Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

Ngô Vương: Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai - Phần 2

Ngô Vương: Tiểu thuyết lịch sử
của Phùng Văn Khai - Phần 2

Đây nói chuyện viện binh của đại tướng Trần Bảo vâng mệnh Hán đế xuống La thành cứu Lý Tiến.
Trần Bảo vốn là tướng yêu của Hán đế Lưu Cung từng theo xa giá nam chinh bắc chiến đã hàng chục năm nổi tiếng là một tướng lão luyện. Họ Trần vốn rất giỏi kỵ binh, thường chỉ cần vài trăm kỵ đã dám tung hoành trong chốn muôn tên nghìn giáo như vào chỗ không người. Hán đế vốn định dùng họ Trần đem đại binh chống giữ với binh tướng nhà Hậu Lương song nghe lời tể tướng Tô Chương bèn cho viên tướng yêu xuống Giao Châu dẹp giặc cỏ. Trần Bảo vẫn biết Giao Châu là nơi lầy lội, đầm nước ao hồ nối nhau không dứt, không phải chỗ để dụng kỵ binh nhưng mệnh thiên tử không thể cưỡng. Họ Trần cũng quá hiểu thực lực của giặc cỏ không phải nằm trong mấy tờ biểu tấu mà lũ man di đều là những tinh binh mãnh tướng từng nhiều phen khiến quân Hán ôm đầu máu bại trận. Luận về binh thư chiến giáp, xưa nay vùng đất phương Nam không thiếu anh hùng dư sức đánh bại các danh tướng phương Bắc. Càng ngẫm ngợi trong lúc hành binh, Trần Bảo không khỏi nén dạ thở dài. Cuộc đời tướng soái trên sa trường vó ngựa bọc thây nào có sá gì, nhưng vạn nhất chết ở nơi lầy lội khuất nẻo phương Nam cũng chẳng ra thể thống gì. Họ Trần đời đời làm tướng soái càng khiến chủ tướng Trần Bảo ôm mối quan hoài trong cuộc hành binh.
Đi luôn sáu bảy ngày, khi tiến vào đất Giao Châu người ngựa có phần mệt mỏi, chủ tướng Trần Bảo hạ lệnh tạm dừng chân để binh sĩ được nghỉ ngơi cũng là lúc đám tàn quân Hán người không áo giáp ngựa chẳng yên cương lôi thôi lếch thếch quỳ xuống xin chịu tội.
Để làm nghiêm lòng quân, Trần Bảo cho đem chém mấy viên tướng bại trận đồng thời tra hỏi cẩn thận binh lực của giặc cỏ Giao Châu. Nắm xét mọi tình hình xong, để quân sĩ nghỉ ngơi nửa ngày, Trần Bảo không dám chậm trễ cùng các tướng gấp rút tiến thẳng xuống vùng Giang Biên đối diện La thành. Khi còn cách bến Giang Biên mười dặm họ Trần hạ lệnh toàn quân chia thành ba đội lớn hạ trại.
*
Sau khi đại phá trại giặc nơi bờ bắc sông Cái, Dương Đình Nghệ theo hai đường thuỷ bộ kéo về bến Giang Biên chỉnh đốn binh mã, quân lương, thuyền bè. Kịp vừa lúc hai chục thuyền vận chuyển lương thảo, khí cụ, đạn đá từ Đằng Châu tới bến Giang Biên. Ngay sau buổi bị đạn đá của Độc Toàn Chân phá tan bảy thuyền lương, thấy rõ sự lợi hại của đạn đá trên chiến thuyền, Phạm Bạch Hổ đã cho người về xin với Phạm Lệnh Công gấp rút điều tiết lương thảo, nhất là đạn đá để đánh trận. Trong trận đại phá trại giặc, uy lực của đạn đá trên các chiến thuyền là rất lớn. Chúng khiến binh tướng Hán khiếp sợ vỡ trận như ong vỡ tổ làm mồi cho đám voi chiến giày xéo.
Có được hơn mười thuyền đạn đá, Dương Đình Nghệ mừng lắm. Dương công lập tức cho vận chuyển từng cơ số đạn lên các chiến thuyền.
Phạm Bạch Hổ từ chiếc soái thuyền lên bờ thi lễ nói với Dương công:
– Bẩm Dương công! Hôm trước, đạn đá của Độc Toàn Chân phá vỡ thuyền lương Đằng Châu, mạt tướng đã sớm quyết định phải có nhiều đạn đá kịp thời đánh trận mới dễ bề thủ thắng. May nhờ gia phụ sớm định kế cho tiếp viện quân lương. Có binh khí này mai kia ta dùng để bắn quân Trần Bảo.
Dương Đình Nghệ tươi cười nói:
– Quân ta mấy lần đại thắng đều nhờ vào sức lực và trí tuệ của binh tướng Đằng Châu. Mới thấy rằng, Phạm công trù tính sâu xa, đội chiến thuyền là thượng sách đánh giặc Bắc. Dưới lòng sông có thể vừa khống chế vừa chia cắt chúng. Trên bãi cạn có thể dùng đạn đá phá trại để voi ngựa Ái Châu dễ bề thủ thắng. Quả là trời giúp chúng ta.
Sau khi tiếp nhận lương thảo cùng vài trăm sọt đạn đá, Phạm Bạch Hổ lập tức mệnh lệnh cho tướng chuyển lương ngay trong đêm thuận nước xuôi dòng xuống Đằng Châu lấy thêm đạn đá phòng khi dùng đến. Viên tướng vội vái chào chủ tướng cùng các thuyền mau chóng xuôi dòng khuất dạng.
Nhìn đám thuyền lương nhẹ lướt trên dòng sông mênh mang sóng vỗ thoáng chốc đã lẫn hút về tận cuối chân trời, Dương Đình Nghệ nghiêm trang nói với Phạm Bạch Hổ:
– Phạm tướng quân! Trận này, nhất định quân ta sẽ đại thắng.
*
Đây nói tiếp chuyện Lý Tiến trong thành Đại La.
Nhận được tin đại tướng Trần Bảo vâng mệnh Hán đế Lưu Cung đem hơn ba vạn tinh binh đã xuống hạ trại cách Giang Biên mười dặm Lý Tiến vội cho triệu Độc Toàn Chân vào đại điện bàn kế. Mấy ngày liên tiếp, biết là đã trúng kế của Dương Đình Nghệ để họ Dương đưa hàng vạn binh tướng voi ngựa qua sông phá tan trại nơi bờ Bắc khiến viện binh chưa đến đã kinh hãi. Họ Dương đã cùng các tinh binh mãnh tướng từng bước dắt mũi Lý Tiến dẫu binh lực còn nhiều mà đành thúc thủ trong toà cô thành tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, nơi cửa Bắc thành Đại La, binh tướng Phong Châu không ngày nào không hò reo thách đánh. Viên chủ tướng Phong Châu ranh mãnh chia quân làm kế hư thực khắp nơi khiến Lý Tiến càng thêm rối bời. Họ Lý thấy trước cơ sự tuy có viện binh thực chẳng sáng sủa gì. Muốn bỏ thành qua sông hợp binh với Trần Bảo cũng không được. Thuyền bè chẳng có. Rục rịch sang sông tất bị thuỷ binh Đằng Châu vây chặt. Trần Bảo dẫu có là danh tướng cũng không thể mọc cánh mà bay vào thành Đại La. Hàng ngàn kỵ binh phương Bắc nay đóng trại nơi bờ sông lầy lội càng không phải là kế vẹn toàn.
Luôn mấy hôm, Dương Đình Nghệ chỉ cho giữ vững cửa trại, thao luyện thủy binh ngay trước mũi Trần Bảo. Càng nghĩ, Lý Tiến càng bồn chồn không yên. Họ Lý như thấy trước vận mệnh đen tối của mình.
Đang suy nghĩ miên man, bỗng có Độc Toàn Chân vào bẩm báo:
– Bẩm chúa công! Nay đại binh Hán triều đã đến tất sẽ cầm chân toàn bộ tinh binh mãnh tướng của giặc cỏ bến Giang Biên. Ta nên chăng đưa binh ra quyết chiến nơi cửa Bắc tiêu diệt lũ Kiều Công Tiễn để bớt đi mối lo về sau cũng là giảm áp lực giặc cỏ vây thành. Mong chúa công sớm định liệu.
Lý Tiến trầm ngâm một lát mới nói:
– Tâm sự của tướng quân ta hoàn toàn biết được, song có nỗi khổ là nếu ta tiến binh ra ngoài thành mười phần thất lợi đến sáu bày phần. Đây là đất chúng, khi cần đánh chúng lại lẩn như trạch, khi binh ta muốn giao phong chúng trốn chui trốn lủi vào rừng rậm đầm lầy để đến lúc ta mỏi mệt chán nản mới quây vào như đỉa muỗi mà quấy phá quân ta. Mấy lần ta bại binh đều là do thuỷ quân của chúng xuất quỷ nhập thần khi thì đốt thuyền bè doanh trại khi thì dùng máy bắn đá nhất tề phá vỡ ải luỹ của ta. Giặc cỏ chiến thuyền trên sông có đến hơn trăm chiếc, nếu ta xuất binh khỏi thành giặc kia nhất tề lên bờ đánh úp dẫu Trần tướng quân có mọc cánh sang kịp ta cũng chắc chắn chuốc lấy bại vong. Nay chỉ còn chờ vào việc Trần tướng quân đánh bại giặc cỏ bên kia sông, phá hết chiến thuyền của chúng ta mới có thể thủ thắng được.
Độc Toàn Chân thấy Lý Tiến tính toán trước sau như thế không còn gì nói bèn lủi thủi lui về quân doanh. Họ Độc đã cảm thấy sợi dây thòng lọng siết sâu vào cổ họng không còn đường sống. Xưa kia, dẫu là Khúc Hạo hay Khúc Thừa Mỹ xưng Tiết độ sứ trị nhậm Giao Châu đều mười phần nể mặt Độc Toàn Chân đến bảy tám phần. Tổ tông của họ Khúc cũng là được thứ sử Giao Châu Độc Cô Tồn nhiều lần giúp đỡ mới có được thực lực quản hạt Giao Châu. Họ Khúc khu xử mềm mại với đám thương nhân người Hán, mặc sức để Độc Toàn Chân làm ăn nơi Đại La thành. Đang yên đang lành, ngờ đâu Khúc Thừa Mỹ đem lòng dạ khác muốn thờ hai chúa rước hoạ vào thân mới có thảm cảnh hôm nay. Nay họ Độc ta, gia sản xung quân hết, những là gia nhân gia thần đều như cá nằm trên thớt, đợi ngày các bộ tướng của họ Khúc nhập thành tận diệt. Chao ôi! Cái hoạ chiến tranh khi đã tự rước vào mười phần thì mười phần là tự diệt thân vậy. Vừa nghĩ, Độc Toàn Chân vừa cám cảnh thương cho dòng họ Độc chẳng may sắp tuyệt tự nơi vùng đất phương Nam.
*
Đây nói tiếp chuyện Trần Bảo cùng binh tướng chống nhau với đại binh của Dương Đình Nghệ nơi bến Giang Biên.
Luôn mấy hôm không thấy voi ngựa của Dương Đình Nghệ tới khiêu chiến, Trần Bảo cùng các tướng cũng không dám manh động xuất binh. Biết được mấy trận thua binh của quân Hán đều là do khinh suất liều mạng qua sông, lại bị thuỷ bộ hai mặt giặc cỏ nửa đêm dùng hoả công đốt giết, Trần Bảo cảnh giác cho quân thám thính dọc khắp bờ bãi ven sông. Phàm là lau lách cây cối đều cho chặt phá sạch. Phàm là nhà cửa dân cư đều đuổi dài đến mấy dặm. Ba trại lớn của Trần Bảo hạ theo thế liên hoàn trước sau ứng cứu rất nghiêm ngặt. Họ Trần lại cho binh lính đi dọc triền sông gom góp các thuyền nhỏ, thuyền vỡ nát khôi phục lại giả như có ý sẽ vượt sông. Quân Hán còn chặt tre đóng bè neo buộc khắp các bờ bãi vừa để phòng khi thuỷ quân của Phạm Bạch Hổ kéo đến sẽ thả bè cản chiến thuyền. Đại binh Hán triều, nhất là đám kỵ binh nhiều ngày không được xung trận tỏ vẻ bồn chồn nóng giận.
Phía đại quân của Dương Đình Nghệ, sau trận thắng lớn lòng quân dâng lên rất cao. Dương Đình Nghệ được các bô lão hương thôn trong vùng đem thóc gạo, trâu bò đến khao quân. Luôn mấy hôm, Dương công cùng hai tướng Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ ân cần tiếp các vị phụ lão hẹn ngày đại thắng quân Hán. Có cụ bô lão vùng Chu Diên cùng đám tráng đinh chở đến năm sáu thuyền cam bưởi đã chín vàng để khao quân mừng đến nỗi chân tay díu lại, khuôn mặt già khắc khổ rơi những giọt lệ.
Một cụ chạc hơn bảy mươi tuổi ân cần nắm tay Dương công nói:
– Nước ta từ thượng cổ luôn bị bọn người phương Bắc đè nén kìm kẹp. Nay Dương công hãy vì muôn dân mà đánh đuổi chúng đi lão đây chết mới nhắm mắt được.
Dương Đình Nghệ xúc động còn chưa nói lên lời lại có một cụ bô lão râu trắng như cước vùng sông nước Màn Trù đem đến ba thuyền cá đầy để khao quân níu vai Dương công mừng rỡ nói:
– Ta sống đã gần tám mươi tuổi chưa từng được thấy binh lính người phương Nam chúng ta mạnh mẽ oai phong như thế này bao giờ. Dương công nhất định phải lấy lại thành Đại La để lão hủ đây còn được vào kinh thành dâng hương tiên tổ.
Ngô Quyền cùng Phạm Bạch Hổ vội đỡ các vị lão trượng vào quân doanh nghỉ ngơi, ân cần thăm hỏi, xin thu nhận sản vật khao quân đâu vào đấy lại cử người đưa các vị lão trượng cùng tráng đinh về bản quán để tiện việc quân.
Xong xuôi mọi chuyện, Dương Đình Nghệ cho gọi các tướng vào thương nghị. Dương công thong thả nói:
– Viện binh Trần Bảo luôn mấy hôm không ra đánh quân ta, ta cũng tạm cho quân ngơi nghỉ. Trận quyết chiến bến Giang Biên này ta phải đánh cho Trần Bảo không còn manh giáp để Hán đế Lưu Cung thấy được uy phong của người phương Nam chúng ta. Lý Tiến như cá nằm trên thớt ta không phải bàn đến làm gì, cứ để Kiều Công Tiễn vây thành là đủ. Mai kia Trần Bảo bại binh, Lý Tiến chỉ còn nước xin hàng giữ mạng về phương Bắc mà thôi. Đánh trận lớn này, các tướng có cao kiến gì không?
Lời Dương công vừa dứt, Phạm Bạch Hổ đĩnh đạc đứng ra thưa:
– Bẩm Dương công! Viện binh của Trần Bảo và binh tướng của ta tuy quân số ngang nhau song giặc Bắc sẽ tất bại. Chúng có năm điều tất bại. Giặc kia bất chấp thuỷ thổ, rời bỏ sở trường, dám đưa ngựa Bắc xuống phương Nam tranh hùng là một điều tất bại. Trần Bảo thân làm chủ tướng chỉ vì mệnh vua chứ bản thân không hề muốn chinh chiến phương Nam, trong lòng ôm chứa nhiều điều u uất là hai điều tất bại. Dương công sớm đưa voi ngựa qua sông phá tan trại giặc tiền phương đón chúng khiến chúng khiếp sợ trong lòng là ba điều tất bại. Lý Tiến rụt rè sợ sệt, thủy quân tan tác không thể liên lạc được với viện binh là bốn điều tất bại. Xưa nay, người phương Bắc hành binh xuống phương Nam đều không thuận lẽ trời là năm điều tất bại.
Lời Phạm Bạch Hổ như lời kể tội lũ giặc phương Bắc khiến mọi người đều vô cùng xúc động càng cảm thấy sự chân thành hào sảng của vị tướng họ Phạm. Lời còn chưa dứt, Ngô Quyền xuất ban đứng ra thưa:
– Bẩm nhạc gia! Thưa các vị tướng quân! Tiểu tướng xin được nói năm điều tất thắng của đại binh ta. Quân ta trên dưới một lòng, nhất hô bá ứng, những phen vào sinh ra tử đều không quản sinh mệnh của mình vì đất đai mồ mả tiên tổ người phương Nam mà đánh giặc là một điều tất thắng. Nay đại binh sang sông, muôn dân hướng về mang đến cho thóc gạo trâu bò mong ngày đuổi giặc là thuận lẽ trời là hai điều tất thắng. Binh tướng Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu, thuỷ bộ liên hoàn, đồng tâm đồng sức giết giặc lập công, khí thế muôn người như một là ba điều tất thắng. Dương công thân làm soái tướng, vì đại nghĩa xuất binh để rửa nhục cho nước, khơi lại giềng mối bình an cho dân trời-người đều cảm động là bốn điều tất thắng. Binh tướng Hán trong ngoài La thành đi đến đâu đều hung dữ cướp phá khiến muôn dân đồ thán oán hận không dứt. Đại binh ta đi đến đâu đều mở lượng hiếu sinh, ân cần với hương thôn phụ lão, giúp dập muôn dân dựng lại nhà cửa đền miếu khiến lòng dân theo về là năm điều tất thắng. Có được năm điều này, dẫu Hán đế Lưu Cung đem hùng binh xuống phương Nam tất cũng đại bại để lại mối nhục ngàn năm.
Dương Đình Nghệ cùng các tướng nghe những lời như lời hịch của Ngô tướng quân trong lòng vô cùng xúc động, có người nước mắt rịn ra. Ai ai cũng như muốn lập tức lên đường đánh giặc.
Dương Đình Nghệ để cho mọi người bớt xúc động mới trang nghiêm nói:
– Phạm tướng quân! Ngô tướng quân! Các tướng quả đã nói đến tận gan ruột của ta, của ba quân tướng sĩ. Nay ta mệnh lệnh sáng sớm mai toàn quân lên đường phá giặc. Thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh, bộ binh nhất loạt chia làm năm mũi tiến thẳng vào trại giặc. Ta thề trận này sẽ phá tan đại binh Hán triều, giết chết Trần Bảo, để nhà Hán không bao giờ dám nhòm ngó xuống Giao Châu nữa.
Các tướng phụng lệnh dạ ran mau chóng ai về trại nấy chuẩn bị cho buổi xuất binh.
*
Bến Giang Biên mờ sáng hôm sau.
Trên sông, hơn trăm chiến thuyền xếp thành đội ngũ nhằm thẳng phía trại lớn quân Trần Bảo nơi bờ Bắc tiến đến. Trên thuyền im phăng phắc, không hề có tiếng chiêng trống, chỉ tiếng mái chèo ăn nước phầm phập. Đội hình kéo dài đến nửa dặm bề ngoài khá lặng lẽ như đoàn thuyền buôn đông đúc nhưng bên trong ẩn tàng những sấm sét sắp sửa giáng xuống đầu quân Hán.
Nơi bãi sông, Ngô Quyền cho toàn quân xuất binh. Đội tượng binh một trăm thớt voi chia làm hai cánh mỗi cánh có năm ngàn bộ binh theo sau khí thế rất lẫm liệt. Ngô tướng quân lại cho kỵ binh chia ra làm ba đội theo đường vòng xuất phát trước sớm vây bọc các trại lớn của quân Hán. Đích thân Dương Đình Nghệ ngồi trên bành voi xung trận khiến khí thế quân Ái Châu, Đằng Châu vô cùng hăng hái.
Đại quân của Dương Đình Nghệ tiến tới gần sát ba trại lớn của viện binh Trần Bảo mà đám quân tướng người Hán vẫn chưa hề hay biết. Luôn mấy hôm, chưa có kế sách tiến thủ gì, Trần Bảo chỉ biết án binh bất động cố thủ trong quân doanh chờ đợi thời cơ.
Khi các đạo quân bộ đã áp sát ba trại lớn quân Hán cũng là lúc hơn trăm chiến thuyền của Phạm Bạch Hổ nhất tề quay ngang đội hình dàn trận.
Ùng… ùng… ùng…
Ba tiếng nổ cực lớn vang lên làm hiệu lệnh. Khi binh tướng Hán triều nơi trại lớn gần mép sông trong màn sương mù lãng đãng còn chưa hiểu chuyện gì thì một trận mưa đạn đá bất thần đổ sầm sập vào khắp quân doanh. Phạm Bạch Hổ dàn hàng ngang chiến thuyền áp sát bờ Bắc hổi hả thúc quân bắn đạn đá ầm ầm vào trại giặc. Tiếng kêu khóc rên la âm i náo loạn cả một khúc bãi sông. Từng lớp gỗ đá doanh trại bắn tung lên hoà vào máu thịt người ngựa quân Hán vô số kể. Trại quân Hán mau chóng vỡ nát cháy nổ rất khủng khiếp. Binh lính Hán người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên cương tranh nhau tìm đường thoát ra khỏi tầm bắn của đạn đá cũng là lúc trên bành voi chủ tướng Dương Đình Nghệ cho nổ pháo tay nhất tề ném vào trại giặc. Quân Hán vừa thoát khỏi tầm đạn đá gặp ngay đám voi chiến xông thẳng vào giày xéo hồn bay phách tán tháo chạy kêu khóc rất thảm thiết.
Nhận được tin trại lớn nơi bờ sông đã bị binh tướng Dương Đình Nghệ ba mặt giáp công đánh giết vỡ tan, Trần Bảo cùng đám tuỳ tướng nơi trại trung tâm vội vã lên ngựa cự địch cũng là lúc đội voi chiến thứ hai năm mươi thớt do Ngô Quyền chỉ huy đã xộc thẳng xuống trước cửa trại.
Trên bành voi, thoáng thấy đám binh tướng người Hán, Ngô Quyền hét lớn:
– Tướng giặc Trần Bảo mau xuống ngựa chịu trói!
Ba quân bốn phía đồng thanh hô lớn:
– Trần Bảo mau xuống ngựa chịu trói!
Lời quân chưa dứt, muôn tên đã vèo vèo bay về phía đám kỵ binh quân Hán. Trần Bảo luống cuống quành ngựa gạt tên cùng đám tuỳ tướng xông bừa ra phía trước quyết phá vòng vây. Các tướng người Hán bất chấp trận mưa tên ào theo chủ tướng đánh thốc về phía doanh trại phía xa còn chưa bị tập kích hòng thu nhận binh tướng quay lại quyết chiến. Binh lính Hán thấy chủ tướng tháo chạy cũng đua nhau bỏ trại kẻ tìm ngựa người quẳng giáp ào theo. Ngô Quyền lập tức xua voi truy kích. Phía sau, đám bộ binh Ái Châu ào lên chém giết bắt sống quân Hán vô số kể. Dưới bờ sông, sau khi phá nát doanh trại quân Hán, Phạm Bạch Hổ cùng các dũng sĩ Đằng Châu nai nịt gọn gàng nhất tề bỏ thuyền lên bộ khí thế rất mạnh mẽ.
Chưa đầy nửa canh giờ, hai trại lớn của Trần Bảo chỉ còn trơ lại những lều bạt gỗ đá cháy nham nhở cùng hàng ngàn xác người ngựa xương thịt lẫn vào nhau thê thảm.
Trong tiếng chiêng trống ầm ầm, tiếng ngựa hí voi gầm trời long đất nở, quân Hán như ong vỡ tổ đầu đuôi không cứu được nhau, binh tướng bị chia cắt, người ngựa bị trăm thớt voi giày xéo rất thảm thương. Khi đám tàn binh rút được về trại Bắc cũng là lúc vòng vây của quân Ái Châu, Đằng Châu siết chặt. Trong cơn hoảng loạn, Trần Bảo vừa thoát vào trong trại lại lật đật lên yên ngựa bảo các tướng:
– Ta chinh chiến đã nhiều mà chưa thấy quân nào dũng mãnh thiện chiến như giặc cỏ ở đây. Nay các ngươi muốn sống hãy theo ta mở đường máu rút về phương Bắc may ra còn kịp.
Lời họ Trần còn chưa dứt bỗng hai bên phía sau quân doanh, tiếng pháo lệnh nổ vang, tiếng cồng chiêng ầm ầm, hai đội kỵ binh quân Ái Châu như từ trên trời rơi xuống hò reo đánh thẳng vào trại. Trần Bảo kinh hãi giật cương ngựa lao thẳng ra phía trước đã thấy cờ xí ngợp trời, chiêng trống dồn vang, bốn mặt quân Ái Châu, Đằng Châu sát khí xung thiên xông thẳng về phía quân Hán hò reo chém giết. Trên bành voi, Dương Đình Nghệ trỏ vào Trần Bảo mắng lớn:
– Tướng giặc kia, ngươi còn chưa chịu xuống ngựa đầu hàng hay sao?
Trần Bảo vội cùng đám tùy tướng quành ngựa sang hướng khác bỗng lại thấy một đội voi chiến sầm sập kéo đến, trên lưng voi là viên đại tướng oai phong lẫm liệt trỏ thẳng vào họ Trần thét:
– Trần Bảo! Ngươi mạng vong ở đất Giang Biên này rồi!
Chưa dứt lời thét, cánh tay Ngô tướng quân liên tiếp vung những ngọn lao đồng về phía đám tuỳ tướng đang che chắn cho Trần Bảo. Những tiếng kêu rú lên man dại. Người ngựa phọt máu đổ nhào như núi đổ. Trần Bảo còn chưa biết trốn chạy vào đâu bỗng trận mưa tên ập xuống. Thương thay đại tướng Trần Bảo vâng mệnh Hán đế Lưu Cung thảo phạt phương Nam còn chưa đến được Đại La thành đã vong mạng nơi bến Giang Biên.
Hồi thứ 6
Nơi cổng Bắc thành, cánh cổng kiên cố nhất của Đại La thành đã mở toang, đại đội binh mã Phong Châu lẫm liệt kéo vào. Đi đầu là chủ tướng Kiều Công Tiễn giáp phục gọn ghẽ, đầu đội mũ đâu mâu đính ngọc, lưng đeo thanh bảo kiếm gia truyền cùng chúng tướng chia thành năm hàng người ngựa hùng dũng tiến vào. Ở các cổng phía Đông và phía Tây đều có những vị tướng quân mang giáp trụ, binh lính chỉnh tề thẳng tiến vào trong xếp thành đội ngũ nghiêm trang.
HỒI THỨ SÁU
Bỏ ấn tín, Lý Tiến giả lái buôn về Bắc
Vào La thành, Dương Đình Nghệ khao thưởng ba quân
Tin đại tướng Trần Bảo chết trận nơi bến Giang Biên bay vào thành Đại La khiến toàn thành rúng động. Lý Tiến run cầm cập không thể tưởng tượng được ba vạn quân tinh nhuệ cùng danh tướng họ Trần bị phá tan ngay khi chưa tới được thành Đại La. Chống giữ với giặc cỏ mấy tháng liền, Lý Tiến quá hiểu mưu kế và sự thiện chiến của chúng nhưng không ngờ binh pháp của Dương Đình Nghệ cùng các bộ tướng lại cao thâm đến vậy. Chặt đứt viện binh, thành Đại La đã trơ trọi càng thêm cô quạnh. Mất hết tinh thần, binh sĩ trong thành chỉ là một lũ vô dụng không còn ý chí chiến đấu. Càng nghĩ, Lý Tiến càng thấm thía khi các bậc cao nhân phương Bắc vẫn cho rằng Giao Châu phương Nam là đất rồng cuộn hổ ngồi, anh hùng hào kiệt đời nào cũng có quả không sai. Nay xem cách chúng vây thành diệt viện thủy bộ chỉnh tề, lại táo bạo đưa voi qua sông dàn trận đánh thẳng vào đại doanh quân Trần Bảo quả thế lực của chúng không phải tầm thường. Nếu không có nhiều tướng giỏi ba mũi giáp công, xuất kỳ bất ý phá vỡ từng trại khiến danh tướng họ Trần mạng vong nơi đất khách thì giặc cỏ chưa thể thủ thắng. Trong quân giặc cỏ không chỉ có tướng giỏi dũng mãnh thiện chiến mà viên chủ tướng Dương Đình Nghệ dụng binh như thần, thoắt ẩn thoắt hiện vô cùng khó lường. Binh lực của chúng đến tiếp ứng nhau miên man không dứt. Đội viện binh Phong Châu với viên mãnh tướng họ Kiều dùng binh cũng thủ đoạn lắm. Lấy quân ít công thành không nao núng, đội ngũ chỉnh tề, lâm trận quả cảm khiến lão gia tiến không được lui cũng không xong. Phía ngoài thành, đám dân chúng cứng đầu cứng cổ cam tâm tình nguyện gánh thóc gạo dắt trâu bò khiến giặc cỏ tinh thần càng hăng mà binh tướng trong thành dần dà lương thảo cạn kiệt, sức lực suy tàn, tinh thần rệu rã, không ai muốn cầm gươm giáo nữa. Có lẽ nào mạng của Lý Tiến ta lại giống với quan đô hộ sứ Cao Chính Bình ngày trước hay sao.
Mấy đêm gần đây, Lý Tiến toàn gặp ác mộng. Cứ nửa đêm, văng vẳng trong tiếng voi gầm ngựa hí, tiếng trống thúc bốn mặt thành âm i, như có tiếng những oan hồn về đòi mạng. Từ khi thay Lý Khắc Chính trị nhậm Giao Châu, chủ trì thành Đại La, Lý Tiến cho đám bộ hạ hành hình không biết bao nhiêu người. Tưởng cứ giết người là yên được lòng quân song Lý Tiến đã nhầm. Dân thành Đại La vốn hiền lành chất phác nhưng không thể đem cái chết mà khuất phục họ được. Có nhà bị giết sạch nhà kề bên vẫn không khuất phục Hán triều. Có làng bị đốt trụi làng kề bên vẫn rào giậu tre, vót chông nhọn, đắp lũy dày kháng chỉ chống lại quân Hán không hề biết sợ. Từ ngày Dương Đình Nghệ hưng binh vây chặt La thành, muôn dân các nơi càng không sợ quân Hán. Hễ binh tướng Hán ra khỏi thành dẫu đông đến vài chục lính đều bị quây đánh, đặt bẫy chông, đào hầm sập thương vong không ít. Càng ngày, thành Đại La càng trở nên trơ trọi. Trong thành, dân chúng trốn sạch chỉ còn đám quan văn bản sứ lấm lét và lũ lính Giao Châu buồn rầu ủ rũ. Nếu không có gần hai vạn binh tướng đem từ Hán triều sang, hẳn lũ quan văn và binh lính Giao Châu đã dâng thành cho Dương Đình Nghệ lâu rồi.
*
Sau khi đại thắng bến Giang Biên giết chết tướng Trần Bảo, truy đuổi tàn binh phương Bắc hơn mười dặm, Dương Đình Nghệ mệnh lệnh các tướng thu quân. Dương công kiểm điểm sĩ tốt thuyền bè, chỉnh đốn đội ngũ chia một nửa binh lính giao cho Ngô Quyền cùng Phạm Bạch Hổ dùng thuyền lớn qua sông về quân doanh, còn lại đích thân sai các tuỳ tướng cùng quân lính gom nhặt các tướng sĩ tử trận nhận rõ quê quán cho tế lễ, chôn cất tử tế.
Các vùng lân cận, muôn dân nghe tin Dương Đình Nghệ đại thắng kéo đến rất đông, còn dắt đến nhiều tù binh để Dương công định đoạt. Dương Đình Nghệ ân cần cảm ơn các vị hương thân phụ lão, phủ dụ đám tù binh rồi sai chúng gom nhặt binh lính Hán trận vong, sắp xếp lại thi thể, lấy nước sông gột rửa sạch sẽ. Theo nguyện vọng của hơn ngàn tù binh Hán muốn lập giàn thiêu xác các binh tướng tử trận, Dương công cho phép chúng tìm thi thể tướng Trần Bảo xếp vào chính giữa giàn thiêu để đích thân Dương công đến đọc lời tế.
Giàn thiêu xếp cao như một ngọn đồi ngay ven bờ Bắc sông Cái. Không khí âm u rờn rợn. Mặt nước sông sương khói bảng lảng buổi chiều nhập nhoạng. Gió sông hú lên từng chặp thê lương. Đám tù binh phương Bắc ủ rũ như gà mất mẹ đứng rúc vào nhau phía trước giàn thiêu. Nước mắt nam nhân nơi sa trường thiểu não rịn ra trên những khuôn mặt in dấu bàng hoàng vừa thoát nạn voi giày ngựa xéo. Mấy nghìn tù binh nhìn dòng sông u uẩn. Tiếng kèn tế rúc lên từng hồi dài. Từng hồi chuông u uất dội âm i trên mặt sóng.
Dương Đình Nghệ mặc giáp phục chỉnh tề cùng mấy tuỳ tướng bước đến trước giàn thiêu. Trên chiếc bàn lớn đã chuẩn bị sẵn hương hoa, bánh trái, tiền vàng theo phong tục người Hán, Dương công thong thả châm một bó hương cắm đều các bát rồi cất giọng đau buồn đọc bài tế trận vong.
Lời đọc vừa dứt, tiếng chuông tiếng mõ rộ lên từng tràng. Hơn chục tù binh Hán từng xuất thân cửa chùa không hiểu đã cạo tóc từ lúc nào cổ đeo tràng hạt, mình khoác trang phục nhà chùa, tay gõ mõ đi thành một vòng quanh giàn thiêu đọc kinh Phật siêu thoát các vong hồn tử trận. Lời kinh văng vẳng bi ai thống thiết trong tiếng sóng rờn rợn mặt sông. Những ánh đuốc được thắp lên chập chờn leo lét. Thoáng chốc, ngọn lửa giàn thiêu bốc lên lan khắp bốn mặt rồi lửa reo ầm ầm như tiếng thiên binh vạn mã. Khi Dương công rút về doanh trại cũng là lúc tiếng khóc tiếng than của hơn ngàn tù binh Hán quanh giàn thiêu đang cháy rừng rực càng lúc càng thống thiết hơn.
Sáng sớm hôm sau, Dương Đình Nghệ cho các tù binh lấy một phần tro cốt đem theo còn lại thả hết xuống dòng sông. Dương công thân úy lạo các tù binh đồng thời cấp cho năm ngày lương thảo, sai người dẫn đến tận nơi biên ải để chúng về nước, lại dùng lời lẽ xót thương để chúng về tâu với Hán đế sự bại trận của Trần Bảo chẳng qua là sơ suất chốn sa trường chứ thực tâm các hào trưởng, châu mục phương Nam nối đời đều muốn yên ổn làm ăn mà nhường nhịn các vua chúa phương Bắc.
Đám tù binh khóc lóc cảm tạ mãi không thôi rồi lạy tạ dắt nhau lên đường.
Khi đám tù binh khuất dạng nơi chân trời, Dương Đình Nghệ cho toàn quân cùng voi ngựa lên thuyền lớn sang sông.
*
Trong thành Đại La, lúc nửa đêm, Lý Tiến cho gọi Độc Toàn Chân vào đại điện.
Độc Toàn Chân hơn mười ngày ăn ngủ thất thường, tinh thần bấn loạn, vẻ mặt hốc hác nghe lệnh triệu của Lý Tiến lật đật cùng mấy tùy tướng vào đại điện.
Thấy viên tướng họ Độc đã xuống tinh thần, Lý Tiến vội trấn an:
– Độc tướng quân! Nay thành Đại La binh vây bốn mặt, Trần Bảo kia đã tử trận, đám tù binh được giặc cỏ trả về Hán triều là có ý mong ta đầu hàng trả đất trả thành cho chúng. Ta thân làm đại tướng, ngỡ tưởng xuống Giao Châu kiến công lập nghiệp cho Hán đế, ai ngờ trở thành bại tướng nơi phương Nam xa xôi này. Nếu ta toàn quân quyết chiến ngọc nát ngói tan cùng với La thành cũng chẳng vẻ vang gì, chẳng qua là lấy thêm mạng sống của hàng ngàn tướng sĩ mà thôi. Nay ta muốn được nghe cao ý của tướng quân, để vừa giữ được thanh danh của Hán triều vừa giữ được tính mạng cho ngàn người vô tội. Ý tướng quân thế nào?
Độc Toàn Chân rầu rĩ đáp:
– Mạt tướng quả cũng chẳng còn kế sách lòng dạ nào nữa. Giặc cỏ kia cứ như có trời phù hộ. Chúng càng đánh càng mạnh. Ta càng đánh càng chết tướng thua binh. Thắng thua giờ đã rõ. Thôi thì đất đai thành trì của chúng ta hãy tạm để cho chúng tự cai quản, mai kia chờ chúng chém giết tương tàn lẫn nhau mới có thể dùng kế mà chiếm lấy nước chúng. Chẳng hay chúa công định lặng lẽ bỏ thành về phương Bắc hay sao?
Lý Tiến cứng người trên chiếc ghế bọc da hổ đến nửa khắc mới dè dặt nói:
– Than ôi! Ta bao nhiêu năm nhận bổng lộc, làm quan tướng cho Hán triều, được Tể tướng Tô Chương hết lòng nói giúp xuống Giao Châu để Hán đế mở mang bờ cõi, những tưởng lập được chiến công để Tô Tể tướng dễ bề ăn nói trong triều, ai ngờ có ngày hôm nay. Ta trở về phương Bắc cũng chẳng mặt mũi nào nhìn Tể tướng được nữa. Nay ta trước là muốn cứu mạng các binh sĩ, sau là quyết kế mình ta mang tiếng xấu chịu nhục bỏ thành để Hán đế định tội ta mà không xuất binh xuống phương Nam nữa. Phương Nam những ngày tháng này, binh lính chúng thành thạo lão luyện, tướng soái chúng anh dũng quả đoán, tên Dương Đình Nghệ lại mưu mẹo như thần, Hán triều có xuất đại binh chăng nữa cũng chỉ là mang dầu chữa cháy mà thôi. Ta nay bỏ thành cũng là vì muốn giữ gìn nguồn binh lực cho Hán đế vậy.
Độc Toàn Chân thấy Lý Tiến nói rõ lợi hại càng thương họ Lý đời đời làm tướng soái bỗng chốc thân bại danh liệt nơi cô thành xa xôi phương Nam, bèn cảm động hỏi:
– Chúa công định đêm nay rời thành ư?
Lý Tiến đứng dậy đi lại một lát rồi quả quyết nói:
– Ý ta đã quyết, đợi sang canh ba, ta cùng bộ tướng Lý Phục và mấy người tâm phúc sẽ vượt sông trở về phương Bắc.
– Xin chúa công cho mạt tướng đi theo hầu. Ở thành Đại La, họ Độc chúng tôi sản nghiệp đã sung hết vào quân doanh, mạt tướng lại gây thù chuốc oán với đám quan lại bản xứ và muôn dân La thành, nếu ở lại sẽ không còn con đường sống.
Lý Tiến đặt tay lên đôi vai run rẩy của Độc Toàn Chân:
– Toàn Chân hiền đệ, ta những muốn mang vinh hoa phú quý, công trạng ghi sử sách cho gia tộc họ Độc, nào ngờ đã đẩy hiền đệ vào nơi cùng đường tuyệt lộ, ta hối hận lắm thay. Về Hán triều, ta sẽ liều chết viết biểu kể rõ công trạng của đệ ở Giao Châu, biết đâu Tể tướng Tô Chương thương tình dốc hết sản nghiệp của đệ mà tìm cách trọng dụng. Có như thế ta có sống chết gì mới thanh thản được.
Độc Toàn Chân rịn hai hàng nước mắt rồi mau chóng cùng đám gia nhân thu xếp hành trang canh ba theo Lý Tiến xuống thuyền sang bên kia sông.
Khi đã ngồi gọn trên chiếc thuyền buôn nhỏ chòng chành trên sóng nước ngược dòng sông, Lý Tiến trong trang phục lái buôn nằm trong lòng thuyền hai hàng nước mắt cứ rịn ra không dứt. Đường đường một đại tướng Hán triều đem binh hùng tướng mạnh xuống Giao Châu những tưởng gọi mưa hét gió ai ngờ chưa đầy ba tháng đã phải bỏ lính bỏ thành, bỏ cả ấn tín giữ lấy mạng sống trở về phương Bắc. Những mình Lý Tiến thà chết quách cho xong đỡ chịu nhục nhưng còn đại cục phương Nam phương Bắc của Hán đế không thể dễ dàng liều lĩnh như thế được. Nếu tử chiến đốt thành không chỉ mạng vong mà ân oán cừu hận giữa Hán triều và Giao Châu càng sâu đậm khó lường. Người phương Nam bọn chúng dẫu hiền hòa hiếu đễ nhưng hễ đem binh giáp xuống áp đặt xưa nay đều bại vong cả. Nay ta vì đại cục hủy hoại đi danh tiếng của mình cũng là để giặc cỏ kia tạm vào trị nhậm đất đai thành trì của chúng. Biết đâu chúng khôn ngoan xưng thần chịu phục càng tỏ rõ oai danh của Hán triều, ta đây cũng bớt đi mối nhục bỏ ấn tín nơi La thành nửa đêm giả lái buôn về Bắc. Dương Đình Nghệ kia là người nào sao hắn cáo già tinh khôn đến vậy? Hắn không cho binh tướng liều chết phá thành mà cứ siết dần sợi dây thòng lọng để ép ta vào con đường chết. Hắn lại tha bổng tù binh, lập dàn thiêu cúng tế đám binh sĩ người Hán trận vong khiến lòng quân càng rối. Họ Dương đã đưa ra thông điệp đuổi ta về nước ta còn mặt mũi nào tử chiến giữ thành. Với tài năng phách lược của họ Dương, việc y đứng đầu Giao Châu kiêm quản các vùng chỉ là điều trong sớm tối. Lẽ ra, Hán triều phải sớm lấy việc phủ dụ làm đầu, tiên lễ hậu binh mới có thể cai quản lâu dài phương Nam được. Cái thói đánh giết luôn lấy thịt đè người của người phương Bắc không phải ở đâu cũng hữu dụng thì việc thua binh bại tướng như ta cũng là lẽ thường trong sử sách mà thôi.
Càng nghĩ, Lý Tiến càng khâm phục Dương Đình Nghệ, khâm phục các tinh binh mãnh tướng Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu mà cho rằng việc thảm bại của mình có căn cốt từ sâu xa vậy. Họ Lý nhổm người rồi nhắc mấy viên tùy tướng cứ bình tâm chèo thuyền ra giữa dòng sông ngược về phương Bắc. Đã bỏ lại ấn tín, chỉ mang theo dăm bảy cận thần nửa đêm trốn về phương Bắc binh tướng họ Dương cũng chẳng đuổi theo làm gì. Đó cũng là cái lẽ cao cường của kẻ thắng trận và cái mưu cuối cùng của kẻ bại trận mà thôi. Đạo lý này người đời sau sẽ thể tất cho ta vậy.
*
Sau khi cho quân rút hết sang sông trở về quân doanh, Dương Đình Nghệ hạ lệnh cho toàn quân nghỉ ngơi ba ngày. Dương công lại cho người báo tin để Kiều Công Tiễn thôi không đánh cửa Bắc thành Đại La nữa. Dương công một mặt cho người đem các tướng sĩ tử trận trở về quê quán cúng tế, ghi công rất cẩn thận. Người lại cho các tùy tướng đến các vùng lân cận xung quanh thành Đại La thông báo tin thắng trận đồng thời mời gọi muôn dân về làng xóm cũ trồng cấy, canh cửi, khôi phục các nghề cũ không được dứt. Làng trên xóm dưới nghe tin quân Hán bại trận ai cũng vui mừng trở về thôn ấp an cư lạc nghiệp.
Công việc tạm yên, các tướng sĩ, ngay cả Ngô Quyền và Phạm Bạch Hổ không hiểu sao Dương công không lập tức hạ lệnh phá thành Đại La, còn đang thắc mắc trong lòng được tin triệu đến trướng hổ, các tướng mau chóng tề tựu đông đủ. Kiều Công Tiễn cũng được Dương công cho người dùng thuyền nhẹ mời đến nghị sự.
Khi các tướng đã ổn định, Dương công nghiêm trang nói:
– Luôn mấy ngày binh sĩ nghỉ ngơi chắc các tướng đều trách ta không mau hạ lệnh phá thành bắt Lý Tiến, giết lũ Hán gian để tế Khúc chúa phải không. Ta cùng các tướng, ai chẳng mong lớn vào La thành an định tình hình giúp dân chúng theo về nghề cũ. Nay quân ta, xét ra chưa đầy ba tháng đã phải liên tiếp ba lần đại chiến với địch mạnh. Dẫu kẻ kia đại bại ta cũng thương vong không ít đâu. Nên ta quyết dành mấy ngày để vừa ngơi nghỉ sức quân vừa đưa tướng sĩ trận vong về quê hương bản quán. Người lính lúc ra đi đầu xanh tuổi trẻ mẹ già con dại ngóng trông nay trở về chỉ là tro cốt và một bát hương thơm ta đâu lỡ ham công để tốn máu xương sĩ tốt. Ta chưa vội đánh thành vì chỉ muốn Lý Tiến kia thấy được lẽ mất còn mà dâng thành, ta cũng tha cho y về phương Bắc. Theo phán đoán của ta, Lý Tiến, Độc Toàn Chân cùng đám tâm phúc của y đã bỏ trốn về phương Bắc từ mấy hôm nay rồi. Nay ta triệu các tướng đến để tính cách vào thành yên ổn quan lại, binh lính, dân chúng mới là kế vẹn toàn vậy.
Các tướng nghe Dương Đình Nghệ nói xong, ai nấy nhìn nhau vừa bàn tán vừa trầm trồ trước cao kiến của Dương công. Luôn mấy ngày cho binh sĩ nghỉ ngơi tuyệt đối không khiêu chiến chính là kế bức Lý Tiến bỏ ấn tín rời La thành của Dương Đình Nghệ. Mới thấy rằng, việc dụng binh cốt ở cơ mưu nơi màn trướng chứ không phải riêng việc chém giết trên sa trường. Các tướng đều hiểu rõ trong thành Lý Tiến còn gần hai vạn binh mã nếu chúng tử chiến ngọc nát cùng tan quân ta thiệt mạng cũng không nhỏ. Nay Lý Tiến đã cam tâm tình nguyện bỏ thành về phương Bắc thì việc bắt đám hàng tướng vừa không tốn máu xương vừa không kinh động Hán triều khiến chiến tranh liên miên không dứt. Các tướng đều thầm phục đại kế cũng là lòng đại lượng của Dương công.
Kiều Công Tiễn bước ra thưa:
– Bẩm Dương công! Thưa các vị tướng quân! Khi mạt tướng được tin Dương công đại thắng bến Giang Biên, giết chết Trần Bảo lại thả tù binh về phương Bắc, mạt tướng đã nghĩ thế nào Dương công cũng cho ngưng chiến để bức hàng. Nay tình thế đúng như Dương công dự liệu quả là phúc của người phương Nam chúng ta bớt được một trận ác chiến nơi thành quách của mình. Mạt tướng xin Dương công để thêm vài ngày hãy bắc loa gọi hàng để bọn giặc trong thành càng sợ hãi không đánh mà tan. Lại cho nới lỏng vòng vây để quân binh trong thành kẻ nào trốn ra ngoài được đều tha chết. Chắc chỉ vài hôm chúng tất loạn mà dâng thành.
Kiều Công Tiễn vừa dứt lời, Phạm Bạch Hổ liền đứng ra nói:
– Bẩm Dương công! Ý của Kiều tướng quân rất đúng. Mạt tướng cũng đoán chắc Lý Tiến đã rời thành tất binh tướng Đại La chỉ muốn hàng để giữ tính mạng. Nay ta hãy thư thả cho chúng vài ngày cũng là để sắp xếp khi binh ta tiến vào phải có đội ngũ kỷ cương nghiêm minh. Các tướng đều muốn suy tôn Dương công vào làm chủ thành Đại La, kính cáo trời đất, tổ tiên, thuận theo lễ nghĩa lên giữ ngôi cao để an định muôn dân mới là kế vẹn toàn.
Phạm Bạch Hổ còn chưa nói xong, Dương Đình Nghệ đã điềm đạm nói:
– Việc thư thả vào thành ta thuận theo ý của các tướng, còn như việc giữ ngôi cao không thể Dương mỗ này tự tiện làm được. Đợi khi vào thành, ta sẽ cho mời Phạm công đất Đằng Châu, Kiều công đất Phong Châu, huynh trưởng Ngô Mân ở Đường Lâm đến cùng thương nghị mới được. Người phương Nam chúng ta phải có lễ nghĩa trên dưới rõ ràng mới sâu gốc bền rễ để chống nhau với giặc Bắc.
Các tướng nghe như nuốt lấy từng lời rồi nhất nhất theo sự điều tiết của Dương Đình Nghệ ai về trại nấy chuẩn bị cho việc vào tiếp quản Đại La thành.
*
Đây nói tiếp chuyện ở trong thành Đại La.
Sau đêm Lý Tiến cùng Độc Toàn Chân dùng thuyền nhẹ nửa đêm ngược dòng sông Cái về phương Bắc biệt dạng, ngôi đại điện chỉ còn mấy viên tuỳ tướng cùng đám quan văn suốt ngày hôm sau ngơ ngác nhưng không dám vào trong soái phủ tìm Lý Tiến mà chỉ quanh quẩn đôn đốc vòng ngoài.
Mãi đến chiều tối, có viên quan văn là Phạm Bang người gốc Đằng Châu vốn có cha trước đây theo hầu Khúc Hạo trong lòng nghi hoặc mới mạnh dạn vào đại điện dò xét tình hình. Khi nghe mấy viên tùy tướng thông báo từ sáng không thấy chúa công gọi sai bảo, lại không thấy tổng quản Độc Toàn Chân đến soái phủ, còn chưa biết tình hình ra sao. Xưa nay trong soái phủ có việc gì đều phải có bộ tướng của Lý Tiến ra truyền mệnh, đám tùy tướng ở ngoài cứ thế tuân theo chứ tuyệt đối không được xông vào soái phủ.
Phạm Bang nghe rõ đầu đuôi câu chuyện mới mạnh dạn nói:
– Có lẽ chúa công có điều gì phải mật nghị với tổng quản chăng? Ta không dám đoán bừa nhưng nếu đến sáng mai chúa công chưa cho gọi các tướng hãy thông báo cho đám quan văn chúng ta cần vào thỉnh thị xin ý chỉ về việc chuyển gỗ đá lên mặt thành phòng giặc mới được.
Phạm Bang lòng nghi hoặc đi ra gọi các quan văn xì xào bàn tán mãi không thôi.
Đám tùy tướng cũng chỉ biết đi đi lại lại canh gác ngôi đại điện chứ tuyệt không dám xông vào trong soái phủ vẫn đang im lặng như tờ. Chiếc bàn gỗ lớn phía trên là tấu chương ấn tín vẫn để nghiêm ngắn đầy ăm ắp. Phía sau chiếc ghế bọc da hổ uy nghi, hai thanh kiếm bắt chéo nhau nghiêm trang trên giá gỗ người ngoài nhìn vào tưởng như Lý đại nhân đang mật nghị trong phòng cùng Độc Toàn Chân.
Sáng bạch hôm sau, Phạm Bang dẫn hơn hai chục quan văn cùng mấy viên tiểu tướng gác cổng thành vào đại điện xin gặp ngài thứ sử định liệu việc quân vẫn chỉ thấy mấy viên tiểu tướng ngơ ngác nơi sảnh ngoài.
Phạm Bang mạnh dạn đứng ra nói:
– Nay việc đã gấp rồi, ta đành cùng các quan tướng vào trong soái phủ bẩm báo với chúa công địch tình bốn phía. Nếu có gì phạm thượng ta xin cam lòng chịu tội.
Nói đoạn, Phạm Bang dẫn đầu mấy viên tiểu tướng và đám quan văn tiến thẳng vào trong soái phủ.
Bước đến trước chiếc bàn gỗ lớn nhìn thấy ấn tín nghiêm trang, các tấu chương ăm ắp chưa được phê duyệt, Phạm Bang chợt giật mình nhìn chiếc ghế trống trơn phía sau phòng nghỉ của Lý đại nhân cửa đóng im ỉm bèn mạnh dạn cùng mọi người tiến vào đẩy mạnh cánh cửa. Hai tấm cửa gỗ lim nặng chịch từ từ mở ra cũng là lúc mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Trên chiếc giường thất bảo sang quý chạm trổ rồng phượng uy nghi không một bóng người chỉ đôi gối thêu rồng nghiêm ngắn.
Đám Phạm Bang nhìn quanh trong phòng chỉ thấy vắng ngắt, sách vở nghiêm ngắn trên bàn gỗ, mấy bức tranh quý sạch bóng im lặng trên tường, tiếng con thạch sùng chậc lưỡi nơi góc nhà càng khiến gian nhà trở nên tịch mịch.
Phạm Bang bất giác kêu lớn:
– Chúa công đã rời thành về phương Bắc rồi!
Đám người từ ngơ ngác dần trở sang sợ sệt nhìn nhau. Ai cũng nghĩ đến cảnh bên ngoài bốn mặt binh tướng các châu quận đang vây chặt La thành, bên trong Lý đại nhân cùng các cận thần đã sớm trốn về phương Bắc. Mọi người bất giác nhìn nhau không ai dám nói một lời.
Khi đám người lục tục kéo ra đại điện Phạm Bang mới rầu rĩ nói:
– Chúa công nửa đêm rời thành không thông báo với quan tướng lấy một lời, bây giờ bọn ta biết chống giữ ra sao?
Một viên tùy tướng bước ra nói:
– Mấy vạn tinh binh mãnh tướng của Trần Bảo còn vong mạng đất Giang Biên, chúng ta quân binh rệu rã, lương thảo cạn kiệt, chúa công lại bỏ thành mất dạng, nay chỉ còn nước chết mà thôi.
Một viên tiểu tướng chuyên công việc giữ cổng thành tiến ra bàn:
– Hôm trước ta nghe nói, chủ tướng Dương Đình Nghệ còn cấp thóc gạo cho binh Hán về phương Bắc, lại tế lễ kẻ trận vong chu đáo lắm. Nay chúng ta thành tâm ra hàng tất Dương công không nỡ giết đâu. Xưa nay, người phương Nam chưa bao giờ tuyệt đường người phương Bắc đã đầu hàng.
Đám quan văn và mấy viên tiểu tướng xôn xao bàn tán. Đã có người lặng lẽ cáo lui thay trang phục trốn ra khỏi ngôi đại điện. Mấy viên võ tướng có kẻ đã cởi giáp mặc thường phục đi lẫn hút nơi mấy tòa nhà kho phía cửa Đông. Ngôi đại điện sau lúc đám người bàn tán xì xầm chỉ thoáng chốc đã trở nên vắng ngắt.
*
Đúng như đã hẹn với các tướng, năm ngày sau, Dương Đình Nghệ nhất tề cho quân tiến vào bốn mặt thành. Luôn mấy hôm trước, sau khi biết chắc Lý Tiến cùng Độc Toàn Chân đã nửa đêm bỏ ấn tín trốn về phương Bắc, đám binh lính trong thành bỏ trốn rất nhiều. Không kể là binh lính người Giao Châu hay người Hán hễ trốn được là chúng trèo qua thành bỏ trốn. Nhiều toán lính kiếm được thuyền nhỏ trà trộn vào đám lái buôn phương Bắc rời khỏi thành. Theo mệnh lệnh của Dương công, các cổng thành, các khu tường thành đều để lỏng lẻo mặc cho chúng trốn. Đám tùy tướng và quan văn trong thành ai nấy biết trước cơ sự mất thành nên không còn hống hách như trước. Chúng cũng không dám đốt phá cướp bóc gì bởi còn lo giữ an toàn tính mạng. Thành Đại La bên ngoài phẳng lặng nhưng bên trong ẩn chứa những sợ hãi, đồn đoán, trốn tránh ngổn ngang trăm mối trước ngày binh tướng của Dương Đình Nghệ nhập thành.
Khi tiếng loa truyền đọc gọi binh lính trong La thành cởi bỏ gươm giáp, xếp thành đội ngũ, cử các quan văn ra bốn phía cổng thành nghênh đón binh tướng của Dương Đình Nghệ vang lên cũng là lúc trong toàn thành Đại La tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng kèn tập hợp đội ngũ, tiếng xì xầm, ồ à vang lên các doanh trại bốn góc thành. Luôn mấy hôm, binh lính bản xứ đã bỏ trốn sạch cả kéo theo hàng ngàn binh lính Hán khiến trong thành bây giờ còn chưa đầy vạn binh mã. Theo chủ kiến của Phạm Bang bàn với mấy viên tướng giữ thành, dãy chuồng ngựa đã được các quản ngựa đóng niêm phong chờ giao nhận. Binh lính đã cởi bỏ áo giáp gươm đao đưa vào các kho khóa lại. Ai cũng mong giữ được mạng sống nên không ai dám cầm một tấc sắt trong người. Binh lính Hán đều biết không phải là đối thủ của tướng lĩnh Dương công. Sau mấy trận chiến bị voi giày ngựa xéo, đám lính Hán hễ nhác trông thấy voi là hồn bay phách tán. Biết trước sự tình của binh tướng Hán, Dương Đình Nghệ hạ mệnh lệnh toàn quân không được đưa voi chiến vào thành. Trên lưng ngựa nơi cổng chính phía Nam, Dương Đình Nghệ mình bận phẩm phục đại quan, lưng thắt đai ngọc xanh, đầu đội khăn nhiễu tím, chân đi hài tía thêu phượng thong thả tiến bước. Hai bên là hai vị tướng giáp trụ sáng ngời oai phong lẫm liệt, đầu đội mũ đâu mâu khảm bạc, lưng đeo trường kiếm thắt đai xanh. Phía sau là sáu hàng kỵ binh giáp trụ sáng ngời tiến thẳng vào đại điện.
Nơi cổng Bắc thành, cánh cổng kiên cố nhất của Đại La thành đã mở toang, đại đội binh mã Phong Châu lẫm liệt kéo vào. Đi đầu là chủ tướng Kiều Công Tiễn giáp phục gọn ghẽ, đầu đội mũ đâu mâu đính ngọc, lưng đeo thanh bảo kiếm gia truyền cùng chúng tướng chia thành năm hàng người ngựa hùng dũng tiến vào. Ở các cổng phía Đông và phía Tây đều có những vị tướng quân mang giáp trụ, binh lính chỉnh tề thẳng tiến vào trong xếp thành đội ngũ nghiêm trang.
Dương Đình Nghệ xuống ngựa cùng các tướng bước thẳng vào ngôi đại điện thành Đại La. Đại điện gần như vắng lặng. Mãi tít nơi góc điện, chỉ thưa thớt đám quan văn đang sợ sệt đùn đẩy lẫn nhau. Phía sân ngoài, binh lính Hán mặc thường phục đi chân không xếp thành đội ngũ, phía trước mấy viên tiểu tướng tự trói mình quỳ xuống đất roi đặt ngang lưng có ý xin chịu tội. Dương công cùng chúng tướng bước vào trong đại điện thấy trên bàn gỗ lớn ấn tín còn nguyên đó, những là sổ sách tấu trình vẫn ngay ngắn trên bàn. Chiếc ghế bọc da hổ nơi Lý Tiến thường ngồi điều hành chính sự dường như vẫn còn ấm hơi người.
Dương Đình Nghệ quay lại bảo các tướng:
– Binh tướng ta nay đã vào được thành Đại La mà không phải đổ máu quả là hồng phúc của nòi giống, phúc trạch của muôn nhà. Các tướng hãy mau chóng yên ổn binh sĩ, vỗ về nhân dân. Phàm là binh lính Hán đã đầu hàng tuyệt đối không được giết mà phiên thành đội ngũ mai kia trả chúng về phương Bắc. Đám quan văn người nào có lòng ở lại các ngươi cũng phải thực bụng tin dùng. Các kho tàng trong thành kê biên cho đủ. Thóc gạo tiền bạc hãy đem phát một phần an ủi muôn dân. Đoàn Thành, ta phiền tiên sinh sớm soạn thư mời tới Kiều công ở Phong Châu, Phạm công ở Đằng Châu và Ngô huynh ở Đường Lâm sớm tới cùng ta bàn việc lớn. Binh tướng các châu, sau khi ổn định La thành hãy chia nhau ra ngoài hạ trại để yên ổn nhân tâm. Phạm Bạch Hổ hãy mau sửa soạn đội thủy binh đóng bến Giang Biên không được xâm phạm các thương thuyền làm ăn vào ra chốn kinh thành. Phàm người phương Bắc phương Nam, miền xuôi miền ngược, miền biển miền đồi ra vào làm ăn thuỷ bộ đều mau chóng thông thương. Binh lính Hán triều giả làm thương khách trốn về cứ để mặc họ, ta càng đỡ mang tiếng bắt đến vạn tù binh gây kinh động Hán triều. Mọi việc lễ nghĩa khác, đợi khi các vị huynh trưởng đến sẽ lại bàn định sau.
Các tướng nghe xong ai vào việc nấy. Thành Đại La một ngày thay chủ long trời lở đất mà tuyệt nhiên không hề có tiếng binh đao đầu rơi máu chảy quả là cổ kim chưa từng thấy vậy.
Ngay buổi trưa hôm đó, Dương Đình Nghệ cho khao thưởng ba quân tướng sĩ trong thành Đại La. Do được chuẩn bị từ mấy hôm trước, mọi việc rượu thịt bánh trái phục dịch đều rất chu tất. Quân nào đội nấy vừa nghiêm trang tề chỉnh vừa phấn chấn vui tươi. Dương công lại cho mời mấy chục bô lão trong thành đến đại điện dự tiệc khao quân. Ngay như đám hàng tướng hàng binh Hán cũng được ăn uống tử tế rồi cho rời thành ra nơi bãi sông đóng trại dưới sự trông giữ nghiêm ngặt của quân Phong Châu đợi ngày về phương Bắc.
*
Tin Dương Đình Nghệ cùng binh tướng Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu đại thắng quân Hán, giết chết Trần Bảo tại bến Giang Biên khiến thứ sử Lý Tiến nửa đêm bỏ ấn tín rời khỏi thành Đại La, tiếp đó Dương công cùng ba quân tiến vào thành yên ổn nhân dân, giữ nguyên kho tàng, lại cho ngót vạn tù binh về phương Bắc gây chấn động các vùng châu quận, sách động toàn cõi An Nam.
Khắp nơi, muôn dân nô nức giết trâu ngựa, treo đèn kết hoa mở hội ăn mừng. Người An Nam xưa kia là các vùng đất thuộc các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam kéo dài hàng ngàn dặm đã nhiều lần đánh đuổi giặc phương Bắc đứng lên tự chủ. Từ thời thượng cổ, mười tám đời vua Hùng Vương đã tự chủ xưng vương dựng quốc đô ở vùng đất Phong Châu. Tiếp đó, đến thời An Dương Vương, Trưng Nữ Vương đều đánh giặc lập nước truyền đến mai sau. Đến ngày Lý Nam Đế đánh đuổi giặc Lương nối nền độc lập, dựng nước Vạn Xuân xây chùa Trấn Quốc càng khẳng định phương Nam là có chủ. Tiếp đến Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng đều xưng vương lập quốc phân biệt rõ phong tục Bắc – Nam. Tiếp đó họ Khúc mấy đời làm chúa Giao Châu. Tuy một mặt vẫn nối thông triều cống các hoàng đế phương Bắc, song mọi sự trị nhậm đều do người phương Nam tự kiêm quản. Mối giềng đã định, ân đức các anh hùng hào kiệt An Nam thảy đều sáng rõ. Nay Dương Đình Nghệ có công đuổi giặc Hán, rửa nhục cho họ Khúc, lại lấy sự khoan dung độ lượng làm đầu, quả là có phong độ của bậc chân chúa khiến các vị hào trưởng, tướng lĩnh, phụ lão hương thân các vùng đều tín phục.
Dương công vào thành Đại La vỗ về dân chúng, ổn định hai ban văn võ rất quy củ, lại chưa dám tự mình ở ngôi cao còn cho mời các nha tướng cũ của họ Khúc, hào kiệt bốn phương về bàn việc lớn quả là người biết nhún nhường. Khắp trong thành ngoài nội đều nhất nhất cảm kích ơn đức của Dương công, mong muốn ngài nối theo họ Khúc trị nhậm An Nam để muôn dân hưởng thái bình. Đến như các hào trưởng lớn đều đã sớm có ý suy tôn Dương Đình Nghệ lên ngôi cao, yên dân mở đất để người phương Nam cường thịnh khỏi thẹn với nòi giống tổ tông.
Luôn mấy hôm đón tiếp các đoàn hương thân phụ lão các vùng Cổ Loa, Chu Diên, Đường Lâm, Cổ Pháp, Siêu Loại, Hồng Châu, Phong Châu, Đằng Châu, Ái Châu, Hoan Châu… đến chúc mừng, các tướng Phạm Bạch Hổ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền, Dương Tam Kha, Đoàn Thành, Phạm Bang… ân cần đưa các bậc lão trượng đến dâng hương chùa Trấn Quốc, sắm sửa lễ bái vọng nơi thờ tự các vị vua người An Nam thủa trước. Các bô lão ai cũng trầm trồ khen tài đức của Dương công và sự uy nghiêm của các tướng.
Từ Phong Châu, Kiều công dắt theo mười bảy vị bô lão xuống thành Đại La. Kiều công vừa đi vừa ngắm phong cảnh núi non đường sá rất tâm đắc. Khi nhận tin binh tướng Phong Châu vào thành mà không phải giao tranh, Kiều công mừng lắm. Ông lập tức cho mời các bô lão đức cao vọng trọng ở Phong Châu cùng với mình xuống thành Đại La. Mới đến cửa Bắc thành, còn đang ngắm nghía hào nước rộng đến bảy tám trượng nối thông ra đầm Sương Mù cảnh sắc thư thái như không hề xảy ra nạn binh đao đã thấy trong thành, một toán người khôi giáp chỉnh tề, người đi đầu chính là Dương Đình Nghệ bận nhung phục xanh, đầu chít khăn nhiễu tía, chân đi hia thêu phượng ra tận cổng nghênh đón tươi cười thi lễ nói:
– Tại hạ Dương Đình Nghệ xin khấu chào Kiều công vạn an. Luôn mấy tuần nay, tại hạ mong Kiều công xuống La thành chỉ giáo cho tại hạ.
Kiều công thấy Dương Đình Nghệ lâu ngày không gặp giờ tuổi tác đã lớn nhưng phong độ khí phách còn có vẻ hơn xưa, lời nói ôn hòa khiêm nhượng, bèn thủ lễ đáp:
– Dương công thật là bậc anh hùng không quản dầu sôi biển lửa, đem binh xông vào nơi tên đạn đuổi giặc mạnh lập huân công, rửa nhục cho Khúc chúa, đề cao chí khí anh hùng của người phương Nam chúng ta khiến đại tướng Trần Bảo trận vong, tổng quản Lý Tiến cởi bỏ ấn tín về Bắc quả là xưa nay hiếm vậy.
Lời Kiều công còn chưa dứt, phía cổng thành lại có hơn chục bô lão râu tóc trắng như cước, quần chùng áo dài trang nghiêm, đầu chít khăn nhiễu đỏ, lưng thắt đai thiên lý xanh đĩnh đạc bước vào. Đi đầu là một tráng niên đầu tóc hoa râm cao lớn đường bệ dáng đi thong thả khoan thai tiến tới thủ lễ chào:
– Tại hạ nơi Đằng Châu xa xôi nay mới kịp đến chúc mừng Dương công, chúc mừng Kiều công sớm đuổi tan giặc Bắc để muôn dân có buổi thái bình.
Dương Đình Nghệ vội tiến đến vái chào vị khách:
– Tại hạ xin cảm tạ Phạm công. Không ngờ bao năm nay gặp mặt Phạm công vẫn hùng tráng như xưa. Cũng may nhờ linh khí của trời đất non sông, oai dũng của các tướng sĩ Đằng Châu, Phong Châu, tại hạ mới sớm đuổi được lũ giặc về Bắc. Tại hạ đêm ngày mong các vị xuống Đại La thành chỉ giáo đại cục cho. Nay gặp mặt thật là vạn hạnh.
Lời còn chưa dứt, nơi cổng thành lại tiến vào một đoàn bô lão dẫn đầu là vị lão trượng khí mạo oai phong râu dài chấm ngực từ xa đã vang lên tiếng nói như chuông:
– Các vị huynh trưởng, hào trưởng khí thế thật anh hùng! Lão hủ đây nay già rồi, già thật rồi.
Dương Đình Nghệ, Kiều công, Phạm công bất giác nhìn ra thấy rõ ràng là Ngô Mân lão trượng châu mục châu Đường Lâm đã mười mấy năm không gặp vẫn tính khí như xưa bèn đều tiến bước đến thủ lễ:
– Ngô châu mục mới quả thực là bậc tiên phong đạo cốt. Nghe nói châu Đường Lâm thóc lúa chật bồ, trâu bò dê ngựa vô số, muôn dân thái bình ngày không phải đóng cửa, đêm chẳng phải cài then. Người Đường Lâm bao nhiêu năm nay chỉ biết tới Ngô huynh chứ không biết đến Đường triều Hán đế thế nào. Xin bái phục! Xin bái phục!
Ngô Mân tươi cười nắm tay Kiều công nói:
– Kiều huynh mới thật là bậc tiên hiền, đất Phong Châu mới là vùng đất rồng chầu hổ phục. Thành Phong Châu xưa kia là quốc đô của người An Nam chúng ta nào có kém gì Đại La thành đâu. Nghe nói Kiều công tử văn võ song toàn dẫn binh lập công vang danh khiến quân Hán nghe đến đã khiếp vía đi rồi.
Kiều công vội đỡ lời nói:
– Ngô huynh quá khen Kiều mỗ rồi! Trong công cuộc đánh đuổi lũ Hán tặc về nước, đại chiến Giang Biên, dẫn đầu toàn quân quyết chiến phá thành đốt trại, chém tướng chặt cờ lập đại công phải là tướng Ngô Quyền – công tử trưởng của Ngô huynh mới là bậc kỳ tài trong thiên hạ.
Nói đến đó, lại thấy Phạm công tiến tới phía trước Ngô Mân xá tay chúc mừng:
– Huynh trưởng! Tiểu đệ xin chúc mừng Ngô huynh có được vị tướng trời ban. Luôn mấy trận đại phá quân Hán, Ngô công tử anh dũng quả đoán, mưu lược tài tình đã lập đại công lớn. Tiểu đệ đây thật ngưỡng mộ oai danh thần tướng của Ngô Quyền.
Vừa nói, các vị hào trưởng, châu mục vừa bước vào đại điện đã được treo đèn kết hoa rực rỡ. Dương Đình Nghệ toan cho khiêng bỏ chiếc bàn lớn và chiếc ghế bọc da hổ nơi chính điện đã thấy Ngô Mân tiến ra nói:
– Người An Nam chúng ta dẫu lấy lễ nghĩa làm đầu nhưng nơi đại điện vẫn cần phải phân phong chủ khách mới vẹn toàn sau trước được. Nay xin mời Dương công ngồi vào ghế chủ trì cho.
Kiều công và Phạm công đồng thời lên tiếng:
– Xin kính mời Dương công vào ghế chủ trì để chúng ta cùng bàn việc nước.
Dương Đình Nghệ mấy lần từ chối song các bậc lão trượng nhất quyết không chịu tiến tới dìu Dương công vào ghế lớn rồi chia ra hai bên ngồi xuống trang nghiêm.
Trong ngôi đại điện hương trầm phảng phất, bảy mươi bảy cụ bô lão từ khắp các vùng Hoan Châu, Ái Châu, Phong Châu, Đằng Châu, Cổ Loa, Chu Diên, Đường Lâm, Cổ Pháp, Siêu Loại, Hồng Châu nghiêm ngắn lắng nghe Dương công thay mặt các tướng sĩ thuật lại toàn bộ quá trình xuất binh đánh đuổi quân Hán về nước.
Dương Đình Nghệ nói đến đâu, các bậc trưởng lão mặt mũi phấn chấn rạng ngời đến đấy. Mỗi khi có được huân công đuổi lũ giặc phương Bắc, người An Nam thảy đều mừng rỡ, ai cũng mong sớm có ngày tự làm chủ đất đai tiên tổ của mình.
Nơi đại điện, cuộc họp bàn định luận công trạng cho các tướng sĩ vô cùng sôi nổi. Chúng tướng cùng các vị hào trưởng, châu mục, lão trượng đều thống nhất suy tôn Dương Đình Nghệ đứng công đầu trong công cuộc đại thắng. Mọi người đều suy tôn Dương công lên kiêm quản thành Đại La và các vùng đất thuộc An Nam. Dương Đình Nghệ mấy lần từ chối đều không được bèn tạm theo ý chúng tướng làm chủ thành Đại La. Dương công lại cho các hào trưởng, châu mục tự cai quản các vùng đất cũ của mình mà không phải phu phen thuế khóa để muôn dân khỏi lầm than. Các châu mục, hào trưởng cùng nhau kết giao, uống máu ăn thề, hứa kết thông gia, lại bàn chuyện trao đổi sản vật, thóc gạo, voi ngựa, trâu bò, sắt muối để cùng muôn dân cường thịnh kíp phò tá Dương công trị nhậm nơi Đại La thành. Gần một tuần trăng, các châu mục, hào trưởng, lão trượng đi thăm thú kết giao trên bến dưới thuyền vui vẻ, dâng hương đền miếu vô cùng trang nghiêm thành kính.
Thành Đại La luôn cả tháng trời vui vẻ nhộn nhịp, phố phường tấp nập. Chưa bao giờ người khắp xứ lại toàn là những bậc tinh hoa đáng kính chung vui góp mặt đông đủ nơi kinh thành như thế. Âu cũng là phúc lớn của người xứ An Nam.
Hồi thứ 7
Ngô Quyền bận việc quân có khi vài tháng mới trở về trong phủ. Mấy lần sinh hạ, Dương thị đều phải một thân một mình nuôi con. Khi về chịu tang cha chồng, hai công tử Ngô Xương Ngập đã tròn mười tuổi, Ngô Xương Văn tròn tám tuổi. Dương thị cùng các con chịu tang châu mục Ngô Mân theo nghi lễ phong tục Đường Lâm và gia phong họ Ngô rất cẩn thận, trong họ ngoài làng ai cũng kính yêu. 
HỒI THỨ BẢY
Châu Đường Lâm, Dương thị thay chồng nuôi con báo biếu
Thành Đại La, Ngô tướng nhận mệnh trở về Ái Châu

Sau khi yên ổn công việc trong thành Đại La, được các hào trưởng, châu mục suy tôn giữ ngôi vị cao nhất ở An Nam, Dương Đình Nghệ luôn mấy tháng trời thân đi các vùng Phong Châu, Đường Lâm, Hồng Châu, Đằng Châu, Cổ Loa, Siêu Loại, Chu Diên, Màn Trù, Cổ Pháp… vừa là để xem phong tục tập quán của các tộc dân vừa là cảm ân đức các vị hào trưởng, châu mục đã sát cánh cùng binh tướng Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu đánh đuổi giặc Bắc. Đi tới đâu, Dương công cũng được các châu mục, hào trưởng cùng các vị bô lão nghênh đón rất trang nghiêm, định rõ ngôi vị của Dương công, bày biện tiếp đón nghi lễ lắm. Khi về vùng đất Phong Châu, Kiều công còn ân cần gửi gắm công tử trưởng Kiều Công Tiễn xin được làm con nuôi Dương công. Dương Đình Nghệ mừng lắm, nhận vị tướng trẻ công tử trưởng họ Kiều làm giả tử, lại cho vỗ về phong thưởng Kiều Công Tiễn làm tướng quân cho theo sát bên mình.
Khi đang trên đường đến châu Đường Lâm, Dương công nhận tin châu mục Ngô Mân vừa cưỡi hạc quy tiên hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi. Dương Đình Nghệ vội cho Ngô Quyền về trước chịu tang rồi thân chinh cùng các quan văn võ tới Đường Lâm dự tang Ngô châu mục. Đến Đường Lâm mới thấy Ngô Mân mấy chục năm chăm dân, mở đất, mọi nghề nông tang thổ mộc rất chuyên cần, nhà nhà đều cảm ân đức họ Ngô để tang nửa tuần trăng mới thôi.
Nguyên họ Ngô ở Đường Lâm cùng với dòng họ Phùng ở nơi đây là hai dòng họ lớn. Ngày trước, khi Bố Cái Đại vương Phùng Hưng cùng các tướng hưng binh đánh đuổi giặc Đường, họ Ngô là người hưởng ứng đầu tiên. Tướng quân Ngô Chất từng theo Phùng Hưng thống suất đội chiến thuyền đưa quân lên Bạch Hạc tiến chiếm Phong Châu mở rộng địa bàn khởi nghĩa. Họ Phùng lại sử dụng mưu kế của người châu Đường Lâm là Đỗ Anh Hàn cho người thân tín đi khắp các vùng chiêu mộ hào kiệt, nhất là lập đội thủy binh. Tướng quân Ngô Chất vâng mệnh Phùng Hưng không quản đường xa ngàn dặm đi khắp các vùng tìm người hiền sĩ về cùng với họ Phùng mưu việc lớn. Theo kế các tướng, Phùng Hưng đêm ngày cho đóng chiến thuyền, tích trữ lương thảo, rèn đúc khí giới ngay ở vùng sông Tích Giang bên kia quả đồi Cấm. Khi binh tướng ngày càng mạnh, An Nam đô hộ sứ Cao Chính Bình mấy lần xuất binh ra ngoài thành giao chiến đều thất lợi phải rút vào trong thành Tống Bình. Ngô Chất cùng các tướng Bồ Phá Cần, Đỗ Anh Hàn vâng mệnh chủ tướng Phùng Hưng đưa chiến thuyền xuống sông Cái áp sát thành Tống Bình khiến quan quân nhà Đường trong thành như cá nằm trên thớt. Luôn mấy tháng sau cạn lương hết binh, An Nam đô hộ sứ Cao Chính Bình kinh sợ ốm chết trong thành, Phùng Hưng cùng ba quân vào thành yên dân lập nước, phong thưởng binh tướng rất hậu, lại miễn thuế khóa cho muôn dân đến ba năm. Tướng quân Ngô Chất được giao vào vùng Hoan – Ái cùng với các tướng Đoàn Phương, Đặng Siêu mở đất về phương Nam. Từ đó, hai họ Ngô – Phùng thường chia các tráng đinh vừa ở Đường Lâm vừa đưa vào vùng Ái Châu, Hoan Châu đã hàng chục đời như thế. Hai họ kết giao thông hiếu nối đời không dứt. Ngay như phu nhân châu mục Đường Lâm Ngô Mân cũng mang dòng máu họ Phùng được Ngô Mân vô cùng tôn quý. Theo lời khuyên của các vị lão trượng đất Đường Lâm, châu mục Ngô Mân cùng với muôn dân lập đền thờ đức vua Bố Cái Đại vương Phùng Hưng ngay sát chân đồi Cấm châu Đường Lâm quanh năm khói hương không dứt. Cũng kể từ đó, dân chúng khắp vùng Đường Lâm mọi nghề ổn định, mưa thuận gió hòa, trong thôn ngoài ấp các vùng thượng du, hạ bạn làm ăn đều phát đạt lắm. Dân chúng ai cũng cảm ân đức của Bố Cái Đại vương vừa thuần phục nghe theo châu mục Ngô Mân.
Sau ba ngày lưu lại đất Đường Lâm, Dương Đình Nghệ cùng văn võ về Đại La thành, lại cho Ngô Quyền ở lại chịu tang cha. Trên đường trở về thành, sau nhiều đắn đo, chủ bạ Đoàn Thành, người đứng đầu các quan văn, khi ở với riêng mình Dương công bẩm báo:
– Chúa công! Bây giờ ngài đã giữ ngôi nước, lo việc trị nhậm muôn dân, mọi việc phải hết sức cẩn thận mới được. Vừa rồi, họ Kiều đất Phong Châu có ý muốn nhận chúa công làm cha nuôi lẽ ra ngài nên từ chối mới phải. Trước là đại công tử Dương Tam Kha đang trấn nhậm La thành vốn không ưa gì Kiều Công Tiễn. Sau nữa tướng quân Ngô Quyền con rể của ngài đã từ lâu coi chúa công như cha đẻ, nay làm vậy khiến Ngô tướng quân thêm khó nghĩ. Người Phong Châu vốn thành cao hào vững, suy tính sâu xa. Tuy bề ngoài họ Kiều phục tùng đại cuộc nhưng bên trong hẳn có ý chờ thời. Mong chúa công minh xét.
Dương Đình Nghệ vân vi mãi rồi nói:
– Họ Kiều đã có ý muốn nhận ta đâu nỡ chối từ. Từ nay ngươi hãy để ý giúp ta là được. Thực tâm ta muốn thu nhận Phạm Bạch Hổ làm nghĩa tử song Phạm Lệnh Công quá giữ gìn không chịu ta chẳng biết làm sao. Tam Kha hãy còn vụng lắm, phải rèn cặp nhiều mới được. Còn về Ngô Quyền ngươi chớ lo. Quyền nhi ở với ta từ tấm bé, ta lạ gì nết nó. Ngô Quyền sau này là anh hùng trong các anh hùng đấy. Ngươi hãy chờ xem lời nói của ta.
Chủ bạ Đoàn Thành vâng dạ song từ đó luôn để ý tới Kiều Công Tiễn.
*
Đây nói tiếp chuyện Ngô Quyền chịu tang cha ở Đường Lâm.
Ngô tướng quân sau công cuộc giúp Dương Đình Nghệ đánh đuổi giặc Hán lấy lại La thành uy danh vang dội khắp các vùng. Khi châu mục Ngô Mân mất, em ruột Ngô Mân là Ngô Tôn Tư khi đó đang làm hào trưởng đất Hải Triều, một cửa biển trọng yếu thuộc Hồng Châu vội cùng gia quyến về chịu tang huynh trưởng. Ngô Tôn Tư hơn hai mươi năm kiêm quản vùng cửa biển Hải Triều chú trọng giao thương buôn bán khắp nơi lại có đội thương thuyền trăm chiếc đi khắp các vùng sông biển ở Hồng Châu gia nhân có đến hàng nghìn người năm nào cũng đưa mười mấy thuyền sản vật vùng biển về biếu huynh trưởng được Ngô Mân yêu lắm. Hai anh em họ Ngô người làm chủ đất Đường Lâm người làm chủ cửa biển Hải Triều đều được muôn dân quý trọng mọi việc đều hỏi đến. Họ Ngô ăn ở rộng lượng lại biết lễ nghĩa với các bậc lão trượng trong vùng nên ân đức ngày càng dày vững.
Sau khi chu tất việc tang lễ, xây đắp lăng mộ, yên ổn họ hàng, trước hôm Ngô Tam Tư trở lại Hải Triều, Ngô Quyền mời chú đến trước bài vị châu mục Ngô Mân đàm đạo.
Ngô Quyền nhìn bài vị cha rơi hai dòng lệ bái lạy chú rồi nói:
– Bẩm chú! Cha Quyền nhi chẳng may cưỡi hạc quy tiên. Cổ nhân có dạy, mất cha còn chú, mai chú lên đường trở lại Hải Triều có điều gì chỉ dạy Quyền nhi xin vâng lời.
Ngô Tam Tư vội đỡ Ngô Quyền dậy nghiêm trang nói:
– Quyền nhi! Trong nhà là tình chú cháu, những điều gì thuộc gia pháp tổ tông cháu là người hiếu nghĩa chắc đã hiểu rõ ta thấy không có gì đáng ngại. Huynh trưởng của ta, một đời đức cao vọng trọng, yêu dân như con, các bậc anh hùng trong thiên hạ đều nể trọng. Nay huynh trưởng chẳng may mất đi, ta lại bất tài chỉ trông mong vào Quyền nhi đây. Trong nhà là lễ chú cháu. Ra ngoài cháu là đại tướng quân uy danh càng phải biết giữ mình. Họ Ngô ta cả đời trung trinh với nước, chưa bao giờ ăn ở hai lòng. Ta về Hồng Châu luôn chờ đợi tin tốt lành của Quyền nhi vậy.
Ngô Quyền cảm khái nói:
– Bẩm chú! Quyền nhi xin được vâng lời. Có một điều Quyền nhi xin được thưa với chú. An Nam ta tuy là tạm yên ổn, song Hán triều không dễ gì từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta đâu. Theo thiển ý của Quyền nhi, qua mấy trận giao phong với quân Hán, người An Nam ta vốn giỏi thuỷ chiến, nay vùng Hải Triều thuộc Hồng Châu là nơi hiểm yếu, sông biển giao nhau. Nay chú về đó hãy mở rộng đội thương thuyền cho hùng mạnh, thông thạo các luồng lạch cửa sông cửa biển, trước là giúp đỡ muôn dân vận chuyển muối gạo giao thương, sau này nếu Hán triều xuất binh xuống phương Nam ta tất có chỗ hữu dụng.
Ngô Tôn Tư nhìn đứa cháu yêu nay đã là một đại tướng quân vang danh khắp chốn cảm động nói:
– Quyền nhi! Cháu khi nào cũng suy nghĩ cho dân cho nước quả thực không hổ danh dòng họ Ngô chúng ta. Ta trước vâng lời huynh trưởng đã cho lập đội thương thuyền hơn trăm chiếc thành thạo nơi cửa sông cửa biển Hải Triều. Huynh trưởng còn cho các tráng đinh họ Phùng, họ Ngô xuống mạn biển hưng dân mở đất nay đã trù phú lắm. Nay huynh trưởng tuổi cao theo về tiên tổ, ý nguyện của đại huynh ta lẽ nào dám không tuân theo. Cháu hãy yên tâm giúp rập cho Dương công. Chú xin nghe theo lời cháu.
Ngô Tôn Tư đi rồi, Ngô Quyền còn ngồi mãi một mình trước bài vị châu mục Ngô Mân tận đến khi Dương thị vào nhắc mới đi vào gian nhà chính sai bảo đám gia nhân gia tướng cắt đặt mọi việc trong châu.
Dương thị vốn là con gái yêu của Dương Đình Nghệ được gả cho Ngô Quyền mười năm trước. Dương thị tuy là phận nữ nhi nhưng từ nhỏ đã được Dương công cho thầy dạy cả văn lẫn võ. Các tùy tướng dưới trướng của Dương Đình Nghệ không ít người thầm yêu trộm nhớ Dương thị song Dương thị chẳng ưng ai. Khi ấy Ngô Quyền được Ngô Mân cử vào Ái Châu theo luyện voi chiến. Họ Ngô và họ Dương vốn giao hào với nhau từ nhiều đời trước. Dương Đình Nghệ vẫn thỉnh thoảng gửi tặng vài thớt voi cho Ngô Mân và luôn kính Ngô Mân là bậc huynh trưởng. Khi thấy Ngô Quyền tướng mạo đường bệ, phong thái hơn người, Dương Đình Nghệ yêu lắm muốn gả con gái cho nhưng các tướng đều không phục, cho là phải tỷ thí võ nghệ cung kiếm. Dương công nghe theo, cho lập đài tỷ võ, đích thân làm chủ khảo, lại cho người ra tận Đằng Châu mời Kiều Lệnh Công cùng chủ trì chấm giải. Sau một tuần thi đấu quyết liệt, tướng nào cũng mang hết sở trường của mình mà so với Ngô Quyền đều thấp hơn một bậc. Đó là họ Ngô còn có ý nhún nhường không đả thương bất kỳ võ sĩ nào. Kể từ ấy, chẳng những Dương thị hết sức mê mẩn Ngô Quyền mà đám tùy tướng của Dương công đều một lòng thần phục họ Ngô.
Buổi sinh thời, châu mục Ngô Mân yêu quý Dương Đình Nghệ lắm. Dẫu cách xa vài trăm dặm, hai họ Ngô – Dương vẫn thường xuyên đi lại rất khăng khít. Cùng là nha tướng của mấy đời Khúc chúa, các châu mục Đường Lâm, Ái Châu, Đằng Châu, Phong Châu suốt mấy chục năm chịu ơn họ Khúc mà hết lòng kiêm quản các vùng đất được phân phong. Họ Khúc giao quyền cho các châu mục tự chủ cũng là kế sách yên ổn lâu dài các vùng đất ở An Nam. Ngày trước, nhà Đường cai trị An Nam đã quá tập trung quyền lực về kinh thành Tống Bình khiến các châu quận anh hùng hào kiệt nối nhau nổi lên không dứt. Khi làm chủ Tống Bình, họ Khúc thấy rõ ước nguyện của các châu mục muốn tự chủ trị nhậm đã phân phong định rõ phẩm quyền từng vùng đất khiến mọi người yên ổn theo về. Âu cũng là sự sáng suốt, quyền biến tùy thời của họ Khúc vậy.
Trong khoảng thời gian đó, quả là trời không phụ lòng người, các vị hào trưởng, châu mục các vùng đất Phong Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Hồng Châu, Đằng Châu, Đường Lâm đều là những bậc anh hùng hào kiệt trượng nghĩa thương dân cả nên bên trong tuy tự mình kiêm quản mà bên ngoài vẫn biểu thị tấm lòng thành với Khúc chúa. Hàng năm, châu mục các châu đều đưa sản vật, đồ quý, thợ giỏi cúng tiến về thành Đại La cho họ Khúc chưa bao giờ sao nhãng. Lại hễ có việc gì phải trưng tập binh lính, phu phen, của cải, sắt muối về Đại La, các châu mục đều tận lực không dám chậm trễ. Mối quan hệ giữa Đại La thành và các châu quận tưởng là lỏng lẻo mà vô cùng khăng khít vậy.
Đối với châu mục Ngô Mân luôn lấy việc ban ân đức cho dân làm đầu nên châu Đường Lâm nhà nhà đều chăm chỉ làm ăn, hàng xóm láng giềng trên dưới giúp rập lẫn nhau thực bụng lắm. Những là cây trồng vật nuôi đều san sẻ giúp nhau không hề tính toán, các nghề canh cửi, thổ mộc, rèn đúc đều cùng bảo ban nhau mà tinh tiến không dứt. Ngô Mân lại cho lập các đội thương thuyền nơi vùng Tích Giang đem sản vật theo dòng Thao Giang ngược đi khắp các vùng thượng du buôn bán, trao đổi khiến dân chúng ngày càng giàu có, thóc lúa chật bồ, châu ngựa đầy sân. Họ Ngô lại chủ trương cho dân được tự cường, các nhà giàu có thu thập gia đinh tùy ý khiến vùng đất Đường Lâm người tứ xứ theo về ngày càng đông đúc, trên bến dưới thuyền tấp nập làm ăn. Bản thân Ngô châu mục tuy tuổi cao nhưng vẫn tinh tường mọi việc còn để cho Ngô Quyền vào tận Ái Châu rèn nghiệp văn võ với Dương công. Ngô Quyền vốn từ bé ham mê cả hai đường văn võ chỉ muốn tìm người giỏi để học. Ái Châu đất rộng người đông, công việc bộn bề. Dương công cũng may nhờ rể quý Ngô Quyền trông coi mọi việc trước sau rất nghiêm minh nên mới được đôi phần thong thả.
Ngô Quyền bận việc quân có khi vài tháng mới trở về trong phủ. Mấy lần sinh hạ, Dương thị đều phải một thân một mình nuôi con. Khi về chịu tang cha chồng, hai công tử Ngô Xương Ngập đã tròn mười tuổi, Ngô Xương Văn tròn tám tuổi. Dương thị cùng các con chịu tang châu mục Ngô Mân theo nghi lễ phong tục Đường Lâm và gia phong họ Ngô rất cẩn thận, trong họ ngoài làng ai cũng kính yêu. Dương thị luôn mấy tháng ròng khóc than cúng bái hương hoa không dứt khiến Ngô Quyền cùng muôn dân châu Đường Lâm vô cùng cảm kích.
Khi tròn một năm chịu tang, Ngô Quyền bảo với Dương thị:
– Ta nay có lệnh của chúa công triệu về thành Đại La coi sóc việc quân. Phu nhân có định theo ta về kinh thành hay ở lại Đường Lâm cùng các con là do tùy phu nhân định liệu.
Ngô phu nhân chấm chấm nước mắt rồi nghiêm trang nói với Ngô tướng quân:
– Thiếp vốn được gả về làm dâu họ Ngô mà mười năm mới đến được quê chồng, quả là có lỗi lớn. Nay tướng công vì việc nước phải đến kinh thành chứ thiếp là phận dâu con phải phụng dưỡng mẹ cha mới tròn phận sự. Nay cha mẹ đều đã mất thiếp chưa phụng dưỡng được ngày nào quả tội càng thêm tội. Xin tướng công cho mẹ con thiếp ở lại Đường Lâm hương khói tổ tiên để thiếp chuộc lỗi mới được.
Ngô tướng quân cảm động nói:
– Ta vẫn biết phu nhân là người hiếu nghĩa, chẳng qua là việc quân việc nước lại giặc giã liên miên đến nỗi lấy chồng mười năm mới đến được quê chồng, ta không có lỗi hay sao. Nay châu Đường Lâm vốn là đất bản địa của họ Ngô nhà ta. Mẹ ta vốn họ Phùng dòng dõi Bố Cái Đại vương Phùng Hưng từng đánh đuổi giặc Đường dựng nền độc lập cho An Nam ta không phải tầm thường. Ở vùng Đường Lâm này, hai họ Ngô – Phùng trong là cật ruột dòng tộc ngoài là phên giậu của muôn dân ai ai cũng đều kính trọng. Nay phu nhân thuận cùng hai con trông nom việc châu quận lại lo hương khói tổ tiên cho cha mẹ ta còn phúc đức gì bằng.
Dương phu nhân cảm động mãi không thôi.
Phu nhân sai gia nhân chuẩn bị đầy đủ để Ngô tướng quân cùng các tuỳ tướng kịp lên đường đến Đại La thành, một mặt sắp đặt các việc trong châu Đường Lâm rất quy củ. Phu nhân còn cho mời bảy vị bô lão đức cao vọng trọng trong hai họ Ngô – Phùng cùng các thầy giỏi văn võ tới dạy cho hai công tử Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn. Mọi việc ở châu Đường Lâm, Dương phu nhân đều hỏi đến rất cẩn thận. Các đầu mục, hương thân phụ lão quanh vùng vốn đã cảm hóa ân đức họ Ngô nay càng thêm yêu kính Dương phu nhân.
Châu Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đất phát vương của họ Phùng. Bố Cái Đại vương Phùng Hưng được người cha là Phùng Hạp Khanh vốn là một danh tướng của Mai Thúc Loan từng khuông phò họ Mai đánh đuổi giặc Đường lên ngôi vua xưng là Mai Hắc Đế tại Ái Châu. Khi nhà Đường xuất mười vạn binh cử đại tướng Quang Sở Khách tiến xuống đánh dẹp, họ Phùng đã cùng các tướng hết sức cự giặc song thành Vạn An thất thủ, Mai Thiếu đế trúng tên độc qua đời, Phùng Hạp Khanh nén đau thương đưa binh tướng bản bộ về châu Đường Lâm mở đất hưng dân.
Sau này, nối chí lớn của cha, Phùng Hưng cùng các tướng nổi lên đánh đuổi quân Đường trong khoảng hơn hai mươi năm đã thắng lợi, tiến chiếm Đại La thành lên ngôi quân trưởng được muôn dân ủng hộ. Sau này, họ Phùng suy vi, nhà Đường lại đưa binh tướng sang đô hộ An Nam. Dẫu thời gian biến đổi, ở châu Đường Lâm, họ Ngô lên kiêm quản vẫn luôn nhớ tới ơn đức Bố Cái Đại vương Phùng Hưng nối đời thờ cúng hương hoa. Châu mục Ngô Mân cũng là rể họ Phùng. Ngô Mân lấy Phùng Thị Tịnh Phong sinh hạ Ngô Quyền có tướng lạ, người trong châu ai cũng cho rằng Ngô Quyền sau này sẽ là bậc đại trí đại dũng, sớm lập huân công.
Thuở nhỏ, châu mục Ngô Mân và Phùng Thị Tịnh Phong dạy con rất nghiêm, cho người đi mời các thầy giỏi văn võ trong vùng đêm ngày rèn cặp. Ngô Quyền dần lớn lên, năm mười ba tuổi đã mồ côi mẹ. Mấy năm sau, châu mục Ngô Mân gửi Ngô Quyền vào Ái Châu vừa để học thêm cách thuần dưỡng voi rừng và huấn luyện tượng binh cũng là thể hiện mối thâm giao với Dương Đình Nghệ. Ngô Mân từ buổi Phùng thị dời bỏ cõi trần chỉ dốc tâm vào việc mở đất an dân khiến châu Đường Lâm ngày càng trù mật. Đội voi trận Dương Đình Nghệ gửi tặng họ Ngô theo đường thượng đạo tới Đường Lâm càng tăng thêm uy vũ của vùng đất nhiều đồi gò, rừng rậm. Vốn con nhà võ tướng, Dương thị không hổ danh là trưởng nữ của châu mục Dương Đình Nghệ nay đã xưng Tiết độ sứ kiêm quản An Nam điều khiển mọi việc trong châu Đường Lâm rất quy củ. Họ Dương quyết chí thay chồng báo hiếu tổ tiên cha mẹ một mặt nuôi dạy hai con Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn giữ vững nền nếp gia phong.
Âu cũng là đức lớn của họ Ngô ở Đường Lâm vậy.
*
Ngô Quyền cùng các tùy tướng ruổi ngựa đến được thành Đại La cũng là lúc trời đã sẩm chiều. Không dám chậm trễ, Ngô tướng quân vội vào nội phủ vấn an nhạc phụ Dương Đình Nghệ.
Nửa năm trước, theo sự bàn bạc định kế của hai ban văn võ và châu mục Phong Châu, Đằng Châu, Hồng Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Dương Đình Nghệ đã tuyên xưng là Tiết độ sứ kiêm quản các châu thuộc An Nam, cho người bố cáo các nơi, lại cho tặng lụa quý cho các vị bô lão trên bảy mươi tuổi trên toàn cõi. Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ cai quản các việc rất nghiêm. Ngài cho mở các làng nghề đúc đồng, dệt vải, luyện sắt, nung đốt gạch, đá, gốm, sành, giao thương gạo, muối, sản vật các vùng. Họ Dương còn cho lập đội thương thuyền lớn có thể đi các vùng cửa sông cửa biển giao thương hàng hóa rất thuận tiện. Ở các châu, Tiết độ sứ cho các châu mục toàn quyền kiêm quản, chú trọng việc khai mở phong tục, khuyến khích lễ hội, cho phép xây dựng các đình đền chùa miếu thờ tự các bậc danh tướng danh thần. Ngài còn đích thân trùng tu chùa Trấn Quốc, cho mời các cao tăng tới giảng đạo khiến muôn dân trong cõi ngoài thành và kinh kỳ được bốn mùa yên vui canh cửi buôn bán làm ăn. Dân chúng trong ngoài thành Đại La cảm ơn ân đức của Tiết độ sứ họ Dương mà chí thú làm ăn, nạn trộm cắp tuyệt không xảy ra dẫu là chốn kinh thành hay nơi thôn cùng xóm vắng. Có những buổi, đích thân Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ dẫn theo quan chủ bạ Đoàn Thành tới chùa Trấn Quốc nghe giảng kinh cùng với các cao tăng. Khi đàm đạo, Dương công thong thả nói:
– Thưa các vị cao tăng! Tại hạ nghe nói những buổi đầu dựng nước Vạn Xuân gây nền độc lập, đức vua Lý Nam Đế đã sai lão tướng Phạm Tu cùng các bậc trưởng lão xây chùa Trấn Quốc là để nối nền quốc thống từ triều đại các vua Hùng cũng là để chấm dứt họa chiến tranh cho muôn dân yên ổn thái bình. Nay ta tài sơ đức mỏng lại được các tướng suy tôn làm chủ ngôi nước trong lòng chỉ nghĩ tới muôn dân nay xin được các vị cao tăng chỉ giáo cho.
Các vị cao tăng trong chùa thấy Dương Tiết độ sứ tuy ở ngôi cao mà lời nói vẫn vô cùng khiêm nhượng trong bụng thầm mừng. Một vị cao tăng tiến ra nói:
– Thí chủ quả thực đã quá khiêm nhường rồi. Bậc chủ ngôi nước xưa nay đều có hùng tâm tráng trí trong công cuộc trị nước an dân. Dẫu ước nguyện là như thế song việc thực hành không phải khi nào cũng thuận theo được đâu. Nay thí chủ trước đã cùng binh tướng đánh đuổi giặc kia về nước sau lại sớm nghĩ đến những cơ cực của muôn dân mà sửa mình thật là phúc cho nước vậy.
Dương Đình Nghệ và quan chủ bạ Đoàn Thành nghe vị cao tăng giảng giải trong bụng càng khâm phục mà tự răn mình. Xưa nay, việc hiểu thiên hạ dẫu muôn vàn khó khăn nhưng còn chưa khó bằng việc hiểu chính bản thân mình chạnh nghĩ những người như Phạm công, Kiều công, huynh trưởng Ngô Mân luôn lấy chữ đức làm đầu mới là người tự hiểu bản thân mình vậy. Đoàn Thành thấy Dương công quan hoài ngẫm ngợi chỉ im lặng cùng các cao tăng thưởng trà vừa nhìn ra khoảng sân chùa Trấn Quốc lãng đãng khói sương phía trước.
Đang miên man hồi nhớ về buổi đàm đạo với các vị cao tăng nơi chùa Trấn Quốc, Dương Đình Nghệ nghe tin Ngô Quyền vừa đến, bèn cho tuỳ tướng ra gọi vào. Dương công từ buổi chủ trì Đại La thành, thần sắc ngày càng vượng, tuy mái đầu bạc đến quá nửa song cặp mắt vẫn rất tinh anh đang cùng chủ bạ Đoàn Thành nghị sự.
Ngô Quyền bước vào tiến tới thi lễ:
– Mạt tướng Ngô Quyền phụng lệnh về thành kính chúc nhạc phụ an khang, xin chúc mừng Đoàn huynh nhậm chức chưởng bạ ngày càng tinh tiến giúp rập nhạc gia chủ trì việc nước.
Dương Đình Nghệ tươi cười nói:
– Quyền nhi! Đây là chỗ trong nhà con bất tất phải thủ lễ. Ta đang bàn với Đoàn tiên sinh đây một việc. Vừa lúc con về kịp mong sớm cho biết chủ kiến của mình. Tiện thể tối nay cùng ta và Đoàn tiên sinh dự tiệc.
Đoàn Thành phấn chấn nói:
– Ngô tướng quân một năm chịu tang nay trở về tướng phủ quả là đúng lúc. Ta cũng vừa cùng các quan văn biên soạn xong cuốn giản sử về trị nhậm của An Nam ta từ ngày Hùng Vương lập nước sẽ chuyển cho tướng quân một bản để kíp rèn dạy binh tướng ta biết sự hào hùng của các bậc vua chúa tiên thánh. Tiện thể tướng quân bổ cứu thêm phần về Bố Cái Đại vương Phùng Hưng và các hào trưởng họ Ngô ở châu Đường Lâm giúp ta. Nay chúa công trị nước tất phải mở mang việc học cùng với sắp đặt việc binh. Về lễ nghĩa học hành, một năm qua ta cùng các quan đã dâng lên chúa công chế định đã được ân chuẩn còn như sắp đặt việc binh chúa công đang đợi Ngô tướng quân đấy.
Ngô Quyền thấy Đoàn Thành nói năng nghiêm nghị trước sau đều bàn thẳng vào chỗ cốt yếu của việc trị nước trong lòng rất mừng có được vị đứng đầu quan văn vừa hiểu biết lễ nghĩa vừa chân thành giản dị dốc tâm dốc sức vì muôn dân bèn nói:
– Bẩm nhạc phụ! Thưa Đoàn huynh! Mạt tướng sau buổi chịu tang cha vẫn đêm ngày mong ngóng sớm về La thành phục mệnh. Để nhạc phụ và hai ban văn võ phải khổ cực buổi đầu dựng nghiệp Ngô Quyền đây quả là có lỗi. Song nghe nhạc phụ và Đoàn huynh định việc nước trong dạ rất mừng. Trên có nhạc phụ anh minh, dưới hai ban văn võ chuyên cần tận tâm tận lực khiến muôn dân các châu mục, sách mường, miền biển miền đồi thảy đều yên ổn làm ăn, trong thành ngoài nội đều ấm no, quả là phúc dày của An Nam ta. Còn như việc sắp đặt binh tướng, Ngô Quyền đây xin nhất nhất tuân theo ý của nhạc phụ.
Dương Đình Nghệ ân cần nói:
– Ta là nhạc phụ của con nhưng còn là tiểu đệ của huynh trưởng Ngô Mân. Nay Ngô huynh cưỡi hạc quy tiên ta càng phải có trách nhiệm lâu dài của mình. Việc Dương thị ở lại Đường Lâm hương khói Ngô huynh cũng là hợp lẽ trời. Đường Lâm là vùng thủ hiểm, xưa nay từng phát tích đế vương, việc các cháu ta được phụ lão Đường Lâm rèn cặp cũng là thuận theo đạo lý của Ngô gia. Ngày trước, nếu không bận việc binh lương, ta đã đích thân đem các cháu về giao cho Ngô huynh rồi. Nay ta muốn bàn trước với con một việc. Ngày mai trên điện, ta sẽ quyết định cử con vào thay ta trị nhậm Ái Châu. Đất Hoan Châu trước đã giao cho Đinh Công Trứ cai quản ta rất yên tâm. Ái Châu là vùng căn bản của Dương gia ta, nguồn binh lương quan trọng bậc nhất để ta có thể yên ổn ở La thành mà phân phong cai quản các vùng đất khác. Khi trước bàn với Đoàn tiên sinh đây, định để Tam Kha vào đó trấn thủ nhưng tính khí của Tam Kha còn hay nôn nóng nên ta đã cử nó cai quản thuỷ binh ở Giang Biên rồi. Không biết ý con thế nào?
Ngô Quyền khảng khái đáp:
– Nhạc phụ đã tin dùng con xin vâng mệnh! Việc quản hạt ở Ái Châu con quyết vì nhạc phụ và bách tính không dám lơ là. Việc thống suất thuỷ quân giao cho Dương hiền đệ cũng rất đúng. Tam Kha tuy tính tình nóng nảy nhưng có tài thao lược lại biết yêu sĩ tốt, để đệ ấy nắm thuỷ binh là kế sách lâu dài. Qua mấy trận ác chiến với quân Hán, nếu không có thuỷ binh của Đằng Châu, tình hình còn chưa biết ra sao. Vừa rồi, khi tiễn hào trưởng Ngô Tam Tư về cửa biển Hải Triều, con đã dặn dò thúc phụ phải xây dựng đội thương thuyền cho hùng mạnh, vừa là để giao thương vừa phòng khi Hán triều động binh xuống đất ta. Không biết tướng Phạm Bạch Hổ và Kiều Công Tiễn nhạc phụ đã sắp đặt ra sao rồi?
Dương Đình Nghệ nhìn Ngô Quyền thong thả nói:
– Phạm tướng quân mới vừa tháng trước xin về Đằng Châu phụng dưỡng Phạm công tuổi cao, ta đã thuận cho. Còn Kiều Công Tiễn, ngày ta lên Phong Châu nể mặt Kiều công đã nhận Hãn làm con nuôi gia phong làm tướng thống suất binh mã bảo vệ thành Đại La. Việc này không biết ý Quyền nhi thế nào?
– Việc điều động phân phong các tướng cứ xin theo ý nhạc phụ. Có Đoàn huynh ở bên cạnh, con cũng đỡ lo lắng. Việc binh xưa nay chọn tướng giao quyền giữ thành phải cẩn thận. Các châu mục hiện nay đều có binh quyền trong tay, bên ngoài thế nước tuy là nổi lên song bên trong cũng ẩn chứa nhiều điều khó lường. Mai này mạt tướng vâng mệnh trở về Ái Châu, mong Đoàn huynh hãy hết sức giúp rập nhạc phụ mới được.
Dương Đình Nghệ trầm ngâm nói:
– Ta thân làm chủ thực bụng tin dùng các tướng không có chỗ nào nghi ngại cũng là mong mọi sự yên ổn thái bình để muôn dân hưởng phúc. Nay Quyền nhi về Ái Châu hãy cùng với Đinh Công Trứ ở Hoan Châu kết thành một khối, mở đất chăm dân, dự trữ lương thảo, voi ngựa cho đầy đủ. Ái Châu, Hoan Châu càng hùng mạnh, cục diện An Nam mới vững vàng. Ngươi hãy nhớ cho.
Ngô Quyền lạy tạ lui ra.
*
Trước hôm lên đường trở lại Ái Châu, Ngô Quyền xin với Dương Đình Nghệ cho xuống thuỷ trại Giang Biên gặp gỡ Dương Tam Kha. Trên chiếc soái thuyền lớn đậu trên mặt sông mùa nước lên, Dương Tam Kha bận giáp phục ngắn đang cùng các tướng vây quanh chiếc sa bàn đắp bằng đất sét trắng chỉ trỏ các luồng lạch bỗng có tin Ngô Quyền ghé thăm, Dương Tam Kha vội rời sa bàn bước lên mặt thuyền cũng là lúc họ Ngô bước xuống thuyền vui vẻ chúc mừng:
– Chúc mừng hiền đệ soái lĩnh thuỷ quân! Ngày mai ta trở về Ái Châu ghé qua thăm hiền đệ cũng là xem đệ biên chế thuỷ quân tiện sau này ta về dùng vào việc xây dựng thuỷ trại ở Ái Châu.
– Ngô huynh thứ lỗi. Hôm trước đệ phải ở lại La thành không về Đường Lâm chịu tang cùng Ngô huynh được. Nay Ngô huynh lại thân hành vào Ái Châu gánh vác trọng trách cùng Đinh Công Trứ ở Hoan Châu cũng là tạo thế mạnh để yên ổn đại cục. Tiểu đệ được phụ thân giao thuỷ quân cho cũng còn nhiều bỡ ngỡ lắm. May nhờ hôm trước tướng quân Phạm Bạch Hổ đã chỉ bảo cho nhiều mới bước đầu quen với thuỷ binh. Xét về cầm quân thuỷ bộ Ngô huynh mới là bậc tướng tài. Phạm Bạch Hổ luôn khen huynh lắm. Phạm huynh về Đằng Châu có dặn rằng khi nào có việc gấp Ngô huynh cứ cho người sai khiến họ Phạm sẵn sàng nhận lệnh. Phạm Bạch Hổ và tướng Kiều Công Tiễn hình như có chỗ không đồng thuận Phạm huynh mới xin trở lại Đằng Châu.
Ngô Quyền nắm tay Dương Tam Kha bước về phía mũi thuyền khi chỉ có hai người mới thong thả nói:
– Chúa công cho lập thuỷ binh là có ý muốn yên ổn lâu dài cũng là muốn Dương hiền đệ đây phải trở thành tướng giỏi trong chốn ba quân. Chúa công lại cho ta vào Ái Châu chuẩn bị binh lương voi ngựa cũng là nhìn xa trông rộng vậy. Giặc Bắc xưa nay cậy ngựa khỏe giáo dài ta phải lấy voi chiến thuỷ binh mới có thể dễ bề đánh đuổi chúng. Giao thuỷ quân cho đệ tức là trông cậy vào cái lẽ sống còn trị nhậm của người An Nam ta đấy. Còn về Kiều Công Tiễn ta đã dặn dò quan chủ bạ Đoàn Thành kỹ lưỡng rồi. Nhưng đệ cũng phải hết sức cẩn thận mới được. Phong Châu là vùng đất có khí số đế vương. Ở đời đêm dài lắm mộng chúng ta cứ cẩn thận là hơn.
Dương Tam Kha nghiêm nghị lắng nghe rồi trỏ tay về phía bãi Màn Trù thuộc vùng đất Chu Diên nói:
– Mai kia đệ sẽ chia đôi thuỷ binh đưa một nửa vào đầm Dạ Trạch thao luyện, đồng thời cho đóng thêm doanh trại thuỷ quân. Xưa kia, Dạ Trạch vương Triệu Quang Phục đánh đuổi giặc Lương đã luyện thuỷ binh ở đó rồi tiến ra Giang Biên chém chết tướng giặc Dương Sằn đại thắng giặc Lương. Thành Đại La dẫu là trung tâm của An Nam nhưng kỳ thực phải chia quân thuỷ bộ đóng trại liên hoàn các mặt mới vững vàng được.
– Đệ nghĩ được như vậy ta mừng lắm. Nên nhớ, không thành trì nào đứng vững được nếu không có được lòng người. Chúa công ta sở dĩ có được ngôi cao chính là do lòng người quy thuận chứ đâu phải cứ thành cao hào vững mà có được đâu. Hiền đệ nên nhớ kỹ để tiện việc rèn binh tướng cũng phải theo đạo lý đó mới được.
Khi Ngô Quyền và đám tuỳ tướng rời khỏi soái thuyền rồi, Dương Tam Kha còn vân vi mãi.
*
Vừa về đến tướng phủ Ái Châu, Ngô Quyền cho người vào Hoan Châu mời châu mục Đinh Công Trứ ra bàn việc. Họ Đinh từ ngày nhận mệnh kiêm quản Hoan Châu đêm ngày dốc sức cùng muôn dân luyện sắt trữ muối, khơi thông luồng lạch, khẩn hoang lập ấp, liên tiếp dựng các phường săn vùng thượng du bắt voi rừng sung vào doanh trại. Luôn mấy năm liền được mùa, vùng Ái Châu, Hoan Châu cư dân ngày càng sung túc, giao thương phát triển, các đội thương thuyền theo sông lớn ra tận cửa bể trao đổi sản vật rất tấp nập. Đinh Công Trứ lại cho lập các trạm tiếp vận nơi cửa sông rất quy củ. Cứ vài tháng, họ Đinh lại cho người đem sổ sách ra tận thành Đại La để Dương công định việc. Trong các châu, Ái Châu và Hoan Châu nhân lực sổ sách của cải lương tiền luôn minh bạch rõ ràng nhất.
Khi Đinh Công Trứ từ Hoan Châu ra, vừa vào đến tướng phủ liền tiến tới thi lễ với Ngô Quyền nói:
– Xin chúc mừng tướng quân sớm trở lại Ái Châu! Từ nay ngu huynh có thể ăn no ngủ kỹ được rồi.
Ngô Quyền tươi cười đáp lễ:
– Đinh huynh chớ nói vậy. Việc đi trước hàng quân giết địch tiểu đệ đây không dám chối từ chứ việc chăn dân mở đất quyết mong Đinh huynh dạy bảo nhiều mới được. Tiểu đệ vâng mệnh chúa công trở về Ái Châu cùng huynh giúp dân yên ổn làm ăn cũng là thực hiện đại kế sâu gốc bền rễ. Dân chúng có cường thịnh, phận làm tướng chúng ta mới được yên ổn có phải không Đinh huynh?
– Ngô tướng quân đừng quá khiêm tốn mới được. Phàm tướng giỏi đánh giặc xưa nay đều giỏi hưng dân mở cõi đó thôi. Tướng quân trên chiến trường bách chiến bách thắng xưa nay hiếm có, nay được chúa công tin tưởng giao cho vùng đất căn bản cũng là phúc trạch của muôn dân. Đinh mỗ tuy bất tài xin được phò tá Ngô tướng quân mọi việc ở Hoan Châu, Ái Châu để khỏi phụ lòng tin tưởng của chúa công.
Vừa nói, Đinh Công Trứ vừa cho gọi viên nha tướng đem đến hai chồng sổ sách biên chép đầy đủ các việc binh lương, đất đai, thổ nhưỡng, phong tục các tộc người từng vùng đất thuộc Hoan Châu, Ái Châu đến giao cho Ngô Quyền. Xưa nay, Đinh Công Trứ làm việc rất cẩn thận. Phàm những việc gì giao cho họ Đinh đều được biên chép ngày tháng cụ thể. Những việc khó như đào sông đắp cầu, đưa dân lên vùng thượng du lam sơn chướng khí khẩn hoang họ Đinh đều cho hỗ trợ gạo muối, nông cụ đầy đủ. Lại việc thành lập các phường săn voi ra nơi biên giới bẫy voi rừng thảy đều được Đinh Công Trứ đích thân uý lạo, truyền dạy kinh nghiệm trước sau cẩn thận. Mỗi đầu voi rừng bắt về, họ Đinh đều ghi vào sổ sách, còn cấp cho hai mươi lạng bạc trắng để các phường săn tiện chi dùng. Dân mạn biển khi bị bão gió đánh đắm thuyền, Đinh Công Trứ đều kiểm điểm biên chép, cho đóng mới đủ số thuyền bị hao hụt nơi cửa biển. Với các thương thuyền tới giao dịch, họ Đinh đều cho ghi nhận đầy đủ, không để nạn chèn ép lẫn nhau. Dân chúng trong vùng, bất kể là thượng dụ, hạ bạn, miền biển, miền đồi đều tâm phục khẩu phục Đinh Công Trứ.
Ngô Quyền vào Ái Châu đúng vào lúc các phường săn đang chuẩn bị cho chuyến vào rừng rậm săn voi. Mười mấy năm nay, các phường săn miền thượng du Ái Châu năm nào cũng dâng lên ba bốn chục thớt voi non để Dương công cho người rèn dạy. Khi đem quân Bắc phạt đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính, Lý Tiến, Dương Đình Nghệ đã cho binh tướng đem theo trên trăm thớt voi chiến khiến giặc Bắc kinh hoàng. Hiểu rõ tâm ý của Dương công muốn gây dựng đội voi trận làm nanh vuốt ở thành Đại La, Đinh Công Trứ mùa săn nào cũng tập trung nhiều thợ giỏi luồn sâu vào trong rừng rậm săn bắt voi rừng. Đặc tính của đám voi rừng, mùa động dục chúng thường trở nên rất hung hãn. Đây cũng chính là mùa săn thuận lợi nhất. Có những khi, voi rừng đi thành đàn lớn năm sáu chục con, phường săn dẫu mạnh đến mấy cũng phải bỏ cuộc. Những đàn voi lớn như thế, con đầu đàn vô cùng hung mãnh và tinh quái. Nó sẽ chỉ huy đám voi cái liều chết với voi nhà. Trước sức mạnh giống nòi, đám voi nhà dường như có phần kiêng nể đồng loại mà để bày đàn dễ bề sổng thoát. Khi ấy, con voi rừng đầu đàn tinh quái còn biết chỉ huy kèm cặp đám voi non vào giữa không để thợ săn bắt được. Khó khăn là vậy, nhưng chưa năm nào Đinh Công Trứ cùng các phường săn chịu về tay không. Âu cũng là biệt tài của viên tướng họ Đinh người đất Đại Hoàng vậy.
Được Đinh Công Trứ hết lòng truyền cho cách trị nhậm, khi thì cùng ăn ở nơi rừng rậm với đám phường săn, lúc lại trần mình dầm nước xẻ gỗ đóng thuyền cùng các tráng đinh nơi cửa biển, Ngô Quyền đều đích thân thử qua mọi việc, xem xét kỹ lưỡng trước sau đồng thời cho áp dụng với muôn dân Ái Châu. Vốn có uy lớn trong toàn quân lại hết lòng vì mọi việc, muôn dân Ái Châu và các vùng phụ cận đều hết lòng tin cậy châu mục Ngô Quyền. Ái Châu kể từ đó ngày càng cường thịnh.
Hồi thứ 8
Rượu mãi tới gần nửa đêm, khi Dương công đã say không còn biết trời đất gì nữa cũng là lúc Kiều Công Tiễn phất tay áo lui vào bên trong. Nhận được ám hiệu, đám võ sĩ trực sẵn xông vào đè nghiến Dương Đình Nghệ cứ thế thắt cổ cho đến khi họ Dương không còn động cựa gì nữa.
HỒI THỨ TÁM
Sét đánh ngang trời, Kiều Công Tiễn nửa đêm giết chúa
Mưa rơi lạnh đất, Ngô tướng quân mờ sáng họp binh
 
Đây nói tiếp chuyện trong thành Đại La.
Sau khi giao cho Ngô Quyền trở lại Ái Châu kiêm quản các việc binh lương, phối hợp với Đinh Công Trứ trị nhậm Hoan Châu, Dương Đình Nghệ ở trong thành Đại La cùng hai ban văn võ sắp xếp mọi việc. Trại thuỷ quân bến Giang Biên, theo mệnh lệnh của Dương Đình Nghệ, các tướng mở xưởng đóng thuyền ngày đêm rất nhộn nhịp. Dương Tam Kha cho binh lính lên tận các vùng thượng du vận chuyển gỗ tốt xuôi theo dòng sông Cái về bến Giang Biên dự trữ một mặt cho kén thợ giỏi đóng các chủng thuyền. Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu còn gửi nhiều toán thợ chuyên đóng thuyền vùng biển, các loại khí cụ, dây xích, mỏ neo, vải buồm về xưởng Giang Biên. Dương Tam Kha sử dụng đội thương thuyền đến tận vùng cửa biển Tràng Kênh, Bạch Đằng cho thợ đục đẽo các loại đạn đá về trữ ở Giang Biên.
Dương tướng quân sai người thám sát các luồng lạch đoạn sông phải đi qua rồi cho đo vẽ biên chép mực nước nông sâu cẩn thận, thường ngày cùng các tướng đánh dấu bàn bạc trên sa bàn. Đội thuỷ binh bến Giang Biên sau ba năm đã lên tới gần hai trăm chiếc được huấn luyện thành thạo đã thực sự trở thành nanh vuốt cho Đại La thành. Cứ mười chiến thuyền được phiên chế thành một đội dưới sự thống suất của một viên đô tướng. Đám binh lính không chỉ thành thạo bơi lặn mà còn được học các phép đánh hỏa công, bắn đạn đá, đục chiến thuyền, phép tàng ẩn trong đầm Dạ Trạch nơi bãi Màn Trù. Nhiều lần xem thủy quân thao luyện, Dương Đình Nghệ đều khen thưởng binh tướng rất hậu.
Trong thành Đại La, đám quan văn do chủ bạ Đoàn Thành đêm ngày dốc sức biên soạn, hiệu chỉnh bộ giản sử và các quy tắc lễ nghi hàng ngày ra vào ngôi đại điện tâu trình lên Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Đoàn Thành thường cùng các vị quan văn thân hành về từng địa phương khảo cứu đình đền, ghi chép phong tục, tìm hiểu các lễ hội trong dân gian. Phàm là những điển lệ cổ mỗi vùng đất đều cho dân bản xứ thực hiện. Các hội chọi trâu, đua ngựa, đua thuyền, các tục thi đánh vật, giã gạo, gói bánh chưng bánh dày thảy đều khuyến khích dân làng mở theo định kỳ, khen thưởng rất hậu. Đoàn Thành còn đưa nhiều tục lệ của vùng Hoan Châu, Ái Châu truyền dạy cho muôn dân phía Bắc rất được các bô lão khen dùng. Luôn mấy năm liền được mùa, làng trên xóm dưới, các vùng trung châu, hạ bạn, bãi bồi, cửa biển, thuyền bè tấp nập, nhà cửa san sát, muôn dân yên hưởng thái bình. Trong thành ngoài nội đâu đâu cũng khen Tiết độ sứ họ Dương là người hiền đức, thương dân.
Đảm nhiệm chức vị Đại tướng quân kiêm quản bốn mặt thành Đại La, Kiều Công Tiễn luôn mấy năm cùng đám tùy tướng vâng lệnh Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ cho bồi đắp các cổng thành rất vững chắc. Phàm là những đoạn tường thành xung yếu, họ Kiều đều cho đóng hàng vạn cọc tre đan sọt đất sét kè vững. Nơi các hào nước cạn đều cho khơi vét liên thông, lại dùng thuyền nhẹ đi tuần tiễu ngày đêm. Bốn cổng thành, Kiều Công Tiễn cho xẻ những cây gỗ lớn ken vững, bố trí nhiều tòa tháp canh có thể nhìn xa đến vài dặm, bên trong cho đặt cờ hiệu, chiêng trống uy nghi. Quân thường trực canh gác bốn cổng thành được chia thành các đội luân phiên vừa luyện tập vừa tuần tiễu. Kiều Công Tiễn cho đóng một trại lớn ngay sát đầm Sương Mù phía cổng Bắc thành đặt ba mươi thớt voi ngày đêm thao luyện đội ngũ tề chỉnh. Kiều tướng quân rèn binh rất nghiêm lại giỏi bố trí trận pháp nên chỉ vài năm binh tướng thành Đại La vừa quy củ vừa tỏ rõ sự uy nghiêm.
Nơi soái phủ trong gian đại điện thành Đại La, Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ ngày nào cũng dậy từ rất sớm. Ngài uyển chuyển đi bài mai hoa quyền mà đức ngài đã luyện mấy chục năm. Từ ngày ở La thành, ngài còn luyện thêm môn khí công ngay trên chiếc sân nhỏ cây cối hoa lá thanh thoát. Dương công đã sít soát sáu mươi nhưng thân thể hãy còn tráng kiện lắm. Vốn con nhà võ, được rèn luyện từ nhỏ, các môn võ nghệ kiếm cung ngài đều tinh thuộc, lại luôn tự điều tiết sức khoẻ theo cách riêng nên vẫn giữ được phong độ cường tráng dù trăm công ngàn việc. Việc sắp đặt thuỷ quân mấy năm nay Dương công bao thường đích thân xuống xem xét, kiểm điểm từng chiếc bánh lái thuyền, từng sợi xích sắt, từng viên đạn đá. Trong các cuộc thao luyện, bao giờ ngài cũng tự mình đứng ra làm chủ tướng một đội quân, trực tiếp lên thuyền đốc chiến để tìm ra những phép đánh thủy hữu dụng nhất. Có lần cùng các tùy tướng về Đằng Châu thăm Phạm công, ngài cho mời Phạm Bạch Hổ đối trận thủy quân đàm đạo có khi đến hàng tuần không dứt. Các kho tàng, quân doanh của Kiều Công Tiễn, hàng tháng Dương Đình Nghệ đều đích thân tới uý lạo, tham dự xem binh lính luyện tập. Ngài đặc biệt chú trọng huấn luyện đội voi chiến giao cho hai viên đô tướng người Ái Châu là Lê Lân và Trịnh Báo thống suất. Bốn phía cổng thành, ngoài binh tướng của Kiều Công Tiễn, bốn đội voi mỗi đội hai mươi thớt do hai tướng Lê Lân, Trịnh Báo trực tiếp kiêm quản có việc gì dùng đến đều theo mệnh lệnh trực tiếp từ Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ.
Dương công luôn mấy năm liền ngoài việc rất chăm chỉ đọc sách ngài còn đích thân đi thị sát các vùng đất lân cận Cổ Loa, Siêu Loại, Cổ Pháp, Chu Diên, Màn Trù. Mỗi lần đi về, Dương công đều gọi Đoàn Thành lên sai biên chép, lại thường trực tiếp phân phong đại đội binh mã tới các vùng đất lân cận khi thì sửa sang đường sá, khi thì khơi thông ngòi rãnh, bồi đắp gò đống. Có khi Dương công còn cho dựng tặng những chiếc cổng làng vững chắc giao cho các phụ lão hương thân ở trong vùng. Danh tiếng ân đức của Dương công ngày càng vang khắp.
*
Nhận được tin báo Kiều công ở Phong Châu lâm bệnh nặng, Dương Đình Nghệ cho gọi Kiều Công Tiễn vào soái phủ, lại cho gọi bọn Lê Lân, Trịnh Báo vào để kiêm quản công việc của Kiều tướng quân để cho Công Tiễn về Phong Châu. Khi các tướng lĩnh mệnh đi ra, Dương Đình Nghệ gọi riêng Kiều Công Tiễn ở lại nói:
– Kiều công với ta là bậc huynh trưởng đức cao vọng trọng. Lẽ ra ta phải thân hành tới Phong Châu thăm hỏi sức khoẻ Kiều công song việc quân việc nước còn nhiều ta chưa thể đi được, nay cho tướng quân về phụng dưỡng cha có việc gì cần kíp mau cho người báo về La thành để ta định liệu.
Kiều Công Tiễn xúc động nói:
– Chúa công muôn việc còn nhớ tới sức khỏe gia phụ, mạt tướng xin thay mặt người cảm tạ chúa công. Nay gia phụ đã trên bảy mươi tuổi, sức khỏe không được như xưa, nhưng nỗi nhớ mong chúa công vẫn còn nguyên đó. Mạt tướng trở vể Phong Châu phụng dưỡng gia phụ, nếu có mệnh hệ gì sẽ lập tức bẩm báo chúa công.
Kiều Công Tiễn bịn rịn rời ngôi đại điện ngay trong đêm cùng các tùy tướng trở lại Phong Châu.
Vừa về đến Phong Châu, sáng sớm hôm sau, Kiều Công Tiễn quỳ trước mặt cha lúc này đã bệnh rất nặng, luôn mấy hôm không ăn uống được gì, thần khí sút kém, đôi tròng mắt trắng đục lờ đờ chỉ trực khép ríu lại.
Kiều Công Tiễn ứa hai dòng lệ phủ phục nói:
– Hài nhi muôn phần đắc tội xin cha trách phạt!
Kiều công cố nâng cánh tay gầy guộc xua bọn gia nhân ra ngoài rồi yếu ớt nói:
– Hãn nhi… nay con đã trưởng thành… làm tướng ở thành Đại La… cha chắc rằng không qua khỏi… con hãy hết lòng phò tá Dương chúa… họ Kiều ta chỉ có thể thành cao hào vững mà xưng thần thôi… con chớ màng ngôi cao mà mang họa cho Phong Châu mới được…
Kiều Công Tiễn khuôn mặt đầy biểu cảm, hai hàng lệ chảy dài nói:
– Con xin vâng lời cha chỉ dạy.
– Tiễn nhi… cha xem tính khí của con là kẻ quật cường mang chí lớn… con nên nhớ… anh hùng trong thiên hạ chỉ có thể đánh giặc phương Bắc mà kiến công dựng nghiệp… tuyệt đối không được nồi da xáo thịt, tương tàn tranh giành ngôi vị hư danh trong nước… con nên nhớ lấy.
Nói đến đó, Kiều công bỗng chốc nghẹn lại, đờm rãi ứ lên khiến khuôn mặt tái sạm. Kiều Công Tiễn vội vuốt ngực cha ra hiệu đã nghe hết ý đoạn vẫy bọn gia nhân cùng đám thầy thuốc vào chăm sóc cho Kiều công.
Ngay đêm hôm đó, Kiều công trút hơn thở cuối cùng ở nội phủ trong thành Phong Châu.
Kiều Công Tiễn một mặt cho người báo tin về Đại La thành một mặt cho truyền tin khắp trong ngoài vùng đất Phong Châu. Họ Kiều xưa nay ở Phong Châu nối đời làm châu mục kiêm quản các việc uy vọng rất cao. Kiều công vốn là người nhân đức thương yêu bách tính suốt mấy chục năm việc gì cũng tự mình hỏi đến cẩn thận trước sau. Tin Kiều công mất truyền đến đâu, muôn dân các vùng trong ngoài thành Phong Châu đều thương khóc, để tang như bậc cha mẹ. Nơi các đình chùa trong vùng, đều lập đàn tràng hương khói cầu siêu cho vị hào trưởng đất Phong Châu.
Tin báo về thành Đại La, Dương Đình Nghệ cho gọi quan chủ bạ Đoàn Thành đến truyền lệnh:
– Ta mới được tin Kiều công ở Phong Châu đã cưỡi hạc quy tiên, ta phải thân đến viếng mới được. Ngươi hãy sửa lễ thật hậu cùng các tùy tướng sớm cùng ta lên Phong Châu viếng hương hồn Kiều công.
Chủ bạ Đoàn Thành vâng dạ lui ra cắt đặt mọi việc trong ngoài thành.
Đám tang Kiều công ở Phong Châu kéo dài năm ngày năm đêm trong sự tiếc thương than khóc của binh tướng cùng muôn dân trong ngoài thành Phong Châu. Kiều Công Tiễn vô cùng xúc động khi đích thân Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ cùng văn thần võ tướng không quản đường sá xa xôi đến tận Phong Châu viếng tang. Trước linh cữu Kiều công, Dương Đình Nghệ tay cầm ba nén hương trầm vái ba vái, khuôn mặt ứa lệ xúc động nói:
– Thương thay Kiều huynh, một đời nhân đức, nay sớm bỏ tiểu đệ về trời khiến đệ như đứt từng khúc ruột. Các ân huynh nỡ lòng nào lần lượt ra đi bỏ mặc một mình đệ gánh vác việc nước. Thương thay! Thương thay…
Dương công chưa dứt lời, tiếng khóc đã rộ lên bốn phía. Các vị bô lão đất Phong Châu đứng vòng quanh dẫu giọt lệ già đã cạn vẫn từng chòm râu bạc rưng rưng trong tiếng kèn trống tiếc thương người đã khuất não nề. Những là cột lớn cây nhỏ trong ngoài ngôi đại điện đều được thắt những dải khăn tang trắng bay phơ phất trong ngọn gió hiu hiu lạnh.
*
Dương Đình Nghệ sau buổi về Phong Châu dự tang Kiều công tiện đường ghé qua châu Đường Lâm đốt hương thắp nến trước bài vị châu mục Ngô Mân. Mới ba năm không gặp, hai cháu ngoại Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn đã cao lớn lắm. Hai tiểu điệt họ Ngô được các vị bô lão và những thầy giỏi trong vùng đất Đường Lâm rèn cặp chữ nghĩa kiếm cung tinh tiến từng ngày. Cứ xem cách thủ lễ với các bậc bề trên nghiêm cẩn trước sau, thần thái khiêm nhường, Dương công trong bụng mừng lắm. Khi mọi người ra ngoài hết, Dương công mới thong thả bảo với con gái Dương thị:
– Con là phận nữ nhi về làm dâu nhà họ Ngô, dẫu có công sinh được hai quý tử nhưng phải biết giữ gìn trước sau mới khỏi thẹn họ Dương chúng ta. Họ Ngô ở Đường Lâm cũng như họ Dương chúng ta ở Ái Châu đều lấy đức làm đầu, suốt đời vì muôn dân lập nghiệp. Nay ta thấy các cháu đã lớn khôn lại được các bậc phụ lão, huynh đệ Đường Lâm hết lòng rèn cặp quả là phúc lớn cho hai họ Dương-Ngô chúng ta. Quyền nhi nay đã vì ta mà vào kiêm quản Ái Châu tạo thế ỷ dốc với La thành, họ Dương mới có thể vững vàng ở ngôi cao được. Đạo lý đó con phải luôn ghi nhớ ở trong lòng. Phận làm dâu phải lấy hiếu thuận làm đầu. Ta xem hai đứa cháu đều có khí chất làm chủ tướng sau này, con hãy thay mặt Quyền nhi giáo dưỡng chúng cẩn thận mới được.
Dương thị cúi đầu xúc động nói:
– Con xin vâng lời cha dạy! Đạo nghĩa vợ chồng dẫu núi sông cách trở con nào dám một phút lơ là. Chỉ thương cho tướng công, từ bé đã mất mẹ, lớn lên lại phải xa cha, suốt đêm ngày chỉ nghĩ tới việc binh lương, nay dẫu buổi thái bình cũng là kẻ ở Ái Châu người ở Đường Lâm xa xôi trăm dặm. Cũng may có Xương Ngập, Xương Văn vừa hiếu nghĩa, vừa chịu luyện rèn, khiến con cũng vợi đi phần nào tủi cực.
Dương Đình Nghệ lại nói:
– Để cho các con kẻ Bắc người Nam, đúng là lỗi của bậc cha mẹ như ta. Ngặt một việc, Ái Châu là vùng đất căn bản của Dương gia, nếu không có tướng giỏi kiêm quản ắt sẽ sinh chuyện. Xưa nay, ta nào có màng ngôi cao bao giờ đâu? Chẳng qua lũ giặc làm điều càn rỡ khiến ta phải vì nước mà đương đảm việc lớn. Nếu như Dương Tam Kha được bằng Ngô Quyền, ta đã sớm trao trọng trách cho nó để về Ái Châu yên ổn tuổi già, cho vợ chồng con đoàn tụ bên nhau ở Đường Lâm, ta mới khỏi áy náy. Điều này rồi dần dần để ta tính đến.
Sau nửa tuần trăng ở Đường Lâm thăm hỏi, thưởng vàng lụa cho các vị hương thân phụ lão trong vùng, lại xem xét việc học hành văn võ của Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn rất cẩn thận, trước khi cùng đám tuỳ tùng văn võ trở về thành Đại La, Dương Đình Nghệ cho gọi Dương thị cùng hai con vào căn dặn:
– Ta đã xem xét kỹ. Đường Lâm trước sau đều là đất phát vương. Nay con thay mặt Ngô tướng quân tỏ lòng hiếu thuận ở Đường Lâm cũng là tạo phúc phận sau này cho Dương gia chúng ta. Lại thấy lòng người Đường Lâm đều hướng về Ngô tướng càng đáng mừng vậy. Con nên nhớ kỹ, đạo lý ở đời không gì bằng ân đức. Đạo nghĩa vợ chồng càng phải sau trước giữ gìn. Mai kia, Xương Ngập, Xương Văn trưởng thành cũng là lúc lời ta ứng nghiệm vậy.
Dương thị lắng nghe không nói. Dương công đặt hai tay lên vai các cháu có ý khuyến khích mọi người.
Ngô Xương Ngập mạnh dạn quỳ tâu:
– Ông ơi! Hai năm nữa cháu tròn mười bảy tuổi ông hãy cho phép cháu vào Ái Châu phụ giúp gia phụ được không?
Dương Đình Nghệ cười hiền nói:
– Cái thằng bé này! Việc của cháu là học rèn sao cho tinh tiến không phụ công cha mẹ. Nhất định mấy năm nữa ông sẽ cho cháu xuống thành Đại La làm tướng giống cha cháu xưa kia. Cả Xương Văn nữa, hai cháu ta sau này nhất định phải có bản lĩnh của họ Ngô, họ Dương, phải là những trọng thần lương tướng lưu danh sử sách mới được.
Khi Dương Đình Nghệ và các văn thần võ tướng rời khỏi Đường Lâm rồi, mẹ con Dương thị cùng các vị phụ lão còn vương vấn mãi những lời căn dặn của Dương công.
*
Đây nói tiếp chuyện Kiều Công Tiễn ở Phong Châu.
Sau khi chôn cất Kiều công, các vị bô lão cùng văn võ thành Phong Châu suy tôn Kiều Công Tiễn lên làm châu mục kiêm quản các việc ở Phong Châu. Kiều Công Tiễn ban thưởng trọng hậu cho các vị bô lão, các tù trưởng, sách động, hào trưởng trong vùng, cho miễn thuế khóa nửa năm, lại cho mở kho ban phát thóc gạo cho muôn dân trong ngoài thành khiến lòng dân càng nhớ ân đức của họ Kiều. Kiều Công Tiễn phong con trưởng Kiều Công Chuẩn cùng viên đô tướng Đỗ Tử Bình làm chánh phó tướng kiêm quản quân doanh thuỷ bộ ở Bạch Hạc. Ngày trước, sau đại thắng La thành, tuân theo ý Kiều công, Công Tiễn cho rút phần lớn binh lực về Bạch Hạc đóng trại liên hoàn thủy bộ như cũ chỉ để lại ba ngàn quân tướng ở La thành theo hầu Dương Đình Nghệ.
Trong đám quan văn ở thành Đại La, đã mấy lần chủ bạ Đoàn Thành khuyên Dương công rút bớt binh lực của các châu mục bên ngoài, song họ Dương đều chưa đồng ý. Thực lực khi đó, binh tướng Phong Châu, Đằng Châu, thuỷ bộ đều rất mạnh. Không phải Dương Đình Nghệ không lường trước việc các châu mục trong tay nắm binh quyền dễ sinh kiêu loạn, song họ Dương luôn cho rằng đất nào chủ nấy, hễ là người An Nam tự đứng ra kiêm quản cũng là lẽ thường. Nếu không làm khéo để nội bộ bất hòa dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt chỉ có lợi cho phương Bắc. Chính vì vậy, binh tướng các châu ngày càng lớn mạnh.
Trong thời gian một năm chịu tang cha, Kiều Công Tiễn một mặt củng cố hai ban văn võ trong thành Phong Châu, cho tuyển mộ những bậc hiền tài khắp nơi về bổ dụng, lại kén chọn trong đám tuỳ tướng những kẻ mưu lược cản đảm đều phong làm đô tướng sai đi trấn nhậm các nơi hiểm yếu. So với Kiều công khi trước, Kiều Công Tiễn chú trọng việc binh lương hơn cha rất nhiều. Họ Kiều cho xây dựng các kho lương, mở thêm lò rèn luyện sắt, lại sai người đi các nơi tuyển thợ giỏi đẵn gỗ xẻ đá dựng nhiều nhà lớn.
Hôm trước, khi vừa rời quân doanh Bạch Hạc về thành Phong Châu, bỗng viên tuỳ tướng vào bẩm báo có một vị đạo trưởng muốn xin gặp.
Kiều Công Tiễn cho mời vào trong đại điện an tòa chủ khách đâu đấy mới hỏi:
– Lão tiên sinh từ đâu tới, có điều gì muốn chỉ giáo cho ta chăng?
Vị khách mới đến trạc sáu mươi tuổi, dáng người to lớn nhưng thanh thoát, tay chống gậy trúc, đầu chít khăn vàng nhìn rất kỹ vào Kiều Công Tiễn giơ tay bấm đốt rồi tươi cười hoan hỉ nói:
– Tướng quân dáng vẻ phi phàm, sau này sang quý vinh hiển lớn lắm. Lão phu vốn theo lời sấm chuyền đến đây xin yết kiến. Quả thật phúc thay! Phúc thay!
Kiều Công Tiễn thấy vị đạo trưởng lời nói ẩn ý sâu xa song vẻ mặt vẫn thản nhiên mới dè dặt hỏi:
– Họ Kiều nhờ muôn dân làm chủ đất Phong Châu đã nhiều đời cũng là sang quý tột đỉnh rồi còn muốn gì hơn nữa? Tại hạ chỉ muốn được yên ổn cùng muôn dân Phong Châu mà thôi.
Vị đạo trưởng nghiêm nghị nói:
– Ân đức của họ Kiều đã nhuần khắp Phong Châu, nhưng có lẽ nào tướng quân chỉ mãi muốn làm rùa già trên núi? Phong Châu là đất phát vương, xưa kia mười tám đời vua Hùng đều làm chủ thiên hạ, nay lẽ nào họ Kiều chỉ cam phận xưng thần không thấy hổ thẹn hay sao?
Kiều Công Tiễn vội nghiêm mặt nói:
– Mong đạo trưởng đừng nói những lời mất nước như thế. Kiều Công Tiễn ta tuy bất tài, quyết không thể là phản tặc được. Người đâu, hãy đem chút tiền vàng tiễn đạo trưởng cho ta.
Vị đạo trưởng phất tay áo cười lên ba tiếng không thèm động đến tiền vàng cứ thế đi thẳng ra ngoài sảnh còn nói:
– Có khí số làm chủ thiên hạ mà không làm tất không tránh được vạ trời đâu.
Khi vị đạo trưởng đi rồi, Kiều Công Tiễn còn vân vi mãi.
*
Tin Kiều Công Tiễn trong một năm chịu tang cha lại chuyên việc sửa sang thành trì, luyện sắt trữ lương, tăng cường ba quân thủy bộ, dựng kho tàng lớn đã mấy lần vang đến thành Đại La. Dương Đình Nghệ vốn đã gạt đi song chủ bạ Đoàn Thành ba bốn lần khuyên can Dương công hãy mệnh lệnh cho Phong Châu giảm bớt binh lực thủy bộ tránh kẻ rèm pha. Dương Đình Nghệ trước sau đều nói:
– Ta lấy bụng thực đãi người, lẽ nào người lại ăn ở hai lòng với ta. Nay Kiều công mới mất, đã sớm không tin tưởng lẫn nhau là cái họa sát thân đấy. Các ngươi không được nghi ngờ nữa.
Các tướng văn võ thấy chủ ý của Dương Đình Nghệ chỉ biết than thở trong lòng.
Ở Phong Châu, sau một năm chịu tang, Kiều Công Tiễn đang chuẩn bị cùng các tuỳ tướng trở lại thành Đại La, bỗng đâu nửa đêm trời không mưa gió đột ngột vang lên ba tiếng sét cực lớn đánh đổ hàng cột cái ngôi đại điện thủ phủ Phong Châu.
Kiều Công Tiễn lòng dạ hoang mang, nhớ lời của vị đạo trưởng hôm trước vội cho người đi tìm mấy ngày không thấy.
Đang lúc buồn bực, bỗng có tin đạo trưởng cho người gửi tới thành Phong Châu một phong thư dán kín, ngoài bìa đề chỉ Kiều Công Tiễn mới được mở.
Trong thư là một bài thơ ẩn ý sâu xa:
Trái ý cao xanh họa xuống đầu
Mang mang sương khói biết về đâu
Việc đời hậu thế năm bảy hướng
Tội nhân thiên cổ mịt mùng đau.
Kiều Công Tiễn một mình xem đi xem lại bài thơ không dám chia sẻ với ai.
Kể từ ngày bị lời thơ ám ảnh, Kiều Công Tiễn một mặt dâng thư xin ở lại Phong Châu thêm thời gian chịu tang cha một mặt vẫn có ý tìm vị đạo trưởng để hỏi cho ra nhẽ song vẫn chưa tìm gặp được. Lại có nguồn tin riêng cho biết, các quan văn võ trong thành Đại La đã nhiều lần đàn hặc chuyện Phong Châu dựng thêm thành lũy, rèn sắt trữ lương khiến Dương Đình Nghệ phải khó xử trong lòng. Có người còn bàn rằng phải mau triệu Kiều Công Tiễn về thành Đại La giết đi trừ hậu họa càng khiến họ Kiều lòng như lửa đốt. Đang còn dùng dằng chưa quyết, bỗng đâu vị đạo trưởng hành tung kỳ bí lại gửi cho Kiều Công Tiễn một phong thư nữa.
Họ Kiều đuổi hết tả hữu ra ngoài rồi mới mở.
Thư vẻn vẹn chỉ có năm chữ:
–  Tiên hạ thủ vi cường.
Kiều Công Tiễn toàn thân toát hết mồ hôi thở dài thườn thượt.
Mấy hôm sau, Kiều Công Tiễn cho triệu riêng hai tướng Kiều Công Chuẩn và Đỗ Tử Bình về Phong Châu, lại dặn phải đi ngay trong đêm vào thẳng tướng phủ. Hai tướng còn chưa hiểu chuyện gì, Kiều Công Tiễn đích thân đưa hai phong thư của vị đạo trưởng cho hai tướng xem.
Cả hai đọc xong khuôn mặt ai nấy đều thoắt tái lại rồi bừng đỏ. Đỗ Tử Bình vốn là viên tướng thân cận trước đây luôn theo sát Kiều Công Tiễn quá hiểu tính tình họ Kiều, dè dặt nói:

– Cứ như ngu ý của mạt tướng, hai phong thư này tuy ẩn tình sâu xa song đều là xúi giục tướng quân gạt bỏ tình riêng làm đại sự. Binh tướng Phong Châu ta vốn mấy đời độc lập với Đại La thành. Dẫu Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ lòng dạ rộng lượng không nghi kỵ binh tướng Phong Châu, song đám văn thần chỉ quen tọc mạch chắc đã từ lâu muốn tước bỏ bớt binh mã các châu quận thì việc hết cáo thỏ bẻ cung tên cũng là lẽ thường tình. Tướng quân phải cẩn thận lắm mới được.
Kiều Công Chuẩn đọc đi đọc lại hai lá thư mãi mới nói:
– Xét các việc trong thành Đại La, phụ thân làm đại tướng được giao trọng trách canh giữ bốn mặt thành, quân quyền không phải nhỏ. Bọn người Ái Châu kia vốn đã từ lâu muốn độc chiếm An Nam, chỉ ngặt vì từ xưa đến nay vẫn nhìn trước ngó sau đấy thôi. Ở Đằng Châu, cha con Phạm Lệnh Công cẩn thận giữ mình. Ngô tướng quân vốn anh hùng cũng đã bị điều vào Ái Châu không cho ở đất Đường Lâm. Chỉ duy có phụ thân binh mạnh lương nhiều khiến bọn văn thần trong thành Đại La không yên tâm đêm ngày xúc xiểm. Có lẽ nào đây là kế hiểm của bọn chúng khiến Phong Châu nôn nóng để chúng lấy cớ mà giải giáp binh tướng chúng ta hay sao?
Kiều Công Tiễn ngẫm ngợi rồi nói:
– Ta vốn muốn yên bình cũng là để cho thiên hạ thái bình nhưng lòng trời khó đoán. Nay chỉ còn cách rút bỏ binh tướng, tháo dỡ thành trì, cam tâm tình nguyện xuống Đại La làm viên tướng nhỏ coi sóc việc canh gác cổng thành mới giữ được mình vậy.
Đỗ Tử Bình giận dữ nói:
– Nếu Dương chúa đã có ý dung túng để bọn hạ quan xúc xiểm tuyệt tình, ta càng nhẫn nhịn càng là lùi vào con đường chết đó.
Kiều Công Tiễn nghiêm nghị nói:
– Ta nửa đêm cho gọi hai tướng mật đàm không phải hễ nói lùi là lùi, xuống ngay đâu. Họ Kiều ta bao nhiêu năm hùng cứ ở Phong Châu cũng là vì muốn yên ổn đại cục. Nay thế thời thay đổi, ta sẽ tuỳ cơ hành sự. Các ngươi hãy sớm trở về quân doanh, tiếp tục mộ binh trữ lương, thao luyện quân thuỷ bộ cho thuần thục. Không có thực lực trong tay, dẫu mưu cao kế sâu đến đâu cũng chỉ biết giương mắt ra nhìn người ta cưỡi đầu cưỡi cổ mà thôi.
Hai tướng thấy Kiều Công Tiễn nói những lời đầy ẩn ý, biết rằng chủ tướng đã có quyết tâm bèn ngay trong đêm trở về Bạch Hạc.
*
Dùng dằng đến mấy tuần trăng, Kiều Công Tiễn chưa chịu rời Phong Châu về thành Đại La khiến những lời bàn tán mỗi lúc thêm nhiều. Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ mấy tuần gần đây luôn mộng mị bất an. Nhân lúc mùa nước lên, Dương công cho người đưa thư xuống Đằng Châu hẹn với Phạm Bạch Hổ để đội chiến thuyền bến Giang Biên xuống cửa bể Đằng Châu thao luyện.
Nhận được thư, Phạm Bạch Hổ mừng lắm, vội cho người hồi đáp, một mặt chấn chỉnh thuyền bè, khí cụ, chiêng trống, cờ xí, lại cho người xếp sẵn vài trăm sọt đạn đá đồng thời đắp các chiến luỹ dọc hai bên bờ sông để quân sĩ thao luyện.
Khi đoàn chiến thuyền chuẩn bị rời bến Giang Biên, Dương công đột nhiên thấy xây xẩm mặt mày bèn cho gọi quan chủ bạ Đoàn Thành vào căn dặn:
– Ta vốn định đi Đằng Châu với các tướng một chuyến xem thao luyện thuỷ binh, nhưng nay đột nhiên trong người khó ở không thể đi được. Tiên sinh hãy thay ta đi cùng tướng sĩ, tiện thể biên chép những điều trông thấy để sau này tiện việc rèn luyện thủy  binh.
Đoàn Thành vâng dạ lui ra trong lòng không khỏi lo lắng nhưng việc thao luyện đã chuẩn bị từ mấy tháng trước không thể nhỡ nhàng, bèn cùng Dương Tam Kha lên đội chiến thuyền xuôi dòng sông Cái xuống Đằng Châu.
Đội binh thuyền vừa khuất dạng nơi cuối sông cũng là lúc có tin bẩm báo Kiều Công Tiễn sau gần hai năm chịu tang cha đã trở về thành Đại La xin vào gặp. Dương Đình Nghệ mừng lắm, vội cho gọi họ Kiều vào tướng phủ.
Kiều Công Tiễn sụp lạy đâu đấy rồi cảm khái tâu:
– Bẩm chúa công, người đã gia ân cho gọi mạt tướng về sai bảo, nay đến chậm xin chúa công trị tội. Họ Kiều ở Phong Châu xưa nay chỉ biết yên phận giúp quân tướng thành Đại La dưỡng dân mở đất sổ sách lương tiền gửi về không dám sai chậm. Mạt tướng nghe nói trong hai ban văn võ có ý nghi kỵ lòng trung thành của họ Kiều với chúa công. Nay mạt tướng đã mãn hạn tang cha, nếu chúa công tin dùng lại sai bảo như cũ quyết không dám ăn ở hai lòng. Còn nếu như chúa công muốn giết mạt tướng để yên lòng quân, Công Tiễn đây cũng xin được cam tâm tình nguyện để khỏi nhục mệnh gia phụ và muôn dân phụ lão Phong Châu.
Dương Đình Nghệ vội đỡ Kiều Công Tiễn, ân cần nói:
– Tướng quân chớ có nghe người đời đồn đại mà tự trách mình rồi làm điều dại dột. Ta với gia phụ là chỗ huynh đệ cật ruột, lại đã nhận ngươi làm nghĩa tử cả thiên hạ đều biết, lẽ nào còn chưa đủ tin cậy hay sao? Bọn văn thần xúc xiểm ly gián người hiền, nay mai sau cuộc thao luyện thuỷ quân ở Đằng Châu trở về ta sẽ tra xét trị tội. Ngươi hãy sớm nhận lại chức cũ, chấn chỉnh quân doanh, giữ nghiêm kỷ cương bốn cổng thành như trước. Chỉ cần nay mai ta thân đến doanh trại của ngươi ở cửa Bắc thành uý lạo tướng sĩ tất sẽ xoá tan mối hiềm nghi của bọn nịnh thần.
Kiều Công Tiễn lạy tạ trở về quân doanh.
Suốt đêm, Kiều Công Tiễn không hề chợp mắt. Việc các văn thần võ tướng nghi ngờ xúc xiểm họ Kiều với Dương Đình Nghệ đích thân Dương công đã nói thẳng ra chứng tỏ gần hai năm qua đã có không ít lời xui phải hạn chế bớt binh quyền của các tướng, các châu mục, sách động. Luôn mấy năm, việc Dương Đình Nghệ tăng cường sức mạnh thuỷ quân, giao Ngô Quyền, Đinh Công Trứ vào Ái Châu, Hoan Châu mộ binh trữ lương, một mặt đám quần thần gây áp chế tước bỏ binh mã thuỷ bộ Phong Châu chính là mối họa lớn của họ Kiều. Từ trước tới nay, Kiều Công Tiễn ta dẫu chưa sai sót song lòng muôn dân Phong Châu hướng về, thành trì dày vững, thóc gạo đủ đầy, lại có nhiều binh tướng chắc chắn đã là cái gai cần phải nhổ trong mắt các tướng sĩ thành Đại La. Nay toàn bộ thuỷ quân cùng phần lớn văn võ trong thành đã xuôi hết xuống Đằng Châu thao luyện quả là thời cơ hiếm thấy. Lời bài thơ cứ văng vẳng trong đầu: Trái ý cao xanh họa xuống đầu/ Mang mang sương khói biết về đâu/ Việc đời hậu thế năm bảy hướng/ Tội nhân thiên cổ mịt mùng đau. Lại lời nói đầy ẩn ý của lão đạo trưởng cứ như những mũi kim châm chích thẳng vào đầu Kiều Công Tiễn. Tới gần sáng, năm chữ trong phong thư của lão đạo trưởng như in hằn vào tim óc họ Kiều: Tiên hạ thủ vi cường càng khiến Kiều tướng quân lòng dạ bất an. Kiều Công Tiễn đi đi lại lại trong quân doanh tới gần hết đêm bất thần ngồi vào bàn viết một phong thư tờ mờ sáng lập tức cho gọi thân tín đem về Bạch Hạc.
*
Quân doanh trại liên hoàn thuỷ bộ nơi ngã ba sông Bạch Hạc đất Phong Châu.
Mấy hôm trước, khi được tin chủ tướng Kiều Công Tiễn cùng đám tuỳ tùng lên đường vào thành Đại La, hai tướng Đỗ Tử Bình, Kiều Công Chuẩn trong lòng rất lo lắng. Lời lẽ hai bức thư của lão đạo trưởng luôn ám ảnh chờn vờn trong đầu óc khiến Đỗ Tử Bình và Kiều Công Chuẩn lo nghĩ mãi không thôi. Đã từ lâu, chủ trương tăng cường binh lực của Phong Châu luôn là vấn đề đàn hặc của quan tướng thành Đại La. Từ thời các chúa họ Khúc trị nhậm đều giả bộ như không biết, vẫn phân phong quyền tự chủ cho các châu quận, đặc biệt ưu ái với vùng đất Phong Châu. Đến khi Lý Khắc Chính, Lý Tiến vâng mệnh Hán đế xua binh sang đánh chiếm thành Đại La cũng để mặc Phong Châu tự chủ. Nay Dương Đình Nghệ từ Ái Châu, nhân đuổi được giặc Hán lên giữ ngôi cao nhưng thực lòng binh tướng Phong Châu chỉ biết có họ Kiều mà thôi. Nay vạn nhất quân thần nghi ngờ hãm hại lẫn nhau chỉ có thể lại nồi da xáo thịt. Nghĩ lại những lời căn dặn của chủ tướng Kiều Công Tiễn đêm hôm trước, hai tướng Đỗ Tử Bình, Kiều Công Chuẩn bèn cho các chủng quân thuỷ bộ, kỵ binh, voi trận các doanh sẵn sàng đợi lệnh. Hai tướng lại cho vận chuyển lương thảo, gỗ đá lên các chiến thuyền sẵn sàng theo dòng Thao giang xuôi Bạch Hạc xuống sông Cái. Đang cắt đặt việc quân, bỗng tuỳ tướng vào báo có người của chủ tướng Kiều Công Tiễn đem thư tới dặn riêng chỉ hai tướng Đỗ-Kiều được mở.
Vào trong trướng hổ, đuổi hết tả hữu ra ngoài, Đỗ Tử Bình bóc phong thư ra. Họ Đỗ đọc đến đâu mặt thoắt đỏ bừng rồi thoắt tái đi lại đỏ.
Đỗ Tử Bình đưa phong thư cho Kiều Công Chuẩn vừa nói:
– Chủ tướng đã hạ quyết tâm hành động rồi!
Kiều Công Chuẩn đọc xong lá thư, tâm can chấn động mãi mới thốt nên lời:
– Phụ thân đã hạ quyết tâm, mạt tướng dẫu gan óc lầy đất quyết dẫn toàn bộ binh thuyền thủy bộ hai đường xuống Đại La ngay đêm nay.
Đỗ Tử Bình quả quyết nói:
– Ta đã từ lâu thấy trước hùng tâm tráng chí của chủ tướng, chỉ là vì chưa có thời cơ ra tay mà thôi. Nay đại bộ phận binh tướng thành Đại La đi thao luyện thuỷ quân ở Đằng Châu, La thành chỉ là một tòa thành trống. Chủ tướng đã nhiều năm kiêm quản bốn mặt thành, dẫu họ Dương có mọc cánh cũng đừng hòng bay thoát. Ta và tướng quân hãy chia hai đường thuỷ bộ ngay đêm nay lặng lẽ tiến xuống thành Đại La. Người Phong Châu chúng ta cũng đã đến lúc mở mày mở mặt rồi.
*
Buổi tối trong quân doanh nơi cổng Bắc thành.
Từ chiều, Kiều Công Tiễn cùng mấy viên tướng dùng thuyền nhẹ đi thám sát các hào nước vừa về đến quân doanh cũng là lúc có tin báo buổi tối đích thân Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ tới uý lạo binh sĩ Phong Châu nơi cửa Bắc thành. Kiều Công Tiễn vào trong trướng hổ cho gọi mười viên tướng tâm phúc ở các đô quân vào nghị sự. Họ Kiều một mặt cho chuẩn bị các món ăn mà đức ngài Tiết độ sứ thường ưa thích, lại cho chuẩn bị hơn chục vò rượu từ Phong Châu đưa xuống còn gắn xi liêm phong. Đám đô tướng trong trướng hổ ai nấy đều cố nén vẻ căng thẳng mau chóng người nào việc nấy theo lời chỉ dạy của Kiều Công Tiễn. Xưa nay, đối với những người tâm phúc, họ Kiều thường không tiếc chức tước vàng lụa ban thưởng, nên mỗi khi có việc, dẫu là núi đao biển lửa, đám tuỳ tướng cũng quyết xông vào.
Sắp đặt đâu đấy xong xuôi cũng vừa lúc bên ngoài báo vào Dương Đình Nghệ đã rời đại điện. Kiều Công Tiễn vội chạy ra ngoài nghênh đón. Thấy Kiều Công Tiễn vẫn còn mặc giáp phục, Dương Đình Nghệ không khỏi áy náy phán bảo:
– Có việc gì ngươi hãy phân phó cho các tướng tuần tiễu là đủ rồi. Thân làm đại tướng, cũng phải biết nghỉ ngơi giữ gìn mới được.
Kiều Công Tiễn lạy tạ cùng đám đô tướng đón Dương công và các tuỳ tùng vào trong trướng hổ, đoạn sai người rót rượu kính dâng lên.
Trong trướng hổ, Kiều Công Tiễn cùng các đô tướng thay nhau chúc rượu Dương công. Vốn là võ tướng, lâu ngày bị đám quan văn ngăn cản khuyên can trong việc giữ gìn ăn uống, nay ở với đám đô tướng, Dương Đình Nghệ như được trở về thời trai trẻ uống rượu bát lớn, thao luyện quân sĩ đánh giết nơi sa trường nên liên tiếp cạn hết chung này đến chung khác khiến đám tả hữu đi theo vô cùng sợ hãi cất lời can gián bị Dương công nổi giận đuổi sạch ra ngoài. Rượu mãi tới gần nửa đêm, khi Dương công đã say không còn biết trời đất gì nữa cũng là lúc Kiều Công Tiễn phất tay áo lui vào bên trong. Nhận được ám hiệu, đám võ sĩ trực sẵn xông vào đè nghiến Dương Đình Nghệ cứ thế thắt cổ cho đến khi họ Dương không còn động cựa gì nữa.
Đúng lúc đó, trên không trung Đại La thành, tiếng sấm sét nổi lên kinh thiên động địa. Trời đang trăng sáng lờ mờ bỗng tối sầm lại đến nửa khắc. Thương thay Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, cả đời anh hùng, toàn thân đởm lược giương cao cờ nghĩa đánh đuổi Hán triều giành lại quyền tự chủ cho nước bỗng một phút sa cơ không sớm nghe lời can gián của cận thần bị chính tên nha tướng, người nhận mình là bố nuôi âm thầm hãm hại. Khí tiết, tấm lòng trung chính, độ lượng như trời bể của Tiết độ sứ họ Dương đã khiến đất trời cảm động, muôn dân căm hận họ Kiều để đến nỗi các vùng đất An Nam lại một lần nữa nổi trận phong ba.
Sau phút bàng hoàng nghe đám tuỳ tướng bẩm báo đã giết được Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn để nguyên giáp phục, cho triệu tất cả các tướng vào trướng hổ. Mặc thi thể của Dương Đình Nghệ hãy còn ấm nóng, Kiều Công Tiễn nghiêm giọng nói:
– Ta nay dẫu một dạ trung thành, song chẳng may chúa công quá chén bạo bệnh ngay trong quân doanh của ta, binh tướng Ái Châu chẳng đời nào đội trời chung với người Phong Châu ta nữa. Nay chỉ còn một cách, các ngươi hãy theo ta đắm đò giặt mẹt, công bố Dương Đình Nghệ mang tội soán nghịch, hổ thẹn với họ Khúc đã thắt cổ tự tận. Binh tướng Phong Châu hãy theo ta vào thành chủ trì đại cuộc. Ta đã sớm cho người về Bạch Hạc trưng tập ba quân thuỷ bộ đang trên đường tiến xuống La thành, chỉ sớm mai tất tới nơi. Các tướng hãy mau dùng lệnh bài của Dương Đình Nghệ triệu hai tướng Lê Lân, Trịnh Báo còn đang thống suất tượng binh giết đi để trừ hậu họa. Thuỷ quân La thành còn đang thao diễn nơi cửa biển có kéo về được cũng phải mất nửa tuần trăng. Nay họ Dương khí số đã tận, đại thế đã mất, việc làm chủ Đại La thành, làm chủ An Nam không phải họ Kiều ta cùng các tướng thì còn ai vào đây nữa? Các ngươi hãy nguyện cùng ta dốc sức, mai này sẽ luận công ban thưởng, được ghi vào sử sách, chẳng phải không thẹn với tiên tổ người Phong Châu hay sao?
Chúng tướng dạ ran chia nhau đi các cổng thành canh giữ cẩn mật, một mặt xông tới trại tượng binh nhưng không tìm được Lê Lân, Trịnh Báo. Nguyên Lê Lân từ chập tối bụng dạ nóng ran liền vào tìm Dương Đình Nghệ, thấy đám gia nhân bảo Dương công đi uý lạo binh sĩ cửa Bắc thành càng ngồi đứng không yên, nửa đêm cho gọi Trịnh Báo cùng đi tìm chúa công. Khi tiếng sấm sét nổi lên ầm ầm cũng là lúc tin Dương Đình Nghệ bạo bệnh trong quân doanh Kiều Công Tiễn, hai tướng Lê-Trịnh biết đã có biến, vội vã cải trang làm dân thường trốn ngay ra ngoài thành kiếm chiếc thuyền nhỏ bơi thẳng về phía Đằng Châu.
Sáng hôm sau, khi muôn dân trong thành còn đang bàn tán tiếng sấm chớp nửa đêm hôm trước không biết là điềm gì, đã thấy bốn phía cổng thành, trong ngôi đại điện, lá cờ họ Dương đã bị hạ đi từ lúc nào thay vào đó là những lá cờ cực lớn thêu chữ Kiều bay phần phật trong gió sớm. Dân trong thành càng hoang mang hơn khi vừa sáng sớm, phía ngoài thành, hàng vạn binh tướng từ Phong Châu kéo xuống cờ xí rợp trời. Mọi người còn chưa hết kinh động, lại thấy từ phía sông Cái áp sát đầm Sương Mù, hơn trăm chiến thuyền mang cờ hiệu Phong Châu thẳng tiến xuống bến Giang Biên xếp thành đội ngũ rất hùng tráng.
*
Đây lại nói tiếp chuyện ở Ái Châu.
Luôn mấy năm liền, theo mệnh lệnh của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền đêm ngày dốc sức cùng các tướng kiêm quản mọi việc không dám lơ là. Luôn mấy hôm liền, Ngô tướng quân thấy trong mình không được khỏe thường dậy từ rất sớm một mình bồn chồn đi lại nơi tướng phủ. Đã mấy tháng liền không nhận được tin tức gì từ thành Đại La cũng như ở châu Đường Lâm càng khiến Ngô tướng quân ngẫm ngợi. Gần hai năm trước, khi được tin Kiều công qua đời, Ngô tướng quân đã toan ra thăm viếng sau lại nhận được lệnh cứ ở Ái Châu không cần ra vội khiến trong lòng họ Ngô có đôi chút áy náy. Mấy năm gần đây, đã có không ít điều tiếng của bọn quan văn về sự lớn mạnh của binh tướng Phong Châu. Ở đời đêm dài lắm mộng, dẫu không muốn phản mà cứ mãi nghi ngờ cũng là đẩy người khác vào bước đường cùng. Dẫu Dương Đình Nghệ đường đường chính chính kiêm quản La thành do được các châu mục suy tôn, song hẳn lòng người Phong Châu vốn chỉ chịu ơn mưa móc của họ Kiều không dễ gì xuôi thuận. Họ Kiều nếu có lòng dạ khác, binh xa không cứu được lửa gần tất nhạc phụ nguy mất. Suy nghĩ trước sau cũng chỉ dám để ở trong lòng. Còn đang buồn bực, bỗng đâu chim bồ câu đưa thư mình mẩy ướt đẫm bay sà xuống đậu trước mặt Ngô tướng quân. Nhác nhìn chim câu có điểm hồng giữa trán, Ngô tướng quân chợt chau mày nhận ngay ra thư khẩn của Lê Lân. Đã từ lâu theo Ngô Quyền luyện voi ở Ái Châu, Lê Lân không chỉ dũng mãnh thuần phục voi rừng mà còn có tài nuôi loài chim câu điểm hồng vốn vô cùng kén chủ.
Lê Lân và Trịnh Báo, khi đã ngồi chắc trên chiếc thuyền nhỏ gấp tay chèo xuống Đằng Châu, họ Lê đã lập tức nghĩ phải báo gấp tin về Ái Châu cho Ngô Quyền. Việc biến loạn bỗng chốc xảy ra nếu không sớm báo tin cho Ngô tướng quân việc lớn tất không thành. Xưa nay mọi việc xét đoán trong ngoài chúa công thường cho hỏi kế Ngô tướng quân. Dương Tam Kha dẫu là con ruột đang thống suất thuỷ binh nhưng về trí lực tiến thủ đều không bằng Ngô tướng quân. Vạn nhất Dương Tam Kha vì quá đau thương khinh suất về La thành rửa hận mắc vào mưu kế của Kiều Công Tiễn thì họ Dương đến tuyệt tự mất. Vừa nghĩ, Lê Lân vừa cắn ngón tay viết vội phong thư sai chim câu luôn theo sát bên mình bay về báo tin cho Ngô tướng quân.
Vừa đọc hết lá thư viết bằng máu của Lê Lân, Ngô Quyền cả kinh ngã lăn ra đất. Mãi một lúc sau bàng hoàng đọc lại lá thư máu, họ Ngô vội lên đại điện sai tuỳ tướng gióng từng hồi chuông lớn khiến cả vùng xáo động. Hai ban văn võ nghe tiếng chuông dồn từng hồi dài, biết có chuyện chẳng hay vội vàng kéo nhau vào ngôi đại điện. Ngô Quyền râu tóc dựng ngược, tay run run nắm chặt đốc kiếm, một tay cầm lá thư viết bằng máu, nước mắt giàn giụa nghiến răng nói gằn từng chữ:
– Chúa công ở thành Đại La bị tên phản thần Kiều Công Tiễn ám hại rồi.
Văn võ trong ngôi đại điện kinh hãi nhìn nhau không ai dám thốt một lời. Có mấy tên gia nhân sợ quá ngã phịch xuống khiến cốc đĩa rơi vỡ loảng xoảng.
Một vị quan văn cao tuổi run run tiến đến gỡ lá thư trong tay Ngô tướng quân xem lướt một lượt đột ngột ngã lăn ra đất bất tỉnh nhân sự.
Để mọi người bớt kinh động, Ngô tướng quân gạt nước mắt mệnh lệnh:
– Các văn thần võ tướng hãy mau cùng ta triệu tập các bậc lão trượng, thông báo tới cùng khắp ba quân, tới tận thôn cùng xóm vắng tên phản thần Kiều Công Tiễn đã giết hại chúa công tội không thể tha. Ta nay kíp thống suất ba quân lập tức tiến ra La thành hỏi tội phản thần, ta thề bắt sống Kiều Công Tiễn tế vong hồn chúa công mới được.
Lời Ngô tướng quân còn chưa dứt, trong ngôi đại điện tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa Kiều Công Tiễn vang lên ầm ầm. Trời mới mờ sáng, mây đen đã kéo đến mịt mùng. Khí đất bốn phía dâng lên lạnh lẽo. Gió ù ù thổi từng đám sương mù bay là là trên khắp các tàng cây, mái ngói trong ngoài ngôi đại điện. Tiếng chiêng trống, tiếng tù và rú lên từng chặp dài âm i dội vào vách núi. Trong khoảng đất trống rộng thông thống kéo dài đến tận bãi sông vẫn dùng vào việc tập trung quân sĩ, dưới làn mưa rơi lạnh bốn bề, Ngô tướng quân tay gạt nước mắt đứng trước ba quân cùng cúi rạp xuống vái lạy linh hồn Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ vừa bị họ Kiều ám hại ở Đại La thành.
Hồi thứ 9
Kể từ buổi đám quân lén truyền nhau đọc hịch kể tội của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn tính khí bỗng đột ngột trở nên bất thường. Họ Kiều hạ mệnh lệnh đóng tất cả các cổng thành, người ra vào đều cho lục soát rất gắt gao.
HỒI THỨ CHÍN
Thảo phạt nghịch thần, Ngô Quyền trên bành voi đọc hịch
Cùng đường tuyệt mạng, Công Tiễn dâng biểu phục Hán triều
Đây nói tiếp chuyện Kiều Công Tiễn trong thành Đại La.
Sau buổi ám hại Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ tại quân doanh, Kiều Công Tiễn mang binh giáp vào ngôi đại điện một mặt cử bộ tướng ra ngoài thành đón Đỗ Tử Bình theo đường bộ hạ trại tại cửa Bắc thành và Kiều Công Chuẩn theo đường thuỷ hạ trại tại bến Giang Biên. Họ Kiều còn cho người về Phong Châu lấy thêm lương thảo, voi ngựa, gọi thêm văn võ tâm phúc xuống La thành.
Trong thành Đại La, không khí có phần căng thẳng. Mặc Kiều Công Tiễn cho người tuyên cáo Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ nửa đêm mắc chứng phong hàn đột ngột về trời song các quan văn võ và muôn dân đều bàn tán bán tín bán nghi.
Giữ nguyên giáp phục chủ trì họp hai ban văn võ trong ngôi đại điện, Kiều Công Tiễn nghiêm giọng phán bảo:
– Các vị quan tướng trong Đại La thành bất tất phải xì xầm bàn tán sau lưng ta kẻo ngay gian khó định khiến đám tuỳ tướng của ta phải vô lễ. Nay chẳng may chúa công bạo bệnh qua đời đã giao cho ta tạm thống suất binh quyền trong thành Đại La. Phàm mọi việc dân chúng binh lương, các ngươi cứ theo lệ cũ mà làm rồi bẩm báo lại với ta. Phàm kẻ nào không muốn ở lại, ta cho phép tự tiện rời đi quyết không truy cứu. Họ Kiều chúng ta cùng với họ Dương, họ Phạm xưa nay đều là nha tướng của Khúc chúa cả. Nay ai làm chủ thành Đại La cũng là theo ý trời mà thôi.
Kiều Công Tiễn vừa rứt lời, hai ban văn võ sợ sệt nhìn nhau không ai dám nói. Bỗng phía cuối đại điện có một viên quan văn dáng người nhỏ bé, toàn thân mặc đồ tang chạy thẳng lên chỉ vào mặt Kiều Công Tiễn quát:
– Kiều tặc! Ngươi là tên gian thần giết chúa còn mặt mũi nào nói lời vô lễ ở đây. Nếu ngươi không thành tâm hối cải tự trói mình đợi các tướng Ngô Quyền, Dương Tam Kha, Phạm Bạch Hổ về trị tội mai kia sẽ bị voi giày ngựa xéo hối không kịp đâu.
Kiều Công Tiễn rút gươm ra quát:
– Ngươi là ai mà dám xúc xiểm bản tướng, ăn nói hàm hồ không còn muốn sống nữa ư? Đợi họ Phạm họ Ngô về đây phân cao thấp với ta chắc ngươi đã hồn lìa khỏi xác rồi. Bay đâu, mau đem tên hỗn xược này ra ngoài chém đầu thị chúng.
Kiều Công Tiễn vừa rứt lời, đám võ sĩ xông tới lôi vị quan văn ra ngoài mặc người bị kéo đi kêu gào chửi bới ầm ĩ. Chiếc đầu lâu râu tóc dựng ngược bê bết máu đặt trên chiếc mâm đồng bê vào khiến hai ban văn võ mặt mũi tái như chàm đổ không ai dám nói một lời.
Kiều Công Tiễn nói mấy lời thị chúng rồi cho mọi người lui xuống cả. Vẫy đám đô tướng thân cận ở lại, Kiều Công Tiễn nghiêm giọng nói:
– Họ Kiều ta bây giờ đã cưỡi trên lưng cọp rồi, có muốn xuống cũng không được nữa. Ta nay binh lực có dư vài vạn, văn thần võ tướng Phong Châu xưa nay hùng tài đại lược, nào có kém gì sao cứ phải ở dưới người ta mãi. Các ngươi hãy cởi bỏ sợ hãi, quyết cùng vinh cùng nhục với bản tướng quân mới là chí khí của bậc anh hùng.
Các đô tướng đều nắm chặt đốc kiếm đồng thanh hô lớn:
– Chúng tướng xin được nguyện sống chết cùng đại tướng quân!
*
Doanh trại thủy quân của Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu.
Mấy hôm trước, khi tiếp đón đoàn chiến thuyền của Dương Tam Kha xuống cửa biển Đằng Châu chuẩn bị thao luyện thủy quân, Phạm Bạch Hổ thân xuống soái thuyền đón chủ tướng thủy quân họ Dương lên bờ mở tiệc. Luôn mấy năm không gặp, Phạm Bạch Hổ vẫn đường bệ khí phách như ngày trước cùng Ngô tướng quân xông pha tên đạn đốt thuyền chém tướng ở Giang Biên. Phạm Bạch Hổ vốn thành thạo sông nước thủy chiến, từ lâu được Dương Đình Nghệ yêu lắm, đã mấy lần muốn đích thân làm tướng cùng thao luyện với họ Phạm. Ở Đằng Châu, uy danh của Phạm gia trải mấy đời càng dày vững mãi lên. Phạm công dẫu đã trên bảy mươi tuổi song còn tinh anh lắm.
Vừa bước vào quân doanh, nhìn vào trong thấy Phạm công râu tóc trắng như cước đang ngồi sẵn trên chiếc kỷ lớn, Dương Tam Kha vội bước đến thi lễ vái chào:
– Tiểu tướng xin kính chúc Phạm công an khang! Lẽ ra phụ thân cuộc này thân chinh xuống vấn an lão bá song hôm trước đột nhiên trong người không được khỏe đã cử tiểu tướng xuống thay chào Phạm công, mong người xá cho.
Phạm công tươi cười đứng dậy nắm tay Dương Tam Kha:
– Tướng quân quá lời rồi! Lão hủ đây tuổi tác đã cao, vẫn tưởng cuộc này được đón Dương công xuống Đằng Châu ngao du một phen tiện thể xem các tướng bày trận thuỷ binh thao luyện để các lão hủ được mở rộng tầm mắt. Ai ngờ Dương công bận việc nước, giao cho tướng quân xuống Đằng Châu kiểm điểm binh thuyền. Lão hủ đây nhất định mấy bữa nữa xin được theo soái thuyền của tướng quân lên Đại La thành thăm Dương công một chuyến.
Phạm Bạch Hổ thong thả tiếp lời Phạm công:
– Bẩm phụ thân! Dương tướng quân đây hiện nay đang thống suất thủy quân thành Đại La, đã mấy năm nay thành thạo phép đánh thuỷ lắm. Xưa kia, khi Dương chúa cùng Ngô tướng quân vây bốn mặt thành ác chiến ở Giang Biên, binh tướng Đằng Châu đã thấy được oai dũng của Dương tướng quân trong công cuộc đuổi giặc Nam Hán. Nay Dương tướng quân thay mặt chúa công xuống hội binh ở Đằng Châu thao luyện, quả là dịp để binh tướng Đằng Châu mở rộng tầm mắt, kíp sau này có thêm kinh nghiệm thuỷ binh để phò trợ chúa công.
Dương Tam Kha vội tiến ra nói:
– Phạm lão bá, Phạm tướng quân quá khen rồi, tiểu tướng không dám nhận. Bàn về binh pháp thủy bộ, tiểu tướng còn phải học tập Ngô tướng quân, Phạm tướng quân nhiều. Nếu không có hai đại huynh dẫn đầu, việc đuổi giặc Bắc sẽ không có thành tựu như ngày hôm nay đâu.
Ba người đang sôi nổi bàn luận, bỗng ở ngoài viên tuỳ tướng dẫn hai người cao lớn ăn mặc theo lối thường dân hớt hải bước vào nói là tướng ở La thành xin được gặp Dương Tam Kha. Họ Dương thất kinh nhìn ra thấy Lê Lân và Trịnh Báo, hai tướng được chúa công giao cho kiêm quản các đội voi chiến trong thành Đại La.
Dương Tam Kha vụt đứng dậy hỏi:
– Lê Lân, Trịnh Báo! Sao các ngươi lại có mặt ở đây? Đã có chuyện gì sao?
Lê Lân, Trịnh Báo sụp xuống khóc ngất nói trong nước mắt:
– Chúa công… Chúa công đã bị Kiều Công Tiễn sát hại tối qua rồi.
Cả ba người thất kinh cùng xúm đến. Dương Tam Kha quỳ xuống nắm chặt vai Lê Lân hỏi dồn:
– Ngươi nói sao? Kiều Công Tiễn dám giết cha ta rồi ư? Có lẽ nào thế được?
Phạm Bạch Hổ hai tay nắm hai vai Trịnh Báo gần như xách bổng họ Trịnh lên không trung dằn từng tiếng:
– Ngươi ăn nói quàng xiên gì vậy? Có muốn ta lấy mạng ngươi không?
Thấy hai tướng giận dữ bất thường, Phạm công vội ôn tồn nói:
– Hai tướng chớ nóng nảy mà gây thêm chuyện. Hãy bình tĩnh để người ta thuật lại đầu đuôi câu chuyện xem sao.
Bấy giờ, Lê Lân, Trịnh Báo mới hoàn hồn kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, Dương Tam Kha khóc ngất lên rút soạt kiếm nghiến răng nói:
– Thằng phản thần Kiều Công Tiễn quả là lòng lang dạ sói dám vong ơn bội nghĩa giết phụ thân ta. Ta thề dẫn binh về bắt sống ngươi, xẻo thịt ngươi, ăn gan ngươi.
Phạm công mặt đầy biểu cảm nói:
– Dương tướng quân chớ quá đau lòng. Mấy hôm gần đây, lão hủ thấy trong người luôn bồn chồn mất ngủ, lại được tin Dương công đột ngột lâm bệnh, không theo thủy quân xuống Đằng Châu ta đã có phần lo lắng. Nay quả nhiên họ Kiều bất chấp đạo trời, hạ độc thủ Dương công. Mấy năm liền Phong Châu tích trữ binh lương quả đã có lòng dạ khác từ lâu rồi. Ta chỉ đau đớn rằng, người trong một nước hãm hại lẫn nhau sẽ là cái họa mất nước đấy thôi.
Phạm Bạch Hổ trợn trừng cặp mắt đẫm lệ nghiêm giọng dằn rõ từng tiếng:
– Phản thần Kiều Công Tiễn! Ta phải băm xác ngươi ra.
Để cho hai tướng bớt khổ não, Phạm công ôn tồn nói:
– Kiều Công Tiễn bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp mệnh trời chỉ vì hư danh mà làm điều bạo nghịch hẳn đã trù tính từ lâu. Ta chắc rằng giờ này binh tướng thuỷ bộ Phong Châu đã xuống phong tỏa thành Đại La rồi. Nay các tướng tiến lui phải bàn bạc cho kỹ. Việc bắt tên phản thần đền tội là đạo lý phải làm nhưng binh tướng Ái Châu, Đằng Châu giao chiến với binh tướng Phong Châu hẳn không ai muốn đâu. Trước mắt, Dương tướng quân hãy cho người báo vào Ái Châu để Ngô Quyền liệu việc. Lại phải cho người mau chóng lên Đường Lâm báo tin kẻo họ Kiều đi trước một bước bắt toàn bộ Ngô gia làm con tin khiến việc càng thêm rối.
Dương Tam Kha khóc nói:
– Phạm lão bá dạy gì tiểu tướng cũng xin vâng lời, nhưng nay cha ta chết còn chưa lạnh, thân xác còn ở trong tay gian tặc ta còn mặt mũi nào ở lại Đằng Châu nữa. Xin cáo biệt lão bá cùng Phạm huynh, ta sẽ lập tức cùng binh thuyền về ngay Đại La quyết sống chết với gian tặc họ Kiều.
Phạm Lệnh Công và Phạm Bạch Hổ thấy Dương Tam Kha quá đau buồn, sợ cho đem binh về ngay sẽ mắc mưu Kiều Công Tiễn bèn khuyên giải thiệt hơn. Lại biết bọn Lê Lân, Trịnh Báo đã báo tin vào Ái Châu rồi, Phạm Bạch Hổ liền cử ngay mấy viên tướng thân cận dưới trướng giao cho một phong thư bất kể ngày đêm tới Đường Lâm báo tin. Hai tướng Dương-Phạm cho bố cáo toàn trại t thủy quân việc hệ trọng vừa xảy ra, lại cho các chiến thuyền đều để tang Dương Đình Nghệ. Trong quân, tiếng than khóc động trời. Đội ngũ binh thuyền nhất loạt cuốn buồm xếp gọn trên mặt thuyền, thay vào đó là những lá phướn trắng rủ thõng xuống mặt sông.
*
Đây nói tiếp chuyện Ngô Quyền ở Ái Châu.
Trong mưa lạnh, sau khi toàn quân hành lễ tưởng nhớ vong linh Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền cho kiểm điểm toàn bộ binh mã Ái Châu, một mặt cho người vào báo với Đinh Công Trứ ở Hoan Châu.
Vừa chập tối, việc cắt đặt binh mã tạm ổn thỏa đã thấy bên ngoài có người báo Đinh Công Trứ vừa về tới xin vào gặp. Họ Đinh thân chít khăn tang trắng, đôi mắt đẫm lệ vừa nhìn thấy Ngô Quyền đã bưng mặt khóc:
– Ngô tướng quân ơi! Ta đã mấy lần xin Dương công để binh tướng bản bộ của ta canh giữ thành Đại La thì đâu có ngày hôm nay. Người tốt với muôn dân sĩ tốt nhường ấy có ngờ đâu lòng dạ sói lang của họ Kiều. Dương công ơi! Ta không được gặp mặt người nữa rồi…
Ngô Quyền nén đau thương nói với Đinh Công Trứ:
– Đinh tướng quân xin hãy bớt đau buồn. Ta đây cha mẹ chẳng còn, những muốn được ở thành Đại La hầu hạ nhạc phụ gần gũi thê tử mà có được đâu. Nhạc phụ cả đời vì việc nước có sá gì đến sinh mạng của mình. Nay tên phản thần làm điều bạo nghịch, ta phải thân chinh hỏi tội, mong Đinh tướng quân hãy vì nhạc phụ ở lại trấn nhậm Ái Châu, Hoan Châu. Xin Đinh công đừng lỡ chối từ.
– Ngô tướng quân bắt ta ở lại Ái Châu không được đi giết tên phản thần Kiều Công Tiễn khác gì giết chết ta còn hơn.
Vừa nói Đinh Công Trứ vừa khóc rống lên.
Một lúc, đợi để họ Đinh bớt đau buồn, Ngô Quyền mới nói:
– Đinh tướng quân có còn nhớ lời nhạc phụ dặn chăng? Nhạc phụ dạy ta rằng, việc yên ổn nhân tâm, mở mang binh lực không ai bằng Đinh Công Trứ. Nay nhân lúc rối ren, ta lại kéo cả ra thành Đại La, ngộ nhỡ Ái Châu, Hoan Châu sinh biến loạn chẳng phải là giở đi mắc núi giở lại mắc sông để phụ tấm lòng của nhạc phụ ư?
Đinh Công Trứ im lặng một lát rồi gạt nước mắt nói:
– Ngô tướng quân trong lúc đau thương này còn rất sáng suốt. Phản thần Kiều Công Tiễn kia binh lực Phong Châu thủy bộ có đến vài vạn, y lại là kẻ thao lược, còn nhẫn tâm nên không thiếu thủ đoạn. Ta đây dẫu lòng căm phẫn có thừa nhưng đâu phải là địch thủ của hắn. Ta lại sợ rằng, kẻ kia chó cùng rứt giậu mà cầu viện Hán triều, nếu chúng ta cùng xuống cả La thành tất đầu đuôi khó cứu. Ta xin ở lại trấn thủ hai châu, dốc hết binh lương, voi ngựa để tướng quân xuống La thành bắt phản thần.
Ngô Quyền xúc động nói:
– Đại thế sâu xa Đinh tướng quân đều hiểu. Ta xin thay mặt nhạc phụ tạ ơn ngài. Mai kia dẹp xong phản thần, xin được cùng các tướng ghi công đức của ngài. Nhạc phụ ta nếu không có được những người như Đinh tướng quân, ắt chỉ còn biết ôm hận ngàn thu mà thôi.
Sau khi để tang ba ngày trong toàn quân, lại cho lập hương án lớn trong đại điện để muôn dân Ái Châu, Hoan Châu đến viếng, cắt đặt mọi việc trong ngoài xong xuôi, Ngô Quyền thân làm chủ tướng đem theo trên một vạn binh mã nhằm hướng Bắc tiến quân. Bành voi chiến đều được quấn những dải khăn tang trắng, gươm giáo đều buộc vải trắng, mũ mão binh tướng quấn ngang một tấm lụa trắng gió bay phơ phất. Cả đoàn binh mã người ngựa xếp thành đội ngũ ngay sát bờ sông sương khói chờn vờn. Chủ tướng Ngô Quyền giáp phục chỉnh tề, thắt dải lụa trắng ngang chiếc mũ đâu mâu, lưng đeo kiếm lệnh hai tay giơ cao tờ hịch tuyên đọc trước ba quân tướng sĩ:
Nguyên văn lời hịch như sau:
 Nay truyền tới ba quân tướng sĩ!
Truyền khắp muôn dân Ái Châu, Hoan Châu, Trường châu…
Tên phản thần Kiều Công Tiễn vốn ăn lộc chúa ta, làm tướng ở La thành. Trong được chúa tin dùng cho nắm binh quyền, còn cho làm giả tử; ngoài được Kiều công căn dặn yên phận thần tử, còn cho quân bản bộ Phong Châu xuống canh giữ cửa thành. Vậy mà hắn vì tham hư danh đã ủ mầm phản loạn. Trên trái mệnh trời giết chúa, dưới lừa muôn dân làm tội thần, thật muôn ngàn lần đáng chết.
Nay ta cầm gươm gạt lệ, vì chúa công thống suất ba quân, vì muôn dân nguyện bắt nghịch thần, trước là giữ giềng mối cương thường của nước, sau là tỏ rõ tấm lòng trung hiếu với Dương gia, giúp yên ổn các châu trong cõi. Đó cũng là thực hiện tâm nguyện suốt đời của chúa công vậy.
Bớ tướng sĩ ba quân!
Ta thân dẫn binh đi, chỉ hỏi tội phản thần Kiều Công Tiễn và đồng đảng, truyền kể hịch này phân rõ trắng đen. Người Phong Châu là cùng một nước không được giết bừa; binh tướng Phong Châu hiểu lẽ phải theo về đều là anh em một nhà với chúng ta không phân biệt đối xử. Các ngươi hãy ghi nhớ điều đó.
Binh tướng Ái Châu, Hoan Châu vì đại nghĩa thảo phạt nghịch thần.
Ngô tướng ta vì muôn dân quyết trừ phản tử.
Hẹn ngày ba quân cùng ta vào La thành tế chúa.
Khóc rỏ máu mắt, xin tỏ rõ tấc lòng riêng.
Lời hịch vừa dứt, tiếng chiêng tiếng trống bốn phía rền vang. Từng hồi cồng âm i dội trên mặt sông sương khói bảng lảng khiến đám chim chóc bay tóa lên kêu từng tiếng thê lương.
Mấy hồi cồng còn chưa dứt, hơn vạn binh mã hét lên ầm ầm như sóng đổ:
– Mau giết tên phản thần Kiều Công Tiễn…
– Mau giết tên phản thần Kiều Công Tiễn…
*
Đây nói tiếp chuyện ở Đường Lâm.
Nhận được tin cấp báo phản thần Kiều Công Tiễn hạ độc thủ giết Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, Ngô phu nhân Dương thị ở Đường Lâm thất kinh khóc ngất, đám gia nhân phải vực vào trong mãi mới tỉnh cho sai người báo cho hai công tử Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn vào vấn an mẫu thân.
Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, hai anh em Xương Ngập, Xương Văn khóc nói:
– Mẫu thân chớ quá đau buồn! Nay cha con trấn thủ ở Ái Châu hẳn đang đưa binh về hỏi tội Kiều tặc. Ở Đường Lâm chúng ta cũng phải nghiêm ngặt đề phòng họ Kiều. Mấy năm nay, vâng theo chủ ý của phụ thân, Đường Lâm đã luyện binh trữ lương được hơn ngàn người chia thành đội ngũ thủ ở các nơi hiểm yếu. Tướng quân Phạm Bạch Hổ cùng cậu Dương Tam Kha đang đem chiến thuyền xuống Giang Biên hội binh với phụ thân. Họ Kiều vô đạo làm điều càn rỡ tất trời không dung đất không tha. Mẫu thân hãy giữ gìn sức khỏe đợi phụ thân về bắt Kiều tặc hãy cùng xuống tế vong linh ngoại công nay mai mới được.
Dương thị gạt nước mắt nói:
– Trước nay đã mấy lần tiên sinh Đoàn Thành khuyên nhủ ngoại công các con phải dè chừng Kiều Công Tiễn. Nay người tin tưởng họ Kiều mà nuôi ong tay áo thật đau xót lắm thay. Ngoại công các con tấm lòng trời biển bao dung mà cuối đời gặp phải hoạ lớn. Phụ thân các con làm tướng ngoài Ái Châu xa xôi trăm dặm cũng là vì sự bền vững của nước, sự no đủ của dân. Ta những mong Xương Ngập, Xương Văn sớm trưởng thành, xuống Đại La giúp dập ngoại công. Nào ngờ sự thể đột ngột tráo trở khó lường. Nay mai binh mã Đằng Châu, Ái Châu kéo xuống La thành hỏi tội phản thần lại sẽ đầu rơi máu chảy. Xác ngoại công các con còn chưa lạnh đã lại gươm giáo chém giết lẫn nhau. Các con phải lấy đó làm gương để sau này tránh xa mầm họa loạn thần tặc tử.
Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn lạy tạ mẹ rồi lui ra cùng các tuỳ tướng cắt đặt công việc phòng thủ trong châu Đường Lâm.
Còn lại một mình, Dương thị lén gạt nước mắt cho gọi đám gia nhân sai bảo việc lập hương án thờ quan Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Mấy năm gần đây, mọi việc trong châu Đường Lâm, Dương thị đều thay Ngô tướng quân kiêm quản. Vốn dòng dõi con nhà tướng được dạy dỗ từ nhỏ, Dương thị cắt đặt mọi việc đâu vào đấy khiến đám binh lính và dân trong vùng đều tín phục. Phàm là việc lớn việc nhỏ của dòng họ Ngô ở Đường Lâm, Dương thị đều đích thân quán xuyến hết sức cẩn thận. Các vị lão trượng trong châu ốm bệnh đều được thăm nom hiếu kính. Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn cũng đã mười bảy, mười tám tuổi lại sớm trưởng thành nên dần dà Dương thị bớt đi được nhiều phần công việc. Dương thị đang nghĩ tới việc xin với Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ cho Ngô Xương Ngập xuống thành Đại La, xin cho Ngô Xương Văn vào Ái Châu theo nghiệp nhà tướng. Còn chần chừ chưa quyết đã tai hoạ lớn ập xuống đầu.
Chỉnh sửa lại hương hoa trước nhang án thờ Tiết độ sứ, Dương thị không kìm được hai dòng lệ khấn rằng:
– Cha ơi! Cả đời cha nhân đức khắp muôn dân trong ngoài đều kính phục nay sao nỡ có việc phản thần hãm hại kinh thiên động địa đến nhường này. Nay cha linh thiêng hãy phù trợ cho chúng tướng sớm bắt phản thần xử tội. Muôn dân Đại La, Phong Châu cùng binh lính nào có tội tình gì mà phải cuốn vào mối họa này. Cha khôn thiêng hãy đưa đường chỉ lối để binh tướng lìa bỏ họ Kiều, không phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy. Con chắc đó cũng là tâm nguyện của cha.
Cứ thế, vừa đọc lời khấn trước hương án, hai hàng lệ của Dương thị cứ chảy mãi không thôi.
*
Đây nói tiếp chuyện Kiều Công Tiễn trong thành Đại La.
Kể từ buổi đám quân lén truyền nhau đọc hịch kể tội của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn tính khí bỗng đột ngột trở nên bất thường. Họ Kiều hạ mệnh lệnh đóng tất cả các cổng thành, người ra vào đều cho lục soát rất gắt gao. Binh lương khí cụ ở các kho đều cho kiểm điểm hết một lượt. Bốn đội voi chiến cho rút vào trong thành càng gia tăng không khí căng thẳng của thành Đại La. Nhiều hộ dân vốn trước kia mang ơn quan Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ lập ban thờ cúng bái đều bị Kiều Công Tiễn cho phá bỏ, bắt giết tàn nhẫn. Đám văn thần võ tướng ở Phong Châu được bổ sung vào thành Đại La mỗi khi có việc tấu trình thường rất cẩn thận ngó trước ngó sau càng khiến họ Kiều nổi nóng. Thế mới biết đạo lý của người ở ngôi cao nếu chỉ dựa vào gươm giáo, mưu sâu kế hiểm sẽ khó có thể thi hành theo ý mình mà chẳng qua chỉ như lấy giấy bọc lửa mà thôi. Bề ngoài, dẫu đám quan văn quan võ vâng dạ thi hành, song họ Kiều thừa biết bên trong chúng luôn thắc thỏm không yên. Nhất là từ khi có bài hịch kể tội Kiều Công Tiễn, binh tướng trong thành càng dè dặt lẫn nhau. Lại có tin thuỷ quân Đằng Châu hợp binh với thuỷ quân của Dương Tam Kha đã tiến đến bãi Màn Trù đang xếp thành đội ngũ đợi binh mã Ái Châu do Ngô Quyền thống suất để ba mặt giáp công. Hôm trước, Kiều Công Chuẩn cùng Đỗ Tử Bình vào bàn việc cho một đạo binh lên Đường Lâm bắt Dương thị, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn về thành Đại La làm con tin, song chưa kịp quyết đã có tin đưa về binh tướng Đường Lâm đóng chặt các hiểm địa, phong tọa đường vào rất nghiêm ngặt, khó có thể xuất kỳ bất ý đưa binh vào được. Một mặt, các cánh quân Đằng Châu, Ái Châu đang kéo xuống thành Đại La ầm ầm khiến cho Kiều Công Tiễn không còn bụng dạ nào nghĩ tới chuyện bắt Dương thị và đám công tử họ Ngô nữa.
Sau nhiều ngày cho đám cận thần, đô tướng dò xét quân dân trong thành Đại La, thấy được lòng người li tán, xôn xao, Kiều Công Tiễn lao lung lắm. Họ Kiều cho mời hai tướng Kiều Công Chuẩn, Đỗ Tử Bình vào trong soái phủ bàn định mọi việc.
Khi cả ba còn đang mỗi người theo đuổi một ý riêng bỗng bên ngoài báo có vị đạo trưởng xin đến gặp. Kiều Công Tiễn đăm chiêu nói:
– Ngày trước họ Kiều ta đang yên ổn cũng chính tên đạo trưởng này giở thói mê hoặc khiến ta bị đẩy vào tình thế khó xử như hôm nay. Tên đạo trưởng này những tưởng biết sợ mà tuyệt tích đi giữ mạng, nay sao hắn dám ngang nhiên đến đây không biết có quỷ kế gì. Lát nữa nếu nó còn ăn nói hàm hồ, ta sẽ cho giết quách đi để khỏi xao động lòng quân, cũng là tẩy đi cái mầm họa tàng ẩn trong gan ruột.
Nói đoạn, sai tả hữu cho gọi đạo trưởng vào trong.
Vừa nhìn thấy vị đạo trưởng, Kiều Công Tiễn thoáng giật mình, sực nhớ một dáng người chập chờn buổi hô binh tướng bắn tên vào đám binh mã bên bờ sông Cái. Còn chưa nghĩ ra đó là ai vị đạo trưởng đã tiến tới thủ lễ rồi thản nhiên nói:
– Đại tổng quản La thành Độc Toàn Chân xin có lời chào các vị tướng quân!
Cả ba người Kiều Công Tiễn, Đỗ Tử Bình, Kiều Công Chuẩn đều giật nảy mình giương mắt nhìn vị đạo trưởng.
Đạo trưởng nghiêm trang nói:
– Kiều tướng quân cùng các vị bất tất phải nghi kỵ gì ta. Ta thuận theo ý chỉ cả Hán đế xuống bàn việc lớn với các tướng quân. Luôn mấy năm nay, binh hùng tướng mạnh của Hán triều đang tung hoành ở Trung Nguyên, chỉ vài năm nữa tất thống nhất thiên hạ, góc bể chân trời đều là đất đai quận huyện của nhà Hán. Các tướng hãy mau tỉnh ngộ, sớm thức thời, dâng biểu xin thần phục cống nạp Hán triều. Làm thế, không chỉ giữ được vinh hoa phú quý mà còn được làm quan tướng ghi vào sử sách. Đất An Nam từ xưa đến nay vốn là quận huyện của người phương Bắc đã là thuận mệnh trời. Nay Kiều tướng quân phía trước bọn Dương Tam Kha, Phạm Bạch Hổ binh thuyền đang kéo xuống, phía Nam mãnh tướng Ngô Quyền dẫn hai vạn tinh binh cùng hàng trăm voi trận đầu chít khăn tang thân mang giáo sắc đang ngày đêm đánh xuống thành Đại La thề bắt sống tướng quân. Nay các tướng đây nếu giao phong với chúng, chẳng phải là tự đem mình vào miệng cọp hay sao. Nếu Kiều tướng quân thức thời, theo mệnh Hán triều mà quy thuận, lập tức binh tướng thuỷ bộ của Hán đế sẽ kéo xuống phương Nam thì việc bắt lũ Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ, Dương Tam Kha chẳng phải là thù cũ nợ mới đều được kiêm toàn hay sao? Các tướng hãy suy nghĩ cho kỹ. Còn như việc thay hình đổi dạng, bày đặt cơ mưu của tổng quản ta các tướng bất tất phải hồ nghi nhiều nữa.
Kiều Công Tiễn lần nữa giật mình nhìn kỹ vị đạo trưởng dẫu đã thay hình đổi dạng song vẫn còn nhiều nét trên thân thể giống với đại tổng quản Độc Toàn Chân huyết thống của quan thái thú Độc Cô Tồn từng trị nhậm An Nam mà càng kinh sợ. Hóa ra, Độc Toàn Chân đã bí mật thay hình đổi dạng, nhiều năm qua âm thầm theo dõi cục diện ở Giao Châu. Cái trò dùng lời thơ bí ẩn âm thầm kích động Kiều gia phản chúa chính là độc kế của Độc Toàn Chân. Hán triều vốn xưa nay không thời khắc nào không nhòm ngó An Nam đã sử dụng đòn độc này.
Họ Kiều giận run người toan rút kiếm kết liễu vị đạo trưởng, song nghĩ từng lời từng chữ của Độc Toàn Chân đều nhắm vào chỗ cốt yếu sinh tử ngay trước mắt bèn run giọng nói:
– Thì ra tổng quản ngài đã hạ độc kế với bản tướng, đẩy bản tướng đến chỗ bị thiên hạ chê cười. Nay còn mở miệng thuyết khách xui ta thần phục Hán đế chẳng phải là để sau này thành tội nhân thiên cổ hay sao? Ta thà rằng ngọc nát thành tan còn hơn để người đời sau nguyền rủa. Ngài hãy mau trong lúc ta chưa đổi ý tìm đường về phương Bắc kẻo hối không kịp đâu.
Hai tướng Kiều Công Chuẩn, Đỗ Tử Bình thấy vậy đều nói:
– Kiều gia bao năm thận trọng giữ mình bỗng khinh suất nghe theo đạo trưởng khiến bây giờ giở đi mắc núi giở lại mắc sông. Nay ngươi lại xui chúng ta thần phục Hán đế chẳng phải là sẽ mãi mãi bị người đời sau nguyền rủa hay sao? Mong đại tướng quân hãy xem xét cho thật kỹ.
Đạo trưởng Độc Toàn Chân cười ha hả nói:
– Các tướng nói sai rồi! Ta nếu muốn giữ mạng mình đã chẳng đến đây bàn việc với các tướng. Việc trong thiên hạ xưa nay kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc là lẽ thường tình. Ngay Hán đế ta tranh hùng ở Trung Nguyên cũng là theo đạo lý đó mà thôi. Nay các tướng đều ngồi trên lưng cọp cả, liệu có kế gì xuống dễ dàng được chăng? Xét về đạo lý, theo lời hịch văn của Ngô Quyền, muôn dân An Nam tất theo họ Ngô mà hỏi tội họ Kiều. Xét về thực lực, tài cầm quân của Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ hẳn Kiều tướng quân đây khó có thể thắng được. Nay nếu các tướng cố chấp không theo về Hán triều chẳng những thành Đại La họ Ngô sẽ làm chủ mà ngay cả đất Phong Châu của các tướng cũng sẽ không giữ được đâu. Người Ái Châu, Hoan Châu vốn không ưa gì họ Kiều sẽ nhân thể đắm đò giặt mẹt thì mồ mả tổ tiên Kiều gia sẽ ra sao đây? Nếu các tướng không mau quyết kế, thần phục Hán triều ta e rằng hối thì đã muộn.
Kiều Công Tiễn cùng hai tướng đắn đo nhìn nhau, nhìn gã đạo trưởng cũng đang lao lung suy nghĩ chưa biết tiến thoái ra sao. Nếu đơn thương độc mã nghênh chiến với binh tướng Ái Châu, Đằng Châu, Đường Lâm quả là cầm chắc thất bại. Cái họ Kiều lo sợ nhất là lòng dân các nơi đều không thần phục hành động soán ngôi vị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Khi lòng dân không theo về, dẫu thành cao hào sâu, binh tướng đầy đủ cũng chỉ là cô độc mà thôi. Mới thấy rằng đạo lý của người giữ ngôi cao không nằm nơi gươm giáo mưu kế mà phải là nhân tâm đức độ bao dung. Suy tính trước sau, Kiều Công Tiễn như thấy trước cảnh voi ngựa Ái Châu, thuỷ quân Đằng Châu ào ào phá vỡ La thành, tuyên kể tội trạng họ Kiều trong con mắt khinh bỉ của muôn dân cùng đám quan văn vốn không ưa gì sự thoán đoạt. Nay nếu ta không tính sớm chỉ còn con đường chết. Phụ thân ta bao năm lấy lễ nghĩa đức độ làm đầu đã chủ trì mọi việc ở Phong Châu êm thuận, lòng người theo về mới là kế lâu dài của bậc đại trí vậy. Ta nhất thời hồ đồ, nửa đêm ôm mộng, lại không phân biệt được trung gian, bây giờ chỉ còn cách trông chờ vào Hán triều mà thôi. Thì các châu quận thuộc đất An Nam từ xưa đến nay đã có hàng ngàn năm xưng thần phương Bắc đã sao đâu? Xưng thần để giữ lấy yên ổn thoát khỏi cảnh binh đao cũng là đạo lý của người anh hùng. Ngay mấy đời họ Khúc đều theo nhau triều cống nhà Đường mà hưởng lộc. Nếu Khúc Thừa Mỹ không đêm dài lắm mộng ăn ở hai lòng đến mức tự hại bản thân thì An Nam vẫn theo lệ cũ phụ thuộc vào Nam Hán mà giữ lấy yên hàn cho trăm họ. Đến khi Dương Đình Nghệ cậy có huân công, lại đem bọn văn võ ở Ái Châu, Hoan Châu ra Đại La thành tự mình tiến chiếm ngôi cao chẳng phải là không coi Hán triều ra gì ư? Hán đế Lưu Cung mấy lần sai tướng xuống điều binh bại lẽ đâu nuốt được hận này? Nên cái việc ta bị mắc mưu của họ Độc để thuận dòng cho binh tướng Hán triều lần nữa xuống phương Nam là cái lẽ tất yếu vậy. Nay ta nếu không thuận theo thì trước mắt là binh tướng Ái Châu, Đằng Châu; phía sau là tuyệt lộ cũng chỉ còn nước chết. Nay nếu dâng biểu thần phục Hán triều chẳng những trước mắt nếu thành Đại La thất thủ vẫn có thể cứu được Kiều gia, giữ được Phong Châu làm đất căn bản tính kế lâu dài sau này. Rồi cứ mặc kệ binh tướng Hán triều đánh dẹp bọn Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ, Dương Tam Kha xem cục diện ra sao rồi tính kế cũng chưa muộn vậy.
Đắn đo mãi, Kiều Công Tiễn giọng đầy bi phẫn nói với Độc Toàn Chân:
– Những lời đạo trưởng nói với ta quả là những suy đoán sâu xa mà người thường không thể hiểu hết. Đạo trưởng đã là người buộc dây bày kế thì nay hãy cởi nút đặt mưu tưởng cũng là lẽ trời mà thôi. Ngày trước, Kiều gia ta dẫu là nha tướng của các đời Khúc chúa song đều một lòng một dạ hướng về phương Bắc vọng thờ chưa dám sơ suất điều gì. Luôn mấy trận Dương Đình Nghệ cùng bọn Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ công phá La thành, đại chiến Giang Biên chém tướng Trần Bảo ta cũng chỉ ở ngoài thanh viện mà thôi. Nay mong đạo trưởng hãy tỏ rõ tấm lòng trung thành của ta với Hán đế để ngài phân biệt rõ phải trái sau này tránh hỏi tội ta. Còn như việc cố thủ giữ thành, binh tướng Phong Châu thuỷ bộ có tới hơn hai vạn chắc chắn sẽ giữ thành được ba tháng. Ta đã cam tâm tình nguyện hướng về Hán triều vậy mong đạo trưởng hãy hết sức giúp họ Kiều chúng ta. Mai này ta sẽ cùng với đạo trưởng làm chủ thành Đại La, cùng nhau trị nhậm các vùng đất An Nam chẳng phải là thỏa chí bình sinh của đạo trưởng hay sao. Mong đạo trưởng hãy mau thay ta dâng biểu lên Hán đế để ngài cử binh xuống giải vây La thành mới được.
Độc Toàn Chân tỏ vẻ vui mừng nhưng hết sức nghiêm trang nói:
– Kiều tướng quân! Các vị tướng quân đã suy nghĩ được trước sau như thế tổng quản ta đây mừng lắm. Các tướng nên nhớ, từ xưa đến nay, các triều đại vua chúa phương Bắc xuống thần phục phương Nam đều là để mở mang bờ cõi đất đai, chăn dắt, giáo hóa muôn dân tứ di cùng đồng tâm chầu về thiên tử thuận theo lẽ trời. Chẳng qua các nước nhỏ thời nào cũng có giặc giã nổi lên chống lại thiên triều đều là bỏ chỗ sáng tìm vào chỗ tối, khiến thân bại danh liệt, nước mất nhà tan, mồ mả tổ tiên bị đào xới đâu phải phương kế của đại anh hùng. Ngay như ở Trung Nguyên, quần hùng nổi lên tranh đoạt thiên hạ thì cái lẽ thành bại cuối cùng vẫn là kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc. Xét về nhân tài vật lực đất đai người ngựa, An Nam quyết không phải đối thủ của Hán triều, vậy việc phải thần phục chỉ còn là vấn đề thời gian. Nay nếu tướng quân thức thời đi trước Ngô Quyền kia một bước mới là nhìn xa trông rộng. Tướng quân nếu bại trước Ngô Quyền họ Ngô muốn yên thân cũng phải xưng thần triều cống Hán đế. Tướng quân nếu thắng mà Hán đế biết được ngài trước đây cự tuyệt dâng biểu xin về há chẳng phải để ngài nổi giận mà cử đại tướng đem đại binh xuống hỏi tội hay sao? Nay Kiều tướng quân chân thành quy thuận quả là phúc lớn của Hán đế cũng là sự sáng suốt của Kiều gia vậy. Ta sẽ lập tức thay ngài dâng biểu về thành Phiên Ngung để Hán đế định đoạt. Ta với Hán đế vừa là lẽ quân thần còn có chỗ thâm giao khác nữa. Tổ phụ của ta Độc Cô Tồn và tổ phụ của Hán đế ngày trước từng là bạn đồng liêu phục vụ Đường triều nên việc phái binh xuống phương Nam là lẽ đương nhiên.
Độc Toàn Chân nói xong ai nấy đều chìm trong một không khí khá căng thẳng.
27/1/2021
Phùng Văn Khai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà th...