“… Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”
HỒI THỨ NHẤT
Dương Đình Nghệ thân chinh Bắc phạt
Lý Khắc Chính binh bại Giao Châu
Bấy giờ, khoảng những năm cuối nhà Đường, triều chính ngày một
suy vi, giặc cướp phiên trấn nổi lên khắp nơi, các Tiết độ sứ tranh giành quyền
lực, đất đai, đánh nhau triền miên không dứt. Đường triều dần rơi vào thế tự diệt
vong, các trung thần, lương tướng theo nhau bỏ đi cả. Các vùng đất triều đình
cai quản nay hoang phế quyền lực. Khắp nơi, các thổ hào, tù trưởng, hào trưởng,
châu mục cát cứ xưng hùng miên man không dứt. Đến khi nhà Đường dứt hẳn (907),
Chu Ôn, một Tiết độ sứ hùng mạnh, sau khi thảo phạt các vùng Hà Nam, Thiên Bình,
Thái Ninh, Phượng Tường đột ngột về kinh sư trấn áp triều thần, ép Đường Ai Đế
thoái vị, tự lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc đại loạn Ngũ đại thập quốc nồi
da xáo thịt nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Cũng thời gian ấy, Tiết độ sứ
Quảng Châu là Lưu Cung, một anh hùng hào kiệt đầy thế lực trưng tập binh lương,
xây thành đắp luỹ xưng vua, lập nên nhà Nam Hán, chống nhau với nhà Hậu Lương của
Chu Ôn hàng chục năm trời. Muôn dân trong ngoài cõi Trung Nguyên ngày càng lầm
than trong biển lửa chiến tranh không dứt.
Ở Giao Châu, nhân Trung Nguyên nội loạn, nhà Đường diệt vong,
thổ hào địa phương các nơi nổi lên đánh đuổi quan quân nhà Đường về nước. Trong
những thổ hào, nổi trội nhất là Khúc Thừa Dụ với tài năng và binh lực hùng mạnh
đã đánh đuổi quân tướng nhà Đường, chiếm giữ phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết
độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, người con là Khúc Hạo nối nghiệp cha trấn nhậm
Giao Châu, xây thành đắp lũy, sắp đặt binh lương tính kế lâu dài. Khi ấy, có
người hiến kế cho Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm sứ sang nhà Nam Hán để
dò xét thực hư. Khúc Thừa Mỹ vốn có nhiều toan tính, vài năm sau, khi kế nghiệp
cha đã ngầm cho người sang Biện Kinh lĩnh Tiết việt của nhà Hậu Lương. Mọi việc
chẳng may đến tai Lưu Cung, vua Nam Hán nổi giận đùng đùng, cho rằng họ Khúc ăn
ở hai lòng, cũng là lúc đám đại thần xui đánh chiếm Giao Châu, thiết lập sự cai
quản của nhà Nam Hán, vơ vét tài vật phương Nam. Lưu Nhiễm nghe theo, tức tốc cử
đại tướng Lý Khắc Chính đem năm vạn binh mã xuống hỏi tội Khúc Thừa Mỹ. Quân
Nam Hán đi tới đâu tàn sát cướp bóc muôn dân tới đó rất thảm khốc. Quân tướng của
Khúc Thừa Mỹ chống đỡ không nổi, thua trận liên miên. Đại La thất thủ. Bản thân
Khúc Thừa Mỹ bị bắt đóng cũi đưa về Phiên Ngung xử tội. Giao Châu trong sớm tối
lại bị cai trị dưới sự bạo ngược của nhà Nam Hán phương Bắc.
Trong khoảng thời gian ấy, vùng đất Ái Châu vốn nằm trong sự
cai quản của Dương Đình Nghệ, một vị hào trưởng thế lực lớn nhất vùng đồng thời
là nha tướng tin cậy của Khúc Hạo. Hào trưởng Dương Đình Nghệ còn kết giao với
các hào trưởng, châu mục nổi danh các vùng, đêm ngày luyện binh trữ lương, khẩn
hoang lập ấp, chăm dân mở cõi, ngày càng trở nên hùng mạnh, dân tứ xứ theo về rất
đông. Trong nhà Dương Đình Nghệ lúc nào cũng dư vài ngàn môn khách, văn thần võ
tướng đủ đầy, thóc lúa trăm kho chật ních, ngựa voi ruộng vườn muôn kể, binh
lính thuỷ bộ hàng ngàn, chẳng khác nào chúa của một vùng đất vậy. Trong số những
anh hùng hào kiệt thường xuyên kết giao với họ Dương phải kể đến Ngô Mân, vị
châu mục nổi tiếng vùng đất Đường Lâm và Đinh Công Trứ, vị hào trưởng trẻ tài
danh vùng đất Đại Hoàng.
Khi nghe tin Lý Khắc Chính đem năm vạn binh tướng tiến đánh
Giao Châu, tuyệt diệt họ Khúc, bắt Khúc Thừa Mỹ đóng cũi đưa về Phiên Ngung xử
tội, Dương Đình Nghệ cho mời các thổ hào, châu mục địa phương, các vị bô lão
trong vùng, lại cho gọi các gia thần, gia tướng trong đám môn khách về ngôi nhà
lớn thủ phủ Ái Châu thượng nghị.
Khi mọi người ai ngồi ghế nấy im phăng phắc, Dương Đình Nghệ
đầu chít khăn nhiễu xanh, lưng thắt đai lụa tía khảm bạc, chân đi giày vải thêu
phượng, đĩnh đạc đường hoàng cất giọng sang sảng:
– Kinh thưa các bậc lão trượng, các vị huynh đệ đã cùng Dương
gia gắn kết buồn vui mấy chục năm qua. Ta mới được tin từ Đại La, bọn Lý Khắc
Chính vâng mệnh vua Nam Hán xua binh tướng chiếm đoạt Giao Châu, bắt chúa ta
đóng cũi giải về phương Bắc. Ta vốn là bộ tướng của họ Khúc, còn chưa có công
lao gì. Mới ngày nào tiên chúa Khúc Hạo mất đi, còn di dặn ta giúp dập tân chúa
Khúc Thừa Mỹ. Ta đêm ngày chưa nghĩ ra kế gì để giúp chúa mới đã gặp lúc lũ giặc
Bắc đã xuống tay quá nhanh. Tháng trước, vừa được tin Lý Khắc Chính xua binh tướng
vào Giao Châu, ta đã định đem binh lên đường giúp chúa. Binh lương đang cắt
đặt chưa kịp lên đường đã được tin chúa thất trận ở Đại La bị Lý Khắc Chính bắt
về Phiên Ngung. Lòng ta đau xót căm tức biết là nhường nào. Nay cho triệu mọi
người đến, xin được nghe kế tiến thủ để khỏi làm nhục mệnh tiên chúa.
Gian nhà lớn hơn trăm người theo ngôi chủ khách các hàng ghế
nghiêm ngắn im phăng phắc. Một lúc, vị hào trưởng họ Đinh vốn được mời đến từ
châu Đại Hoàng vượt hơn trăm dặm núi non đứng dậy thủ lễ rồi nói:
– Đinh mỗ ta vốn đã sớm nghe giặc phương Bắc chiếm thành trì,
bắt chúa Giao Châu đóng cũi xử tội mà căm phẫn, bèn lập tức đến đây họp bàn với
Dương huynh. Hiện tình, giặc kia càn rỡ, chúng cậy ngựa khoẻ binh mạnh, chiếm cứ
đất đai thành trì, giết chóc dân ta rất thảm khốc. Lòng dạ tham lam của người
phương Bắc chưa bao giờ dứt với người phương Nam. Nay theo ý Đinh mỗ, Dương
huynh hãy vì đại nghĩa mà thống suất binh quyền, chọn tướng giỏi, dùng người hiền
Bắc tiến một phen. Có lẽ nào chúng ta giương mắt nhìn Lý Khắc Chính kia tàn hại
mồ mả đất đai dân chúng Giao Châu?
Lời Đinh Công Trứ còn chưa dứt, một vị lão trượng râu tóc trắng
như cước tiến ra cất giọng trầm hùng:
– Lời nói của hào trưởng Đinh Công Trứ thật như từ gan ruột
phơi ra vậy. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Ta đây đã sống gần tám
mươi tuổi, từ nhỏ đã thấy cái họa phương Bắc là họa ngàn đời. Tiếng là vua
chúng phân phong quan tước cho người phương Nam chúng ta, nhưng thực chất ta chỉ
làm trâu ngựa cho chúng. Họ Khúc đã mấy đời làm tướng, kiêm quản Giao Châu,
giúp dân giúp nước công lao có phải một hai buổi là kể hết được đâu. Tướng quân
Khúc Hạo nhiều phen vào tận vùng Hoan Châu, Ái Châu vỗ về dân chúng, giáo hóa lễ
nghĩa, bày việc canh cửi tầm tang, trồng cấy, mới có được cuộc sống no đủ. Ái
tướng của ngài là Dương công đây một lòng nhân đức, kính trên nhường dưới, mở đất
nuôi dân, muôn kế lắng nghe, bốn biển theo về yên ổn đã mười mấy năm nay rồi.
Nay họ Khúc lâm nạn, lẽ nào người Ái Châu, Hoan Châu chúng ta không rửa nhục?
Vừa nói, lão trượng vừa để rơi giọt lệ già xuống chòm râu cước
trắng khiến mọi người đều xúc động. Lời cụ già vừa dứt, trong các gia tướng, một
vị tướng trẻ cao lớn dị thường, mặt mũi khôi ngô, bước ra cất tiếng sang sảng tựa
chuông đồng:
– Đinh công nói chí phải! Lão trượng nói chí phải! Theo ngu ý
của mạt tướng, giặc Bắc vô đạo xuống chiếm Giao Châu bắt chúa ta đóng cũi giải
về đất chúng trời người đều căm hận. Xưa nay, trời đất đã phân phong Nam – Bắc
– Đông – Tây, đất nào chúa nấy, chia nhau tự lập tự cường. Cơn cớ gì, lũ giặc Bắc
năm lần bảy lượt chiếm đất phá thành phương Nam chúng ta. Thù này tất phải báo.
Nhạc phụ hãy mau điểm binh tướng, con nguyện làm tiên phong bắt tên giặc già Lý
Khắc Chính để đổi lấy Khúc chúa về làm chủ Giao Châu mới hả được giận này.
Mọi người nhìn kỹ thấy đó chính là Ngô Quyền, vị tướng trẻ
cũng là con rể của Dương công luôn rất được họ Dương yêu mến cho theo sát bên
mình. Phàm là các việc binh lương sĩ tốt, Dương Đình Nghệ đều giao cho. Các việc
mở đất đóng thuyền, săn bắt voi ngựa, trao đổi thóc gạo sắt muối nơi thượng du
hạ bạn, vùng sông cửa biển nhất nhất Dương công đều giao phó. Ngô Quyền là con
cả của hào trưởng Ngô Mân ở Đường Lâm, vốn là một bậc huynh trưởng của Dương
Đình Nghệ từ buổi hai người cùng theo về với Khúc Hạo. Khi Ngô Quyền tròn mười
tám tuổi được Dương Đình Nghệ gả con gái yêu cho. Từ đó hai nhà Dương – Ngô
ngày càng khăng khít. Ngô Mân được Dương Đình Nghệ tin tưởng kính trọng lắm. Họ
Ngô ở châu Đường Lâm là một họ rất có thế lực trong vùng. Ngô châu mục văn võ
kiêm thông, bề ngoài hòa nhã, bên trong cương cường. Việc rèn dạy các con, đặc
biệt là con trưởng Ngô Quyền hết sức nghiêm khắc. Ngô Quyền khi mới sinh đã có
điềm lạ trời ban. Từ đó, châu mục Ngô Mân càng giữ gìn, đêm ngày mời những thầy
giỏi về giáo huấn cho con trai cùng đám gia tướng.
Dương Đình Nghệ tươi cười phấn chấn nhìn khắp lượt các bô
lão, Đinh Công Trứ và Ngô Quyền. Dương công đứng dậy nói:
– Xin cảm ơn sự chỉ bảo của các vị lão trượng. Ta cảm ơn tấm
lòng trung nghĩa của Đinh công. Còn với Quyền nhi, chí khí của con ta hết sức cảm
động. Việc tiến binh rửa nhục cho Khúc chúa phải bàn thật kỹ mới được. Lý Khắc
Chính là bậc danh tướng của hoàng đế Lưu Cung không phải dễ đánh bại đâu. Chúng
vừa thắng lớn, tất sĩ khí còn hăng, binh lực lương thảo đều dồi dào. Nay lại
đang mùa mưa bão, thuỷ bộ hai đường tiến ra đất Bắc hỏi tội chúng không phải dễ
dàng. Chi bằng ta hãy cho người đem một phong thư giả đến xin hàng. Trước khiến
chúng thêm kiêu ngạo khinh suất. Sau là kế tranh thủ thời gian để ta sắp xếp
binh lương cho tinh nhuệ mới có thể thủ thắng chúng được.
Mọi người im lặng lắng nghe. Ai cũng thấy được những suy nghĩ
sâu xa của Dương công. Xưa nay, bất luận là việc trong nhà hay việc ở ngoài các
vùng đất Ái Châu, Hoan Châu được họ Khúc trao quyền kiêm quản, Dương Đình Nghệ
đều hết sức thận trọng. Việc lớn việc nhỏ đều trưng tập ý kiến của các gia thần,
gia tướng, thỉnh thị các bậc lão trượng rất kỹ lưỡng rồi mới thực thi. Bởi lẽ
đó, Ái Châu, Hoan Châu hàng chục năm nay hết sức yên ổn. Cư dân cường thịnh.
Lúa gạo trâu bò đầy nhà đầy cửa. Những đội thuyền đi biển đánh bắt hải sản ngày
càng đông đúc. Các làng chài, làng rèn, làng mộc, làng muối đêm ngày nhộn nhịp.
Muôn dân ai cũng biết ơn công đức của họ Dương. Mấy lần, Khúc chúa thân chinh đến
Ái Châu, Hoan Châu đều khen lắm.
Mọi người còn đương lắng nghe như nuốt lấy từng lời, bỗng
nhiên một vị gia thần trạc tuổi ngũ tuần, chòm râu đốm bạc dài chấm ngực bước
ra nói:
– Dương công! Việc trước mắt kế sách của Dương công sau trước
đều vẹn toàn cả. Tại hạ chỉ lo là giặc kia tinh ranh bạo nghịch, nếu không có
người giỏi đi dâng thư, chúng tất cho ta là lập kế trá hàng mà đề phòng, việc lớn
ắt khó thành. Theo ngu ý của tại hạ, người đưa thư xin hàng tất phải trí dũng gồm
đủ, là cật ruột của Dương công mới mong việc thành vậy.
Dương Đình Nghệ nhìn viên gia thần họ Đoàn thầm cảm phục.
Đoàn Thành vốn dòng dõi danh tướng Đoàn Kiếm, người từng theo Mai Thúc Loan khởi
nghĩa đánh giặc Đường. Về sau, hậu duệ họ Đoàn nhiều đời nối chí cha ông đánh
giặc lập công. Cháu nội Đoàn Kiếm là Đoàn Phương vốn từ buổi đầu đã theo phò Phùng
Hạp Khanh, kế đến theo Phùng Hưng đánh đuổi giặc Đường giành quyền độc lập cho
nước. Từ khi theo về làm gia thần cho họ Dương, Dương Đình Nghệ luôn lắng nghe
ý kiến của Đoàn Thành. Họ Đoàn bên trong nho nhã chừng mực, bên ngoài chu tất mọi
việc được giao. Đoàn Thành rất có uy trong đám gia thần gia tướng. Họ Đoàn đã
quả quyết nói rõ ý mình tức là trong bụng đã có chủ ý tiến cử người đi gặp Lý
Khắc Chính rồi.
Dương Đình Nghệ thong thả hỏi:
– Đoàn tiên sinh đã có chủ ý tiến cử người rồi sao?
Đoàn Thành nghiêm trang đáp:
– Thưa Dương công! Kính thưa các bậc lão trượng! Phàm từ trước
tới nay, vào hang cọp lừa giặc chỉ có thể dùng trí không dùng sức. Dẫu là vậy,
cuộc này người được cử đi phải trí dũng gồm đủ. Trước phải tỏ rõ thiệt hơn để
giặc kia cân nhắc lợi hại. Sau phải biết nhún nhường đối đáp chúng để chúng
khinh suất kiêu căng. Đối với giặc phương Bắc thời nào cũng vậy, chúng luôn cậy
thế thiên triều coi các vùng phiên trấn như cỏ rác mà dọa nạt nhục mạ vô cớ.
Nhân cuộc này, ta phải trước lừa giặc sau dạy dỗ cho chúng một bài học mới được.
Đoàn Thành vừa dứt, Đinh Công Trứ tiến ngay ra nói:
– Đoàn tiên sinh! Ta tuy bất tài xin nguyện vì Dương công đem
thư tới trại giặc.
Lại một vị tiến ra xin nói. Mọi người trông thì là Ngô Quyền:
– Mạt tướng tuy bất tài xin được thay Đinh công vào trại giặc.
Mọi người nhìn nhau không ai dám nói. Dương Đình Nghệ vội bước
đến chỗ Đinh Công Trứ ôn tồn cất giọng:
– Đa tạ Đinh công đã dám vì rửa nhục cho Khúc chúa mà sẵn
lòng vào núi đao biển lửa. Song ta nghĩ, Đinh công hãy sớm trở lại châu Đại
Hoàng sửa soạn binh tướng thuyền bè để nay mai kéo quân ra hỏi tội Lý Khắc
Chính sớm được chu toàn là hơn. Việc này hãy để Quyền nhi thay ta một phen. Lý
Khắc Chính vốn là tay lão luyện, sai Quyền nhi đi sẽ khiến y dễ thuận lòng. Huynh
trưởng Ngô Mân đời đời thế tập châu Đường Lâm là người danh tiếng, ắt họ Lý kia
cũng biết đến. Chẳng phải lũ giặc Bắc ngày đêm mong muốn các châu mục, sách động
phương Nam chúng ta thần phục đó sao? Còn như việc viết thư xin hàng, nay ta
giao cho tiên sinh Đoàn Thành. Lời lẽ thế nào chắc tiên sinh tự biết.
Mọi người đều thống nhất quyết sách của Dương công. Đoàn
Thành chắp tay thủ lễ nghiêm trang nói:
– Tại hạ xin nhận lệnh!
Nay nói chuyện Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận ở thành Đại La.
Sau buổi cầm bắt Khúc Thừa Mỹ ở thành Đại La cho đóng cũi giải
về Phiên Ngung, Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận chia quân bốn mặt đóng giữ các cửa
thành rất nghiêm ngặt. Phàm là những văn thần bộ tướng cũ của Khúc Thừa Mỹ, Lý
Khắc Chính đều cho soát xét kỹ lưỡng, kẻ nào chống đối đều giết không tha. Đám
người quan quân cũ Đường triều còn sót lại, họ Lý cho mời ra hỏi các việc trị
nhậm ở Đại La thành ngày trước rất tỉ mỉ. Trong đám thương nhân nhà Đường buôn
bán trong thành đã mấy đời làm ăn giàu mạnh được tiến cử, Độc Toàn Chân, một
thương khách nối nghiệp nhà họ Độc từ thời Độc Cô Tồn làm Thái thú Giao Châu được
Lý Khắc Chính mời vào tiếp kiến riêng. Họ Lý thừa biết rằng, đám thương khách
trong Đại La thành mới thực sự nắm bắt mọi ngóc ngách của quan viên xứ này. Đại
La thành tiếng chỉ là thủ phủ trị nhậm vùng đất Giao Châu, song thực chất chẳng
khác nào kinh đô của một nước vậy. Họ Khúc kia đã ba đời tự cường làm Tiết độ sứ
Giao Châu, hẳn gốc rễ cật ruột còn nhiều, không thể ngày một ngày hai dứt hẳn
đi được.
Vừa nghĩ, Lý Khắc Chính vừa nhìn thẳng vào Độc Toàn Chân
thong thả vấn an:
– Ta vốn biết Độc huynh nhiều đời buôn bán cường thịnh xứ
này. Nay Đường triều khí số đã hết, Hán đế nối nghiệp đại thống, thiên hạ chưa
yên. Nay ta vâng mệnh Hán đế, thống suất binh mã thảo phạt Giao Châu, chỉ hỏi tội
kẻ nghịch thần họ Khúc, các ngươi không có gì phải sợ. Độc huynh gia thế lẫy lừng,
huyền cơ thông suốt, nay có điều gì chỉ giáo cho ta chăng?
Độc Toàn Chân lướt nhìn Lý Khắc Chính. Thấy họ Lý phương phi
bệ vệ, tướng mạo oai phong, trong bụng đã thầm phục đến bảy tám phần. Lại thấy
giọng điệu khoan hòa có ý thăm dò người cùng nòi giống vừa chân thành vừa sâu sắc
bèn lựa lời nói:
– Bẩm Đại tướng quân! Họ Độc chúng tôi xưa nay chỉ biết kiếm
miếng cơm manh áo nơi phiên trấn cuối đất cùng trời, không dám có ý gì bàn vào
chính sự. Quan gia Độc Cô Tồn ngày trước trị nhậm Giao Châu cũng là vâng chiếu
chỉ của Đường triều mà thôi. Họ Độc xưa nay quan – thương rành mạch, việc ai nấy
làm, mong Đại tướng quân hiểu cho.
Lý Khắc Chính cười ha hả đứng dậy vỗ vai Độc Toàn Chân:
– Độc huynh đệ! Ngươi nói thế cũng có chỗ còn chưa đúng.
Chúng ta cùng nòi giống phương Bắc xuống phương Nam, kẻ chém giết trị nhậm, người
buôn bán phát tài, đều là cùng hội cùng thuyền cả. Nay nếu không biết dựa lưng
vào nhau, cùng lùi cùng tiến, để bọn giặc cỏ Giao Châu ngóc đầu dậy phản kháng
thiên triều, thì chẳng những của cải của ngươi chẳng thể giữ được mà ngay đến
cái đầu cũng không còn ở trên cổ đâu.
Độc Toàn Chân toát mồ hôi vội nói:
– Bẩm Đại tướng quân! Độc gia không có ý gì khác ngoài phụng
sự cao ý của ngài. Có gì cần sai bảo, Toàn Chân này muôn chết không từ.
Lý Khắc Chính trở lại giọng vỗ về ôn tồn nói:
– Là ta nói vậy thôi. Nơi Đại La thành này, phàm là sinh kế của
đám dân chúng, thương nhân, thầy bói, thầy cúng, thầy thuốc, thầy đồ từ nay
giao cho ngươi cả. Cứ làm mạnh tay vào. Mọi việc có khó gì, ta sẽ bảo Phó tướng
Lý Tri Thuận giúp thêm cho.
Độc Toàn Chân rời khỏi tướng phủ thành Đại La về phố cửa sông
cứ thở dài thườn thượt.
Nhận được tin báo Dương Đình Nghệ, viên nha tướng của Khúc Thừa
Mỹ đang trấn nhậm các vùng đất Ái Châu, Hoan Châu sai con rể là Ngô Quyền dâng
thư xin hàng, Lý Khắc Chính cho mời Phó tướng Lý Tri Thuận vào soái phủ. Lý Tri
Thuận sau một tuần trà mới thong thả hỏi:
– Chủ tướng cho gọi mạt tướng có gì sai bảo chăng?
– Lý hiền đệ bất tất phải dò hỏi ta. Ta và đệ từ buổi xuống
vùng đất chó ăn đá gà ăn sỏi này đã sớm cùng vinh cùng nhục rồi. Triều Nam Hán
ta, tiếng là hùng cứ một phương, nhưng suy xét kỹ trước sau đều thọ địch cả.
Phía Bắc, Chu Ôn đã chiếm đến sáu bảy phần thiên hạ, xưng thiên tử ngày đêm vây
ép hoàng đế ta. Bọn man di mọi rợ phương Nam anh hùng hào kiệt không phải ít.
Chúng ta từ ngày vào thành Đại La này, bề ngoài tuy phẳng lặng nhưng bên trong
là ngồi trên núi đao biển lửa, chín chết một sống đó thôi. Ta và Lý hiền đệ nếu
không chung lưng đấu cật cùng nhau liệu việc ắt là họa đến nơi đấy.
Lý Tri Thuận thấy chủ tướng nói lời gan ruột, bèn cảm động
thưa:
– Bẩm Lý huynh, tiểu đệ sau này có được chút công lao gì, phúc
phận ra sao đều trông chờ ở Lý huynh cả. Xứ Giao Châu, người phương Bắc chúng
ta công thành danh toại nào có mấy ai, mà ôm hận ôm nhục biết bao nhiêu người.
Cứ nhìn tấm gương cha con Trương Thuận – Trương Bá Nghi, tiếp đó là An Nam Đô hộ
sứ Cao Chính Bình gần đây ắt rõ. Bọn Giao Châu bề ngoài thần phục nhưng bên
trong rặt những phường phản loạn khó lường lắm. Mọi việc tiểu đệ nhất nhất nghe
theo lệnh huynh.
Lý Khắc Chính ôn tồn nói:
– Ta cho gọi tướng quân là để bàn việc tiếp nhận thư hàng của
viên nha tướng Dương Đình Nghệ. Cứ theo chỗ ta biết, họ Dương này không phải tầm
thường đâu. Y hiện hùng cứ Ái Châu, Hoan Châu, lại kết giao rộng rãi, được dân
chúng yêu mến sẽ càng khó cho ta. Nếu không vì Khúc Thừa Mỹ lắm mộng hồ đồ xin
Chu Ôn phong vương tước thì phương Nam này không dễ lấy thế đâu. Nay chúng đến
hàng chỉ là bề ngoài, bên trong, chúng tất dùng binh sống chết với ta đó. Ta
xin nghe cao ý của tướng quân.
Lý Tri Thuận trầm ngâm một lúc mới nói:
– Bẩm đại tướng quân! Bọn chúng dùng kế Tiên lễ hậu binh.
Chúng ta đường đường là nước lớn buộc phải vỗ về chúng. Nay mai, ta sẽ tương kế
tựu kế mời tên Dương Đình Nghệ cùng chúng tướng của hắn đến nhận lĩnh tước
phong rồi giết sạch một mẻ. Bọn binh tướng Ái Châu, Hoan châu tất như rắn mất đầu
mà thần phục đại tướng quân vậy.
Lý Khắc Chính nhìn viên phó tướng nói rõ từng tiếng:
– Cũng chẳng còn kế nào khác. Nay giao cho ngươi tiếp nhận
thư hàng rồi chọn ngày lành tháng tốt bảo bọn họ Dương vào Đại La nhận ân thưởng
của Hán triều.
Lý Tri Thuận vâng lệnh lui ra.
Sáng hôm sau, Lý Tri Thuận cho sai gọi Ngô Quyền đến dâng thư
hàng của Dương Đình Nghệ.
Bên trong tướng phủ, Lý Tri Thuận ngồi oai vệ sau chiếc bàn gỗ
lớn bọc da hổ, hai hàng gươm giáo sáng quắc. Đám võ sĩ tuốt đao trần quắc mắt
nhìn ra phía cửa thị uy.
Ngoài chiếc sân rộng, một người cao lớn đầu chít khăn lụa
xanh, thân bận bộ võ phục bằng vải thô màu chàm, chân đi giày vải, lưng đeo chiếc
túi da báo khá lớn, bước đi uyển chuyển vững chãi thong thả giữa hai hàng gươm
giáo tiến tới quỳ xuống thủ lễ với Lý Tri Thuận:
– Mạt tướng Tôn Quyền, con rể của tội tướng Dương Đình Nghệ đến
tướng phủ Lý đại nhân xin nhận tội.
Lý Tri Thuận đang lim dim cặp mắt một mí đột ngột giật mình
trước giọng nói vang như chuông khánh và tấm thân gấu lừng lững của viên tướng
xin hàng vùng Ái Châu. Y không khỏi chột dạ trước thần khí anh hùng của kẻ vừa
thốt ra lời nhận tội. Lập tức tự trấn tĩnh, Lý Tri Thuận ồ à cất giọng bề trên:
– Cho ngươi được bình thân! Các ngươi sớm biết tội với Hán
triều cũng đáng được ta xem xét. Nay ta nói cho ngươi biết! Tên nghịch thần
Khúc Thừa Mỹ đã phạm thiên uy, ăn ở hai lòng, hoàng đế ta đã kể tội mà phanh
thây hắn. Các ngươi là loại tay chân nơi biên trấn, ở chỗ xa xôi không biết kịp
hối cải thực bụng, nay lại dám dùng kế trá hàng với đại tướng thiên triều ư?
Ngô Quyền bình tĩnh nhìn thẳng vào Lý Tri Thuận giọng ôn tồn
mà vẫn vang động ngôi đại điện:
– Bẩm đại tướng quân! Tướng quân chưa xét đến cái thế cùng của
nhạc phụ tôi đã vội cho chúng tôi là trá hàng chẳng phải là ép binh tướng họ
Dương vào con đường phản loạn thiên triều hay sao? Nay tôi vâng mệnh nhạc phụ,
thành tâm dâng thư xin hàng. Nhạc phụ còn cho dâng danh sách gia thần gia tướng,
địa đồ đường sá núi non, sản vật sắt muối đủ cả, còn chưa đủ thành tâm ư? Nếu đại
tướng quân đã có bụng nghi ngờ, xin hãy giết tôi rồi đem đại binh hỏi tội nhạc
phụ cũng chưa muộn.
Lý Tri Thuận càng nghe càng kinh ngạc. Cổ kim chưa thấy kẻ đi
xin hàng nào lại đòi tự chém mình làm tin như vậy. Thường đã ham sống sợ chết cầu
hàng tất phải lạy lục tìm con đường sống. Nay kẻ kia khí phách khác thường,
phong độ hiên ngang, lời nói cứng cỏi. Xứ Giao Châu này đúng là ngọa hổ tàng
long không thể xem thường.
Họ Lý đột ngột đập tay xuống bàn mắng:
– Tên hàng tướng kia, việc khu xử của Lý gia ta phải đợi
ngươi bày biện cho hay sao? Nay ngươi đã không sợ chết ta sẽ cho toại nguyện.
Bay đâu! Lôi cổ tên giặc cỏ này ra ngoài chém cho ta.
Đám võ sĩ ập vào lôi Ngô Quyền ra ngoài chém, Ngô Quyền gạt
tay khiến mấy tên võ sĩ loạng choạng dạt cả ra, đoạn bình thản nói:
– Để ta tự đi cũng được rồi! Xin anh em chém gọn cho một nhát
ta đây biết ơn lắm!
Vừa nói, Ngô Quyền vừa thong thả đi ra ngoài sân lớn, nơi có
chiếc bệ gỗ lim chuyên dùng để chặt đầu các tột nhân vừa ha hả cười vang.
Khi đám võ sĩ chuẩn bị vung đao, bỗng Lý Tri Thuận rời tướng
phủ, từ xa nói lớn:
– Mau dừng tay! Tráng sĩ đây quả không nhục mệnh chủ. Mau bày
tiệc để ta trò chuyện với con rể Dương công. Mai này mọi việc ở Giao Châu tất
phải nhờ cậy vào cha con họ Dương rồi.
Trong ngôi nhà lớn, thủ phủ vùng Ái Châu dùng làm chỗ hội họp
đám gia thần gia tướng. Từ ngày Đại La thất thủ, Dương Đình Nghệ cùng các gia
thần gia tướng càng tất bật chuẩn bị việc binh lương. Khi nghe Ngô Quyền thuật
lại toàn bộ việc dâng thư hàng, ai nấy đều không khỏi khâm phục sự ứng phó
nhanh nhẹn của họ Ngô. Dương Đình Nghệ nhìn mọi người nói:
– Quyền nhi quả chí khí hơn người, nay đã lừa được giặc trở về
bình an vô sự. Khi để con đi vào chỗ hiểm, ta trong bụng vẫn tin con sẽ ung
dung trở về. Song chắc chắn, bọn Lý Khắc Chính, Lý Tri Thuận thừa biết ta hàng
chỉ là bề ngoài mà thôi. Chúng chưa giết Quyền nhi còn cho thấy binh lực của
chúng không phải dồi dào hùng mạnh gì. Ta nay nên gấp tiến quân mới là giành thế
thượng phong. Ý các tướng thế nào?
Mọi người nhìn nhau rồi đều dồn các cặp mắt về phía Đoàn
Thành ý như muốn họ Đoàn lên tiếng trước.
Đoàn Thành thong thả đứng lên nói:
– Dương công quả đã nhìn thấy ruột gan của bọn Khắc Chính,
Tri Thuận ở Đại La. Nếu chúng giết Ngô Quyền, lập tức khởi binh vào Ái Châu ắt
dễ cho ta nhiều lắm. Nay chúng chơi trò dụ hàng, gọi Dương công đến Đại La để
phân phong chức tước mới là kế hiểm. Trước là không làm mất lòng người Giao
Châu, Ái Châu, Hoan Châu. Sau là dùng Dương công để dứt lòng người hướng về họ
Khúc. Ta nhân kế ấy, lặng lẽ cho đại quân tiến thẳng ra Đại La chắc chỉ một trận
là quét sạch bọn Lý Khắc Chính mà thôi.
Đoàn Thành vừa dứt lời, một vị tướng trẻ bước ra nói:
– Đoàn huynh nói chí phải! Nay Ngô huynh đã sớm lập công vào
tận hang hùm lừa giặc, mạt tướng tuy bất tài xin lĩnh năm ngàn tinh binh làm tiên
phong bắt Lý Khắc Chính về cho phụ thân xử tội.
Mọi người nhìn ra thấy viên tướng trẻ dáng người cao lớn, mặt
rộng, mũi thẳng, vầng trán thanh thoát, dáng vẻ hiên ngang. Đó chính là Dương
Tam Kha, công tử trưởng của Dương công, em rể tướng Ngô Quyền.
Mọi người à ồ đua nhau lên tiếng bàn kế tiến thủ rôm rả hẳn
gian nhà lớn.
Để một lúc, Dương công mới khoác tay ra hiệu im lặng đồng thời
chỉ vào Ngô Quyền hỏi:
– Quyền nhi! Ngươi vừa từ Đại La trở về, đã tận mắt thấy binh
tướng Hán triều diễu võ dương oai. Nay ta hỏi ngươi, nếu xuất binh đánh đuổi giặc
Bắc, phần thắng có nắm chắc được chăng?
Ngô Quyền nãy giờ không bỏ sót ý kiến một người nào thong thả
bước ra nói:
– Bẩm nhạc phụ! Theo thiển ý của mạt tướng, bọn Lý Khắc Chính
không đời nào tin ta hàng phục thật đâu, nhưng chúng mượn vào đó tất rêu rao
binh tướng Ái Châu, Hoan Châu đã xin thần phục để phỉnh lừa các vùng đất xung
quanh Đại La đến xin hàng. Khúc chúa bị bắt đi khiến lòng người không phục, các
tướng cũ của họ Khúc đều ém binh thủ hiểm đợi ngày hỏi tội bọn Lý Khắc Chính mà
còn chưa có thời cơ. Nay việc lớn chỉ còn trông đợi vào nhạc phụ mà thôi. Theo
thiển ý của mạt tướng, nhạc phụ hãy dốc toàn bộ binh tướng Ái Châu tiến đánh Đại
La, kể tội Lý Khắc Chính, lòng dân sẽ theo về, chắc chắn sẽ thành đại sự. Mạt
tướng tuy bất tài xin được lĩnh ấn tiên phong đuổi giặc.
Dương Đình Nghệ nghe xong trang nghiêm nhìn mọi người nói:
– Kế của Quyền nhi rất hợp ý của ta. Dẫu vậy ta còn canh cánh
một việc. Việc tiến đánh Đại La đuổi bọn Lý Khắc Chính về phương Bắc không khó
nhưng làm chủ Giao Châu lâu dài chưa biết phải tính thế nào? Lại lúc đó, Ái
Châu, Hoan Châu càng phải vững như bàn thạch tạo thế chân vạc mới có thể trước
là đánh bại bọn viện binh phương Bắc, sau là an dân lập nghiệp mới là đại kế
lâu dài.
Mọi người im lặng trước phương lược tiến thủ của Dương công.
Ai ai cũng thấy mình đang đặt trên vai trọng trách lớn lao mà sẵn sàng vào núi
đao biển lửa trong công cuộc đuổi giặc phương Bắc.
Nhận được hung tin Dương Đình Nghệ đích thân thống suất đại
binh nhằm Đại La thẳng tiến, lại sai con rể Ngô Quyền làm tướng tiên phong dẫn
năm ngàn binh mã đã áp sát phía Nam thành Đại La, chỉ còn cách cổng thành hai
mươi dặm, Lý Khắc Chính thất kinh vội cho gọi Lý Tri Thuận vào soái phủ.
Khi Lý Tri Thuận còn chưa kịp ngồi, Lý Khắc Chính đã lập tức
nói:
– Tướng quân! Họ Dương kia thật gan to bằng trời. Ta đang định
lừa hắn đến để giết, hắn lại hưng binh truyền hịch kể tội ta xâm phạm đất chúng
còn ra thể thống gì. Hôm trước, lẽ ra người phải giết quách con rể hắn đi rồi sớm
cử binh vào Ái Châu hỏi tội hắn mới phải. Nay giặc cỏ đã đến sát Đại La, ngươi
có kế gì chăng?
Lý Tri Thuận toát mồ hôi nghĩ lại việc viên tướng họ Ngô
phong độ phi phàm đang lĩnh ấn tiên phong còn cách chỉ hai mươi dặm trong bụng
mười phần đã run sợ đến năm sáu phần nhưng vẫn cố trấn tĩnh nói:
– Bẩm đại tướng quân! Quả là giặc cỏ đã ăn gan hùm mật gấu
dám làm phản, tội không thể tha. Chúng còn lu loa kêu gọi đám tàn binh tàn tướng
của họ Khúc hợp vây Đại La quả không phải loại vừa. Nay ta phải kíp cho người về
Hán triều xin viện binh, một mặt cố thủ trong thành không ra đánh mới được. Giặc
kia vốn quân ô hợp, chỉ vài tháng cạn sạch lương thảo tất phải rút về Ái Châu
mà thôi.
Lý Khắc Chính đi đi lại lại bực bội nói:
– Chưa đánh đã thủ thành còn ra thể thống gì. Quân lương của
chúng ta dư vài vạn, tướng ta lại vừa thắng lớn, nay không ra đánh, giặc kia
càng được thể gọi bầy đàn của chúng đến hợp vây Đại La sẽ không phải kế lâu dài
đâu.
Thấy Lý Khắc Chính có ý muốn khai chiến, Lý Tri Thuận bèn gượng
nói:
– Nếu đại tướng quân quyết đánh, mạt tướng xin dẫn một vạn
binh mã ngày mai xuất chiến đánh với tiên phong Ngô Quyền của giặc cỏ. Đại tướng
quân hãy giữ vững bốn mặt thành trì làm kế thanh viện cho mạt tướng.
Lý Khắc Chính nghiêm giọng mệnh lệnh:
– Vì Hán triều, vì Lý gia, ta lệnh cho tướng quân đem một vạn
tinh binh ngày mai xuất chiến chém tướng giặc. Chúng có thua trận xin hàng cũng
chém sạch giết sạch để làm gương. Ta sẽ thống xuất đại binh sẵn sàng ứng cứu.
Lý Tri Thuận vâng dạ lui ra về tướng phủ điểm binh tướng chuẩn
bị xuất chiến.
Đây nói tiếp chuyện Ngô Quyền dẫn năm ngàn tinh binh áp sát
phía Nam thành Đại La.
Đội binh mã của Ngô Quyền ngày đi đêm nghỉ đã được hơn một tuần.
Buổi qua châu Đại Hoàng, vùng đất của Đinh Công Trứ, đích thân châu mục họ Đinh
chuyên chở rượu thịt, mổ trâu bò khao quân.
Đinh Công Trứ khảng khái nâng bát rượu mời Ngô Quyền nói lớn:
– Ngô tiểu đệ làm tiên phong chuyến này ắt chém tướng giặc,
đoạt lại Đại La thành, giúp Dương công giành lại đất Giao Châu, công lớn bao
trùm sẽ được nghi vào sử sách.
Ngô Quyền mình bận giáp phục tươi cười đáp lễ Đinh công:
– Đinh công quá khen mạt tướng. Đuổi giặc chuyến này cũng là
thực hiện đạo lý của người phương Nam chúng ta, dẫu là mạt tướng hay Đinh công
nào có gì khác nhau đâu.
Đinh Công Trứ thấy Ngô Quyền khí chất đường đường lại lời nói
khiêm nhượng khen thầm mãi không thôi.
Cách phía Nam thành Đại La hai mươi dặm, Ngô Quyền hạ lệnh
cho binh lính hạ trại, chấn chỉnh đội ngũ, kiểm điểm vũ khí, voi ngựa. Đội tiên
phong ngoài một ngàn kỵ binh đều là những dũng sĩ dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của Ngô Quyền còn có năm mươi thớt voi đã được huấn luyện kỹ lưỡng trương lá cờ
lớn Ngô tiên phong nhằm hướng thành Đại La bày trận. Bốn ngàn quân bộ
lục tục kéo sau. Khi trại đã hạ vững, đám voi chiến sau tuần hành quân được nghỉ
một đêm khoẻ khoắn tung vòi gầm vang từng chặp.
Ngô Quyền ngồi trên bành voi chiến, mình mặc giáp phục trắng,
đầu đội giáp trụ đồng đen, lưng thắt đai ngọc màu xanh, hông đeo thanh trường
kiếm lớn oai phong lẫm liệt. Hai bên, năm mươi thớt voi với hàng trăm cung thủ
lăm lăm lao nhọn, trùy đồng, pháo tay sẵn sàng nghênh chiến.
Phía cửa Nam thành Đại La im phăng phắc. Từ mấy hôm trước, Lý
Tri Thuận đã cho binh tướng đốt sạch làng mạc, đánh đuổi dân chúng đi hết của
chỉ còn một vùng đất hoang nối dài hàng chục dặm, ngay cả tiếng gà tiếng chó
cũng đều lặng ngắt, báo hiệu một trận ác chiến sắp sửa bắt đầu.
Từ tờ mờ sáng, Lý Tri Thuận đã cho kiểm điểm binh tướng, chọn
lấy hơn ngàn chiến kỵ và một vạn bộ binh giáo mác sẵn sàng, cung tên đầy đủ. Họ
Lý lại cho phát trước mỗi tên lính một nén bạc trắng lấy từ trong kho của Khúc
Thừa Mỹ ngày binh lính chiếm thành. Binh tướng Hán triều vì thế ai nấy đều hăng
hái hơn ngày thường.
Trước lúc mở cổng thành, Lý Tri Thuận cưỡi con hắc long câu
cao lớn oai phong, dõng dạc hô trước hàng quân:
– Bớ các tướng sĩ! Nay giặc cỏ Ái Châu phản loạn đem thân đến
nộp. Ta vâng mệnh Lý đại tướng quân cùng các ngươi bắt giết giặc cỏ. Lát nữa
xung trận, phàm là binh tướng Ái Châu, các ngươi đều chém sạch giết sạch cho
ta. Ai bắt được chủ tướng giặc, thưởng trăm lạng vàng. Ai giết được năm quân giặc,
thưởng năm lạng bạc. Các ngươi hãy vì thể diện của Hán triều mà cùng ta giết hết
giặc cỏ.
Bốn phía tiếng hô vang không dứt. Từng chặp kèn đồng ré lên
đinh tai nhức óc như thay lời thề của đám binh tướng Hán triều.
Cánh cổng thành lớn phía Nam được lệnh mở toang, Lý Tri Thuận
cùng đám tuỳ tướng thúc ngựa ào ạt tiến về phía trước. Hơn ngàn kỵ binh như nước
vỡ bờ tràn ra rất hung hãn. Phía sau, một vạn tên lính vác giáo mác hò hét tiến
theo đám người ngựa điên cuồng trong từng nhịp kèn đồng mạnh tợn khiến cả vùng
náo loạn, khí thế ngút trời.
Binh tướng Lý Tri Thuận như nước vỡ bờ tràn ra khỏi cửa Nam
thành Đại La cũng là lúc cánh cổng thành rít lên những tiếng lớn rồi từ từ đóng
lại.
Cũng thời gian đó, trên bành voi chiến, Ngô Quyền thấy phía
trước bụi bay mù mịt, tiếng kèn đồng vang động từng chặp biết là đại binh của
Hán triều đang kéo đến, lập tức ra lệnh cho dàn trống đồng bắc trên những chiếc
giá gỗ cao lớn nhất loạt thúc lên ầm ầm.
Cả một vùng đất đai rộng lớn chấn động tiếng âm thanh như bão
giật ầm ầm.
Hơn ngàn dũng sĩ nhất tề nhảy lên lưng ngựa chiến, kẻ trường
thương người đao kiếm sáng quắc chĩa về phía trước.
Trên bành năm mươi thớt voi đám cung thủ phấn khích múa cung
tên, giương trùy đồng đợi giặc.
Lũ voi chiến nghe tiếng trống trận nhất tề gầm lên những tiếng
kinh thiên động địa khiến chim chóc trên không trung đập cánh bay loạn xạ, có
con va vào nhau rơi lịch bịch ngay xuống chân voi.
Khi hồi chiêng trống còn chưa dứt, đám kỵ binh dẫn đầu là Lý
Tri Thuận đã lướt tới trước trận. Lý Tri Thuận ghìm cương cùng hơn ngàn kỵ binh
khép thành đội ngũ cách một tầm tên. Họ Lý giáp trụ oai phong chỉ vào Ngô Quyền
đang nghễu nghện trên bành voi mắng:
– Thằng nhãi ranh kia! Ngươi không biết nhục hôm trước khom
lưng quỳ gối trước ta dâng thư xin hàng nay mặt mũi nào dám gặp bản tướng quân
nữa!
Trên bành voi chiến, Ngô Quyền cười lớn quát lại:
– Ngươi thân làm tướng mà cái kế cỏn con đó cũng không biết
ư? Nay ta vâng mệnh nhạc gia, điểm binh tướng xuống hỏi tội các ngươi. Những là
thành trì quân lương, đền miếu đình chùa người Giao Châu ta, nếu các ngươi thuận
tình trao trả không sứt mẻ ta sẽ tha tội, còn cấp voi ngựa lương thuyền cho các
ngươi về phương Bắc giữ lấy mạng sống đến già tuyệt đối không được xâm phạm đất
ta. Nhược bằng muốn phân tài cao thấp thì cái gương Dương Sằn, Trương Bá Nghi,
Cao Chính Bình còn sờ sờ ra đó. Ngươi hãy mau cùng chúng tướng xuống ngựa xin
hàng chẳng phải là hơn ư?
Lý Tri Thuận như phát điên, huơ đao xốc ngựa lên phía trước mắng:
– Ngươi hãy câm cái mồm chó của ngươi lại, xuống đây phân tài
cao thấp với gia gia ngươi. Đại tướng của Hán triều sẽ dạy cho lũ man di mọi rợ
các ngươi một phen mới được.
Các tướng sĩ trên bành voi trương cung lắp tên toan nhằm bắn
vào Lý Khắc Chính. Thấy vậy Ngô Quyền bèn hô lớn:
– Lý Tri Thuận! Ngươi muốn phân cao thấp với ta, ta cũng cho
ngươi được toại nguyện, kẻo lát nữa bị voi giày chết xuống suối vàng lại trách
ta không cho ngươi cơ hội. Nội trong năm mươi hiệp, ta sẽ bắt sống ngươi để mọi
người biết Giao Châu là đất có chủ, Ái Châu là đất có anh hùng.
Lời còn chưa dứt, Ngô Quyền đã như bay từ trên bành voi xuống
lưng con bạch long câu luôn dắt theo cùng tên lính vác trường thương của họ
Ngô. Ngô Quyền nắm chắc trường thương, oai phong tế ngựa tiến thẳng ra phía trước.
Lý Tri Thuận cả kinh còn chưa kịp mắng lại đã thấy viên tướng
Ái Châu nhanh như chớp xẹt vung thương nhằm đầu con hắc long câu đập mạnh xuống.
Họ Lý vội hoành ngang đại đao đỡ đường thương hiểm rồi vội vã quành ngựa trở lại
sử dụng đao phạt ngang bổ dọc khí thế rất mạnh. Loáng cái, hai ngựa quấn vào
nhau, bụi tung mù mịt. Tiếng đao thương va chạm rợn người.
Ngô Quyền càng đánh càng hăng, đường thương vun vút khiến Lý
Tri Thuận không khỏi kinh động trong lòng. Vốn là một tướng lão luyện, y biết
đã gặp phải địch thủ mạnh hơn mình nhưng chỉ biết than thầm trong bụng. Hơn ba
mươi hiệp trôi qua, họ Lý càng lúc càng đuối sức chống đỡ loạng choạng. Các bộ
tướng của Lý Tri Thuận thấy vậy bất chấp thể diện đồng loạt hò nhau thúc ngựa kẻ
đao người bát xà mâu xông vào Ngô Quyền đánh nhầu. Ngô Quyền hét to một tiếng,
đánh bạt đám tuỳ tướng, quành ngựa trở lại tót lên bành voi chiến trỏ vào Lý
Tri Thuận mắng:
– Ta hãy tạm để cái mạng chó của ngươi lại đó. Nay ngươi hãy
xem đội voi trận của ta giày xéo đám quân ăn cướp phương Bắc các ngươi đây.
Lời Ngô Quyền còn chưa dứt, theo mệnh lệnh chủ tướng, nhất loạt
pháo tay đều được các dũng sĩ trên mình voi ném ầm ầm vào đầu đám ngựa Bắc cũng
là lúc năm mươi thớt voi gầm rống xông thẳng vào giữa trận của Lý Tri Thuận.
Hai bên cánh và phía sau, các kỵ binh Ái Châu nhất tề hò hét trương cung bắn thẳng
vào kỵ binh Hán triều. Tiếng trống đồng trống cái thúc ầm ầm. Binh tướng Ái
Châu khí thế ngút trời xông thẳng vào đánh giặc.
Lý Tri Thuận cả kinh còn chưa kịp mệnh lệnh gì đã thấy đàn
voi ập đến trong nháy mắt. Ngựa Bắc thấy voi trận sợ hãi hí vang, đua nhau quay
đầu chạy thục mạng dưới làn mưa tên của binh lính Ái Châu. Hai ngàn kỵ binh
phút chốc vỡ toang trận pháp, kẻ chết người bị thương la liệt. Họ Lý không sao
cản được chúng cũng đành lẩn lút vào trong đám kỵ binh chạy ngược trở về cửa
Nam thành Đại La. Đến khi hơn vạn quân bộ tiếp ứng đến nơi kỵ binh của họ Lý đã
thiệt hại đến sáu bảy phần cũng là lúc Ngô Quyền cho khua chiêng thu quân. Lý
Tri Thuận thấy trận đầu đã thiệt mất hơn ngàn kỵ binh không còn khí thế chiến đấu
nữa bèn hạ lệnh cho đại quân trở vào thành.
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ đốc xuất đại quân từ Ái
Châu tiến ra Bắc.
Ngay sau khi sai Ngô Quyền cùng năm ngàn binh tướng thẳng tiến
Đại La, Dương Đình Nghệ cho kiểm điểm binh lương được hơn vạn người ngựa, lại
cho Dương Tam Kha vào Hoan châu lấy thêm binh lính, voi ngựa được hơn sáu ngàn
quân khí thế rất hăng. Dương công cho sắp xếp các đội binh mã theo thứ tự, đội
cũ kèm đội mới, cựu binh giúp tân binh vừa thao luyện trận pháp vừa cắt đặt trước
sau để đại quân sớm lên đường. Dương công thân làm chủ tướng, thống xuất đại
quân gần hai vạn cùng năm mươi thớt voi mới điều từ Hoan châu lập đội tiên
phong trương cờ đánh đuổi Lý Khắc Chính. Dương công lại cho liên tiếp truyền hịch
kể tội nhà Nam Hán vô cớ bắt giết Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ, thoán vị Đường triều,
làm điều càn rỡ bạo ngược khiến đi tới đâu lòng dân nô nức theo về tới đấy. Đại
quân đến châu Đại Hoàng, châu mục Đinh Công Trứ thân ra nghênh đón, cùng các
hương thân phụ lão đem rượu thịt khao thưởng quân sĩ.
Dương Đình Nghệ ân cần nói với Đinh Công Trứ:
– Đinh hiền đệ! Thật là vạn bất đắc dĩ người phương Nam chúng
ta mới phải cầm gươm giáo đuổi lũ giặc Bắc. Ta cùng đại quân ra Bắc chuyến này
trước là để báo thù rửa nhục cho Khúc chúa, sau là giữ vững cơ đồ của người An
Nam chúng ta. Hiền đệ có cao kiến gì không?
Đinh Công Trứ xúc động nói:
– Dương huynh đi chuyến này cũng là để làm vẻ vang tổ tiên
nòi giống người An Nam ta. Phương Bắc phương Nam chia nhau đời đời tự chủ mới
là hợp lẽ trời. Tiểu đệ tuy bất tài xin được đem quân bản bộ theo Dương huynh
đuổi lũ giặc Bắc về đất chúng.
Dương Đình Nghệ khảng khái nói:
– Đinh hiền đệ! Ta có việc này khẩn nhờ đệ. Việc đuổi bọn Lý
Khắc Chính ta cùng các tướng Ngô Quyền, Đoàn Thành, Dương Tam Kha sẽ đảm đương
được. Việc đánh giặc Bắc không thể ngày một ngày hai mà xong đâu. Ta đồ rằng viện
binh nhà Nam Hán tất kéo xuống nay mai. Bởi thế, việc binh lương vùng Hoan
châu, Ái Châu chính là sự thành bại của đại cuộc vậy. Nay ta nhờ đệ vào Hoan
châu trưng tập binh lương, voi ngựa, thóc gạo, muối sắt, phòng khi phải chống
nhau lâu dài với Hán triều. Việc này nào có kém gì việc giết giặc ngoài chiến
trường. Ngoài hiền đệ ra không ai đương nổi trọng trách này đâu.
Đinh Công Trứ nghiêm trang nhận lệnh nói:
– Tiểu đệ xin nhận uỷ thác của Dương huynh. Vùng Hoan châu,
Ái Châu vốn là đất bản bộ của Dương huynh, lòng người đều theo về chắc việc
binh lương sẽ đủ đầy để Dương huynh có đủ lực lượng, lương thảo dồi dào chống
nhau lâu dài với Hán triều, tạo dựng công nghiệp ngàn năm có một cho người An
Nam ta.
Đại quân đi rồi, Đinh Công Trứ còn bần thần mãi mới cùng các
hương thôn, đầu mục, gia thần gia tướng bàn bạc việc lớn của Dương Đình Nghệ
giao cho.
Đây nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Sau trận thua binh cổng Nam thành Đại La, sĩ khí binh tướng
Hán triều suy giảm rõ rệt. Cảnh tượng đàn voi trận giày xéo đám kỵ binh của Lý
Tri Thuận khiến quan quân thành Đại La nghĩ đến là kinh hãi. Đã thế, ngay hôm
sau, Ngô Quyền cùng đại đội voi chiến, hơn nghìn kỵ binh, bốn nghìn bộ binh áp
sát cổng Nam thành suốt đêm thúc trống trận ầm ầm càng làm binh tướng Đại La mất
ăn mất ngủ. Hôm trước, sau trận đại bại, còn chưa kịp cởi giáp, Lý Tri Thuận
vào thẳng soái phủ quỳ xin chịu tội nói:
– Mạt tướng thua trận xin đại tướng quân xử theo quân pháp.
Lý Khắc Chính còn chưa hết bàng hoàng khi nghe cấp báo hơn
nghìn kỵ binh bị voi giày chết nơi cửa Nam thành nhìn tướng bại trận một lát rồi
rời soái phủ đứng lên đỡ Lý Tri Thuận ôn tồn nói:
– Thắng bại là việc thường của binh gia, tướng quân bất tất
phải tự trách mình. Việc khai chiến là mệnh lệnh của ta. Không ngờ bọn giặc cỏ
cậy có voi chiến làm mất nhuệ khí quân ta. Ta cũng đã vừa cấp báo về triều đình
xin viện binh tất nay mai trong ứng ngoài hợp giặc cỏ kia sẽ tự diệt vong. Tướng
quân hãy mau về chỉnh đốn quân mã, thành cao hào vững đồng thời thám sát kỹ động
tĩnh của giặc cỏ.
Lý Tri Thuận từ từ đứng dậy cảm tạ nói:
– Đại tướng quân gia ân mạt tướng xin cảm tạ. Giặc cỏ binh
khoẻ tướng giỏi không phải hạng tầm thường đâu. Viên tướng dâng thư hàng hôm
trước quả là mãnh tướng muôn người khó địch. Chẳng có đám tuỳ tướng không mau
vào cứu, chắc mạt tướng đã không còn về được để gặp đại tướng quân rồi. Chúng
ta phải cẩn thận lắm mới được.
Khi Lý Tri Thuận đi rồi, Lý Khắc Chính còn vân vi mãi.
Ngô Vương: Hồi thứ hai
Ngoài sự tài trí của Ngô tướng
quân, chính tâm đức luôn bao dung nhường nhịn của người anh rể đã khiến Dương
Tam Kha luôn tâm phục khẩu phục Ngô Quyền.
HỒI THỨ HAI
Ôm mộng bá vương, vua Nam Hán giữa dòng thay ngựa
Kết giao hào kiệt, Dương Đình Nghệ vây hãm La thành
Nhận được tin cấp báo từ Giao Châu, triều thần Nam Hán không
dám nấn ná vội bẩm lên hoàng đế. Trước đó, nhận thấy nhà Hậu Lương bên trong
quyền thần chuyên chế, bên ngoài các phiên trấn xưng vương vô số, Lưu Nham bèn
tự mình lên ngôi hoàng đế, bố cáo thiên hạ, xây dựng triều đại Nam Hán, cử binh
tướng thảo phạt các nơi ôm mộng bá vương. Việc sai Lý Khắc Chính đem đại binh
tiến chiếm Giao Châu, tuyệt diệt họ Khúc cũng là để đạt giấc mộng lớn của Hán đế.
Vẫn biết Giao Châu là đất hiểm, song Hán đế cho rằng, có bình định phương Nam,
mở mang bờ cõi, vơ vét sản vật, tạo dựng thiên uy mới dễ bề tranh hùng ở Trung
Nguyên. Bình sinh, Hán đế Lưu Nham rất ưa các văn thần hoạch định triều chính.
Hán đế còn là người tinh thông binh pháp, mưu thuật thâm sâu, chí lớn nuốt
thiên hạ nên chiến tranh liên miên không dứt. Trong buổi thiết triều, Hán đế giận
dữ cầm biểu xin viện binh của Lý Khắc Chính ném thẳng xuống dưới đám quần thần
quát mắng:
– Lũ các ngươi chỉ giỏi khua môi múa mép, binh tướng Hán triều
ngoài ngàn dặm lâm trận bị hại thử hỏi thiên uy ở đâu. Ta trước đã nói, Lý Khắc
Chính sau khi chiếm cứ Giao Châu phải mau chóng tiến binh về phương Nam thu phục
Ái Châu, đoạt lấy Hoan châu rồi chia đường thuỷ bộ mà tiến đánh Chiêm Thành mới
là đại kế giành thiên hạ. Nay một tòa thành cỏn con còn lung lay sớm tối đâu phải
là tài cán của bậc anh hùng. Các ngươi hãy mau chọn tướng giỏi, đem đại binh xuống
Giao Châu thực hiện kế sách của ta mới được.
Đám văn võ triều thần xì xầm bàn tán không ai dám ngẩng đầu
lên.
Đợi Hoàng đế có phần nguôi giận, thừa tướng Tô Chương mạnh dạn
đứng lên tâu:
– Hoàng thượng thánh minh! Việc bình định phương Nam giương
cao uy thiên tử là thuận lẽ trời, hạ thần xét thấy không phải bàn nữa. Nay theo
ý chỉ của hoàng đế phải chọn người hiền đức, lại phải lão luyện việc binh nhung
mới có thể đảm đương việc lớn. Lão thần xin tiến cử đại tướng Lý Tiến làm thứ sử
Giao Châu. Bọn Lý Khắc Chính cho triệu về phủ dụ điều khiển việc khác. Xin
hoàng thượng minh xét.
Không khí trong triều im phăng phắc.
Một lúc, Hán đế mới thong thả nói:
– Tô thừa tướng tuổi tác đã cao còn đêm ngày mưu cầu việc nước
quả đáng khen thưởng. Lý Tiến là người có thể tin cậy giao phó. Nay ta giao thừa
tướng chuẩn bị mọi việc để Lý Tiến nam chinh. Nên nhớ, đại quân ta sớm muộn
cũng phải vào Trung Nguyên tranh hùng. Bốn quân thuỷ bộ phải sẵn sàng chuẩn bị
nam chinh bắc chiến. Các ngươi hãy mau người nào việc nấy chớ có chậm trễ làm lỡ
việc lớn của ta.
Đây nói tiếp chuyện binh tướng Ngô Quyền hạ trại nơi cổng Nam
thành Đại La.
Từ buổi xua voi đánh bại kỵ binh của Lý Tri Thuận nơi cổng
Nam thành Đại La, Ngô Quyền cùng các tướng cho lập trại liên hoàn vây kín phía
Nam thành. Binh lính Ái Châu người người phấn chấn. Ngô Quyền lại cho người đi
tìm đám dân chúng buổi trước bị binh lính Hán đốt phá làng mạc xua đuổi xa hàng
chục dặm. Ngô tướng quân cho vỗ về dân chúng, cấp thóc gạo, gà lợn, yên ổn muôn
dân. Ngô tướng quân lại cho kể tội giặc Bắc tham lam tàn bạo bắt giết Khúc
chúa, tàn sát dân lành. Muôn dân trước đã từng chịu ơn họ Khúc, nay thấy bộ tướng
của ngài kéo về đuổi giặc ai nấy mừng lắm. Hàng chục dặm làng mạc tiêu điều
ngày trước cư dân lục tục kéo về theo nghề cũ. Ai cũng mong Ngô tướng quân mau
chóng đại phá thành Đại La để mọi người thêm sinh kế làm ăn. Đang buổi đi xem
xét, uý lạo muôn dân, bỗng viên tuỳ tướng phi ngựa tới báo đại quân của Dương
công đã tới. Ngô Quyền vội lên ngựa về trại lớn đã thấy nhạc phụ Dương Đình Nghệ
võ phục uy nghi tươi cười cất lời khen:
– Quyền nhi! Con ta quả là mãnh tướng trên chiến trường. Trận
đầu ra quân đã đánh tan đội kỵ binh tinh nhuệ của Lý Khắc Chính. Cứ thấy phép hạ
trại của con ta vững lòng lắm. Lại biết luôn mấy hôm, con thân đi uỷ lạo tướng
sĩ, ân cần chăm sóc muôn dân, ta càng mừng lắm. Việc đuổi bọn Lý Khắc Chính kia
về nước chúng đâu có khó gì nhưng việc an dân để làm vững ngôi nước mới là việc
khó. Ta thấy con hành động quả đoán, suy nghĩ sâu xa nên rất an lòng. Nay đại
binh đã đến, việc đuổi giặc Bắc con có mưu kế gì chăng?
Tôn Quyền thủ lễ rồi nói:
– Bẩm nhạc gia! Ân uy của Khúc chúa muôn dân còn cảm động huống
hồ các thuộc hạ tướng lĩnh của ngài ở nơi đất hiểm hướng về còn nhiều lắm. Nay
theo ý mạt tướng, nhạc gia hãy cho người tới Hồng châu mời Phạm Lệnh công, tới
Phong Châu mời Kiều công cùng hội binh đuổi bọn Lý Khắc Chính mới là kế vẹn toàn.
Dương Đình Nghệ cười lớn nói:
– Quyền nhi quả sâu sắc hơn đời. Phạm Lệnh công, Kiều công và
ta đều là nha tướng mấy đời chịu ơn họ Khúc nay lẽ nào mình ta dám tranh công.
Khi mới khởi binh ở Ái Châu, ta đã cho người kíp đi gặp Phạm Lệnh công và Kiều
công rồi.
Tôn Quyền không nói, thầm phục tài điều binh khiển tướng, tầm
nhìn dài rộng của nhạc phụ mà càng thấy vững lòng. Suy nghĩ một lát, lại nhìn
không thấy Đinh Công Trứ đi theo, Ngô Quyền bèn hỏi:
– Nhạc gia đã cử Đinh Công Trứ vào Hoan châu coi sóc việc
binh bị quân lương rồi chăng?
Dương Đình Nghệ rạng ngời nét mặt nói:
– Quyền nhi quả thấu hiểu bụng ta. Việc quân cơ không nói con
đều suy xét mười phần đúng cả khiến ta càng yên tâm. Nay ta giao cho con toàn bộ
việc vây đánh thành Đại La. Làm thế nào đừng để hao tổn xương máu sĩ tốt mới là
kế vẹn toàn.
Khi Dương công đi rồi, Ngô Quyền còn vân vi mãi. Ngô tướng
quân vô cùng cảm ân đức của họ Dương. Khi ngài gả con gái yêu cho, không ít người
nhìn Ngô Quyền với con mắt nghi kỵ. Hơn mười năm kiêm quản các việc của họ
Dương, Ngô Quyền lúc nào cũng thận trọng giữ gìn. Dương Tam Kha, người em rể
tài năng xuất chúng văn võ kiêm toàn và cũng rất hợp ý với Ngô Quyền và chị gái
Dương Thị nhưng không hiểu sao Dương Đình Nghệ lại luôn đặc biệt tin tưởng Ngô
Quyền. Khi được phân làm phó tướng cho Ngô Quyền, Dương Tam Kha nhất mực tuân
theo. Ngoài sự tài trí của Ngô tướng quân, chính tâm đức luôn bao dung nhường
nhịn của người anh rể đã khiến Dương Tam Kha luôn tâm phục khẩu phục Ngô Quyền.
Cùng là bậc dòng dõi anh hùng, ân đức của châu mục Ngô Mân đã từ lâu khiến họ
Dương nể trọng. Từ trong sâu thẳm, Ngô Quyền luôn thấy rõ sâu sắc điều đó. Điều
này đã khiến mọi hành xử của hai họ Dương – Ngô khăng khít mấy chục năm nay.
Lại nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Sau buổi Lý Tri Thuận bại binh nơi cổng nam thành, một mặt Lý
Khắc Chính cho người về triều đình xin viện binh một mặt đôn đốc binh tướng
phòng thủ thành Đại La rất nghiêm ngặt. Phàm là những làng mạc bên ngoài thành
họ Lý đều cho xua đuổi dân chúng dạt đi đến vài dặm. Họ Lý còn cho dồn bắt dân
phu đào đắp những chỗ xung yếu. Nhiều nơi Lý Khắc Chính cho phá cả nhà cửa đình
chùa sung gỗ đá để đắp thành nên đám phu phen dân chúng oán thán lắm mà trốn biệt
đi cả. Việc quân càng bối rối, Lý Khắc Chính thường nổi nóng quát tháo binh tướng
không mấy kẻ dám đến gần. Một hôm, họ Lý cho triệu Lý Tri Thuận và Độc Toàn
Chân đến soái phủ nén bực tức hỏi:
– Ta được tin Hán triều cử đại tướng Lý Tiến xuống Giao Châu
đánh dẹp giặc cỏ. Bề ngoài là thanh viện Đại La kỳ thực bên trong là nhòm ngó
chức thứ sử Giao Châu của ta, khép ta vào tội bại binh đổi về phong toả khép tội.
Đây chắc là kế hiểm của lão già Tô Chương muốn cài cắm thuộc hạ mà hãm hại ta.
Các ngươi có ý gì mau nói ra để cùng ta hành xử.
Lý Tri Thuận nhìn Độc Toàn Chân với vẻ mặt đầy biểu cảm. Độc
Toàn Chân dè dặt nói:
– Thuộc hạ xưa nay chỉ quen đường buôn bán kiếm ăn chứ việc
binh lương quân cơ triều chính nào có biết gì. Nay vâng mệnh Lý đại nhân, phàm
là vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc, thóc gạo trâu bò đại nhân cần bao nhiêu
thuộc hạ dẫu táng gia bại sản cũng phải chu cấp đủ còn mọi việc đánh giữ thế
nào tại hạ không dám bàn đến.
Lý Tri Thuận vội tiếp lời:
– Bẩm đại tướng quân! Hán triều có cái khó của Hán triều! Hán
đế chí trùm thiên hạ, luôn muốn hưng binh tranh hùng ở Trung Nguyên tất phải
đánh dẹp phương Nam, thể hiện long uy thiên tử. Nay lại xét đại tướng quân vừa
mới chiếm đất đoạt thành bắt chúa giặc dâng về Phiên Ngung công lao rõ ràng
không thể một sớm một chiều mà xoá đi được. Dẫu là Tô thừa tướng tiến cử tay
chân xuống Giao Châu thực hiện kế hiểm thay ngựa giữa dòng chắc chắn Hán đế vẫn
sẽ trọng dụng đại tướng quân bởi nếu không lòng người sẽ ly tán, mai này nhân
tài ai còn dám theo về với Hán đế nữa. Nay theo ý mạt tướng, ta hãy cố thủ
thành đợi Lý Tiến kia đến xem hắn khu xử ra sao. Nếu Lý Tiến dốc toàn lực đánh
tan binh tướng họ Dương ta cứ theo ý Hán đế giao lại La thành cho Lý Tiến là được.
Nhược bằng chưa đánh đã đòi đất đòi thành ta phải có kế khác đề phòng trước là
hơn. Mọi sự sắp đặt hẳn đại tướng quân đã có chủ ý rồi.
Nghe Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân bẩm báo, Lý Khắc Chính trầm
ngâm một lát mới nói:
– Giao Châu vốn không phải đất đai của người phương Bắc chúng
ta. Phong tục khác nhau lòng người càng khác nhau một trời một vực. Ta ngày trước
được cử đi chinh phạt cũng là vạn bất đắc dĩ mà thôi. Nay tình thế phía trước
giặc cỏ voi khoẻ binh mạnh, chúng còn phát hịch trưng tập tay chân các nơi của
họ Khúc tiến về vây hãm La thành, phía sau thiên uy khó lường, các quan lại triều
đình chỉ rắp tâm thay ngựa giữa dòng quả là chúng ta khó giữ được tính mạng.
Luôn mấy hôm nay ta suy nghĩ lao lung lắm. Đại La xét cho cùng cũng chỉ là một
toà cô thành mà thôi. Dẫu là ta hay Lý Tiến có gì khác nhau đâu. Bọn man di mọi
rợ phương Nam bề ngoài tưởng là yếu đuối nhưng bên trong chúng đều đất nào chủ
nấy, đời đời có anh hùng hào kiệt không dễ gì người phương Bắc trị nhậm được
chúng đâu. Từ đó mà xét, ta nên cử người đón đầu trước đại quân của Lý Tiến mà
bàn giao thành Đại La cùng với chức tước phẩm phục rồi xin về quê dưỡng già mới
là kế vẹn toàn.
Lý Tri Thuận tỏ vẻ xúc động nhìn thẳng vào Lý Khắc Chính nói:
– Cũng do mạt tướng bất tài khinh xuất không diệt được giặc cỏ
khiến nhuệ khí quân ta mất đi mới để liên luỵ tới đại tướng quân.
Độc Toàn Chân vội nói:
– Đại tướng quân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều. Thành Đại
La quân còn trên hai vạn, tinh binh mãnh tướng gồm đủ, lương thảo còn nửa năm nữa
lo gì bọn giặc cỏ. Ta cứ thành cao hào vững đợi đại quân Hán đế đến rồi trong ứng
ngoài hợp tất phá được giặc. Khi ấy chắc rằng Hán đế sẽ hạ chỉ để Lý Tiến đánh
thẳng xuống phương Nam thì đương nhiên đại tướng quân càng kê cao gối ngủ ở La
thành rồi.
Lý Khắc Chính nhìn hai kẻ tâm phúc thấy rõ được trong lúc
nguy nan vẫn có người hiến kế tự dưng cảm động chân thành nói:
– Các huynh đệ đều là chân tay cật ruột của ta. Đời này kiếp
này được sát cánh cùng các huynh đệ cũng là thỏa chí bình sinh vậy. Còn như việc
đánh giữ nay mai chỉ còn biết trông vào ý trời mà thôi.
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ cử người đưa thư đi các
nơi tìm tướng cũ của Khúc Thừa Mỹ để cùng mưu việc vây hãm La thành.
Vâng mệnh Dương công, Đoàn Thành cùng đám tuỳ tướng cải trang
làm thương lái đến thẳng đất Trà Hương thuộc Đằng Châu, vùng đất được cai
quản bởi cha con họ Phạm là Phạm Lệnh Công và Phạm Bạch Hổ cũng là một nha tướng
của họ Khúc ngày trước. Phạm Lệnh Công nối đời làm chủ đất Đằng Châu, ơn đức
chăn dân mở đất đã thấm vào muôn nhà. Ngày họ Khúc giữ ngôi nước vẫn khen Phạm
Lệnh Công là bậc hào trưởng bên ngoài mềm mại bên trong cương cường tự chủ mà
cho quyền kiêm quản toàn bộ các vùng đất thuộc Đằng Châu.
Từ buổi Lý Khắc Chính xua binh xuống La thành bắt Khúc Thừa Mỹ
về Phiên Ngung, Phạm Lệnh Công đã lập tức cho trưng tập binh mã lương thuyền
ngày đêm bàn mưu khởi sự. Con trai trưởng là Phạm Bạch Hổ nhiều lần xin cha cho
xuất binh đánh xuống La thành nhưng Phạm Lệnh Công chưa quyết. Kíp nghe tin
Dương Đình Nghệ khởi hơn hai vạn binh mã voi ngựa lại cho Ngô Quyền làm tiên
phong đã áp sát La thành Phạm Lệnh Công mừng lắm nói với con:
– Ta đoán sớm muộn gì tinh binh mãnh tướng Ái Châu cũng sẽ khởi
sự hỏi tội đánh đuổi giặc phương Bắc. Nay quả nhiên Dương Đình Nghệ xuất binh Bắc
phạt. Nay mai Dương huynh tất cho người đến hẹn binh với ta.
Phạm Lệnh Công vừa nói dứt lời đã có gia nhân vào bẩm báo có
người của Dương Đình Nghệ vào xin gặp. Phạm Bạch Hổ cung kính nói:
– Phụ thân đoán việc như thần, nay mai xuất binh tiến thủ thế
nào để báo ân rửa nhục cho Khúc chúa vừa mở mang cơ nghiệp mong phụ thân chỉ dạy.
Lát nữa tiếp người của Dương Đình Nghệ nếu kẻ kia cậy có tinh binh mãnh tướng
mà càn rỡ phụ thân chỉ cần ra hiệu con sẽ cho đám võ sĩ giết quách chúng đi, ta
tự tiến binh đoạt lấy La thành, đuổi Lý Khắc Chính về phương Bắc, phân phong
ranh giới với binh tướng Ái Châu cũng chưa muộn.
Phạm Lệnh Công ôn tồn nói:
– Hổ nhi! Việc binh là việc hiểm. Nếu chỉ biết chém giết
thoán đoạt không phải là chí khí của bậc anh hùng. Phải biết thương đến muôn
dân mà giữ vững giềng mối xã tắc mới là chí khí của Phạm gia ta. Ngươi nên nhớ
họ Phạm chỉ có thể làm thần tử mà hưởng phúc phận của mình thôi. Cãi lại ý trời
chỉ là rước vào đổ gãy trong sớm tối.
Phạm Bạch Hổ lắng nghe Phạm công vừa nói hết cũng là lúc gia
nhân dẫn đoàn khách người Ái Châu bước vào sảnh đường. Chia ngôi chủ khách ngồi
xong, Đoàn Thành bước lên cung kính vái chào Phạm công vừa nói:
– Tiểu sinh là Đoàn Thành người Ái Châu vâng mệnh Dương công
tới chào Phạm công. Tiểu sinh vẫn nghe Phạm công ơn đức khắp nơi, lòng người Đằng
Châu muôn một hướng về. Nơi thôn cùng xóm vắng nhà nhà đều thóc lúa đầy bồ,
trâu bò sinh sôi miên man không dứt quả là phúc ấm của muôn dân vậy.
Phạm Lệnh Công thấy Đoàn Thành dáng người thanh thoát, ăn nói
từ tốn khiêm cung trong lòng đã cảm mến đến bảy tám phần bèn ôn tồn nói:
– Đâu dám! Đâu dám! Ta vốn được Khúc chúa nối đời giao việc Đằng
Châu, đêm ngày không dám khinh xuất, muôn dân còn nhiều cơ cực nào đã có công
lao gì. Đâu được như Dương công, đất trải trăm dặm, dân các tộc thượng du, hạ bạn,
cửa sông, cửa biển muôn nẻo theo về. Lại nữa, hôm trước ta còn đương muốn vào
xin chủ ý của Dương công việc đuổi giặc Bắc, nay đã thấy tinh binh vài vạn áp
sát La thành, đội voi chiến của Dương công nửa ngày xéo tan kỵ binh của Lý Khắc
Chính mà lòng kính phục. Dương công quả đoán hành sự, mới là cột chống trời của
phương Nam chúng ta. Nay có gì Dương công sai bảo, ta quyết không chậm trễ.
Đoàn Thành nghe như nuốt từng lời. Xưa nay, thiên hạ vẫn đồn
Phạm Lệnh Công tài trí ơn đức đều hơn người. Nay chỉ vài câu nói đã vào thẳng
việc lớn mà vẫn nhẹ nhàng như không. Sẵn lòng để người khác điều khiển mình mà
vẫn giữ được nét ôn hòa chừng mực, quả không phải người thường. Đoàn Thành cung
kính đáp:
– Xin đa tạ Phạm công! Dương công có dặn tiểu sinh mọi chuyện
hợp vây giặc Bắc ở La thành mong Phạm công sớm định đoạt cho. Hiện nay, Hán đế
cuồng vọng phương Nam đã dùng kế thay ngựa giữa dòng, sai Lý Tiến đem năm vạn
tinh binh đang đêm ngày tiến xuống thành Đại La thay đổi cho Lý Khắc Chính. Nếu
để chậm trễ, chúng trong ứng ngoài hợp tất không chỉ Đại La nguy khốn mà các vùng
Đằng Châu, Ái Châu, Hoan châu, vó ngựa Bắc sẽ giẫm đạp lên mồ mả tổ tiên của
chúng ta. Mong Phạm công sớm liệu cho.
Phạm Lệnh Công còn đang vân vi bỗng vị tướng cao lớn đứng
phía sau không nhịn được gầm lên:
– Bọn giặc Bắc vẫn chứng nào tật nấy chỉ muốn ăn tươi nuốt sống
các vùng đất phương Nam chúng ta. Phụ thân hãy mau mệnh lệnh xuất binh cùng với
binh tướng Ái Châu vào bắt Lý Khắc Chính kíp sửa soạn chống nhau với Lý Tiến đuổi
giặc Bắc về đất chúng. Con tuy bất tài xin năm ngàn tinh binh ngay đêm nay theo
đường thuỷ áp sát phía đông La thành đánh giặc.
Đoàn Thành nhìn kỹ thấy vị tướng trẻ mặt to tai lớn, khí độ
hiên ngang, cặp mắt sáng quắc như sao khiến người khác phải lạnh mình thầm đoán
đây chính là Phạm Bạch Hổ, người mới sinh đã có nhiều điềm lạ, mới hơn mười tuổi
đã nổi tiếng võ vật cung kiếm hơn người, lại có biệt tài bơi lặn. Họ Phạm rèn
con rất nghiêm. Không chỉ theo đường võ, Phạm công còn mời các thầy giỏi đến dạy
đám con cháu trong nhà đường ăn nét ở nề nếp gia phong lắm. Phạm Bạch Hổ được
giao kiêm quản huấn luyện đám gia đinh, nhất là đội thương thuyền vừa buôn bán
các vùng cửa sông cửa biển vừa khơi thông luồng lạch bến bãi để muôn dân Đằng
Châu thuận tiện làm ăn. Tiếng tăm Phạm Bạch Hổ truyền đi khắp nơi, nhà nhà yêu
mến. Phạm Lệnh Công cũng vì thế mà được thong thả. Vừa nghĩ, Đoàn Thành vừa
cung kính nói:
– Vị này có phải là tướng quân Phạm Bạch Hổ chăng? Buổi xua
voi giày xéo kỵ binh Lý Khắc Chính, tướng Ngô Quyền quân Ái Châu còn nói nếu có
Phạm Bạch Hổ ắt đã xông thẳng vào thành phá tan bọn giặc Bắc rồi. Nay được diện
kiến quả là may mắn vậy.
Phạm Bạch Hổ khuôn mặt khẽ giãn ra còn chưa dám nói, Phạm
công ôn tồn bảo:
– Có phải Ngô tướng quân là con của hào trưởng Đường Lâm Ngô
Mân chăng? Lão phu cũng lâu lắm rồi không gặp Ngô huynh, nay các bậc hậu thế
chí khí hơn đời quả là phúc phận cho người Nam lắm. Còn như với Bạch Hổ phải học
hỏi nhiều lắm. Nơi chiến trận, đánh giặc không phải chỗ của kẻ nhát gan, lại
càng phải lấy cơ trí làm đầu đuổi giặc mới mong được vẹn toàn. Cứ như trận chiến
vừa rồi cho thấy Ngô Quyền hơn đời nhiều lắm. Phép đánh giặc phải khi mau khi
chậm. La thành với người phương Nam chúng ta là trung tâm trời đất linh khí non
sông, còn đối với đám giặc Bắc chỉ là một tòa cô thành mà thôi. Đêm nay ta giao
binh cho con toàn quyền xuống La thành cùng binh tướng Ái Châu hãm giặc. Nên nhớ
tuyệt đối không được tranh công. Đánh La thành là trận nhỏ. Mai kia, đánh quân
của Lý Tiến cũng chưa phải là trận cuối cùng đâu. Giặc Bắc có bao giờ thôi nhòm
ngó đất ta đâu. Phải đánh cho chúng đại bại không còn manh giáp để hễ nghĩ đến
chinh phạt phương Nam là run sợ tận trong tim óc mới là đại kế lâu dài.
Đoàn Thành cung kính vái tạ:
– Cảm ơn Phạm công đã cho xuất binh vây giặc. Tiểu sinh xin
được từ biệt ngay còn đến Phong Châu gặp gỡ với Kiều công rồi về bẩm báo Dương
công. Khi nào rảnh rỗi, tiểu sinh lại xin được hầu chuyện Phạm công.
Đoàn Thành đi rồi, Phạm Lệnh Công mới trầm ngâm nói:
– Nay mai con xuống thành Đại La nhớ chỉ chuyên tâm đuổi giặc.
Mọi việc tiến thủ nhất nhất theo điều khiển của Dương Đình Nghệ. Dương công tài
trí hơn ta nhiều lắm. Còn như việc Dương công tin gọi họ Kiều ở Phong Châu ta lại
thấy có điều bất ổn. Họ Kiều ở Phong Châu đã mười mấy đời làm quan tướng, tham
vọng và thực lực không phải nhỏ đâu. Cái ta lo sợ nhất là nạn huynh đệ tương
tàn, cảnh nổi da xáo thịt khiến lũ giặc Bắc kia có đường quay lại tàn sát dân
ta mới là cái hoạ trong tim óc vậy.
Phạm Bạch Hổ nghe lời cha mà vân vi mãi.
Ngay đêm hôm đó, Phạm Bạch Hổ cho kiểm điểm binh thuyền, đem
theo hơn năm ngàn binh tướng ngược dòng sông Cái tiến về La thành. Phạm Bạch Hổ
lại cho người lập tức đến báo tin với đại quân của Dương Đình Nghệ rằng Đằng
Châu đã xuất binh. Các tướng sĩ Giao Châu từ khi họ Khúc thất thủ La thành theo
về với Phạm Bạch Hổ rất đông. Ai cũng muốn có ngày trở về đánh đuổi giặc Bắc trả
thù rửa nhục cho họ Khúc.
Nhận được tin báo Phạm Lệnh Công ở Đằng Châu sai con là Phạm
Bạch Hổ cùng hơn năm ngàn tinh binh theo đường thuỷ áp sát phía đông La thành,
Dương Đình Nghệ mừng lắm cho gọi tiên phong Ngô Quyền đến bảo:
– Ta vẫn biết Phạm Lệnh Công là người khí khái có ơn tất trả
có thù tất báo nay đã cho con trai là Phạm Bạch Hổ vốn là một dũng tướng của Đằng
Châu đem quân theo đường thuỷ áp sát phía đông La thành. Ta đoán nay mai, họ Kiều
cũng sẽ xuất binh từ Phong Châu xuống hợp vây giặc Bắc. Lý Khắc Chính có mọc
cánh cũng không bay thoát khỏi thành Đại La. Có điều, nếu để Lý Tiến kịp hợp
binh xuống La thành, ta và giặc giằng co sẽ chưa biết thành bại ra sao. Nay Quyền
nhi có kế gì hãy mau nói cho ta biết.
Ngô Quyền suy nghĩ một lát rồi nói:
– Quân Đằng Châu mới đến, sĩ khí đang hăng chỉ muốn đánh
thành lập công trong sớm tối. Quân Ái Châu ta đội ngũ càng sẵn sàng phá thành
diệt giặc. Theo phép hành binh, Lý Tiến có dốc sức cũng phải năm ngày sau mới đến
được bờ bắc sông Cái. Chúng muốn qua sông phải bắc cầu phao tất dùng đến tre nứa
đẵn chặt các làng mạc nhanh cũng phải ba bốn ngày. Ngày mai, ta nên hẹn binh với
Phạm Bạch Hổ cùng tấn công La thành từ hai mặt đông và nam. Lại cho truyền tin
quân Phong Châu đang kéo đánh phía tây để giặc kia thêm rối, dẫu không phá được
thành cũng tiêu hao phân nửa binh lực giặc. Xin nhạc phụ hãy mệnh lệnh để tướng
sĩ ngày mai công thành phá giặc.
Dương Đình Nghệ thong thả nói:
– Ngày mai mệnh lệnh toàn đội tiên phong đánh cửa nam thành Đại
La. Ta sẽ cho đào vài đường hầm để xua voi vào trong thành đánh giặc. Đại quân
phía sau sẽ thanh viện cho các tướng công thành. Nên nhớ, thành trì cũng là đất
đai của người phương Nam chúng ta. Cốt sao hãm giặc để chúng tự thua mới là thượng
sách.
Ngô Quyền vâng lệnh lui ra chuẩn bị binh mã cho buổi phá
thành.
Tin cấp báo dồn dập bay vào trong soái phủ thành Đại La.
Lý Khắc Chính như ngồi trên đống lửa, luôn mấy hôm liền không
dám rời giáp phục chỉ huy các tướng thân chinh đôn đốc binh lính phu phen gia cố
thành trì. Phàm là những hào nước bãi lầy, họ Lý đều cho cắm la liệt chông sắt,
rọ đá xuống đó. Những cánh cổng gỗ lim nặng chịch được bọc thêm hai ba lần sắt
dày vững phòng voi xô đổ. Nghe tiếng thình thịch của đội quân Ái Châu đang đào
một đường hầm lớn chui ngầm phía dưới đoạn tường thành phía nam càng khiến Lý
Khắc Chính bấn loạn. Y lập tức cho đào những hố lớn trữ sẵn đồ dẫn hoả sẵn sàng
cho đốt cháy hòng bịt đường hầm. Nghe theo kế của Lý Tri Thuận, Lý Khắc Chính
cho trưng dụng bất kể là đồ đồng đồ sắt đồ cúng đồ thờ gom lại đúc rèn thành những
mũi chông lớn sẵn sàng bịt đường hầm khi voi chiến xông vào thành. Nỗi ám ảnh của
trận voi giầy khiến binh lính Hán triều hễ nghe tiếng voi gầm đều hoảng loạn mất
ăn mất ngủ. Đã thế, cứ đêm đêm, Ngô Quyền cho binh lính thúc trống thúc cồng ầm
ầm bốn bề càng làm giặc kia lao núng. Đám voi chiến hễ nghe tiếng cồng đều nhất
loạt gầm lên rung chuyển một vùng. Chiều chiều, Ngô Quyền thường chia hơn trăm
thớt voi làm hai đội tập trận ngay dưới chân cổng thành phía nam khiến binh tướng
Hán triều như kiến nằm trong chảo, tinh thần chiến đấu rệu rã đến bảy tám phần.
Còn chưa nghĩ ra kế gì, đang bồn chồn trong soái phủ, đã thấy Lý Tri Thuận cùng
Độc Toàn Chân hốt hoảng bước vào. Lý Tri Thuận run giọng nói:
– Bẩm đại tướng quân! Phía đông thành, binh tướng Đằng Châu của
tướng Phạm Bạch Hổ đã áp sát đang cho bắc thang mây, dùng máy bắn đá bắn cấp tập
vào kho chứa vũ khí tình hình nguy ngập lắm.
Độc Toàn Chân vội vã đế theo:
– Bẩm đại tướng quân! Kho lương thảo vũ khí ở phía nam chưa
chuyển kịp đã bị bọn giặc cỏ Ái Châu bắn tên lửa cháy sạch đêm qua rồi.
Lý Khắc Chính buông phịch tấm thân nặng nề xuống chiếc ghế bọc
da hổ mãi mới xua tay nói:
– Các ngươi hãy mau đi tử chiến giữ thành. Bất kể là vàng bạc
gấm vóc, các ngươi hãy treo thưởng để binh lính liều chết chống giữ mới được.
Chỉ nay mai đại binh của Lý Tiến đến đây ta giao thành trì cho y là xong. Nếu
không giữ được Đại La, trong con mắt của Hán đế, chúng ta chỉ là một lũ tướng
thua trận đáng xử chém mà thôi.
Vừa hấp tấp chạy vào, Độc Toàn Chân, Lý Tri Thuận lại hấp tấp
chạy đi đôn đốc quân sĩ tử chiến giữ thành.
Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân người nam kẻ đông chia nhau ra
hai mặt cổng thành đôn đốc binh tướng chống giữ. Họ Lý thống xuất năm nghìn
binh mã đội ngũ chỉnh tề ra thẳng phía đông thành Đại La. Đại quân của Lý Khắc
Chính cả tuần nay dàn hết về hướng nam đào hầm đắp ải luỹ chống nhau với tiên
phong Ngô Quyền. Giằng co luôn mấy hôm thắng bại còn chưa biết nay đột nhiên
binh mã Đằng Châu của Phạm Bạch Hổ theo đường thuỷ kéo lên khí thế rất mạnh mẽ.
Lá cờ đại thêu chữ Phạm cực lớn bay phần phật phía ngoài cổng đông
thành Đại La trong tiếng trống trận thúc ầm ầm. Lớp này lớp khác thang mây ập
vào các tường thành. Binh lính Đằng Châu giáp phục gọn gàng, tay đao tay kiếm
hò nhau xông lên phá thành rất hăng. Ầm… ầm…, từng loạt đạt đá từ chiến thuyền
rít ù ù quăng vào bên trong phía đông thành phá tan hoang khu kho chứa vũ khí,
quân lương của Độc Toàn Chân. Từ ngày được giao kiêm quản binh lương, Độc Toàn
Chân không kể là trưng thu hay cướp bóc đều giở thói con buôn chiếm đoạt rất
nhiều. Y còn cho xây cất những kho riêng tiếp giáp phía đông thành, nơi có đội
thương thuyền buôn bán của họ Độc. Độc Toàn Chân một mặt cho tay chân bộ hạ mau
chóng di dời đội thương thuyền vượt qua bến Giang Biên kéo về khúc sông rộng
phía bắc sẵn sàng đón đợi đại quân của Lý Tiến cũng là tàng chữ của cải sẵn
sàng tẩu tán về phương Bắc. Luôn mấy hôm, Độc Toàn Chân sai thợ giỏi tìm kiếm lắp
đặt máy bắn đá lên thương thuyền nhưng chưa kịp xong việc quân của Đẳng châu đã
ồ ạt kéo xuống. Độc Toàn Chân không dám bẩm báo điều này với Lý Khắc Chính, sợ
họ Lý nghi kỵ. Nay tình hình nguy cấp, họ Độc kéo riêng tên thủ hạ Mã Diều Tử dặn
cứ như thế như thế. Mã Diều Tử quá hiểu họ Độc đã cùng đám võ sĩ thân tín chuyển
phần lớn kho của cải của họ Khúc ngày trước xuống đội thương thuyền. Điều này,
Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận hoàn toàn không biết.
Được hứa hẹn tặng thưởng vàng bạc châu báu, lại ở thế cùng đường
tuyệt lộ, binh lính Hán triều liều chết chống nhau với binh tướng Đằng Châu, Ái
Châu trọn một ngày trời không phân thắng bại. Nơi cổng đông giáp sông Cái mùa
nước đương lên, mặc đám chiến thuyền áp sát bắn đạn đá dữ dội, binh tướng Hán
triều vẫn đứng vững trên mặt thành. Tướng Đằng Châu Phạm Bạch Hổ giáp trụ đẫm
máu đã mấy lần thân chinh lên được mặt thành chém giết mở đột phá khẩu nhưng
các binh tướng Đằng Châu không theo kịp. Trong làn mưa tên, họ Phạm đành phải
lướt xuống chân thành chờ đợi thời cơ. Kịch chiến đến sẩm tối, binh lính hai
bên đều thương vong vô số. Biết chưa thể phá vỡ ngay được cổng thành, Phạm Bạch
Hổ hạ lệnh toàn quân rút xuống chiến thuyền lui về bên kia sông.
Ở nơi cửa nam thành, dựa vào số đông liều chết chống giữ, lại
có mấy con hào chắn giăng sẵn lưới sắt, cọc nhọn. Nhân mùa nước lên, các hào
rãnh đều rộng thêm ra đến vài trượng khiến binh lính Ái Châu chưa có cách gì tiếp
cận được chân thành. Quân Hán cậy đông, hò nhau lên mặt thành sử dụng cung tên,
gỗ đá quyết liều chết giữ thành. Dương Đình Nghệ thấy Ngô Quyền đôn đốc binh tướng
đánh mãi chưa chiếm được thế thắng bèn hạ lệnh lui quân về trại. Hơn trăm thớt
voi trận bố phòng ngay ngoài cổng nam thành Đại La để thị uy quân Hán đề phòng
chúng liều mạng đánh ra. Dương công lại cho đào thêm hai đường hầm nữa làm kế
hư thực khiến binh tướng Hán triều không biết nơi nào mà chống giữ.
Đây nói tiếp chuyện đại tướng Lý Tiến vâng mệnh Hán đế đem
năm vạn quân thẳng tiến xuống Giao Châu.
Hôm trước, sau buổi thiết triều được tể tướng Tô Chương tiến
cử phong chức thứ sử Giao Châu kiêm quản các vùng đất phương Nam, Lý Tiến tạ ân
lĩnh chỉ lập tức điểm binh tướng lên đường.
Trong hàng ngũ các tướng soái của Hán đế, Lý Tiến là một tướng
lão luyện có nhiều công tích, đặc biệt việc đánh thành giữ đất mở mang bờ cõi
thế lực cho Hán đế. Những không muốn rời xa viên ái tướng, song cục diện Giao
Châu không thể chần chừ. Để Lý Tiến xuống phương Nam còn là chủ ý của tể tướng
Tô Chương. Họ Tô luôn lao tâm khổ tứ vì Hán triều mà lập công dựng nghiệp. Luôn
nhiều năm trời, Hán đế động binh không ngừng khiến bốn phương đều chìm trong
khói lửa chiến tranh. Thống xuất phương Nam vừa nằm trong dã tâm mở mang bờ cõi
đến tận vùng duyên hải, tạo lập thiên uy để tranh đoạt Trung Nguyên, vừa còn là
chỗ để rèn luyện các trung thần ái tướng. Lý Tiến vừa khẩn trương dẫn đại quân
xuống Giao Châu vừa tính toán cân nhắc việc khu xử nơi Đại La thành. Dù gì, Lý
Khắc Chính cũng đã có công đánh dẹp Giao Châu, bắt sống Khúc Thừa Mỹ, lại đã
dâng về vô số vàng bạc châu báu cho Hán đế. Nay chỉ riêng việc chậm trễ không
tiến đánh Ái Châu, Hoan châu, tiến chiếm Chiêm Thành mà thay người khép tội giữa
dòng quả còn có chỗ chưa ổn. Thân làm biên tướng ngoài ngàn dặm, đâu phải muốn
đánh là đánh được đâu. Mới thấy cái khó của đạo làm tướng, lại càng thấy cái khổ
của thân làm thần tử, giữ được mạng sống cũng không dễ gì. Lý Tiến trong cuộc
nam chinh xuống Giao Châu trong lòng ngổn ngang trăm mối là vì thế.
Đến khi tiền quân báo về đại đội binh mã đã áp sát bờ bắc
sông Cái chỉ còn cách bến Giang Biên ba mươi dặm, Lý Tiến mệnh lệnh hạ liên
hoàn trại bên bờ bắc, lại cho thám sát thăm dò đo mực nước, dòng chảy rất cẩn
thận. Trại vừa hạ xong, Lý Tiến cho triệu các tướng vào trướng hổ thương nghị.
Lý Tiến nghiêm nghị nói:
– Nay ta vâng mệnh Hán đế thảo phạt giặc cỏ, nêu rõ thiên uy,
nay mai tất vào thành Đại La kiêm quản các việc ở Giao Châu. Các ngươi theo ta
đã lâu ngày hãy bàn định cho kỹ việc đánh dẹp, tiếp quản sau trước không được để
sai sót gì mới được.
Chúng tướng ai nấy sau chặng đường dài khá mệt nhọc còn chưa
biết nói gì. Lại thấy chủ tướng tỏ ra vẻ quan hoài thận trọng bèn chỉ nhìn nhau
chưa ai dám lên tiếng. Một lát, phó tướng Trương Ngao, người vốn mười mấy năm
vào sinh ra tử cùng chủ tướng mạnh dạn bước ra nói:
– Bẩm đại tướng quân! Theo ý mạt tướng, ta cho binh mã nghỉ hết
đêm nay, ngày mai mệnh lệnh chặt tre gỗ bắc cầu phao để đại binh qua sông. Bọn
giặc cỏ Giao Châu vốn trí trá, chúng lại thạo về sông nước, đại binh không lập
tức qua sông e rằng việc binh thất lợi làm tổn hại thiên uy của Hán đế.
Nơi trướng hổ tiếng xì xầm bàn bạc cất lên. Để các tướng bàn
tán một lúc, Lý Tiến dõng dạc mệnh lệnh:
– Nay hãy theo kế của Trương tướng quân. Ngày mai các ngươi
phải khẩn trương đôn đốc bắc cầu phao cho đại quân sang bờ bên kia mới được.
Ngay đêm nay, hãy cho người tìm thuyền nhẹ lẻn vào trong thành báo cho Lý Khắc
Chính là đại quân ta đã tới đây, rồi tiện thể dò xét xem thực lực binh tướng của
giặc cỏ và Đại La ra sao rồi mau báo sớm để ta biết.
Chúng tướng vâng dạ cắt đặt ai về trại nấy.
Ngô Vương: Hồi thứ ba
HỒI THỨ BA
Thuận dòng gió nước, Phạm Bạch Hổ hiến kế đốt cầu phao
Vâng chiếu Hán triều, Lý Khắc Chính hành lễ đón Lý Tiến
Đây nói tiếp chuyện Dương Đình Nghệ cùng chúng tướng ngày đêm đào hầm vây hãm Đại La thành.
Luôn mấy hôm, Dương Đình Nghệ lệnh cho Ngô Quyền, Dương Tam Kha, Đoàn Thành tạm thời ngưng chiến, chỉ chuyên tâm vào việc đào các đường hầm tạo thanh thế uy hiếp La thành. Nhận được tin viện binh của Lý Tiến đã hạ trại nơi bờ bắc sông Cái, cách bến Giang Biên ba mươi dặm, Dương Đình Nghệ cho triệu các tướng vào thương nghị. Dương công cho mời tướng Đằng Châu Phạm Bạch Hổ tới từ sớm chuyện trò thân mật nơi trướng hổ.
Khi các tướng đã tề tựu đông đủ, Dương công thong thả nói:
– Xin giới thiệu với các tướng, vị này là Phạm Bạch Hổ, trưởng tử của Phạm Lệnh Công cũng là bậc huynh trưởng kết giao đã mấy chục năm của ta. Nay Phạm công cho tướng quân đây cùng năm nghìn tinh binh đã giáp chiến với binh lính Hán triều mấy ngày nay khiến chúng khiếp đảm lắm rồi. Nay có đông đủ các tướng, ta muốn nghe kế sách đánh thành diệt viện của chư vị.
Mọi người đưa mắt nhìn viên tướng Đằng Châu, ai nấy đều trầm trồ thán phục vẻ ngoài cao lớn vạm vỡ, khí độ thần thái hiên ngang. Lại luôn mấy hôm, trong quân truyền kể vị tướng Đằng Châu năm bảy bận vượt muôn ngàn mũi tên ngọn giáo thân lên mặt thành chém tướng chặt cờ quân Hán vô số kể, nay tận mắt nhìn thất vị tướng tuổi tuy khá trẻ mà đường bệ nghiêm trang đều mười phần cảm mến.
Không khách khí, Ngô Quyền bước ra thủ lễ nói:
– Bẩm nhạc phụ! Thưa các vị tướng quân! Mạt tướng vốn nghe danh Phạm Lệnh Công ân uy rất nghiêm, lòng quân lòng dân Đằng Châu muôn người như một. Nay lại thấy Phạm tướng quân đây tuổi trẻ tài cao, thân đem tinh binh mãnh tướng phá thành giết giặc không kể muôn tên nghìn giáo quả đáng khâm phục. Việc đánh thành diệt viện, hẳn nhạc phụ đã có kế sách chu tất. Mạt tướng xin đợi lệnh để sớm được cùng Phạm tướng quân giết giặc trên chiến trường.
Phạm Bạch Hổ nhìn thật kỹ Ngô Quyền, thấy họ Ngô lời nói chính trực, sâu sắc, chỉ vài câu ngắn đã như thấu vào gan ruột mọi người, hiểu binh tướng Đằng Châu đến tận chân tơ kẽ tóc, trong lòng đã thầm cảm phục lắm. Lại thấy Ngô tướng quân cao lớn đường bệ, dáng đi như rồng, tiếng nói như chuông, không khỏi rúng động tâm can. Nghĩ trước nghĩ sau, Phạm Bạch Hổ bình tĩnh tiến ra thủ lễ nói:
– Bẩm Dương công! Thưa các vị tướng quân! Tiểu tướng vâng lệnh phụ thân cùng gia binh gia tướng vượt muôn dặm đến đây để Dương công sắp đặt việc đánh đuổi giặc Bắc. Gia phụ có dặn mọi việc nhất nhất theo ý Dương công, muôn chết không từ. Nay giặc kia viện binh vừa đến, chúng tất sẽ trong ứng ngoài hợp mà gây khó dễ cho ta. Ngày trước, Triệu Việt vương đánh giặc Lương nơi bến Giang Biên, chém tướng Dương Sằn đã dùng kế hỏa công đốt cầu phao trên sông Cái. Nay binh thuyền của Đằng Châu tướng sĩ đều thạo sông nước cả, xin Dương công minh xét có thể theo kế cũ mà làm chăng?
Nguyên ngày trước, sau khi đức vua Lý Nam Đế bị thua binh ở hồ Điển Triệt đã giao lại binh quyền cho tả tướng Triệu Quang Phục, họ Triệu bèn đem quân về đầm Dạ Trạch ngày đêm luyện binh trữ lương, lại cho người đi khắp vùng tìm người tài giỏi về giúp kế trong quân dần dần gây lại thanh thế. Trần Bá Tiên khi ấy làm An Nam Đô hộ sứ sai đại tướng Dương Sằn đóng quân thủy bộ ở bến Giang Biên vừa để đề phòng các tướng cũ của Lý Nam Đế đánh úp kinh thành vừa tiện tay đàn áp, cướp bóc dân chúng An Nam. Khi binh lực dồi dào, lòng dân hướng về, Triệu Quang Phục chia binh hai đường thủy bộ nửa đêm tập kích trại Giang Biên, quân cứu viện của Trần Bá Tiên từ kinh thành theo đường cầu phao bắc qua sông Cái sang cứu Dương Sằn bị Triệu Quang Phục cho quân đốt cầu phao chết vô số kể. Không có viện binh, binh tướng Dương Sằn núng thế, trại thủy bộ Giang Biên bị đốt trụi, bản thân Dương Sằn bị Triệu Quang Phục chém chết tại trận. Sau chiến thắng Giang Biên, Triệu Quang Phục được các tướng và muôn dân suy tôn là Triệu Việt vương. Họ Triệu lên ngôi vương, cùng các tướng và dân chúng An Nam đánh đuổi đám người phương Bắc giành lại quyền tự chủ.
Dương Đình Nghệ nhìn vào Phạm Bạch Hổ thấy viên tướng trẻ họ Phạm lời nói ôn tồn mà sâu sắc, bàn vào việc quân cơ quả đoán, viện dẫn sử sách thông thuộc, vô cùng mừng rỡ, tiến đến sát vị tướng trẻ nói với mọi người:
– Quả là trời giúp chúng ta. Phạm tướng quân hiến kế đốt cầu phao giết giặc để chúng đầu đuôi không cứu được nhau quả là diệu kế. Giặc Bắc luôn cậy ngựa khỏe binh mạnh, lấy thịt đè người, nay ta chưa thể đưa voi qua sông để đón đánh chúng ở Giang Biên thì chỉ còn kế hỏa công đốt cầu phao giặc là vẹn toàn mà thôi. Ngay hôm nay, ta mệnh lệnh Ngô Quyền chọn hai ngàn dũng sĩ cùng theo xuống thuyền với Phạm tướng quân. Hai tướng hãy bí mật chia quân mai phục hai bên bờ sông đợi giặc kia đến giữa lòng sông hãy đổ ra đánh, tất chúng không qua được sông. Nơi các cổng thành Đại La, ta sẽ hư trương thanh thế để bọn Lý Khắc Chính không dám rời thành tiếp viện việc lớn tất thành.
Các tướng nghe theo sự sắp đặt của Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền điểm hai ngàn tinh binh ngay trong đêm theo cùng binh tướng Đằng Châu xuống thuyền bí mật lập trận địa mai phục đón lõng đại quân của Lý Tiến trên mặt sông Cái.
Đây nói tiếp chuyện Lý Khắc Chính trong thành Đại La.
Nhận được tin đại tướng Lý Tiến đã xuống tới bờ bắc sông Cái đang hạ trại liên hoàn chuẩn bị cho đại quân bắc cầu phao qua sông, Lý Khắc Chính vội cho người thân tín theo cùng tả hữu của Lý Tiến đang đêm lấy thuyền nhỏ chèo gấp sang bên kia sông. Lý Khắc Chính hẹn sáng hôm sau sẽ chuẩn bị đại đội binh mã sẵn sàng tiếp ứng đại quân qua sông vào thành. Lý Khắc Chính còn dâng riêng vô số vàng bạc châu báu cho Lý Tiến, lại làm một tờ biểu trần tình việc chậm trễ không tiến vào Ái Châu, Hoan châu. Tờ biểu lời lẽ khiêm nhường thống thiết, chỉ mong muốn sớm được về yên hưởng tuổi già chứ tuyệt nhiên không dám nhắc gì đến chức phận kiêm quản Giao Châu.
Đọc xong tờ biểu trần tình. Liếc nhìn hòm vàng bạc châu báu, Lý Tiến chỉ thở dài không nói.
Theo sắp đặt từ hôm trước, mờ sáng, hàng vạn binh mã được Trương Ngao cùng các tướng dồn ép vào làng mạc chặt tre đẵn gỗ làm cầu phao để đại quân qua sông. Bất kể là nhà cửa đình chùa, binh lính Hán triều đều cho tháo dỡ chuyển ra bờ sông đóng từng nhịp từng nhịp cầu nổi trên mặt nước. Đám binh lính phương Bắc vốn không thông thạo sông nước nên đến quá trưa cầu mới được non nửa ngoằn nghèo trên mặt sông rộng. Nhìn xa xa, thi thoảng có những vạt lau sậy cây cối trôi bập bềnh tấp vào chiếc cầu càng khiến cho Trương Ngao sốt ruột quát tháo ầm ĩ. Họ Trương cho đẵn sạch cây cối nơi bờ sông vẫn không đủ gỗ lạt để bắc cầu. Điên tiết, họ Trương rút đao chém cụt đầu mấy tên lính già chậm trễ khi khiêng vác tre nứa để bọn ở giữa sông phải lơ lửng giữa dòng nước.
Bờ bên này sông, trong đám lau sậy um tùm, hai tấm lưng vạm vỡ đóng khố cởi trần chụm sát vào nhau. Phạm Bạch Hổ nhìn mãi vào chiếc cầu dang dở trên mặt sông, rồi nhìn Ngô Quyền nói nhỏ:
– Ngô huynh! Cứ đà này cho dù chúng có phá sạch làng mạc bên kia sông cũng phải đến tối mai mới bắc xong cầu. Tiểu tướng đồ rằng, đêm tối bọn chúng cũng không dám qua sông. Lũ ngựa Bắc vốn dát nước lắm. Mà binh Hán không có ngựa thì chỉ còn là những bị thịt mà thôi. Nay ta cho binh sĩ nạp sẵn đồ dẫn cháy phục ở hai đầu đợi giặc kia chớm đặt chân sang bờ nam mới nhất tề cắt cầu khiến chúng đầu đuôi không cứu được nhau mà chết đuối. Không biết huynh có cao kiến gì chăng?
Ngô Quyền từ lúc gặp Phạm Bạch Hổ trong lòng vô cùng yêu mến, nhìn vị tướng trẻ đất Đằng Châu thong thả nói:
– Tiểu đệ hiến kế đốt cầu phao giặc kia tất bại. Ta cho rằng trận chiến lớn với giặc Bắc còn ở phía trước. Hán đế không cam tâm để phương Nam chúng ta tự chủ đâu. Phải đánh cho đại binh của chúng, dẫu là Hán đế Lưu Nhiễm thân chinh đem hùng binh xuống phương Nam cũng không còn mảnh giáp mới khiến chúng run sợ để ta tự chủ mới là kế lâu dài.
Phạm Bạch Hổ cảm phục nói với Ngô Quyền:
– Ngô huynh thật chí khí khác người. Việc đánh bọn giặc phương Bắc mai này đệ xin được cùng huynh vào sinh ra tử.
Ngô Quyền không nói, lặng lẽ đặt bàn tay vạm vỡ lên vai Phạm Bạch Hổ.
Từ lúc Trương Ngao rút kiếm liên tiếp chém cụt đầu mấy tên lính chậm chạp, việc bắc cầu khẩn trương nhộn nhịp hẳn lên.
Lý Tiến cho gọi Trương Ngao đến phán bảo:
– Tướng quân bất tất phải nôn nóng. Ở cái đất lụt lội ẩm ướt này, bọn giặc cỏ gian trá lắm. Xưa kia đại tướng Dương Sằn bị Triệu Quang Phục chém đầu ở Giang Biên cũng vào mùa nước lên như thế này. Lại đến Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình bị vây hãm ở La thành mà vong mạng. Bọn giặc cỏ An Nam từ xưa đến nay vốn thường lẩn lút nơi đầm bãi, rừng rậm ít khi chịu xuất đầu lộ diện đánh nhau với đại binh phương Bắc. Thế mà khi có thời cơ, lũ giặc cỏ cứ như chui từ trong lòng đất ra vậy. Ngày trước, Cao Chính Bình có cả vạn trong thành Tống Bình còn bị giặc cỏ Phùng Hưng vây khốn đến chết. Ba quân thủy bộ của họ Phùng như được trời giúp đông vô số kể. Binh ta nếu không cẩn thận mắc vào mưu chúng sẽ ngàn thu ôm hận đó. Từ hôm xuất binh, ta luôn nghĩ hoàng thượng có phần gấp gáp đánh phương Nam không để cho binh tướng được nghỉ ngơi khó nắm chắc phần thắng. Nay đại quân ta đã đến đây, trong thành Đại La còn tới hơn hai vạn tướng sĩ của Lý Khắc Chính. Nay ta nếu cho toàn quân qua sông, không phải là kế vẹn toàn đâu. Ngươi hãy chia binh làm hai đội, chỉ cho một vạn lính già yếu qua sông trước lập doanh trại bên phía bờ nam sông Cái. Vạn nhất có trúng kế giặc cỏ còn có đường về đất Bắc.
Thấy chủ tướng đột nhiên thận trọng khác thường, Trương Ngao không dám khinh xuất quay trở ra chia binh theo ý chủ tướng.
Đến quá trưa hôm sau, khi cầu phao qua sông được bắc xong, Trương Ngao toan cho một vạn lính già yếu qua sông trước, Lý Tiến thấy thế bèn mệnh lệnh:
– Trương Ngao, ngươi nửa đời chinh chiến sao còn hồ đồ. Phép dùng binh không thể buổi chiều qua sông sang đất lạ, tất chuốc bại vong đấy. Nay ngươi hãy thử cho năm trăm binh lính sang sông trước, lại dắt đám ngựa già yếu đi qua cầu xem chúng có sợ hãi gì không rồi ngày mai đại quân qua sông còn chưa muộn.
Trương Ngao vâng dạ lui ra, bụng thầm nghĩ, không hiểu sao đại tướng quân càng ngày càng quá thận trọng, chưa gặp giặc cỏ mà đã đề cao chúng thực làm giảm sĩ khí của quân ta vậy. Từ trước đến nay, mỗi khi hành binh đều phải cho tướng giỏi ngựa khỏe làm tiên phong dẫn đầu nay đại tướng quân lại cho lính già ngựa yếu sang sông trước thật chẳng hiểu ra sao. Bên kia sông, trong thành Đại La còn tới cả vạn binh sĩ của Lý Khắc Chính, bên này binh tướng thiên triều vài vạn mà vô cớ sợ sệt giặc cỏ chẳng phải để chúng cười vào mũi người phương Bắc hay sao? Phép dùng binh xưa nay chưa đánh đã quá đề cao địch quân họ Trương chưa thấy bao giờ. Nhưng cứ nghĩ đến việc Dương Sằn, Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình binh bại mạng vong ngày trước trong bụng Trương Ngao càng nghi ngại mà nhất nhất vâng theo mệnh lệnh của Lý đại tướng quân.
Bên bờ nam quan sát động tĩnh thấy đại quân của Lý Tiến dùng dằng chưa qua sông, lại thấy các đồn trại đóng theo thế liên hoàn trước sau hỗ trợ nhau rất nghiêm cẩn, Ngô Quyền bảo với Phạm Bạch Hổ:
– Hiền đệ xem tướng giặc không phải loại vừa đâu. Chúng hồ nghi không dám qua sông. Chắc chiều nay chỉ cho đám binh mã già yếu qua sông trước xem động tĩnh ra sao rồi mai mới dần dần chuyển đại binh qua sông. Ta càng phải cẩn thận lắm mới được. Giặc kia dường như đã đoán được mưu ta nhưng chúng tất phải qua sông. Nay ta chỉ có thể đánh úp được mẻ đầu quân chúng mà thôi. Lý Tiến vốn là danh tướng của Hán đế, không dễ gì một trận phá được chúng. Ngày mai, cứ theo kế ta mà làm. Mọi việc ta và đệ phải kiểm tra chu tất trong đêm nay mới được.
Phạm Bạch Hổ lặng lẽ cùng Ngô Quyền rút vào vùng lau sậy nơi các dũng sĩ Đằng Châu, Ái Châu đang chia nhau sắp đặt đồ dẫn hỏa, chủy thủ, câu liêm, dây sắt sẵn sàng tập kích đốt phá cầu phao.
Tờ mờ sáng hôm sau.
Qua mấy buổi chặt phá cây cối nơi bờ bắc sông Cái xơ xác ngổn ngang. Mùa nước lên, đám củi cành từ thượng du đổ xuống gặp những đoạn cầu phao bắc thấp níu cong tưởng chừng muốn phá tung về phía hạ lưu. Trương Ngao cho binh sĩ liên tục đi lại trên cầu dùng sào dài đẩy dìm từng đám từng đám củi rác rong rêu luồn ra khỏi cầu phao lại cho dùng chão mây níu chặt những thân tre lớn làm chỗ vịn cho binh mã tiện qua sông. Nhiều khúc họ Trương còn sử dụng ván sàn của đình chùa lát phẳng phiu khá chắc chắn. Trương Ngao kiểm điểm một vạn bộ binh, đa số già yếu vốn là hậu quân chuyển lên tiền quân cho qua sông trước. Đám binh lính ngơ ngác nhìn nhau. Xưa nay, theo họ Lý chinh phạt các nơi, chỉ toàn là ngựa khỏe binh mạnh xông lên phía trước. Đám lính già nhăn nhó đùn đẩy nhau trên chiếc cầu gỗ bập bềnh mặt sông gió ù ụ thổi.
Trương Ngao tuốt kiếm lăm lăm chỉ về bên kia sông quát lớn:
– Các ngươi hãy chia nhau năm trăm người một đội lần lượt qua sông sang bên kia tất có đại binh của Lý Khắc Chính đón các ngươi vào thành tiện việc khao quân không việc gì phải sợ.
Đám binh lính Hán triều sau phút đùn đẩy hè nhau từng đội từng đội tiến bước vào chiếc cầu phao. Chiếc cầu ban đầu còn là một đường thẳng chỉ chốc lát ngoằn nghèo bập bềnh oằn oại trên mặt nước.
Đại đội binh lính đầu tiên qua cầu phao trót lọt không xảy ra bất cứ chuyện gì.
Trương Ngao bất thần tế ngựa xuống cầu hô lớn:
– Các tướng sĩ hãy mau theo ta sang bên kia sông hạ trại!
Vừa hò hét, Trương Ngao vừa tế ngựa lên cầu. Con ngựa tía của Trương Ngao luôn mấy hôm đôn đốc quần thảo nơi bãi sông tỏ vẻ không sợ sông nước lộp bộp đi trên đám ván gỗ bập bềnh hăng hái đưa chủ tướng qua sông.
Thấy chủ tướng đã đến giữa cầu phao bình yên vô sự, đám kỵ binh, bộ binh gần vạn tên phấn khích ùa nhau hăng hái qua sông.
Chiếc cầu phao oằn mình tưởng chừng không chịu nổi. Những chão mây xoắn bện kêu răng rắc. May giữa lúc nước chảy không xiết lắm khiến chiếc cầu còn giữ được thăng bằng. Đám binh lính hăng hái chỉ chăm chú nhìn sang bờ nam sông Cái mà không hay biết từng đám, từng bè lau sậy cao chất ngất đang lặng lẽ từ thượng du trôi dần vào sát cầu phao.
Sang tới bờ bên kia, Trương Ngao quành ngựa lên bờ quát đám binh lính sắp thành đội ngũ để đón bọn dưới cầu phao lên bỗng kinh hãi thấy hàng trăm đụn lau sậy khô nghi ngút khói đã trôi sát cầu phao. Còn chưa kịp định thần lửa đã bốc lên rần rật tấp vào chính giữa và hai bên đầu cầu. Những tiếng hét ầm ầm. Hàng trăm dũng sĩ Đằng Châu nhất tề tung mình khỏi mặt nước vung mã tấu, câu liêm, móc sắt chặt đứt cầu phao. Tiếng kêu khóc như ri. Từng mảng người đổ sầm sập xuống mặt sông ngầu đỏ. Những bè mảng lau sậy chứa sẵn đồ dẫn lửa cháy rừng rực loáng cái đốt cháy chia chiếc cầu dài dặc thành ba đoạn trơ vơ trên mặt sông rộng mênh mông. Phía bờ Bắc, Lý Tiến kinh hãi tế ngựa hô các tướng xua đội cung tên nhất tề bắn xuống mặt nước, nơi các dũng sĩ Giao Châu đang đốt cầu phao mặc tiếng kêu khóc của những kẻ trên cầu trong trận mưa tên. Phía bờ Nam, tiếng pháo lệnh vang lên ùng ùng, không biết từ đâu, năm mươi chiến thuyền lừng lững tiến ra mặt sông sôi sục. Đám tàn binh tàn tướng của Lý Tiến ngoi ngóp dưới sông bị các dũng sĩ trên thuyền dùng câu liêm, đinh ba dìm chết vô số. Trên bờ, một thảm cảnh kinh hoàng diễn ra. Hơn năm trăm binh lính Hán cùng phó tướng Trương Ngao bị hai ngàn binh lính Ái Châu vây chặt. Rừng cung tên thảy đều chĩa về đám giặc Bắc.
Đứng giữa hàng quân, Ngô Quyền chỉ Trương Ngao mắng:
– Bớ tướng giặc! Ngươi hãy xuống ngựa chịu hàng.
Trong cơn điên loạn, lại thấy binh lính dưới sông bị hại vô số kể, Trương Ngao gầm lên:
– Giặc cỏ! Ta liều chết với các ngươi.
Khi Trương Ngao chồm ngựa xông về phía Ngô Quyền cũng là lúc họ Ngô phẩy tay xạ tiễn. Thương thay Trương Ngao cùng hơn năm trăm binh tướng Hán triều già nửa đời chinh chiến không thể ngờ có ngày toàn bộ làm mồi cho trận mưa tên.
Đứng bên kia sông, Lý Tiến thương cảm khóc ngất nhưng cũng chỉ biết kêu trời.
Sau khi thu nhặt đám tàn quân còn sống sót dưới sông lên bờ bắc, Lý Tiến hạ mệnh lệnh đại quân cố thủ trong trại không bàn tới việc sang sông nữa. Những tre gỗ bắc cầu phao họ Lý cho trục vớt xếp thành ải luỹ chắn ngay sát bờ sông. Khi quân bờ nam rút đi, Lý Tiến cho tìm thuyền nhỏ sang bên kia sông nhặt xác của phó tướng Trương Ngao về chôn cất cẩn thận. Những là binh lính tử trận gom thành gò lớn hỏa táng ngay ở bãi sông khiến binh lính tinh thần càng giảm sút. Ngay chiều hôm đó, bất chấp nguy hiểm, nghe tin đại quân Lý Tiến vượt sông giữa đường bị binh tướng Đằng Châu đánh úp đốt cầu phao thảm bại, Lý Khắc Chính lập tức cử Lý Tri Thuận đem theo ba ngàn tinh binh đến bờ nam thanh viện. Lý Khắc Chính cho gọi Độc Toàn Chân hỏi đến đội thương thuyền mau chóng xung vào quân ngũ để tiện bề sử dụng dùng cho đại quân của Lý Tiến qua sông.
Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân tới nơi thì chỉ còn lại chiến trường xơ xác, thây chất ngổn ngang, tiếng quạ kêu rợn óc. Phía bờ bắc, trại lính của Lý Tiến đóng san sát. Họ Độc bàn với Lý Tri Thuận để đám binh lính dọn dẹp chiến trường rồi thân chinh cùng đội thương thuyền năm mươi chiếc nay đã được chưng dụng làm chiến thuyền khẩn trương chèo qua sông.
Đang bồn chồn trong trướng hổ, bỗng nghe tùy tướng cấp báo có vài chục chiến thuyền từ phía bờ nam nhằm bờ bắc tiến sang, Lý Tiến cả kinh đập tay xuống bàn quát tháo:
– Bay đâu, mau sửa soạn cung tên nghênh địch! Bọn giặc cỏ quả ăn phải gan hùm mật gấu dám ban ngày tập kết đại doanh của bản tướng còn ra thể thống gì.
Chúng tướng vâng dạ lui ra. Lý Tiến mặc giáp lên ngựa ra thẳng bờ sông nhìn kỹ lá cờ trên chiếc thuyền lớn bèn cười ha hả bảo tả hữu:
– Chiến thuyền của Hán triều ta đó! Mau chuẩn bị để ta tiếp sứ giả của Lý Khắc Chính.
Nói đoạn Lý Tiến quay trở lại trướng hổ quát tả hữu sắp hàng gươm giáo sáng quắc vừa kịp lúc Lý Tri Thuận và Độc Toàn Chân vào đến trại lớn đang được mấy viên tuỳ tướng đưa vào trướng hổ.
Vừa nhìn thấy hai tướng của Lý Khắc Chính, Lý Tiến mắng lớn:
– Sao chủ tướng của các ngươi giờ này còn chưa tới? Lẽ nào đã theo quân phản loạn cả hay sao?
Lý Tri Thuận đợi Lý Tiến nguôi giận mới đứng ra bẩm báo:
– Bẩm đại tướng quân! Binh tướng Đại La đang cố thủ giữ thành chờ viện binh của Hán đế. Cả tuần trăng nay mấy mặt thành bị vây gấp lắm chủ tướng của mạt tướng không dám khinh xuất rời thành mong đại tướng quân minh xét.
Độc Toàn Chân lựa ý nói theo:
– Bẩm đại tướng quân! Tại hạ không kể ngày đêm đã cho sửa soạn chuyển thương thuyền thành chiến thuyền để phục vụ đại tướng quân sai bảo. Không biết giặc cỏ dám mạo phạm thiên uy tội đáng muôn chết xin đại tướng quân giáng tội.
Lý Tiến thấy hai viên tướng lời lẽ nhún nhường lại biết đặt việc thủ thành, đóng thuyền làm trọng bèn vờ tỏ vẻ nguôi giận nói:
– Các ngươi vì Hán đế mà phải muôn dặm xuống phía nam cũng vất vả rồi đó. Cũng may mạt tướng đã bày kế thí chút lính ốm ngựa già cho đám giặc cỏ để chúng kiêu căng mai kia vào Đại La ta sẽ dễ bề bắt giết hết chúc. Chẳng hay các ngươi đem tới được bao nhiêu chiến thuyền có thể trở binh lính qua sông?
– Bẩm toàn bộ chiến thuyền được năm mươi chiếc.
Lý Tiến vội đứng lên nói:
– Các vị tướng quân. Trời đã chiều rồi, giặc cỏ tất đã rút đi xa. Nay ta hạ lệnh hai tướng hãy dùng năm mươi chiến thuyền cấp tập trở binh lính sang bên kia sông. Nếu để chậm trễ, ngày mai chưa biết tình hình ra sao đâu.
Các tướng vâng mệnh lui ra khẩn trương đưa binh lính sang phía bờ nam đến tối mịt được gần một vạn binh sĩ.
Sau khi thuật lại trận tập kích đốt cầu phao trên sông giết chết phó tướng Trương Ngao phía bờ nam cùng đoàn chiến thuyền về bến Giang Biên an toàn, Dương Đình Nghệ cho khao thưởng quân sĩ vừa thắng trận đồng thời cho gọi Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ vào dặn:
– Ta tuy thắng trận song thế giặc giờ đã khác trước. Hán đế liên tiếp hưng binh xuống phía nam dã tâm lớn lắm. Đạo binh này chưa bị diệt đạo binh khác đã kế tiếp xuống phương Nam ta gây hoạ chiến tranh. Lúc trước đi mai phục giặc qua sông, ta quên không dặn các ngươi bố trí đối phó với đội thương thuyền của đám gian thương phương Bắc trong Đại La thành. Lũ này ngày thường chúng vơ vét sản vật của ta động có chiến tranh chúng là những tên nội gián cực kỳ nguy hiểm. Ta chắc rằng giờ này chúng đang khẩn trương đưa đại quân của Lý Tiến qua sông rồi.
Phạm Bạch Hổ sững người nói:
– Phạm công! Mạt tướng lập tức xin đưa binh thuyền trở lại quyết chiến với giặc không để chúng qua sông.
Ngô Quyền trầm ngâm nói:
– Giờ này ngược thuyền lên đó e không còn thời cơ nữa. Một là giặc kia đã có phòng bị. Hai là đội thương thuyền của chúng giờ đã là chiến thuyền rồi. Đám thương nhân phương Bắc phần nhiều là cướp biển trôi vào Đại La từ lâu thông thạo sông nước vùng Giang Biên ta không thể khinh xuất. Xin nhạc phụ tính kế khác là hơn.
– Quyền nhi nói đúng đó. Giặc kia cùng đường tuyệt kế giao chiến với chúng phải hết sức cẩn thận. Ta hãy cứ chia binh ba mặt vây thành. Không hiểu tại sao chưa thấy có tin gì của Kiều công ở Phong Châu.
Nhắc đến Kiều công, Phạm Bạch Hổ vụt nhớ lời cha nói hôm trước đã toan bộc bạch cùng Dương Đình Nghệ song đã kịp dừng lại. Thấy vị tướng trẻ tuổi họ Phạm thoáng vân vi, Ngô Quyền khích lệ:
– Hiền đệ có gì cứ nói thẳng với nhạc gia đừng ngại.
Phạm Bạch Hổ suy nghĩ giây lát rồi nói:
– Phong Châu là vùng đất tiềm lực giàu mạnh, binh đông đất hiểm xưa kia các vua Hùng từng đặt Quốc đô ở đó. Họ Kiều ở Phong Châu nối đời làm tướng lĩnh, hào trưởng, lại giao du rộng rãi với các vùng thế lực hùng mạnh lắm. Khi Khúc chúa còn kiêm quản Giao Châu nhiều lần muốn tạo dựng giềng mối kết thân mà các thủ lĩnh Giao Châu cứ lần nữa. Nay Dương công thành tâm kết giao hào kiệt lẽ ra Kiều công đã phải đưa binh xuống Đại La rồi. Nay còn chưa tới tiểu tướng có chỗ không hiểu mong Dương công chỉ giáo.
Dương Đình Nghệ thấy Phạm Bạch Hổ thường ngày thẳng thắn nay khi bàn về họ Khúc ở Phong Châu quá dè dặt bèn nói:
– Phạm tướng quân chưa biết đấy thôi. Ta và Phạm công ở Đằng Châu, Kiều công ở Phong Châu, Ngô công ở Đường Lâm vốn tình huynh đệ sâu nặng lắm. Vả chăng, chúng ta đều là nha tướng thuộc hạ của Khúc chúa cả càng phải trân thành một lòng đánh đuổi lũ giặc Bắc mới mong thành đại sự. Ta nghe nói, Kiều công có công tử trưởng là Kiều Công Tiễn văn võ toàn tài là bậc anh hùng lắm tất sẽ hiến kế để họ Kiều nêu cao chính đạo, rạng danh với đời. Mai kia vào thành Đại La ta sẽ giới thiệu Kiều Công Tiễn với Phạm tướng quân đây để kết giao cũng là dần bàn giao việc lớn cho các ngươi chứ lũ ta sớm muộn cũng tuổi tác cao rồi. Phạm tướng quân hãy ghi nhớ cho.
Còn đang nói chuyện bàn bạc, bỗng ở ngoài Dương Tam Kha thân vận giáp phục vào bẩm báo:
– Bẩm phụ thân! Thưa các vị tướng quân! Đại quân của Lý Tiến đã dùng thuyền buôn của Độc Toàn Chân qua sông được bốn năm phần rồi. Thám sát của ta báo về Lý Tiến chia binh chỉ cho một nửa quân sang sông.
Dương Đình Nghệ chăm chú lắng nghe rồi nhìn sang Ngô Quyền có ý muốn hỏi. Ngô Quyền ngẫm nghĩ rồi nói:
– Tên cáo già Lý Tiến lẽ nào còn có viện binh?
Phạm Bạch Hổ vội nói:
– Không thể nào! Phép dùng binh của người phương Bắc dẫu độc hiểm nhưng luôn ở cái thế vua chúa sai khiến bề tôi thảo phạt phương Nam. Vua chúa tướng lĩnh người phương Bắc vốn thường nghi kỵ lẫn nhau, quyết không giao toàn bộ binh quyền cho tướng soái bên ngoài được. Lại nữa, Lý Tiến vừa kéo binh xuống, còn chưa giao tranh thắng bại, Hán đế dẫu muốn tăng viện các đại thần chắc chắn can ngăn. Trung Nguyên quần hùng rình rập không dễ gì Hán đế dám rút bớt binh lực cũng là bẻ bớt nanh vuốt của mình đi vậy.
Dương Đình Nghệ buột miệng khen:
– Phạm tướng quân suy đoán sâu sắc lắm. Ta cho rằng Lý Tiến chia binh chỉ qua sông một nửa chính là còn chưa tin tưởng Lý Khắc Chính trong thành Đại La. Các tướng phương Bắc bao giờ cũng phòng thủ lẫn nhau. Lý Tiến danh nghĩa vâng mệnh thay Lý Khắc Chính kiêm quản Giao Châu, thảo phạt các vùng đất phương Nam nhưng kỳ thực là cướp quân quyền của Lý Khắc Chính. Nay hai họ Lý tranh nhau cũng là thời cơ tốt của chúng ta. Chi bằng ta tạm thời án binh bất động xem chúng đấu nhau rồi hành sự cũng chưa muộn.
Các tướng đều khen là phải rồi chia nhau ai về đội nấy.
Đây nói tiếp chuyện Lý Tiến cho đại quân qua sông.
Sau khi chia một nửa binh mã hạ vững trại phía bờ bắc ngày đêm chặt cây đẵn gỗ đắp ải luỹ rất kiên cố, Lý Tiến thân chinh cùng hai vạn tinh binh chọn ngày lành thẳng tiến vào thành Đại La. Từ buổi có được đám thương thuyền, Lý Tiến ngày đêm giữ Độc Toàn Chân trong soái phủ sai bảo cắt đặt các việc, đôn đốc, trưng tập thêm thuyền bè đậu kín cả khúc sông. Họ Lý lại cho dựng trại thủy bộ liên hoàn bờ bắc bờ nam rất nghiêm ngặt. Bên ngoài còn cho phao tin lập ải lũy để tạo thanh thế ỷ dốc với thành Đại La, bên trong triệu các tướng phủ dụ công cuộc Nam chinh rất cần binh thuyền thuỷ quân nên việc trọng dụng Độc Toàn Chân là kế vẹn toàn.
Lý Tri Thuận sau buổi sang bờ Bắc bẩm báo chỉ biết ngày đêm lo cung cấp lương thảo, vật dụng, thuyền bè để Lý Tiến dựng trại luôn tỏ ra sốt ruột. Mấy lần Lý Tri Thuận xin Lý Tiến sớm vào thành giải vây, Lý Tiến chỉ gạt đi nói dựng trại thuỷ bộ hùng mạnh mới là cách giải cứu thành Đại La bền vững hơn cả. Khi về bẩm báo lại với Lý Khắc Chính, chỉ thấy Khắc Chính thở dài nói:
– Ta cũng chỉ là biên tướng của Hán đế. Nay Lý Tiến dốc sức vì hoàng thượng, ta cũng nên chấp thuận mọi đòi hỏi của đại tướng quân thôi. Mai kia đại tướng quân vào thành, ta sẽ cung kính dâng ấn tín Giao Châu cũng là theo ý vua mệnh trời, các ngươi không việc gì phải lo lắng.
Dò xét mọi mặt, lại thấy Lý Khắc Chính thực tâm muốn hồi triều xin an hưởng tuổi già, Lý Tiến bảo với các tướng:
– Cũng đều người nhà Lý gia cả, các ngươi bất tất phải nghi ngờ. Ai cũng là mệnh quan triều đình, hãy nghĩ đến việc giết giặc lập công phía trước là hơn. Ta mai kia kiêm quản Giao Châu cũng chỉ là thần tử giữ đất cho Hán đế. Xưa kia, vua Triệu Đà dẫu đất đai ngàn dặm còn xin về thần phục Trung Nguyên. Đó mới là đạo trời các ngươi nên biết.
Nhằm đúng ngày lành, đại quân của Lý Tiến người ngựa trang nghiêm rực rỡ, cờ lọng san sát, tiền hô hậu ủng tiến vào thành Đại La. Lý Khắc Chính mình mặc quan phục, nghiêm ngắn cùng hai hàng văn võ ra tận cửa Bắc thành đón đại quân. Lý Khắc Chính lại cho treo đèn kết hoa, cắm cờ quạt la liệt khắp trong thành. Đội nghi vệ nghênh đón Lý Tiến trang nghiêm hành lễ khiến Lý Tiến hài lòng lắm.
Khi đã ổn định nơi chính điện thành Đại La, Lý Khắc Chính cúi người thi lễ nói:
– Bản tướng vâng mệnh cung kính đón đại tướng quân nhập thành chủ trì đại cuộc Giao Châu; những là sổ sách lương tiền, các tùy tướng đây sẽ trình lên đầy đủ; những là quân lương binh mã, phó tướng Lý Tri Thuận sẽ dâng lên không dám sai sót; mọi mặt thóc gạo, thuyền bè, sản vật, quan tổng quản Độc Toàn Chân chắc đã bẩm báo hết với đại tướng quân rồi.
Đợi cho Lý Khắc Chính nói xong, các quan văn võ im phăng phắc, Lý Tiến mới dõng dạc đứng lên nói:
– Ta vâng mệnh Hán đế xuống Giao Châu cũng là thuận ý trời mà thôi. Đại nhân Lý Khắc Chính cùng các ngươi nam chinh đã lâu, nay Hán đế nhớ thương mà cho gọi về, còn để là thưởng cho việc bắt tên Khúc Thừa Mỹ ngày trước. Các ngươi chớ có bụng dạ nào khác mà không được hưởng trọn thiên uy của Hán đế. Nay ta vâng chiếu, tiếp nhận Giao Châu, thấy Lý đại nhân cùng các ngươi kiêm quản Giao Châu cũng có phép tắc. Giặc cỏ dẫu ngông cuồng nay mai ta tất một trận đánh tan. Khen cho các ngươi nhiều năm ở Giao Châu vẫn còn giữ được phong tục lễ nghi phương Bắc. Nay Lý đại nhân có nguyện vọng gì, hãy nói thẳng ta xin hết sức giúp cho.
Cả đại điện không ai dám thốt ra một lời nào.
Trên chiếc bàn lớn phủ vải đỏ rực rỡ, những là ấn tín uy nghi, sổ sách mấy chồng, bên dưới hòm xiểng vàng bạc châu báu chất ngất như thay lời nói nên sự cam tâm tình nguyện của Lý Khắc Chính.
Lý Khắc Chính từ tốn bước ra vái tạ nói:
– Bản tướng xin chúc mừng đại tướng quân an khang trị nhậm Giao Châu, tạo uy vũ cho thiên tử, phúc phận của các thần tướng. Còn như lòng riêng của bản tướng chỉ xin vài chiếc thuyền nhỏ theo đường sông đường biển về chịu tội với hoàng đế là đủ lắm rồi.
Lý Tiến ân cần rời chính điện, xuống nắm tay Lý Khắc Chính mặt đầy biểu cảm nói với hai hàng quan văn võ:
– Lý huynh bảo trọng! Các ngươi nhớ lấy tấm gương hết lòng vì xã tắc của Lý gia ta. Mọi việc Lý huynh dặn dò ta đều nghe theo cả.
Lời Lý Tiến vừa dứt, đại điện thành Đại La tiếng kèn tiếng sáo tiếng nhạc nổi lên miên man không dứt. Yến tiệc được bày ra. Từng đoàn nhạc công, ca kỹ xiêm y rực rỡ tiến ra múa hát khiến ngôi đại điện thoáng chốc huyên náo nhộn nhịp khác thường mặc tiếng cồng đánh, tiếng voi gầm phía Nam thành thi thoảng vẫn dội lên.
Ngay đêm hôm đó, không đợi Lý Tiến phải cho người đưa tiễn, Lý Khắc Chính cùng mấy người tâm phúc dùng mấy chiếc thuyền nhẹ lặng lẽ ngược dòng sông Cái khuất dạng. Mấy năm kiêm quản Giao Châu, vàng bạc châu báu cùng các sản vật họ Lý vơ vét được cũng nhiều, lại cướp sạch các kho lẫm trong thành Đại La của Khúc Thừa Mỹ vô số của cải nhưng Lý Tiến cũng chỉ dám tay không mà đi. Đã bị thay ngựa giữa dòng, những tên Hán gian trong đội ngũ quan lại thành Đại La không ít, nếu tham lam chút của cải ngoài thân chỉ là chuốc họa mà thôi. Mai này, chẳng may Lý Tiến tấu biểu về triều vu thêm tội biển lận công quỹ tội càng thêm nặng. Lý Khắc Chính ngày xuống Giao Châu diễu võ dương oai bao nhiêu nay nửa đêm phải ngậm ngùi thành Đại La lòng đầy ngẫm ngợi bấy nhiêu mới thấy đạo làm quan tướng thành bại không thể nào nói trước mà lúc nào cũng như đi trên núi đao biển lửa sống chết vinh nhục chẳng biết thế nào. Hôm bắt chúa Giao Châu Khúc Thừa Mỹ đóng cũi giải về Phiên Ngung họ Khúc đã nguyền rủa Lý Khắc Chính sớm muộn gì cũng phải chịu tội chết nay quả lời nguyền đang dần ứng nghiệm. Trong lòng thuyền gỗ nhỏ, bên ngoài sương khói mang mang, bên trong tâm sự Lý đại quan nhân trăm mối tơ vò. Họ Lý cứ thở dài thườn thượt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét