Truyền kỳ Nguyễn Dữ: Văn chương
phải giúp con người mạnh mẽ
hơn!
Luôn nhiều năm liền theo đuổi đề tài lịch sử, tôi nhận ra một
điều rằng, lịch sử của dân tộc Việt Nam không chỉ hết sức phong phú, cuồn cuộn
trầm tích tầng tầng mà còn luôn đưa ra nhiều thông điệp hữu ích cho người đời
sau.
Lịch sử ở đây phải bao gồm tất thảy những gì hiện hình trong
đời sống mấy nghìn năm của bách tính thị tộc Đại Việt chứ không thể gò bó trong
vài quyển chính sử sao chép truyền thừa của giới sử quan.
Có ông quan chuyên về chép sử nghiêm cẩn lạnh lùng, tiếng tăm
truyền lại, song không ít chỗ đều là nhìn vào cái lừ mắt của quân vương mà chép
cho đẹp ý vương triều. Bởi vậy, sự thật lịch sử, ở nhiều khúc quan trọng, lại
thấy mịt mờ diệu vợi. Người viết tiểu thuyết lịch sử đời sau bởi vậy như bị
đánh đố, bị ách tắc ngòi bút.
Ấy vậy mà, tiền nhân của chúng ta, nhất là những người cầm
bút, đặc biệt là giới sáng tác văn chương như có huyền cơ để lại, không chỉ chứng
lý mỗi sự kiện lịch sử mà cả một khung trời nghệ thuật đầy biến ảo, rành rành sự
thật vô cùng sinh động miên man, tha hồ cho người đời sau học hỏi.Ở những lúc khó khăn bí bách nhất, tôi thường tìm tới “Truyền
kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Hai mươi truyện của ông luôn cứu cánh cho tôi ở những
bước ngoặt, những chân tường. Với tôi, Nguyễn Dữ không chỉ đích thực là một nhà
văn, ông còn là một nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn với thành tựu đến hôm nay vẫn
là dấu mốc cực kỳ quan trọng của văn học sử.
Cuộc đời ông quả là những truyền kỳ đặc sắc và bí ẩn. Ông học
tập và giao du với những danh sĩ xuất chúng đương thời. Là học trò của Tuyết
Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn tâm giao với Trạng Bùng Phùng Khắc
Khoan. Phùng Khắc Khoan có khoảng thời gian dài làm quan lớn ở Thanh Hóa, Nghệ
An, cũng là khoảng thời gian sáng tác sung sức nhất để hình thành “Truyền kỳ mạn
lục” của Nguyễn Dữ.
Phùng Khắc Khoan vốn nổi tiếng tài thơ nhất nhì Lê triều khi ấy.
Hai ông một thơ một văn đều là học trò cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm nơi núi rừng Thanh
Hóa hẳn nhiên sẽ văn chương giao kết, câu chữ tri âm. Chỉ riêng những xen đàm đạo
cùng tiên thánh, trò chuyện với quỷ thần trong các trước tác của nhị vị Nguyễn
– Phùng sau này được lưu truyền sử sách đã nói lên điều đó.
Viết “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ trước tiên thỏa mộng
chính mình. Mộng văn chương. “Truyền kỳ mạn lục” chính là sự chuyên nghiệp sớm
nhất của người sáng tác của người Việt. Trước ông, các vị vua chúa đại thần
sáng tác thơ văn từ số lượng tới chất lượng có thể hơn ông như Nguyễn Trãi,
song thơ văn của cụ luôn bàn về thời thế, quân chính, đạo lý, luân lý cao siêu.Nguyễn Dữ khác hẳn, cũng từ những điển tích, điển cố, từ những
truyền kỳ trong dân gian, ông thẳng thắn và dũng cảm, tài hoa và mẫn cảm, khéo
léo và hăng hái đi thẳng một mạch vào thân phận con người. Khi ngòi bút quá
hăng say, ông đã đụng chạm tới cả thánh thần, bá vương phương Bắc, diêm vương
dưới âm tào địa phủ, thần nhân, thánh nhân một cách sâu sắc để đưa ra những bài
học hữu ích cho đời.
Không thể nào ngờ được rằng, từ gần 500 năm trước, “Truyền
kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ đã có vô số cảnh ân ái giăng hoa, những mối tình hoan
lạc bất chấp đất trời, vượt qua khung khổ gò bó của cái gọi là vương đạo, pháp
đạo, gia đạo trói chặt con người, nhất là người phụ nữ đã hàng nghìn năm. Những
trang viết về tình yêu nam nữ trong “Truyền kỳ mạn lục” là những trang văn
thanh thoát nhất của Nguyễn Dữ. Thậm chí, các truyện: “Chuyện nàng Túy Tiêu”;
“Truyện nghiệp oan của Đào Thị”; “Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây”; “Truyện cây gạo”… thì
những mối tình ở đó không chỉ phức tạp bí ẩn mà còn là tiếng nói phản kháng cực
lực với đạo lý Nho gia.
Ngòi bút của Nguyễn Dữ ở những truyện này khiến người đời sau
kính sợ sự thâm hậu miên lý tàng châm khi ông khai thác thẳng vào những đồi bại
của nho sĩ trụy lạc, bọn lái buôn hãnh tiến, bọn quan lại hủ lậu tham lam mà
tinh tế cảm thông, thậm chí công nhiên xiển dương cảnh trai gái yêu đương, thề
thốt giao tình giữa thanh thiên bạch nhật.
Đó là sự buông phóng thể xác trong “Truyện cây gạo” giữa
Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh; đó là sự hoan lạc mê đắm giữa Hà Nhân và hai nàng
Đào, Liễu trong “Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây”. Không ít chỗ còn hết sức buông tuồng:
“Sinh rủ rê cả hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả
lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm
còn phong, chỉ e mưa nắng nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm
yếu”. Sinh khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ân
ái mười phần thỏa nguyện”.
Cách đây gần 500 năm mà cụ Nguyễn Dữ đã viết như thế quả thực
hết sức phong tình vậy.
“Truyền kỳ mạn lục” dẫn những lời bình của chính Nguyễn Dữ
như một phép đọc, một điểm nhìn. Sự phong phú, hàm súc của mỗi lời bình đã như
tô thêm vẻ đẹp cho tác phẩm. Khi thì đặt vị quan Đại Việt ngang hàng với các
hoàng đế Trung Quốc như “Câu chuyện ở đền Hạng Vương” đã không chỉ đối chọi
với ngòi bút tán tụng của Tư Mã Thiên mà còn chỉ thẳng ra những chỗ bất tiếu của
Lưu Bang, Hạng Vũ.
Ngòi bút của Nguyễn Dữ đặc biệt sắc sảo khi phải vạch trần những
hủ bại của bọn vua quan, thậm chí quỷ thần đều bị Nguyễn Dữ phơi lên mặt giấy.
Ngay như giới tu hành trí trá nơi cửa Phật làm trò mê tín dị đoan nhất loạt đều
bị Nguyễn Dữ điểm huyệt cứng họng bằng một thứ văn chương cuồn cuộn như nước thủy
triều. Cũng với sự sắc bén thâm hậu ấy, Nguyễn Dữ đã chỉ thẳng ra những chỗ hào
nhoáng, tâng bốc, xu nịnh ở ngay người cầm bút, nhất là những nhà thơ từ đời Trần
đến đời Lê rất cần được giới nghiên cứu văn học sử lưu tâm. Chủ trương dựng nên
những việc hoang đường mà thông điệp đưa ra vô cùng có ích chính là chỗ tài nhất
của Nguyễn Dữ.
Từ những tích truyện nhiều khi đã cũ mòn trong dân gian mà
qua ngòi bút Nguyễn Dữ đều lập tức sinh động uyển chuyển, như cầm nắm được, như
hơi thở nóng hổi bên mình. Đọc văn của ông không chỉ thấy những xấu xa thối nát
của bọn vua quan hoang phí sức dân, những trọc phú dùng tình chế áp người khác
mà thụ hưởng khoái cảm vô độ của mình, những kẻ lợi dụng đạo giáo để làm trò
khuất tất mà còn toát lên vẻ đẹp từ chính sự cần lao, từ khát vọng không biết mệt
mỏi của những thân phận thấp bé, nhất là những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến.
“Truyền kỳ mạn lục” mặc dù tác giả của nó luôn tỏ ra rất
khiêm nhường, song thực chất là đỉnh cao khó vượt của giới cầm bút, thậm chí
cho tới tận hôm nay.
Sau này, khi đọc tập “Yêu ngôn” của nhà văn Nguyễn Tuân,
dù Nguyễn Tuân rất tài tình và thăng hoa song chúng tôi vẫn thấy “Truyền kỳ
mạn lục” ở một đẳng cấp cao hơn hẳn. Càng đọc lại, càng thấy những đóng góp lớn
lao của Nguyễn Dữ đối với văn học sử. Những truyện của Nguyễn Dữ đều ra đời trước “Liêu
trai chí dị” của Bồ Tùng Linh bên Tàu càng cho thấy tính sáng tạo độc đáo của
ông.
Sinh thời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng phủ chính,
biên tập “Truyền kỳ mạn lục” và cho rằng đó chính là thiên cổ kỳ bút. Ngay
việc Nguyễn Dữ từng thi đậu hương tiến (tức cử nhân), tiếp đó ông thi hội trúng
tam trường và có ra làm tri huyện Thanh Toàn (nay là huyện Bình Xuyên – Vĩnh
Phúc) nhưng chỉ một thời gian ngắn đã lập tức cáo quan ẩn cư ở Thanh Hóa viết một
mạch hai mươi truyện nơi rừng núi kể cũng lạ lắm thay.
Văn chương của Nguyễn Dữ chính là thứ văn dĩ tải đạo chất chứa
biết bao thông điệp để làm giàu có tâm hồn, tạo sự công bằng xã hội, khuyến
khích những người hiếu nghĩa, bênh vực giới nữ, xiển dương điều hay ý đẹp ở đời.
Bởi vậy, dẫu đã vài trăm năm mà vẫn như người đồng thời trò chuyện và cung cấp
tri thức cho người hôm nay vậy.
Hiện thực xã hội thời nào cũng có những nhức nhối khôn khuây.
Không thể có một xã hội nào toàn thiện, toàn mỹ và việc chúng ta giáp mặt,
đương đầu với những u mê dốt nát tăm tối do chính con người đem tới cho con người
là lẽ tất nhiên. Chỉ có điều rằng, trước Nguyễn Dữ và sau Nguyễn Dữ, dường như
quá ít nhà văn, kể cả trong ngày hôm nay đủ khí và lực, cương trực, dũng cảm,
tài hoa thể hiện bằng tác phẩm được như ông. Điều này quả là đặc biệt, rất cần
được nghiên cứu và khẳng định sâu sắc hơn nữa văn tài Nguyễn Dữ.
Ngày hôm nay, nhiều giá trị đang bị đảo lộn. Những thách thức
lớn trong việc khẳng định nền văn hóa dân tộc, ở một bình diện nhỏ hơn là văn học
nghệ thuật đang phải chịu nhiều sức ép, thậm chí có lúc dường như quá sức. Đây
đang là vấn đề đặt ra, trách phận của trí thức, nhất là giới sáng tác phải nhận
lãnh trách nhiệm về mình. Có lẽ nào, gần 500 năm trước, phẩm cách và tài năng của
các cụ như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ đã hiển lộ rõ ràng,
giúp ích để con người sớm trưởng thành hơn mà hôm nay con cháu các cụ lại mãi
luẩn quẩn trong những cạn hẹp, manh mún, sơ sài trong sáng tác.
Văn chương nhất thiết phải giúp con người mạnh mẽ hơn mới là
văn chương đích thực. Nguyễn Dữ chính là con người như vậy, nhà văn như vậy.
6/9/2021 Phùng Văn Khai
6/9/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét