Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

Đồng quê xào xạc

Đồng quê xào xạc

Đêm. Ngôi nhà của vợ chồng Viết đang im lìm, bỗng vang lên tiếng ho sù sụ của bà Lãm ở gian nhà ngoài. Viết đang ngủ ở trong buồng với vợ, bị đánh thức bởi tiếng ho thì chửi đổng: ”Lại ho, già mà sống dai thế!”. Viết là nông dân, học chỉ hết lớp bảy, không phải là nhà văn, cũng chẳng phải là nhà khoa học nên khái niệm lao động trí óc đối với Viết  xa xôi như sao Kim, sao Hỏa nhưng Viết lại rất khó ngủ. Chỉ cần một tiếng động nhẹ thì dù đang chìm trong giấc ngủ mê mệt cũng đủ làm cho Viết tỉnh giấc, mà đã tỉnh ngủ thì khó ngủ lại nên Viết càng cáu tiết. Viết lấy chân sờ sẫm dép, thấy một chiếc còn một chiếc lăn trong gầm giường, Viết đành đi chân đất  ra ngoài, đến bên giường bà Lãm, gắt gỏng:
– Khổ quá, tôi đã nói bao nhiêu lần với bà rồi, ho thì phải bịt mõm lại.
– Tôi  vẫn nhớ nhưng mà tôi bịt tay không kịp, anh thông cảm!
Hụ hụ hụ, lại một tràng ho nữa được phát ra từ lồng ngực lép kẹp nhưng lần này thì bà Lãm đã kịp lấy cái khăn mặt để ở đầu giường bịt chặt lấy miệng nên tiếng ho chỉ phát ra hụ hụ mà không to thành tiếng. Viết bảo sao dạo này bà hay ho thế, sao không đi…nói đến đây, Viết kịp dừng lời. Viết định nói sao bà không đi mà khám, chữa bệnh ho đi nhưng chợt nhớ ra là bà làm gì có tiền mà vợ chồng Viết lại cũng chẳng bao giờ cho tiền bà đi khám bệnh.
Nhà văn Vũ Đảm
Viết quay vào buồng, nằm sát vợ, hai đứa con nhỏ nằm phía bên kia. Hừ! Viết thở dài, thì đã bảo là Viết khó ngủ mà lại, hết trở mình qua phải rồi lại qua trái, nằm sấp rồi lại nằm ngửa, mãi mà chả ngủ được. Chỉ còn cách duy nhất là làm tình với vợ, Viết muốn lắm nhưng ngặt nỗi vợ Viết lại thuộc loại đặt mình xuống là ngáy khò khò. Thị đang ngáy, lay thị dậy thì thế nào cũng bị thị càu nhàu, mà không đánh thức thị dậy thì làm sao nằm đè lên người thị được? Mặc kệ, Viết bắt đầu gạ gẫm, gã gác chân lên đùi vợ, không thấy thị động đậy gì. Gã ôm lấy người vợ, cọ cọ cái của quí vào mông vợ, thị chỉ ú ớ vài câu rồi lại ngủ. Đến nước này thì phải dùng biện pháp của nhà binh, gã lùa bàn  tay thô ráp vào váy vợ sục sạo. Vợ Viết đẩy tay chồng ra. Mặc, gã càng sục sạo mạnh hơn.
– Để yên cho người ta ngủ- Vợ gã gắt gỏng.
– Làm một cái!
– Vừa tối làm rồi, mệt lắm.
– Nhưng mà bà già kia ho, không ngủ được.
– Lại ho, không khéo bị bệnh ho lao, lây sang cả nhà thì chết! Tìm cách mà đuổi khéo mụ ấy đi!
– Đuổi làm sao được, dù sao cũng là mẹ mình.
– Ôi dào, mẹ nuôi chứ phải mẹ đẻ đâu mà phải lăn tăn.
Viết không nói gì, tốc váy vợ lên rồi nằm đè lên người thị. Đến lúc này thì dù không muốn làm tình, thị cũng phải cắn răng mà chiều gã chồng vũ phu, mà không chiều thì thế nào gã cũng gây sự, không văng chim cò ra ầm ầm thì lại nốc rượu, đập phá. Thị dạng chân dạng tay nằm thẳng cẳng như doi đất còn Viết hùng hục vày bừa trên người thị, mười lăm, hai mươi phút sau, gã lăn ra bên cạnh thở hổn hà hổn hển và chỉ một lúc, Viết bắt đầu kéo gỗ ò ò.
Bên giường ngoài, bà Lãm nghe thấy hết tất cả những âm thanh và lời thoại của vợ chồng Viết, hai hàng nước mắt bà tràn ra. Bà không ngờ, bà nhặt Viết bị bỏ rơi ngay sau khi đẻ ở nhà vệ sinh bệnh viện phụ sản, bà mang về nuôi nấng cho đến khi Viết ba mươi tuổi. Viết ăn chơi, lười lao động, lại còn trộm cắp, bà xấu hổ với xóm làng lắm nhưng con dại cái mang, bà đành cắn răng chịu đựng. Bà nghĩ có khi lấy vợ, Viết sẽ chí thú làm ăn, thế là bà đi tìm vợ cho Viết nhưng chẳng người con gái nào trong làng dám lấy Viết, vì Viết bị chột mắt, vì Viết lêu lổng. Tìm mãi cuối cùng cũng có cô gái mắt lé ở làng bên đồng ý làm vợ Viết. Thôi thì nồi nào úp vung nấy, bà Lãm vay mượn cưới vợ cấp tốc cho Viết. Tưởng vợ chồng Viết sẽ mang ơn bà, sống với bà tử tế nào ngờ chúng coi bà còn thua đứa ở. Ngôi nhà của bà Lãm đứng tên bà, sợ khi chết đi bà không sang tên cho Viết nên hai vợ chồng đã lừa bán ngôi nhà của bà rồi mua ngôi nhà khác đứng tên Viết. Khi biết được âm mưu của vợ chồng Viết thì mọi việc đã xong xuôi, bà gọi Viết vào bảo, bà chết đi nhà này bà chả cho Viết thì cho ai, sao lại phải làm cái chuyện gian dối ấy? Viết vò đầu, gãi tai giải thích rằng, sợ bà tuổi cao sức yếu ra đi mà không kịp viết giấy sang tên thì dễ bị kẻ khác nhăm nhe chiếm nhà nên mới làm vậy.
Bao nhiêu lần khác, vợ chồng Viết đá thúng, đụng nia, bà Lãm đều nhẫn nhịn nhưng lần này chúng muốn đuổi bà ra khỏi nhà vì sợ bị bà làm lây bệnh lao. Bà ít học nhưng bà biết mình không bị  bệnh lao, nếu bị lao phải ho ra máu như ông Hán, mà bệnh lao bây giờ chữa khỏi chứ không như ngày xưa ai bị bệnh lao thì coi như cầm chắc cái chết. Nhưng bà không thiết sống nữa, rất nhiều lần bà ra cái miếu thờ ở đầu làng, cầu khấn thần linh hãy ban cho bà cái chết nhẹ nhàng nhưng thần linh giận bà không mang theo lễ vật hay sao mà   chưa cho bà ra đi. Sáng sớm mai, mình mua nải chuối lại ra miếu cầu thần linh lần nữa xem sao. Biết đâu lần cuối cùng này, mình được toại nguyện, một cơn gió độc sẽ quật mình ngã lăn ra đất rồi đưa mình về với người chồng bạc mệnh. Bà Lãm nghĩ ngợi trong đêm cho đến tận khi gà gáy sáng.
Đã bốn năm nay  bà Lãm bỏ ăn sáng, bà bỏ ăn không phải vì cái bụng không róc rách mà vì bà muốn nhường suất ăn sáng thường là  một bát cơm nguội hoặc nửa gói mì tôm cho vợ chồng Viết. Bà bảo bà ở nhà chỉ quanh quẩn nấu cơm, quyét dọn nhà cửa nên không đói còn vợ chồng Viết phải đi làm đồng, ăn sáng cho no để có sức mà làm. Không ăn sáng nhưng bà cũng không có thói quen dậy muộn, bà dậy sớm quyét dọn nhà cửa, ra chuồng gà thả mấy con gà ra, cho nó nắm thóc. Khi hai vợ chồng Viết chở hai đứa con đi học rồi đi làm đồng luôn, bà Lãm lấy bao diêm bỏ vào túi áo, rời nhà đi ra chợ làng. Bà lấy ba mươi ngàn được mừng tuổi hồi tết mua nải chuối, thẻ hương và tập tiền giấy rồi đi đến ngôi miếu ở đầu làng. Bà lấy bốn nén hương, bật diêm châm lửa, cắm vào các bát hương, còn thiếu một bát chưa có hương, bà lấy tiếp một nén hương nữa châm lửa. Cắm xong nén hương cuối cùng, bà khấn thần linh:
– Con lậy thần linh hãy cho con về với các cụ tổ tiên, với chồng con nhanh nhanh lên, con không thiết sống thêm một ngày nào trên cõi trần gian nhọc nhằn này nữa.
Bà vái ba vái, hóa vàng rồi đi ra khỏi ngôi miếu. Bà không quay về nhà mà lụt cụt đi ra phía cánh đồng. Đã  lâu lắm rồi bà mới có dịp ra cánh đồng làng, nơi cả đời bà lam lũ nhưng cũng là nơi quá đỗi thân thương với bà. Bà nhớ mùi bùn non, mùi hương lúa trổ bông, mùi hồi hôi mặn chát của chính mình. Từ ngày già yếu, hai sào ruộng của bà, bà cho vợ chồng Viết cấy, coi như bà góp gạo thổi cơm chung. Vợ Viết bảo lỗ to, hai sào ruộng của bà một năm thu được tám tạ thóc, trừ tiền giống, phân đạm, thuốc sâu, công cày bừa, công cấy, công gặt đi may ra còn được bốn tạ thóc. Một năm bà ăn dè sẻn cũng hết năm tạ thóc, vậy là lỗ một tạ. Bà nói với vợ Viết, bà nuôi thằng Viết từ ngày đỏ hon hỏn đến khi nó lấy vợ hết bao nhiêu thóc cho vừa, nào bà có tính chuyện lỗ lãi. Vợ Viết ngượng ngập bảo, ấy là  nói cho vui miệng vậy chứ ai hạch toán việc nuôi cha mẹ bao giờ?
Bà đi xuyên qua cánh đồng đang vào thì con gái. Cánh đồng thì mênh mông, bà thì liêu xiêu bé nhỏ như cánh cò bay lả ngược chiều gió. Thi thoảng  bà cúi xuống ve vuốt những lá lúa xanh mơn mởm đang xào xạc trong gió, bà hít hít mùi lúa, những cây lúa rung rinh vẫy chào bà, một bà lão nông dân thân quen. Lên bờ mương, bà rẽ phải đi vào con đường chạy dọc bờ sông, bà đi xa, xa mãi cho đến khi phải leo lên một cái cầu để thoát hẳn khỏi làng thì bà dừng lại. Chiếc cầu bắc qua sông, nối hai xã, nó không dài nhưng khá cao, dòng sông thì chảy xiết. Ngày còn thời con gái, nhà bà làm bún, bà vẫn gánh bún đi đổi, qua cái cầu này thoăn thoắt, bây giờ nó đang là vật cản để bà dừng bước. Không, bà không muốn dừng bước, bà không muốn quay về ngôi nhà của vợ chồng Viết, mà thật ra là ngôi nhà của chính bà mà vợ chồng Viết đã lập mưu hiếm đoạt. Đứng thở một lúc, lấy lại sức, bà bắt đầu leo lên cầu, từng bước, từng bước. Lên được đến trên mặt cầu, bà hoa mắt, bước hụt xuống dòng sông. Thời con gái, bà vẫn hay ra sông bơi, té nước nô đùa với đám bạn cùng làng nhưng bây giờ thì bà không thể. Dòng nước chảy mạnh cuốn bà đi. Cái ý nghĩ cuối cùng của bà trước khi ngất đi là thần linh ở miếu làng đã giải thoát cho bà. Nhưng thần linh chỉ thử thách bà mà không cho bà ra đi trong cô đơn, buồn đau cho nên khi bà mở mắt tỉnh lại đã có tiếng reo lên sung sướng:
– Bà tỉnh rồi!
Bà Lãm tưởng đó là tiếng kêu của Viết nhưng không, tiếng kêu của anh Khảo- một người đàn ông trạc tuổi Viết. Vậy là bà hiểu người này đã cứu bà thoát khỏi cái chết. Người đàn ông rối rít gọi vợ mang cháo đến. Từ dưới bếp, chị Lan bưng bát cháo lên. Người chồng bảo may quá, bà đã tai qua nạn khỏi. Cô vợ bê bát cháo lại cạnh chỗ bà dỗ dành:
– Bà ăn tí cháo cho lại người!
Chẳng đợi bà trả lời không hay có, chị Lan lấy thìa xúc cháo, ghé vào miệng bà. Đôi mắt bà ứa lệ vì xúc động, chưa bao giờ bà được ai bón cháo, ngay cả những lần ốm tưởng chết, vợ chồng Viết cũng không bao giờ nấu cháo cho bà chứ đừng nói là bón cháo. Bà hớp hớp từng tí cháo. Cháo gà nóng có hành làm cho người bà nóng lên. Đến chiều thì bà có thể ngồi dậy được, anh Khảo hỏi nhà bà ở đâu để đến báo kẻo con cháu lo âu, đi tìm. Bà khẽ lắc đầu, nước mắt bà lại ứa ra nhiều hơn, bà kể qua cho vợ chồng anh Khảo nghe về tình cảnh của mình. Cả hai vợ chồng Khảo đều lặng đi vì thương bà. Anh Khảo bảo:
– Cả hai vợ chồng cháu đều bị mất mẹ từ sớm, nhiều lúc thèm một tiếng gọi mẹ mà không được. Vậy bà ở lại nhà chúng cháu, vợ chồng cháu xin phép được coi bà là mẹ!
Bà nghĩ đến Viết, đứa con mà bà nuôi từ ngày bị bỏ rơi, bao mồ hôi nước mắt thế mà nó còn hắt hủi bà, thì sao bà có thể tin được lời nói của hai vợ chồng này, mặc dù họ đã cứu bà thoát khỏi chết đuối. Bà bảo chả dám làm phiền hai vợ chồng, bà chỉ xin ở thêm một vài hôm cho khỏe rồi bà ra đi. Bà thở dài:
– Giá như vợ chồng anh đừng vớt tôi lên thì tốt hơn. Tôi đã cầu thần linh ở miếu làng để được chết. Thần linh đã giúp tôi, thế mà anh chị lại vớt tôi lên. Khổ cái thân tôi muốn chết mà cũng không được chết.
Anh Khảo kéo vợ ra một chỗ nói nhỏ, chắc bà tử tự, tội nghiệp bà, bà không tin vợ chồng mình, mình phải thế này, thế này. Chị Lan gật đầu, cả hai đi đến bên bà, quỳ xuống:
– Mẹ hãy tin vợ chồng chúng con, chúng con xin nhận mẹ làm mẹ nuôi từ tấm lòng, nếu có toan tính gì thì xin giời cao trừng phạt!
Nói xong, vợ chồng anh Khảo đi đến bàn thờ, thắp hương, khấn vái mẹ đẻ hãy cho phép hai vợ chồng được nhận người mẹ nuôi này cho vui cửa vui nhà, cho các cháu được gọi tiếng bà. Nếu hai vợ chồng ăn ở thất đức xin mẹ cứ ra tay xử phạt. Lời khấn của vợ chồng anh Khảo khiến bà Lãm cảm động, bà cảm nhận được tấm lòng chân thật của vợ chồng Khảo. Bà bảo thật phúc đức cho bà gặp được vợ chồng anh  Khảo, bà xin nhận hai vợ chồng làm con nuôi nhưng bà chả có gì cho hai con cả. Vợ chồng anh Khảo mừng quá, ôm lấy bà Lãm như thể ôm người mẹ đẻ đi xa lâu ngày mới gặp.
Buổi chiều, hai đứa con của vợ chồng anh Khảo đi học về, anh Khảo dẫn cái Nhị, thằng Tuất đến trước mặt bà Lãm khoanh tay chào bà, bảo đây là bà nội. Chúng ríu rít bên bà như bầy chim non bên mẹ. Bà mừng mừng, tủi tủi trước niềm vui mà không bao giờ dám nghĩ tới.
Đêm ấy, bà Lãm ngủ riêng một phòng trên tầng hai. Bà lại ho, do bị ngấm nước lạnh nên bà càng ho nhiều hơn, to hơn. Bà cũng đã cố lấy khăn bịt mồm mỗi lần ho nhưng tiếng ho dù nhỏ song vẫn vọng lên tầng ba nơi vợ chồng anh Khảo đang ngủ.  Chị Lan đi xuống, vào phòng bà hỏi:
Bà bị cảm lạnh rồi, để con đánh gió cho.
Chị Lan lấy lọ dầu gió đánh gió cho bà Lãm, bà bảo bị ho từ mấy hôm rồi. Chị Lan nói bà cố chịu đến sáng mai rồi đưa bà đi bệnh viện khám. Sáng hôm sau, anh Khảo đưa bà đến bệnh viện khám, bà ngại lắm, bà chưa giúp được việc gì cho vợ chồng anh Khảo mà đã làm cho vợ chồng anh phải lo lắng, tốn tiền đưa bà đi khám bệnh. Bà Lãm nói không cần phải đi khám, cứ ra hiệu thuốc mua cho bà ít thuốc ho, uống là khỏi.  Vợ chồng anh Khảo không nghe, nằng nặc đòi bà đi viện khám.
Bác sĩ khám, chụp X.Q, bà bị viêm phế quản, chỉ cần mua thuốc về uống mà không phải nằm viện. Bà uống thuốc được bảy ngày thì cơn ho bớt hẳn, anh Khảo không làm trong ngành y nhưng có kiến thức, kinh nghiệm trong việc chữa bệnh. Bà uống bảy ngày kháng sinh, chắc đã hết viêm phế quản nhưng vẫn còn ho do khí huyết nên anh cho bà uống tiếp thuốc Ho P/H, một loại thuốc Nam mà anh và cả nhà vẫn hay dùng. Quả nhiên uống thuốc Ho P/H thêm bốn ngày nữa thì bệnh ho của bà Lãm khỏi hẳn, đêm đêm bà không còn ho mà ngủ ngon giấc đến gần sáng. Bà Lãm sung sướng lắm, bà sung sướng không hẳn vì khỏi ho mà quan trọng là đêm đêm bà không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của mọi người. Sức khoẻ của bà ngày một khoẻ ra do được ăn uống đầy đủ và điều quan trọng bà được thoải mái về tinh thần. Vợ chồng anh Khảo chăm sóc bà như chăm sóc người mẹ đẻ ra mình, hai đứa cháu cũng luôn quấn quýt bên bà. Nhiều lúc ngồi một mình, bà hay thẩn thơ nghĩ ngợi, cũng là con nuôi, sao  Viết  được bà cưu mang, nuôi nấng vất vả từ bé mà lại sống tệ bạc với bà.  Ngay cả khi nghe tin có một người đàn bà bị ngã xuống sông được một người đàn ông đi đường vớt lên, tối ấy không thấy bà trở về nhà, vợ chồng Viết đoán già đoán non người bị ngã xuống sông chính là bà nhưng cả hai vợ chồng đều không đi tìm, lại còn bảo chết trôi sông, chết đầu đường xó chợ mà đưa về nhà là xúi quảy lắm. Còn anh Khảo, bà chưa một ngày nuôi anh, sao lại quá tốt với bà, anh không những đã dũng cảm lao xuống dòng sông đang chảy xiết để cứu bà, sơ cứu cho bà rồi đưa bà về nhà nhận làm mẹ nuôi. Vợ chồng anh Khảo nhận bà làm mẹ,  vì thèm được một tiếng gọi”mẹ”. Bà không hiểu được lòng người, không giải thích được bản tính con người bằng những suy tính, so bì, bà chỉ một điều tâm tâm niệm niệm trong đầu, bà ăn ở hiền lành nên được thần linh ở miếu làng che chở.
Từ ngày nhận bà làm mẹ nuôi, cuộc sống trong gia đình vợ chồng anh Khảo cũng đầy ắp tiếng cười, ngay chính anh Khảo cũng tâm sự với vợ rằng nhà mình nhờ có mẹ Lãm về ở cùng  mà vợ chồng con cái rất ít khi ốm đau, công việc của anh ở cơ quan thì thuận buồm xuôi gió. Chị Lan cũng đồng tình với chồng, chị nói rằng cái cửa hàng kinh doanh vải của chị ở chợ thị trấn huyện dạo này cũng tấp nập người mua, mà toàn những người mua cả súc vải nên lãi càng nhiều. Chị còn bàn với chồng, tháng tới, khi hai đứa con nghỉ hè, cả nhà sẽ đưa bà lên Hà Nội thăm quan một chuyến, cả đời bà chưa biết thủ đô, chưa được vào thăm Lăng Bác bao giờ. Anh Khảo phấn khởi, nhất trí với sáng kiến của vợ.
Khỏi phải nói, khi nghe tin bố mẹ bảo hè này sẽ đưa cả nhà lên Hà Nội thăm quan, cái Nhị, thằng Tuất nhảy cẫng lên, chúng chạy lại bên bà, bá cổ hét lên:” Bà ơi đi Hà Nội, đi Hà Nội thăm Lăng Bác!”. Bà cười:” Bố mẹ các cháu thưởng cho các cháu vì chăm ngoan, học giỏi đấy!”.” Vâng chúng cháu sẽ học giỏi, ngoan ngoãn bà ạ!”. Nhờ có lời động viên của bà, mà quả nhiên cuối năm học, cả cái Nhị học lớp 5 và thằng Tuất học lớp 3 đều đạt học sinh giỏi. Anh Khảo sung sướng nói với bà, bà xứng đáng là nhà tâm lý học, mọi năm hai đứa chỉ đạt học sinh tiên tiến, nhờ có lời động viên của bà mà chúng ra sức học nên thi cuối năm hai đứa đều đạt loại giỏi. Bà Lãm bảo dạy trẻ phải lấy khen làm chính chứ đừng lấy phạt là chính. Lấy khen, kèm những phần thưởng, phần thưởng tuy nhỏ nhưng sẽ động viên, khích lệ được chúng. Còn lấy phạt, chúng hay sợ, chỉ lo đối phó mà không lo phấn đấu nên học sẽ kém đi. Chị Lan thấy hai đứa con đều đạt học sinh giỏi thì hãnh diện  khoe khắp chợ. Nhiều người hỏi chị cho con học thêm ở đâu để cho con mình đến học. Chị Lan bảo, cánh đàn bà chúng mình suốt ngày chúi đầu và buôn bán, tối về mệt bã cả người, đã thế vài đêm một lần,  ông chồng lại còn “gạ gẫm” thì còn đâu sức lực, thời gian mà dạy con, vậy nên chồng chị có trách  niệm kèm cặp con học bài. Còn “bà giáo” Lãm thì có nhiệm vụ nhắc nhở, động viên chúng học, nhờ thế mà chúng học hành tiến bộ. Cả chợ đều nói, buôn bán lắm lộc không bằng cái lộc con cái chăm ngoan, học giỏi, đằng này chị Lan không những có lộc buôn bán mà còn có cả lộc con ngoan, học giỏi, chắc là nhờ vợ chồng chị đã cứu sống và nhận bà Lãm làm mẹ. Chị Lan bảo chị cũng nghiệm thấy thế, bà cụ thật phúc hậu, nom cứ như bà tiên trong chuyện cổ tích.
Lần đầu tiên trong cuộc đời bà Lãm được đặt chân đến thủ đô. Thủ đô đẹp quá, người xe nườm nượp như mắc cửi. Bà được vợ chồng anh Khảo dẫn vào thăm Lăng Bác, Văn miếu- Quốc Tử Giám, đi Thảo cầm viên xem thú, thấy voi, hổ, khỉ, cái Nhị, thằng Tuất cứ dán mắt vào nhìn, còn bà thì hỏi nhân viên chăm sóc thú, cái ông Ba mươi dữ tợn kia ngày xơi hết cả một con lợn thì tiền đâu mà nuôi ông? Anh nhiên viên bảo đúng vậy, nếu thả phanh ra thì ông Ba mươi phải xơi hết ngày một con lợn mấy chục kg nhưng kinh phí có ít nên chỉ cho ông ấy ăn vừa phải thành ra cái bộ xương sườn của ông Ba mươi mới nhô ra thế kia.
Hà Nội với bà, cái gì cũng lạ, cũng thích nhưng bà ưng cái bụng nhất vẫn là được vợ chồng anh Khảo cho vào thăm Lăng Bác, chùa Trấn Quốc, chùa Quán Sứ, đền Quán Thánh, đền Ngọc Sơn. Vợ chồng anh Khảo là người tín ngưỡng, nhất là chị Lan làm nghề buôn bán nên đi đến đền, chùa nào họ cũng đặt lễ, thắp hương khấn vái. Bà và hai đứa nhỏ được vợ chồng anh Khảo cho đứng ở giữa, bà cũng khấn thầm trong miệng, bà cảm ơn trời phật có mắt, thương người nên cuối đời đã cho bà có người con nuôi hiếu thảo. Khi ở chùa Quán Sứ ra, vợ chồng anh Khảo đang lúi húi mua mấy cuốn khấn Nôm, kinh Phật thì có thằng bé bán vé số dạo đến năn nỉ vợ chồng anh Khảo mua nốt cho nó chỗ vé số còn lại, cả hai người không mua, nó đến bên bà, nước mắt ngân ngấn, bảo rằng không bán hết chỗ vé này, tối nay và ngày mai nó phải nhịn đói. Bà sực nhớ đêm qua bà nằm mơ thấy thần linh ở miếu làng đến bảo ngày mai có đứa trẻ nào đến bán cái gì thì mua cho nó. Thế là  bà  lấy số tiền mà vợ chồng Viết thỉnh thoảng cho bà để bà ăn quà vặt nhưng bà tiếc tiền không ăn, mua vé cho thằng bé, tất cả mười lăm tờ vé số hết bảy lăm ngàn. Bà bỏ mười lăm tờ vé số vào túi áo, định bụng tối về đưa cho anh Khảo nhưng bà quên khuấy đi mất. Sáng ra bà sờ túi áo, thấy vé số, bà gọi anh Khảo đến kể về giấc mơ, về việc mua vé số. Anh Khảo tức tốc ra bàn vé số ở cạnh khách sạn so số. Mắt anh hoa lên, mười tờ vé số mang ký hiệu NA 30046 của bà trúng số độc đắc .
Cả phố huyện xôn xao về việc bà Lãm đi thăm quan Hà Nội trúng số độc đắc được một tỷ năm trăm triệu. Cái tin này cũng bay nhanh về làng bà, thì ra bà Lãm bỏ nhà ra đi, được thần linh ở miếu làng phù hộ cho trúng số độc đắc. Ngôi miếu làng trước kia vắng vẻ, nay người làng, người huyện, người tỉnh trong, tỉnh ngoài đến xếp hàng rồng rắn để được bê lễ vật vào thắp hương, cầu thần linh phù hộ cho mình trúng số, trúng lô đề, buôn năm lãi mười, thăng quan tiến chức.
Sáng nay, mới sớm tinh mơ, tiếng chuông cổng nhà anh Khảo đã vang lên dồn dập, anh đi ra mở cổng, một chiếc xe tắc-xi đang nổ máy chờ ngay trước ngôi nhà, một người đàn ông bước xuống hỏi:
– Xin lỗi bà Lãm có nhà không?
– Có,  anh là ai?
Vừa lúc đó bà Lãm từ trong nhà đi ra, người đàn ông lao lại phía bà, kéo ra tắc- xi:
– Bà về ở với vợ chồng chúng con, chúng con tìm bà rõng rã mấy tháng trời.
Thì ra là Viết, từ ngày bà bỏ nhà ra đi, Viết chỉ ra xã trình báo  mà không một lần đi tìm kiếm. Tìm làm chi khi bao lần vợ chồng Viết muốn tống bà ra khỏi nhà, nay bà tự bỏ đi, cơ hội vàng bạc này là cái cớ tốt đẹp đuổi bà đi mà dân làng không thể trách móc. Nay biết tin được bà trúng số độc đắc, Viết đã thuê hẳn xe tắc-xi để đón bà về. Bà Lãm kêu lên:
– Không, cứu tôi với!
Anh Khảo bảo:
– Bỏ mẹ tôi ra!
Viết quát  to :
– Tao mới chính là con!
– Không, tôi không có đứa con bạc bẽo như anh. Bỏ tôi ra, bỏ tôi ra!
Ầm ĩ cả phố huyện, cuối cùng anh Khảo phải gọi điện cho cảnh sát 113 đến mới giải cứu được bà Lãm khỏi sự hung hãn của Viết. Viết tuyên bố sẽ khởi kiện ra toà.
Ngày toà án huyện xét xử nguyên đơn Lê Công Viết kiện bị đơn Đào Văn Khảo về tội chiếm đoạt mẹ nuôi, người dân trong huyện kéo đến xem rất đông, bên trong hội trường xử án chật kín, người ta còn đứng tràn ra cả hành lang.
Thẩm phán:
– Nguyên đơn cho biết mục đích của việc kiện bị đơn?
Nguyên đơn:
– Tôi muốn đón mẹ nuôi về nhà để phụng dưỡng.
Thẩm phán:
– Tại sao mẹ nuôi bỏ nhà ra đi đã năm tháng mà nay bị đơn mới đón về? Phải chăng là do mẹ nuôi mới trúng số độc đắc?
Nguyên đơn ấp úng trả lời quanh co. Thẩm phán hỏi bà Lãm về sự bỏ nhà ra đi. Bà Lãm vừa khóc vừa kể lại cuộc sống cơ cực của bà, bà lấy chồng, chồng mất sớm không kịp cho bà một mụn con. Khi đến bệnh viên phụ sản thăm người đẻ, thấy Viết bị bỏ rơi ở nhà vệ sinh bệnh viện, bà đem về nuôi cho đến khi cưới vợ cho Viết, bị vợ chồng Viết lừa bán nhà, bị đối xử tệ bạc. Cái đêm cuối cùng bị vợ chồng Viết nhiếc móc, bà đã ra miếu làng xin thần linh cho bà được chết, bà đi qua cầu bị ngã xuống sông và được anh Khảo cứu vớt sơ cứu, đưa bà về nhà chăm sóc rồi nhận làm mẹ nuôi, đối xử ân nghĩa còn hơn cả con đẻ. Nguyện vọng của bà là được ở lại nhà vợ chồng anh Khảo cho đến khi chết.
Nguyên đơn:
– Bà không về ở với tôi thì toà cũng phải xử cho tôi được một nửa số tiền mà mẹ tôi trúng số.
Thẩm phán:
– Số tiền đó phát sinh sau khi bà Lãm đi khỏi nhà nguyên đơn nên quyền quyết định là của bà Lãm.
Nguyên đơn:
– Nhưng dẫu sao, nhờ có bỏ nhà ra đi thì mẹ tôi mới trúng số.
Thẩm phán:
– Nhưng nếu bị đơn không dũng cảm nhảy xuống sông cứu thì bà Lãm liệu có còn sống để mua vé số? Vậy nên với anh, coi như bà Lãm đã chết, nếu trả tiền cho anh thì chỉ trả tiền cỗ quan tài một triệu năm trăm ngàn đồng. Còn tiền mua hương hoa, vải niệm, nến, bát cơm con trứng thì lấy vào tiền phúng viếng của dân làng.
Nguyên đơn:
– Một cỗ quan tài, thưa toà giá thị trường là ba triệu, sao tôi chỉ được một nửa tiền?
Thẩm phán:
– Ba triệu là quan tài loại tốt. Một người như anh, bà Lãm bị ho cũng sợ tốn tiền không đưa đi khám thì liệu anh có hào phóng mua cỗ quan tài loại tốt không?
Cả hội trường xử án vỗ tay tán thưởng. Thẩm phán hỏi bà Lãm:
– Số tiền trúng số này hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bà, bà định làm gì với số tiền này?
Bà Lãm:
– Trả vợ chồng anh Viết hẳn cỗ quan tài loại tốt ba triệu, cho hai đứa con của vợ chồng anh Viết mỗi đứa năm chục triệu đem gửi tiết kiệm để lấy tiền ăn học còn bao nhiêu tôi cho tất vợ chồng anh Khảo.
Bị đơn:
– Con xin cảm ơn mẹ. Con nhận mẹ làm mẹ nuôi không phải vì tiền vì vậy con chỉ xin nhận một triệu để lấy cái lộc, cái phúc của mẹ, còn bao nhiêu con xin đem tặng cho Trung tâm Bảo trợ huyện để giúp đỡ các cụ già cô đơn. Mẹ yên tâm con sẽ nuôi dưỡng mẹ như mẹ đẻ, khi nào mẹ trăm tuổi, chúng con sẽ lo ma chay, cúng giỗ chu đáo cho mẹ.
Tiếng vỗ tay vang lên rầm rầm. Bỗng huỵch, nguyên đơn ngã chúi người xuống chân ghế. Thẩm phán định gọi xe cấp cứu nhưng bà Lãm bảo không cần, bà nói nhỏ vào tai anh Khảo, anh đi đến bên Viết cầm mấy tờ năm trăm ngàn dúi vào tay Viết. Thật diệu kỳ, chỉ một lúc sau Viết tỉnh lại, mắt nhìn chằm chằm vào những tờ năm trăm ngàn.
VŨ ĐẢM
 
14/5/2021
Nguyễn Thị Diệp Mai
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bóng núi đổ xuống lưng lạc đà Thơ Halmosi Sándor rất khó đọc. Đọc một lần khó nắm bắt được thông điệp và vẻ đẹp thi ca mà tác giả đưa ra...