Thân phận con người
trong thơ Nguyễn Vỹ
Góp mặt vào làng thơ Tiền chiến từ năm 1934 - thời điểm thơ Mới
phát triển mạnh mẽ nhất, không ồn ào, chạy theo tâm lý đám đông lấy chuyện ái
tình lãng mạn làm chủ đề chính cho thơ, Nguyễn Vỹ đã lặng lẽ theo tiếng gọi
thao thiết của con tim viết những vần thơ gửi gắm tâm sự uất ức, dồn nén, bi phẫn
của ông trước cuộc sống đầy phi lý và những kiếp người bị đày đọa trong bể khổ
khôn cùng…Nhà thơ
Nguyễn Vỹ1. Tự bao đời, phẩm tính cao cả nhất làm nên hệ giá trị của một
nền văn học không có gì khác đó là sự quan tâm đến thân phận con người với tất
cả những vui buồn, được mất, hạnh phúc, khổ đau, vinh quang, cay đắng
trong kiếp nhân sinh đầy biến đổi và bất an này. Vì vậy, trong Việt Nam
thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng khi
nghiên cứu về thơ Nguyễn Vỹ đã chia sẻ: “Nguyễn Vỹ góp mặt vào làng thơ tiền
chiến từ năm 1934, thời kỳ thơ Mới đang hồi phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn
này, phần đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào thi
ca… Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà thơ không lấy tình yêu làm đối tượng,
vì thế thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt” (1). Nhận định trên đã xác
quyết một sự lựa chọn riêng của đời thơ Nguyễn Vỹ, một sự lựa chọn vừa như định
mệnh, vừa như hệ quả của cuộc sống với nhiều phong ba bão táp suốt đời cầm bút
của thi nhân. Vậy “đường nét độc đáo riêng biệt” đó của thơ Nguyễn Vỹ là gì và
được thể hiện ra sao? Đó là câu hỏi đặt ra cần một sự luận giải thấu đáo để làm
sáng tỏ các giá trị nhân văn trong thơ Nguyễn Vỹ, ghi nhận những đóng góp của
ông cho thi ca nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Điều này rất cần thiết
đối với một con người mà số phận đã đặt để ông trong rất nhiều khúc quanh của
cuộc sống, với nhiều biến cố xã hội mà một nhà thơ, nhà báo luôn quan tâm đến
thân phận con người như ông phải chọn lựa.
2. Thơ Nguyễn Vỹ, vì thế, theo chúng tôi là thơ mang nặng nỗi
đau về phận số con người và điều này có thể thấy trong nhiều bài thơ như: Sương
rơi, Hoàng hôn, Tiếng chuông chùa, Hai con chó, Hai người điên, Trăng, chó,
tù…, Gửi Trương Tửu, Một mình, Tiếng súng đêm xuân, Giấc mơ bom nguyên tử, Chim
hấp hối, Đêm sầu về, Cũng thế thôi, Sài Gòn đêm khuya, Đêm trinh, Hoa lệ, Hài
nhi lai Mẽo vứt trôi sông…
Qua những bài thơ này, người đọc ở mọi thời đều nhận thấy, ẩn
sau câu chữ là tiếng thở dài chua chát, mỉa mai, là nỗi dồn nén uất ức, nỗi xót
xa, đau đắng và khát vọng muốn phá vỡ những rào cản đang bủa vây để hướng đến tự
do, giải thoát nỗi thống khổ của kiếp người trong xã hội mà sự phi lý, bất
công, hoành hành đến ngột ngạt… Đây là những giá trị cốt lõi, là một hằng
số văn hóa trong thơ Nguyễn Vỹ, bởi nó đã chạm đến tư tưởng nhân văn của
thi ca dân tộc và nhân loại. Và để thể hiện những điều này, bằng tài năng của
mình, Nguyễn Vỹ đã tạo nên những diễn ngôn thi ca đầy tính ẩn dụ qua hình tượng
độc đáo mà Bàng Bá Lân đã nhận xét khá xác đáng: “Nguyễn Vỹ là nhà thơ Việt
Nam có cảm tình với chó nhiều nhất, và lần nào anh đưa con vật đó vào trong thơ
cũng đều xúc cảm được người đọc” (2). Đúng như vậy, trong tâm thức của người Việt,
chó là vật nuôi gần gũi, gắn bó, trung thành với con người. Nhưng chó cũng là
giống loài chịu nhiều khổ cực nên trong dân gian mới có câu nói ví von: “khổ
như chó!”. Trong các bài thơ Hai con chó, Trăng, chó, tù…, Gửi Trương
Tửu đều xuất hiện hình ảnh con chó. Vậy dùng hình ảnh “chó” trong thơ phải
chăng là một dụng ý nghệ thuật để Nguyễn Vỹ muốn gửi gắm những suy tư về thân
phận con người nổi chìm trong cõi nhân sinh, trong đó có chính thân phận mình?
Sống trong thời nước nhà tao loạn bởi ngoại xâm, do bất bình
với hiện thực đương thời, Nguyễn Vỹ viết hai tác phẩm Cái hoạ Nhật Bản và Kẻ
thù là Nhật Bản, sau đó ông bị quân đội Nhật ở Hà Nội bắt giam chiều 30 Tết
nhốt trong hầm kín của Sở Hiến binh Nhật, Kampetai. Nguyễn Vỹ cùng bị giam với
bốn người Việt khác. Bài thơ Hai con chó làm trong phòng ngục tử
hình, thấp và chật, như cái chuồng chó đúng đêm giao thừa Nhâm Ngọ, 1942. Cả
bài thơ tái hiện tình cảnh khốn cùng của cảnh tù đày. Điều đặc biệt là vần “o”
được gieo khắp bài thơ tạo cảm giác về một không gian bức bối, ngột ngạt:
Chuồng ngục tối om, kìa bốn xó/ Bốn thằng bơ bơ như bốn chó/ Chẳng được
nói năng, chẳng được cười/ Hai chân chồm hỗm ngồi co ró/ Lưng rít mồ hôi, không
dám cọ/ Ngứa ngáy tay chân không rậy rọ/ Rệp bò lên cổ, leo lên đầu/ Muỗi bay
khiêu vũ, kêu ó ó.
Ngoài kia là “Hà Nội đón mừng xuân Nhâm Ngọ/ Pháo nổ tưng bừng,
đèn sáng tỏ”, còn trong này là những người tù chịu cực hình tra tấn liên tiếp của
lính Nhật tàn bạo, hắn vừa uống rượu “như uống máu tươi trong cái sọ” vừa dùng
roi da “quất lên bốn đầu sỏ”, “sả ba roi lên đỉnh đầu” những tù nhân. Hình ảnh
những tù nhân hiện lên dưới ngòi bút đặc tả của Nguyễn Vỹ thật thảm hại, họ như
đang bị nhốt trong tầng sâu địa ngục với ma quỷ chứ không phải ở cõi người.
Nguyễn Vỹ khắc họa chân dung những người tù dưới cơn mưa roi da của tên lính Nhật
bằng nhiều động từ và tính từ gợi hình, gợi cảm: rụt vai, mặt mếu mó/ nhăn
nhó/ tay run cầm cập, răng gỏ mỏ/ sốt rét lên cơn, không dám nằm/ cúi đầu lạy lạy
như xin xỏ/ da mặt xanh lè, mắt tho lỏ/ giờ như cái xác con ma xó/ thằng
tôi chờ chết, ngồi co ró
Tính chất bi hài của bài thơ khiến người đọc có thể cười rơi
nước mắt chính là sự xuất hiện bất ngờ của con chó Nhật ngoài song sắt. Song
con chó cũng bị khủng bố, tên lính Nhật “đạp giày lên lưng”, chó Nhật ẳng ẳng
chạy gần đó…/ rồi tôi nhìn nó, nó nhìn tôi/ thông cảm cùng nhau hai đứa chó!
Hai đứa chó – Thật là cay đắng, chua chát, phũ phàng! Kiếp
người và kiếp chó có gì khác nhau đâu? Thậm chí con chó còn được tự do ngoài
song sắt, còn con người chỉ ngồi “co ró” đợi chết mà thôi! Khi bạo tàn ngự trị
khắp nơi thì cả người và chó đều bị tước đoạt quyền sống và quyền tự do, dân chủ.
Câu kết của bài thơ neo lại trong lòng người một dư âm nhức nhối, ngậm ngùi: Ôi
tôi ôi, tôi ôi là tôi! Ôi chó ôi, chó ôi là chó.
Và cũng tiếp nối dòng cảm xúc trên, trong bài thơ “Trăng,
chó, tù…”, Nguyễn Vỹ đã so sánh ba hoàn cảnh và khát thèm sự tự do của trăng và
của chó – một nỗi khát thèm đến nhức nhối tâm can, tái tê tim óc đặt trong hoàn
cảnh bi đát tưởng chừng tuyệt vọng mà đến hôm nay đọc thơ Nguyễn Vỹ chúng ta
không thể không rưng rưng, xúc động và cảm thông:
Bỗng dưng đôi mắt lệ hoen mờ/ tôi gục xuống sàn tre, nằm thổn
thức/ trăng với chó tự do ngoài sân ngục/ tôi bị giam sau bốn bức tường cao/
Ôi! Tự Do mi quý biết nhường bao!
Hơn ai hết, Nguyễn Vỹ-người tù-thi sĩ thấm thía và thấu hiểu
giá trị quý giá của hai tiếng Tự do đối với con người: Có tự do là có cả
thần tiên/ không có nó, trần gian là ngục thẳm. Vậy mà, thân phận con người bị
giam cầm, tù ngục, bị đối xử tàn nhẫn còn không bằng con vật- đó là nỗi đau đớn,
tức tưởi, buồn tủi đè nặng tâm tư, chiếm trọn tâm hồn khiến thi nhân đã khóc rất
nhiều, khóc thâu đêm: Tù Trà – Khê say mê trong giấc đắm/ Trên giường tù
ai lệ đẫm thâu đêm!
Nguyễn Vỹ đã trải lòng mình một cách thành thực, hồn nhiên, tế
nhị…và có lẽ chính vì vậy mà những ví von có tính đối lập của ông giữa hình ảnh
con người mất tự do trong nhà ngục với con chó tự do ngoài sân ngục trở nên
thuyết phục, bởi người đọc không thấy sự khiên cưỡng, gượng ép. Hình ảnh thơ gợi
cho người đọc những suy tư sâu sắc về kiếp người khốn cùng trong một đất nước
đang sống trong kiếp nô lệ, lầm than.
Tồn tại với thân phận “đầu thai nhầm thế kỷ” (từ dùng của Vũ
Hoàng Chương), Nguyễn Vỹ phải chứng kiến bao cảnh đời bi thảm, bất công xảy ra
trên chính quê hương. Ông bất bình với thời thế và muốn làm cái gì đó để phản
kháng cho nguôi nỗi uất ức trong lòng. Nhưng khát vọng của Nguyễn Vỹ bị trả giá
bằng những năm tháng tù đày, cùng cực, điều này giúp chúng ta hiểu hơn vì
sao trong thơ Nguyễn Vỹ nhiều khi ta bắt gặp những tiếng thở dài ảo não như muốn
nối dài sang tận thế kỷ sau: “Ôi! Buồn lắm! Lòng ta buồn da diết!”…
“Con người Nguyễn Vỹ là con người đã sống, đã nếm mùi tân khổ,
gian lao của kiếp “nhân sinh”… Kiếp “nhân sinh” ấy lại ở vào cảnh giao thời của
hai thế hệ, trong một tình trạng bi đát nhất của lịch sử nước nhà, nên Nguyễn Vỹ
đã trở thành con người rắn rỏi, yếm thế… để đi đến tâm trạng căm hờn, biếm nhạo,
khắt khe, chua chát… gần như điên dại” (3). Dùng ngòi bút của mình như một
phương tiện dấn thân để rồi chấp nhận tù tội và những thăng trầm trong cuộc sống
của một thân phận lưu đày, cho nên nỗi khắc khoải phận người trong thơ
Nguyễn Vỹ được thể hiện da diết, thành thực nhất lại chính là trong những vần
thơ ông viết về nghiệp cầm bút.
Không giống như Tản Đà chủ trương lối sống hưởng lạc, yếm thế
“chơi là lãi” để trốn tránh cuộc đời. Nguyễn Vĩ dẫu có “chán mớ đời” trong cái
xã hội “mục, nát, thối” lúc đương thời thì ông vẫn tha thiết với nghiệp văn
chương. Song, càng tha thiết với nghiệp văn chương ông càng đau buồn, chua xót
bởi nhận thức rõ thân phận nghèo hèn, sự tồn tại vô nghĩa của những kẻ cầm bút
mang nhiều khát vọng. Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca văn học dân tộc, có một
thi sĩ đã dũng cảm nhìn thẳng vào bi kịch của thân phận người cầm bút và cay đắng,
xót xa đến tột cùng: “Thời thế bây giờ vẫn thấy khó/ nhà văn An-nam khổ như
chó/ mỗi lần cầm bút viết văn chương/ nhìn đàn chó đói gặm trơ xương/ rồi nhìn
chúng mình hì hục viết/ suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết/ mà thương cho tôi,
thương cho anh/ đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh” (Gửi Trương Tửu).
Hình ảnh so sánh của những câu thơ viết từ năm 1937 của thế kỷ
trước, diễn tả thực trạng bi đát, tủi cực, khốn cùng của nhà văn An-Nam nhưng đến
hôm nay bất cứ ai, đặc biệt là những người làm nghề cầm bút đọc lại vẫn thấy
nhói đau sâu thẳm trái tim mình… Hoài Thanh dù khắt khe với Nguyễn Vỹ đến mức
khó hiểu nhưng vẫn phải thừa nhận: “Lời thơ thống thiết, uất ức, để giãi bày nỗi
bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có
chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy
cho họ không có gì xuất chúng đi thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to
lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của
họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây ở dọc đường hay trong một căn phòng bố
thí” (4).
Không phải ngẫu nhiên “khi Tản Đà say rượu trách Nguyễn Vỹ:
“Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?”. Nguyễn Vỹ
đáp lại, cũng trong lúc say: “Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ chứ chúng ta xấu
hổ nỗi gì?” (5). Câu trả lời của Nguyễn Vỹ đã chứng tỏ cách ví von trong
thơ ông tiềm ẩn những thông điệp thâm thúy, sâu sắc mà bất cứ thời nào ngẫm
nghĩ, suy tư về thân phận của nhà văn nói riêng và nghệ sĩ – những người cầm
bút nói chung chúng ta vẫn thấy nhiều ý nghĩa. Lối chơi chữ hai mặt theo cách
riêng của Nguyễn Vỹ khiến câu thơ vừa mang tính triết luận vừa như sự đúc kết
một hiện tượng đời sống thấm thía nhiều ngậm ngùi, đắng đót, xót xa…!
Nguyễn Tấn Long đã khẳng định văn tài và nhân cách của Nguyễn
Vỹ khi ông xác quyết: “Nguyễn Vỹ có cái nhìn thường xuyên vào thực trạng xã hội,
theo dõi những màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc đã chịu nhiều thảm họa,
hòa lẫn vào đấy tình yêu thương đồng loại, tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là tiếng nói
chân thành phát xuất tự con người còn nghĩ đến quê hương” (6). Quả đúng
như vậy! Đọc thơ Nguyễn Vỹ, có thể nhận thấy bức tranh hiện thực được tái hiện
đa dạng, nhiều sắc màu đậm nhạt khác nhau. Trung tâm của bức tranh là thân
phận bèo bọt, chìm nổi của con người trong cơn binh lửa được Nguyễn Vỹ
tái hiện một cách chân thực nhất khiến chúng ta giật mình xa xót: Kế tiếp
nhau ngã gục những bóng người/ lẫn tiếng súng, tiếng kêu gào: “giết giết!”/ Ai
say máu, chém đâm nhau ác liệt? Ai rên la thảm thiết khóc kêu vang?… Trời đất hỡi
lại bao nhiêu xác chết… Ai thân yêu, nhắn nhủ lúc chia lìa/ Đang quằn quại rỉ
rên bên vũng máu!… Một lớp trẻ chôn vùi ngoài chiến trận/ đã đem xương đem máu đắp
xây mồ/ Một lớp sau còn sống sót bơ vơ/ Khóc cũng dở mà cười càng thêm dở (Tiếng
súng đêm xuân). Và đây là cảnh tượng hoang tàn trong bài thơ “Giấc mơ bom
nguyên tử”: Rớt chìm trong đáy bề khơi/ muôn muôn triệu xác nổi trôi dật dờ/
Hình như cả loài người chết cả/ Khắp bao la đầy mả mồ hoang…
Với tất cả sự tủi hờn của dân tộc chìm đắm trong thảm họa chiến
tranh. Nguyễn Vỹ đã đổ lệ cho những phận người mong manh còn “đầu xanh tuổi trẻ”.
Trong mạch ngầm của những câu chữ diễn tả tang tóc, đau thương là tinh thần phản
đối chiến tranh và khát vọng về một ngày hòa bình “để cho muôn muôn
đời dân tộc/ hết đói rét lầm than tang tóc” (Gửi Trương Tửu).
Chiến tranh và cái chết tàn nhẫn không từ bất cứ một ai, lứa
tuổi nào. Nguyễn Vỹ đã tố cáo tội ác kinh hoàng “do chiến tranh đó mới là thủ
phạm” gây nên: Một hài nhi lai Mẽo vứt sơ sanh/ bị vứt bỏ, trôi bập bềnh
trên sông rạch/ tội xác bé máu me chưa sạch/một đùm nhau chưa cắt, dính tùm lum! Hài nhi là con lai, con hoang, kết quả của lối sống ô hợp bừa
bãi của những người lính Mỹ khi đến Việt Nam đã bị vứt bỏ không thương tiếc – một
hiện tượng đau lòng nhưng không phải ai cũng quan tâm trong bối cảnh xã hội nhiều
nhiễu nhương mạnh ai nấy sống lúc đương thời. Kiếp lưu đày và số phận bất hạnh
của những hài nhi “quốc tế đủ các sắc, các màu” ngay từ lúc chào đời đã tác động
không nhỏ đến tâm tư, tình cảm của tác giả, khiến lòng ông như tan nát: Mượn
đất Việt để chôn nhau cắt rún/ chúng đang sống hàng bà làng, hổ lốn/ vì chiến
tranh, cha của chúng, là tên/ Và chiến tranh là thủ phạm, cho nên… (Hài
nhi lai Mẽo vứt trôi sông).
Có thể khẳng định Nguyễn Vỹ là một trong không nhiều những
nhà thơ Việt Nam khắc họa hiện thực chiến tranh ấn tượng nhất: chiến tranh gắn
liền cùng những cái chết bi thảm, thương tâm, và cái chết cũng như một
sự mặc định đối với thân phận con người nếu xảy ra chiến tranh ở bất cứ nơi đâu
và ở bất cứ thời đại nào. Có lẽ đây là thông điệp nhân văn mà đương thời ít thi
sĩ đề cập đến…
Chiến tranh là chết chóc đau thương… song, không dừng lại ở
đó, hệ lụy chiến tranh mà con người phải gánh chịu là khôn lường, nó tàn phá
văn hóa, và làm băng hoại những gì thuộc về giá trị nhân văn. Con người
không còn được đối xử như là con người nữa, họ phải sống cuộc đời vất vưởng như
con vật thậm chí không được bằng con vật. Nguyễn Vỹ “mang một trái tim/
đìu hiu tan tác/ nặng sầu vết thương” (Chim hấp hối) để chia sẻ cùng những mảnh
đời bất hạnh hơn mình. Đó là cảnh Sài Gòn đêm khuya với những con người “không
cửa nhà, không một chiếc giường rơm… những đàn bà, con trẻ, kẻ già nua/ rách tàn
tạ, áo quần gần không có/ nằm đầu đường dãi nắng với dầm mưa… những hành khất
xác xơ, đầu ủ rũ/ ngày ngồi xin góc chợ khách đi qua/ bạn biết tối họ nằm đâu để
ngủ? Bên bìa thành, trong những bãi tha ma!… Tôi đã thấy một người cha đói
rách/ Ôm con ngồi trong xó tối hoang vu…” (Sài Gòn đêm khuya).
Lẽ ra trong mắt người trẻ tuổi, lãng mạn như thi nhân thuở ấy
xuân phải là “xuân thanh trinh bát ngát đẹp vô ngần” nhưng với tâm hồn nhạy cảm
và “mang trong tim một khối nặng tình thương” Nguyễn Vỹ lại chỉ nhìn thấy
trong khung cảnh mùa xuân những cảnh đời éo le, ngang trái, bao lần thi nhân đã
nhỏ lệ xót thương: “Những thiếu nữ đêm xuân nằm trằn trọc/ buồn cô đơn, tủi phận,
khóc hờn duyên/ những chàng trai thất nghiệp, túi không tiền/ đi thất thểu chiều
xuân trên vỉa phố…/ những đoàn người trí thức, dáng dịu hiền/ gương mặt sáng,
đôi mắt ngời rực rỡ/ phải lam lũ làm quanh năm khổ sở/ không đủ nuôi cha, mẹ, vợ,
con, em/ những công nhân quần áo rách cũ mèm/ mấy ngày Tết đâu có nem với gỏi?/
Ở túp lá bị mưa dầm nắng dọi/ ăn, cà, dưa, nhiều bữa đói không cơm/ kẻ đi xin,
như những xác không hồn/ nằm hấp hối đêm giao thừa góc phố” (Hoa lệ). Trước mắt
nhà thơ hiện thực cuộc sống không thể thêu dệt bằng ảo mộng, đó là hiện thực
phũ phàng khiến trong suy tư của tác giả chỉ ngập tràn nỗi “xuân đau khổ”, “xuân
nghẹn ngào trong cổ, ứ trong tim…/ xuân âm thầm của vô số sinh linh/ xuân đìu
hiu của muôn vạn gia đình/ xuân tang tóc của những nàng quả phụ/ xuân lạnh lẽo
trên những mồ vô chủ…”
Đói nghèo, tàn tạ, mông muội… những kiếp người vật vờ, sờ soạng
như bóng ma trong bóng đêm dày đặc, mịt mù – ấn tượng đó chúng ta gặp không ít
trong thơ Nguyễn Vỹ. Thi nhân đã lưu lại cho hậu thế một bức tranh chân thực về
đời sống đương thời mà chính ông là chứng nhân lịch sử. Nguyễn Vỹ đã chủ ý tô đậm
gam màu u tối trên bức tranh – đó cũng chính là gam màu mang đến cho người đọc
mọi thời nhiều ưu tư về thời thế và thân phận con người đã, đang và sẽ sống
kiếp đọa đày giữa cõi trần gian đầy bất trắc. Và những điều này không thể không
làm ta suy nghĩ truy tìm câu trả lời đặt ra cho nhân loại mà sinh thời chính
Nguyễn Vỹ đã luôn trăn trở: Phải làm sao cho hết người đói lạnh/ phải làm
sao cho hết kẻ bần hàn/ và làm sao những tâm hồn hiu quạnh/ được niềm vui trong
an ủi hân hoan…” (Sài Gòn đêm khuya).
3. Góp mặt vào làng thơ Tiền chiến từ năm 1934 – thời điểm thơ
Mới phát triển mạnh mẽ nhất, không ồn ào, chạy theo tâm lý đám đông lấy chuyện
ái tình lãng mạn làm chủ đề chính cho thơ, Nguyễn Vỹ đã lặng lẽ theo tiếng gọi
thao thiết của con tim viết những vần thơ gửi gắm tâm sự uất ức, dồn nén,
bi phẫn của ông trước cuộc sống đầy phi lý và những kiếp người bị đày đọa trong
bể khổ khôn cùng. Sinh thời, Nguyễn Vỹ cùng thơ ông đã tạo sự hấp dẫn và quan
tâm đối với người tiếp nhận của nhiều thế hệ qua mọi thời đại. Cho dù Hoài
Thanh đã từng chê thơ Nguyễn Vỹ là mắc “tật lòe đời”, Thế Phong đã từng khẳng định
“sự nghiệp của Nguyễn Vỹ chỉ được một câu thơ trong bài gửi cho Trương Tửu khiến
cho người đời còn nhắc đến tên ông: Thi sĩ Việt Nam khổ như chó” (7) thì cho
đến hôm nay theo thời gian, hồn thơ Nguyễn Vỹ đã và đang tiếp tục khẳng định
giá trị trường tồn của nó, bởi một lẽ giản dị: tự thân nội hàm thơ Nguyễn
Vỹ đã mang tư tưởng vượt thời đại ông sống, chạm đến những vấn đề mang giá trị
trường cửu của thi ca nhân loại, hàm ẩn những giá trị nhân văn tiến bộ sâu sắc
mà độ lùi thời gian càng lớn nó càng phát lộ hào quang – đó là vấn đề thân phận
con người!
Nguyễn Vỹ đã sống và viết như một thi sĩ dám dấn thân để chia
sẻ với nhân quần những đau khổ về phận người với những trang viết đầy ắp nỗi niềm
trăn trở. Ông sống như một kẻ “cô phương” (chữ dùng của Nguyễn Vỹ) suốt những
năm tháng ngắn ngủi của cuộc đời mà nhiều khi không có nổi “chốn nương thân”.
Song, ông đã can trường chấp nhận, đối diện, đương đầu với những trầm luân đau
khổ của cuộc đời và như một định mênh mà số phận đặt để. Và chính cuộc đời nghệ
sĩ “ba nổi bảy chìm” của Nguyễn Vỹ trong cõi nhân sinh cũng là một bài thơ thống
thiết, ẩn chứa nhiều thông điệp đầy tính nhân văn gửi đến các thế hệ mai sau.
Bài viết này, vì thế, xin được coi như một nén tâm hương tưởng nhớ, tri ân Nguyễn
Vỹ – người con tài hoa của quê hương Quảng Ngãi về những gì ông đã làm cho thơ
và cho đất nước trong phận số của một Con Người đúng nghĩa… Xin được ngược dòng
thời gian, chia sẻ cùng thi nhân nỗi cô đơn của trái tim nghệ sĩ luôn đau đáu
niềm đau về thân phận con người với những mảnh đời bé nhỏ, mong manh, như thi
nhân từng bộc bạch: Một trời, một biển bao la/ một mây, một gió, một ta, một
mình/ trần ai một kiếp lênh đênh/ trăm thương, nghìn nhớ, một mình, một ta…
CHÚ THÍCH:
(1), (3), (6), (7). Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng, Việt
Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng), tr. 438, 449, 446, 460.
(2). Nhiều tác giả, Văn thi sĩ hiện đại, Nxb.
Xây dựng, Sài Gòn, 1962, tr. 153
(4),(5). Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt
Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003 (tái bản), tr. 107, 108.
16/6/2020 Cao Thị Hồng
16/6/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét