyết chiến được trận nào đã ở thế thua phải cầu xin viện binh là một nỗi nhục lớn của ta vậy.
Nói đoạn, Lý Tiến quan hoài nhìn viên tướng yêu cũng đang suy nghĩ lao lung lắm.
*
Đây nói tiếp chuyện quân Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu.
Quân Phong Châu sau buổi thừa thắng truy kích binh tướng Hán triều về tận sát cửa bắc thành Đại La, Kiều Công Tiễn không dám ham chiến cho hạ trại cách La thành năm dặm. Binh tướng Phong Châu lần đầu xuất trận đã ở thế thắng ai nấy phấn chấn kiểm điểm voi ngựa, dựng trại bắc cầu rất quy củ. Kiều Công Tiễn nhiều năm thao luyện quân sĩ nơi ngã ba Bạch Hạc không chỉ giỏi đánh bộ mà thuỷ binh cũng rất am tường. Họ Kiều cho người thám sát dọc sông, đường dẫn vào Đầm Sương Mù còn cho chia ra một nghìn binh lính sai tên phó tướng Hà Tiệp chọn chỗ đất cao sát con đường dẫn từ bãi sông Cái vào thành hạ trại. Xong xuôi đâu đấy, Kiều Công Tiễn cho người đi đường tắt tới báo tin với Dương Đình Nghệ xin vây đánh cửa bắc thành.
Nhận được tin Ngô Quyền và Phạm Bạch Hổ dùng kế liên hoàn thủy bộ đốt chiến thuyền, xua voi trận phá tan trại quân Hán, Dương Đình Nghệ mừng lắm. Hôm trước, khi đồng ý để hai tướng xuất binh, Dương công trong lòng còn nhiều lo lắng. Ông sợ rằng đang mùa nước sông dâng cao, đưa voi lên thuyền chèo ngược sông chẳng may không kịp sẽ hỏng đại sự. Song, Ngô Quyền đã khéo léo dùng nhiều ngựa chiến buộc dây chão lớn kéo chiến thuyền ngược sông kịp giờ hẹn trước với Phạm Bạch Hổ. Đúng nửa đêm, khi con voi chiến cuối cùng rời được lên bờ cũng là lúc đám thuyền nhỏ chứa đầy đồ dẫn hoả và thuốc súng nhất tề xông vào thuỷ trại giặc. Trận liên hoàn này, đã cho thấy Ngô Quyền và Phạm Bạch Hổ không chỉ anh dũng thiện chiến mà biết lợi dụng sức gió sức nước, xuất kỳ bất ý đem quân ít mà đại thắng quân đông. Với những tướng lĩnh thế này, việc lấy thành Đại La chỉ còn trong sớm tối.
Dương công lại càng vui mừng khi binh tướng Phong Châu đã xuất trận thanh viện xuống vây Đại La thành. Khi được kể cách hành binh đuổi giặc, việc bố phòng doanh trại nơi cửa bắc thành của Kiều Công Tiễn, Dương công khen lắm. Binh pháp có dạy giặc cùng chớ đuổi, nay chủ tướng Phong Châu truy kích quân Hán vừa thong thả nhịp nhàng vừa để chúng thấy được trùng vây đang xiết chặt quả không phải người thường. Ta vẫn nghe đồn, Kiều công có được người con trưởng văn võ toàn tài quả không hổ danh họ Kiều đất Phong Châu vậy.
Đại La thành sau vài tháng trước sau bị vây hãm, đổi chủ thay tướng, hiện chỉ là một tòa cô thành, dẫu có viện binh đóng bên kia sông Cái cũng không thể qua sông ứng cứu. Nay lại thêm năm mươi thớt voi chiến của Đinh Công Trứ từ Ái Châu chuyển ra đóng bên bờ sông Cái càng khiến cho quân Hán khiếp vía. Binh lương các nơi dồn về vây thành ngày càng đông đúc. Lòng căm hận người phương Bắc cai trị hà khắc dân chúng phương Nam được dịp như ngọn lửa cháy bùng càng lúc càng lớn. Mới thấy sức dân như sức nước, không một thành trì nào chống đỡ nổi khi lòng dân phẫn nộ. Suy nghĩ trước sau, Dương Đình Nghệ hẹn với các tướng buổi bốn mặt công thành. Sĩ khí toàn quân trong ngoài đều vô cùng phấn chấn.
*
Hán đế Lưu Cung nhận được tin cấp báo từ Giao Châu Lý Tiến binh bại liên tiếp đang bị vây chặt trong thành Đại La vội cho mời tể tướng Tô Chương tới mật nghị. Họ Tô tuổi tác đã cao nhưng đêm ngày cúc cung vì đế nghiệp của Hán đế được họ Lưu rất trọng dụng. Ngày trước, việc phái binh thảo phạt Giao Châu cũng là chủ ý của tể tướng. Việc thay ngựa giữa dòng, triệu hồi Lý Khắc Chính về kinh sư cũng là ý của Tô Chương cả. Nay Giao Châu nguy khốn, Lý Tiến như cá nằm trên thớt trong Đại La thành khiến Hán đế Lưu Cung bực tức mắng Tô Chương:
– Ngươi trên triều khuyên ta động binh thay tướng đất Giao Châu, Lý Tiến liên tiếp bại binh cấp báo về xin tiếp viện. Ngươi thân làm tể tướng, đã biết tội của mình chưa?
Tô Chương im lặng một lúc để cho Hán đế nguôi giận mới bình tĩnh tâu:
– Hoàng thượng thánh minh! Chúng thần đêm ngày vì hoàng thượng cúc cung tận tuỵ không có ý gì khác. Nay tội thần tiến cử Lý Tiến xuống Giao Châu thảo phạt, trị nhậm cũng là tuân thánh ý của hoàng thượng. Lý Tiến một mình đem binh vào nơi ngàn dặm, không quản lam sơn chướng khí, rời bỏ thê tử đều một lòng vì đế nghiệp của hoàng thượng. Giặc cỏ Giao Châu cứng đầu cứng cổ, hoàng thượng càng phải tỏ rõ thiên uy. Theo ngu ý của tội thần, hoàng thượng hãy phái thêm binh tướng lên đường thảo phạt Giao Châu, trước là cứu trung thần bị vây trong cô thành đêm ngày mong ngóng thiên uy, sau là dẹp tan giặc cỏ, tiến đánh xuống phương Nam, dùng lương thảo người ngựa của chúng để phục dịch công cuộc tranh hùng ở Trung Nguyên mới được.
Hán đế Lưu Cung thấy Tô Chương lời nói thống thiết, trước sau chỉ là tuân theo thánh ý bèn dịu giọng truyền chỉ:
– Ngươi chỉ được cái khéo miệng bênh lũ bại trận. Nay ở phía Bắc, đám quần hùng còn đang tranh đoạt lẫn nhau ta chưa thể xuất binh vào Trung Nguyên. Hãy để cho chúng tương tàn phân cao thấp ta ngồi đợi cũng chưa muộn. Còn việc Giao Châu không thể bại binh thêm lần nữa. Nay giao cho ngươi truyền chỉ lệnh đại tướng Trần Bảo kíp đem ba vạn binh tướng xuống làm cỏ Giao Châu.
Tô Chương vội quỳ xuống nhận mệnh:
– Hạ thần tuân chỉ!
*
Nhận được tin báo Hán đế Lưu Cung cho đại tướng Trần Bảo cùng ba vạn tinh binh cấp tốc hành quân xuống Giao Châu cứu thành Đại La, Dương Đình Nghệ cho họp các tướng nơi soái phủ. Dương công cho mời cả chủ tướng Phong Châu Kiều Công Tiễn tới tham dự. Đợi các tướng ổn định đâu đấy, Dương Đình Nghệ nghiêm trang nói:
– Nay ta được tin đại tướng Trần Bảo vâng mệnh Hán đế Lưu Cung đem ba vạn tinh binh ngày đêm thẳng tiến xuống thành Đại La. Hán triều vốn có dã tâm đoạt các châu quận phương Nam từ lâu rồi. Hán đế muốn nuốt gọn phương Nam để tranh hùng nơi đất Bắc phát động chiến tranh là nghịch lẽ trời. Người phương Nam chúng ta, các đời Khúc chúa trị nhậm nuôi dân đã mấy chục năm yên ổn, nay chỉ vì dã tâm của Hán đế mà dân chúng lầm than, lòng người ly tán, cụ già con đỏ bỏ mạng thương tâm, người phương Nam chúng ta vạn bất đắc dĩ mới phải cầm gươm giáo đánh đuổi lũ giặc phương Bắc. Nay bọn chúng cậy binh nhiều tướng lắm xuống chiếm đất ta không thể nói lý với kẻ tham tàn. Ta nay muốn đánh lớn một trận, chém tướng giặc tại đất ta để mỗi khi chúng nghĩ đến phương Nam là hồn bay phách tán. Không biết ý các tướng thế nào.
Các tướng nghiêm nghị nhìn nhau chưa ai muốn nói trước. Thấy thế, Dương Đình Nghệ nhìn chủ tướng Phong Châu Kiều Công Tiễn nói:
– Mời Kiều tướng quân hãy cho biết cao ý của mình để các tướng cùng luận bàn xem.
Thấy được tín nhiệm, Kiều Công Tiễn đứng dậy thận trọng nói:
– Tiểu tướng vốn muốn nghe cao ý của các tướng đã nhiều lần lâm trận lập công nơi chiến trường, đánh bại quân Hán trước, song Dương công đã mệnh lệnh, tiểu tướng xin được mạn phép bàn vào việc quân. Cứ theo ý tiểu tướng, Dương công hãy hạ lệnh bốn mặt vây thành, nhất tề phá vỡ thành Đại La xử tội Lý Tiến, Độc Toàn Chân và bọn gian tặc rồi toàn quân nghênh địch đánh viện binh Trần Bảo cũng chưa muộn. Tiểu tướng tuy bất tài xin cùng với năm nghìn binh tướng Phong Châu công phá cửa bắc thành.
Dương Đình Nghệ nhìn khắp các tướng vẻ muốn khuyến khích mọi người nói rõ chủ ý của mình.
Đoàn Thành cung kính đứng ra nói:

– Bẩm Dương công! Thưa các vị tướng quân! Việc đánh giữ chắc rằng Dương công và các tướng đều có chủ ý cả rồi. Tiểu sinh xin được có đôi điều bàn thêm. Nếu ta quyết chiến phá thành Đại La gấp trong sớm tối, e rằng sẽ là lưỡng bại câu thương. Binh pháp có dạy, quân gấp hai lần thì tiến đánh, gấp ba lần thì vây thành, gấp năm lần mới có thể phá thành. Quân Hán trong thành Đại La còn dư hai vạn, Lý Tiến là tướng giỏi của Hán triều không dễ gì mắc mưu quân ta đâu. Phía bờ bắc, hai vạn tinh binh quân Hán lẽ nào chịu ngồi yên để mất thành. Nếu chúng chia binh liều chết qua sông, ta lại phải chia binh chống cự, kíp đến khi ba vạn tinh binh của Trần Bảo xuống được Giang Biên tình thế sẽ chưa biết thế nào.
Dương Đình Nghệ và các tướng nghe Đoàn Thành nói, thấy họ Đoàn trước sau nhìn nhận thấu đáo quân tình ai cũng thầm nể trọng. Việc binh xưa nay, nơi màn trướng, nếu có được người giỏi định mưu mới là chắc thắng.
Một lát sau, Ngô Quyền đứng ra nói:
– Bẩm nhạc gia! Thưa các vị tướng quân! Lời của Kiều huynh, Đoàn huynh đều đúng cả. Ta một mặt vẫn phải tính kế đánh một trận thật lớn, chém tướng chặt cờ để Hán đế hễ nghĩ đến phương Nam là không dám động binh. Một mặt phải tính toán kỹ lưỡng binh lực thế trận hai bên mới nắm chắc phần thắng. Ý của Kiều huynh là phá thành quyết chiến. Ý của Đoàn huynh đánh thành chỉ là hư chiêu, còn chủ ý phải qua sông bày trận đánh tan viện binh Trần Bảo tất Lý Tiến chỉ còn nước bỏ ấn tín tìm đường về phương Bắc. Theo thiển ý của mạt tướng, ta lên đưa voi ngựa qua sông quyết chiến một trận với Hán triều.
Lời Ngô Quyền chưa dứt, Phạm Bạch Hổ đã đứng vụt ra nói:
– Ngô tướng quân nói chí phải! Việc binh xưa nay đánh giữ tuỳ lúc tuỳ thời. Nay giặc Bắc cậy binh đông cố thủ ở La thành, ta có địa lợi là dòng sông Cái mênh mông để chia cắt chúng. Ta dẫu có cho toàn quân qua sông quyết chiến với Trần Bảo thì Lý Tiến kia cũng chỉ biết giương mắt ra nhìn mà thôi. Theo ý mạt tướng, ta hãy phao tin bốn mặt phá thành, lại cho Kiều tướng quân dốc toàn lực đánh thẳng vào cửa bắc, còn đại binh Ái Châu, Đằng Châu, voi ngựa tướng lĩnh thuỷ bộ tất thảy qua bến Giang Biên bày trận quyết chiến với Trần Bảo. Trần Bảo từ xa đến, người ngựa mệt mỏi tất bại vong, khi đó Lý Tiến chỉ còn cách bỏ thành về phương Bắc. Xin Dương công quyết định cho.
Dương Đình Nghệ thấy các tướng sôi nổi bàn luận ai cũng quyết kế đánh bại giặc Bắc trong bụng mừng thầm bèn nhìn các tướng khẳng khái nói:
– Bản tướng vốn đã chủ trương phải đánh cho giặc Bắc kinh sợ một phen. Nay chúng không kể đạo lý dẫn xác đến quả là trời ban cho người phương Nam chúng ta lập chiến công vậy. Tuy thế cũng không được khinh địch. Lý Tiến trong La thành dẫu bị vây bốn mặt vẫn có thể thủ thành đợi viện binh. Chúng ta muốn đại thắng đánh tan quân cứu viện của Trần Bảo phải quyết kế toàn quân Ái Châu, Đằng Châu voi ngựa nhất loạt qua sông đánh tan hai vạn quân Hán ở bờ bắc sông Cái trước khi Trần Bảo kịp hội binh mới mong thủ thắng. Nay ta quyết định, ngay đêm nay Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ cùng ta cho toàn bộ voi ngựa binh lính qua sông, ngày mai phá trại giặc. Lệnh cho Dương Tam Kha cùng Đoàn Thành mỗi người một ngàn quân hò reo nghi binh đánh các cửa thành Đại La. Về phía Kiều tướng quân, sáng mai khi ta công phá trại bắc quân Hán hãy dốc sức đánh vào cửa bắc thành khiến Lý Tiến đầu đuôi không cứu được nhau. Các tướng hãy mau chia nhau thực hiện đại kế phá giặc.
Chúng tướng dạ ran khẩn trương người nào việc nấy.
Kiều Công Tiễn trước khi trở về quân doanh còn kịp nói với Dương Đình Nghệ:
– Dương công hãy yên tâm qua sông phá giặc. Việc ở thành Đại La tiểu tướng xin dốc sức phá thành cầm chân Lý Tiến để Dương công đại thắng quân Hán. Mong Dương công sớm đại thắng đánh bại Trần Bảo trở về bắt Lý Tiến báo thù rửa nhục cho Khúc chúa.
Dương Đình Nghệ lòng đầy khảng khái vỗ vỗ vào lưng viên tướng Phong Châu, luôn miệng nói:
– Kiều gia hồng phúc đầy nhà mới có được những vị tướng uy phong như Kiều công tử đây. Phong Châu quả là vùng đất có lắm anh hùng, khí thiêng hội tụ. Đuổi xong lũ giặc Bắc, ta nhất định lên Phong Châu thăm Kiều công một lần mới được.
Kiều Công Tiễn cảm kích xin cáo lui về quân doanh.
*
Theo mệnh lệnh của Ngô Quyền, binh tướng Ái Châu bao gồm hơn trăm thớt voi chiến đang vây cửa nam thành từ chập tối lặng lẽ tháo chiêng trống, bỏ nhạc ngựa, cuốn cờ xí ra thẳng bến sông lên đội thuyền lớn của Phạm Bạch Hổ sang bên kia bến Giang Biên. Luôn mấy trận toàn thắng, các đội binh mã ai nấy đều phấn chấn tuân theo mệnh lệnh của Ngô Quyền. Trong quân, họ Ngô thương yêu sĩ tốt như ruột thịt. Ngô Quyền bất kể đánh thành, đuổi giặc, ban đêm, ban ngày đều xông lên trước hàng quân rất dũng mãnh khiến ba quân đều cảm phục. Ngô tướng quân sau mấy trận giao tranh càng tỏ rõ phong độ của kẻ làm tướng, thắng không kiêu chỉ càng thêm thâm trầm quả quyết khi lâm trận. Ngô tướng quân cùng với Phạm Bạch Hổ đánh thủy đánh bộ đều rất ăn ý nhịp nhàng. Quân Đằng Châu thành thạo sông nước càng thêm sức mạnh và sự tin tưởng vào chiến thắng trước quân Hán.
Hai tướng Ngô – Phạm đưa được hơn hai vạn binh tướng Ái Châu, Đằng Châu sang bến Giang Biên cũng là lúc trời vừa tảng sáng. Hai tướng cho binh lính ăn uống đầy đủ ngay trên lòng thuyền lúc qua sông, voi ngựa có đầy đủ thóc cỏ, mía lau nên đội ngũ qua được sông sang bến Giang Biên vững vàng sung sức lắm. Khi kiểm điểm binh mã thuyền bè, Dương Đình Nghệ không khỏi khen thầm hai tướng.
Đứng trước hàng quân mã chỉnh tề, kỵ binh, tượng binh cơ nào đội nấy giáp phục nghiêm trang, dưới sông, gần trăm chiến thuyền đội hình hùng tráng, Dương Đình Nghệ lớn tiếng mệnh lệnh:
– Ta nay lệnh cho các tướng chia hai đường thuỷ bộ thẳng tiến tới phá trại địch. Binh lính Hán triều xâm phạm đất đai của người phương Nam chúng ta, giày xéo mồ mả tổ tiên ta chúng tất phải bị đuổi về nước chúng. Khi giáp trận, quân Hán tất bại, ta hãy chia binh gây thanh thế đuổi chúng là đủ. Giặc thua chạy cùng đường, quân ta không được tàn sát đuổi tận giết tuyệt. Chúng vỡ chạy càng khiến viện binh của Trần Bảo không còn lòng dạ nào mà chiến đấu nữa.
Chúng tướng rạ ran nhất tề lên voi ngựa, chiến thuyền thuỷ bộ nhằm trại Bắc quân Hán thẳng tiến.
Cũng giờ khắc đó, ba mặt thành Đại La, tiếng chiêng trống, tiếng voi gầm ngựa hí nổi lên ầm ầm.
Đại quân của Dương Đình Nghệ dẫn đầu là đội voi chiến do Ngô Quyền chỉ huy xốc thẳng tới phía trước ải luỹ trại quân Hán phía bờ bắc. Đám voi chiến sau nhiều lần giày xéo quân Hán tỏ ra vô cùng hăng máu cứ nhìn đám cờ Hán mà xông thẳng vào.
Trại quân Hán, luôn mấy trận thua binh còn chưa biết tiến thoái ra sao chỉ biết đóng chặt cửa trại chờ viện binh của Trần Bảo đến cứu. Đang khi quân cứu viện còn chưa đến, bỗng đâu bốn mặt lửa khói ngút trời, ba quân thuỷ bộ Ái Châu, Đằng Châu như từ trên trời rơi xuống, từ dưới lòng sông chui lên ầm ầm kéo đến. Mấy chục chiến thuyền của Phạm Bạch Hổ áp sát trại giặc nhất tề vung cần máy bắn đá giáng bão táp vào giữa trại giặc khiến chúng kêu khóc như ri. Đám quân Hán toan liều chết xuống vài mươi chiếc thuyền vỡ nát chạy trốn sang bên kia sông không còn kịp nữa. Những đoạn cầu phao bắc dở trên mặt sông sau vài loạt đạn đá đã chìm nghỉm xuống nước sông ngầu đỏ. Trên bờ, cảnh tượng còn kinh hoàng hơn. Đội voi chiến trăm con gầm rống phá toang cổng trại xông thẳng vào chính giữa vừa bắn tên lửa đốt trại vừa nhất loạt xạ tiễn. Trên bành voi chiến, Ngô Quyền như tướng nhà trời giáp trụ loé sáng vung từng chặp lao đồng vào đám quân Hán khiến chúng chết như ngả rạ. Quân Hán vỡ trận, lại không có tướng giỏi chỉ huy, sau nửa khắc chống đỡ yếu ớt đua nhau quăng giáp cướp ngựa mạnh ai nấy chạy về phía Bắc. Phía sau, theo mệnh lệnh của Dương Đình Nghệ, binh tướng Ái Châu chỉ thúc trống đồng trống cái xua đuổi đám tàn quân. Quân Ái Châu bắt được ngựa chiến áo giáp, gươm giáo nhiều vô số kể. Khi điểm lại binh mã thuỷ bộ sau trận thắng lớn mặt trời con chưa lên quá con sào. Lý Tiến ở trong thành Đại La và đại tướng Trần Bảo đang hành binh cứu viện chắc chắn không thể ngờ được chỉ hơn một canh giờ, trại lớn phía bắc đã hoàn toàn bị xoá sổ, hơn vạn binh mã kẻ quẳng giáp người mất ngựa thương vong sót lại được hai ba nghìn ôm đầu máu lủi thủi nhằm phương Bắc vừa chạy vừa ngóng đợi viện binh.
Dương Đình Nghệ hạ lệnh phá dỡ trại giặc, lại cho người vào các vùng lân cận tìm dân chúng tới lấy lại gỗ đá đình chùa nhà cửa mà đám quân Hán cướp về làm trại. Dương công cùng các tướng đem voi ngựa giúp các vị bô lão và dân chúng chuyên chở những thứ bị quân Hán lùng cướp.
Đến quá buổi chiều, Dương công hạ lệnh binh sĩ chia hai đường thuỷ bộ lui về bến Giang Biên hạ trại. Bịn rịn chia tay các vị bô lão hương thôn, Dương Đình Nghệ cảm động hứa sẽ sớm đánh tan quân Hán lấy lại La thành để muôn dân an hưởng thái bình.
Trong ngày hôm đó, khi Lý Tiến được cấp báo phía trại bờ bắc lửa cháy ngút trời sắp vỡ, họ Lý hoảng sợ chưa biết ứng phó ra sao cũng là lúc ba mặt thành Đại La tiếng voi ngựa ầm ầm, giặc cỏ xông tới trước cổng thành khiêu chiến.
Phía cổng bắc, tinh binh mãnh tướng Phong Châu kéo đến đông nghịt. Dẫn đầu đám quân phá thành là vị tướng oai phong mấy hôm trước đuổi giết lũ Độc Toàn Chân tới tận chân thành. Binh tướng Phong Châu sử dụng những thang mây lớn quăng móc lên mặt thành bất kể tên đạn, gỗ đã lăn xuống như mưa. Các dũng sĩ Phong Châu tay cầm khiên lớn, hông dắt mã tấu sắc lẻm đua nhau tiến sát chân thành khí thế rất hăng. Lý Tiến vội vã sai hổ tướng Lý Phục và Độc Toàn Chân đem năm nghìn binh lính tử chiến nơi cổng thành phía bắc không để cho quân Phong Châu lên được mặt thành. Đến giữa trưa, khi quân Phong Châu và binh lính các mặt thành đều rút ra ngoài ngưng chiến Lý Tiến mới biết đại binh của Dương Đình Nghệ đêm trước đã qua sông đại thắng bắt giết hơn vạn binh lính Hán triều nơi bờ bắc. Lý Tiến ngã phịch xuống ngay trướng hổ miệng hộc máu tươi tả hữu xông vào cứu mãi mới gượng dậy được. Độc Toàn Chân cùng Lý Phục chia binh đóng chặt bốn mặt cổng thành.
27/1/2021
Phùng Văn Khai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...